Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 3

Trong đời ta, có ai chưa từng qua những lần gặp gỡ dù tình cờ hay đã hẹn?

Có những cuộc
gặp sẽ đi ngang qua như cơn gió thoảng, có những cuộc gặp để lại trong ta bao dư vị ngọt
ngào. Và với tôi thì, cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ với một vị cựu binh – người lính lái xe trên
đường Trường Sơn năm xưa mà tôi từng được biết tới qua bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe
không kính ” của Phạm Tiến Duật là điều thú vị nhất, tuyệt vời nhất.

Người chiến sĩ trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch năm xưa nay đã già. Tôi được gặp bác nhân
dịp chương trình “Tiếng thơ Phạm Tiến Duật ” được tổ chức tại Văn Miếu Quốc Tử Giám và
bác là khách mời đặc biệt. Sau lời giới thiệu của ban tổ chức, bác xuất hiện trong bộ quân
phục mới, trang trọng, oai nghiêm và đĩnh đạc. Giọng nói bác khỏe vang, tiếng cười khà khà
sảng khoái khiến tôi có cảm nhận như cả một thời tuổi trẻ oai hùng trong bác đang sống dậy.
Trên khuôn mặt thể hiện sự già dặn, từng trải, tôi vẫn nhận ra những nét hóm hỉnh, yêu đời ở
bác. Tôi nhớ đến lời cô giáo giảng trên lớp về vẻ đẹp của những anh lính lái xe Trường Sơn
thời chống Mỹ, trong tôi trào dâng niềm ngưỡng mộ và yêu quý bác vô cùng.
Bác kể cho mọi người nghe về những năm tháng bác được cống hiến tuổi thanh xuân của
mình cho nhiệm vụ vinh quang mà đất nước giao phó. Năm tháng ấy được ghi lại bằng sự tàn
phá dữ dội của quân thù, bằng sự vất vả gian lao của bác và những người đồng đội, bằng nhiệt
huyết và ý chí quyết tâm cao độ của những con người “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” dù
gian khó hiểm nguy chất chồng mà tâm hồn thì luôn phơi phới. Tôi say sưa theo lời kể của
bác, muốn được nghe bác kể nhiều hơn mà thời gian cho cuộc tọa đàm thì có hạn. Một ý nghĩ
mạnh dạn lóe lên trong tôi, tôi sẽ gặp riêng bác để được hỏi bác nhiều hơn, được nghe bác kể
nhiều hơn về tuổi trẻ tươi đẹp của bác gắn liền với nhiệm vụ lái xe trên đường Trường Sơn
máu lửa.

Và thật may mắn cho đứa nhút nhát như tôi biết chừng nào. Tôi đến gặp bác, được bác đón
chào bằng thái độ niềm nở. Như những gì tôi mong muốn, bác kể cho tôi nghe về tuổi trẻ
ngang tàng của bác. Bác đã từng là sinh viên với những kỉ niệm đáng nhớ của tuổi học trò.
Nhưng rồi tiếng gọi thiêng liêng của Tổ Quốc vang lên, bác đã cùng những người bạn của
mình sẵn sàng gác lại tất cả những gì tươi đẹp nhất để lên đường chiến đấu. Bác được sắp xếp
vào binh đoàn lái xe vận tải Trường Sơn, nơi trọng điểm bắn phá của máy bay Mỹ. Có biết
bao nhiêu điều muốn hỏi vậy mà tôi chẳng biết phải bắt đầu từ đâu nữa, tôi nhớ đến bài thơ
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của nhà thơ Phạm Tiến Duật vừa được học tuần trước, tồi
liền hỏi bác:

– Bác ơi, hình ảnh những người lính lái xe trong bài thơ về tiểu đội xe không kính ấy có phải
chính là bác và những người đồng đội của bác không ạ?

Bác nhìn tôi trìu mến:

– Đúng rồi cháu ạ. Có thể nói bác Duật đã viết rất chính xác và rất hay về một thế hệ những
người như bác. Cháu có biết tại sao bác Phạm Tiến Duật lại viết hay và đúng như thế không?

Như để bác biết tôi rất chịu khó ghi nhớ bài học trên lớp, tôi trả lời thật nhanh:

– Dạ, vì nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng từng là một người lính lái xe ạ.

– Ồ, đúng rồi đó cháu. Hồi đó bác và đồng đội bác rất thích bài thơ ấy. Không ai lại không
thuộc một vài đoạn cho đến cả bài bởi nó đã nói hộ phần nào khát vọng chiến đấu, những gian
khổ, lòng dũng cảm và sự lạc quan của những người lính như bác…. Giọng bác chợt trầm
xuống như nhớ đến một cái gì đã xa, xa lắm. Rồi bác nói tiếp:
– Hồi đó bác được giao nhiệm vụ lái xe vận tải thuốc men, vũ khí, đạn dược,… vào chi viện
cho chiến trường miền Nam. Những chuyến đi có khi kéo dài cả tháng trời, gian khổ lắm cháu
ạ. Nhất là những đoạn đường xuyên qua dãy Trường Sơn, giặc bắn phá rất dữ dội. Chúng
muốn san phẳng tất cả, cắt đứt con đường huyết mạch nối liền Bắc Nam ấy. Tiểu đội xe của
bác ban đầu được trang bị toàn xe mới để phục vụ mặt trận. Lúc đó, xe có kính như muôn vàn
chiếc xe khác. Nhưng ngày nào xe cũng lao đi giữa bom gầm, đạn nổ khiến kính rạn vỡ, đèn
xe cũng mất dần hết cả. Rồi cả mui xe cũng bị đạn pháo cày hất tung lên. Thùng xe va quẹt
nhiều cũng chằng chịt vết xước. Chẳng còn chiếc xe nào còn nguyên vẹn cháu à.

– Lái xe không kính đã gian khổ lắm rồi, vậy mà còn không có cả đèn, cả mui thì nguy hiểm
lắm phải không bác?

– Nếu không có lòng yêu nước, không có nghị lực phi thường thì có lẽ không dám ngồi lên xe
cháu ạ. Vì không có kính nên tất cả mọi thứ có thể va đập, quăng ném vào trong buồng lái bất
cứ lúc nào. Chính bác cũng đã bao lần bị cành cây tấp vào đầu, vào mặt làm xây xát, chảy
máu, có những vết thương hằn thành sẹo đến giờ vẫn còn đấy cháu ạ.

Bác đưa hai bàn tay gầy guộc chỉ cho tôi xem những vết sẹo dài có, ngắn có. Chợt tôi thấy
thương bác lạ. Bác cười hà hà, tiếng cười của tuổi trẻ hiên ngang và dũng cảm, bác nói tiếp:

– Gian khổ thế chưa có là gì. Cái khủng khiếp nhất với người lính lái xe không kính như bác
chính là gió bụi và mưa rừng Trường Sơn đấy cháu ạ. Cháu đã được nghe câu hát: “Trường
Sơn Đông, Trường Sơn Tây, nơi nắng đốt, nơi mưa quay,…” chưa? Đường Trường Sơn nắng
thì bụi mà mưa thì lầy lội lắm. Mùa khô bụi cuốn mù trời sau làn xe chạy. Bụi cuốn vào mặt,
vào quần áo. Bụi dày đặc đến mức mắt cay xè, không thể mở nổi. Lúc ấy, râu, tóc, quần áo và
cả xe rực lên một màu đất đỏ Trường Sơn. Rồi cả mưa nữa chứ. Mưa Trường Sơn thường bất
ngờ. Đang bụi bám đầy thì bỗng cả người nặng chịch vì ướt sũng nước mưa. Mưa xối xả quất
vào người, vào mặt, vào mắt. Những làn nước cay xè, buốt rát khiến việc lái xe khó hơn gấp
trăm ngàn lần. Thế nhưng, những người lính lái xe như bác không bao giờ dừng lại vì nhiệm
vụ phía trước còn quan trọng hơn nhiều. Bụi bặm, áo ướt đâu có khó khăn gì, gió lùa một
chốc là khô ngay. Làm sao để đưa xe về nơi tập kết nhanh nhất mới là việc lớn.

Tôi hình dung được những gian khổ, hiểm nguy mà bác và đồng đội phải đối mặt. Tôi cũng
thấy cả khí phách hiên ngang, dũng cảm và tinh thần yêu nước lớn lao của bác. Bởi có như
vậy, bác mới coi những hiểm nguy kia là tầm thường và sẵn sàng chấp nhận nó như một lẽ
đương nhiên với thái độ bình thản đến vậy.

Vẻ mặt bác trầm ngâm, nụ cười khẽ nở trên môi, đôi mắt ánh lên vẻ rạng rỡ và tự hào. Lời bác
kể như chất chứa bao nhiệt huyết, bao sôi nổi của một thời tuổi trẻ nơi chiến trường. Bác
dường như đang được sống lại những phút giây lịch sử ấy. Rồi bác nói tiếp:

– Cứ bảo xe không kính là thiếu thốn, là hiểm nguy ấy thế mà lại hay cháu ạ. Ngồi trong xe,
chẳng những bác được thỏa sức nhìn ngắm thế giới bên ngoài mà tình cảm đồng chí, đồng đội
của các bác lại thêm thắt chặt. Cháu có biết tại sao không? Dọc đường đi, gặp bạn cũ, gặp
đồng đội, các bác chỉ cần đưa tay qua ô cửa kính đã vỡ bắt tay nhau mà không cần mở cửa,
xuống xe đó cháu.

Tiếng cười hào sảng của bác lại vang lên. Bất chợt tôi thấy nơi khóe mắt nhăn nheo của bác
đang trực trào hai dòng lệ. Bác bảo với tôi:

– Khi sống xa gia đình, vào quân ngũ thì tình đồng đội chính là tình anh em ruột thịt cháu ạ.
Các bác nấu cơm bằng bếp Hoàng cầm dựng ở giữa trời. Dù chỉ có bữa cơm đạm bạc giữa
rừng nhưng chứa đựng trong đó là tình cảm đồng chí, đồng đội keo sơn như tình cảm gia đình
đó cháu. Hành trang nghỉ ngơi quý giá của người lính khi đó chỉ là chiếc võng dù mắc tạm bợ
nghỉ ngơi qua loa rồi lại tiếp tục lên đường với niềm tin bất diệt về ngày đất nước giải phóng,
non sông liền một dải. Niềm tin ấy chính là động lực để các bác vượt qua mọi khó khăn, gian
khổ đấy cháu ạ.

Tôi lặng yên nghe bác kể, lời kể của bác như làm sống dậy từng khoảnh khắc đã qua. Tôi như
đang nghe thấy tiếng xe chạy rầm rầm qua cung đường đất đỏ Trường Sơn, tôi như thấy cảnh
bụi tung mù mịt, mưa xối ầm ầm trên những cánh rừng trơ trụi lá và tôi còn thấy cả bữa cơm
tạm trên đường dừng chân của những người lính lái xe, tiếng cười hào sảng bất chập khó khăn
của họ,…tất cả như đang hiện về thật tự nhiên và sinh động. Dường như bác cũng đang nghĩ
ngợi điều gì, cả tôi và bác đều yên lặng. Chợt bác cất giọng trầm ngâm:

– Tuổi trẻ của bác đã trải qua những năm tháng khốc liệt nhất của cuộc kháng chiến chống
Mỹ như thế đấy cháu ạ. Tuy gian khổ, hiểm nguy nhưng vui sướng vô cùng. Cuộc đời bác ý
nghĩa nhất là khi được đóng góp một phần sức mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước. Bác mãi luôn tự hào vì mình đã từng là một chiến sĩ lái xe Trường Sơn đó
cháu.

Giờ thì tôi đã biết tại sao những chiếc xe bị tàn phá nặng nề, biến dạng, méo mó tưởng chừng
như tê liệt ấy lại vẫn có thể băng băng ra chiến trường để lập nên những kì tích. Bởi những
chiếc xe ấy đâu chỉ chạy bằng nhiên liệu thông thường, nó được chạy bằng ý chí, nghị lực và
nhiệt huyết sục sôi của người lính; nó chạy bằng trái tim yêu nước nhiệt thành không gì lay
chuyển được như nhà thơ Phạm Tiến Duật đã nói trong hai câu kết bài thơ của mình:

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước


Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Trong tôi bỗng trào dâng một cảm xúc thật kỳ lạ, vừa khâm phục, vừa tự hào. Tôi hiểu thêm
rằng, cuộc sống hòa bình hôm nay mà tôi đang được sống chính là thành quả của bao thế hệ
cha anh đã không tiếc tuổi xuân và máu xương của đời mình cho đất nước. Ý chí kiên cường,
tinh thần dũng cảm ấy mãi là tấm gương sáng ngời, bất diệt cho thế hệ hôm nay và mai sau.

Cuộc gặp gỡ và trò chuyện với bác – người lính lái xe Trường Sơn dũng cảm, can trường đã
đem đến cho tôi bao điều thú vị, tôi thấy mình như trưởng thành hơn, thấy được trách nhiệm
và bổn phận của mình sao cho xứng đáng với những hy sinh của bác. Ra sức học tập, rèn
luyện để đắp xây cuộc sống hòa bình và phát triển đất nước, tiếp bước cha anh chính là nhiệm
vụ của mỗi chúng ta.

You might also like