Sự Phát Triển Ý Thức Tôn Giáo Qua Từng Giai Đoạn L 1

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 16

SỰ PHÁT TRIỂN NIỀM TIN TÔN GIÁO QUA TỪNG

GIAI ĐOẠN LỨA TUỔI


Nhóm: Cánh cụt

Thành viên:

1. Đặng Kim An

2. Nguyễn Thị Tuyết Anh

3. Nguyễn Hồng Cúc

4. Dương Thị Kiều Diễm

5. Nguyễn Thị Ngọc Dung

6. Nguyễn Thành Tài

Bài làm:

1. Giai đoạn 0-12 tuổi - trang 1

2. Giai đoạn 12-23 tuổi- trang 3

3. Giai đoạn 23-60 tuổi - trang 5

4. Giai đoạn trên 60 tuổi - trang 9

5. Các giai đoạn phát triển của niềm tin tôn giáo - trang 13

1. Giai đoạn 0-12 tuổi

- Trẻ sẵn sàng tham gia vào tôn giáo và dễ dàng chấp nhận bất cứ điều gì được
truyền thụ. ( bị tác động, ảnh hưởng bởi môi trường và những người xung
quanh đặc biệt là bố mẹ.)

- Trẻ ở độ tuổi này hình dung về thế giới rất cụ thể thường qua những câu
chuyện kể.

- Giai đoạn 0 - 2 tuổi:

+ Có tiềm năng về đức tin nhưng thiếu khả năng hành động theo tiềm năng
đó.

1
+ Thông qua sự chăm sóc yêu thương từ cha mẹ và những người lớn khác
trong cuộc đời, trẻ nhỏ bắt đầu xây dựng một kinh nghiệm sống về niềm tin,
lòng can đảm, hy vọng và tình yêu.

+ Ở giai đoạn này, trẻ em trải nghiệm đức tin như một kết nối giữa bản thân
và người chăm sóc chúng.

- Giai đoạn 3 - 6 tuổi:

+ Sự phát triển nhận thức của trẻ em ở độ tuổi này khó có thể suy nghĩ trừu
tượng và thường không thể nhìn thế giới từ quan điểm của bất kỳ ai khác.
Như Robert Keeley viết: "Những đứa trẻ này không thể suy nghĩ như một
nhà khoa học, xem xét các lập luận logic hoặc suy nghĩ thông qua các ý
tưởng phức tạp."

+ Trong giai đoạn này Đức tin không phải là tập hợp các ý tưởng, mà thay
vào đó là tập hợp các ấn tượng mà phần lớn trẻ có được thông qua cha mẹ
hoặc những người lớn quan trọng khác trong cuộc sống của trẻ.

+ Theo cách này, trẻ em tham gia vào các nghi lễ của cộng đồng tôn giáo của
chúng bằng cách trải nghiệm chúng và học hỏi từ những người xung quanh.

Ví dụ: cha mẹ theo đạo thường xuyên đưa trẻ đến nhà thờ để dự lễ vào thứ 7
hoặc chủ nhật hàng tuần, tham gia vào các ngày lễ lớn của đạo Công giáo :
Noel, Lễ phục sinh,..

+ Cha mẹ theo đạo Phật, thường đưa trẻ đến chùa vào các ngày mùng 1,
Rằm, lễ Phật Đản hoặc Lễ tết,…

- Giai đoạn 6 – 12 tuổi:

+ Trẻ em ở độ tuổi này có thể bắt đầu tìm ra sự khác biệt giữa các sự kiện
được xác minh và những điều có thể là tưởng tượng hoặc suy đoán nhiều
hơn.( ở giai đoạn này trẻ đã bắt đầu đi học và tiếp xúc nhiều với các mối
quan hệ xã hội khác, trẻ được tiếp xúc với các môn khoa học nên trẻ sẽ dễ
nhận ra sự việc nào chỉ là tưởng tượng, sự việc nào là sự thật. Ví dụ: khi trẻ
từ 3- 6 tuổi, khi được nghe kể về ông già Noel trẻ sẽ tin là có ông già Noel
thật và vào ngày Giáng sinh trẻ nào ngoan sẽ được ông tặng quà. Nhưng ở
giai đoạn này trẻ đã nhận thức được và trẻ bắt đầu nhận ra đó chỉ là 1 câu
chuyện tưởng tượng đc người lớn kể lại và biết đc những món quà trẻ đc tặng
là do cha mẹ chúng đặt vào.)

+ Ở độ tuổi này, nguồn quyền lực tôn giáo của trẻ em bắt đầu mở rộng, cha
mẹ và những người lớn đáng tin cậy, những người khác trong cộng đồng của
trẻ như là giáo viên và bạn bè. ( khi đi học thì sẽ tiếp xúc với những người
cùng theo tôn giáo như trẻ hoặc theo một tôn giáo khác.)

2
+ Giống như giai đoạn trước, đức tin là thứ cần được trải nghiệm. Ở giai
đoạn này là vì trẻ em suy nghĩ theo cách cụ thể và theo nghĩa đen. Đức tin trở
thành những câu chuyện được kể và các nghi thức thực hành.

Vd: Những trẻ mà cha mẹ theo đạo thì trẻ sẽ được cha mẹ cho tham gia vào
các lớp học giáo lý, các hoạt động vui chơi của nhà thở,…

+ Những gia đình theo đạo Phật thường cho trẻ theo học các khóa tu ngắn
hạn vào cuối tuần hoặc dài hơn là 1 -2 tháng ( khóa tu mùa hè) ,…

+ Sau này, trong giai đoạn này, trẻ bắt đầu có khả năng hiểu rằng những
người khác có thể có niềm tin khác với trẻ.

- Niềm tin tôn giáo của trẻ đạt đỉnh điểm khi trẻ ở độ tuổi từ 10- 12 tuổi. sau đó
chúng suy giảm dần.

2. Giai đoạn 12-23 tuổi

- Quá trình tôn giáo ở vị thành niên bắt đầu từ 12-14 tuổi với mức độ tham dự
nhà thờ và tín ngưỡng cao. Trong vài năm tiếp theo, có sự suy giảm trong hoạt
động tôn giáo. Đối với những người có học vấn cao thì họ ít có niềm tin tôn
giáo hơn, nhiều người từ bỏ niềm tin tôn giáo khi họ khoảng 15 -16 tuổi , và
nhiều người chuyển sang một đức tin mới, điển hình là khoảng 15 tuổi.

- Theo những giai đoạn niềm tin của Fowler thì lứa tuổi này nằm trong giai
đoạn thứ 3, giai đoạn tổng hợp – đức tin thông thường, bắt đầu từ 12 tuổi trở đi,
người trưởng thành có thể vẫn ở giai đoạn này:

- Cuộc sống của một người bị ảnh hưởng bởi các khía cạnh: gia đình, xã hội,
bạn bè, ảnh hưởng của truyền thông, công việc,... Một loạt các yếu tố này đôi
khi làm cho ta mất đi sự tập trung và đi lệch hướng. Vì vậy chúng ta cần phải
có một định hướng mạch lạc như một hướng dẫn tổng thể. Do đó “Đức tin phải
tổng hợp các giá trị và thông tin”

* Ảnh hưởng của cha mẹ

- Đây không phải là một vấn đề đơn giản để khai thác ảnh hưởng của cha mẹ
trong các nghiên cứu về xã hội hóa tôn giáo. Nhiều cha mẹ tôn giáo cao thánh
hóa vai trò của họ là cha mẹ; nghĩa là, họ coi việc nuôi dạy con cái là một nghĩa
vụ thiêng liêng, với niềm tin và giá trị tôn giáo là một trong những điều quan
trọng nhất được truyền đến con cái của họ (Mahoney, Pargament, Murray-
Swank, & Murray-Swank, 2003).

- Một số nhà nghiên cứu chỉ đơn giản tập trung vào việc giữ gìn niềm tin, vì
tầm cỡ mà trẻ em đồng nhất với tôn giáo gia đình khi chúng lớn lên. Những

3
cuộc điều tra này thường cho rằng việc giữ niềm tin gia đình phải có kết quả
phần lớn từ ảnh hưởng của cha mẹ.

- Tương tự, một số nhà điều tra đã yêu cầu thanh thiếu niên và người lớn lớn
tuổi phản ánh lại cuộc sống của họ và xem xét mức độ nào cha mẹ (và các yếu
tố khác) ảnh hưởng đến tôn giáo của họ.

- Nói chung, những cách tiếp cận khác nhau này cung cấp cái nhìn sâu sắc về
ảnh hưởng xã hội hóa tôn giáo của cha mẹ.

* Ảnh hưởng đồng nghiệp/ bạn bè

- Một số tác giả đã kết luận rằng các nhóm đồng đẳng đóng vai trò quan trọng
trong việc ảnh hưởng đến thanh thiếu niên nói chung (Allport, 1950; Balk,
1995; Sprinthall & Collins, 1995), nhưng tương đối ít nghiên cứu đã điều tra
ảnh hưởng của đồng đẳng đối với tôn giáo.

- Những người nghiên cứu báo cáo rằng hiệu quả ảnh hưởng của bạn bè đồng
lứa yếu hơn ảnh hưởng của cha mẹ. Tuy nhiên, các nghiên cứu như vậy hầu
như luôn dựa vào các báo cáo về ảnh hưởng của nhóm đồng đẳng, và hướng
của ảnh hưởng (tích cực hoặc tiêu cực) không phải lúc nào cũng được chỉ định.

* Ảnh hưởng của giáo dục

- Mức độ giáo dục ảnh hưởng đến xã hội hóa tôn giáo là một chủ đề gây tranh
cãi. Các nghiên cứu ban đầu thường kết luận rằng giáo dục, đặc biệt là đại học,
có xu hướng tự do hóa niềm tin tôn giáo của học sinh.

- Hơn 40 cuộc điều tra, Feldman(1969) kết luận rằng những nghiên cứu này nói
chung cho thấy những thay đổi có ý nghĩa chỉ ra rằng sinh viên khóa trên, so
với sinh viên năm nhất, có sự cơ bản trong định hướng tôn giáo, cũng có phần
hoài nghi hơn về sự tồn tại và ảnh hưởng của một Đấng tối cao.
Mặc dù xu hướng trên các nghiên cứu tồn tại, nhưng những thay đổi không phải
lúc nào cũng lớn và trong khoảng một phần ba các trường hợp cho thấy sự giảm
thuận lợi đối với tôn giáo, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.

- Các nhà điều tra khác (ví dụ, Parker, 1971) đã kết luận tương tự rằng có sự
thay đổi đáng kể về tôn giáo trong những năm đại học, đặc biệt là trong năm
đầu tiên.

* KẾT LUẬN

- Chúng ta phải thận trọng khi đưa ra kết luận về ảnh hưởng xã hội hóa tôn
giáo, vì thường rất khó để cô lập cha mẹ, đồng đẳng, giáo dục và các ảnh hưởng
khác và các tương tác có thể có của họ. Nhiều vấn đề điển hình phải đối mặt với
các nhà nghiên cứu khoa học xã hội (ví dụ: tự báo cáo độ chính xác, giới hạn

4
lấy mẫu) cũng ảnh hưởng đến lĩnh vực nghiên cứu này. Tuy nhiên, với số lượng
lớn các nghiên cứu có liên quan và sự hội tụ của một số kết quả, kết luận chung.

- Cha mẹ có khả năng ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến tôn giáo trẻ em và thanh
thiếu niên, mặc dù tác động của họ trở nên yếu hơn khi thanh thiếu niên phát
triển đến tuổi trưởng thành, và một số ảnh hưởng của họ có thể là gián tiếp.

- Đồng nghiệp, giáo dục, môi trường trường học, phương tiện thông tin đại
chúng và đọc sách đã được tìm thấy ảnh hưởng đến xã hội hóa tôn giáo ở mức
độ thấp hơn, mặc dù đôi khi rất khó để cô lập ảnh hưởng của các yếu tố nguyên
nhân cụ thể. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng khi cha mẹ và các tác nhân có ảnh
hưởng tiềm năng khác (ví dụ, nhà thờ, mạng xã hội của bạn bè) củng cố quan
điểm tôn giáo tương tự, kết quả xã hội hóa tôn giáo kết hợp có thể đặc biệt
mạnh mẽ (Hyde, 1990). Hơn nữa, các xu hướng được thiết lập sớm trong cuộc
sống để mọi người trở nên ít nhiều tôn giáo có thể tiếp tục đến tuổi trưởng
thành (theo dự đoán của giả thuyết phân cực).

3. Giai đoạn 23-60 tuổi

3.1. Tôn giáo theo giới tính:

- Phụ nữ cảm thấy có niềm tin vào tôn giáo mạnh mẽ hơn so với đàn ông, họ
xem tôn giáo là rất quan trọng đối với cuộc sống hàng ngày. (Newport, 2006).

+ Nhà nhân chủng học và xã hội học cho rằng nam giới được xã hội hóa để
chiếm ưu thế, và cho rằng phụ nữ được xã hội hóa để phụ thuộc và phục
tùng: kết quả là tình trạng thấp hơn thường dành cho phụ nữ, và điều này có
tác động trở lại đối với sự phân công lao động. Trong nhiều xã hội, phụ nữ
được định nghĩa là người nội trợ và chăm sóc trẻ em, không phải tham gia
vào lực lượng lao động, họ được coi là có nhiều thời gian hơn cho tôn giáo
và càng có nhiều thời gian tham dự các hoạt động của nhà thờ, niềm tin và
cam kết tôn giáo. Sự tham gia tôn giáo được coi là tự nhiên đối với vai trò
truyền thống của phụ nữ (Miller & Hoffman, 1995).

+ Về mặt tâm lý, vị trí xã hội của phụ nữ được diễn giải theo thuật ngữ chấp
nhận rủi ro. Ở vị trí yếu hơn nam giới, phụ nữ ít chấp nhận rủi ro và có nhiều
khả năng chấp nhận an toàn về mặt tâm lý như tôn giáo. Nam giới được xã
hội hóa để độc lập và do đó trở thành người chấp nhận rủi ro. Điều này có thể
giải thích sự khác biệt giới tính trong nhiều khía cạnh của cuộc sống, trong
đó phụ nữ có nhiều nguy cơ bất lợi hơn nam giới. Nghiên cứu cho thấy, ác
cảm rủi ro giúp nữ giới tăng cường niềm tin tích cực về tôn giáo hơn nữa.

- Sự gắn kết tôn giáo của nữ giới tốt hơn nam giới.

+ Sự gắn kết xã hội và hợp tác của nữ giới nhiều hơn nam giới, mà tôn giáo
và sự gắn kết xã hội đi cùng nhau.

5
+ Do việc thực thi luật ăn kiêng, lễ kỷ niệm nghi lễ các ngày lễ thường tổ
chức ăn uống, mà phụ nữ là người chuẩn bị nấu ăn trong nhà. Tầm quan
trọng của việc duy trì các nghi lễ và tập tục tôn giáo này làm cho người phụ
nữ trở nên quyền lực và trách nhiệm. Các bà mẹ bảo vệ toàn vẹn tôn giáo gia
đình trong mỗi thế hệ và truyền lại cho con gái của họ những di sản mà họ
được nhận từ tổ tiên. Jacobs không phủ nhận vai trò của đàn ông trong việc
giữ gìn truyền thống tôn giáo cũ; tuy nhiên, phụ nữ là lực lượng thống trị
trong việc dạy đức tin của họ cho trẻ em.

- Vào những năm 1960 sự tự phụ thường được thay bằng sự tự định hướng,
thay vì theo con đường do nam giới tự đặt ra, phụ nữ đã phát triển những cách
mới để đạt được mục tiêu của riêng họ: phê phán các cấu trúc tôn giáo cũ và
biện minh thần học, đảm nhận các vị trí trong các nhà thờ và giáo đường. Tuy
nhiên, do đàn ông không có sự giác ngộ tương tự như vậy, vì người ta cho rằng
đàn ông nên tự nhiên thống trị phụ nữ và tôn giáo.

Làm thế nào để người trưởng thành đến với quan điểm tôn giáo của họ?

- Người trưởng thành đến với quan điểm tôn giáo của họ do xã hội hóa tôn giáo
của gia đình và bạn bè. Khi khuôn khổ này được thiết lập, có sự kết nối đến
cộng đồng những người theo tôn giáo và giúp củng cố thêm niềm tin tôn giáo.

- Các yếu tố ảnh hưởng của việc thực hiện các nghi thức tôn giáo vẫn tồn tại từ
thời thơ ấu đến cuộc sống trưởng thành: nhận thức, chỗ ở và xã hội hóa.

- Cả hoạt động tôn giáo và niềm tin tôn giáo đóng góp vào ý thức tôn giáo.

- Sự trưởng thành về tôn giáo là am hiểu và tin tưởng tôn giáo, áp dụng chúng
vào cuộc sống hàng ngày trong gia đình, giáo dục tôn giáo sớm cho con và mối
quan hệ trong suốt cuộc đời với những người có quan điểm tương tự.

- Ảnh hưởng của mẹ và vợ (hỗ trợ và củng cố) có ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc
duy trì các nguyên tắc tôn giáo và giáo lý.

- Vấn đề với đức tin có thể tốt đại diện cho nhu cầu cá nhân và xã hội mà một
người muốn khẳng định, đặc biệt là vào đầu và giữa lứa tuổi trưởng thành.

* Tìm kiếm một đức tin mới: Chuyển đổi tôn giáo.

- Mặc dù hầu hết mọi người vẫn theo tôn giáo mà họ được nuôi dưỡng, có một
sự chuyển đổi phức tạp trên các tôn giáo lớn. Những người trẻ tuổi có khả năng
rời bỏ tôn giáo của họ hoàn toàn, trong khi những người lớn tuổi hơn thường
tìm kiếm một giáo phái khác trong nhận dạng chung của họ (VD: từ đạo Công
Giáo chuyển sang đạo Tin Lành, cùng theo quan điểm của Chúa).

6
- Động lực để thay đổi thường được liên kết với kinh nghiệm tôn giáo, đặc biệt
trong số các nhà truyền giáo. Sự bất hòa về thể chế có thể xảy ra vì một số lý do
(các nhà thờ, ngôi đền, giáo đường không còn phù hợp với họ trong cuộc sống
hiện đại). Do sự thay đổi về cá nhân, xã hội, kinh tế chiếm ưu thế trong phần
lớn tuổi trưởng thành và trung niên (vì quá bận rộn với cuộc sống nên ít quan
tâm các các ý nghĩa tối thượng của tôn giáo, và thấy không cần thiết khi liên
quan đến cộng đồng tôn giáo cụ thể). Đối với nhiều thái độ và tín ngưỡng,
những người không theo tôn giáo có xu hướng thảnh thơi, tự do hơn những
người theo tôn giáo phải đi nhà thờ, nhiều vấn đề về đạo đức, chính trị,..
(Nelson, 1988)

- Yếu tố xã hội hóa nhận dạng tôn giáo

+ Khi cha mẹ tham dự các nhà thờ khác nhau, sự khác biệt về tôn giáo có thể
gây ra một số nhầm lẫn ở con cái của họ; do đó tỷ lệ thanh niên tuyên bố
không theo tôn giáo tăng lên.

+ Nghiên cứu cho thấy, khi cha không theo tôn giáo, tỷ lệ con không theo tôn
giáo tăng gấp 2 lần. Khi mẹ không theo tôn giáo, tỷ lệ con không theo tôn
giáo tăng gấp 3 lần. Điều này cho thấy, các bà mẹ quan trọng hơn các ông bố
trong việc ảnh hưởng đến khuynh hướng tôn giáo của con cháu họ. Khi cả
cha và mẹ không theo tôn giáo, tỷ lệ con cái không theo tôn giáo là 85,4%.

+ Ảnh hưởng của giáo dục: Những người trưởng thành ngày nay được tiếp
cận cách giải thích bằng khoa học và thực tiễn cho nhiều hiện tượng, điều
này không ảnh hưởng xấu đến niềm tin của họ vào đức tin vốn có của những
người theo đạo.

- Theo một nghiên cứu, nhiều người nói rằng họ không có tôn giáo do sự vỡ
mộng về bạo lực và chủ nghĩa khủng bố nhân danh tôn giáo và chủ nghĩa cực
đoan tôn giáo nói chung (Jordan, 2007, trang 11A).

3.2 Tôn giáo ảnh hưởng đến các mặt trong đời sống: tình yêu và tình dục, hôn
nhân, công việc, chính trị

- Mặc dù thế giới hiện đại đã chứng minh sự tự do hóa đáng kể của tôn giáo, ở
đó vẫn còn một mức độ căng thẳng, xung quanh và khó chịu trong bối cảnh tôn
giáo với tình yêu, tình dục và hôn nhân. Chúng ta có thể nghĩ ngay đến quan hệ
tình dục trước hôn nhân, quan hệ ngoài hôn nhân, ly hôn, tất cả đều liên quan
đến tôn giáo.

- Tình yêu và tình dục:

+ Những người theo tôn giáo họ ít có quan hệ tình dục trước hôn nhân hơn
những người không theo tôn giáo.

7
+ Khi hẹn hò, con người sẵn sàng hẹn hò với một người ngoài tôn giáo của
họ. Nhưng khi kết hôn mong muốn sự thay đổi hành vi ổn định hơn, lâu dài
hơn, phù hợp hơn để tạo ra một cuộc hôn nhân thành công và hạnh phúc gia
đình, điều này bao gồm sự nhấn mạnh cả về tôn giáo.

+ Việc kiểm soát và thể hiện các xung động tình dục luôn là vấn đề quan
trọng của tôn giáo

- Hôn nhân:

+ Nếu hai người kết hôn với nhau mà theo cùng một tôn giáo, niềm tin của
họ về tôn giáo đó càng càng được củng cố vững chắc hơn và việc từ bỏ tôn
giáo là cực kỳ thấp.

+ Sự khác biệt tôn giáo giữa vợ và chồng về lâu dài sẽ dẫn đến bất hòa và ly
hôn.

+ Những người càng bảo thủ (niềm tin tôn giáo mãnh liệt) thì họ càng ít có
khả năng kết hôn với một người theo tôn giáo khác.

+ Những người trong cộng đồng tôn giáo thúc giục việc kết hôn cùng tôn
giáo

+ Tôn giáo giúp cho các thành viên trong gia đình hòa hợp hơn. Những
người chồng và những người vợ có hành vi và thái độ tôn giáo giống nhau,
sự hài lòng trong hôn nhân của họ càng lớn. Sự chung thủy trong hôn nhân
được tôn giáo tăng cường theo một số cách: hoạt động tôn giáo chung tăng
cường cam kết trong hôn nhân, gặp những cặp vợ chồng khác cùng tôn giáo
để chia sẻ cùng một quan điểm tôn giáo, do đó tăng cường thành công hạnh
phúc của cuộc hôn nhân.

+ Những người không theo tôn giáo có khả năng không kết hôn, ly thân, ly dị
hoặc tái hôn cao hơn so với những người theo tôn giáo. Ngoài ra, họ tiết lộ
mức độ hài lòng, thỏa mãn cá nhân và hòa nhập xã hội thấp hơn. (Bock &
Radelet,1988)

+ Cha, mẹ mong muốn nuôi dạy con cái của họ theo tôn giáo của mình. Góp
phần củng cố niềm tin tôn giáo ở bản thân hơn, do phải làm gương cho con
cái trong việc thực hành và tuân thủ các nghi thức tôn giáo.

- Công việc:

+ Niềm tin tôn giáo có thể làm giảm căng thẳng công việc

+ Mong muốn và lợi ích cá nhân sẽ nhường chỗ cho việc xem xét tôn giáo và
nhân đạo. Nên họ thường tuân thủ các qui tắc và qui định đạo đức tại nơi làm
việc

8
- Chính trị:

+ Những người trưởng thành sẽ có hiểu biết sâu sắc hơn về mặc luật pháp, do
đó, họ sẽ thực hiện các quy tắc tôn giáo sao cho phù hợp với phong tục tập
quán, luật pháp tại từng quốc gia riêng. Vd: Những người ở quốc gia Bhutan
đều theo đạo Phật (đạo Phật là quốc giáo) và phải tuân thủ theo các qui định
về Phật giáo. Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, không bắt buộc người dân
theo tôn giáo nào, nhưng các tôn giáo vẫn giữ được bản sắc riêng và tồn tại
một cách hài hòa và tuân thủ theo các qui định chung của pháp luật.

+ Gắn kết những người theo tôn giáo cùng chung tay xây dựng đất nước.
“Các tôn giáo đồng hành cùng dân tộc sẽ đem lại sự ổn định, hòa bình và
phát triển cho đất nước trên tinh thần chung là tôn trọng quyền tự do, tín
ngưỡng của nhân dân, đề cao các hoạt động đúng pháp luật của các tôn giáo,
lấy đại đoàn kết toàn dân là nền tảng quan trọng gắn kết và tạo ra sức mạnh
chung của dân tộc Việt Nam”, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy thành phố
Đà Nẵng nhấn mạnh.

* Tôn giáo có ổn định trong suốt cuộc đời không?

- Dillon & Wink đã tìm thấy câu trả lời cho câu hỏi này phụ thuộc vào cách bạn
nhìn nhận dữ liệu.

+ Nghiên cứu theo chiều ngang: Giảm nhẹ trong tuổi thiếu niên và trưởng
thành sớm và sau đó tăng lên trong cuộc sống, có lẽ do một vài biến động lên
xuống của cuộc sống. Do đó có sự khác nhau lớn về niềm tin tôn giáo giữa
các độ tuổi. Những người lớn tuổi có khuynh hướng mộ đạo hóa.

+ Nghiên cứu theo chiều dọc: Tuy nhiên kiểm tra các mẫu riêng rẻ cho biết
mọi người có mô hình tín ngưỡng cao hoặc thấp khá ổn định. Các nhà tâm lý
học nghiên cứu tôn giáo có xu hướng lập luận rằng người lớn tham gia tôn
giáo vì động cơ bên trong, và rằng mỗi cá nhân có một mô hình động lực
riêng đó là khá nhất quán trong suốt cuộc đời, cung cấp một loại ổn định cho
tôn giáo của hành vi.

- Niềm tin tôn giáo của những người ngoài 40 tuổi mang tính phản ánh. Đó là
kết quả của quá trình phân biệt đức tin và mong muốn có những hiểu biết sâu
sắc về nó.

- Những người ở độ tuổi trung niên tham gia tích cực vào các hoạt động của các
tổ chức tôn giáo.

4. Giai đoạn trên 60 tuổi

- Tôn giáo và tâm linh là những khái niệm tương tự nhưng không giống nhau.
Tôn giáo thường được xem là dựa trên cơ sở hơn, có cấu trúc hơn và liên quan

9
đến các hoạt động, nghi lễ và thực hành truyền thống hơn. Tâm linh đề cập đến
phi vật thể và do đó có thể được coi là một thuật ngữ chung hơn, không liên
quan đến một nhóm hoặc tổ chức cụ thể. Nó có thể đề cập đến cảm xúc, suy
nghĩ, kinh nghiệm và hành vi liên quan đến linh hồn hoặc tìm kiếm sự linh
thiêng.

- Tôn giáo truyền thống liên quan đến trách nhiệm; tâm linh có ít yêu cầu hơn.
Mọi người có thể từ chối tôn giáo truyền thống nhưng coi mình là tâm linh. Ở
Mỹ,> 90% người cao tuổi tự coi mình là tôn giáo hoặc tâm linh; khoảng 6 đến
10% là người vô thần và không tìm kiếm ý nghĩa thông qua tôn giáo hoặc đời
sống tâm linh. Hầu hết các nghiên cứu đánh giá tôn giáo, không phải tâm linh,
sử dụng các biện pháp như tham dự các dịch vụ tôn giáo, tần suất thực hành tôn
giáo, sử dụng các cơ chế đối phó tôn giáo (ví dụ: cầu nguyện, tin tưởng vào
Chúa, chuyển vấn đề sang Chúa, nhận được sự hỗ trợ từ các giáo sĩ), và tôn
giáo nội tại (cam kết tôn giáo nội bộ).

- Đối với hầu hết người lớn tuổi ở Mỹ, tôn giáo có một vai trò lớn trong cuộc
sống của họ, với khoảng một nửa tham dự các dịch vụ tôn giáo ít nhất là hàng
tuần.

- Mức độ tham gia tôn giáo của người cao tuổi lớn hơn so với bất kỳ nhóm tuổi
nào khác. Đối với người già, cộng đồng tôn giáo là nguồn hỗ trợ xã hội lớn nhất
ngoài gia đình và tham gia vào các tổ chức tôn giáo là loại hoạt động xã hội tự
nguyện phổ biến nhất, phổ biến hơn tất cả các hình thức hoạt động xã hội tự
nguyện khác cộng lại.

Một cuộc khảo sát gần đây của Gallup (Newport, 2006c) cho thấy tôn giáo tăng
dần về tầm quan trọng so với độ tuổi. Trong khi đó 47% người từ 19 - 29 tuổi
cho rằng tôn giáo rất quan trọng đối với cuộc sống họ, 72% những người trên
65 tuổi cảm thấy tương tự. Krause (2003) đã xem xét mối quan hệ giữa ý nghĩa
tôn giáo và chủ quan hạnh phúc trong một mẫu quốc gia của người lớn tuổi.
Người tham gia phải ít nhất 66 tuổi, và tuổi trung bình của họ là 74,4 tuổi. Có
1.247 người trong mẫu này, một nửa trong số họ là người da trắng và một nửa
người da đen. Tất cả đã được phỏng vấn và hoàn thành cuộc khảo sát ngắn. Sự
hài lòng của cuộc sống, lòng tự trọng và sự lạc quan đã được đánh giá.

- Những người da đen lớn tuổi đến nhà thờ thường xuyên hơn và thường xuyên
tham gia cầu nguyện riêng tư hơn so với người da trắng. Trước đây người da
đen cũng biểu hiện ở mức độ cao hơn về ý nghĩa tôn giáo, lòng tự trọng và sự
lạc quan. Ý nghĩa tôn giáo là tích cực gắn liền với sự hài lòng của cuộc sống, sự
lạc quan và lòng tự trọng.

* Những lợi ích

10
- Tôn giáo liên quan tới sức khỏe thể chất và tinh thần được cải thiện, và những
người tôn giáo có thể đề xuất rằng sự can thiệp của Chúa tạo điều kiện cho
những lợi ích này. Tuy nhiên, các chuyên gia không thể xác định liệu việc tham
gia vào tôn giáo có tổ chức có đóng góp cho sức khỏe hay liệu những người
khỏe mạnh về tâm lý hoặc thể chất có bị thu hút bởi các nhóm tôn giáo hay
không. Nếu tôn giáo là hữu ích, thì lý do mà cho dù đó là niềm tin tôn giáo hay
các yếu tố khác thì không rõ ràng. Nhiều yếu tố như vậy (ví dụ, lợi ích tâm lý,
khuyến khích thực hành lành mạnh, hỗ trợ xã hội từ cộng đồng tôn giáo) đã
được đề xuất.

* Lợi ích tâm lý

- Tôn giáo có thể cung cấp các lợi ích tâm lý sau:

+ Một thái độ tích cực và hy vọng về cuộc sống và bệnh tật, dự đoán kết quả
sức khỏe được cải thiện và tỷ lệ tử vong thấp hơn.

+ Ý thức về ý nghĩa và mục đích trong cuộc sống, ảnh hưởng đến các hành vi
sức khỏe và các mối quan hệ xã hội và gia đình.

+ Một khả năng lớn hơn để đối phó với bệnh tật và khuyết tật.

- Nhiều người già cho rằng tôn giáo là yếu tố quan trọng nhất cho phép họ đối
phó với các vấn đề sức khỏe thể chất và căng thẳng cuộc sống (ví dụ, nguồn tài
chính suy giảm, mất người phối ngẫu hoặc bạn đời).

- Trong một nghiên cứu, > 90% bệnh nhân lớn tuổi dựa vào tôn giáo, ít nhất là
ở mức độ vừa phải, khi đối phó với các vấn đề sức khỏe và hoàn cảnh xã hội
khó khăn. Ví dụ, có một thái độ hy vọng, tích cực về tương lai giúp những
người có vấn đề về thể chất vẫn có động lực để phục hồi.

- Những người sử dụng các cơ chế đối phó tôn giáo ít có khả năng phát triển
trầm cảm và lo lắng hơn những người không sử dụng; hiệp hội nghịch đảo này
là mạnh nhất trong số những người có khuyết tật thể chất lớn hơn. Ngay cả
nhận thức về khuyết tật dường như cũng bị thay đổi bởi mức độ tôn giáo. Trong
số những phụ nữ lớn tuổi bị gãy xương hông, những người theo tôn giáo nhất
có tỷ lệ trầm cảm thấp nhất và có thể đi bộ xa hơn đáng kể khi xuất viện so với
những người ít tôn giáo. Những người theo tôn giáo cũng có xu hướng phục hồi
sau trầm cảm nhanh hơn.

* Thực hành tăng cường sức khỏe

- Ở người lớn tuổi, sự tham gia tích cực vào một cộng đồng tôn giáo liên quan
tới hoạt động thể chất và sức khỏe được duy trì tốt hơn. Chúng ta có thể dễ
dàng hiểu được lợi ích tâm lý của việc có niềm tin khi về già, nhưng rất nhiều
vấn đề khó khăn hơn xuất hiện khi chúng ta nghiên cứu về sức khỏe thể chất và

11
tôn giáo liên quan đến người lớn tuổi. Chúng ta đã thấy rằng đức tin có thể giúp
đỡ những người già đang bị căng thẳng tâm lý, bởi vì đức tin có thể khắc phục
sự thiếu ý nghĩa, kiểm soát và hỗ trợ xã hội.

- Đây là một lĩnh vực đòi hỏi hết sức thận trọng và Harold Koenig (1997, 2000)
đã đưa những mối quan tâm như vậy vào bài viết và nghiên cứu của ông. Nhận
thức vai trò của tôn giáo có thể đóng vai trò tinh thần và thể chất sức khỏe, ông
nói thêm một cách thích hợp rằng những hiệu ứng sức khỏe này không phụ
thuộc vào các hiện tượng siêu nhiên, nhưng có thể được giải thích bằng các cơ
chế hành vi, xã hội và tâm lý. thông qua các con đường sinh lý đã biết đến
(Koenig, 2000, p. 90). Các cơ chế trong câu hỏi là phạm vi rộng. Các nhà thờ
thường tích cực tài trợ rộng rãi nhiều thực hành lành mạnh được các tín đồ áp
dụng (King, 1990; Levin & Schiller, 1987; Sarafino, 1990).

Ví dụ, những người Mặc Môn và những người Cơ Đốc Phục Lâm ủng hộ các
hành vi tăng cường sức khỏe, lên án sử dụng rượu, hút thuốc và các hành vi tự
hủy hoại khác; Ngoài ra, họ khuyến khích ăn uống xây dựng và thói quen sức
khỏe (Koenig, McCullough, & Larson, 2001). Moberg (2001). Thành viên của
các nhóm này ít có khả năng phát triển các rối loạn liên quan đến chất và họ
sống lâu hơn so với dân số nói chung.

- Ảnh hưởng tích cực đến thái độ và một phần do ảnh hưởng về các hành vi
tăng cường sức khỏe mà nhà thờ và nhà hội bảo trợ. Các giáo đoàn cũng thường
cung cấp các kết nối xã hội và hỗ trợ cho người cao tuổi. Dọc theo với các học
thuyết tâm linh, những yếu tố này xuất hiện để chống lại trầm cảm và tự tử, tỷ
lệ trong đó cao ở những người lớn tuổi (Plante & Sharma, 2001). Mất vợ và cô
lập, kết hợp với bệnh tật và bệnh tật, là những yếu tố chính dẫn đến tự tử trong
nhóm này (Bock & Warren, 1972). Những người chăm sóc và cố vấn có thể
giúp giảm bớt những vấn đề này dường như đặc biệt nghiêm trọng trong số
những người góa bụa, những người thường không có kỹ năng chăm sóc bản
thân (Aldridge, 2000; Kimble, 1995).

- Thật sự không thể phân biệt giữa ảnh hưởng của các hoạt động tăng cường
sức khỏe của các nhà thờ và ảnh hưởng của tôn giáo đối với con người. Koenig
(2000) có quan sát thấy rằng ngay cả những bệnh nhân tôn giáo có điều kiện
chống lại sự cải thiện thích nghi với tình hình và giải quyết trầm cảm của họ
nhanh hơn so với những người có tính tôn giáo thấp. Ông báo cáo những phát
hiện tương tự sau khi nghiên cứu.

Hỏi lý do tại sao điều này xảy ra, ông đưa ra hai khả năng:

(1) Tôn giáo người cao tuổi có một thế giới quan trong đó đau khổ có ý nghĩa
và mục đích của họ (Koenig, 2000, tr. 89).

12
(2) Niềm tin vào Thiên Chúa và việc sử dụng lời cầu nguyện nâng cao ý thức
kiểm soát của họ thông qua ý tưởng rằng họ có thể ảnh hưởng đến vị thần.
Koenig nhấn mạnh thêm quan điểm rằng tôn giáo là một nguồn ý nghĩa; không
có gì chỉ đơn giản là ngẫu nhiên, và do đó việc đối phó được tăng cường.

- Nói chung, đức tin có liên quan đến tỷ lệ bệnh tim mạch được báo cáo thấp
hơn, tăng huyết áp, đột quỵ và các dạng ung thư khác nhau, tất cả đều tập trung
ở người cao tuổi (Colantonio, Kasl, & Ostfeld, 1992; Levin & Schiller, 1987).
Có thể vì tôn giáo liên quan tích cực với sự lạc quan, sự hài lòng của cuộc sống
và mục đích trong cuộc sống. Những người tôn giáo nhiều hơn có thể ít có
khuynh hướng báo cáo các triệu chứng của bệnh tật và do đó có thể hạ thấp tầm
quan trọng có thể có của chúng (Kass, Friedman, Leserman, Zuttermeister, &
Benson, 1991). Mặc dù điều này dường như không đúng, nhưng tiềm năng của
nó không nên bị bỏ qua, như Wotherspoon từ (2000) nghiên cứu về một mẫu
chủ yếu gồm những người trên 80 tuổi chỉ ra rằng cả hạnh phúc tinh thần và
hạnh phúc hiện sinh đều có liên quan tích cực đến tự đánh giá sức khỏe

* Lợi ích xã hội

Niềm tin và thực hành tôn giáo thường thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng và
các mạng lưới hỗ trợ xã hội rộng lớn. Tiếp xúc xã hội ngày càng tăng đối với
người cao tuổi làm tăng khả năng bệnh sẽ được phát hiện sớm và người già sẽ
tuân thủ chế độ điều trị vì các thành viên trong cộng đồng của họ tương tác với
họ và hỏi họ những câu hỏi về sức khỏe và chăm sóc y tế. Những người lớn tuổi
có mạng lưới cộng đồng như vậy ít có khả năng bỏ bê bản thân.

* Người chăm sóc

- Niềm tin tôn giáo cũng có lợi cho những người chăm sóc. Trong một nghiên
cứu về những người chăm sóc bệnh nhân mắc bệnh Alzheimer hoặc ung thư
giai đoạn cuối, những người chăm sóc có niềm tin tôn giáo cá nhân mạnh mẽ
và nhiều mối quan hệ xã hội có thể đối phó tốt hơn với những căng thẳng của
việc chăm sóc trong thời gian 2 năm.

* Tác hại

- Tôn giáo không phải lúc nào cũng có lợi cho người lớn tuổi. Sự tôn sùng tôn
giáo có thể thúc đẩy cảm giác tội lỗi quá mức, sự không linh hoạt và lo lắng.
Mối bận tâm tôn giáo và ảo tưởng có thể phát triển ở những bệnh nhân mắc
chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế, rối loạn lưỡng cực, tâm thần phân liệt hoặc
rối loạn tâm thần.

- Một số nhóm tôn giáo không khuyến khích chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh
thần, bao gồm các liệu pháp cứu cánh (ví dụ như truyền máu, điều trị nhiễm
trùng đe dọa tính mạng, trị liệu bằng insulin) và có thể thay thế các nghi lễ tôn
giáo (ví dụ: cầu nguyện, tụng kinh, thắp nến). Một số nhóm tôn giáo cứng nhắc

13
hơn có thể cô lập và xa lánh người già khỏi các thành viên gia đình không tham
dự và cộng đồng xã hội rộng lớn hơn.

* Vai trò của bác sĩ chăm sóc sức khỏe

- Nói chuyện với các bệnh nhân lớn tuổi về niềm tin và thực hành tôn giáo của
họ giúp các học viên chăm sóc sức khỏe chăm sóc họ tốt hơn vì những niềm tin
này có thể ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần và thể chất của bệnh nhân. Hỏi về
các vấn đề tôn giáo trong một chuyến thăm y tế là phù hợp trong một số trường
hợp, bao gồm:

+ Khi bệnh nhân bị ốm nặng, bị căng thẳng đáng kể, hoặc gần chết và hỏi
hoặc đề nghị một học viên nói về các vấn đề tôn giáo.

+ Khi bệnh nhân nói với một học viên rằng họ theo tôn giáo và tôn giáo đó
giúp họ đối phó với bệnh tật.

+ Khi nhu cầu tôn giáo là hiển nhiên và có thể ảnh hưởng đến sức khỏe
hoặc hành vi sức khỏe của bệnh nhân.

- Người lớn tuổi thường có những nhu cầu tâm linh riêng biệt có thể trùng lặp
nhưng không giống với nhu cầu tâm lý. Nâng cao nhu cầu tâm linh của bệnh
nhân có thể giúp huy động các nguồn lực cần thiết (ví dụ: các nhóm tư vấn hoặc
hỗ trợ tinh thần, tham gia các hoạt động tôn giáo, tiếp xúc xã hội từ các thành
viên của một cộng đồng tôn giáo).

* Hỗ trợ niềm tin và thực hành tôn giáo của bệnh nhân

- Bệnh nhân tìm kiếm sự chăm sóc y tế vì lý do liên quan đến sức khỏe, không
phải tôn giáo. Tuy nhiên, những người hành nghề chăm sóc sức khỏe không
nên ngăn cản sự tham gia tôn giáo của bệnh nhân miễn là nó không can thiệp
vào việc chăm sóc y tế cần thiết, bởi vì sự tham gia đó có thể góp phần mang lại
sức khỏe tốt. Những người tích cực tham gia vào các nhóm tôn giáo, đặc biệt là
những người trong các truyền thống tôn giáo lớn, có xu hướng khỏe mạnh hơn.

- Nếu bệnh nhân chưa tham gia vào các hoạt động tôn giáo, đề xuất các hoạt
động đó đòi hỏi sự nhạy cảm. Tuy nhiên, các chuyên gia chăm sóc sức khỏe có
thể đề nghị bệnh nhân cân nhắc các hoạt động tôn giáo nếu bệnh nhân có vẻ dễ
tiếp thu và có thể hưởng lợi từ các hoạt động đó, có thể mang lại sự tiếp xúc xã
hội, giảm sự xa lánh và cô lập, và tăng ý thức về ý nghĩa và mục đích sống.
Những hoạt động này cũng có thể giúp người già tập trung vào các hoạt động
tích cực hơn là vào các vấn đề của chính họ. Tuy nhiên, một số hoạt động chỉ
phù hợp cho nhiều bệnh nhân tôn giáo hơn.

5. Các giai đoạn phát triển của niềm tin tôn giáo

14
Fowler (1940-2015) đề xuất một loạt các giai đoạn phát triển tín ngưỡng/đức tin
(hay phát triển tâm linh) trong suốt vòng đời của con người. Ông chia làm các
giai đoạn như sau:

Tiền giai đoạn: Niềm tin đón nhận/ vô định hình (0 – 2 tuổi):
- Có tiềm năng về đức tin nhưng thiếu khả năng hành động theo tiềm năng đó.
Thông qua người chăm sóc, trẻ bắt đầu xây dựng một kinh nghiệm sống về
niềm tin, lòng can đảm, hy vọng và tình yêu.
- Ở giai đoạn này, trẻ trải nghiệm đức tin như một cầu nối giữa bản thân với
người chăm sóc chúng.
Giai đoạn 1: Niềm tin tưởng tượng (Tuổi mẫu giáo):
- Sự khởi đầu của tư duy, ngôn ngữ,…thúc đẩy quá trình chuyển sang giai
đoạn đầu tiên của niềm tin tôn giáo.
- Ở độ tuổi này, trẻ không suy nghĩ trừu tượng và thường không thể nhìn thế
giới từ một quan điểm nào khác. Theo Robert Keeley: “Những đứa trẻ này
không thể suy nghĩ như một nhà khoa học, xem xét các lập luận logic hoặc
suy nghĩ thông qua các ý tưởng phức tạp.”
Đức tin không phải là một tập hợp các ý tưởng, mà thay vào đó là một tập
hợp các ấn tượng mà phần lớn có được từ cha mẹ hoặc những người lớn quan
trọng trong cuộc sống của chúng. Theo cách này, trẻ tham gia các nghi lễ tôn
giáo bằng cách trải nghiệm và học hỏi từ những người xung quanh.
Giai đoạn 2: Niềm tin cụ thể (6 – 12 tuổi):
- Các nhà tâm lý gọi tuổi này là tuổi bắt đầu biết lý luận, trẻ hình dung về tôn
giáo rất cụ thể. Trẻ bắt đầu tìm ra sự khác biệt giữa các sự kiện tôn giáo
được xác minh với những sự kiện do tưởng tượng hoặc suy đoán.
- Giống như giai đoạn 1, niềm tin tôn giáo là thứ cần được trải nghiệm. Ở giai
đoạn này, trẻ suy nghĩ theo cách cụ thể và theo nghĩa đen. Niềm tin tôn giáo
hình thành từ những câu chuyện được kể và các nghi thức thực hành.
- Trẻ bắt đầu có khả năng hiểu rằng những người khác có niềm tin tôn giáo
khác với chúng.
Giai đoạn 3: Niềm tin quy ước:
- Thường bắt đầu khoảng 13 tuổi và kéo dài đến khoảng 18 tuổi. Tuy nhiên,
một số người ở lại giai đoạn này trong suốt cuộc đời.
- Không giống như các giai đoạn trước, người ở giai đoạn này có tư duy trừu
tượng. Những gì đã từng là những câu chuyện và nghi lễ đơn giản thì giờ
đây có thể được coi là một câu chuyện gắn kết hơn về các giá trị đạo đức.
Với tư duy trừu tượng, họ có khả năng nhìn thấy các lớp ý nghĩa bên trong
các câu chuyện, nghi lễ và biểu tượng niềm tin tôn giáo.
- Họ có khả năng nhìn mọi thứ từ quan điểm của người khác. Điều này có
nghĩa là họ cũng có thể tượng tưởng những gì người khác nghĩ về mình và
đức tin của mình.
- Trong giai đoạn này, cá nhận tự khẳng định niềm tin tôn giáo của bản thân.
Tuy nhiên, niềm tin ấy thường dựa trên niềm tin từ gia đình.
Giai đoạn 4: Niềm tin – cá vị:

15
- Giai đoạn này thường bắt đầu ở độ tuổi 18 – 22 tuổi. Theo Robert Keeley:
“Mọi người sau khi trải qua các bất hòa đi kèm với những câu hỏi thực sự về
niềm tin tôn giáo mà người ta bắt đầu giải quyết trong giai đoạn phát triển
này.”
- Đây thường là giai đoạn mà cá nhân đó sẽ rời bỏ tôn giáo của họ nếu như
câu trả lời không thỏa mãn theo ý thích của họ.
- Có người sẽ từ chối một phần nào đó và khẳng định các phần khác của niềm
tin tôn giáo. Từ đó, họ sẽ tự hình thành nên niềm tin tôn giáo cho bản thân
trong suốt hành trình tìm kiếm câu trả lời.
Giai đoạn 5: Niềm tin – chiết trung:
- Mọi người thường không đạt đến giai đoạn này cho đến khi 30 tuổi.
- Sau khi trải qua giai đoạn 4, người ở giai đoạn này dễ dàng chấp nhận khi họ
biết rằng tất cả các câu trả lời về tôn giáo có thể không dễ dàng được tìm ra.
- Những người trong giai đoạn này cũng cởi mở hơn nhiều đối với quan điểm
về niềm tin tôn giáo của người khác. Điều này không phải vì họ đang rời xa
đức tin của họ mà vì họ có một nhận thức rằng, đức tin của người khác có
thể cung cấp và đào sâu thêm thông tin cho chính họ.
Giai đoạn 6: Niềm tin – phổ quát:
- Rất ít người đạt đến giai đoạn này. Là giai đoạn "giác ngộ" nơi cá nhân bước
ra khỏi tất cả các hệ thống đức tin hiện có và sống cuộc sống với các nguyên
tắc từ bi, tình yêu thương người khác mà không phải lo lắng và nghi ngờ.
Đây được xem là đỉnh cao của sự phát triển đức tin.
- Những người ở giai đoạn này trân trọng cuộc sống nhưng cũng không giữ
cuộc sống quá chặt chẽ. Họ đặt niềm tin vào hành động, thách thức thực
trạng và hành động để tạo ra công lý trên Thế giới.
Ví dụ: Gandhi và mẹ Teresa là những người đã đạt đến giai đoạn này.

16

You might also like