Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 3

Peter Trudgill (tr 60-80)

Ngôn ngữ và giới


- Sự phân chia nam và nữ được phản ánh và biểu thị trong tất cả các ngôn ngữ của con
người
- Một phổ quát ngữ nghĩa, được từ vựng hóa trong mọi ngôn ngữ trên thế giới theo từng
cặp.
Ví dụ: nam - nữ, trai - gái, con trai – con gái, v.v..
- Ngôn ngữ có sự khác biệt đáng kể ở mức độ khác biệt về giới tính được từ vựng hóa.
Ví dụ:
Trong tiếng Đức, Nam: Freund, nữ: Freundin,
Trong nghề nghiệp, ngôn ngữ có thể hoặc không thể phân biệt giữa “diễn viên - nữ diễn
viên”, “quản lí – nữ quản lí”.
(trang 61)
- Sự khác biệt này được thể hiện về mặt ngữ pháp trong các ngôn ngữ trên thế giới.
+ Thông qua Đại từ.
+ Thông qua Mạo từ và Tính từ
- Trong các ngôn ngữ trên thế giới, có một số khả năng về cách biểu hiện ngữ pháp bắt
buộc về giới tính có thể xảy ra:
1. Có thể không xảy ra như trong tiếng Anh và tiếng Hungary. Vd: nếu người kể truyện
trong sách ở ngôi thứ nhất “I” thì không thể biết là nam hay nữ nếu không có dữ liệu khác
2. Có thể xảy ra thông qua việc sử dụng tính từ đánh dấu giới tính
3. Có thể xảy ra thông qua việc sử dụng các dạng động từ được đánh dấu giới tính riêng
biệt ở ngôi thứ nhất số ít.
4. Có thể xảy ra thông qua việc sử dụng các đại từ ngôi thứ nhất số ít riêng biệt.
(trang 62-63)
Trong nhiều xã hội, lời nói của đàn ông và phụ nữ khác nhau về mọi mặt.
Vd:
+ Ở Gros Ventre, ngôn ngữ của người Mỹ da đỏ ở vùng đông bắc Hoa Kỳ, các âm vòm
trong lời nói của nam giới tương ứng với các âm vòm trong lời nói của phụ nữ
- nam giới: /djatsa/;
- phụ nữ: /kjatsa /
+ Trong Yukaghir, một ngôn ngữ Đông Bắc Á, /tj/ và /dj/ trong giọng nam tương ứng
với /ts/ và /dz/ trong giọng nữ.
 Không thể giải thích sự phát triển của sự khác biệt giới tính trong ngôn ngữ trong
giống như giai cấp, dân tộc hoặc phương ngữ địa lý.
(trang 64)
 Nghiên cứu sự phân biệt giới tính trong ngôn ngữ, có báo cáo:
+ Đàn ông có rất nhiều cách diễn đạt đặc biệt mà phụ nữ hiểu nhưng không bao giờ tự
phát âm được.
+ Phụ nữ có những từ và cụm từ mà đàn ông không bao giờ sử dụng, nếu không họ sẽ bị
cười nhạo khinh miệt.
Vì vậy, điều xảy ra là trong các cuộc trò chuyện của họ, dường như phụ nữ có ngôn ngữ
khác với đàn ông.
 Kết luận: đàn ông và phụ nữ không nói các ngôn ngữ khác nhau, sự khác biệt chỉ
là từ vựng.
(Trang 65-66)
 Điều cấm kỵ là một lời giải thích sự khác biệt giới tính trong ngôn ngữ, tuy nhiên
không phải là lời giải thích tổng thể đặc biệt hay. (Trang 67)
 Lời nói của phụ nữ có tính bảo thủ hơn so với nam giới (Trang 69)
- Phân tích một số khác biệt về giới tính trong tiếng Anh (trang 70)
Phần của Chi

Tiếng mẹ đẻ (tr.118, Chương 5, Nguyễn Văn Khang)


Tiếng mẹ đẻ
- Theo định nghĩa rộng: bất cứ thứ tiếng nào mà không có truyền thống chữ viết thì đều
được coi máy móc là phương ngữ của một ngôn ngữ địa phương và đứa trẻ mà nói thứ
ngôn ngữ địa phương nhóm nhỏ chưa có chữ viết đó lập tức sẽ được coi là tiếng mẹ đẻ
của nó (cho dù đứa trẻ ấy không biết nhiều lắm về ngôn ngữ này).
- Theo định nghĩa hẹp, thì tiếng mẹ đẻ là tiếng nói dùng trong gia đình (bất kể trình dò
phát triên của thứ tiếng ấy như thế nào).
Vd: Ấn Độ là một quốc gia có tới 200 ngôn ngữ được xếp loại (còn thực tế có khoảng
1625 ngôn ngữ và phương ngữ). Ân Đô lại là một quốc gia có lập trường đa nguyên về
giáo dục da ngữ vì thế cần phải có một khái niệm mang tính tác nghiệp về tiếng mẹ đẻ
- U. Weinreich: nhóm người nói tiếng mẹ đẻ là nhóm người trong điều kiện đa ngữ chỉ
học được một trong các ngôn ngữ là là ngôn ngữ thứ nhất.
- A Martinet: cần kiên quyết gạt bỏ quan điểm cho rằng, khái niệm tiếng mẹ đẻ được bảo
tồn ở vị trí thống trị của một con người tử thời ấu thơ cho đến lúc chết.
- V. Page: trong xã hội đa ngữ mà một người từ lúc biết đến hai hoặc hơn hai ngôn ngữ
thì khái niệm tiếng mẹ đẻ chỉ có giá trị tương đối không cố định.
- Khái niệm tiếng mẹ đẻ còn phụ thuộc vào nhóm tộc người nhất định, tức là liên quan
đến ý thức tộc người, đó là ý thức tự xưng, tự nhận dân tộc, và cũng vậy, đó là ý thức tự
nhận tiếng mẹ đẻ.
- Liên hợp quốc (UNESCO) khi xem xét vấn đề giáo dục bằng bản ngữ đã đưa ra khái
niệm về tiếng mẹ đẻ: Tiếng mẹ đẻ "là ngôn ngữ mà con người học được trong những năm
đầu của đời mình và thường trở thành công cụ tư duy và truyền thống tự nhiên". "Tiếng
mẹ để không cần phải là thứ tiếng mà cho mẹ đứa trẻ dùng, cũng không cần phải là ngôn
ngữ ngẫu nhiên mà dứa trẻ học để nói, bởi vì có những hoàn cảnh đặc biệt làm cho nó
vào một tuổi rất sớm đã bỏ một phần hay bỏ hoàn toàn ngôn ngữ đó (UNESCO, 1968).
- Tiếng bản xứ (Vernacular, cách gọi khác là thổ ngữ): "Đó là tiếng mẹ đẻ của một nhóm
bị một nhóm khác nói một thư tiếng khác thông trị về xã hội hay chính trị. Chúng tôi
không coi ngôn ngữ của một thiểu số trong một nước là bạn ngữ nêu đó là ngôn ngữ
chính thức của nước khác" (1968).

You might also like