Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 179

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN LỆ THU

BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG


GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI
PHÍA BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN LỆ THU

BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG


GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI
PHÍA BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mã số: 62 22 03 08

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


1. PGS.TS NGUYỄN THỊ NGÂN
2. TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THỦY

HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.

Tác giả

Nguyễn Lệ Thu
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 8
1.1. Các nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án 8
1.2. Giá trị của các công trình đã tổng quan và những nội dung luận án
cần làm sáng tỏ 28
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA
BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY 31
2.1. Lao động gia đình và bình đẳng giới trong lao động gia đình 31
2.2. Lao động gia đình dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc và bình đẳng
giới trong lao động gia đình dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc 35
2.3. Vai trò của việc thực hiện bình đẳng giới trong lao động gia đình
dân tộc thiểu số đối với việc phát triển kinh tế - xã hội miền núi phía
Bắc Việt Nam hiện nay 41
2.4. Một số yếu tố tác động đến việc thực hiện bình đẳng giới trong lao
động gia đình dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam 50
Chương 3: BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC
THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 62
3.1. Thực trạng thực hiện bình đẳng giới trong lao động gia đình dân tộc
thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay 62
3.2. Những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện bình đẳng giới trong lao
động gia đình dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam 105
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY BÌNH
ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN
NÚI PHÍA BẮC HIỆN NAY 119
4.1. Những quan điểm cơ bản thúc đẩy bình đẳng giới trong lao động gia
đình dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc hiện nay 119
4.2. Một số giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lao động gia đình
dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc hiện nay 125
KẾT LUẬN 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 166
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BĐG : Bình đẳng giới

CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

DTTS : Dân tộc thiểu số

MNPB : Miền núi phía Bắc


DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 3.1: Vai trò của vợ và chồng trong hoạt động sản xuất 63

Bảng 3.2: Mức độ tham gia của vợ và chồng trong hoạt động tái sản xuất 82

Bảng 3.3: Người đại diện cho gia đình tham gia hoạt động cộng đồng 99
1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận án


Bình đẳng nam nữ một cách toàn diện, đầy đủ là lý tưởng mà nhân
loại đã theo đuổi hàng nhiều thế kỷ. Ngày nay, bình đẳng giới (BĐG) là
vấn đề có tính quốc tế, là mối quan tâm của toàn nhân loại, là một trong
tám mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG). Ở nước ta, sự nghiệp giải
phóng phụ nữ đã được Đảng và Nhà nước quan tâm ngay từ buổi đầu cách
mạng. Khẩu hiệu “nam nữ bình quyền” được khẳng định từ Hiến pháp đầu tiên
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1946). Cho đến nay, Đảng và nhà nước
Việt Nam luôn quan tâm thúc đẩy thực hiện BĐG nói chung và BĐG trong lao
động gia đình nói riêng. Nhiều văn bản quan trọng đã ra đời và quy định cụ thể
về nội dung này như: Hiến pháp, Luật Lao động, Luật Hôn nhân gia đình, Luật
Bình đẳng giới. Như điều 18 Luật BĐG đã quy định: Vợ chồng bình đẳng với
nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác liên quan đến hôn nhân và gia
đình,... các thành viên nam nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công việc
gia đình.
Những quan điểm, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, cùng
với thành tựu của 30 năm đổi mới, đời sống vật chất và tinh thần của các gia
đình Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, có sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu,
kết cấu, mối quan hệ của các thành viên trong gia đình. Phụ nữ ngày càng có
nhiều cơ hội tham gia và khẳng định vai trò to lớn của mình trong các hoạt
động kinh tế - xã hội, nhất là trong lĩnh vực sản xuất vật chất. Bên cạnh đó,
xuất hiện xu hướng ngày càng có nhiều đàn ông đảm nhiệm những công việc
trước đây vốn được coi là của phụ nữ. Với sự thay đổi chức năng của các cá
nhân trong gia đình, khoảng cách của bất BĐG trong lao động gia đình đang
dần dần được thu hẹp. BĐG trong lao động gia đình đã trở thành xu hướng tất
yếu, là thước đo mức độ tiến bộ, hạnh phúc của mỗi gia đình.
2

Tuy nhiên, dù pháp luật quy định trong gia đình, vợ chồng đều bình
đẳng với nhau về mọi mặt, cùng nhau bàn bạc, quyết định mọi vấn đề chung,
cùng chia sẻ mọi công việc cũng như chăm lo con cái, cha mẹ, nhưng trên
thực tế thời gian làm việc của phụ nữ trong gia đình thường dài hơn nam giới.
Trong gia đình nam giới vẫn được coi là trụ cột, có quyền quyết định các vấn
đề lớn và là người đại diện ngoài cộng đồng, còn các công việc nội trợ, chăm
sóc các thành viên trong gia đình vẫn được coi là “thiên chức” của phụ nữ,
được coi là việc vặt, không tên, không có giá trị.
Vậy là ngoài giờ đi làm, tham gia hoạt động sản xuất như nam giới, phụ
nữ còn phải gánh trách nhiệm chính trong hoạt động tái sản xuất của gia đình,
điều này đã hạn chế cơ hội được tiếp cận và khả năng tìm được chỗ đứng
trong thị trường lao động, ảnh hưởng tới việc học tập, nâng cao trình độ
chuyên môn, sức khỏe, tâm lý và thời gian nghỉ ngơi, giải trí để đảm bảo tái
sản xuất, tham gia hoạt động xã hội của phụ nữ. Ngoài ra, một bộ phận phụ
nữ còn tự ti, an phận, cam chịu, chấp nhận những định kiến giới tồn tại trong
xã hội. Đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số (DTTS), bất BĐG
trong lao động gia đình vẫn đang diễn ra mạnh mẽ, vị thế của người phụ nữ
trong gia đình còn thấp kém.
Miền núi phía Bắc (MNPB) là địa bàn chiến lược của đất nước, nơi
tụ cư của nhiều DTTS, với sự đa dạng về bản sắc văn hóa tộc người. Do
trình độ phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa còn thấp kém, bất BĐG trong
gia đình DTTS MNPB còn khá phổ biến và nặng nề hơn so với nhiều vùng
khác trong cả nước. Tính chất bảo thủ của phân công lao động truyền thống
theo giới, vẫn đang thể hiện rõ nét trong gia đình DTTS. Vì điều kiện sản
xuất và thu nhập thấp, nên phụ nữ tham gia hầu hết các công việc sản xuất.
Hơn nữa việc sử dụng dịch vụ xã hội, phương tiện giúp giảm nhẹ gánh
nặng của công việc nội trợ của gia đình DTTS còn rất ít, chưa đủ sức giải
phóng người phụ nữ ra khỏi những lo toan vất vả của đời sống gia đình
3

hiện nay. Do vậy, phụ nữ DTTS MNPB thường phải lao động với cường độ
lớn, thời gian làm việc kéo dài, điều kiện nghỉ ngơi dường như không có, ít
có cơ hội tiếp cận các nguồn lực để phát triển, nâng cao năng lực của bản
thân, khả năng ra quyết định và hưởng thụ lợi ích của họ nhìn chung thấp
hơn nhiều so với nam giới.
Mặc dù chính phủ đã tiến hành nhiều chương trình nhằm giúp đỡ các
DTTS MNPB, song có lẽ một bộ phận không nhỏ phụ nữ DTTS MNPB vẫn
còn đứng bên lề của sự phát triển. Nghèo đói, rào cản của luật tục, hạn chế
về kiến thức, không chỉ làm gia tăng thêm gánh nặng cho phụ nữ trong lao
động sản xuất, tái sản xuất để duy trì cuộc sống gia đình, mà còn làm cho
những cơ hội để họ tham gia hòa nhập với dòng chảy của xã hội ít hơn so
với nam giới. Vì vậy, phụ nữ DTTS chính là nhóm xã hội cực khổ nhất, chịu
nhiều sự bất bình đẳng nhất ở MNPB, giải quyết bất BĐG trong gia đình
DTTS MNPB để không ai bị bỏ lại phía sau, chính là góp phần thực hiện
mục tiêu phát triển bền vững hiện nay ở MNPB.
BĐG trong lao động gia đình không phải là chủ đề nghiên cứu mới,
nhưng luôn mang tính thời sự, luôn nhận được sự quan tâm của các nhà khoa
học không chỉ trong nước mà cả quốc tế và ngày càng được quan tâm nghiên
cứu trên nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau. Tuy nhiên, hiện nay chưa có
công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ về BĐG trong lao động gia đình
DTTS MNPB.
Từ những lí do trên, việc nghiên cứu thực trạng BĐG trong lao động
gia đình DTTS MNPB hiện nay, để đề xuất giải pháp thúc đẩy thực hiện
BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB hiện nay được đặt ra cấp thiết.
Do vậy, tác giả chọn vấn đề “Bình đẳng giới trong lao động gia đình dân tộc
thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án Tiến sỹ Triết
học, chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học.
4

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án


2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn, những vấn đề đặt ra của
việc thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB, luận án đề xuất một
số quan điểm, giải pháp chủ yếu để thúc đẩy BĐG trong lao động gia đình DTTS
MNPB Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu BĐG trong lao
động gia đình DTTS MNPB Việt Nam hiện nay.
- Phân tích thực trạng, chỉ ra những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện
BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy BĐG trong
lao động gia đình DTTS MNPB Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu thực trạng BĐG trong lao động gia đình.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Trong phạm vi luận án, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu
BĐG trong lao động gia đình giữa vợ và chồng.
- Phạm vi không gian: MNPB gồm 14 tỉnh với 30 dân tộc, được chia
thành nhiều nhóm với các trình độ phát triển khác nhau. Trong khuôn khổ luận
án và điều kiện nghiên cứu, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu một số dân tộc như:
Tày, Thái (nhóm DTTS phát triển); Mông (thuộc DTTS phát triển trung bình);
La Hủ (thuộc nhóm DTTS phát triển kém) ở các tỉnh Hà Giang, Lạng Sơn, Lào
Cai, Sơn La, Lai Châu.
- Phạm vi thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu về tình hình thực hiện
BĐG trong lao động gia đình DTTSMNPB Việt Nam từ năm 2007 (Luật BĐG
có hiệu lực) cho đến nay.
5

4. Cơ sở lí luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án


4.1. Cơ sở lí luận và thực tiễn
- Cơ sở lí luận của luận án là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về
vấn đề BĐG, gia đình, DTTS. Ngoài ra, luận án còn vận dụng một số lý thuyết
như: xã hội học về vị thế - vai trò, giới và phát triển, nữ quyền.
- Luận án kế thừa tài liệu, công trình có liên quan đến đề tài của các nhà
nghiên cứu, hoạt động thực tiễn ở Việt Nam, cũng như các tổ chức quốc tế.
- Cơ sở thực tiễn của luận án là thực trạng BĐG trong lao động gia đình
DTTS MNPB đã xác định ở phạm vi nghiên cứu.
- Luận án sử dụng nhiều số liệu của Tổng cục Thống kê về MNPB (do
DTTS chiếm tỷ lệ lớn của vùng và hiện tại không có số liệu thống kê riêng về
DTTS của vùng), nên các số liệu về MNPB mà tác giả đề cập trong luận án hàm
ý nói về DTTS ở MNPB.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, luận án sử dụng các phương pháp sau:
- Thu thập tư liệu, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh các tư liệu đã có
làm cơ sở lí luận, thực tiễn tham khảo.
- Điều tra xã hội học là phương pháp nghiên cứu quan trọng, mà luận án
sử dụng để thu thập những bằng chứng khách quan, tin cậy về thực trạng, cũng
như những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện BĐG trong lao động gia đình
DTTS MNPB, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp.
Nghiên cứu định tính: được tiến hành thông qua phương pháp phỏng vấn
sâu. Luận án phỏng vấn sâu 20 cuộc.
Các cặp vợ chồng gia đình: dân tộc Thái (3 cuộc), dân tộc Tày (3 cuộc),
dân tộc Mông (6 cuộc), dân tộc La Hủ (2 cuộc), cán bộ lãnh đạo Đảng, chính
quyền và các tổ chức chính trị xã hội (6 cuộc).
6

Với nội dung tập trung vào các vấn đề:


+ Thực trạng phân công lao động trong các hoạt động: sản xuất, tái sản
xuất, cộng đồng.
+ Quan niệm của người dân về việc phân công lao động trong gia đình
như thế nào là hợp lý.
+ Tìm hiểu tác động của các yếu tố tự nhiên, kinh tế, văn hóa tới BĐG
trong lao động gia đình DTTS
Nghiên cứu định lượng: Luận án thực hiện 536 phiếu trưng cầu ý kiến.
+ Ở địa bàn: xã Phố cáo, Huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang; xã Tân
Lang huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn; Thị trấn Sa Pa, huyện Sa Pa tỉnh Lào
Cai; xã Pa Ủ, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu; Thị trấn Phù Yên tỉnh Sơn La.
+ Cơ cấu về giới tính: có 50% là nữ (268) và 50% là nam (268)
+ Dân tộc: Thái (28,3%), Tày (27,6%), Mông (29,9%), La Hủ (14,2%)
+ Cơ cấu về độ tuổi: từ 18 đến 50.
+ Tình trạng hôn nhân: Đầy đủ vợ chồng
+ Cơ cấu về trình độ học vấn: mù chữ: 106; cấp 1: 192; cấp 2:189; cấp 3: 49
+ Cơ cấu nghề nghiệp chính: chủ yếu làm nông nghiệp.
- Quan sát thực địa là một phương pháp, mà tác giả sử dụng trong luận án
nhằm làm sáng tỏ một số phát hiện dựa trên bảng hỏi và thảo luận nhóm.
5. Đóng góp mới của luận án
- Làm rõ hơn lý luận về lao động gia đình DTTS MNPB, nội dung biểu
hiện của BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB.
- Đánh giá những tác động tích cực và tiêu cực của các yếu tố tự nhiên,
kinh tế, văn hóa, chính sách đến việc thực hiện BĐG trong lao động gia đình
DTTS MNPB.
- Đánh giá một cách cụ thể thực trạng BĐG trong lao động gia đình
DTTS MNPB Việt Nam ở các lĩnh vực: sản xuất, tái sản xuất, tham gia hoạt
động cộng đồng.
7

- Phát hiện những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện BĐG trong lao động
gia đình DTTS MNPB Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp để thúc đẩy BĐG trong lao động
gia đình DTTS MNPB.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Góp phần khẳng định lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước ta về BĐG, gia
đình và DTTS, ngoài ra còn khẳng định giá trị của các lý thuyết khác về giới.
- Luận án có thể làm tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy
những chuyên đề liên quan đến vấn đề phụ nữ, BĐG, gia đình, dân tộc... trong
Chủ nghĩa xã hội khoa học và các chuyên ngành liên quan.
- Với việc chỉ ra thực trạng, những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện
BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB, đề xuất một số giải pháp, luận án
góp phần cung cấp tư liệu cho việc hoạch định, hoàn thiện chính sách về phụ nữ
DTTS, BĐG, gia đình, lao động và việc làm, DTTS ở MNPB.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án bao gồm 4 chương, 10 tiết.
8

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. CÁC NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN


1.1.1. Các nghiên cứu tiêu biểu về bình đẳng giới trong lao động
gia đình
Các tác giả Đỗ Thị Bình, Lê Ngọc Văn và Nguyễn Linh Khiếu trong
công trình Gia đình Việt Nam và người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [7], đã đi sâu phân tích vai trò của người
phụ nữ trong: tái sản xuất sức lao động gia đình; phát triển kinh tế gia đình;
tiếp cận và quản lý các nguồn lực phát triển; quyền quyết định các vấn đề
quan trọng trong gia đình; sinh hoạt cộng đồng và đã đưa ra kết luận: mặc dù
đã trở thành một người lao động chính cùng với chồng tạo nên nguồn của cải
nuôi sống gia đình, nhưng phụ nữ vẫn là người độc tôn trong việc thực hiện
các công việc nội trợ gia đình. Theo nhóm tác giả, các số liệu thực tế cho
thấy người phụ nữ chưa được tiếp cận, kiểm soát và quản lý các nguồn lực
phát triển, sự bất bình đẳng ở đây không những không tạo cơ hội cho người
phụ nữ tham gia một cách tích cực hơn vào quá trình phát triển, mà còn hạn
chế sự phát triển kinh tế gia đình, cũng vì vậy mà vị thế của người phụ nữ
chưa tương xứng với vai trò của họ. Công trình này đã gợi mở cho tác giả
luận án về một số vấn đề lý luận, thực trạng có thể triển khai trong luận án.
Trong công trình Nghiên cứu phụ nữ, giới và gia đình [30], Nguyễn
Linh Khiếu đã phân tích làm sáng rõ vai trò của phụ nữ, cũng như mối
quan hệ giới trong gia đình trên các lĩnh vực như: kinh tế, tiếp cận nguồn
lực, giáo dục và chăm sóc sức khỏe. Đặc biệt, tác giả nghiên cứu sâu hơn
về vị thế của phụ nữ trong gia đình nông thôn miền núi, những yếu tố văn
hóa đang cản trở quá trình phát triển của họ. Những kết luận được khái
quát của công trình này, đã gợi mở cho tác giả luận án một số vấn đề đặt ra
hiện nay trong thực hiện được BĐG trong lao động gia đình DTTS.
9

Gender and Domestic life của Tony Chapma [12], là công trình nhấn
mạnh đến vai trò giới và công việc gia đình. Tác giả nghiên cứu gia đình và
công việc gia đình trong tương quan giới, để làm rõ sự bất bình đẳng còn
tồn tại trong phân công lao động gia đình. Tony Chapman đã xem xét công
việc gia đình, mà nam giới và nữ giới tham gia ở phạm vi rộng, bao gồm
các công việc được trả lương, công việc nội trợ, chăm sóc và nuôi con, thời
gian nghỉ ngơi, quản lý, chi tiêu và cả kế hoạch của gia đình. Tác giả chỉ ra
rằng, định kiến giới về công việc gia đình và công việc xã hội đã ăn sâu
trong tiềm thức con người, tuy nhiên sự phát triển của kinh tế xã hội cũng
kéo theo sự biến đổi sâu sắc về cuộc sống gia đình và sự phân công lao
động trong gia đình hiện nay. Ngoài ra, tác giả đã làm rõ vai trò và khả
năng của nam giới và phụ nữ trong việc làm thay đổi định kiến giới về lĩnh
vực gia đình trong tương lai. Công trình này đã cung cấp gợi mở giúp tác
giả luận án nhìn nhận rõ hơn lý luận về lao động gia đình.
Trong công trình Định kiến và phân biệt đối xử theo giới: lý thuyết và
thực tiễn [21], Trần Thị Minh Đức đã chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến định
kiến, phân biệt đối xử với người phụ nữ trong gia đình. Theo tác giả, không
phải chỉ đàn ông định kiến phân biệt đối xử với giới nữ, mà ngay chính bản
thân người phụ nữ, họ cũng định kiến về địa vị của mình trong gia đình và
ngoài xã hội, họ luôn coi mình không có giá trị bằng nam giới và mặc định
rằng những công việc như nội trợ, làm việc nhà… là của phụ nữ và hậu quả là
người phụ nữ phải gánh chịu rất nhiều thiệt thòi, không có cơ hội phát triển
bản thân. Công trình đã giúp tác giả luận án nhìn nhận rõ hơn về định kiến
giới - một nguyên nhân dẫn tới bất BĐG trong lao động gia đình DTTS
MNPB hiện nay.
Phạm Thị Ngọc Anh trong công trình Vai trò giới và lượng hóa giá trị
lao động gia đình [1], đã đưa ra cách tiếp cận mới về lao động gia đình từ
góc độ kinh tế, đề cập tới khía cạnh giá trị của lao động gia đình để đề xuất
những giải pháp phù hợp, bao gồm cả các giải pháp về chính sách phúc lợi
gia đình cho phụ nữ, nhằm hỗ trợ gia đình phát triển theo hướng bình đẳng
10

và hiện đại. Nghiên cứu này nhận diện vấn đề lao động gia đình một cách
toàn diện, xác định thực trạng phân công lao động trong gia đình thủ đô hiện
nay, phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới mức độ tham gia của mỗi giới để tìm
ra nguyên nhân của thực trạng; đồng thời lượng hóa giá trị công việc lao
động gia đình mà họ đang thực hiện nhằm đánh giá đúng mức giá trị lao
động, làm căn cứ cho các giải pháp được đề xuất. Mặc dù, công trình này chỉ
giới hạn nghiên cứu về gia đình ở thủ đô Hà Nội, nhưng cũng đã cung cấp
thêm cho tác giả luận án lý luận về lao động gia đình, gợi mở một số giải
pháp để thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB.
Quỹ Health Bridege Canada - Viện Nghiên cứu phát triển xã hội với
nghiên cứu Đóng góp kinh tế của phụ nữ thông qua công việc nhà [61], đã
cung cấp những bằng chứng về đóng góp của phụ nữ thông qua công việc
nhà; lượng hóa các giá trị của các công việc đó và đóng góp của nó vào kinh
tế quốc gia. Để đạt được mục đích đó, nhóm tác giả đã: tìm hiểu thực trạng
tham gia vào công việc nhà của các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ trên
địa bàn nghiên cứu, quan niệm và thái độ của các cặp vợ chồng về công việc
gia đình; lượng hóa thời gian làm công việc nhà của nam và nữ trong gia
đình và lượng hóa giá trị kinh tế cho những công việc đó. Kết quả nghiên
cứu cho thấy mặc dù người trả lời cả nam và nữ đều chia sẻ rằng ai cũng có
thể làm việc nhà, không kể nam hay nữ và công việc nhà cần được chia đều
cho hai vợ chồng, thì trong cả hai bối cảnh, thành thị và nông thôn, người
phụ nữ vẫn là người dành nhiều thời gian làm các công việc nhà hơn nam
giới. Trong các khuyến nghị đưa ra, thì khuyến nghị cần nâng cao nhận thức
của toàn xã hội về giá trị lao động gia đình và đóng góp của phụ nữ vào kinh
tế gia đình, bên cạnh sự đóng góp thông qua các hoạt động có thu nhập của
họ, là một khuyến nghị chúng ta cần quan tâm, nếu làm được điều này mới
có thể tạo được BĐG trong lao động gia đình đối với người phụ nữ. Nghiên
cứu này là tài liệu quan trọng, gợi mở cho tác giả luận án nhiều vấn đề cần
triển khai.
11

Dựa trên số liệu định lượng từ cuộc “Điều tra cơ bản về thực trạng
BĐG ở Việt Nam” do viện Khoa học xã hội Việt Nam tiến hành từ 2004 -
2006, trong bài Đóng góp kinh tế của vợ chồng [3], Trần Thị Vân Anh đã
tập trung xem xét việc đóng góp kinh tế giữa phụ nữ và nam giới trong gia
đình. Theo tác giả, do chưa đủ điều kiện áp dụng kỹ thuật và phân tích thu
nhập của từng thành viên, cũng như cuộc khảo sát này không cho phép đưa
ra số liệu cụ thể, nên đóng góp vào thu nhập ở đây được hiểu là bằng tiền,
hiện vật sản phẩm chứ chưa đề cập tới những đóng góp bằng công sức cho
việc tái sản xuất sức lao động và chăm sóc các thành viên trong gia đình.
Theo tác giả, kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ tham gia của vợ và chồng
vào việc đóng góp thu nhập gia đình đều khá cao. Tuy nhiên xét về mức độ
đóng góp, thì ở thành thị, tỷ lệ gia đình có vợ là người đóng góp thu nhập
chính cao hơn nông thôn. Tỷ lệ gia đình có vợ đóng góp thu nhập chính tăng
lên cùng với trình độ học vấn. Các phân tích này gợi ra rằng, việc nâng cao
trình độ học vấn là yếu tố có ý nghĩa quan trọng trong việc cải thiện tương
quan thu nhập giữa vợ và chồng, nâng cao vị thế của người phụ nữ trong gia
đình, thực hiện BĐG.
Trong công trình Những vấn đề giới - từ lịch sử đến hiện đại [31], các
tác giả đã nghiên cứu quan điểm về giới trong tác phẩm kinh điển của C.Mác,
Ph.Ănghen, VI.Lênin, Hồ Chí Minh và khẳng định những tư tưởng, quan
điểm của các nhà mác xít nêu trên là cơ sở lý luận, phương pháp luận quan
trọng để nhận thức và thực hiện BĐG ở nước ta hiện nay. Vấn đề giới trong
đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng được
các tác giả đi sâu phân tích và đã đưa ra nhận định: đường lối, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam được nhiều tổ chức quốc tế đánh
giá, là rất tiến bộ, tích cực trên phương diện BĐG. Công trình này đã cung
cấp cho tác giả luận án những cơ sở lý luận quan trọng về vấn đề nghiên cứu.
Trong bài viết Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giải phóng
phụ nữ [77], các tác giả đã khái quát quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
con đường giải phóng phụ nữ ở 5 ý lớn: thứ nhất, làm cho toàn bộ nữ giới trở
12

lại tham gia nền sản xuất xã hội và thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
thứ hai, xã hội hóa công việc gia đình đối với phụ nữ; thứ ba, tạo điều kiện xã
hội giúp phụ nữ khẳng định địa vị của mình trong gia đình, ngoài xã hội; thứ
tư, người phụ nữ phải nâng cao ý thức tự giải phóng mình; thứ 5, thực hiện
quyền bình đẳng dân chủ của phụ nữ một cách thật sự. Bài viết này đã gợi mở
cho tác giả luận án về một số giải pháp, có thể đưa ra để thúc đẩy BĐG trong
lao động gia đình DTTS MNPB hiện nay.
Lê Ngọc Lân với bài viết Vấn đề lao động, việc làm nhìn từ góc độ giới
[34], đã chỉ ra hiện nay vẫn còn nhiều khía cạnh bất BĐG giữa nam, nữ, cụ thể
là tình trạng việc làm có thu nhập cao thường xuyên của nam cao hơn nữ, nam
có nhiều lợi thế trong việc tìm kiếm và lựa chọn ngành nghề cũng như cơ hội
tuyển dụng. Trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, khuôn mẫu giới truyền
thống về phân công lao động vẫn chưa thay đổi nhiều. Có nhiều nguyên nhân
dẫn tới bất bình đẳng, nhưng theo tác giả bài viết nguyên nhân bao trùm là định
kiến giới hiện vẫn còn tồn tại trong tư tưởng của nhiều người trong xã hội.
Trong bài Khía cạnh giới trong phân công lao động gia đình [44],
Nguyễn Hữu Minh đã phân tích thực trạng phân công lao động theo giới trong
gia đình. Theo ông cho đến nay chưa có những số liệu so sánh đủ tin cậy ở
quy mô toàn quốc về xu hướng biến đổi phân công lao động theo giới trong
gia đình, nhưng “sự bình đẳng của xã hội theo hướng công nghiệp hóa đã tạo
thêm nhiều cơ hội việc làm cho phụ nữ, sự tham gia của họ vào lực lượng lao
động xã hội ngày càng tăng. Những yếu tố đó sẽ góp phần dẫn đến việc tăng
sự tham gia của người chồng vào công việc gia đình”. Tác giả đã chỉ ra những
khác biệt chủ yếu có liên quan đến phân công lao động theo giới trong gia
đình là: sống ở khu vực thành thị hay nông thôn; nghề nghiệp; học vấn, chu
trình sống của gia đình và cơ cấu hộ gia đình; sự đóng góp của phụ nữ vào
nguồn thu nhập gia đình và định kiến giới. Tác giả cũng đưa ra một số vấn đề
nghiên cứu cần quan tâm như: hiện nay khi nghiên cứu về phân công lao động
theo giới trong gia đình, thường tập trung vào phân công công việc nội trợ, sự
phân công trong các loại công việc khác như sản xuất, kinh doanh gia đình,
13

giao tiếp… còn ít được đề cập; vấn đề lượng hóa giá trị các công việc gia đình
chưa được quan tâm.
Trương Thu Trang với bài viết Những yếu tố ảnh hưởng đến bình đẳng
giới trong phân công thực hiện công việc nội trợ giữa vợ và chồng [78], đã đề
cập tới các yếu tố ảnh hưởng đến phân công lao động nội trợ trong gia đình
như: cấu trúc gia đình, độ tuổi của người vợ, nghề của hộ, chênh lệch về thu
nhập và học vấn. Qua khảo sát, tác giả thấy rằng chênh lệch về thu nhập và
học vấn không có mối tương quan đáng kể với mức độ thực hiện công việc
nội trợ, dù chênh lệch về thu nhập thế nào, thì người vợ vẫn phải làm nhiều
loại công việc nhà hơn chồng. Ngoài ra những đóng góp về thời gian, công
sức và tiền bạc của người vợ chủ yếu làm công việc nội trợ hiện nay, đã phần
nào được nhìn nhận đúng đắn, đây là một dấu hiệu tốt để giảm đối xử bất bình
đẳng đối với phụ nữ.
Trong công trình Bình đẳng giới ở Việt Nam [4], Trần Thị Vân Anh và
Nguyễn Hữu Minh, đã đề cập đến việc phân công lao động và quyền quyết định
trong gia đình ở phần II của công trình. Từ việc phân tích số liệu, các tác giả
nhận định phụ nữ tham gia vào tất cả các loại hình sản xuất tạo ra thu nhập như
nông, lâm, ngư nghiệp, dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp và tất cả các khâu của
một chu trình sản xuất. Tuy nhiên công việc nội trợ trong gia đình vẫn chủ yếu
do phụ nữ đảm nhiệm cho dù gia đình có sự khác nhau về quy mô, độ dài hôn
nhân, về loại hình sản xuất kinh doanh. Về việc ra quyết định trong gia đình,
theo nhóm tác giả hầu hết các công việc đều được bàn bạc và do hai vợ chồng
cùng quyết định. Tuy nhiên có sự khác biệt, tiếng nói của người chồng có tính
quyết định ở các công việc “đối ngoại”, còn người vợ ở những công việc “đối
nội”, phụ nữ ở thành thị có nhiều quyền quyết định trong gia đình hơn so với
phụ nữ nông thôn. Phần IV của công trình, các tác giả đề cập tới khuôn mẫu
giới: phân tích quan niệm về vai trò của vợ và chồng, các phẩm chất mong
muốn ở con trai và con gái, quan niệm tên vợ, tên chồng trong giấy chứng nhận
tài sản, qua số liệu cho thấy định kiến giới trong những vấn đến vẫn còn tồn tại.
14

Công trình này đã gợi mở cho tác giả luận án một số vấn đề cần triển khai trong
luận án.
Nguyễn Thị Ngân, trong hai bài viết Thực hiện quan điểm của Đảng và
chính sách của Nhà nước về bình đẳng giới [46], Chủ trương của Đảng, Nhà
nước về giải phóng phụ nữ và bình đẳng giới ở Việt Nam [47], đã khái quát
lại một số quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước về thực hiện
BĐG được thể hiện ở: Chỉ thị 44/TW ngày 7-6-1984 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng, Nghị quyết số 04/NQ-TW ngày 12-4-1993 của Bộ Chính trị, Luật
BĐG. Theo tác giả, trong các văn kiện của Đảng từ Đại hội VI đến đại hội X
đều đề cập tới việc thực hiện BĐG, trong những năm qua Việt Nam đã không
ngừng thực hiện quan điểm đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về
BĐG, do vậy phụ nữ đã có những đóng góp to lớn, tham gia ngày càng tích cực
vào các hoạt động chính trị xã hội. Ngoài ra, trong hai bài viết tác giả còn chỉ ra
một số bất cập, hạn chế trong quá trình thực hiện mục tiêu BĐG như: một số
chủ trương lớn còn thiếu nhạy cảm về giới; định kiến giới còn tồn tại trong
không ít các cơ quan nhà nước; vai trò của Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ chưa
thật sự được đề cao; thiếu nguồn lực cũng như kỹ năng lồng ghép giới vào các
hoạt động của từng cơ sở; bản thân phụ nữ còn tự ti, rụt rè. Để đạt được mục
tiêu BĐG, tác giả nhận định “cần có sự chỉ đạo mạnh mẽ, quyết tâm cao và
hành động cụ thể của tất cả các cơ quan nhà nước, các ngành, các cấp. Do vậy,
hướng tới BĐG cần phải có sự lồng ghép giới trong hoạch định và thực thi
chính sách”. Hai bài viết này đã cung cấp cho tác giả luận án, một số vấn đề về
lý luận, đồng thời cũng gợi mở hướng tiếp cận về nguyên nhân dẫn tới bất
BĐG có thể triển khai trong luận án.
Báo cáo phát triển con người 2010 của UNDP [83], với chủ đề ”dịch
vụ xã hội cho phát triển con người”, đã nhận diện những thách thức mà nhiều
người Việt Nam đang phải đối mặt trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ
bản và đưa ra khuyến cáo về những định hướng chính sách. Ba chỉ số phát
triển con người chính đã được xem xét, bao gồm chỉ số phát triển con người
(HDI), chỉ số phát triển giới(GDI) và chỉ số nghèo đói ở con người (HPI). Báo
15

cáo khẳng định, Việt Nam là quốc gia thực hiện rất tốt về BĐG, nhưng bất
BĐG vẫn tồn tại đặc biệt trong gia đình và thị trường lao động. Theo bản báo
cáo chênh lệch về mức sống giữa các tỉnh giàu nhất và nghèo nhất vẫn còn
khá lớn, đáng chú ý trong khi khoảng cách về giới nói chung đang dần được
thu hẹp, thì một số tỉnh nghèo hơn lại có sự chênh lệch về giới trong giáo dục
tăng lên; trong khi đó, một số tỉnh phát triển năng động lại có khoảng cách
chênh lệch thu nhập gia tăng giữa nam và nữ. Để khắc phục thực trạng trên,
UNDP khuyến nghị Việt Nam cần rà soát chính sách xã hội hóa, tác động của
nó đối với chi tiêu của hộ gia đình cho y tế và giáo dục; cần có quy định hiệu
quả hơn về cung cấp dịch vụ công và dịch vụ tư nhân. Báo cáo này góp phần
cung cấp dữ liệu cho các nhà hoạch định chính sách, để từ đó đưa ra những
quyết định đầu tư đúng đắn cho các dịch vụ xã hội, ở cấp quốc gia và địa
phương, nhằm hiện thực hóa tiềm năng phát triển con người của Việt Nam.
Tác giả luận án có kế thừa nhiều số liệu của báo cáo này.
Trong tài liệu Thúc đẩy quyền của phụ nữ tại Việt Nam của UN Women
[86] đã phân tích: trong hơn 30 năm qua, Việt Nam đã chuyển mình từ một
trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới, thành một quốc gia mới nổi
năng động nhất thế giới. Trong khi phần đông dân số được hưởng lợi từ sự phát
triển ấn tượng này, thì những chuẩn mực và khuôn mẫu giới đã và đang ngăn
cản nhiều phụ nữ trong việc phát triển tối đa năng lực của họ [86, tr.3]. Báo cáo
nhấn mạnh BĐG là quyền cơ bản, việc trao quyền cho phụ nữ là cần thiết để
Việt Nam tiếp tục phát triển kinh tế xã hội, tuy nhiên chưa chỉ ra được giải
pháp cụ thể nhằm thúc đẩy BĐG.
Cuốn sách Hệ thống các văn bản quy định hiện hành về bình đẳng
giới và phòng, chống Bạo lực gia đình [16] gồm có 4 phần, đã khái quát lại:
văn bản chỉ đạo của Đảng; các văn bản quy định hiện hành về BĐG; các văn
bản hiện hành về tổ chức bộ máy về BĐG, vì sự tiến bộ của phụ nữ và
phòng, chống bạo lực gia đình; một số trích đoạn của các văn kiện quốc tế
liên quan. Đây là cuốn sách có giá trị, rất cần thiết giúp tác giả luận án tìm
hiểu thông tin và nắm vững chính sách, pháp luật về BĐG, phòng chống bạo
16

lực gia đình. Tuy nhiên, để tiện lợi cho việc tham khảo và theo dõi quá trình
phát triển chính sách pháp luật trong các lĩnh vực BĐG, phòng, chống bạo
lực gia đình, các văn bản nên hệ thống theo thời gian thì sẽ tốt hơn.
Báo cáo phát triển thế giới 2012: Bình đẳng giới và phát triển [100],
là một trong số những ấn bản thường niên quan trọng nhất của Ngân hàng
thế giới được phát hành. Báo cáo này, đã phân tích vai trò của BĐG trong sự
phát triển chung và sự phát triển của kinh tế, BĐG sẽ góp phần như thế nào
vào việc nâng cao năng suất lao động, cũng như làm cho quốc gia thịnh
vượng hơn. Báo cáo tập trung vào 4 lĩnh vực ưu tiên về cải cách chính sách:
giảm bất BĐG về nguồn vốn con người - nhất là bất BĐG trong tỷ lệ tử vong
và trình độ học vấn của phụ nữ; giảm bất bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội
kinh tế, thu nhập và năng suất lao động; giảm bất BĐG về tiếng nói và năng
lực trung gian trong xã hội; hạn chế sự tái diễn của tình trạng bất bình đẳng
từ thế hệ này qua thế hệ khác. Theo báo cáo, cần có những giải pháp công,
để tác động đến những nguyên nhân cơ bản của tình trạng bất BĐG trong
những lĩnh vực ưu tiên. Đây là tài liệu quan trọng, gợi mở cho tác giả về ý
nghĩa của BĐG trong lao động gia đình DTTS với sự phát triển kinh tế xã
hội của MNPB.
Những phát hiện chính từ Báo cáo An sinh xã hội cho phụ nữ và trẻ em
gái ở Việt Nam của UN Women [87], là tài liệu tham khảo khá quan trọng cho
các nhà hoạch định chính sách và quản lý, cũng như cho tác giả luận án khi
nghiên cứu về khía cạnh BĐG và đảm bảo quyền lợi của phụ nữ. Báo cáo đã
bước đầu đánh giá được những vấn đề và thách thức giới trong hệ thống chính
sách an sinh xã hội, chỉ ra tỷ lệ tham gia lực lượng lao động, trình độ chuyên
môn kỹ thuật, tốc độ tăng việc làm, tốc độ chuyển dịch việc làm, thất nghiệp,
tiền lương bình quân của lao động nữ luôn thấp hơn lao động nam. Báo cáo đã
cung cấp cho tác giả luận án nhiều số liệu thực tiễn đáng quý.
Lê Thị Quý với bài viết Bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay [60], đã phân
tích về BĐG và đưa ra nhận định: phụ nữ ngày nay đã có kinh tế độc lập, được
tham gia và thừa nhận trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa
17

học, gia đình, thậm chí ở nhiều nơi, họ còn đứng ở vị trí lãnh đạo cao cấp, đây
là những biểu hiện của BĐG thực chất ở Việt Nam [60, tr.77]. Theo tác giả,
luật pháp và chính sách BĐG Việt Nam đã có những tiến bộ về giới, như đã
công nhận quyền bình đẳng nam và nữ ở trong xã hội và gia đình, tuy nhiên
vẫn còn nhiều thách thức đặt ra như: BĐG hình thức vẫn còn tồn tại; luật thì có
nhưng không được thực hiện; sự vất vả của phụ nữ trong vai trò "kép" chưa
được gia đình và xã hội đánh giá nhìn nhận đúng.
Nguyễn Thị Phương Thủy với công trình Gia đình và giáo dục gia đình
[69], đã phân tích lý luận về gia đình, mối quan hệ giữa gia đình và xã hội,
những nguyên nhân dẫn tới sự chuyển biến của gia đình Việt Nam trong thời
kỳ CNH, HĐH, đặc biệt tập trung làm rõ những thuận lợi, khó khăn và một số
vấn đề của gia đình hiện nay như: sự biến đổi về cấu trúc, quy mô, mối quan hệ
trong gia đình; quan hệ tình dục trước hôn nhân; bạo lực trong gia đình; ly hôn;
và đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao vai trò của gia đình
trong bối cảnh hiện nay. Đây là công trình đã cung cấp cho tác giả luận án
nhiều cơ sở lý luận.
Trong bài viết Phân công lao động theo giới trong gia đình:cách nhìn
mới cho một chủ đề cũ [50], dựa vào các nguồn tài liệu đã công bố và một số
nghiên cứu đã thực hiện, Trần Thị Vân Nương đã điểm qua lịch sử nghiên
cứu về phân công lao động theo giới trong gia đình, bình luận một số kết quả
của các nhà nghiên cứu trước đây về chủ đề này, sau cùng là luận bàn một
cách nhìn mới trong nghiên cứu phân công lao động theo giới trong gia đình
trước bối cảnh biến đổi gia đình hiện nay. Theo tác giả, khi đánh giá phân
công lao động theo giới trong gia đình cần có quan điểm lịch sử cụ thể, cần
phải thừa nhận không phải tất cả những khác biệt về giới trong phân công lao
động đều là bất hợp lý và tiêu cực, là mặt trái của mối quan hệ giới.
UNDP với công trình The women’s access to land in contemporary
Viet Nam (Tiếp cận đất đai của phụ nữ trong xã hội Việt Nam hiện nay) [84],
đã lần đầu tiên xem xét quyền tiếp cận của phụ nữ đối với đất đai ở trên địa
bàn 10 tỉnh, thuộc 8 vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam. Các kết quả
18

nghiên cứu tài liệu văn bản, tài liệu định lượng và định tính trên địa bàn 10 tỉnh
thành thuộc 8 vùng kinh tế khác nhau, ở các bối cảnh tộc người khác nhau cho
thấy, có sự khác biệt tương đối lớn trong tiếp cận đất đai của phụ nữ. Nói một
cách chung nhất, khả năng tiếp cận đất đai của nhóm phụ nữ ở các cộng đồng
thực hành chế độ phụ hệ hạn chế hơn rất nhiều so với phụ nữ ở các cộng đồng
thực hành mẫu hệ và song hệ; tương tự như vậy, phụ nữ ở khu vực thành thị có
nhiều cơ hội tiếp cận đất đai hơn so với nhóm phụ nữ nông thôn. Nghiên cứu
này, phát hiện ra 6 rào cản chính hạn chế sự tiếp cận đất đai của phụ nữ là: các
yếu tố pháp luật, thực hành dòng họ, tiếp cận dịch vụ pháp lý, di chúc, tổ hòa
giải và kiến tạo giới.
Nguyễn Thị Nga, Phạm Anh Hùng trong bài viết Lao động nữ không
được trả công ở Việt Nam [45], đã tập trung làm rõ quan niệm về lao động nữ
không được trả công trong gia đình, theo các tác giả “lao động không được trả
công trong gia đình của phụ nữ chính là những hoạt động, những công việc
trong gia đình nhằm tái sản xuất con người, tái sản xuất sức lao động, đòi hỏi
chi phí về thời gian và năng lực của người phụ nữ mà không được trả tiền
công và không tính vào thu nhập của gia đình” [45; tr67]; các tác giả phân
tích thực trạng lao động không được trả công của phụ nữ trong gia đình ở Việt
Nam hiện nay và đề ra một số giải pháp. Công trình đã giúp tác giả luận án
nhìn nhận rõ hơn về giá trị của hoạt động tái sản xuất, mà phụ nữ đang đảm
nhận trong gia đình và sự bất công trong việc đánh giá loại lao động này.
Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ Việt Nam 2014, Báo
cáo cuối cùng, do Tổng cục Thống kê và UNICEF Hà Nội, Việt Nam [76]
tiến hành nhằm thu thập các thông tin trên nhiều lĩnh vực liên quan đến chăm
sóc sức khỏe, điều kiện sống và sự phát triển của trẻ em và phụ nữ Việt Nam.
Những thông tin thu thập được góp phần đánh giá: tình hình thực hiện các
mục tiêu quốc gia và quốc tế vì trẻ em được cam kết trong Chương trình hành
động Quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012 - 2020; mục tiêu và kế hoạch hành
động vì Một thế giới phù hợp với trẻ em; báo cáo hoàn thành Mục tiêu Phát
triển Thiên niên kỷ vào năm 2015. Tác giả luận án đã kế thừa nhiều số liệu
19

của cuộc điều tra này, để phân tích thực trạng BĐG trong lao động gia đình
DTTS MNPB hiện nay.
1.1.2. Các nghiên cứu tiêu biểu về bình đẳng giới trong lao động gia
đình dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc
Trong bài Phụ nữ dân tộc và miền núi trong đời sống kinh tế - văn
hóa các dân tộc [65], Lê Ngọc Thắng đã phân tích vai trò to lớn của phụ nữ
DTTS trong đời sống kinh tế, đời sống văn hóa của dân tộc và đưa ra một số
vấn đề cần quan tâm. Theo tác giả “trong các sinh hoạt kinh tế gia đình, phụ
nữ khu vực dân tộc và miền núi có vai trò quan trọng. Họ tham gia hầu hết
các hoạt động kinh tế trồng trọt, chăn nuôi, nghề thủ công, tự quản chi tiêu
duy trì cuộc sống cho các thành viên trong gia đình”. Ngoài ra trong đời
sống văn hóa vai trò của phụ nữ cũng rất quan trọng, “trong sự tương quan
với nam giới thì nữ giới khu vực dân tộc và miền núi là người có công bảo
tồn nhiều yếu tố bản sắc văn hóa của từng dân tộc và quốc gia”. Bài báo này
giúp tác giả luận án có thêm tư liệu về vai trò của người phụ nữ DTTS trong
đời sống kinh tế xã hội các dân tộc.
Cao Bang - Bac Kan - Rural Development project: Gender Studies on
Tay Nung ethnic minorities in Cao Bang [5], trên cơ sở nghiên cứu về dân tộc
Tày, Nùng ở Cao Bằng, Đỗ Thị Bình đã chỉ ra rằng trong gia đình DTTS hiện
nay vẫn còn tồn tại khoảng cách giới tương đối lớn trên các mặt như: phân
công lao động, tiếp cận, quản lý và hưởng lợi từ các nguồn lực và quyền
quyết định các vấn đề quan trọng trong gia đình và cộng đồng. Theo tác giả,
những nguyên nhân cơ bản dẫn tới thực trạng bất bình đẳng trong gia đình
DTTS ở địa bàn nghiên cứu là đói nghèo và nhận thức thấp. Công trình này
đã giúp tác giả luận án có thêm tư liệu để so sánh sự biến đổi trong quan hệ
giới của gia đình DTTS MNPB hiện nay.
Trong công trình Phát triển kinh tế hộ gia đình miền núi trong quá
trình chuyển dịch sang cơ chế thị trường [20], Sa Trọng Đoàn đã phân tích rõ
vai trò, tính đặc thù của kinh tế hộ gia đình nông dân miền núi; luận giải
những nhân tố chi phối sự phát triển kinh tế hộ gia đình nông dân miền núi
20

trong cơ chế thị trường, cũng như xu hướng vận động chủ yếu của kinh tế hộ
gia đình nông dân miền núi nước ta; từ đó đề xuất những quan điểm, phương
hướng, biện pháp cụ thể để phát triển kinh tế hộ gia đình nông dân miền núi
Tây Bắc nước ta hiện nay. Công trình này đã gợi mở một số giải pháp có thể
phát triển kinh tế của gia đình DTTS MNPB, tạo tiền đề để thực hiện BĐG
trong lao động gia đình.
Trong bài viết Mấy vấn đề về sự phát triển của phụ nữ Hmông (từ
thực tiễn ở Mộc Châu, Sơn La và Quản Bạ, Hà Giang) [66], Lê Ngọc Thắng
đã đề cập tới vai trò người phụ nữ Hmông trên hai phương diện cơ bản là
kinh tế và một số vấn đề xã hội. Theo tác giả, bên cạnh công việc nặng nhọc
của một nữ nông dân thực sự, công việc nội trợ đã làm cho người phụ nữ
Hmông tăng cường độ lao động lên gấp nhiều lần so với nam giới, song
công việc “không tên” đó còn ít được cộng đồng quan tâm, ghi nhận, đánh
giá. Về một số vấn đề xã hội, theo tác giả xã hội cổ truyền của cộng đồng
Hmông bị chi phối bởi các quan niệm thôn xã, dòng họ, gia đình và các tập
tục hôn nhân, đến nay các tập tục đó vẫn là những quan niệm của xã hội cũ
chưa hoàn toàn bị mất đi theo những nhu cầu của cuộc sống mới, có tác
động không nhỏ đến vị thế người phụ nữ trong cuộc sống gia đình và cộng
đồng. Bài báo này, cung cấp thêm cho tác giả luận án những tư liệu về sự bất
BĐG đối với người phụ nữ Hmông, đồng thời cũng gợi mở một số giải pháp
thúc đẩy BĐG trong gia đình các dân tộc, mà luận án nghiên cứu.
Bài viết Vị thế của người phụ nữ H’Mông trong gia đình và xã hội
của Đặng Thị Hoa [27] đã phân tích vai trò, vị thế của phụ nữ Mông trong
gia đình ở các khía cạnh: phân công lao động, quyền quyết định những vấn
đề quan trọng trong gia đình. Tác giả đưa ra kết luận: dù điều kiện kinh tế đã
có những chuyển biến tích cực hơn so với trước, nhưng đa số phụ nữ Mông
hiện nay vẫn là người phụ thuộc trong gia đình, lại càng trở nên bị cách biệt
trong xã hội, không thể hòa nhập vào cộng đồng và càng không thể chủ động
tham gia công tác xã hội khi họ không có trình độ học vấn, ngôn ngữ phổ
thông. Những ràng buộc về phong tục tập quán, thói quen trong suy nghĩ,
21

cách làm của họ bị khép kín trong cộng đồng và chưa thể hòa nhập với nhịp
độ phát triển của kinh tế - xã hội trong quá trình CNH, HĐH.
Trong bài viết Một số phong tục tập quán ảnh hưởng tới chăm sóc sức
khỏe sinh sản cho phụ nữ các dân tộc tỉnh Hà Giang [24], Trần Minh Hằng
cho rằng, quan niệm “nhiều con, nhiều phúc”, tâm lý muốn có con trai đang
là trở ngại đáng kể đối với phụ nữ trong việc thực hiện quyền sinh sản, kế
hoạch hóa gia đình. Nhiều phụ nữ không có quyền tự quyết định số con do
sức ép của chồng, của gia đình chồng khao khát có con trai. Theo số liệu
của tác giả có đến 69,7% phụ nữ Mông, 47,5% phụ nữ Dao trả lời muốn có
thêm con trai, nếu đã có con gái không một chút đắn đo. Cũng theo tác giả,
tình trạng tảo hôn còn khá phổ biến ở cộng đồng DTTS, chăm sóc sức khỏe
sinh sản đang là một vấn đề nan giải với đồng bào dân tộc ở vùng sâu vùng
xa, gần 2/3 số phụ nữ có thai mà không đi khám thai lần nào, có 60,6% phụ
nữ do người nhà đỡ đẻ. Có thể thấy rằng, đây chính là một trong những yếu
tố cản trở việc thực hiện BĐG trong lao động gia đình đối với phụ nữ
DTTS ở MNPB.
Trong bài viết Vài nét về người phụ nữ trong xã hội Thái [23], trên cơ
sở phân tích vai trò của người phụ nữ Thái ở huyện Thanh Luông, tỉnh Lai
Châu trong quá trình phân công lao động, tiếp cận các nguồn lực trong gia
đình và cộng đồng, Lương Thị Thu Hằng đã đưa ra những nhận định: phụ
nữ Thái có vai trò rất lớn trong phát triển kinh tế gia đình, trong tham gia
các sinh hoạt cộng đồng, nhất là trong việc giữ gìn, lưu truyền những giá trị
văn hóa dân tộc. So với các tộc người thiểu số khác trên địa bàn, trong gia
đình người Thái có nhiều điểm tiến bộ, bình đẳng thể hiện ở quan niệm,
nhận thức cũng như phân công lao động trong gia đình và cộng đồng. Tuy
nhiên, trên thực tế trong gia đình dân tộc Thái vẫn tồn tại khoảng cách giới,
người phụ nữ chưa được đối xử tương xứng với vai trò của họ.
Nguyễn Hồng Quang với bài Gia đình dân tộc thiểu số và lao động
trẻ em [55], đã phân tích thực trạng lao động trẻ em và đưa ra nhận xét:
những công việc của các bé người Tày, người Dao và người Hmông trên các
22

địa bàn nghiên cứu rất đa dạng, từ việc không tên trong nhà đến việc sản
xuất ngoài nương rẫy, thậm chí đi làm thuê ở ngoài, bán hàng, vác hàng lậu,
nhìn chung các công việc là quá sức với các em, thời gian lao động trong gia
đình của trẻ em hầu như kéo dài trong cả ngày, các em gái vất vả hơn em
trai. Theo tác giả, việc mưu sinh kiếm sống không chỉ là nhu cầu, mà còn là
nghĩa vụ đặt lên vai đứa trẻ, nhiệm vụ này được đứa trẻ coi như là việc
đương nhiên và nghiễm nhiên chúng phải thực hiện, “nghèo đói là nguyên
nhân bất khả kháng đẩy các em vào thị trường lao động và coi lao động trẻ
em là một lẽ đương nhiên” và hậu quả của lao động trẻ em nói chung là vô
cùng to lớn, đặc biệt là tước đi nhiều quyền và cơ hội của trẻ em gái. Có thể
thấy, đây cũng chính là một rào cản việc thực hiện BĐG trong lao động gia
đình DTTS MNPB hiện nay.
Trong bài viết Vấn đề giới trong các dân tộc ít người ở Sơn La - Lai
Châu hiện nay [59], Lê Thị Quý đã đề cập tới sự bất bình đẳng đối với người
phụ nữ. Theo tác giả, người phụ nữ có vai trò quan trọng trong cả lĩnh vực sản
xuất và tái sản xuất, nhưng việc tiếp cận và kiểm soát nguồn lực cũng như lợi
ích của họ có một khoảng cách rất xa so với nam giới. Phụ nữ là người tiếp
cận nguồn lực nhiều hơn nam giới, nhưng lại ít quyền kiểm soát nguồn lực đó.
Việc hưởng thụ cũng không công bằng, vì phụ nữ thường hy sinh những lợi
ích vì chồng con. Bài báo này đã gợi mở cho tác giả luận án, nhiều vấn đề về
lý luận cũng như nguyên nhân dẫn tới bất BĐG đối với người phụ nữ DTTS
trong lao động gia đình.
Trong công trình Thu nhập, việc làm và địa vị của phụ nữ dân tộc
thiểu số trong quá trình phát triển kinh tế thị trường - những phân tích qua
lăng kính giới (nghiên cứu trường hợp Lào Cai và Lạng Sơn) [63], nhóm tác
giả đã nghiên cứu gia đình các dân tộc ở Lào Cai, Lạng Sơn ở một số khía
cạnh như: đặc điểm hộ gia đình, điều kiện sinh sống, nguồn thu và mức sống
và đưa ra kết luận so với mặt bằng chung của xã hội, phụ nữ các DTTS còn
chịu nhiều thiệt thòi, cuộc sống của họ còn gặp nhiều khó khăn. Để làm rõ
địa vị kinh tế của người phụ nữ các dân tộc, nhóm tác giả đã phân tích
23

những vấn đề như: nghề nghiệp, các điều kiện thay đổi nghề nghiệp và thu
nhập; các cơ hội tìm kiếm việc làm; vai trò cụ thể của mỗi giới trong lao
động sản xuất cũng như các công việc gia đình; việc tiếp cận và sử dụng các
nguồn lực kinh tế. Nhóm tác giả đưa ra kết luận: xét về lĩnh vực phân công
lao động, dù mang lại thu nhập nhiều hay ít cho gia đình so với người chồng,
thì vai trò của phụ nữ là rất lớn. Một cách tổng thể, có thể thấy rằng các hoạt
động kinh tế của phụ nữ đóng góp vào thu nhập của các gia đình hiện nay là
tương đương với nam giới. Trong khi đó, họ vẫn phải đảm đương các công
việc gia đình nhiều hơn, mà hầu hết các loại việc này lại tiêu tốn nhiều thời
gian, sức lực của người phụ nữ trong ngày; trong tiếp cận và sử dụng các
nguồn lực, quản lý và quyết định các công việc gia đình của phụ nữ DTTS
vẫn còn nhiều thiệt thòi. Mặc dù phụ nữ ngày càng đóng vai trò quan trọng
trong gia đình, nhưng so với nam giới, họ chưa được bình đẳng trong lao
động gia đình, chưa được nhìn nhận và đánh giá đúng vị thế trong gia đình.
Lê Ngọc Lân với bài viết Phụ nữ các dân tộc miền núi phía Bắc: về
hôn nhân, văn hóa giáo dục và chăm sóc sức khỏe [33], đã giới thiệu một số
nét về địa vị của phụ nữ các DTTS trong các lĩnh vực hôn nhân, giáo dục và
chăm sóc sức khỏe và đưa ra kết luận so với phụ nữ vùng đồng bằng, đô thị,
thì phụ nữ DTTS MNPB còn thua thiệt nhiều. Các phong tục tập quán của
mỗi dân tộc tuy có khác nhau, nhưng còn ảnh hưởng khá đậm nét, phần nào
cản trở sự phát triển và BĐG đối với người phụ nữ. Theo tác giả để nâng cao
vai trò, vị thế của phụ nữ các DTTS cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ
về kinh tế xã hội, trong đó cần quan tâm đẩy mạnh hoạt động của các đoàn
thể xã hội, mở rộng các hình thức phổ cập giáo dục, xóa nạn mù chữ, mở
rộng các hình thức tuyên truyền nhằm xóa bỏ một số tập tục lạc hậu, những
định kiến đang cản trở sự phát triển của phụ nữ. Công trình này, đã gợi ra
một số giải pháp mà luận án có thể đề cập tới.
Nguyễn Thị Thanh Tâm, Lê Việt Nga và Phan Thị Thanh Mai với đề
tài Một số vấn đề giới của các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc [64], đã
bước đầu nêu và phân tích vấn đề giới trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế,
24

lao động việc làm, giáo dục, y tế của một số DTTS vùng núi phía Bắc và dự
báo sự vận động biến đổi của vấn đề này theo xu hướng ngày càng bình
đẳng hơn. Một trong những kết luận, mà các tác giả nghiên cứu khẳng định
là: so với các vùng khác trong cả nước, MNPB vẫn là nơi mà bất BĐG còn
rất nặng nề, có nhiều thách thức trong quá trình thực hiện mục tiêu BĐG.
Mặc dù, các tác giả chưa chỉ ra được nguyên nhân, dẫn tới thực trạng bất
BĐG ở các tỉnh MNPB là gì, những thách thức nào đang cản trở quá trình
thực hiện BĐG, tuy nhiên tài liệu này đã góp phần giúp tác giả luận án, có
cái nhìn toàn diện hơn về thực trạng BĐG của đồng bào DTTS MNPB.
Báo cáo Country Social Analysis - Ethnic and Development in Viet
Nam (Phân tích xã hội về tộc người và phát triển ở Việt Nam) [98] của WB, là
kết quả nghiên cứu công phu và có giá trị của các nhà khoa học quốc tế về
những vấn đề liên quan đến quá trình phát triển các dân tộc Việt Nam. Báo
cáo đã phân tích và so sánh những khác biệt về điều kiện, cơ hội, lợi thế, cũng
như những khó khăn, trở ngại trong quá trình phát triển của dân tộc đa số
(Kinh) và một số DTTS. Trên cơ sở đó, báo cáo chỉ ra các nhân tố xã hội,
chính trị, văn hóa, tác động ảnh hưởng như thế nào tới cơ hội và kìm hãm sự
phát triển hội nhập và bình đẳng. Nghiên cứu cũng phát hiện một số vấn đề
mà người DTTS phải đối mặt và nhấn mạnh tới nhóm dễ bị tổn thương đó là
phụ nữ và trẻ em gái. Báo cáo có đưa ra kết luận: bên cạnh những lợi ích mà
phụ nữ và nam giới cùng được hưởng từ thành quả của phát triển kinh tế, vẫn
còn bằng chứng cho thấy sự tồn tại dai dẳng của hiện tượng bất bình đẳng,
nhưng báo cáo chưa đưa kiến nghị nhằm khắc phục vấn đề này.
Phan Thị Thanh Mai với bài viết Thực trạng và vai trò của phụ nữ dân
tộc thiểu số các tỉnh miền núi phía Bắc trong chăm sóc sức khỏe sinh sản
[39], đã phân tích và tổng hợp các kết quả nghiên cứu đã công bố, nhằm tìm
hiểu và đưa ra bức tranh chung về thực trạng, vai trò của phụ nữ DTTS các
tỉnh MNPB trong chăm sóc sức khỏe sinh sản. Theo tác giả, đa số phụ nữ
DTTS các tỉnh MNPB còn chưa có ý thức rõ rệt về chăm sóc sức khỏe nói
chung và chăm sóc sức khỏe sinh sản nói riêng, họ chưa quen với việc sử
25

dụng dịch vụ và các hình thức chăm sóc sức khỏe của xã hội hiện đại, mặc dù
họ lại là người đảm nhận trách nhiệm chính trong kế hoạch hóa gia đình, là
trụ cột trong việc nuôi dưỡng và chăm sóc con cái. Tuy chịu trách nhiệm
chính trong việc chăm sóc và nuôi dạy con, song không vì thế mà địa vị
của người phụ nữ trong gia đình được nâng cao, mà ngược lại rất thấp, họ
hầu như chỉ ở nhà trông con và làm các công việc gia đình, mọi sinh hoạt
bên ngoài xã hội dành cho người chồng. Tác giả đã chỉ ra rằng chính tình
trạng kinh tế nghèo khó, trình độ học vấn thấp, sự hạn chế trong nhận thức
của phụ nữ DTTS, là những trở ngại trong việc tiếp cận với các biện pháp
và các phương tiện chăm sóc sức khỏe sinh sản hiện đại, bên cạnh đó, một
số phong tục tập quán lạc hậu của cộng đồng, cũng cản trở người phụ nữ
DTTS nắm bắt và thực hành việc chăm sóc sức khỏe sinh sản một cách an
toàn và khoa học.
Báo cáo hiện trạng bất bình đẳng giới trong cộng đồng người dân tộc
thiểu số [51], đã phân tích thực trạng bất BĐG trong gia đình cộng đồng
DTTS ở khía cạnh: phân công lao động, đóng góp kinh tế của nam nữ, tiếp
cận và kiểm soát nguồn lực, “đàn ông biết nhiều hơn mình”; ngoài ra còn
phân tích bất BĐG theo lĩnh vực: giáo dục, y tế, lao động việc làm và một số
vấn đề khác. Từ đó đưa ra một số khuyến nghị hướng tới việc xây dựng chính
sách “đặc thù”, để tăng cường BĐG và tăng tính hiệu quả của các chính sách,
chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo. Ngoài ra, nghiên cứu này
còn xem xét mối quan hệ tương tác giữa những chính sách phát triển kinh tế
vĩ mô, những thiết chế văn hóa truyền thống và xu thế của quá trình hội nhập
đối với vai trò, vị trí và tiếng nói của nam giới và nữ giới.
Trong Báo cáo đánh giá tiếp cận và sử dụng các dịch vụ pháp lý của
phụ nữ dân tộc thiểu số [96], các nhà nghiên cứu của ISEE đã rà soát tài liệu
về các dịch vụ pháp lý và khả năng tiếp cận và các dịch vụ này của người
DTTS tại Việt Nam, qua đó chỉ ra các rào cản khiến cho đồng bào DTTS ít có
khả năng tiếp cận với dịch vụ pháp lý. Đặc biệt trong phần một, báo cáo đã
đánh giá tình trạng bất BĐG trong các nhóm DTTS dựa trên 8 lĩnh vực của
26

Luật BĐG và đưa ra nhận định bất BĐG chính là nguyên nhân sâu sa dẫn tới
tình trạng đói nghèo của DTTS.
Giới, tăng quyền và phát triển: quan hệ giới từ góc nhìn của người dân
tộc thiểu số ở Việt Nam [97], trong chương 2 của công trình nhóm tác giả đã
đề cập tới quan niệm và quan hệ giới của người DTTS ở các khía cạnh: vai trò
giới và phân công lao động; tiếp cận và thu nhập; tham gia và ra quyết định;
chương 3 đề cập tới vấn đề tăng quyền từ góc nhìn tính tự quyết và vị thế của
phụ nữ trong tập quán truyền thống, xã hội đương đại và lý giải cơ sở văn hóa
của những quyết định đó. Tài liệu này đã giúp tác giả luận án có cái nhìn về
vấn đề giới của các DTTS MNPB dưới góc độ văn hóa tộc người.
Trong công trình Quan hệ giới trong gia đình dân tộc thiểu số miền núi
phía Bắc hiện nay [22], từ việc phân tích mối quan hệ giữa phụ nữ và nam giới
trong các lĩnh vực của đời sống gia đình, Nguyễn Thị Hà đã chỉ ra thực trạng,
xu hướng biến đổi của quan hệ giới trong gia đình DTTSMNPB hiện nay. Theo
tác giả so với trước đây, hiện nay gia đình DTTS vùng núi phía Bắc mối quan
hệ giới được xây dựng theo hướng bình đẳng hơn, nhất là trong phân công lao
động trong gia đình, tuy nhiên bất bình đẳng giữa vợ, chồng, giữa trẻ em trai và
trẻ em gái trên nhiều mặt của đời sống gia đình còn phổ biến và thiệt thòi vẫn
nghiêng về phía phụ nữ và trẻ em gái. Từ thực trạng, tác giả đã đưa ra những
quan điểm và giải pháp chủ yếu để xây dựng quan hệ giới bình đẳng, tiến bộ
trong gia đình DTTS ở MNPB. Tài liệu này đã gợi mở ra nhiều vấn đề thực
tiễn cho tác giả luận án triển khai.
Phạm Thu Hiền với bài viết Tác động của thiên tai và biến đổi khí hậu
đối với cộng đồng dân tộc thiểu số phía Bắc - nhìn từ lăng kính giới [26], đã
chỉ ra tác động của thiên tai và biến đổi khí hậu đối với cuộc sống của người
dân đặc biệt với người phụ nữ dưới 3 khía cạnh: sinh kế của người dân, nhất
là của phụ nữ bị ảnh hưởng mạnh từ những tác động của thiên tai và biến đổi
khí hậu; thời gian lao động, gánh nặng công việc gia đình của phụ nữ tăng
lên; cuộc sống gia đình, sức khỏe của phụ nữ và trẻ em bị ảnh hưởng nhiều
hơn bởi thiên tai và biến đổi khí hậu; ngoài ra nghiên cứu cũng chỉ rõ vai trò
27

và những đóng góp của phụ nữ trong nỗ lực giảm rủi ro và thích ứng với biến
đổi khí hậu.
Trong bài Gia đình người Tày ở Việt Nam - truyền thống và đổi mới
[25], dựa vào các công trình nghiên cứu về người Tày, Bế Văn Hậu đã phân
tích một số nét biến đổi về chế độ hôn nhân - gia đình của người Tày ở Việt
Nam. Tác giả cho rằng, trong những thập niên gần đây, gia đình của người
Tày với đặc trưng cơ bản là tính chất gia trưởng phụ quyền, đã và đang có sự
biến đổi khá mạnh mẽ, sâu rộng thể hiện trên nhiều phương diện từ chế độ
hôn nhân đến hình thái, quy mô và cơ cấu gia đình, từ vị thế vai trò của các
thành viên đến sự phân công lao động, cũng như các khuôn mẫu ứng xử khác
trong gia đình. Sự biến đổi này diễn ra ở cả ba lĩnh vực của đời sống gia đình
- đó là đời sống vật chất, văn hóa tinh thần và mối quan hệ giữa các thành
viên. Sự biến đổi này cũng đang mang đến cho gia đình người Tày nhiều sự
thay đổi tích cực, đã có sự bình đẳng hơn giữa các thành viên, quyền bình
đẳng và tự do cá nhân đã được tôn trọng, nên mỗi thành viên đều phát huy
được năng lực sáng tạo của bản thân trong lao động sản xuất, trong việc học
hành cũng như trong các sinh hoạt xã hội khác.
Lê Tuấn Ngọc với bài viết Phát triển nguồn lực con người trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các tỉnh miền núi phía Bắc hiện nay
[48], đã phân tích thực trạng nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở các tỉnh MNPB hiện nay. Từ đó, tác giả đưa ra một số giải
pháp nhằm phát triển nguồn lực cho khu vực này, cụ thể như sau: xây dựng
chiến lược tổng thể phát triển nguồn lực con người phục vụ cho sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các tỉnh trong khu vực; phát triển giáo dục -
đào tạo, coi trọng đẩy mạnh và đổi mới công tác nghề; có chính sách hợp lý
về tuyển dụng, sử dụng nguồn lực con người; đẩy mạnh phát triển kinh tế đi
đôi với thực hiện chính sách an sinh xã hội, tạo tiền đề vật chất cho phát triển
nguồn lực con người. Những giải pháp tác giả đưa ra, đã gợi mở cho luận án
hướng triển khai một số giải pháp để phát triển nguồn nhân lực của đồng bào
28

DTTS MNPB, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội tạo tiền đề vật chất
để thực hiện BĐG trong lao động gia đình.

1.2. GIÁ TRỊ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ TỔNG QUAN VÀ NHỮNG NỘI
DUNG LUẬN ÁN CẦN LÀM SÁNG TỎ
1.2.1. Những giá trị của các công trình đã tổng quan
Một là, những công trình nghiên cứu trên là những tài liệu quý cả về
lý luận và thực tiễn, để luận án tham chiếu trong quá trình triển khai mục
tiêu và nhiệm vụ của mình. Các công trình đã phần nào cho thấy tính cấp
thiết của việc nghiên cứu vấn đề BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB
hiện nay, cung cấp cho tác giả cơ sở lý luận và một phần cơ sở thực tiễn, gợi
mở một số vấn đề đặt ra và giải pháp nhằm thúc đẩy BĐG trong lao động gia
đình DTTS MNPB.
Hai là, một số công trình đã phân tích làm rõ vị trí, vai trò của phụ nữ
trong phát triển kinh tế xã hội, đã luận giải và làm sáng tỏ ở mức độ nhất
định vấn đề BĐG trong lao động gia đình như: phân công lao động, tiếp cận,
hưởng lợi từ các nguồn lực, quyền quyết định và thụ hưởng lợi ích. Đặc biệt,
tác giả của nhiều công trình đã tập trung nghiên cứu, nhấn mạnh hơn đối với
phụ nữ DTTS MNPB.
Ba là, một số công trình đã đưa ra cách đánh giá, nhìn nhận mới về
một loại lao động trong gia đình (lao động tái sản xuất), đề xuất cách lượng
hóa giá trị của lao động tái sản xuất, phân tích đóng góp của lao động tái sản
xuất vào kinh tế quốc dân.
Bốn là, một số công trình đã phân tích và chỉ ra một số rào cản sự phát
triển phụ nữ DTTS, rào cản thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS ở
một số khía cạnh như: điều kiện kinh tế khó khăn, phong tục tập quán lạc
hậu, trình độ dân trí thấp...
Năm là, một số công trình đã nêu ra những biến đổi trong gia đình
DTTS MNPB như: cơ cấu gia đình, quan hệ trong gia đình, quyền quyết định,
phân công lao động, trình độ văn hóa và hôn nhân gia đình; đã phân tích mối
29

quan hệ giữa trình độ học vấn, nghề nghiệp, kết cấu gia đình, thu nhập với
việc thực hiện BĐG trong lao động gia đình.
Sáu là, một số công trình đã tổng kết quá trình đổi mới, phát triển của
miền núi, đánh giá những thành tựu, hạn chế của quá trình đó, đồng thời nêu
quan điểm định hướng và nguyên tắc phát triển miền núi và vùng DTTS; đề
cập tới sự phân hoá giàu nghèo ở các tỉnh MNPB, mức độ ảnh hưởng của nó
tới các mặt của đời sống xã hội nói chung, trong đó bao hàm cả sự tác động
đối với BĐG trong lao động gia đình DTTS.
Bảy là, một số công trình đã tập trung phân tích mối liên hệ giữa giới,
nghèo đói và chính sách phát triển, lồng ghép giới vào chính sách vĩ mô, cách
thức giải quyết nghèo đói từ góc độ giới, bất bình đẳng. Từ đó, nêu trách
nhiệm của các nhà hoạch định chính sách cũng như cộng đồng về thực hiện
mục tiêu Thiên niên kỷ.
1.2.2. Những nội dung luận án cần tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ
Tuy có nhiều công trình nghiên cứu về BĐG, vai trò của phụ nữ trong
gia đình, sự biến đổi quan hệ giới trong gia đình, nhưng đều chỉ nghiên cứu
khía cạnh nào đó của lao động gia đình, mà chưa nghiên cứu một cách đầy đủ
toàn diện về BĐG trong lao động gia đình. Một số luận cứ khoa học, thực tiễn
về ý nghĩa của việc thực hiện BĐG trong lao động gia đình nói chung và gia
đình DTTSMNPB nói riêng, một số yếu tố cản trở người phụ nữ DTTS phát
huy vai trò của mình, thực hiện BĐG còn chưa được đề cập.
Hiện nay, chưa có tác giả nào, công trình nào nghiên cứu một cách
chuyên sâu, có hệ thống dưới góc độ chính trị - xã hội về BĐG trong lao động
gia đình DTTS MNPB. Đây là một trong những khoảng trống cần được đầu tư
nghiên cứu, nhằm thực hiện BĐG trong gia đình nói chung và DTTS nói riêng,
một cách đầy đủ hơn.
Từ những giá trị của các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài, từ
góc độ tiếp cận của chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, từ sự tích lũy
trong nghiên cứu của cá nhân, tác giả sẽ tập trung vào nghiên cứu, luận chứng
và giải quyết một số vấn đề cơ bản sau:
30

Một là, khái quát cơ sở lý luận và thực tiễn về sự cần thiết thực hiện BĐG
trong lao động gia đình DTTS MNPB, trong đó tập trung làm rõ:
- Lý luận về lao động gia đình, lao động gia đình DTTS MNPB, nội dung
biểu hiện của BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB hiện nay.
- Vai trò của BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB đối với việc phát
triển kinh tế - xã hội ở MNPB.
- Sự tác động của yếu tố tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội, chính sách xã
hội tới thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB hiện nay.
Hai là, từ những số liệu thực tế, luận án phân tích thực trạng BĐG trong
lao động gia đình DTTS MNPB, ở các nội dung:
- Hoạt động sản xuất.
- Hoạt động tái sản xuất.
- Hoạt động cộng đồng.
Ba là, nghiên cứu, làm rõ những vấn đề đặt ra, cụ thể là những mâu thuẫn
trong việc thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB hiện nay.
Bốn là, đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm thúc
đẩy BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB.
31

Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI
PHÍA BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH VÀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG
GIA ĐÌNH
2.1.1. Quan niệm về lao động gia đình
Trong lời tựa viết cho lần xuất bản thứ nhất cuốn sách Nguồn gốc của
gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước năm 1884, Ph.Ănghen viết:
Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử, quy đến
cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp... Một mặt là
sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực phẩm, quần áo, nhà ở và những
công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác là sự sản
xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống [38, tr.44].
Từ quan điểm này của Ph. Ănghen, có thể thấy để tồn tại và phát
triển, mỗi gia đình (tế bào của xã hội) phải tiến hành hai loại lao động, đó
là lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất và lao động “sản xuất ra bản
thân con người”.
Theo Trần Vân Anh và Lê Ngọc Hùng, có thể chia lao động gia đình
thành hai loại: một loại gồm những hoạt động kinh tế tạo ra sản phẩm hàng
hóa hay thu nhập; một loại lao động gồm những công việc không trực tiếp tạo
ra hàng hóa hay thu nhập bằng tiền mà phụ nữ thường đảm đương trong gia
đình [2, tr.219].
Nguyễn Linh Khiếu cho rằng: đời sống gia đình có rất nhiều hoạt động
phong phú và đa dạng khác nhau. Nhưng nhìn chung, các hoạt động đó
thường xoay quanh 3 lĩnh vực sinh sống chủ yếu của gia đình, đó là: sản xuất,
tái sản xuất và hoạt động cộng đồng [30, tr.220].
32

Dương Thị Minh thì nhận định rằng:


Dù trong điều kiện nào, dưới bất cứ hình thức nào, gia đình cũng
phải đảm bảo những nhu cầu sinh hoạt vật chất và tinh thần của
các thành viên. Để thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu ấy, gia đình
đồng thời tiến hành hai loại lao động chủ yếu: các lao động nhằm
trực tiếp tạo ra của cải vật chất và các loại lao động đảm bảo tái
sản xuất ra sức lao động [43, tr.29-30].
Theo giáo sư Lê Thi:
Lao động gia đình là một gánh nặng trên vai người phụ nữ từ xa
xưa đến nay. Nó làm tiêu hao sức lực của phụ nữ, làm cho người
phụ nữ không còn thời gian nghỉ ngơi, hưởng thụ văn hóa nghệ
thuật, nâng cao trình độ. Mặc dù hết sức vất vả, lao động gia đình
vẫn chưa được xã hội và gia đình nhìn nhận đúng. Đó là loại lao
động có giá trị tái sản xuất sức lao động của con người, nhưng
chưa được đánh giá và bù đắp [67, tr.28].
Nguyễn Hữu Minh cho rằng:
Công việc trong gia đình thường được chia thành một số loại như
nội trợ, sản xuất kinh doanh hộ gia đình, chăm sóc thành viên
trong gia đình (con nhỏ, người già, người đau ốm), giao tiếp (cụ
thể như tiếp khách đến, đại diện gia đình giao tiếp với chính
quyền). Các nhóm công việc này, đến lượt mình lại được phân ra
chi tiết hơn. Chẳng hạn, công việc nội trợ thường được hiểu là
công việc tái sản xuất liên quan đến việc chăm sóc và duy trì hộ
gia đình như: nấu ăn, giặt giũ, mua thức ăn, dọn dẹp nhà cửa...
Công việc sản xuất, kinh doanh cũng được chia ra thành các loại
hình trồng trọt, chăn nuôi, lâm, ngư nghiệp, dịch vụ [44, tr.44].
Như vậy, có nhiều quan điểm khác nhau về lao động gia đình, có quan
điểm cho rằng lao động gia đình nghĩa là làm công việc nội trợ trong gia đình,
có quan điểm lại cho rằng lao động gia đình không chỉ là làm công việc nội
33

trợ, mà còn gồm nhiều loại công việc khác nhau trong gia đình như hoạt động
sản xuất, tham gia hoạt động cộng đồng.
Tác giả luận án tiếp cận khái niệm lao động gia đình với nội hàm sau
đây: Lao động gia đình là hoạt động có mục đích của các thành viên trong
gia đình, nhằm thực hiện các chức năng của gia đình, để đảm bảo cho sự tồn
tại và phát triển ổn định của gia đình. Lao động gia đình gồm: hoạt động sản
xuất, hoạt động tái sản xuất và hoạt động cộng đồng.
Hoạt động sản xuất: là loại hoạt động được trả công hay tạo ra thu
nhập, liên quan đến sản xuất hàng hóa, dịch vụ, trao đổi hàng hóa và mua bán,
làm ruộng, làm thuê, tự tổ chức công việc.
Hoạt động tái sản xuất: là những hoạt động liên quan đến việc chăm sóc
và duy trì gia đình như: nấu ăn, lấy nước, lấy củi, đi chợ, trông nom nhà cửa,
chăm sóc sức khỏe cho gia đình…Tái sản xuất là loại hoạt động thiết yếu để
duy trì cuộc sống của con người, song lại thường khó quy đổi thành giá trị
kinh tế, vì vậy vẫn được coi là loại lao động không được trả công, là công
việc dành riêng cho phụ nữ.
Hoạt động cộng đồng: là những công việc thể hiện quan hệ của gia đình
với cộng đồng và thiết chế xã hội. Người thực hiện những công việc này là
người đại diện cho gia đình giao tiếp và giải quyết các vấn đề quan trọng của
gia đình với chính quyền và cộng đồng. Hoạt động cộng đồng bao gồm nhiều
nội dung khác nhau như: tham gia các lễ hội tại địa bàn sinh sống, họp thôn
bản, tập huấn, vệ sinh thôn xóm, làm đường, hiếu hỉ....
2.1.2. Quan niệm về bình đẳng giới trong lao động gia đình
Bình đẳng giới là một khái niệm hàm chứa ý nghĩa xã hội to lớn,
khái niệm này ra đời là kết quả của phong trào phụ nữ và chủ nghĩa nữ
quyền thế giới. Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về BĐG, luận án
tiếp cận quan điểm về BĐG theo Luật BĐG của Việt Nam: BĐG là việc
nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng
34

lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như
nhau về thành quả của sự phát triển đó [56, tr.9].
Từ khái niệm lao động gia đình và BĐG có thể hiểu: BĐG trong lao động
gia đình là việc nam giới và nữ giới trong gia đình có vị trí, vai trò ngang nhau,
có cơ hội, điều kiện tham gia vào mọi hoạt động sản xuất, hoạt động tái sản
xuất, hoạt động cộng đồng, để được phát huy hết khả năng, năng lực của mình,
nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển ổn định của gia đình, được hưởng lợi
như nhau từ kết quả của sự đóng góp đó.
Để làm rõ nội hàm khái niệm BĐG trong lao động gia đình, trong luận
án tác giả sẽ dựa vào một số công cụ phân tích giới sau đây:
Thứ nhất, phân công lao động gia đình theo giới: Tìm hiểu phân
công lao động trên cơ sở giới là một cách thức đánh giá tình trạng BĐG tại
một cộng đồng cụ thể, vì nó cho biết các hoạt động của nam và nữ khác
nhau như thế nào trong hoạt động sản xuất, hoạt động tái sản xuất và hoạt
động cộng đồng.
Thứ hai, tiếp cận các nguồn lực: Tiếp cận là nói đến khả năng sử dụng
các nguồn lực, nam giới và nữ giới thường có các cấp độ khác nhau về tiếp cận.
Các nguồn lực đó có thể là đất đai, máy móc, công nghệ, việc làm, vốn, giáo
dục và đào tạo, trợ giúp kỹ thuật, các cơ hội ra quyết định, thông tin, lợi ích,
thu nhập. Tiếp cận nguồn lực là một trong những các phương pháp phân tích
giới, cho phép phát hiện những chênh lệch bất hợp lý về phân bố nguồn lực từ
góc độ giới
Thứ ba, ra quyết định trong gia đình: Đó là việc người chồng hay
người vợ quyết định cho các vấn đề lớn nhỏ trong gia đình? quyết định ở mức
độ nào (tư vấn, quyết định ban đầu và quyết định cuối cùng)? Ai sẽ chịu tác
động của những quyết định này?
Thứ tư, thụ hưởng các lợi ích: Với sự đóng góp cho sự phát triển của
gia đình, liệu nam và nữ thụ hưởng các lợi ích có tương xứng với sự đóng góp
đó của mình không?
35

2.2. LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC VÀ
BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN
NÚI PHÍA BẮC
2.2.1. Đặc điểm của lao động gia đình dân tộc thiểu số miền núi
phía Bắc
Lao động gia đình DTTS MNPB là hoạt động có mục đích của các
thành viên trong gia đình DTTS MNPB, nhằm thực hiện các chức năng của
gia đình, để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển ổn định của gia đình và xã
hội. Lao động gia đình DTTS MNPB có những đặc điểm riêng như sau:
2.2.1.1. Về hoạt động sản xuất
MNPB là vùng có tỷ lệ hộ dân hoạt động ngành sản xuất kinh doanh
dịch vụ phi nông, lâm nghiệp, thủy sản rất thấp, trong đó vùng Tây Bắc là
thấp nhất cả nước (18,4%) [71, tr.382]. Lao động sản xuất của gia đình DTTS
MNPB, có điểm khác biệt so với các vùng khác trong cả nước là chủ yếu diễn
ra trong lĩnh vực nông nghiệp, ngoài ra còn có một số hoạt động sinh kế bổ
trợ như: làm nghề thủ công, săn bắn hái lượm, buôn bán nhỏ, làm thuê.
Xét theo tập quán sinh sống và canh tác của các DTTS, có thể chia
thành một số nhóm: dân tộc Tày, Nùng, Thái... chủ yếu cư trú ở vùng đồi núi
thấp, thung lũng, khe dọc; dân tộc Dao, Mông, Khơ Mú, La Ha, La Hủ, Mảng
chủ yếu cư trú ở vùng lưng chừng núi (vùng giữa) và núi cao (vùng cao).
Những dân tộc sinh sống vùng thấp, vùng thung lũng sớm biết trồng lúa nước,
biết áp dụng các biện pháp thủy lợi như đào mương, bắc máng, đắp phai, làm
cọn lấy nước tưới ruộng, biết kết hợp làm nương trồng lúa, ngô, hoa màu;
sống quần cư đông đúc thành bản làng có khi tới hàng trăm nóc nhà. Những
dân tộc có tập quán sinh sống ở lưng chừng núi hoặc núi cao có tập quán làm
nương, làm ruộng (bậc thang), trồng ngô, lúa, lúa mạch, cây ăn quả... thường
sống phân tán, rải rác, ít xen kẽ với các dân tộc khác, sống thành từng bản có
vài chục nóc nhà hoặc chỉ trên dưới chục nóc nhà. Trong đó có một số nhóm
dân tộc còn tồn tại cách thức canh tác lạc hậu: du canh du cư, phát rừng, đốt
nương làm rẫy, chọc lỗ, tra hạt, chăn nuôi theo phương thức thả rông như một
36

bộ phận dân tộc Cống, La Ha, La Hủ, Xinh Mun... sinh sống ở những vùng
sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
So với các vùng DTTS khác trong cả nước, thì MNPB chỉ tồn tại loại
hình gia đình phụ hệ, nên tính phụ quyền được phản ánh rõ nét, trong gia đình
người nam giới (người chồng) có vai trò chi phối và quyết định mọi vấn đề,
điều khiển mọi công việc từ sản xuất, sinh hoạt đến cúng bái, quan hệ với bên
ngoài, tham gia giải quyết những vấn đề chung của thôn bản... vị thế vai trò
và tiếng nói, cũng như quyền quyết định của nữ giới rất thấp kém, khiến họ về
cơ bản phụ thuộc vào nam giới.
Gia đình các DTTS MNPB đều coi trọng con trai hơn con gái, con trai
vừa là người thờ tổ tiên, lưu truyền huyết thống, vừa là người có trách nhiệm
chăm sóc, nuôi dưỡng bố mẹ lúc về già. Tài sản bố mẹ thường chia đều cho
các con trai, con gái không được hưởng trừ khi cha mẹ cho làm của hồi môn.
Quan niệm cần có con trai của dân tộc Tày, Thái, La Hủ, không quá nặng nề
giống như dân tộc Mông. Với các dân tộc này, nhà nào không có con trai, thì
sẽ lấy rể ở đời cho con gái, con rể ở đời không phải đổi họ, nhưng các con
phải theo họ mẹ và được hưởng gia sản, thờ cúng tổ tiên nhà mẹ. Chính luật
tục này, đã cản trở phụ nữ DTTS được tiếp cận nguồn lực sản xuất, hưởng thụ
lợi ích của gia đình và là một trong những nguyên nhân dẫn tới bất BĐG
trong hoạt động sản xuất ở MNPN hiện nay.
2.2.1.2. Về hoạt động tái sản xuất
Hiện nay ở cả 4 dân tộc (Thái, Tày, Mông, La Hủ) đều tồn tại hai hình
thức gia đình phổ biến là: gia đình nhỏ hai thế hệ gồm bố mẹ và con cái chưa
đến tuổi thành niên và gia đình lớn gồm hai ba cặp vợ chồng cùng sinh sống.
Không giống như người Mông, hầu như người Tày, Thái, La Hủ không sống
theo gia đình lớn, nhiều đời cùng chung sống trong một mái nhà, mà gia đình
nhỏ phụ quyền là loại hình chủ yếu, bao gồm vợ chồng và con cái, tuy nhiên
cũng có những gia đình gồm 3 thế hệ. Dù là hai hay nhiều thế thệ cùng chung
sống, thì như ta biết gia đình có quy mô lớn với số lượng thành viên đông là
đặc trưng trước hết cho cư dân nông thôn và các DTTS. Hơn nữa, ở những
37

dân tộc phụ hệ như Thái, Tày, Mông, La Hủ, do xuất phát từ tư tưởng trọng
nam khinh nữ, nên các gia đình càng nhiều con hơn. Theo số liệu thống kê, tỷ
suất sinh của vùng MNPB là cao nhất nước 2,56 con/phụ nữ (cả nước là 2,09
con/phụ nữ), cho nên số người bình quân trong một hộ gia đình nông thôn của
MNPB cũng cao nhất nước (4,1 người/hộ), có 25,9% hộ có từ 5 - 6 người, 7%
hộ có từ 7 người [73, tr.1]. Trong khi các dịch vụ an sinh xã hội của vùng chưa
phát triển nhiều so với các vùng khác trong cả nước, đặc biệt là ở vùng sâu,
vùng xa. Nếu hệ thống trường học, nhà trẻ, mẫu giáo là một yếu tố góp phần
làm giảm gánh nặng công việc cho phụ nữ, thì hiện nay giáo dục mầm non ở
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS MNPB còn gặp nhiều khó khăn.
Nhiều thôn, bản cách xa trung tâm xã chưa có lớp mẫu giáo, do đó nhiều trẻ
em trong độ tuổi mầm non không được đến lớp, hơn nữa việc thu hút các cháu
đi học mẫu giáo cũng rất khó khăn vì học sinh thì nhỏ, nhiều gia đình cuộc
sống còn khó khăn, cha mẹ mải lo kiếm cái ăn, cái mặc. Vào ngày mùa, người
dân đi làm nương rẫy từ sáng tới tối hoặc mất vài ngày mới về, nếu cho con đi
học thì phải bỏ việc ở nương rẫy, nên họ thường mang theo con lên rẫy. Việc
các cháu nhỏ không đi nhà trẻ, mẫu giáo, không những làm cho người phụ nữ
mất nhiều thời gian chăm sóc con cái, mà còn ảnh hưởng lớn đến tương lai của
trẻ em gái, vì trẻ em gái thường phải ở nhà trông em nên không có thời gian
học bài. Với những đặc điểm này có thể thấy, khối lượng công việc liên quan
tới hoạt động tái sản xuất, mà người phụ nữ DTTS MNPB phải đảm nhận là rất
lớn, tốn nhiều thời gian và sức lực.
2.2.1.3. Về hoạt động cộng đồng
Gia đình DTTS là tế bào của xã hội các dân tộc, mang đậm tính truyền
thống, có bổn phận thực hiện nhiều chức năng quan trọng, có ảnh hưởng trực
tiếp đến sự phát triển ý thức tộc người. Mặc dù nhiều nhóm tộc người cùng cư
trú đan xen trong một vùng hay một xã, nhưng ở phạm vi một bản làng,
thường bao gồm những người cùng trong một nhóm dân tộc và rất nhiều
trường hợp họ là những người ruột thịt, nên nhiều gia đình trong bản làng có
quan hệ huyết thống ruột thịt với nhau. Họ sống gắn kết chặt chẽ, trong đó
38

mỗi cá nhân là một mắt nối, họ gắn kết với nhau không chỉ vì có quan hệ ruột
thịt láng giềng, mà còn bởi sinh hoạt văn hóa và tôn giáo, đặc biệt là do các
hoạt động sinh kế. Hoạt động sinh kế nương rẫy ở vùng cao, cũng như các
hoạt động trồng lúa nước của một số nhóm cư trú vùng thấp đều gắn với thiên
nhiên, cây cỏ, phụ thuộc vào thời tiết, đòi hỏi có sức lao động tập trung vào
vụ mùa (thu hoạch)… tất cả đã buộc cộng đồng phải cố kết và dựa vào nhau
để sinh tồn. Sự gắn bó này giúp họ có thể chia sẻ và phát triển, tích lũy những
tri thức bản địa và kinh nghiệm lao động sản xuất với nhau, khiến mối quan
hệ cộng đồng gắn bó hơn.
Trong gia đình truyền thống của DTTS MNPB, có rất nhiều quy định
khắt khe đối với phụ nữ. Trong gia đình dân tộc Mông, con dâu khi bước chân
về nhà chồng, thì đã trở thành ‘‘ma’’ của dòng họ nhà chồng, nên con dâu
vĩnh viễn không được phép đi lấy chồng dòng họ khác. Con dâu không được
phép ngồi ăn chung mâm với bố chồng, hoặc không được ăn chung bát thức
ăn, chung nồi với bố chồng. Đối với người Tày, giữa con dâu và các bậc trên
có sự cách biệt nghiêm ngặt như: không được ngồi ngang hàng, ăn cùng mâm,
ngồi cùng chiếu với bố chồng và anh chồng, không được tới chỗ ngủ và nơi
dành riêng cho bố, chú, bác, anh chồng... Với người Thái, riêng bàn thờ con
dâu không được phép đến. Ở trong nhà, con dâu và khách nữ không được ngồi
cạnh cửa sổ, vì chỗ đó chỉ dành cho các cụ tuổi cao và nam giới, đặc biệt con
dâu về nhà chồng chỉ được ngồi trên ghế mang từ nhà bố mẹ đẻ về, không được
ngồi vào các chiếc ghế nhà chồng. Có thể thấy, trong gia đình DTTS MNPB
truyền thống có nhiều yếu tố cản trở phụ nữ tiếp cận nguồn lực, phát huy vai
trò của mình trong hoạt động cộng đồng.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, đời sống gia đình
DTTS MNPB đang diễn ra những thay đổi đáng kể về vai trò và vị trí của
người chủ gia đình, ở một mức độ nhất định đang bước đầu xóa dần sự bất
bình đẳng giữa nam và nữ, tạo ra sự tôn trọng lẫn nhau giữa vợ và chồng, giữa
anh em, cha con trong đời sống gia đình cũng như xã hội. Các việc như: làm
nhà mới, cưới xin, ma chay... đều được đưa ra bàn bạc thảo luận giữa các
39

thành viên trưởng thành của gia đình (không phân biệt nam, nữ, dâu, rể...),
nam giới đã tham gia vào nhiều công việc mà trước đây được coi là việc của
phụ nữ như: thu dọn nhà cửa, giặt giũ nấu nướng, lợn gà, tùy theo thời gian và
điều kiện, việc tổ chức đời sống trong gia đình cũng không như trước nữa.
Với nàng dâu trong nhiều DTTS ở MNPB trước đây còn có sự cách biệt
nghiêm ngặt, như không được phép ăn cùng mâm, ngồi cùng chiếu với bố
chồng và anh chồng. Ngày nay tục lệ này hầu như đã đi vào dĩ vãng, tuy
nhiên ở nơi này nơi khác người ta vẫn bảo lưu nó ở một chừng mực nhất định.
Những quan hệ mới về chất giữa các thế hệ ông bà, cha mẹ và con cái
được xác lập, quan hệ giữa vợ chồng theo xu hướng bình đẳng hơn, các
thành viên chung sống với nhau hòa thuận, vui vẻ, ít xảy ra những xung
khắc nghiêm trọng trong gia đình. Sự phát triển và biến đổi của những mỗi
quan hệ hôn nhân và gia đình, có liên quan chặt chẽ với sự thay đổi về địa vị
của người phụ nữ trong gia đình và xã hội, tác động lớn đến thực hiện BĐG
trong lao động gia đình.
2.2.2. Nội dung biểu hiện bình đẳng giới trong lao động gia đình
dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc
Theo tác giả luận án: BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB là
việc nam giới và nữ giới trong gia đình DTTS MNPB có vị trí, vai trò ngang
nhau, có cơ hội, điều kiện để tham gia vào mọi hoạt động sản xuất, hoạt động
tái sản xuất, hoạt động cộng đồng, để được phát huy hết khả năng, năng lực
của mình nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển ổn định của gia đình và
được hưởng lợi như nhau từ kết quả của sự đóng góp đó.
Bình đẳng giới trong lao động gia đình DTTS MNPB có nội dung biểu
hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, BĐG trong hoạt động sản xuất của gia đình DTTS MNPB
biểu hiện ở các khía cạnh sau:
+ Phân công lao động giữa vợ và chồng trong: nông nghiệp, nghề thủ
công, buôn bán hàng hóa và dịch vụ, làm thuê (bốc vác).
40

+ Tiếp cận các nguồn lực sản suất như: đất đai, vay vốn, dịch vụ
khuyến nông.
+ Quyền ra quyết định trong hoạt động sản xuất: thay đổi hướng sản
xuất, sử dụng vốn.
+ Thụ hưởng lợi ích: Thừa kế tài sản, giáo dục.
Thứ hai, BĐG trong hoạt động tái sản xuất của gia đình DTTS MNPB
biểu hiện ở các khía cạnh sau:
+ Phân công lao động giữa vợ và chồng trong các hoạt động như: nấu
ăn, giặt giũ, đi chợ, giữ tiền, chăm sóc dạy con học, chăm sóc người già, lấy
nước, giã gạo, thu lượm chất đốt, sửa chữa đồ dùng trong nhà.
+ Tiếp cận các nguồn lực trong hoạt động tái sản xuất: quản lý tiền
trong gia đình, các biện pháp kế hoạch hóa gia đình.
+ Quyền ra quyết định trong hoạt động liên quan tới tái sản xuất: các
khoản chi tiêu trong gia đình, số con và sử dụng biện pháp tránh thai.
+ Thụ hưởng lợi ích liên quan tới hoạt động tái sản xuất: chăm sóc sức
khỏe, giải trí.
Thứ ba, BĐG trong hoạt động cộng đồng của gia đình DTTS MNPB
biểu hiện ở các khía cạnh sau:
+ Phân công lao động giữa vợ và chồng trong các hoạt động như: dự
đám hiếu/hỉ, giao tiếp với chính quyền, họp bản làng, tiếp khách, làm vệ sinh
làng, xóm, tham gia cúng giỗ của làng.
+ Quyền tiếp cận các hoạt động cộng đồng của vợ và chồng.
+ Quyền ra quyết định tham gia hoạt động cộng đồng.
+ Thụ hưởng lợi ích từ hoạt động cộng đồng.
Việc làm rõ BĐG ở các khía cạnh trên, sẽ góp phần nhận diện thực
trạng BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB hiện nay, đồng thời chỉ ra
các vấn đề cần quan tâm giải quyết, từ đó tìm ra những giải pháp để thúc đẩy
BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB hiện nay.
41

2.3. VAI TRÒ CỦA VIỆC THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO
ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ -
XÃ HỘI MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY
2.3.1. Bình đẳng giới trong lao động gia đình dân tộc thiểu số sẽ góp
phần phát triển kinh tế vùng miền núi phía Bắc
Thứ nhất, bình đẳng giới trong lao động gia đình thúc đẩy tăng năng
suất lao động
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ, xã hội loài người tồn tại và phát triển là
do hai loại sản xuất quyết định, sản xuất ra con người và sản xuất ra của cải
vật chất. Bởi vậy, hoạt động kinh tế là chức năng của gia đình trong mọi thời
đại (tất nhiên với mức độ không giống nhau), làm cho gia đình không những
là đơn vị kinh tế tiêu dùng, mà còn là đơn vị sản xuất ra của cải vật chất để
thoả mãn nhu cầu của mọi thành viên trong gia đình và làm giàu cho xã hội.
Cùng với quá trình xã hội hoá lực lượng sản xuất ở từng lúc, từng nơi, kinh tế
gia đình biến đổi phong phú và có vị trí khác nhau: có thể là một đơn vị kinh
tế cơ sở chủ động và tự chủ dưới dạng kinh tế hộ gia đình, hay gia đình làm
kinh tế không hoạt động như một đơn vị kinh tế độc lập tự chủ, mà các thành
viên của gia đình sản xuất làm việc ở các đơn vị quốc doanh, tập thể hay xí
nghiệp tư nhân. Dù trong điều kiện nào, dưới bất kỳ hình thức nào gia đình
vẫn đảm bảo nhu cầu sinh hoạt vật chất, tinh thần của các thành viên trong gia
đình, làm giàu cho xã hội.
Bình đẳng giới trong lao động gia đình đồng nghĩa với việc nữ giới và
nam giới có cơ hội được tiếp cận, ra quyết định đối với các nguồn lực sản
xuất bình đẳng như nhau. Việc cải thiện khả năng tiếp cận của người phụ nữ
với các nguồn lực trên, có thể đem lại các tiềm năng sản xuất mới, nâng cao
hiệu quả quản lý, phân phối đều thu nhập hơn, phát triển nguồn nhân lực,
những tác động tích cực này sẽ thúc đẩy tăng trưởng mạnh nền kinh tế.
C.Mác từng nhận định: Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang
xã hội mà không có phụ nữ giúp vào thì chắc không làm nổi. Hay Chủ tịch Hồ
Chí Minh cũng đã từng nói:
42

Bây giờ toàn dân ta ai cũng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải làm gì? Nhất định phải tăng
gia sản xuất thật nhiều. Muốn sản xuất nhiều thì phải có nhiều sức
lao động. Muốn có nhiều sức lao động thì phải giải phóng sức lao
động của phụ nữ. Nói phụ nữ là nói phân nửa của xã hội. Nếu
không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người.
Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ
một nửa [40, tr.110].
Tổ chức Nông Lương (FAO) đã ước tính rằng, nhờ bình đẳng hóa mức
tiếp cận với các nguồn lực sản xuất giữa nam và nữ ở nông thôn, sẽ tăng sản
lượng nông nghiệp ở các nước đang phát triển lên tới 2,5% - 4%. Xóa bỏ
những rào cản khiến phụ nữ không thể tham gia một số ngành nghề nhất định,
cũng đem lại kết quả tương tự, giảm cách biệt về năng suất giữa nam và nữ
công nhân tới 1/3 - 1/2 và tăng năng suất lên 3% - 25% ở một loạt các quốc
gia [100, tr.17].
Báo cáo quốc gia về phát triển con người năm 2011, chỉ ra có mối
liên hệ chặt chẽ trong việc xếp hạng GDI và GDP của các tỉnh MNPB.
Những tỉnh có chỉ số phát triển giới (GDI) cao, là tỉnh có thứ hạng cao về
HDI và chỉ số tổng sản phẩm nội địa. Các tỉnh xếp hạng dưới cùng về GDI
cũng là những tỉnh nghèo nhất, như Điện Biên, Lai Châu ở Tây Bắc và Hà
Giang ở Đông Bắc [83, tr.55]. Có thể nhận định rằng, một trong những
nguyên nhân dẫn tới tình trạng đói nghèo của MNPB, chính là do bất BĐG,
chưa phát huy được sức lao động sáng tạo của phụ nữ nói chung và phụ nữ
DTTS nói riêng, cho nên MNPB hiện nay vẫn là vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao
nhất cả nước.
Ở MNPB, kinh tế hộ gia đình là một bộ phận đông đảo có tiềm năng to
lớn, có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế vùng. Hoạt động kinh tế hộ
gia đình có những mức độ và hình thức khác nhau ở mỗi dạng gia đình cụ thể,
nhưng đều vì mục đích tăng thu nhập làm giầu chính đáng, tạo lên nhiều loại
sản phẩm vật chất để thúc đẩy sự phát triển của gia đình và xã hội. Trong kinh
43

tế hộ gia đình DTTS, vai trò của người phụ nữ là rất to lớn, họ không chỉ
tham gia các hoạt động lao động sản xuất ra của cải vật chất, góp phần quan
trọng vào bảo đảm các nhu cầu đời sống vật chất, tinh thần của gia đình, mà
còn đóng góp to lớn vào sự phát triển sản xuất, phát triển kinh tế xã hội của
vùng. Thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS, tạo điều kiện giải
phóng sức lao động của phụ nữ, nâng cao cơ hội tiếp cận, quyền ra quyết
định của phụ nữ với các nguồn lực sản xuất của gia đình là một trong
những việc làm cần thiết hiện nay ở MNPB. Thực hiện BĐG trong lao
động gia đình, phụ nữ DTTS có cơ hội nâng cao trình độ, có nhiều cơ hội
được tiếp cận với các nguồn lực, được bình đẳng trong việc thụ hưởng các lợi
ích, sẽ làm thay đổi vị thế, tạo ra những cơ hội để họ thoát khỏi những cản trở,
đem hết khả năng của mình cống hiến cho sự phát triển gia đình, vì lợi ích,
tiến bộ của xã hội, trong đó có nam giới, điều này có ý nghĩa quan trọng trong
việc tăng năng suất lao động, thúc đẩy kinh tế của vùng phát triển.
Có thể thấy, khi lao động của phụ nữ bị lãng phí hay sử dụng sai mục
đích, mà lý do là sự phân biệt đối xử trên thị trường, hay các thể chế xã hội
khiến phụ nữ học hành dang dở, phải làm một số nghề nhất định, không có
được thu nhập như nam giới, thì kết quả là sẽ làm thất thoát kinh tế, kìm hãm
sự phát triển kinh tế. Vì vậy, BĐG trong lao động nói chung và trong lao động
gia đình nói riêng có tác động to lớn đến tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, bình đẳng giới trong lao động gia đình ảnh hưởng gián tiếp
đến tăng trưởng kinh tế thông qua việc giảm tỷ lệ sinh
BĐG một mặt được coi là mục tiêu chủ yếu của những nỗ lực phát triển
xã hội, mặt khác nó lại chính là nguyên lý cơ bản của phương pháp phát triển
trên cơ sở thực hiện quyền bình đẳng. BĐG trong lao động gia đình làm tăng
cơ hội học tập, việc làm và phát triển bản thân cho phụ nữ, đồng thời làm thay
đổi nhận thức cộng đồng xã hội, những tiến bộ này thường gắn liền với việc
giảm mức sinh, tăng cường sức khỏe của trẻ em và phụ nữ và vì vậy sẽ gián
tiếp tác động tới tăng trưởng kinh tế.
44

Khi trong lao động gia đình có sự bình đẳng, phụ nữ sẽ có điều kiện để
nâng cao trình độ, chi phí cơ hội thời gian của họ sẽ tăng lên, đồng thời họ
cũng có khả năng thương thuyết trong gia đình hơn, hai yếu tố này đều góp
phần làm giảm tỷ lệ sinh. Số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê năm 2013
cho thấy, tỷ lệ phần trăm phụ nữ sinh con thứ ba trở lên trong năm của những
phụ nữ chưa đi học là 45,4%, giảm dần xuống còn 27,4% đối với phụ nữ chưa
tốt nghiệp tiểu học, 21,1% đối với phụ nữ tốt nghiệp tiểu học, 16,2% đối với
phụ nữ tốt nghiệp trung học cơ sở và chỉ còn 5,7% đối với phụ nữ có trình độ
học vấn từ trung học phổ thông trở lên [73, tr.41]. Giữa trình độ học vấn của
người mẹ và tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên có mối quan hệ tỷ lệ nghịch: trình độ
học vấn càng cao, tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên càng thấp.
Tỷ lệ sinh giảm sẽ tác động đến tăng trưởng kinh tế, vì tỷ lệ sinh thấp
hơn sẽ làm giảm gánh nặng nuôi con, tăng tỷ lệ tiết kiệm, chính tỷ lệ tiết kiệm
cao hơn sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tỷ lệ sinh thấp hơn, đồng nghĩa với
tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động tăng lên và nếu tất cả các lao động gia tăng
thêm đều có việc làm, thì thu nhập tính trên đầu người tăng lên, cho dù năng
suất lao động và lương không tăng, điều đó có thể đạt được là do số người ăn
theo đã giảm. Tỷ lệ sinh giảm, phụ nữ sẽ có điều kiện hơn, có nhiều cơ hội
hơn tham gia vào hoạt động sản xuất nâng cao thu nhập, sức khoẻ phụ nữ
nâng lên, khả năng tham gia lực lượng lao động nhiều hơn, thúc đẩy năng suất
lao động của họ trên thị trường.
Mặc dù hiện nay tỷ suất sinh của DTTS MNPB đã giảm, nhưng vì
nhiều nguyên nhân, trong đó do định kiến giới, bất BĐG mà tỷ suất sinh của
phụ nữ DTTS MNPB là cao nhất nước 2,56 con/phụ nữ, tỷ lệ phụ nữ mang
thai và có con trước 15 tuổi của vùng cao gấp 2 lần so với trung bình cả
nước. Trong khi đây là vùng mà các dịch vụ an sinh xã hội chưa phát triển,
nên khi quy mô gia đình lớn, đồng nghĩa với khối lượng công việc mà người
phụ nữ phải đảm nhận là rất lớn, tốn nhiều thời gian và sức lực. Điều này đã
cản trở quá trình phát triển của phụ nữ và cũng chính là nguyên nhân dẫn tới
đói nghèo.
45

Cho nên, thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB, tạo
điều kiện để nâng cao vị thế, cơ hội tiếp cận nguồn lực, khả năng ra quyết
định của phụ nữ trong việc kế hoạch hóa gia đình là một trong những giải
pháp làm giảm tỷ lệ sinh ở MNPB, góp phần phát triển kinh tế vùng MNPB
hiện nay, qua đó nâng cao vị thế của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội.
2.3.2. Bình đẳng giới trong lao động gia đình dân tộc thiểu số góp
phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông thôn miền núi phía Bắc
Gia đình chính là thiết chế đầu tiên có chức năng giáo dục con người,
là trường học đầu tiên đối với cuộc đời của mỗi con người. Những nghiên
cứu của các nhà tâm lý học và giáo dục học cho rằng: trong những năm đầu
của cuộc đời, hệ thần kinh của trẻ là mềm mại hơn cả, nên thường rất dễ
hình thành những phản xạ có điều kiện, tức là những nét cơ bản của cá tính,
những thói quen nhất định. Trên cơ sở đó, những phẩm chất tâm lý, những
yếu tố nhân cách con người dần dần được định hình. Trong mỗi gia đình,
phụ nữ có vai trò giáo dục to lớn, vì “phụ nữ vừa là người lao động, vừa là
người công dân, vừa là người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Khả
năng và điều kiện lao động, trình độ văn hóa, vị trí xã hội, đời sống vật chất
và tinh thần của phụ nữ có ảnh hưởng sâu xa đến sự phát triển của thế hệ
tương lai” [8, tr.3].
Để phát huy tốt vai trò “là người mẹ, người thầy đầu tiên”, phụ nữ
phải là người tiến bộ và gia đình chính là nơi bắt đầu cho sự tiến bộ của phụ
nữ. Việc loại bỏ sự phân biệt đối xử về giới và nâng cao vị thế của phụ nữ
DTTS, sẽ tạo điều kiện cho phụ nữ hoàn thành tốt vai trò, góp phần tạo
nguồn nhân lực ngày càng có chất lượng cao đáp ứng được đòi hỏi của quá
trình CNH, HĐH.
Thực hiện BĐG trong lao động gia đình, tức là phụ nữ được tiếp cận và
hưởng lợi các nguồn lực như nam giới, trong đó có quyền được tiếp cận và
hưởng thụ thành quả của giáo dục. Giáo dục nói chung và giáo dục cho phụ
nữ nói riêng là chìa khóa để phát triển nguồn nhân lực cho đất nước. Nghiên
46

cứu của Ngân hàng thế giới cho rằng, có mối quan hệ thuận chiều giữa trình
độ học vấn của người mẹ và năng lực trí tuệ của con, trình độ học vấn của
người mẹ càng cao, thì thành tích trí tuệ của con cái càng lớn. Bình đẳng của
phụ nữ và hạnh phúc của trẻ em có thể nói luôn song hành cùng nhau, khi phụ
nữ được trao quyền để giành lấy cuộc sống ấm no và hạnh phúc, thì trẻ em sẽ
được phát triển đầy đủ, hạnh phúc của người phụ nữ là nền tảng mang lại
hạnh phúc cho con cái của họ. Vì vậy, người ta thường nói: nhìn vào trẻ em để
biết tương lai cho một dân tộc, nhưng liền theo đó người ta cũng thấy rằng: nhìn
vào sức khỏe, học vấn, văn hóa của phụ nữ, ta có thể biết cả quá khứ, hiện tại và
tương lai của một quốc gia.
Sự thấp kém của phụ nữ trong mọi lĩnh vực không chỉ đẩy giới nữ vào
vị trí của người chịu thiệt thòi, phải còng lưng cúi mặt, sống một cuộc đời
không có ánh sáng của văn hóa, của niềm vui, của niềm hãnh diện làm Người,
của tâm hồn dám cất cánh đến những ước mơ cao đẹp. Mà điều nguy hại số
một, chính là khi người phụ nữ bị thấp kém về mọi mặt, phụ nữ sẽ không
hoàn thành tốt chức năng thiên bẩm của mình, truyền thụ cho thế hệ con mình
những tầm nghĩ rộng mở, những tính cách sáng tạo, những rung động cao cả.
Trong khi con người ở thế hệ hôm nay và mai sau tất yếu phải là những con
người của trí tuệ, những con người luôn luôn khám phá những cái mới tràn
đầy tính nhân bản.
Ngoài ra, khi thực hiện BĐG trong lao động gia đình, đồng nghĩa với
việc người phụ nữ được tạo điều kiện để phát triển bản thân, đầu tư cho giáo
dục, nên chắc chắn trình độ của họ được nâng cao, có thể đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp CNH, HĐH. Khi phụ nữ có sức khỏe, có kiến thức sẽ đóng góp
nhiều hơn cho phát triển bền vững.
Những năm qua nông thôn MNPB đã có những bước tiến quan trọng,
nông nghiệp phát triển theo hướng bền vững, đời sống nông dân được cải
thiện. Tuy nhiên, đây vẫn là vùng chậm phát triển, phát triển thiếu bền vững,
cơ cấu kinh tế còn thuần nông, công nghiệp, dịch vụ nông thôn phát triển
chưa tương xứng với lợi thế của vùng. Cho nên CNH, HĐH nông nghiệp,
47

nông thôn vừa là đòi hỏi cấp bách của thực tiễn, vừa là con đường ngắn nhất
để đưa nông nghiệp, nông thôn MNPB thoát khỏi tình trạng khó khăn hiện
nay, để phát triển sản xuất hàng hóa, tăng năng suất lao động, cải thiện đời
sống của cư dân nông thôn.
Yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đặt ra đối với vùng MNPB hiện nay
là phải xây dựng được kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật hiện đại, như giao
thông, thông tin liên lạc, thực hiện cơ khí hóa, hiện đại hóa, thủy lợi hóa,
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, trên cơ sở
chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, áp dụng công nghệ sinh học, chuyển đổi mạnh
cơ cấu sản xuất cây trồng, vật nuôi, tạo lập thị trường trong nước và xuất khẩu
cho các sản phẩm hàng hóa. Rõ ràng, đây là bài toán khó đối với một vùng
kinh tế nghèo, phức tạp về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và đặc biệt chất
lượng nguồn nhân lực còn rất thấp kém như MNPB.
Về mặt thể lực, đa số đồng bào DTTS có chiều cao, cân nặng nhỏ bé
hơn mức trung bình của cả nước. Nguyên nhân là do những thiếu thốn trong
chế độ dinh dưỡng, hậu quả của những thủ tục lạc hậu như tảo hôn, hôn nhân
cận huyết...
Về mặt trí lực, nguồn nhân lực ở MNPB đã từng bước được cải thiện,
do các chính sách ưu đãi trong giáo dục để thu hút trẻ em tới trường và theo
học các cấp, bậc học cao hơn. Song chất lượng giáo dục của vùng, nhìn
chung còn thấp so với mặt bằng chung của cả nước, đến đầu năm 2014, tỷ lệ
mù chữ vẫn trên 12%, trong đó, có những tỉnh đặc biệt cao như Lai Châu
hơn 50%, Hà Giang 35%, Điện Biên trên 30%, đặc biệt, có tới 90% người
La Hủ chưa từng đi học [48, tr.65]. Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ
năm 2014 là thấp nhất trong cả nước 89,0%, trong khi trung bình của cả
nước là 94,7% [75, tr.30]; tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc
trong nền kinh tế đã qua đào tạo năm 2014 cũng rất thấp (15,5%) so với của
cả nước (18,2%) [75, tr.146].
Về mặt tâm lực, do đặc điểm địa hình xa xôi, cách trở, điều kiện sống ít
giao thiệp với bên ngoài và khó khăn về mặt ngôn ngữ, nên phần lớn nhân lực
48

DTTS MNPB chưa có nhiều kỹ năng sống trong môi trường hiện đại cần hợp
tác, trao đổi.
Thực trạng này đã và đang ảnh hưởng không tốt đến quá trình đẩy
mạnh CNH, HĐH của vùng, Lênin cho rằng: “Việc điện khí hóa không thể do
người mù chữ thực hiện được, mà chỉ biết chữ không thôi thì không đủ. Phải
hiểu rằng điều đó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở một nền học vấn hiện
đại và nếu họ không có nền học vấn đó, thì chủ nghĩa Cộng sản vẫn chỉ là một
nguyện vọng mà thôi” [36, tr.364-365].
Như vậy để tiến hành CNH, HĐH ở MNPB, chúng ta phải nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, đó là căn cứ, cơ sở để chuyển giao, phát triển và
ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ vào MNPB và để làm được
điều này thì một trong những giải pháp quan trọng chính là thực hiện BĐG
trong lao động gia đình nói chung và gia đình DTTS nói riêng. BĐG trong lao
động gia đình DTTS MNPB sẽ tạo ra “lợi ích kép” cho cả phụ nữ và trẻ em
DTTS - nguồn nhân lực tương lai của một dân tộc, nâng cao chất lượng không
chỉ nguồn nhân lực hiện tại mà cả nguồn nhân lực tương lai cho vùng MNPB.
2.3.3. Bình đẳng giới trong lao động gia đình dân tộc thiểu số là tiền đề
để thực hiện bình đẳng xã hội ở miền núi phía Bắc
Nếu coi xã hội là cơ thể sống, thì mỗi gia đình là một tế bào làm nên
cơ thể xã hội. Hình thức, kết cấu, tính chất của gia đình là những nhân tố
quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của mỗi thành viên trong gia đình,
cũng tức là tới lực lượng sản xuất của xã hội, vì mỗi cá nhân không chỉ là
thành viên của gia đình, mà còn là thành viên của xã hội, quan hệ giữa các
thành viên trong gia đình đồng thời cũng là quan hệ giữa các thành viên
trong xã hội. Gia đình là nơi thể hiện đời sống hạnh phúc của mỗi cá nhân,
là yếu tố giữ vị trí trung gian nối liền cá nhân và xã hội. Vì vậy, gia đình hòa
thuận, hạnh phúc, thì cả xã hội tồn tại và vận động một cách êm thấm, như
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội,
xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của
49

xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý
hạt nhân cho tốt” [42, tr.300].
V.I.Lênin từng khẳng định: không chỉ giải phóng phụ nữ ở ngoài xã hội
mà phải giải phóng họ ngay trong gia đình, bởi chính nơi đây gánh nặng công
việc đang đè lên vai họ, làm cho họ không thể phát triển như nam giới. Mặc
dù có mọi luật lệ giải phóng, nhưng phụ nữ vẫn cứ còn là nô lệ trong gia đình,
vì những công việc nội trợ linh tinh còn đè nặng lên lưng họ, làm cho họ
nghẹt thở, mụ mẫn, nhục nhằn, ràng buộc họ vào bếp núc, vào buồng con cái,
lãng phí sức lực của họ vào một công việc cực kỳ kém năng suất, tủn mủn,
làm cho họ nhọc nhằn, đần độn, bị gò bó [35, tr.27-28]. V.I.Lênin còn cho
rằng, “ngay trong điều kiện hoàn toàn bình đẳng, thì sự thật phụ nữ vẫn bị trói
buộc vì toàn bộ công việc gia đình đều trút lên vai phụ nữ” [35, tr.321].
Cho nên việc giải phóng phụ nữ trong công việc gia đình, thực hiện
BĐG trong lao động gia đình có vai trò quan trọng trong việc thực hiện BĐG
trên các lĩnh vực khác của xã hội. Khi BĐG trong lao động gia đình được
thực hiện, thì cơ hội, điều kiện bình đẳng trên các lĩnh vực khác của đời sống
xã hội sẽ được thực hiện, vì gia đình chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội.
Như ta đã biết, gia đình đóng vai trò cơ bản trong việc định hình mối
quan hệ giới ngay từ những buổi đầu của cuộc sống con người, truyền tải
chúng từ thế hệ này sang thế hệ khác, là nơi xã hội hóa vấn đề giới, truyền lại
các kiến thức và kỹ năng về giới. Khi các thành viên trong gia đình nhận thức
đúng đắn về BĐG, xóa bỏ định kiến giới, sự quan tâm, chăm sóc, tình yêu
thương của cha mẹ, ông bà dành cho trẻ em trai và trẻ em gái là như nhau.
Con trai, con gái đều được tôn trọng như nhau. Phân công lao động trong gia
đình trên cơ sở khả năng của mỗi người, mà không phụ thuộc vào giới tính…
Hành động cụ thể trên sẽ tác động tích cực đến nhận thức, hành vi, cơ hội của
thế hệ kế tiếp, điều đó góp phần rút ngắn khoảng cách giới, tiến tới BĐG
trong đời sống xã hội.
50

Bình đẳng giới trong lao động gia đình DTTS MNPB trước hết không
chỉ giải phóng người phụ nữ trong gia đình, mà còn đem lại ý nghĩa lớn lao
đối với phát triển xã hội. Phụ nữ có trình độ kiến thức tốt sẽ quản lý gia đình
có hiệu quả, có khả năng lôi cuốn người chồng chia sẻ trách nhiệm, kiến thức,
giúp phụ nữ nâng cao vị trí của họ trong gia đình, họ có điều kiện tham gia
các quyết định quan trọng trong gia đình và xã hội và có điều kiện để được
BĐG trên các lĩnh vực.
Ngày nay BĐG là một trong những tiêu chí quan trọng (GDI) để đánh
giá sự phát triển của một xã hội, một đất nước, tự nó là mục tiêu của sự phát
triển và là yếu tố hỗ trợ, nâng cao khả năng tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã
hội của quốc gia. Vì vậy, thực hiện BĐG trong lao động gia đình liên quan
đến sự tiến bộ, đi lên của một quốc gia dân tộc về kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội, theo kịp trình độ văn minh của thời đại. BĐG nói chung và BĐG trong
lao động gia đình nói riêng, chính là yếu tố quan trọng để tạo nên một thế giới
mà Tuyên bố thiên niên kỷ muốn xây dựng: một thế giới hòa bình, bình đẳng,
khoan dung, an toàn, tự do với môi trường trong sạch và mọi cá nhân đều có
trách nhiệm, nơi mà phụ nữ và trẻ em được sống cuộc sống tươi đẹp.

2.4. MỘT SỐ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG
GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC
VIỆT NAM
2.4.1. Yếu tố tự nhiên
Miền núi phía Bắc là một trong sáu vùng kinh tế nằm trong quy hoạch
phát triển kinh tế - xã hội của nước ta, bao trùm toàn bộ hai vùng miền núi rộng
lớn ở phía Bắc là Đông Bắc và Tây Bắc, gồm 14 tỉnh là: Điện Biên, Lai Châu,
Sơn La, Hòa Bình, Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao
Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên và Bắc Giang [13, mục 2].
MNPB có tổng diện tích tự nhiên là 95.266,8km2 chiếm hơn 28% diện
tích của cả nước, đặc điểm nổi bật đầu tiên về điều kiện tự nhiên của các tỉnh
trong vùng là có diện tích tự nhiên rất rộng [75]. Với điều kiện tự nhiên đa
dạng về địa hình, khí hậu và đất đai, các tỉnh MNPB có tiềm năng phát triển
51

một nền kinh tế nông nghiệp toàn diện. Sản phẩm nông nghiệp của các tỉnh
MNPB không chỉ đa dạng, phong phú về chủng loại, mà còn có lợi thế cạnh
tranh trên thị trường, do có nhiều giống cây trồng vật nuôi bản địa đặc sắc.
Đây là một trong những vùng giàu tài nguyên khoáng sản bậc nhất
nước ta, tập trung nhiều loại khoáng sản có ý nghĩa quốc gia thuộc đủ các
nhóm năng lượng, kim loại và phi kim. Một số loại khoáng sản của vùng
chiếm tỉ lệ khá lớn trong tổng trữ lượng loại khoáng sản đó của cả nước như:
Apatit (100%), đồng chiếm 70%, đất hiếm chiếm gần 100% trữ lượng của cả
nước, Than mỡ (56%), Mangan (42%)… [10], việc khai thác khoáng sản đã
và đang góp phần quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao
chất lượng cuộc sống của người dân trong vùng.
Vị trí địa lý đã tạo cho vùng một “thế mở” trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội, vùng có 7 tỉnh biên giới (Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Lào
Cai, Cao Bằng, Hà Giang và Lạng Sơn), có đường biên giới giáp nước Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa dài 1.500km và giáp nước Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào dài khoảng 560km, là vùng có số lượng cửa khẩu nhiều nhất trong cả
nước. Ở vị trí là “cầu nối ” giữa ASEAN với thị trường Trung Quốc, các hoạt
động thương mại thông qua các cửa khẩu, đã tạo nên một hình thức tổ chức
lãnh thổ thương mại mới là khu kinh tế cửa khẩu. Các khu kinh tế cửa khẩu
góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất và dịch vụ phát triển, tạo nhiều việc
làm mới cho người dân, tăng nguồn thu ngân sách cho địa phương, góp phần
cải thiện đời sống nhân dân.
Ngoài ra trên địa bàn các tỉnh MNPB, có nhiều danh lam thắng cảnh
được tạo nên bởi vẻ đẹp của núi, rừng, động, thác, hồ, sông, suối, thung lũng,
nước khoáng, ruộng bậc thang, có nhiều di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Phát
triển kinh tế du lịch là một trong những lợi thế của vùng.
Có thể thấy, MNPB có nhiều tiềm năng về tài nguyên và giao lưu buôn
bán, điều này tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, nâng cao đời sống
của nhân dân MNPB nói chung và đồng bào DTTS nói riêng, qua đó tạo tiền
52

đề vật chất để thúc đẩy quá trình thực hiện BĐG trong lao động gia đình
DTTS hiện nay.
Tuy nhiên cũng chính yếu tố tự nhiên lại dẫn tới nhiều thách thức mới,
lại là yếu tố cản trở quá trình thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS.
Do địa hình bị phân tầng, chia cắt rất mạnh nên giao thông nội vùng và
liên vùng là một trong những khó khăn nan giải, tác động lớn đến cuộc sống
của người dân và trao đổi hàng hóa. Mặc dù trong những năm gần đây, Nhà
nước đã đầu tư nhiều dự án cải tạo, nâng cấp đường giao thông liên xã, liên
thôn, đồng bào DTTS nói chung đã có những điều kiện thuận lợi để thực hiện
quyền hưởng thụ văn hóa thông tin, song nguồn lực đầu tư vẫn chưa đủ đáp
ứng nhu cầu đi lại của người dân trên một địa hình quá khó khăn, cách trở. Tỷ
lệ xã có đường giao thông đến trung tâm xã được nhựa hóa, bê tông hóa đi lại
được bốn mùa toàn vùng chỉ đạt trên dưới 50% như: Lào Cai (45,45%), Cao
Bằng (51,96%), Sơn La (52,13%). Ở MNPB hiện nay chỉ có 89,19% số thôn,
bản có điện lưới quốc gia, trong khi đó tỷ lệ này ở khu vực Tây Nguyên là
98,04%, đồng bằng sông Cửu Long là 99,44% [70, tr.128, 131], điều này đã
ảnh hưởng lớn đến việc giao lưu phát triển kinh tế - xã hội, tiếp thu những giá
trị văn hóa tiến bộ từ bên ngoài, trong đó có giá trị về BĐG.
Khí hậu của MNPB rất khắc nghiệt. Mùa đông thường khô hanh, ít
mưa, khí hậu lạnh, nhiệt độ trung bình 100c, có nơi xuất hiện sương muối và
băng giá (Lào Cai, Hà Giang, Lạng Sơn), ảnh hưởng lớn đến cây trồng, vật
nuôi và sinh hoạt của con người, đặc biệt làm tăng thời gian dành cho công
việc tái sản xuất sức lao động - vốn đã là gánh nặng đối với phụ nữ DTTS
trong điều kiện thiếu thốn của cuộc sống và những khó khăn do cách biệt địa
lý đem lại.Thời gian rét kéo dài, để sưởi ấm gia đình phải đốt củi nhiều hơn.
Thời tiết khô hạn, do thiếu nước sinh hoạt, nguồn nước lại xa nhà, chủ yếu là
ở khe suối nên mất rất nhiều thời gian lấy nước, chính những công việc này
thường lấy đi cơ hội học hành của trẻ em gái và thời gian nghỉ ngơi, giải trí
của phụ nữ, vì họ thường đảm nhận chính việc kiếm củi và lấy nước trong gia
đình. Mùa hè, ngược lại có nhiều mưa, mưa lớn tập trung trong khoảng thời
53

gian ngắn, vì rừng đầu nguồn bị tàn phá nên thường có lũ lụt, xói lở, lũ quét,
ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất, giao lưu hàng hóa, cuộc sống của người dân,
là một trong những tác nhân dẫn tới nghèo đói của đồng bào DTTS nơi đây.
Hơn nữa, sự biến đổi của thời tiết còn ảnh hưởng tới sức khỏe của con người,
nhất là trẻ em và người già. Phụ nữ với tư cách là người chăm sóc gia đình, đã
phải dành nhiều thời gian cho việc chăm sóc trẻ em, các thành viên khác trong
gia đình khi bị ốm đau. Khối lượng công việc tái sản xuất gia tăng, một mặt
làm cho phụ nữ ít có điều kiện tham gia các hoạt động xã hội, mặt khác làm
giảm thời gian cho các hoạt động tạo thu nhập, việc gắn chặt hơn vào các
công việc không mang lại thu nhập có nguy cơ “xói mòn” hơn vị trí vốn đã
thấp kém của họ trong gia đình và xã hội, gia tăng mức độ bất bình đẳng trong
lao động gia đình.
Việc khai thác khoáng sản chưa hiệu quả chính là nguyên nhân dẫn tới
tình trạng môi trường sống ở MNPB bị ô nhiễm, diện tích đất canh tác bị thu
hẹp lại, ảnh hưởng không nhỏ tới phát triển kinh tế của gia đình DTTS. Bình
quân đất sản xuất trên đầu người khu vực vùng cao Tây Bắc chỉ đạt trên
dưới 300m2 đất ruộng và 800m2 nương rẫy. Tại các xã thuộc chương trình
135, bình quân một hộ gia đình chỉ có 1.412m2 đất tốt và 370 m2 đất trông
cây lâu năm [90, tr.3]. Hộ thiếu đất sản xuất ngày càng có xu hướng tăng
lên, có tới 64,2% số hộ thiếu đất sản xuất, 50% số hộ thiếu nước sản xuất
[89, tr.12]. Để có đất sản xuất, người dân phải đi sâu vào thung lũng khai
thác ruộng nước hoặc đi làm rẫy xa, khoảng cách từ nhà tới nơi sản xuất rất
xa, nên mất nhiều thời gian đi lại, thậm chí còn phải ngủ lại trên rẫy. Canh
tác trên đất dốc, đường đi lại khó khăn, đã tăng thêm gánh nặng công việc
cho đồng bào DTTS, đặc biệt là khâu thu hoạch, ảnh hưởng lớn đến sức
khỏe người lao động.
Do có nhiều cửa khẩu, biên giới, nên MNPB hiện nay đang phải đối
diện với hàng loạt vấn đề như: tình trạng buôn bán vận chuyển, sử dụng chất
ma túy trái phép, buôn bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới, có nơi đã trở thành
điểm nóng như: tuyến biên giới huyện Điện Biên Đông thuộc tỉnh Điện Biên,
54

huyện Mộc Châu tỉnh Sơn La, huyện Yên Minh tỉnh Hà Giang. Việc giao lưu
giữa người dân tộc bản địa với du khách từ mọi miền, đã tác động không nhỏ
đến tâm lý giữa nhóm người nghèo có thu nhập thấp với những người thu
nhập cao, gây ra những hiện tượng ăn chơi, đua đòi, lười lao động của một số
thanh niên dân tộc, làm gia tăng các tệ nạn xã hội như cờ bạc, nghiện hút, mại
dâm. Những điều này đã làm ảnh hưởng rất nhiều đến kinh tế hộ gia đình, tâm
lý của đồng bào, cản trở việc thực hiện BĐG trong lao động gia đình của đồng
bào DTTS.
Tóm lại, yếu tố tự nhiên có tác động hai chiều tới thực hiện BĐG trong
lao động gia đình ở MNPB. Hạn chế tối đa sự tác động tiêu cực của yếu tố tự
nhiên, là một trong những giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội của vùng, tiến tới nâng cao vị thế của người phụ nữ và thực hiện BĐG
trong lao động gia đình DTTS.
2.4.2. Yếu tố kinh tế
Từ trước đến nay, MNPB vẫn được xác định là khu vực có điều kiện
kinh tế - xã hội khó khăn nhất Việt Nam. Sau khi có Nghị quyết số 22
NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa VI), vấn đề phát triển kinh tế - xã hội của
các tỉnh MNPB đã được quan tâm hơn, có những bước phát triển mới. Quá
trình đổi mới kinh tế, giao lưu hội nhập đã làm thay đổi đáng kể nhịp độ
phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh MNPB. Đời sống vật chất, tinh thần
của đồng bào DTTS ngày càng phát triển và tiến bộ rõ rệt; kết cấu hạ tầng
được đầu tư xây dựng và củng cố; nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt,
y tế, giáo dục từng bước được quan tâm giải quyết, tỷ lệ đói nghèo ngày
càng giảm. Quan hệ giới trong gia đình DTTS nhờ vậy cũng có sự biến đổi
theo xu hướng ngày càng bình đẳng, dân chủ.
Tuy nhiên, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng trưởng kinh tế vẫn
chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra. Tỷ trọng nông, lâm nghiệp còn chiếm phần lớn
trong GDP, nền kinh tế còn rất lạc hậu, nông lâm nghiệp vẫn phổ biến là sản
xuất nhỏ (kỹ thuật thủ công, tự cung tự cấp). Công nghiệp, dịch vụ còn yếu
chưa phát huy được tiềm năng của vùng, chất lượng cuộc sống của nhân dân
55

còn thấp so với các vùng khác trong cả nước. Phần đông đồng bào DTTS vẫn
sử dụng phương thức sản xuất lạc hậu, công cụ sản xuất thô sơ, cho nên đời
sống của đồng bào DTTS phần nhiều là đói nghèo, thu nhập của gia đình là
rất thấp. Một bộ phận không nhỏ hộ DTTS thu nhập dưới chuẩn nghèo và
giáp ranh phía trên chuẩn nghèo, dẫn đến nguy cơ tái nghèo rất cao.
Cho đến nay, phần lớn các tỉnh MNPB vẫn nhận ngân sách do Trung
ương cấp là chủ yếu, ngân sách trong tỉnh chỉ góp được một phần nhỏ. Tâm lý
ỷ lại, trông chờ, phụ thuộc vào Trung ương còn lớn, dẫn tới thiếu sức sáng tạo
trong hoạt động thực tiễn, tư duy kinh nghiệm là chủ yếu, bảo thủ chậm phát
triển vẫn là thói quen khá phổ biến ở MNPB. Nhân dân và đồng bào các dân
tộc vẫn an phận với những gì mình có, chí tiến thủ vươn lên còn hạn chế,
bằng lòng với “cơm đủ ăn, áo đủ mặc”.
Những yếu tố kinh tế trên đã tác động đến các thành viên trong gia
đình, ảnh hưởng đến thực hiện BĐG trong lao động gia đình. Bởi lẽ, nhiều
nghiên cứu đã chỉ ra rằng giữa kinh tế và BĐG có mối quan hệ biện chứng tác
động lẫn nhau. Phát triển kinh tế chính là mở rộng cơ hội, nguồn lực và nới
lỏng các ràng buộc đối với các thành viên trong gia đình - nhất là đối với phụ
nữ và trẻ em gái, bảo đảm sự bình đẳng hơn trong mối quan hệ giới. Ngược
lại, kinh tế kém phát triển, thu nhập thấp, đói nghèo, buộc gia đình phải thắt
chặt các chi tiêu cho giáo dục, y tế và dinh dưỡng, các dịch vụ xã hội khác, thì
phụ nữ và trẻ em gái thường phải chịu thiệt thòi nhiều hơn, bất bình đẳng
nhiều hơn.
2.4.3. Yếu tố văn hóa - xã hội
Miền núi phía Bắc là nơi tụ cư của nhiều dân tộc nhất nước ta, trong số
54 dân tộc của cả nước, thì vùng có 30 dân tộc anh em thuộc bảy nhóm ngữ
hệ, trong đó có tới 27 DTTS chủ yếu cư trú ở MNPB (chiếm tới trên 90% dân
cư cùng dân tộc trên cả nước). Theo kết quả thống kê dân số và nhà ở năm
2009, tổng dân số DTTS các tỉnh MNPB là 6.044.337 người, chiếm 51,4%
dân số DTTS của cả nước và chiếm 54,7% dân số của toàn vùng. Ở nhiều
tỉnh, người DTTS chiếm tỷ lệ cao như: Cao Bằng 94,2%; Hà Giang 86,8%;
56

Lai Châu 84,7%; Lạng Sơn 84,8%; Điện Biên 81,6%; Sơn La 82,4%; Lào Cai
65,4%; Yên Bái 53,7%.
Do có nhiều tộc người cùng sinh sống nên văn hoá ở MNPB rất đa
dạng, phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc. Có nhiều phong tục, tập quán và
nhất là luật tục, tác động tích cực đến việc thực hiện BĐG trong lao động gia
đình, ví dụ như: là việc khuyến khích việc xây dựng mối quan hệ vợ chồng
chung thủy, hòa thuận (nếu kẻ nào xúi giục vợ chồng khác xung khắc phải
chuộc lỗi, đền tội - dân tộc Mông); những quy định rõ ràng về trách nhiệm trợ
giúp, đóng góp tích cực trong việc kết hôn của thành viên nam nữ của dân tộc,
gia đình, dòng họ (dân tộc Tày, Thái, Mông); quy định phụ nữ là người có
quyền tự do và khuyến khích phụ nữ tham gia sinh hoạt cộng đồng (dân tộc
Thái). Những luật tục này góp phần xây dựng mối quan hệ bình đẳng giữa
nam và nữ, tạo điều kiện cho người phụ nữ DTTS được phát triển bản thân,
đóng góp cho gia đình và cộng đồng.
Tuy nhiên, bên cạnh những phong tục, tập quán tốt đẹp, phù hợp, nhân
văn, vẫn còn tồn tại không ít những hủ tục lạc hậu. Tâm lý trọng nam khinh
nữ, các tập tục không phù hợp trong kết hôn như ngủ thăm (dân tộc Thái), ngủ
thử (dân tộc Dao), cướp vợ (dân tộc Mông), hứa hôn, cưỡng ép, hôn nhân
mang tính gả bán, tục “nối dây”, tâm lý sớm có con đàn cháu đống, có người
nối dõi, kết hôn sớm để gia đình có thêm người làm nương rẫy, nay vẫn còn
ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống của đồng bào DTTS MNPB.
Vùng DTTS MNPB có tỷ lệ tảo hôn cao nhất nước (22,6%). Tại khu
vực Tây Bắc, cứ 10 trẻ em trai tuổi từ 10 - 19, thì có một em đã kết hôn; trong
khi cứ 5 trẻ em gái tuổi từ 10 - 19, thì có một em đã kết hôn. Nhóm DTTS
người Mông có tỷ lệ tảo hôn cao nhất là 33%, trong khi tỷ lệ ghi nhận được ở
nhóm người Thái và người Mường tương ứng là 23,1% và 15,8%. Điển hình
ở tỉnh Lai Châu từ năm 2004 đến năm 2011 trong 7 năm mà có tới 1600
trường hợp tảo hôn; ở xã Loong Luông, huyện Mộc Châu, Sơn La năm 2014
có 62% trường hợp kết hôn là tảo hôn. Tỷ lệ phần trăm phụ nữ từ 15 - 49 tuổi
kết hôn trước 15 tuổi của vùng là 2,1%, cao nhất nước và gấp đôi trung bình
57

cả nước (0.9%) [76, tr.228]. Chính vì vậy, tỷ suất sinh con ở độ tuổi vị thành
niên của khu vực MNPB cao nhất nước (107/1000), phần trăm phụ nữ mang
thai và có con trước 15 tuổi của vùng là 15,4% cao nhất nước, gấp hơn 2 lần
so với trung bình cả nước (6,3%).
Không những vậy quan niệm kết hôn trong họ tộc để lưu giữ tài sản
trong gia đình, không mang của cải sang họ khác, hiện vẫn còn phổ biến ở
không ít đồng bào DTTS rất ít người ở MNPB như dân tộc Chứt, Mảng, La
Hủ... Theo kết quả điều tra thực trạng kinh tế - xã hội 53 DTTS năm 2015,
hôn nhân cận huyết của các dân tộc như sau: dân tộc Tày 1,7%; Thái 4,3%;
Mông là 11,4%; La Hủ 8,8% [93, biểu 15].
Thực tế cho thấy, tảo hôn và hôn nhân cận huyết để lại nhiều hệ lụy cho
gia đình và xã hội. Việc kết hôn sớm, mang thai và sinh đẻ trong lứa tuổi vị
thành niên, khi cơ thể người mẹ chưa phát triển hoàn thiện, thiếu hiểu biết,
kinh nghiệm, chưa sẵn sàng về mặt tâm sinh lý để mang thai và sinh con đã
ảnh hưởng lớn tới sức khỏe bà mẹ, sự phát triển bình thường của thai nhi và
trẻ sơ sinh, là một trong những lực cản đối với sự phát triển kinh tế - xã hội,
tiến bộ xã hội và sự phát triển bền vững của vùng DTTS. Trẻ em buộc phải
kết hôn sớm, ít khi được tiếp tục việc học hành, cản trở họ có hy vọng về sự
độc lập, được tiếp thu những nền giáo dục tiên tiến, hiện đại nhằm phát triển
tối đa nhân cách, tài năng, các khả năng về trí tuệ và thể chất của trẻ em,
khiến khả năng kiếm sống hoặc đóng góp về kinh tế cho gia đình là rất thấp,
dẫn đến tỷ lệ đói nghèo ngày càng tăng cao. Kết hôn sớm và hôn nhân cận
huyết, vừa là nguyên nhân và cũng chính là hậu quả của sự nghèo đói, thất
học và suy giảm chất lượng cuộc sống, là rào cản đối với việc hoàn thành các
mục tiêu thiên niên kỷ của Việt Nam đã cam kết thực hiện với Liên Hợp
quốc: giảm tình trạng đói nghèo, phổ cập giáo dục tiểu học, tăng cường bình
đẳng nam nữ, giảm tử vong trẻ em, cải thiện sức khỏe bà mẹ, trẻ em và đấu
tranh chống các bệnh dịch.
Thách cưới là một tục lệ truyền thống của nhiều DTTS ở MNPB, nhà
gái được thách cưới để đền bù về kinh tế và công cha mẹ nuôi dưỡng. Có
58

tộc người nhìn vào việc nhà gái thách cưới bao nhiêu để đánh giá giá trị
của người con gái. Tục thách cưới cao và ở rể có thể trở thành gánh nặng
cho người vợ khi về nhà chồng, vì tục thách cưới cao nên khi về nhà
chồng, phụ nữ phải làm việc để “trả nợ” cho nhà chồng. Nhà gái nào càng
thách cao, thì khi về làm dâu người vợ càng phải vất vả, lo lao động để trả
nợ cho nhà chồng.
Những tư tưởng, hủ tục lạc hậu này đã tác động không nhỏ tới sự phát
triển kinh tế của đồng bào DTTS MNPB, chính là nguyên nhân dẫn tới vòng
luẩn quẩn của đói nghèo, đồng thời kìm hãm sự phát triển, cản trở quá trình
thực hiện BĐG ở nơi đây.
2.4.4. Tác động của chính sách xã hội
Chính sách xã hội là một công cụ quan trọng của quản lý nhà nước,
nhằm thực hiện và điều chỉnh các mối quan hệ của con người, xoay quanh
mối quan hệ lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.
Chính sách xã hội đúng đắn là động lực to lớn khơi dậy tiềm năng
của con người, tạo điều kiện thuận lợi để người lao động phát huy được
năng lực sáng tạo của mình, đóng góp cho sự phát triển của cá nhân và
cộng đồng xã hội.
Trong những năm qua, Nhà nước ta đã có nhiều chính sách riêng để
phát triển kinh tế xã hội, nhằm cải thiện đời sống cho đồng bào DTTS nói
chung và DTTS MNPB nói riêng, có thể khái quát ở một số lĩnh vực như sau:
Về kinh tế: có chính sách về miễn, giảm thuế doanh thu, thuế lợi tức, ưu
đãi thuế đối với loại hình hợp tác xã; chính sách hỗ trợ hộ DTTS đặc biệt khó
khăn (Nghị quyết số 15/2003/QH11 Về việc miễn, giảm thuế sử dụng đất
nông nghiệp trong 10 năm cho nhân dân); chính sách phát triển thương mại
miền núi, hải đảo và vùng đồng bào DTTS, chương trình trồng mới 5 triệu
hecta rừng; chính sách về vốn, tín dụng (Chính phủ đã ban hành Nghị định số
78/2002/NĐ-CP, ngày 4-10-2002 Về tín dụng đối với người nghèo và các đối
tượng chính sách khác) - đã tạo nên nguồn lực đáng kể cho hàng triệu hộ nông
dân, hộ nghèo và hộ ở những vùng khó khăn mở rộng phát triển sản xuất,
59

nâng cao đời sống. Ngoài ra, có thể kể tên các chương trình lớn như: Chương
trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020
theo Quyết định số 800/2010/QĐ-TTg, ngày 4-6-2010 của Thủ tướng Chính
phủ - đây là chương trình khung về phát triển có tính toàn diện trên các lĩnh
vực: hạ tầng, thương mại, dịch vụ, văn hóa, giáo dục, đào tạo nghề và giải
quyết việc làm cho khu vực nông thôn, đã tạo nên diện mạo mới về kinh tế xã
hội vùng nông thôn và vùng DTTS; Chương trình giảm nghèo bền vững theo
Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ về giảm nghèo nhanh và bền
vững đối với 62 huyện nghèo - là chương trình lớn và quan trọng, có tác động
mạnh đến giảm nghèo và nâng cao điều kiện sống của người nghèo. Chương
trình này đã lồng ghép một loạt các hạng mục phát triển kinh tế xã hội như:
phát triển cơ sở hạ tầng, tín dụng cho người nghèo, bảo hiểm y tế, giáo dục,
nhà ở, vệ sinh môi trường và các chương trình khuyến nông. Với chính sách
toàn diện thúc đẩy mọi khía cạnh quan trọng của đời sống và ảnh hưởng đến
nhóm dân cư dễ bị tổn thương, thiệt thòi nhất ở vùng sâu, vùng xa, chương
trình này đã đạt được mục tiêu chung là giảm nghèo, tăng thu nhập và cải
thiện đời sống của nhóm cư dân. Đặc biệt ngày 8/7/2013 Thủ tướng Chính
phủ, đã phê duyệt QĐ số 1064/QĐ/TTg, công bố Quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội vùng trung du và miền núi phía Bắc đến năm 2020. Theo
đó, giai đoạn 2016 - 2020, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 8%, GDP bình
quân đầu người đến năm 2020 đạt trên 2000USD; phấn đấu mỗi năm giảm
3,4% hộ nghèo, văn bản này là cơ sở pháp lý quan trọng để tạo ra liên kết
trong phát triển kinh tế - xã hội vùng trung du và MNPB, đồng thời góp phần
cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân ở khu vực này trong
thời gian tới.
Về văn hóa - xã hội: có các chính sách cử tuyển, ưu tiên con em DTTS
vào học các trường cao đẳng, đại học; chương trình và chính sách các trường
phổ thông dân tộc nội trú, giảm học phí ở các trường công lập, chính sách hỗ
trợ gạo hàng tháng cho gần 50 vạn học sinh ở vùng xa trên mọi miền tổ quốc
(Quyết định 36/2013/ QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ), chính sách trợ giá
60

vận chuyển thuốc chữa bệnh, miễn nộp một phần phí khi khám, chữa bệnh ở cơ
sở y tế của Nhà nước, chính sách hỗ trợ tiền sinh con cho phụ nữ DTTS (Nghị
định số 39/ 2015/ NĐ ngày 27/4/2015 của chính phủ).
Theo Ủy ban Dân tộc đánh giá, với tổng số 24 báo, tạp chí cấp miễn phí
cho vùng DTTS, vùng đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 2472 và 1799
của Thủ tướng Chính phủ, công tác thông tin tuyên truyền đã có trọng tâm,
bao quát đầy đủ mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, quốc phòng an
ninh và môi trường sinh thái. Các báo, tạp chí được cấp đã góp phần tuyên
truyền kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước,
đây là kênh thông tin quan trọng góp phần thúc đẩy nhanh công cuộc xóa đói
giảm nghèo, ổn định đời sống. Thông qua các thông tin trên báo, tạp chí, bà
con tiếp thu được kiến thức để ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, các
mô hình sản xuất, chăn nuôi, trồng trọt, có thêm kỹ năng chăm sóc sức khỏe
cho bản thân và gia đình, kiến thức về BĐG.
Như vậy có thể thấy, chính sách đối với đồng bào DTTS hiện nay khá
đầy đủ, toàn diện trên các lĩnh vực. Bộ mặt nông thôn vùng DTTS đã được
thay đổi rõ nét, nhất là hạ tầng kinh tế - xã hội, đời sống vật chất, tinh thần
của đồng bào được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo vùng DTTS và miền núi giảm
nhanh 3 - 4%/năm, lĩnh vực văn hóa giáo dục y tế có bước phát triển tích cực.
Với những chính sách này, cuộc sống của đồng bào DTTS MNPB đã có
những thay đổi tích cực, chắc chắn cả nam giới và phụ nữ DTTS đều được
hưởng lợi từ những chính sách này.

Kết luận chương 2

Bình đẳng giới là vấn đề có tính toàn cầu, mà mọi quốc gia đã rất quan
tâm giải quyết, trong đó BĐG trong lao động gia đình có tầm quan trọng đặc
biệt. Gia đình DTTS MNPN là thiết chế cơ bản của xã hội ở MNPB, có những
đặc điểm riêng biệt so với gia đình DTTS ở các vùng dân tộc khác trong cả
nước, vì vậy mà lao động gia đình DTTS ở MNPB cũng có những nét đặc thù.
61

Bình đẳng giới trong lao động gia đình DTTS MNPB với nội hàm là
việc nam giới và nữ giới trong gia đình DTTS MNPB có vị trí, vai trò ngang
nhau, có cơ hội, điều kiện để tham gia vào mọi hoạt động sản xuất, hoạt động
tái sản xuất, hoạt động cộng đồng, để được phát huy hết khả năng, năng lực
của mình nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển ổn định của gia đình và
được hưởng lợi như nhau từ kết quả của sự đóng góp đó. Để đánh giá được
thực trạng BĐG trong lao động gia đình DTTS, thì cần phải làm rõ được nét
đặc thù của lao động gia đình ở MNPB và dựa vào các công cụ phân tích giới
như: phân công lao động theo giới, tiếp cận các nguồn lực, ra quyết định và
thụ hưởng lợi ích từ lao động gia đình.
Việc thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS có ý nghĩa quan
trọng đối với việc phát triển kinh tế xã hội của các tỉnh MNPB. BĐG trong
lao động gia đình DTTS không chỉ góp phần phát triển kinh tế, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn
MNPB mà BĐG trong lao động gia đình còn là tiền đề để thực hiện bình đẳng
xã hội ở MNPB hiện nay.
Những đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước Việt Nam là
cơ sở lý luận, phương pháp luận quan trọng để nhận thức và thực hiện BĐG ở
nước ta nói chung và trong gia đình DTTS MNPB nói riêng. Việc thực hiện
BĐG trong lao động gia đình DTTS ở MNPB hiện nay chịu sự tác động như:
yếu tố tự nhiên, kinh tế, văn hóa, chính sách xã hội. Những yếu tố tác động cả
tích cực lẫn tiêu cực đến việc thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS
MNPB. Khắc phục những mặt tiêu cực và phát huy tác động tích cực của các
yếu tố này là một trong những giải pháp quan trọng nhằm thúc đẩy BĐG
trong lao động gia đình DTTS ở MNPB.
62

Chương 3
BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC
THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY -
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG
GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.1. Trong hoạt động sản xuất
3.1.1.1. Phân công lao động
Phân công lao động theo giới trong sản xuất là lĩnh vực cơ bản nhất
biểu thị vai trò của hai giới, là nền tảng để lý giải địa vị xã hội và sự bất bình
đẳng trong cộng đồng từ góc độ kinh tế. Quá trình mở rộng và phát triển các
hoạt động phi nông nghiệp trong thời gian qua như: tiểu thủ công, du lịch,
buôn bán đã là một động lực, tác động mạnh đến sự chuyển đổi kinh tế của
các DTTS ở MNPB, mang theo một luồng sinh khí mới xâm nhập sâu vào xã
hội truyền thống. Kết quả khảo sát của tác giả luận án cho thấy, trong tất cả
các lĩnh vực của hoạt động sản xuất nhằm tạo thu nhập, làm ra của cải vật
chất trong gia đình DTTS MNPB đều có sự tham gia của cả người vợ và
người chồng, người phụ nữ ngày càng tự chủ trong các hoạt động kinh tế.
Thậm chí hiện nay phụ nữ DTTS MNPB có ưu thế hơn nam giới về những
công việc mang lại thu nhập thường xuyên cho gia đình như làm nghề thủ
công, buôn bán nhỏ, sự chia sẻ giữa vợ và chồng trong hoạt động sản xuất có
xu hướng ngày càng tăng.
Trong nông nghiệp, tác giả luận án khảo sát 8 loại hình công việc (từ 1
-8) trong bảng 3.1), thì có tới 6 hoạt động mà trong đó tỷ lệ tham gia của cả
hai vợ chồng là cao nhất, cụ thể: Gieo trồng, cấy: 45,5%; thu hoạch 41,8%;
bảo quản sản phẩm 68,7%; chăm sóc gia súc gia cầm: 50,2%, thậm chí nhiều
công việc sản xuất trước đây vốn được xem là “công việc riêng” của phụ nữ
như gieo trồng, cấy, chăm sóc gia súc gia cầm, thì hiện nay tỷ lệ cả hai vợ
chồng tham gia cũng chiếm tỷ lệ cao nhất. Điều này cho thấy, xu hướng hợp
63

tác, bình đẳng hơn trong hoạt động nông nghiệp giữa vợ và chồng trong gia
đình DTTS MNPB.
Bảng 3.1: Vai trò của vợ và chồng trong hoạt động sản xuất
Người thực hiện
Vợ Chồng Cả hai Người khác
Loại hình công việc
Tỷ lệ % Tỷ lệ % Tỷ lệ % Tỷ lệ %
1. Cầy bừa 5,2 58,8 30,2 5,8
2. Gieo trồng, cấy 35,4 15,7 45,5 3,4
3. Chăm sóc, làm vườn 46,6 19,2 28,7 5,5
4. Phun thuốc sâu 10,3 61,2 17,7 10,8
5. Thu hoạch 33,6 17,5 41,8 7,1
6. Bảo quản sản phẩm 20,1 7,3 68,7 3,9
7. Làm chuồng nuôi gia súc 4,5 63,2 30,2 2,1
8. Chăm sóc gia súc, gia cầm 27,2 15,3 50,2 7,3
9. Buôn bán, dịch vụ 40,5 35,4 19,4 4,7
10. Nghề dệt, đan lát 60,6 6,5 13,1 19,8
11. Nghè rèn, mộc 3,4 75,2 11,6 9,8
12. Làm thuê (bốc vác, phụ xây) 17,7 37,7 31,7 12,9
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
Dệt là nghề thủ công phổ biến ở tất cả các DTTS MNPB. Người Mông
nổi tiếng với nghề trồng lanh và dệt vải, họ tự hào nói: “Ở đâu có cây lanh, ở
đó có người Mông”, còn cây bông là cây gắn liền với phụ nữ Thái, Tày. Dệt
vải, thêu may được coi là công việc của phụ nữ, con gái từ 10 -12 tuổi đã
được mẹ, chị chỉ bảo, hướng dẫn, làm quen với những công việc liên quan
đến dệt vải. Hơn thế nữa, sự thông thạo trong nghề dệt được coi là một tiêu
chí, một phẩm hạnh con gái. Người ta không thể tính được số ngày công lao
động của phụ nữ trong công việc này, các sản phẩm dệt đã chứng tỏ sức bền
bỉ và nghệ thuật tài hoa của người phụ nữ DTTS MNPB. Kết quả khảo sát của
luận án cho thấy, nghề dệt có tới 60,6% phụ nữ tham gia. Ngoài làm sản phẩm
phục vụ nhu cầu của gia đình và đồng bào trong vùng, hiện nay có nhiều gia
64

đình còn nhận cả đơn đặt hàng của khách du lịch nước ngoài, thu nhập từ các
sản phẩm dệt vải, thêu may chiếm một phần quan trọng trong kinh tế hộ, vài
năm trở lại đây nghề dệt truyền thống trở thành lối thoát nghèo cho đồng bào
dân tộc.
Trong khi đó, rèn - chủ yếu nam giới tham gia 75,2% - là nghề thủ công
lâu đời và đạt đến trình độ khá cao của nhiều tộc người như: Tày, La Hủ,
Mông, đang đứng trước nguy cơ mất dần, do người dân mua công cụ dưới
xuôi đưa lên rẻ hơn, thu nhập từ nghề rèn của nam giới, có lẽ hiện giờ không
thể bằng được so với nghề dệt, làm đồ thủ công của phụ nữ.
Những năm gần đây ở MNPB, do du lịch phát triển nên có một bộ phận
gia đình DTTS chuyển sang làm nghề mới như: hướng dẫn viên du lịch, làm
dịch vụ du lịch tại nhà - hình thức đón khách nghỉ lại qua đêm hoặc dài ngày
trong gia đình và thu tiền các dịch vụ như ăn, ngủ, tắm thuốc… (cho thuê chỗ
ngủ với giá 1 đô la/tối tại nhà). Bình quân thu nhập từ việc phục vụ khách du
lịch có thể đem lại cho các gia đình khoảng 1 triệu đồng/tháng, đây là nguồn
thu không phải nhỏ đối với hộ nông dân. Ở huyện Sa Pa tỉnh Lào Cai, một số
phụ nữ năng động ở các xã thường ra hẳn thị trấn Sa Pa để thuê nhà trọ và bán
hàng lưu niệm cho khách du lịch nước ngoài. Và đặc biệt là, người làm ra hầu
hết các sản phẩm cho khách du lịch, từ các sản phẩm thổ cẩm cho đến các mặt
hàng khác như tre đan chính là phụ nữ. Có thể thấy với công việc này, phụ nữ
đang có đóng góp ngày càng lớn cho kinh tế gia đình và cũng làm cho phụ nữ
DTTS ngày càng năng động hơn.
Tại các xã biên giới Việt - Trung, Việt - Lào, khi việc buôn bán ở khu
vực biên giới được thông thương, thu nhập của khá nhiều gia đình dân tộc ở
tỉnh Lạng Sơn, Lào Cai phần lớn từ các hoạt động buôn bán hàng hóa qua
biên giới và theo sự công nhận của các cán bộ địa phương thì phụ nữ đã đóng
góp vào thu nhập của gia đình không hề kém, mà thậm chí còn cao hơn nam
giới. Có thể thấy, trong các hoạt động dịch vụ buôn bán, phụ nữ có nhiều lợi
thế hơn so với nam giới, những công việc của đàn ông đòi hỏi phải có sức
65

khỏe, nhưng lại thiếu ổn định vì không phải lúc nào cũng có việc như: bốc
vác, xe ôm.
Nếu xét theo tương quan dân tộc, thì trong gia đình dân tộc Tày, Thái
mức độ tham gia của cả hai vợ chồng vào công việc sản xuất là phổ biến và cao
hơn so với dân tộc Mông, La Hủ. Trong hầu hết các công việc sản xuất nông
nghiệp, người vợ trong gia đình dân tộc Thái, Tày tham gia đảm nhiệm ít hơn
nhiều so với người vợ trong gia đình Mông, La Hủ. Ngược lại mức độ tham gia
của người chồng trong nhiều công việc vốn được coi là của phụ nữ trong gia
đình Thái, Tày ngược lại cao hơn nhiều so với dân tộc Mông, La Hủ (Phụ lục
1). Cường độ lao động của các dân tộc cũng có sự khác biệt. Theo số liệu điều
tra bảng hỏi, việc sử dụng máy móc (máy cày, máy bừa) trong các khâu làm đất
của người Thái, Tày là khá phổ biến, các hộ gia đình chủ yếu thuê máy cày,
bừa, tỉ lệ khoảng 80%; đã mua sắm, sử dụng máy tẽ ngô không động cơ, máy
tuốt lúa có tỷ lệ khoảng 15,2%; phương tiện vận chuyển sản phẩm chủ yếu là
phương tiện cơ giới, điều này đã đem lại năng suất lao động cao, đồng thời góp
phần giải phóng sức lao động. Trong khi đó sản xuất nông nghiệp của người
Mông, La Hủ vẫn chủ yếu dựa vào sức mạnh của cơ bắp, ngoài ra do họ
thường canh tác trên đất dốc, nên tốn nhiều sức lao động và gặp nhiều khó
khăn hơn trong canh tác, vì vậy cường độ làm việc của dân tộc Mông, La Hủ
cũng nhiều hơn so với dân tộc Tày, Thái. Ngoài ra, dân tộc Tày, Thái, Mông có
nhiều ưu thế hơn so với dân tộc La Hủ trong việc đa dạng hóa sinh kế, chuyển
đổi cơ cấu lao động. Do phát triển du lịch và các dịch vụ du lịch ở Hà Giang,
Lào Cai, Lạng Sơn, nên có nhiều gia đình DTTS chuyển sang làm nghề mới
như hướng dẫn viên du lịch, dịch vụ cho thuê nhà hoặc làm tiểu thủ công (thổ
cẩm) cao hơn so với đồng bào dân tộc ở Sơn La, Lai Châu.
Tóm lại, nghiên cứu phân công lao động theo giới trong sản xuất của
gia đình DTTS MNPB cho thấy, trong điều kiện kinh tế - xã hội còn chưa
phát triển, trình độ sản xuất còn thấp, đời sống còn gặp nhiều khó khăn, người
phụ nữ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sản xuất, đem lại nguồn lợi kinh
66

tế và đảm bảo nhu cầu lương thực cho gia đình và cộng đồng. Họ tham gia
hầu hết và khá bình đẳng với nam giới trong các công việc sản xuất của gia
đình, có ưu thế về những công việc mang lại thu nhập thường xuyên hơn nam
giới cũng được khẳng định.
Tuy nhiên kết quả khảo sát của luận án cũng cho thấy, khuôn mẫu giới
(nguyên tắc bất thành văn) vẫn ngự trị trong suy nghĩ và hoạt động của người
dân nơi đây khi tham gia công việc sản xuất. Tùy từng gia đình mà các hoạt
động sản xuất có thể do người chồng, người vợ hoặc con cái đảm nhận chính,
nhưng thông thường lao động sản xuất trong các gia đình DTTS MNPB được
phân công theo “việc đàn ông”, “việc đàn bà”. Sự phân công lao động này
xuất phát từ quan niệm nam giới là “phái mạnh”, phải đảm nhận những “việc
nặng”, cần “tính toán”, “kỹ thuật”, còn phụ nữ thuộc “phái yếu” nên phụ trách
những “việc nhẹ”, “công việc không tên”.
Có thể thấy nam giới thường đảm nhận những việc được coi là quan
trọng và nặng nhọc hơn trong nông nghiệp như: phun thuốc sâu 61,2%, cầy
bừa 58,8%, làm chuồng 63,2%. Trong khi đó phụ nữ đảm nhận chính trong
các công việc, được coi là “nhẹ nhàng”: gieo trồng 35,4%, chăm sóc
46,6%, thu hoạch 33,6%, bảo quản sản phẩm 20,1%, bán/trao đổi sản phẩm
32,5%, chăm sóc gia súc, gia cầm 27,2%.
Trong nghề thủ công, nam và nữ thường tập trung với tỉ lệ cao ở các
ngành được xem là phù hợp với mình, ví dụ nghề dệt vải, đan lát là nghề mà
có tới 60,6% phụ nữ tham gia, chỉ có 6,5% là người chồng tham gia. Xét theo
tương quan dân tộc thì phụ nữ dân tộc Mông có tỷ lệ tham gia nghề dệt nhiều
hơn cả so với 3 dân tộc còn lại. Với nghề mộc và rèn thì chủ yếu dành cho
nam giới, có tới 75,2% người khảo sát cho rằng đó việc của nam giới. Trong
hoạt động dịch vụ, mô hình phân công lao động theo giới cũng thể hiện rõ nét.
Nam giới chủ yếu làm các dịch vụ đòi hỏi cơ bắp, hoặc làm việc với máy móc
như cày bừa, chuyên chở, xay xát, bốc vác hàng hóa tại các cửa khẩu biên
giới, còn việc buôn bán và dịch vụ ăn uống chủ yếu do phụ nữ đảm nhận.
67

Không thể phủ nhận nhiều công việc do nam giới thực hiện đòi hỏi sức
cơ bắp nhiều hơn, nhưng trên thực tế những công việc mà phụ nữ đảm nhận,
được coi là những việc “nhẹ nhàng” lại tốn rất nhiều thời gian, công sức và
phải thực hiện liên tục hàng ngày như: chăm sóc, làm vườn, dệt vải, kiếm
thức ăn. Điều đáng lưu ý là, mặc dù đa số họ đều cho rằng phụ nữ có thể làm
được những công việc như chặt cây to hoặc lái máy cày và ngược lại nam giới
có thể làm những công việc như làm cỏ, bón phân, song theo họ không nên
thay đổi, vì như vậy sẽ đánh mất những đặc điểm nam tính hay nữ tính và
quan trọng nhất là sợ người khác chê cười. Họ cũng nhấn mạnh thêm, việc
phân công lao động như thế đã có từ lâu đời, đã trở thành chuẩn mực, cho nên
khi được hỏi thì có tới 76% người được hỏi cho rằng việc phân công trong
hoạt động sản xuất như hiện nay là hợp lý và không cần thay đổi.
Vậy là, cả phụ nữ và nam giới đều coi đây là sự phân công lao động
hợp lý, là chuẩn mực phải tuân theo và không cần phải thay đổi. Tại sao lại
như vậy? Để hiểu được nguyên nhân thì ngoài những lý do bên trên, có lẽ ta
phải nhìn nhận, đánh giá từ khía cạnh văn hóa tộc người.
Đồng bào DTTS MNPB không có quan niệm về sự “bình đẳng” như
cách hiểu của truyền thông và luật pháp hiện nay, thay vào đó quan niệm của
họ về gia đình bình đẳng là sự “cùng nhau” và thương nhau. Việc “ai làm gì”
trong gia đình, không được họ quan niệm là “phân công lao động” như chúng
ta thường nói đến, mà mang ý nghĩa là chia sẻ lao động, ai làm việc gì phù
hợp nhất thì làm. Người chồng cho rằng họ gánh trách nhiệm làm việc nặng
(chặt cây, phát rẫy, cày bừa, đào ao, xẻ gỗ), để nhường việc nhẹ cho vợ (nuôi
lợn gà, lấy củi …). Do đảm nhận việc nặng, nên người chồng có thể làm ít,
điều này được phụ nữ thừa nhận như lẽ đương nhiên, hợp lý và công bằng,
cần tuân theo để đạt được mục tiêu gia đình hòa thuận.
Có thể thấy, định kiến giới về phân công lao động trong sản xuất,
không chỉ tồn tại trong nhận thức của nam giới, mà có ở ngay trong chính nữ
giới - những người đã được dạy dỗ và nuôi dưỡng theo mô típ của người mẹ,
68

người bà trước đây và đến lượt họ cũng sẽ “góp phần” dạy dỗ con gái như
vậy. Chính theo tinh thần đó, mà đời người phụ nữ (nhất là phụ nữ Mông)
như một vòng tròn khép kín, ngay từ khi còn nhỏ đã phải hy sinh cho kinh tế
và phúc lợi gia đình, đến khi lớn trở thành người vợ, người mẹ, họ lại tiếp tục
lầm lũi hy sinh quyền lợi của bản thân cho chồng con và gia đình nhà chồng.
Kết quả nghiên cứu của tác giả một lần nữa đã chứng minh rằng: không
chỉ phụ nữ ở đồng bằng, ven biển mà ngay cả các phụ nữ DTTS ở MNPB
cũng đóng vai trò quan trọng trong sinh kế gia đình và cộng đồng của họ.
Những đóng góp của phụ nữ trong sản xuất chứng tỏ rằng khả năng của họ
không hề thua kém nam giới. Tuy nhiên vẫn còn sự bất bình đẳng trong phân
công lao động sản xuất, phụ nữ phải lao động quá nhiều trong nông nghiệp -
một lĩnh vực nhọc nhằn, tốn thời gian nhưng kỹ thuật không mấy cải tiến và
thu nhập không cao, có những lĩnh vực của sản xuất nông nghiệp người chồng
còn ít chia sẻ công việc với người vợ, dẫn tới người phụ nữ ít có thời gian
nghỉ ngơi, hưởng thụ.
3.1.1.2. Tiếp cận các nguồn lực sản xuất
- Đất đai
Nghề chủ yếu của đồng bào DTTS MNPB là nông nghiệp, nên đất đai
là nguồn lực thiết yếu đối với mỗi hộ gia đình. Việc tiếp cận đất đai có vai trò
quan trọng trong hoạt động sản xuất, nhằm đảm bảo đời sống kinh tế cho gia
đình. Theo Hiến pháp, Luật Hôn nhân và Gia đình (2014), Luật Đất đai
(2013) và các chính sách đất đai gần đây của Đảng và Nhà nước, thì phụ nữ
và nam giới có vị thế bình đẳng về tài sản và của cải.
Trong gia đình DTTS MNPB hiện nay, mặc dù tỷ lệ cả hai vợ chồng
cùng đứng tên sở hữu trong sổ đỏ chỉ chiếm 13,8%, phụ nữ đứng tên tuy mới
chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ 9,0%, nhưng điều này đã thể hiện sự chuyển biến
tích cực trong nhận thức của người dân nói chung và phụ nữ DTTS nói riêng
về quyền sở hữu tài sản, phần nào cũng đã thể hiện được vị thế bình đẳng
giữa vợ và chồng trong gia đình. Khả năng tiếp cận quyền sở hữu đất đai có
69

nội hàm sâu xa hơn đối với việc tăng cường quyền năng kinh tế như tiếp cận
tín dụng, quyền hợp pháp đối với tài sản, nguồn lực kinh tế, tài nguyên thiên
nhiên. Với vai trò là người đứng tên trong sổ đỏ, các loại giấy tờ quan trọng
khác, thì phụ nữ sẽ có nhiều cơ hội và điều kiện hơn trong việc ra các quyết
định liên quan đến việc sử dụng và chuyển nhượng đất sản xuất, kinh doanh,
trong thế chấp vay vốn hơn.
Nếu xét theo tương quan dân tộc, ta thấy tỷ lệ hai vợ chồng cùng có tên
trong sổ đỏ của dân tộc Thái, Tày là tương đương nhau(14,5%, 14,2%), cao
hơn so với dân tộc Mông, La Hủ (13,1%, 13,2%). Tỷ lệ người vợ đứng tên
trong sổ đỏ của dân tộc La Hủ 5,3% là thấp nhất trong 4 dân tộc, điều này
được lí giải do trình độ của phụ nữ La Hủ và mức độ bình đẳng trong gia đình
La Hủ thấp hơn so với ba dân tộc còn lại (Phụ lục 2).
Như chúng ta đã biết, các quy định pháp lý dù hoàn hảo đến đâu, cũng
mới chỉ là công cụ, việc các công cụ này được vận dụng như thế nào, có bảo
vệ được lợi ích của những đối tượng cụ thể không, trên thực tế phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, trong đó có nhận thức của bản thân các đối tượng thuộc phạm vi
điều chỉnh của pháp luật. Chẳng hạn, trong trường hợp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, nhận thức của phụ nữ và nam giới rất quan trọng, họ có
yêu cầu cơ quan đăng ký ghi tên cả hai vợ chồng hay không, họ có muốn đổi
giấy chứng nhận từ một tên sang hai tên hay không…, tất cả phụ thuộc vào
hiểu biết pháp luật, nhận thức về tầm quan trọng của vấn đề trên, ý thức về
quyền mà pháp luật đã trao cho từ phía người vợ và người chồng.
Kết quả khảo sát của tác giả luận án cũng đã cho thấy, thực tế việc tiếp
cận quyền sở hữu đất của phụ nữ DTTS ở MNPB là rất thấp. Trong số người
được hỏi, có tới 75,5% cho rằng giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà đất là do
người chồng đứng tên, người vợ chiếm tỷ lệ khiêm tốn là 9,0% và cả hai vợ
chồng chiếm khoảng 13,8% (Phụ lục 2). Chỉ có một số ít người dân (trong số
phỏng vấn), biết rằng pháp luật hiện có quy định các tài sản này phải do cả vợ
70

và chồng đứng tên và một số hộ gia đình làm sổ đỏ đất đai, đã có cả tên vợ và
chồng theo quy định của pháp luật.
Kết quả khảo sát của tác giả, cũng không khác nhiều so với kết quả của
UN Women khi nghiên cứu về tình hình phụ nữ và trẻ em gái DTTS ở Việt
Nam năm 2015. Theo UN, tỷ lệ hộ gia đình DTTS có nam giới là chủ sở hữu
quyền sử dụng đất duy nhất là 74,2%; giấy chứng nhận có tên cả vợ và chồng
của gia đình DTTS chỉ là 21%; trong nhiều trường hợp, phụ nữ còn không
nhận thức được quyền lợi hợp pháp của mình là được cùng có tên trên giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất [88, tr.6].
Có thể thấy có sự chênh lệch lớn trong việc đứng tên giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất giữa nam và nữ. Mặc dù pháp luật đã có quy định cụ thể về
việc đứng tên trên giấy chứng nhận tài sản do hai vợ chồng cùng tạo dựng,
song nhận thức của một bộ phận phụ nữ và nam giới, thì chưa phù hợp để tạo
điều kiện cho việc thực hiện các quy định của pháp luật. Có lẽ việc xây dựng
pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ và nam giới trên cơ sở BĐG, dù quan
trọng nhưng mới chỉ là bước đầu. Các bước tiếp theo, có ý nghĩa quyết định
đối với hiệu quả thực thi pháp luật là nâng cao nhận thức, xóa bỏ định kiến và
khuôn mẫu giới trong quan niệm của cả phụ nữ và nam giới và nhóm cần
được quan tâm đặc biệt là phụ nữ và nam giới DTTS. Rõ ràng là việc tuyên
truyền nâng cao nhận thức về giới và phổ biến pháp luật cho đồng bào DTTS
cần được đặt ra một cách cấp bách.
- Vốn
Vốn là yếu tố hết sức quan trọng để có thể thay đổi cơ cấu kinh tế,
ngành nghề, cơ cấu lao động, cơ cấu vật nuôi, cây trồng - nghĩa là sẽ tạo việc
làm, tăng thu nhập cho các gia đình nông dân. Hơn thế, đầu tư vốn sẽ góp
phần làm thay đổi mục đích nền kinh tế nông thôn từ nền kinh tế tự cung tự
cấp sang nền kinh tế hàng hóa - thị trường.
Kết quả xử lý câu hỏi “Nếu gia đình có nhu cầu vay vốn bên ngoài thì
ai là người đi vay”, cho thấy xu hướng cả hai vợ chồng cùng đi vay chiếm tỷ
71

lệ cao nhất 39,9% (Phụ lục 3). Dù là dân tộc ở trình độ phát triển cao, trung
bình hay thấp thì xu hướng cả hai vợ chồng cùng đứng tên vay vốn đều chiếm
tỷ lệ cao, điều này đã thể hiện được tính bình đẳng, dân chủ hơn trong quan
hệ gia đình và cơ hội tiếp cận nguồn lực sản xuất của phụ nữ.
Tuy nhiên, cơ hội tiếp cận vốn của nam giới vẫn cao gần gấp đôi so với
nữ giới, có tới 39,6% là do người chồng đi vay, còn do người vợ đi vay là
20,5%. Có thể lý giải điều này là do bản thân các nguồn vốn cho vay hiện
nay, chưa tạo được cơ hội cho người phụ nữ nói chung và phụ nữ DTTS
MNPB nói riêng tiếp cận, vì để có thể vay vốn thường đòi hỏi tài sản thế
chấp, nhất là đất hoặc bất động sản, trong khi phụ nữ ít đứng tên trong giấy tờ
chứng nhận quyền sử dụng đất, họ cũng không giữ vai trò chủ hộ.
Theo kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2012, khu vực
MNPB có 94,5% hộ có vay vốn ở ngân hàng chính sách; 0,4% vay ở quỹ hỗ
trợ việc làm; 2,9% vay quỹ giảm nghèo; 1,8% vay các tổ chức chính trị xã hội
khác [71, tr.357]. Dựa vào nguồn vốn vay, không chỉ nhận biết được tính chất
giàu nghèo của người vay, mà còn nhận biết được giới tính của người này.
Những người vay vốn của quỹ Hội phụ nữ phải là hội viên Hội phụ nữ, đối
với các nguồn vốn từ Hội Phụ nữ thực tế còn phụ thuộc vào phong trào hoạt
động của Hội cơ sở, ở đâu Hội hoạt động mạnh, thì ở đó thường thu hút được
nhiều nguồn vốn cho hội viên vay, ngược lại ở đâu phong trào Hội kém phát
triển, thì ở đó thu hút được ít nguồn vốn hơn. Những người vay vốn từ Ngân
hàng Nông nghiệp, do phải thế chấp tài sản, nên thường là các chủ hộ đứng ra
vay. Với Ngân hàng chính sách dành cho người nghèo, dĩ nhiên, người đi vay
cũng phải là chủ hộ, mà chủ hộ thường không phải là phụ nữ.
Xét theo tương quan dân tộc, thì có thể thấy khả năng tiếp cận vốn của
phụ nữ Thái là cao nhất (21,1%) sau đó là phụ nữ Tày (21,0%), thấp nhất là
phụ nữ La Hủ (19,7%). Trong gia đình dân tộc Tày, Thái xu hướng cả hai vợ
chồng cùng đi vay vốn cũng cao hơn so với gia đình Mông, La Hủ. Điều này
72

đã thể hiện rõ mức độ phát triển, bình đẳng hơn của gia đình Tày, Thái so với
gia đình dân tộc Mông, La Hủ.
- Dịch vụ khuyến nông
Hiện nay, trong gia đình DTTS MNPB có 25% phụ nữ có cơ hội tiếp
cận với dịch vụ khuyến nông, có lẽ đây cũng là bước tiến mới, thể hiện sự
phát triển của người phụ nữ. Do nông nghiệp là ngành chính để phát triển
kinh tế gia đình vùng DTTS, nên việc tiếp cận dịch vụ khuyến nông có ý
nghĩa rất lớn, nói lên những cơ hội của phụ nữ trong vấn đề tiếp thu những
thành tựu khoa học kĩ thuật để phục vụ sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh
tế gia đình, nâng cao mức sống. Kết quả khảo sát cho thấy, trên 90% những
người tham gia các lớp tập huấn khuyến nông đều có nhận định rằng việc
tham gia các lớp tập huấn là rất hiệu quả.
Tuy nhiên, việc tiếp cận dịch vụ khuyến nông giữa nữ và nam có sự
khác biệt đáng kể, người được tiếp cận với dịch vụ khuyến nông nhiều nhất
vẫn là nam giới (60%). Tỷ lệ phụ nữ được tiếp cận với dịch vụ khuyến nông
còn hết sức hạn chế chiếm 25%, gần bằng ½ so với nam giới. Thực trạng về
sự khác biệt giữa vợ và chồng trong tiếp cận với dịch vụ khuyến nông trong gia
đình DTTS ở các tỉnh MNPB, cũng phản ánh phần nào tình trạng chung về sự
bất bình đẳng trong cơ hội, điều kiện tiếp cận của nữ giới và nam giới với dịch
vụ này trên phạm vi toàn quốc. Các nghiên cứu gần đây của Ủy ban Quốc gia
vì sự tiến bộ của phụ nữ cũng thấy rõ thực trạng này, “mặc dù phụ nữ chiếm
phần đông (1/2 - 3/4) lực lượng lao động trong lĩnh vực chăn nuôi, nhưng chỉ
có 20% các khóa tập huấn khuyến nông về chăn nuôi có phụ nữ tham gia.
Tương tự như vậy, mặc dù 80% phụ nữ nông thôn tham gia trồng trọt, nhưng
họ chỉ chiếm 10% số người được tập huấn về trồng trọt” [95, tr.8].
Việc phụ nữ ít có cơ hội, điều kiện để tham dự các lớp tập huấn
khuyến nông, sẽ là một thiệt thòi lớn cho họ trong việc nâng cao trình độ
hiểu biết trong sản xuất, chăn nuôi và nâng cao vốn hiểu biết của mình về
dịch vụ này. Hầu như các hộ gia đình DTTS có tình trạng chồng “đi học” -
73

tiếp thu kiến thức về khoa học kỹ thuật còn vợ ở nhà “thực hành”. Phải
chăng đây là một nghịch lý “nữ làm nam học”, làm ảnh hưởng đến hiệu quả
và năng suất lao động ở MNPB.
Nếu so sánh giữa các dân tộc, thì dân tộc Thái, Tày có nhiều cơ hội
tiếp cận với dịch vụ khuyến nông hơn dân tộc Mông, La Hủ và cơ hội của
phụ nữ Tày, Thái cũng nhiều hơn so phụ nữ Mông, La Hủ, vì họ có trình độ
cao hơn, trong gia đình có sự bình đẳng hơn, ngoài ra do sống ở vùng thấp
nên có cơ hội tiếp cận cao hơn, nhưng nếu so với nam giới thì phụ nữ vẫn ít
có cơ hội hơn.
Khi được hỏi lý do tại sao phụ nữ tham dự các lớp học khuyến nông thấp
hơn nam giới, nhóm cán bộ xã tại địa phương nghiên cứu cho biết: “phụ nữ
không đi được vì phải chăm sóc gia đình”, “phụ nữ học vấn thấp hơn nam giới,
đàn ông luôn làm tốt hơn trong các vấn đề kỹ thuật, học hỏi tiếp thu nhanh hơn,
vì thế sau khi học rồi thì việc áp dụng và thực hành luôn tốt hơn phụ nữ. Phụ
nữ cho đi học về cũng không làm nổi”. Có thể thấy, đồng bào DTTS MNPB
vẫn còn mang nhiều “định kiến giới” về vai trò, năng lực của phụ nữ trong việc
tiếp thu kiến thức khoa học, chính vì định kiến giới này mà trong quá trình lập
danh sách đề cử người đi tập huấn, đi học khuyến nông số lượng phụ nữ tham
gia rất thấp.
Hơn nữa do trình độ hiểu biết và học vấn của phụ nữ hạn chế hơn nam
giới, thậm chí nhiều chị không biết chữ, không biết tiếng Kinh, nên khả năng
tiếp nhận kiến thức rất khó khăn. Đa số nam giới người DTTS có thể nói và
viết thành thạo tiếng phổ thông (tiếng Việt), trong khi đó, phụ nữ DTTS đặc
biệt là phụ nữ Mông, La Hủ do rào cản trong phong tục tập quán, ít được giao
lưu rộng rãi ngoài gia đình, nên khả năng hiểu và giao tiếp bằng tiếng phổ
thông rất hạn chế, chỉ có 33,3% phụ nữ Mông, 25,3% phụ nữ La Hủ từ 15 tuổi
trở lên biết đọc [93, biểu 40], đặc biệt tâm lý rụt rè, tự ti, an phận, xem ra đã
ăn sâu trong nếp nghĩ thói quen và hành vi của phụ nữ, nên ảnh hưởng tới
quyết định ai sẽ là người đi dự các lớp tập huấn về khuyến nông.
74

Có thể khẳng định tiếp cận, quản lý, kiểm soát và sử dụng các nguồn lực
phát triển của gia đình một cách tự chủ, không chỉ là điều kiện mà còn là cơ hội
để phụ nữ phát huy được những tiềm năng vốn có của mình, để phát triển kinh
tế gia đình và đó cũng là cơ hội để phụ nữ từng bước khẳng định vai trò của
mình, qua đó mà thiết lập đúng vị thế của họ trong đời sống gia đình và đời
sống xã hội.
3.1.1.3. Quyền ra quyết định trong hoạt động sản xuất
- Thay đổi hướng sản xuất của gia đình
Trong đời sống của các gia đình hiện nay, người vợ đã thực sự trở
thành người có vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng đời sống kinh
tế của gia đình. Họ cũng tạo ra thu nhập không kém gì nam giới, thậm chí ở
không ít lĩnh vực sản xuất họ là người tạo ra nguồn thu nhập chính. Chính từ
thực tế này, mà vị thế kinh tế của người phụ nữ trong các gia đình ngày càng
được nâng cao, điều này thể hiện rõ trong quyền ra quyết định đối với việc
sản xuất kinh doanh. Số liệu khảo sát cho thấy, quyền quyết định đối với các
công việc sản xuất kinh doanh trong gia đình, giờ đây không chỉ dành riêng
cho người chồng mà còn dành cho cả người vợ. Cả hai vợ chồng cùng quyết
định trong hoạt động này chiếm tỷ lệ cao nhất 40,5%, cụ thể trong gia đình
dân tộc Thái là 42,7%, dân tộc Tày là 40,5%, dân tộc Mông là 38,8%, dân tộc
La Hủ là 39,5%, (Phụ lục 4), ta thấy có sự chênh lệch không quá nhiều giữa
các nhóm dân tộc. Với việc tham gia vào quyền quyết định trong hoạt động
sản xuất hiện nay, đã nâng cao vị trí của người phụ nữ lên ngang tầm nam
giới, khiến họ có vai trò quan trọng cùng chồng ra quyết định và thực hiện
chức năng kinh tế của gia đình.
Tuy nhiên, trong thực tế phụ nữ không phải là người quyết định chính
trong việc thay đổi cơ cấu vật nuôi cây trồng, phân công lao động, mua vật tư,
công cụ sản xuất, kinh doanh và bán sản phẩm, xét ở khía cạnh nào đó thì vai
trò của họ bị giới hạn ở người thực hiện, phục tùng những quyết định của
chồng. Số liệu khảo sát cho thấy, quyền quyết định các công việc sản xuất
75

trong các gia đình người DTTS MNPB hiện nay, người vợ chỉ chiếm một tỷ
lệ (20,5%) thấp hơn so với người chồng (34,3%) (Phụ lục 4), thậm chí vai trò
quyết định của người chồng cao gấp hơn so với người vợ trong gia đình dân
tộc Mông, La Hủ. Qua số liệu nhận thấy, phụ nữ Tày, Thái có quyền quyết
định chính cao hơn người phụ nữ Mông, La Hủ và trong gia đình Tày, Thái cả
hai vợ chồng cùng thảo luận, bàn bạc đưa ra quyết định trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của gia đình, cũng cao hơn nhiều so với gia đình Mông, La
Hủ, điều này phản ánh rõ tính chất bình đẳng hơn trong gia đình của người
Tày, Thái, tiếng nói của người phụ nữ Tày, Thái trong gia đình cao hơn phụ
nữ Mông, La Hủ.
Như vậy, đối với việc chuyển hướng sản xuất của gia đình, người phụ
nữ DTTS có một vai trò quan trọng, tuy nhiên quyền quyết định chưa thực sự
thuộc về họ, quyền lực chính vẫn thuộc về nam giới, phụ nữ DTTS vẫn là
nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương và ít được đưa ra quyết định trong hoạt động
sản xuất kinh doanh, nhưng tỷ lệ cả hai vợ chồng cùng bàn bạc cao, cho thấy
xu hướng ngày càng bình đẳng trong quan hệ gia đình.
- Vốn
Người phụ nữ DTTS MNPB trong cơ chế thị trường đã ngày một
chứng tỏ tính năng động, tháo vát của mình trong sản xuất kinh doanh nâng
cao thu nhập, phát triển đời sống gia đình. Đối với việc vay vốn và sử dụng
vốn vay như thế nào trong quá trình sản xuất, đầu tư cho sản xuất, thì vai trò
của người vợ tỏ ra ngang bằng so với người chồng. Cả hai vợ chồng cùng
thảo luận bàn bạc mới đi đến quyết định cuối cùng trong việc sử dụng vốn đã
trở thành xu hướng phổ biến trong gia đình DTTS hiện nay, chiếm tỷ lệ lớn
tới 45,6%. Điều đó chứng tỏ quan hệ giới trong gia đình có những khía cạnh
tiến bộ, dân chủ và bình đẳng hơn trước đây.
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại sự khác biệt giữa hai giới và các dân tộc
trong việc quyết định sử dụng vốn vay đó như thế nào. Số liệu khảo sát cho
thấy 34,6% người được hỏi đã khẳng định việc quyết định sử dụng vốn vay là
76

do chồng, chỉ có 19,8% là do vợ quyết định. Đối với gia đình dân tộc Thái,
Tày thì vai trò người vợ trong việc quyết định sử dụng vốn cao hơn, tương
ứng là 22,3% và 25,4%, còn dân tộc La Hủ đa số không vay vốn để sản xuất
trong khoảng thời gian qua.
3.1.1.4. Thụ hưởng lợi ích
Cơ hội tiếp cận, kiểm soát của phụ nữ DTTS MNPB đối với kinh tế gia
đình ngày càng tăng lên, vai trò kinh tế của họ ngang bằng với nam giới và
thậm chí cao hơn nam giới khi phụ nữ tham gia vào các hoạt động phi nông
nghiệp. Nhưng trên thực tế, trong gia đình họ vẫn là những người có ít cơ hội
bình đẳng nhất. Cho đến nay, nhiều phụ nữ vẫn chưa thoát khỏi thân phận lệ
thuộc vào gia đình nhà chồng, dường như họ không thể chống lại quan điểm
cho rằng: “Đàn bà làm chủ nhà thì nghèo, gà mái gáy thì gở”, tiếng nói của họ
trong gia đình ít trọng lượng hơn so với nam giới, cơ hội thụ hưởng lợi ích
của phụ nữ so với nam giới vẫn còn nhiều hạn chế.
- Thừa kế tài sản
Về quyền thừa kế tài sản (luận án chỉ đề cập tới đất đai), để tìm hiểu
nhận thức của người dân tại các xã khảo sát về vấn đề thừa kế, chúng tôi đặt
câu hỏi “dự định của ông bà về việc phân chia tài sản (đất đai) sau này như
thế nào?” và kết quả là có 63,4% dự định chỉ chia con trai; 2,2% chỉ chia cho
con gái; 13,9% chia đều cho các con; 20,5% chia cho con trai nhiều hơn con
gái (Phụ lục 5).
Mặc dù, việc quyết định chia đều cho các con chỉ chiếm tỷ lệ là 13,9%,
chỉ chia cho con gái chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn là 2,2%. Tuy nhiên, theo tác giả
luận án đây cũng là sự biến đổi tích cực trong nhận thức của đồng bào DTTS
MNPB về quyền thừa kế của con gái, vì như ta đã biết gia đình MNPB là theo
chế độ phụ quyền, còn tồn tại nhiều tư tưởng trọng nam khinh nữ, nên dù chỉ
tỷ lệ nhỏ nhưng cho thấy xu hướng cha mẹ đối xử bình đẳng hơn giữa con trai
và con gái trong gia đình và cơ hội được bình đẳng trong thừa kế của phụ nữ.
77

Nếu xét theo tương quan dân tộc, thì ta nhận thấy trong gia đình dân tộc
Tày, Thái có xu hướng bình đẳng hơn, khi mà dự định chỉ chia tài sản thừa kế
cho con gái gấp đôi so với gia đình dân tộc Mông, La Hủ. Dự định chia cho
con trai nhiều hơn của các gia đình là không có sự khác biệt nhiều.
Có thể thấy rằng, câu trả lời chỉ thừa kế cho con trai chiếm tỷ lệ cao
nhất, số liệu này vừa phản ánh nhận thức, vừa phản ánh thực trạng về quyền
thừa kế tài sản xét trên khía cạnh giới trong gia đình DTTS MNPB hiện nay.
Mặc dù pháp luật quy định sự bình đẳng trong thừa kế của cả nam lẫn nữ,
nhưng luật pháp chưa thể xóa đi những tập tục cũ, làm cho nam nữ bình đẳng
hơn trong các lĩnh vực của đời sống. Đối với đồng bào DTTS MNPB, đất đai
không chỉ là tài sản, mà còn là hiện thân vật chất của dòng họ, là sự nối kết
quá khứ, hiện tại và tương lai. Vì vậy, đất đai được lưu truyền theo dòng họ
để đảm bảo cuộc sống và sự thỏa nguyện của cả người sống và người chết.
Người tiếp nối dòng họ phải đảm nhiệm việc chăm sóc tuổi già cho cha mẹ
và thờ cúng tổ tiên. Ở dòng họ phụ hệ, gia đình và cộng đồng mong đợi con
trai sẽ là người thờ cúng tổ tiên, nuôi dưỡng cha mẹ, họ thuộc về dòng họ
đó, trong khi con gái thì “lấy chồng thì phải theo chồng”, nên việc thừa
hưởng đất của ông bà tổ tiên giống như một đặc quyền của người con trai.
Theo họ, để người con trai được hưởng phần đất hương hỏa là “phù hợp” với
đạo lý và có làm như vậy mới được xem là “giữ được nề nếp gia phong”.
Mảnh đất do gắn với việc thờ cúng gia tiên, dòng họ, gắn với sự sinh sống
của các thế hệ (thường được gọi là đất hương hỏa, đất ông bà...), vì vậy nó
không đơn thuần mang giá trị cư trú, giá trị kinh tế, mà còn mang giá trị tinh
thần, giá trị biểu tượng đậm nét. Việc coi trọng giá trị biểu tượng của đất
đai, đã hạn chế quyền thừa kế đất đai của người phụ nữ. Phụ nữ thường bị
gạt ra khỏi thừa kế tài sản của gia đình cha mẹ đẻ của mình, bởi quan niệm
văn hoá cho rằng họ sẽ được hưởng lợi từ tài sản của nhà chồng. Tuy nhiên,
ở gia đình nhà chồng, họ lại bị gạt ra vì quan niệm cho rằng đó là tài sản của
gia đình chồng, không phải là tài sản của người phụ nữ. Có thể thấy theo luật
78

tục, đất đai và ruộng nương của bố mẹ chỉ dành quyền thừa kế cho những
người con trai trong gia đình và bản thân người phụ nữ các DTTS ở đây coi
đó là điều hiển nhiên, không đòi hỏi. Chính những điều này đã dẫn tới, dù
phụ nữ như đã thấy là người đóng vai trò hơn hẳn nam giới trong sản xuất
nông nghiệp, thế nhưng họ lại không phải là chủ sở hữu, người được giao
quyền sử dụng đất, các quyền ấy đa số thuộc về người đàn ông. Tất nhiên,
khi khảo sát các hộ gia đình, ta thường nhận được câu trả lời rằng, mọi quyết
định lớn trong sản xuất và kinh doanh đều được bàn bạc giữa các thành viên
trong gia đình, nhất là sự bàn bạc giữa vợ và chồng, thế nhưng người chồng
- nam giới rõ ràng bao giờ cũng có ưu thế hơn trong quá trình trao đổi, dù có
bàn bạc dân chủ đến đâu thì người quyết định cuối cùng thường là nam giới.
Đứng trên quan điểm giới mà xét, thì vai trò quyết định của người vợ trong
gia đình khá thấp so với người chồng. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến
cho người phụ nữ chịu nhiều áp lực, cản trở trong bối cảnh phát triển kinh
tế, xã hội hiện nay.
- Giáo dục
Có một thực tế là người dân đều ý thức khá rõ tầm quan trọng của việc
học để xóa mù chữ, thoát khỏi nghề nông (làm ruộng, làm nương) vất vả, khổ
nhọc. Dù là người Thái, người Tày, người Mông hay người La Hủ đều nói
“học để biết chữ đỡ vất vả, đời bố mẹ đã không biết chữ rồi, đến đời con cháu
phải khác”; “đi học mới có kiến thức, biết tính toán”. Đơn thuần như học cộng
trừ nhân chia con số trong mua bán giao dịch là tiêu chí mà người Mông coi
thế mới ‘biết làm ăn.’ Người Thái mong muốn “có học, có kiến thức sẽ chủ
động đi lại khắp nơi trong nước”. Với nam giới người Mông thì biết chữ còn
gắn với nhu cầu thiết thực để lấy bằng lái xe (máy), vì rằng có bằng lái xe
máy mới đến xã, đi ra huyện hoặc lên thành phố, mới kết nối với thế giới bên
ngoài, không biết chữ không được thi lấy bằng lái xe, không được đi đâu chỉ
quanh quẩn ở bản sẽ mất nhiều cơ hội, trong khi đó phụ nữ thì mong muốn
học để “biết chữ nhận được mặt đồng tiền”.
79

Hầu hết các ông bố, bà mẹ người DTTS trong địa bàn được phỏng vấn,
đều nghĩ rằng con gái và con trai cần phải có quyền bình đẳng trong giáo dục.
Tuy nhiên, trên thực tế, con trai có nhiều cơ hội được đi học hơn con gái, theo
kết quả khảo sát của tác giả luận án có tới 55% người được hỏi cho rằng cần
đầu tư cho con trai học hết bậc trung học phổ thông, đối với con gái là 38%.
Trong gia đình dân tộc Tày, Thái, có vẻ bình đẳng hơn, khi các gia đình cho
rằng cần cho con gái học hết trung học phổ thông, một số muốn con học đến
đại học và số còn lại muốn con học hết trung học cơ sở hoặc đi học nghề. Hầu
hết trẻ em các dân tộc Tày, Thái đều được đến trường và theo học các cấp 2,
cấp 3. Riêng người Mông, La Hủ, do cư trú ở vùng sâu, vùng xa đi lại còn
nhiều khó khăn, địa bàn thôn bản lại cách xa trường học, nhu cầu lao động
trong gia đình rất cao, đặc biệt vào mùa vụ trồng trọt hoặc thu hoạch, nên tỷ lệ
trẻ em bỏ học và nghỉ học còn nhiều. Phần lớn các em chỉ theo học đến hết
cấp 1, phổ biến là lớp 3 và 4, nhất là các em gái. Đặc biệt đối với việc lựa
chọn cho người con nào tiếp tục học, thì có tới 16% lựa chọn và ưu tiên cho
con trai, trong khi đó con gái chỉ chiếm 1%, có tới 12% cho rằng “con gái
không cần học cao” là phù hợp. Hầu hết các bà mẹ đều cho rằng, nếu thu nhập
của gia đình thấp và họ thiếu lao động, thì con gái của họ ít khả năng đến
trường, mặc dù họ rất muốn cho chúng đi học. Trong khi nếu con trai của họ
muốn đi học, thì gia đình sẽ cố gắng giúp chúng được đi học. Điều này phù
hợp với đánh giá chung của Liên hiệp quốc về tình hình giáo dục ở Việt Nam,
“trẻ em gái và phụ nữ là những người ít có khả năng tham gia và hưởng lợi từ
các chương trình giáo dục” [82, tr.17].
Vậy là, việc đầu tư nâng cao học vấn cho con cái, có sự khác biệt đáng
kể giữa con trai và con gái, dù chỉ trong dự định, nhìn chung các gia đình
mong con trai học cao hơn con gái, nên tại một số tỉnh ở MNPB khoảng
cách giới trong tỷ lệ nhập học chung lên tới 30%, ví như tại Điện Biên, tỷ lệ
nhập học chung của nữ giới là 55,3% so với 78,5% ở nam giới, tại Sơn La là
55% ở nữ giới so với 71,3% ở nam giới và tại Lai Châu là 51,4% so với
80

65,6% [83, tr.71]. Ở Lai Châu tỷ lệ biết chữ ở phụ nữ là 48% so với 75,5% ở
nam giới, ở Điện Biên là 60,5% so với 83,4% và ở Hà Giang là 62,7% so với
84,1% [83, tr.71].
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới việc tỷ lệ phụ nữ biết chữ thấp hơn rất
nhiều so với nam giới ở các tỉnh MNPB, trong đó có nguyên nhân do định
kiến giới, sự thiên lệch trong đầu tư giáo dục cho trẻ em trai và trẻ em gái của
cha mẹ, kinh tế gia đình khó khăn.
Trong nhiều hộ nghèo, lao động của trẻ em nhất là của trẻ em gái có giá
trị hơn nhiều so với việc tới trường. Lợi ích dài hạn của giáo dục không thể bù
đắp được những tổn thất về thu nhập trong ngắn hạn. Những hộ gia đình
nghèo nhất không thể đáp ứng những nhu cầu tiêu dùng hiện tại, nếu không
có nguồn thu nhập do lao động trẻ em mang lại, vì vậy học vấn của trẻ em và
triển vọng thoát nghèo phải nhường chỗ cho sự tồn tại trước mắt. Các chi phí
cơ hội của việc không có lao động trẻ em làm việc gia đình, ngăn cản các hộ
gia đình nghèo đầu tư vào giáo dục, đặc biệt là cho con gái - những người mà
các chi phí cơ hội này lớn hơn. Hộ gia đình có mức sống càng thấp, thì con
cái càng hay bỏ học và đi học muộn hơn so với tuổi, mức sống và khoảng thời
gian đi học của trẻ em có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, điều này có nghĩa
rằng việc tiếp cận và duy trì học vấn của trẻ em, nhất là trẻ em gái phụ thuộc
nhiều hơn vào điều kiện kinh tế gia đình. Ngoài lý do kinh tế thì các em gái
DTTS thiệt thòi hơn em trai trong việc học hành, do những quan niệm truyền
thống về vai trò giới và hiện tượng tảo hôn ở nhiều địa phương. Có quan niệm
cho rằng, con gái khi ở nhà với bố mẹ chủ yếu là để đi làm nương, khi lấy
chồng phải làm nương nuôi chồng, con, phải chăm sóc gia đình, không cần
phải đi học cao.
Chính sự thiên lệch trong hướng đầu tư giáo dục cho con cái của nhiều
hộ gia đình, do quan niệm truyền thống, dẫn tới thực trạng trẻ em gái là những
người chịu thiệt thòi trong cơ hội đến trường, cơ hội tìm kiếm việc làm và cơ
hội hòa nhập xã hội. Điều này đã làm gia tăng thêm khoảng cách bất BĐG
81

trong cơ hội hưởng thụ các thành quả giáo dục của nam giới và nữ giới, là
mối nguy hiểm khiến sự chênh lệch về trình độ học vấn giữa hai giới, quá
trình tiến tới BĐG ở Việt Nam hiện nay đang phải đối mặt với những nguy cơ
tiềm ẩn lâu dài.
Dù nguyên do của tỷ lệ bỏ học cao là gì, thì cũng để lại một hệ lụy là tỷ
lệ mù chữ ở người DTTS, đặc biệt phụ nữ DTTS rất cao (75% không biết
chữ) [82, tr.11], chỉ có 7,2% lao động nữ DTTS đã qua đào tạo chuyên môn
kỹ thuật, trình độ của phụ nữ Mông là thấp nhất trong các DTTS, chỉ có 1,4%
đã được qua đào tạo chuyên môn [88, tr.4], việc này không chỉ là sự bất hạnh
của bản thân các em gái mà còn để lại hậu quả cho thế hệ sau. Trong tương lai
các em sẽ làm vợ, làm mẹ và với một người mẹ ít học thậm chí thất học, thì
việc sinh đẻ có kế hoạch, chăm sóc và giáo dục con cái tốt, là điều gần như
phải bỏ ngỏ và sẽ trở thành đối tượng thiệt thòi nhất trong việc tiếp cận những
cơ hội việc làm phi nông nghiệp. Với hoạt động cạnh tranh trong phát triển
kinh tế thị trường, thì đa số những người có trình độ học vấn cao hơn sẽ có
nhiều lợi thế, cơ hội và điều kiện để thoát ly lao động chân tay, để phát triển
kinh tế gia đình cũng như có điều kiện và cơ hội để tiếp cận và thụ hưởng
những phúc lợi khác của gia đình và xã hội. Đối với trẻ em bỏ học sớm phải
trả giá đắt bằng năng suất lao động sau này, thu nhập bị mất và thiếu tích lũy
kĩ năng sẽ làm cho một người khó có thể thoát nghèo đói khi trưởng thành.
Khi trưởng thành, đã lập gia đình, thì cơ hội được học tập, để nâng cao trình
độ của bản thân, đối với phụ nữ là một công việc không hề đơn giản, có nhiều
nguyên nhân cản trở việc họ có thể học tập, như đã thấy khi phân tích về vấn
đề tiếp cận dịch vụ khuyến nông.
Tóm lại, trong hoạt động sản xuất của gia đình DTTS MNPB, vai trò
của phụ nữ là vô cùng to lớn, họ tham gia vào hầu hết tất cả các công việc,
đảm nhận chính nhiều loại công việc, vị thế, vai trò của người phụ nữ trong
tiếp cận, kiểm soát các nguồn lực sản xuất của gia đình được nâng lên. Tuy
nhiên quan niệm truyền thống, định kiến giới vẫn chi phối nhiều đến việc
82

phân công lao động, tiếp cận các nguồn lực sản xuất và thụ hưởng lợi ích.
Việc tiếp cận, kiểm soát và ra quyết định, hưởng thụ lợi ích trong hoạt động
sản xuất của người phụ nữ còn gặp nhiều hạn chế và vẫn còn bất bình đẳng so
với nam giới.
3.1.2. Trong hoạt động tái sản xuất
Tái sản xuất là hoạt động chiếm rất nhiều thời gian, vừa gián tiếp vừa
trực tiếp tạo ra hiệu quả kinh tế đối với mỗi hộ gia đình, thực hiện công việc
này không chỉ là thước đo vị trí, tầm quan trọng của chồng hoặc vợ, mà còn là
cơ sở đánh giá vai trò của mỗi giới liên quan đến kinh tế gia đình. Nhưng trên
thực tế, việc đo lường hiệu quả kinh tế của dạng lao động này vẫn còn bất
cập, thiếu khách quan, công bằng. Trong quan niệm xã hội thường coi đây là
công việc hiển nhiên, mà người phụ nữ phải đảm nhận, là công việc “lặt vặt”,
không có giá trị, vì vậy mà không được trả công, không được coi là công việc
tạo ra thu nhập.
3.1.2.1. Phân công lao động
Bảng 3.2: Mức độ tham gia của vợ và chồng trong hoạt động tái sản xuất
Người làm chính
Vợ Chồng Cả hai Người khác
Loại việc
TL TL TL TL
Nấu ăn 66,6 7,1 16,2 10,1
Giặt giũ 67,3 5,4 20,3 7,0
Đi chợ 76,0 5,2 15,5 3,3
Giữ tiền 73,2 14,1 12,0 0,7
Chăm sóc và dạy con học 40,3 4,8 52,1 2,8
Chăm sóc người già 28,6 14,7 52,0 4,7
Lấy nước 81,5 4,6 11,4 2,5
Giã gạo 42,2 12,5 40,3 5,0
Thu lượm chất đốt 60,3 4,5 28,5 6,7
Sửa chữa đồ dùng 7,8 69,3 17,9 5,0

Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án


83

Hiện nay trong gia đình DTTS MNPB, đã có sự tham gia, chia sẻ của
nam giới trong hoạt động tái sản xuất. Trong các việc như: chăm sóc và dạy
con, chăm sóc người già, người ốm, nếu so sánh tỷ lệ người làm chính, thì
người vợ chiếm tỷ lệ cao hơn người chồng, nhưng đây cũng không hẳn là
những công việc chỉ người vợ thực hiện, việc kết hợp giữa vợ và chồng chỉ số
cao nhất là 52,1% (chăm sóc và dạy con học) và 52,0% (chăm sóc người già
ốm). Sự chia sẻ những công việc này giữa vợ và chồng cho thấy, các gia đình
đánh giá rất cao tầm quan trọng của những công việc này, đây là một sự
chuyển biến tích cực trong phân công lao động trong hoạt động tái sản xuất.
Nếu so sánh thì phụ nữ Tày, Thái dường như có sự bình đẳng, nhận
được sự chia sẻ, giúp đỡ của người chồng nhiều hơn so với phụ nữ Mông, La
Hủ, tỷ lệ cả hai vợ chồng cùng tham gia các công việc tái sản xuất trong gia
đình Tày, Thái cao hơn gia đình Mông, La Hủ ở tất cả các chỉ số (Phụ lục 6).
Ngoài ra do kinh tế khá hơn, trong gia đình dân tộc Thái, Tày đã sắm được
nhiều phương tiện sinh hoạt hiện đại, góp phần giải phóng phần nào sức lao
động của người phụ nữ. Phần lớn người Mông sử dụng lương thực tự sản xuất
được, trong đó ngô được coi là nguồn lương thực chính, vì vậy cần phải có
công đoạn xay giã. Trong khi đó nhiều thôn của người Mông không có máy
xay, bằng quan sát tại những thôn được chọn để thu thập thông tin, chúng tôi
không hề thấy một nam giới nào tham gia vào việc xay ngô và giã gạo ngoài
phụ nữ, trong khi đó người Thái, Tày đã sử dụng máy xay, máy xát.
Có thể thấy phân công lao động giữa vợ và chồng trong hoạt động tái
sản xuất trong gia đình DTTS MNPB dường như phù hợp với đặc điểm sinh
học của mỗi giới, người chồng thường đảm nhiệm những công việc mang
tính phức tạp và nặng nhọc trong gia đình, còn người vợ đảm nhận những
công việc mang tính khéo léo tỉ mỉ. Ví như trong công việc sửa chữa đồ
dùng trong gia đình, các kết quả cho thấy hầu như ở các gia đình được hỏi,
người chồng đảm nhận chính trong việc sửa chữa đồ dùng trong gia đình
chiếm 69,3%, trong khi đó người được hỏi trả lời vợ là người đảm nhận
84

chính trong sửa chữa đồ dùng trong gia đình chỉ chiếm 7,8%, cả hai là
17,9%. Cũng giống như việc đi chợ thì việc nấu nướng trong gia đình, hầu
hết vẫn là do phụ nữ đảm nhiệm chính, nam giới chỉ tham gia với tỉ lệ nhỏ,
không đáng kể. Có rất ít gia đình cho rằng việc nấu nướng là công việc cần
sự chia sẻ của cả nam và nữ.
Mặc dù có những thay đổi theo hướng bình đẳng trong lao động tái sản
xuất, tuy vậy phụ nữ vẫn là người đảm nhận chính, cường độ lao động của
phụ nữ trên lĩnh vực này là rất lớn và cao gấp nhiều lần so với nam giới. Qua
kết quả khảo sát của luận án ta nhận thấy, với nam giới chỉ số tham gia công
việc gia đình cao nhất là chăm sóc người già ốm (14,7%), thấp nhất là chỉ số
đi lấy nước (4,6%), thu lượm chất đốt (4,5%), trong khi đó chỉ số cường độ
làm việc của phụ nữ thấp nhất là 28,6% (chăm sóc người già ốm), cao nhất là
việc đi lấy nước 81,5%, vậy là cường độ làm việc của phụ nữ trong những
công việc này cao gấp rất nhiều lần so với nam giới.
Trong hoạt động tái sản xuất, những công việc mà người phụ nữ đảm
nhận, thậm chí cao gấp hơn 10 lần so với nam giới, ví như lấy nước gấp 17
lần so với nam giới. Con số này khá tương ứng với kết quả khảo sát năm 2014
của tổng cục Thống kê và tổ chức UNICEF, theo khảo sát này thì ở MNPB
80,5% việc lấy nước là của phụ nữ, nam giới chỉ chiếm 16,2%; trẻ em gái
dưới 15 tuổi đi lấy nước cao gấp 4 lần so với trẻ em trai [76, tr.121]. Để đi lấy
nước thì 0,7% hộ phải mất thời gian trên 30 phút, có thể thấy đây là công việc
không hề nhẹ nhàng, nó đã ảnh hưởng lớn tới sức khỏe, thời gian nghỉ ngơi,
hưởng thụ đời sống văn hóa của người phụ nữ và chính là một trong những
nguyên nhân tước đi cơ hội học tập của trẻ em gái.
Theo kết quả khảo sát của tác giả luận án, có tới 66,6% phụ nữ đảm
nhận công việc nấu ăn của gia đình, công việc này chiếm rất nhiều thời gian
và ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của phụ nữ. Hiện nay ở MNPB chỉ có 0,5 hộ
nấu ăn bằng điện, 26,5% hộ dùng ga (thấp nhất cả nước), trong khi đó có tới
70,2% hộ dùng chất đốt rắn (cao nhất nước) [76, tr.107]. Chất đốt rắn gồm
85

chất đốt sinh học như: gỗ, than củi, hoặc các loại chất thải nông nghiệp, phân,
rơm rạ, than. Điều đặc biệt là phần lớn các gia đình DTTS MNPB đều nấu ăn
ngay trong nhà, mà không có khu vực nấu ăn riêng. Nấu ăn và sưởi ấm bằng
chất đốt rắn không chỉ tạo ra một lượng khói lớn trong nhà, mà còn làm sản
sinh ra các thành phần độc tố như khí CO, hydro cacbon thơm đa nhân, SO2
và các thành phần gây hại khác, gây ảnh hưởng lớn cho sức khỏe con người
như: làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn hô hấp cấp, viêm phổi, tắc nghẽn phổi
mãn tính, ung thư, có thể bị lao, hen suyễn hoặc đục thủy tinh thể, tăng nguy
cơ nhẹ cân ở trẻ sơ sinh do người mẹ bị nhiễm độc khói khi mang thai, có thể
thấy điều này tác động không nhỏ tới sức khỏe của người phụ nữ.
Từ số liệu phân tích, có thể nhận xét định kiến trong phân công lao
động dựa trên cơ sở giới tính đối với phụ nữ DTTS vẫn còn tồn tại khá nặng
nề. Phụ nữ trong gia đình DTTS đảm nhận đa số công việc tái sản xuất, những
công việc này trên thực tế có sự đóng góp to lớn cho kinh tế gia đình, không
chỉ cung cấp đầu vào cho sự phát triển con người, mà còn tạo ra năng lượng
tinh thần to lớn cho cuộc sống con người. Nhưng sự đánh giá của nam giới và
của chính phụ nữ đối với công việc này còn chưa đúng mức, phần lớn họ cho
rằng đấy là công việc nhẹ nhàng, chủ yếu diễn ra trong phạm vi gia đình,
không phải là những công việc nặng nhọc và những công việc này, phụ nữ
làm tốt hơn vì bản thân phụ nữ vốn khéo tay và gọn gàng.
Cũng như hoạt động sản xuất, khi được hỏi về phân công lao động
trong tái sản xuất như hiện nay có hợp lý không, thì có tới 78% người được
khảo sát cho rằng là hợp lý, tại sao lại như vậy?
Người DTTS MNPB thích thuận “theo lẽ thường”, theo một chuẩn mực
giới đã thấm sâu vào tiềm thức của nhiều thế hệ. Chuẩn mực giới được tạo
nên bởi các truyền thống trong cộng đồng, đó là những giá trị và hành vi
mang tính phổ biến, được cộng đồng chấp nhận và trở thành những qui ước có
quyền lực đối với những hành vi, thực hành văn hóa của nam và nữ. Một số
phụ nữ mà chúng tôi đã gặp, tuy cũng nhận thức thấy sự vất vả của phụ nữ
86

(phụ nữ cứ làm, làm, làm), vì việc nhà tuy nhẹ, nhưng lặp đi lặp lại, ngày này
qua ngày khác, bận rộn từ sáng đến tối, nhưng quan niệm truyền thống về
chuẩn mực giới vẫn chi phối thái độ ứng xử của họ. Người dân trong từng
cộng đồng tin rằng, nếu mình không làm theo những chuẩn mực giới đã được
hình thành và lưu giữ qua nhiều thế hệ là điều xấu hổ, sẽ không được cộng
đồng coi trọng. Cũng như phụ nữ, đàn ông được trông đợi phải tuân theo
những chuẩn mực giới, họ cần làm việc nặng, không làm những việc linh tinh.
Như vậy, những công việc mà người ngoài cho rằng rất vất vả và bất
công cho phụ nữ, có thể lại được người trong cuộc quan niệm như những
công việc hàng ngày tất yếu của cuộc sống. Nếu có cảm nhận về sự vất vả,
người phụ nữ lại thuận theo khuôn khổ của những thực hành truyền thống, để
đạt đến sự hòa thuận trong gia đình. Trường hợp không có sự chia sẻ công
việc, thì họ vẫn có khuynh hướng tránh phá vỡ mẫu hình lý tưởng của cộng
đồng, mà bản thân mình đã nhập tâm từ thơ ấu. Dưới góc độ nhân quyền và
giới thì việc thực hiện theo các phong tục truyền thống, đôi khi có thể đem lại
sự thiệt thòi cho phụ nữ, không thể được coi là lý do biện minh cho những đối
xử bất công đối với người phụ nữ.
Có thể lấy phụ nữ Mông là ví dụ điển hình cho sự tự ti, cam chịu của
người phụ nữ DTTS ở MNPB. Hình ảnh quen thuộc nhất đối với phụ nữ
Mông là với chiếc gùi trên lưng, đôi chân sải bước thoăn thoắt trên đường lên
nương, xuống chợ, trong khi đôi tay vẫn mải miết tước từng sợi lanh. Phụ nữ
Mông đảm đang, chịu khó, là những người chăm lo, vun vén gia đình và làm
hầu hết mọi việc từ nấu ăn, giặt giũ, kiếm củi, gùi nước, trông con cho đến
xuống chợ, làm nương... Mỗi ngày của họ bắt đầu từ khi con chim rừng chưa
hót sáng cho đến lúc nó đã tìm chốn ngủ từ lâu…, người phụ nữ không những
phải làm hết thảy công việc, mà còn phải phục vụ vô điều kiện, không một lời
ca thán… như lời bài thơ “Tiếng hát làm dâu”: “Năm nay em đi làm dâu/Em
làm chín thời mười giờ/Chẳng có lúc nào nghỉ/Trâu măng cày, dây khiếu
không biết ải/ Em đi làm dâu không có mùa nghỉ chỉ có mùa làm”.
87

Nhiều người ca ngợi đức tính tuyệt vời của người phụ nữ Mông, hết
lòng vì chồng, con và gia đình, nhưng dưới góc độ nghiên cứu, có thể thấy
một khuôn phép giới, một sự bất BĐG quá lớn đối với người phụ nữ Mông
trong gia đình, một xu hướng trì trệ, lạc hậu kiểu quán tính, sức ì và cả sự tự ti
của một số phụ nữ, họ vẫn nghĩ việc nhà là thiên chức của mình, công việc
này so với các công việc mà người chồng làm thì không đáng kể, họ cảm thấy
ái ngại khi để chồng phải làm các “việc vặt” trong gia đình. Một bộ phận chị
em chưa nhận thức được rằng chính những “việc vặt” không tên này, làm cho
họ ít có cơ hội học tập để nâng cao trình độ hiểu biết, chính là một lực cản lớn
trên con đường tiến tới sự bình đẳng trong gia đình và xã hội.
Có thể khẳng định, phân công lao động trong hoạt động tái sản xuất là
một trong những lĩnh vực bất bình đẳng nhất giữa nam và nữ trong gia đình
DTTS MNPB hiện nay, những công việc ấy tưởng chừng như là đơn giản,
“nhẹ nhàng”, nhưng khối lượng công việc mà người phụ nữ phải thực hiện là
hết sức lớn và nặng nhọc, họ phải tập trung tâm trí, sức lực và thời gian để
thực hiện vai trò kép: vừa tham gia lao động sản xuất không kém gì nam giới,
đồng thời phải thực hiện sinh đẻ, nuôi dưỡng, nội trợ.
3.1.2.2. Tiếp cận các nguồn lực trong hoạt động tái sản xuất
- Quản lý tiền trong gia đình
Thông thường, trong gia đình Việt Nam, người đàn ông được coi như
“chiếc giỏ” - người kiếm tiền nuôi sống gia đình, còn người phụ nữ là “chiếc
hom” - người bảo quản, giữ vốn liếng của gia đình, vì một mặt phụ nữ biết chi
tiêu tằn tiện cho phù hợp với nguồn thu và nhu cầu của gia đình, mặt khác do
họ là người đảm nhiệm chính trong nội trợ gia đình, hàng ngày họ phải đi
chợ, lo cơm nước cho gia đình, nên họ quản lý quỹ chi tiêu thường xuyên
được coi là hợp lý. Trong sự vận động chung của xã hội, nói chung nếu vai trò
kiếm tiền chỉ là của đàn ông, thì khó có thể đảm bảo nuôi sống gia đình, phụ
nữ đã tham gia và đóng góp cho thu nhập của gia đình ngày càng tăng, nhưng
quan niệm về “chiếc hom” người giữ tiền thuần túy thì không mấy thay đổi.
88

Kết quả khảo sát của luận án cho thấy, trong gia đình DTTS MNPB hiện
nay, nhìn chung vợ là người quản lý tiền chiếm tỷ lệ cao 73,2% và chỉ có 14,1%
là người chồng quản lý, cả hai vợ chồng cùng giữ chung chiếm 12% (Bảng 3.2).
Nếu xét theo khía cạnh tộc người, ta thấy có sự chênh lệch giữa nhóm dân tộc
Mông và dân tộc khác trong vấn đề quản lý kinh tế hộ gia đình. Phụ nữ trong gia
đình dân tộc Tày, Thái, La Hủ là người quản lý tiền chiếm tỷ lệ cao hơn so với
phụ nữ dân tộc Mông (68,8%), ngược lại nam giới trong gia đình dân tộc Mông
nắm giữ tiền nhiều nhất (18,8%) so với nam giới các dân tộc khác (Phụ lục 6).
Tuy nhiên nếu coi việc phụ nữ nắm nguồn thu nhập trong gia đình là một biểu
hiện của bình đẳng, thì điều đó là hoàn toàn không chính xác, vì dù là người giữ
tiền, nhưng phụ nữ không phải được tiêu một cách chủ động.
- Các biện pháp kế hoạch hóa gia đình
Sử dụng các biện pháp tránh thai, thực hiện kế hoạch hóa gia đình đóng
vai trò quan trọng trong bảo đảm sức khỏe của phụ nữ và trẻ em, vì giúp
phòng tránh được việc mang thai quá sớm hoặc quá muộn, nới rộng khoảng
cách các lần sinh con và quản lý được số con. Việc sử dụng các biện pháp
tránh thai của đồng bào DTTS MNPB gần đây có chiều hướng ra tăng, thể
hiện việc tiếp cận những thông tin và dịch vụ trách thai đối với đồng bào
DTTS đã có nhiều cải thiện. Nhiều nam giới đã là người chủ động sử dụng
các biện pháp tránh thai (15,3%).
Tuy vậy, ngoài một số ít các biện pháp tránh thai dành cho nam giới,
trách nhiệm giữ gìn sức khỏe và kế hoạch hóa gia đình chủ yếu vẫn nhằm vào
phụ nữ. Báo cáo của Quỹ dân số Liên Hiệp Quốc cho biết, 80% trong số 283
cặp vợ chồng đã sử dụng những biện pháp tránh thai, nhưng những biện pháp
dành cho nữ chiếm tới 91% so với 9% nam giới sử dụng bao cao su và triệt
sản nam. Hay một nghiên cứu khác của Quỹ dân số Liên Hợp Quốc tại Mèo
Vạc cũng cho thấy những biện pháp kế hoạch hóa gia đình được người Mông
sử dụng như dụng cụ tử cung, uống thuốc tránh thai, tiêm thuốc tránh thai,
nạo hút thai chủ yếu vẫn tập trung vào phụ nữ [51, tr.27].
89

Kết quả khảo sát của tác giả luận án cũng phản ánh thực trạng này, tỉ
lệ sử dụng các biện pháp tránh thai ở người vợ trong gia đình DTTS MNPB
là 60,4%, chồng là 15,3%, cũng như quan niệm của họ ai sử dụng thì tốt hơn
55,9% cho là vợ và 30,2% cho là chồng, những con số này đã thể hiện
khoảng cách giới rất lớn trong lĩnh vực dân số - kế hoạch hóa gia đình. Ở
vùng sâu vùng xa, tỷ lệ phụ nữ dùng các phương pháp đặt vòng, triệt sản cao
hơn hẳn nam giới. Số lượng phụ nữ MNPB đình sản cao gấp 3,4 lần nam
giới, số nam giới dùng bao cao su để phòng tránh thai thấp nhất cả nước
(9,3%) [76, tr.142]. Sự khác biệt này một phần do nam giới thiếu hiểu biết
kiến thức về sức khỏe sinh sản, ngoài ra do họ tin vào quan niệm lạc hậu vốn
có trong dân gian là sau khi đình sản người đàn ông bị ngu đần đi nhiều,
cũng như việc nhiều người nam giới sau khi sử dụng bao cao su không đúng
cách thất bại, nên họ từ chối các biện pháp tránh thai, để mặc việc sử dụng
các biện pháp tránh thai cho vợ. Mặt khác, phần lớn chính bản thân những
người phụ nữ DTTS cũng quan niệm rằng thực hiện kế hoạch hóa gia đình là
trách nhiệm của người vợ.
Quan niệm về vai trò của phụ nữ như người phụ thuộc vào chồng trong
xã hội phụ hệ, tiếp tục ảnh hưởng tới sức khỏe và hành vi sinh sản của phụ nữ
DTTS MNPB. Họ vẫn là đối tượng chính của các biện pháp tránh thai, là
người chịu trách nhiệm chính trong việc bảo vệ sức khỏe sinh sản. Việc các
chương trình bảo vệ sức khỏe sinh sản vẫn nhằm vào phụ nữ, có lẽ tạo thêm
một gánh nặng cho người phụ nữ vốn đã rất bận bịu với các trách nhiệm khác
trong gia đình.
3.1.2.3. Quyền ra quyết định trong hoạt động liên quan tới tái
sản xuất
- Quyết định các khoản chi trong gia đình
Kết quả khảo sát của luận án cho thấy, vai trò quyết định của phụ nữ
ngày càng trở nên quan trọng trong đời sống gia đình, thể hiện qua tỷ lệ cả hai
cùng quyết định các khoản chi tiêu lớn trong gia đình như: mua sắm đồ đạc
90

đắt tiền, xây dựng nhà cửa, việc học hành của con là chỉ số cao nhất, có thể
thấy quan hệ dân chủ đang từng bước được tạo lập trong các gia đình, đây là
một bước tiến bộ lớn trong quan hệ giới của gia đình DTTS MNPB.
Mặc dù có được quyền ra quyết định đối với việc chi tiêu các công việc
quan trọng trong gia đình và có được phương tiện tài chính trong tay nhưng
trên thực tế người giữ tiền, quản lý tiền trong gia đình DTTS MNPB, không
đồng nghĩa với việc họ có quyền quyết định sử dụng tiền theo ý muốn chủ
quan của mình. Phần đông phụ nữ trong gia đình DTTSMNPB chỉ là người
giữ tiền, được quyền chi tiêu cho các “món lặt vặt” của cuộc sống thường
ngày như đi chợ mua những đồ dùng, vật dụng ít tiền, thậm chí quyền quyết
định của phụ nữ trong việc đi chợ mua những vật dụng ít tiền của vợ cao gấp
5 lần so với người chồng. Còn những khoản chi tiêu lớn, có ảnh hưởng đáng
kể đến đời sống kinh tế của các gia đình, thì vai trò quyết định của người đàn
ông là chủ yếu, cao gấp hơn 2 lần so với phụ nữ, cụ thể: nếu mua sắm đồ đắt
tiền thì do người chồng quyết định chiếm 34,5% cao gấp đôi so với người vợ
14,7%; nếu xây sửa nhà cửa thì quyền quyết định của chồng cũng cao hơn gấp
đôi so với người vợ (34,5 với 12,7) (Phụ lục 7).
Theo tương quan dân tộc, người chồng trong gia đình Mông có quyền
quyết định cao hơn các dân tộc khác, tuy nhiên xu hướng cả hai vợ chồng
cùng quyết định cũng chiếm tỷ lệ rất cao.
- Quyết định số con
Trong các gia đình được khảo sát tại địa bàn nghiên cứu, đối với việc
quyết định số con đều do cả hai vợ chồng cùng quyết định. Quyền quyết định
số con, do cả 2 vợ chồng cùng quyết định chiếm tỷ lệ cao 33,6%. Đây là một
bước tiến bộ rất lớn của sự bình đẳng nam nữ và qua đây ta cũng thấy rằng
nhận thức của đồng bào DTTS về kế hoạch hóa gia đình đã có nhiều sự thay
đổi theo hướng tích cực.
Tuy nhiên thực tế ở MNPB cũng cho thấy, có 49,3% người chồng là
người quyết định cuối cùng về số con trong gia đình, quyền quyết định cao
91

gấp 3 lần so với người vợ (Phụ lục 7), người vợ tuy là người mang nặng đẻ
đau nhưng lại không phải là người quyết định chính về việc sinh con, nên tỷ
lệ gia đình có đông con đang là một thách thức của gia đình DTTS MNPB
hiện nay trong cuộc đấu tranh xóa bỏ nghèo đói.
Kinh tế truyền thống của đồng bào DTTS là kinh tế nương rẫy, đòi hỏi
cường độ lao động cơ bắp rất cao, nên sức lao động trở thành nguồn tài sản
quan trọng nhất. Gia đình nào có nhiều lao động, thì số lương thực thu về
càng nhiều, vì vậy đã hình thành tâm lý cần đông con nhiều cháu. Tâm lý này
càng được củng cố ở các làng dân tộc còn du canh du cư và vẫn chi phối số
đông dân tộc còn sản xuất nương rẫy.
Với dân tộc Mông, vai trò của dòng họ cũng như vị trí của mỗi gia
đình đối với cộng đồng, phụ thuộc rất nhiều vào số lượng con trai trong gia
đình và dòng họ đó. Gia đình, dòng họ nào càng có nhiều con trai, thì càng
được xem là gia đình và dòng họ có sức mạnh và uy tín trong quyết định
những công việc chung của cộng đồng. Người Mông quan niệm con trai là
trụ cột của gia đình, con gái chỉ là người nội trợ. Do đó khi sinh, nếu đẻ con
trai, nhau thai sẽ được chôn dưới cột chính với ý nghĩa con trai là trụ cột.
Nếu đẻ con gái, nhau thai chôn ở gầm giường với ý niệm con gái là người
quán xuyến việc nhà. Người Mông còn cả hệ thống tục ngữ ca ngợi việc sinh
con trai, ca thán việc sinh con gái: “Đẻ con gái như gáo nước đổ đi rồi không
lấy lại được”, “Con gái chỉ giúp nhà một thời, con trai giúp nhà cả đời”. Qua
phỏng vấn có tới 84% nam nữ thanh niên được hỏi đều mong muốn có cả
con trai, con gái, trong đó 89% số người được hỏi cho rằng gia đình hạnh
phúc là phải có con trai. Con trai không chỉ là niềm tự hào cho cả gia đình,
mà còn là niềm tự hào với cả dòng họ. Trước sức ép của nhiều phía, buộc
người phụ nữ phải sinh nhiều con, mặc dù chính họ không muốn điều đó.
Một số nghiên cứu khác cũng đã đưa ra các kết luận cho rằng, việc sinh cho
bằng được con trai để có người nối dõi, có người thừa hưởng tài sản dòng
họ, thực sự là một vấn đề gây ra những ảnh hưởng lớn đến đời sống tâm lý,
92

hạnh phúc gia đình của rất nhiều phụ nữ. Luật tục của một số dân tộc quy
định chỉ có con trai mới được thừa kế tài sản, nhà cửa đất đai và luật tục này
vẫn còn duy trì mạnh mẽ trong đời sống của người dân trong các bản. Nếu
không có con trai, người phụ nữ phải đồng ý cho chồng tìm kiếm người khác
để có con trai, hoặc phải đi tìm con trai nhà khác để có thể nhận làm con
nuôi. Ngoài ra, đối với người La Hủ, vì trông chờ gạo cứu đói của Nhà nước
với tiêu chuẩn 15kg/khẩu/tháng, nên cho rằng “càng đẻ nhiều con, cán bộ
càng cho nhiều gạo”.
3.1.2.4. Thụ hưởng lợi ích
- Chăm sóc sức khỏe
Sức khoẻ là một tài sản hết sức quan trọng đối với con người, là một
trong những yếu tố ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển của cộng đồng, vì nó
không chỉ làm tăng khả năng lao động, mà còn cải thiện chất lượng cuộc sống
của chúng ta. Vì thế, quan tâm và cải thiện sức khoẻ cho đồng bào các DTTS từ
lâu đã là một phần quan trọng trong chính sách của Chính phủ nhằm quan tâm,
giúp đỡ vùng rừng núi, vùng sâu, vùng xa tiến kịp cùng với đồng bằng và thành
phố. Tuy nhiên, hiện nay phần lớn đồng bào các DTTS nói chung, trong đó có
DTTS MNPB chưa được hưởng lợi nhiều từ những chính sách này.
Với câu hỏi “Trong 12 tháng qua, ông/bà có đi khám bệnh không?”,
kết quả là chỉ có 45% trả lời là có. Có thể thấy, tự điều trị khi ốm đau là hình
thức phổ biến của đồng bào DTTS MNPB, tỷ lệ sử dụng các dịch vụ y tế công
là rất thấp, trừ khi người dân mắc phải bệnh nặng. Vì mỗi dân tộc đều có
phương thuốc truyền thống của mình, đồng bào DTTS dùng rất nhiều loại
thảo mộc để chữa các triệu chứng như sốt, tiêu chảy, đau đầu và những bệnh
thông thường khác. Trong số những người trong năm qua có đi khám bệnh,
thì 76% lựa chọn đến cơ sở y tế ở địa phương, chỉ có 24% lựa chọn đến các
cơ sở y tế xa hơn ở tỉnh và trung ương, với điều kiện trang thiết bị tốt hơn. Có
sự khác biệt nhất định giữa phụ nữ và nam giới trong tiếp cận các dịch vụ
chăm sóc sức khỏe. Phụ nữ thường sử dụng những dịch vụ ở gần, ít tốn kém,
93

trong khi nam giới sử dụng các dịch vụ y tế ở xa, cần nhiều chi phí vật chất và
thời gian của các thành viên trong gia đình nhiều hơn phụ nữ. Vậy là, nam
giới có xu hướng được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt, hiện đại
hơn so với nữ giới.
Xét theo tương quan dân tộc, thì dân tộc Thái, Tày có điều kiện tiếp cận
dễ dàng hơn với các bệnh viện tuyến trên, cả về khả năng tài chính, khoảng
cách và phương tiện đi lại. Dân tộc Tày, Thái, do cư trú ở vùng thấp, có điều
kiện phát triển kinh tế thuận lợi hơn, kế hoạch hóa gia đình cũng thực hiện
sớm hơn, đời sống kinh tế hộ gia đình ổn định, nên nhóm cư dân này dễ dàng
tiếp cận được với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Trong khi đó, dân tộc
Mông, La Hủ thường cư trú ở các làng xa xôi, hẻo lánh, kinh tế hộ gia đình
còn nhiều khó khăn, nên việc chăm sóc sức khỏe chưa được quan tâm đúng
mức, số lượng người đi khám chữa bệnh là rất ít. Theo kết quả điều tra thực
trạng kinh tế - xã hội 53 DTTS thì, khoảng cách trung bình từ nhà tới trạm y
tế của dân tộc Tày là 2,9km; Thái là 4,1km; Mông 7,3km; La Hủ 9,1km;
khoảng cách trung bình từ nhà tới bệnh viện của các dân tộc Tày, Thái, Mông,
La Hủ tương ứng là 15km, 20,5km, 27,8km, 39,2km [93, biểu 23].
Đối với chị em phụ nữ Mông, La Hủ, việc khám bệnh chỉ được thực
hiện khi trạm y tế xã tiến hành các chiến dịch khám phụ khoa và chăm sóc
sức khỏe bà mẹ trẻ em ngay tại bản. Ngoài ra trình độ học vấn, khả năng dùng
tiếng Kinh chính là yếu tố làm tăng nhận thức của phụ nữ trong chăm sóc sức
khỏe sản phụ, khi nhóm phụ nữ có học vấn cao hơn đi khám thai nhiều lần có
tỷ lệ cao hơn.
Tác giả luận án không có số liệu cụ thể chứng minh cho sự bất BĐG
trong chăm sóc sức khỏe giữa nam và nữ trong gia đình DTTS ở MNPB, tuy
nhiên theo nhận định chủ quan của tác giả luận án thì phụ nữ chịu nhiều thiệt
thòi hơn so với nam giới trong chăm sóc sức khỏe. Dù phụ nữ là người có trách
nhiệm chính trong chăm sóc sức khỏe cho các thành viên gia đình, nhưng họ
94

lại ít được chăm sóc, kể cả khi mang thai, thậm chí phải lao động cho đến tận
giờ sinh và sinh con trên nương rẫy.
Theo khuyến cáo của UNICEF và WHO trong suốt thời kỳ mang thai,
phụ nữ phải khám thai tối thiểu 4 lần. Khám thai sớm rất quan trọng đối với
phụ nữ mang thai để phòng ngừa và phát hiện các vấn đề có thể ảnh hưởng
đến bà mẹ và thai nhi, việc khám thai cần được duy trì trong suốt thời kỳ
mang thai. Nhưng số phụ nữ mang thai không đi khám thai lần nào của vùng
MNPB chiếm tới 16,8% cao nhất cả nước [76, tr.151]. Tỷ lệ phụ nữ từ 15 - 49
tuổi được khám thai bởi bác sỹ là 71,2%; được chăm sóc bởi cán bộ y tế được
đào tạo chuyên môn của vùng MNPB thấp nhất cả nước (82,7%) thấp hơn
15,9 điểm so với đồng bằng sông Hồng [76, tr.150].
Tăng tỷ lệ sinh con tại cơ sở y tế là một yếu tố quan trọng, làm giảm
các rủi ro cho sức khỏe bà mẹ và trẻ nhỏ. Chăm sóc y tế đúng cách và điều
kiện vệ sinh trong khi sinh, có thể làm giảm những rủi ro về tai biến hoặc
nhiễm trùng có thể dẫn đến bệnh tật hoặc tử vong cho mẹ hoặc bé. Tuy nhiên,
tỷ lệ sinh con tại nhà ở MNPB cao nhất nước, chỉ có 72,6% được đỡ đẻ bởi
nhân viên y tế (đồng bằng sông Hồng là 92,9%), có tới 16,6% do người quen
đỡ đẻ và 0,9% không ai đỡ đẻ cho họ [76, tr.156].
Kết quả nghiên cứu của tác giả cho thấy, trong khi hầu hết phụ nữ Tày,
Thái đã đến trạm y tế hay những cơ sở y tế khác, thì phụ nữ La Hủ đẻ ở nhà
vẫn chiếm tỷ lệ cao, khi sinh nở thường chỉ do sản phụ tự đỡ, tự cắt dây rốn
bằng cật nứa. Tìm hiểu nguyên nhân tình trạng trên, ngoài vấn đề tập quán
còn do tâm lý xấu hổ, ngại tiếp xúc với người lạ, không muốn người khác sờ
vào người và biết được “cái riêng của họ”, một số thì cho rằng đẻ ở nhà đỡ
tốn kém, không phải đi xa, đường sá cách trở và không biết tiếng kinh.
Vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn, hạn chế trong nhận thức về chăm sóc
sức khỏe sinh sản, nên nhiều phụ nữ đã không được nghỉ ngơi. Công việc của
họ không hề giảm đi trong suốt thời kỳ mang thai, họ vẫn phải gánh vác nặng,
95

leo núi, đi rừng… Họ cho rằng phải làm cố để khi đẻ có cái mà ăn, có củi mà
sưởi. Họ thường tự an ủi “cái khó nó bó cái khôn, không làm lấy gì mà ăn”,
hoặc né tránh vấn đề này theo hướng lạc quan “lao động nhiều nên rất dễ đẻ,
có khi đang làm việc thấy có dấu hiệu muốn đẻ, thì chỉ trong vòng 1 giờ sau là
cháu bé đã ra đời”. Trước thực trạng này, vấn đề đặt ra là cần tăng cường
tuyên truyền bằng nhiều hình thức, để người dân hiểu được sự cần thiết của
việc giảm cường độ lao động nặng nhọc đối với phụ nữ khi mang thai, giúp
họ thấy rõ cái được và cái mất trong việc thu xếp thời gian nghỉ ngơi một cách
hợp lý cho người phụ nữ khi họ mang thai và trước khi sinh đẻ.
Vấn đề dinh dưỡng cho thai phụ cũng rất quan trọng, tuy nhiên do đời
sống khó khăn, nên việc bổ sung dinh dưỡng cho thai phụ thực sự không dễ
dàng. Bên cạnh chế độ dinh dưỡng, việc nghỉ ngơi sau đẻ cũng rất cần thiết
để bảo vệ sức khỏe. Tuy nhiên, nhiều chị em phụ nữ DTTS MNPB chỉ một
tuần sau đẻ đã trở dậy làm việc nhà, thậm chí có trường hợp người mẹ lên
nương sau khi đẻ 3 ngày. Thực tế này, vô cùng bất lợi cho sức khỏe bà mẹ
và trẻ sơ sinh. Theo số liệu thống kê, thì việc phụ nữ của MNPB được kiểm
tra sức khỏe sau sinh là thấp nhất nước, tỷ lệ phụ nữ không có ai chăm sóc
sức khỏe sau sinh trong vòng 2 ngày là 24,2% gấp 3 lần so với trung bình
của cả nước [76, tr.173].
Phần trăm trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú sữa mẹ hoàn toàn của MNPB
là 41,0% cao nhất nước, trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú sữa mẹ chủ yếu của
vùng là 55,3% cao hơn nhiều vùng trong cả nước. Có thể thấy, trẻ em DTTS
MNPB sinh ra được nuôi dưỡng chủ yếu bằng nguồn sữa mẹ, thậm chí đến
khi đứa bé lên bốn, năm tuổi mới được mẹ cai sữa. Trong khi phần lớn các bà
mẹ này luôn phải lao động nặng nhọc, không có thời gian nghỉ ngơi sau khi
sinh nở và cũng không có bất cứ sự bồi dưỡng ăn uống đặc biệt nào dành cho
bà mẹ cho con bú, thì việc đảm bảo cung cấp đủ nguồn sữa cho con bú là một
điều rất khó khăn đối với họ, cũng như họ có thể có đủ dinh dưỡng để phục
hồi lại sức khỏe của mình.
96

- Giải trí
Hiện nay, phương tiện nghe nhìn ngày càng hiện đại, phong phú, nhiều
hộ gia đình DTTS MNPB đã sắm được ti vi, đài,…, theo kết quả khảo sát
mức sống hộ gia đình năm 2012 ở MNPB có 83,6% hộ dân có ti vi; 4,1% có
dàn nghe nhạc; 48,9% có đầu video; 8,9% có vi tính [71, tr.295], nên sau một
ngày làm việc vất vả, người dân MNPB nói chung và đồng bào DTTS nói
riêng có thể thưởng thức những chương trình mình ưa thích ngay tại nhà.
Kết quả khảo sát của luận án về sự hưởng thụ văn hóa hoặc sử dụng
thời gian ngoài lao động sản xuất, cho thấy phụ nữ và nam giới có sự khác
biệt trong việc sử dụng thời gian rỗi. Nam giới có nhiều thời gian để nghỉ
ngơi, hưởng thụ lợi ích tinh thần hơn phụ nữ (Phụ lục 9). Kết quả khảo sát của
tác giả phần nào cũng tương ứng với số liệu của MICS 2014 về phần trăm phụ
nữ từ 15 - 49 tuổi được tiếp cận hàng tuần với các phương tiện truyền thông,
ở MNPB chỉ có: 26,7% phụ nữ đọc báo ít nhất 1 lần/tuần; 22,4% nghe đài ít
nhất 1 lần/tuần; và có tới 9,1% không đọc báo, không nghe đài, không xem ti
vi ít nhất 1 lần/tuần, cao nhất so với các vùng được khảo sát [76, tr.266]. Có
thể thấy một nghịch lý đang diễn ra ở đây, mặc dù xã hội bùng nổ thông tin,
đời sống văn hóa tinh thần rất sôi động, nhưng ít phụ nữ DTTS có điều kiện,
cơ hội để tiếp nhận thông tin, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa.
Ngoài việc dành thời gian rỗi để nghỉ ngơi, xem tivi, thì phụ nữ làm
nhiều việc khác như thêu may, bán hàng… nhiều hơn nam giới, đó là chưa kể
phần lớn họ không có thời gian nhàn rỗi. Ngoài lo công việc sản xuất, phụ nữ
còn lo công việc nội trợ, nên họ không có thời gian nghỉ ngơi thực sự trong
ngày. Rõ ràng việc sử dụng thời gian của phụ nữ cho nghỉ ngơi, hưởng thụ
các loại hình văn hóa là rất ít, cả về thời lượng, cũng như trong tương quan
với nam giới trong gia đình. Ước muốn thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu
sống cho mọi thành viên trong gia đình, đã không ngừng thôi thúc người phụ
nữ, khiến họ càng ngày càng ra sức lao động chăm chỉ, cần mẫn, tích cực. Họ
đã và đang phải làm việc vô cùng cực nhọc, sẵn sàng chấp nhận hy sinh toàn
97

bộ thời gian, tâm lực, sức khỏe của mình, để mong có thể cải thiện được cuộc
sống gia đình. Phần lớn họ chú trọng nhiều tới việc làm thế nào để thỏa mãn
được nhu cầu vật chất tối thiểu, hơn là mong được đáp ứng các nhu cầu văn
hóa tinh thần. Sự bất BĐG trong hưởng thụ văn hóa đã trở thành tập quán,
một nếp sinh hoạt quen thuộc.
Với phụ nữ DTTS muốn nâng cao đời sống văn hóa thật sự hết sức khó
khăn, có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn tới thực trạng này. Khi tìm hiểu
nguyên nhân, tùy địa bàn, tùy điều kiện sinh hoạt, hoặc nhận thức của mỗi
người, mà các lý do đưa ra khác nhau, nhưng nguyên nhân được đại đa số nhắc
tới là không có thời gian. So sánh giữa các nhóm dân tộc thuộc phạm vi nghiên
cứu của luận án cho thấy, ngay trong nhóm nữ cũng có sự khác biệt về mức độ
hưởng thụ phúc lợi gia đình (thời gian dành cho hoạt động vui chơi, giải trí).
Tỷ lệ nghỉ ngơi tại nhà, đi chơi bản/xóm, đọc sách báo, nghe đài/xem tivi của
phụ nữ Thái, Tày là cao hơn nhiều so với phụ nữ Mông, La Hủ (Phụ lục 9).
Nguyên nhân là do điều kiện kinh tế của nhóm Mông, La Hủ khó khăn,
cư trú ở vùng cao, biệt lập, trình độ nhận thức thấp, mù chữ và mức độ biết
tiếng phổ thông thấp hơn nhiều lần so với các dân tộc Tày, Thái. Đối với
người Mông, La Hủ do địa bàn cư trú quá cao, nên không có phủ sóng thông
tin, chỉ có 0,2% gia đình La Hủ và 0,6% gia đình Mông có kết nối Internet,
trong khi đó tỷ lệ này trong gia đình Tày, Thái cao hơn thậm chí gần 10 lần
[93, biểu 21], ngoài ra do thu nhập quá thấp nên chỉ có một số hộ trong bản
của người La Hủ sắm được đài, chỉ có 1,7% hộ gia đình La Hủ là có đài.
Ngoài ra có thể thấy, trình độ văn hóa thấp và sự không thông thạo tiếng phổ
thông là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới việc tiếp thu thông điệp và kiến
thức. Ngược lại từ khá lâu, bên cạnh tiếng dân tộc, ngôn ngữ phổ thông đã
được coi như là ngôn ngữ chính trong giao tiếp của dân tộc Tày, Thái. Trình
độ văn hóa cao hơn, sự thông thạo tiếng phổ thông là nhân tố quan trọng để
phụ nữ Tày, Thái, có thể tiếp cận dễ dàng các nguồn thông tin, kiến thức phát
qua các kênh truyền thông đại chúng và các kênh truyền thống khác. Trong
98

khi đó có một bộ phận không nhỏ phụ nữ Mông, La Hủ, không hiểu được
tiếng phổ thông.
Tóm lại, mặc dù quan hệ trong gia đình DTTS MNPB có xu hướng
bình đẳng và dân chủ hơn, nhưng đàn ông - trụ cột của gia đình, vẫn có nhiều
lợi thế hơn so với phụ nữ, tiếng nói trọng lượng hơn phụ nữ trong các quyết
định lớn của gia đình. Nếu nhìn nhận việc quyết định, thụ hưởng lợi ích từ các
công việc trong gia đình theo tương quan dân tộc, thì ta thấy trong gia đình
dân tộc Thái, Tày, tỷ lệ cả hai vợ chồng cùng bàn bạc quyết định các công
việc cao hơn trong gia đình dân tộc Mông, La Hủ. Trong gia đình Thái, Tày
người phụ nữ được chia sẻ, được thụ hưởng lợi ích một cách tốt hơn so với
dân tộc Mông, La Hủ.
Bình đẳng giới trong lao động gia đình không đồng nghĩa với việc chia
đều công việc gia đình giữa nam và nữ, cũng không phải bắt phụ nữ từ bỏ
việc chăm sóc gia đình. Song gánh nặng công việc của vai trò kép đè lên vai
người phụ nữ DTTS, đã cản trở sự phát triển của họ khi muốn nâng cao năng
lực phát triển, tham gia vào thị trường lao động để nâng cao vị thế của mình.
Vì vậy, sự cảm thông, chia sẻ của người chồng, quan tâm của xã hội là hết sức
cần thiết.
3.1.3. Trong hoạt động cộng đồng
3.1.3.1. Phân công lao động
Hoạt động cộng đồng của đồng bào dân tộc DTTS MNPB trong phạm
vi nghiên cứu của luận án bao gồm: dự đám hiếu/hỉ, giao tiếp với chính
quyền, họp bản làng, tiếp khách, làm vệ sinh làng xóm, cúng giỗ của làng.
Trong đời sống từ xưa, những việc như thế này chỉ do nam giới đảm nhận,
không phải chỗ cho phụ nữ, trẻ nhỏ. Hiện nay những công việc cộng đồng
không chỉ là công việc của nam giới nữa, mà thay vào đó phụ nữ đã tham gia
nhiều hơn, có tiếng nói nhiều hơn trong việc tham gia vào các công việc
mang tính cộng đồng. Kết quả khảo sát của luận án, đã cho thấy trong những
công việc như ma chay, cưới xin thờ cúng tổ tiên, thăm viếng họ hàng, vệ
99

sinh làng xóm thì tỉ lệ tham gia của nam giới so với nữ giới chênh lệch nhau
không đáng kể, mà những người được hỏi đều cho rằng cả vợ và chồng đều
có mức độ thường xuyên tham gia như nhau trong những công việc mang
tính cộng đồng.
Bảng 3.3: Người đại diện cho gia đình tham gia hoạt động cộng đồng
Người tham gia Người
Vợ Chồng Cả hai
khác

Hoạt động TL% TL% TL% TL%

Dự đám hiếu/hỉ 26,4 35,3 34,6 3,7

Giao tiếp với chính quyền 20,9 47,6 29,5 2,0

Họp bản làng 20,3 46,3 31,7 1,7

Tiếp khách 22,5 38,4 37,8 1,3

Làm vệ sinh làng, xóm 29,7 21,3 38,1 11,0

Cúng giỗ của làng 2,6 58,4 37,5 1,5

Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án


Trong việc tham gia các hoạt động của cộng đồng, chỉ số thấp nhất của
người phụ nữ chính là việc tham gia cúng giỗ của làng. Người phụ nữ ít tham
gia vào hoạt động cúng giỗ làng, vì theo luật tục của đồng bào DTTS, nam
giới luôn chịu trách nhiệm thực hiện các nghi lễ tín ngưỡng tôn giáo trong
khuôn khổ gia đình, làng bản. Nam giới cũng là người thực hiện chức năng
đối ngoại, thay mặt gia đình tham dự các công việc của dòng họ, làng bản. Có
chỉ số duy nhất mà phụ nữ tham gia nhiều hơn so với nam giới đó chính là
việc tham gia dọn dẹp, làm vệ sinh làng xóm. Giống như hoạt động sản xuất,
tái sản xuất, trong hoạt động cộng đồng, ta thấy nam giới thường đảm nhận
chính trong những công việc được coi là quan trọng hơn, thậm chí có những
việc cao gấp hơn rất nhiều lần so với phụ nữ, phụ nữ chỉ đóng vai trò thứ yếu.
100

Vậy là, phân công lao động theo giới trong gia đình DTTS MNPB,
không những được quy định bởi tính chất “nặng - nhẹ”, mà còn có khác
biệt về không gian. “Việc đàn ông” không chỉ là những việc đòi hỏi nhiều
sức lao động, mà còn bao gồm những trách nhiệm liên quan tới giao tiếp xã
hội “bên ngoài”.
Số liệu phân tích cho thấy sự khác biệt rất rõ, về nội dung họp, tập huấn
mà phụ nữ hay nam giới tham gia. Nam giới tham gia với tỷ lệ cao hơn ở các
lớp họp, tập huấn về kỹ thuật nông nghiệp, ngược lại, phụ nữ tham gia với tỉ
lệ cao hơn ở các lớp chăm sóc sức khỏe và dân số, kế hoạch hóa gia đình. Các
lớp tập huấn kỹ thuật nông, lâm nghiệp, tỉ lệ tham gia nam là 40,5%, còn nữ
là 22,8%, trong khi đó, các tỉ lệ tương ứng tham gia các lớp về dân số, kế
hoạch hóa gia đình là 22,6% và 43,5% (Phụ lục 11). Điều đáng chú ý là mặc
dù tỷ lệ phụ nữ đảm nhận việc chính trong nông nghiệp là lớn, nhưng cơ hội
tập huấn luôn thấp hơn nam giới. Ngoài những nguyên nhân liên quan đến cơ
hội học tập nói chung của phụ nữ như vướng bận gia đình, thì có thể còn
nguyên nhân từ cơ chế tổ chức lớp học, tiêu chuẩn học viên… Dù nguyên
nhân cụ thể là gì, thì thực trạng tổ chức tập huấn này, cũng không góp phần
nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực trong nông nghiệp, xét ở cả góc độ hiệu
quả sản xuất và hiệu quả đào tạo, tập huấn, khi người làm nghề không được
học và người học chưa hẳn đã làm nghề.
3.1.3.2. Tiếp cận các hoạt động cộng đồng
Xét riêng số lần tham gia tập huấn ở nhóm nam, nữ, số liệu cũng cho
thấy, tỷ lệ nam giới tham dự các lớp tập huấn kỹ thuật nông nghiệp cao hơn
nữ giới. Tỷ lệ nam giới đã nhiều lần dự tập huấn là 21,1% trong khi tỷ lệ này
ở nữ là 15,7%. Trước hết nam giới thường là chủ hộ nên họ được mời đi
họp. Nam giới là người đóng vai trò quyết định trong việc điều hành, đối
nội và đối ngoại của gia đình. Vẫn còn nhiều dân tộc còn giữ phong tục cản
trở phụ nữ tham gia các sinh hoạt cộng đồng như tang ma, cưới xin, hội
101

họp, hiện tượng này được gọi là “đi họp đội mũ, ra đồng đội nón”, có nghĩa
là nam giới thì đi họp còn phụ nữ thì đi đồng. Các số liệu cho thấy, nam giới
vẫn là nhân vật chính trong các hoạt động cộng đồng, nhưng cũng đang có sự
chia sẻ và chuyển dịch vai trò giữa nam và nữ.
Nếu theo tương quan nhóm dân tộc, có thể thấy nhóm dân tộc Tày,
Thái đánh giá cao sự tiến bộ phụ nữ, vai trò cộng đồng của phụ nữ lớn hơn
so với nhóm Mông, La Hủ. Do vậy địa vị của phụ nữ Thái, Tày cao hơn, họ
được bình đẳng, tự do tham gia các hoạt động xã hội. Ngoài ra phụ nữ Tày,
Thái có trình độ học vấn cao hơn, thông thạo tiếng phổ thông hơn phụ nữ
dân tộc Mông, La Hủ, nên họ có điều kiện tiếp cận nhiều hơn với các hoạt
động tuyên truyền. Do canh tác lúa nước, ruộng gần bản, nên phụ nữ Thái,
Tày không cần phải đi nương liên tục như phụ nữ Mông, nên họ cũng tham
gia họp đội sản xuất hoặc phụ nữ, được thường xuyên tiếp xúc với các
nhóm chị em, bạn bè. Trong khi đó phụ nữ Mông, khi lập gia đình sống lệ
thuộc hoàn toàn vào người chồng và hầu như không tham gia các hoạt động
xã hội, chế độ gia trưởng phụ quyền còn tồn tại mạnh mẽ. Phụ nữ Mông
hoàn toàn lệ thuộc vào đàn ông, công việc trong gia đình đều do đàn ông
quyết định.
3.1.3.3. Quyền quyết định trong tham gia hoạt động cộng đồng
Kết quả khảo sát cho thấy, Trong các nhóm công việc này của gia đình,
tỷ lệ người phụ nữ làm chính thấp nhất là 20,9%, cao nhất là 26,5%, điều này
cho thấy đây là một bước tiến bộ rõ rệt về vị thế của người phụ nữ. Sự hiện
diện của phụ nữ một cách thường xuyên với tư cách là người đại diện cho gia
đình, người chủ gia đình để dự các đám hiếu, hỉ, tiếp khách, làm việc với
chính quyền đoàn thể, tham gia hội họp bàn bạc và quyết định những vấn đề
quan trọng của cộng đồng - các lĩnh vực hoạt động vốn rất thành kiến giới
trong truyền thống này, là một bước tiến bộ quan trọng của phụ nữ DTTS, đó
thực sự là sự hòa nhập vai trò giới và thay đổi vị thế một cách tích cực.
102

Tuy đã có một tỷ lệ nhất định phụ nữ đảm nhận chính, hoặc cả hai vợ
chồng đều tham gia như nhau, nhưng nam giới vẫn là người giữ vai trò chính,
tỷ lệ nam giới tham gia các cuộc họp thường xuyên cao hơn phụ nữ. Một điều
đáng chú ý là khi đi họp, đa số phụ nữ các nhóm DTTS MNPB rất ít khi tham
gia phát biểu, vì họ thiếu kiến thức, ít hiểu biết về các nội dung họp, họ tự ti
mặc cảm và ngại nói trước đám đông. Hơn nữa do định kiến xã hội, trong các
cuộc họp thôn bản điều hành chủ yếu là nam giới, nhiều người trong số họ
chưa ý thức được việc khuyến khích phụ nữ phát biểu không phải lúc nào ý
kiến của phụ nữ cũng được nam giới ủng hộ. Có những phụ nữ phát biểu
hăng hái quá đã bị một số người (cả nam và nữ) cho là nam tính và nhìn họ
không mấy thiện cảm, cách đối xử này đã làm giảm sự nhiệt tình của chị em
và ảnh hưởng đến chất lượng đóng góp của họ.
3.1.3.4. Thụ hưởng lợi ích
Việc tham gia các hoạt động cộng đồng đem lại nhiều lợi ích cho đồng
bào DTTS, họ có thể thu nhận những thông tin mang tính thời sự ở địa
phương, cũng như để củng cố kỹ năng sinh kế và quan trọng hơn qua đó họ
ngày càng nhận ra giá trị của sự tham gia, để có được hiểu biết và để nói tiếng
nói của mình. Với phụ nữ DTTS, những cuộc họp này góp phần tăng cường
hạnh phúc cho họ, qua việc tạo thời gian nghỉ ngơi và giao tiếp xã hội, những
việc mà trước đây phụ nữ rất ít khi có điều kiện thực hiện, có thể thấy đây là
một lợi ích gián tiếp, tác động tích cực đến cuộc sống tình cảm của phụ nữ và
giúp họ cảm thấy hạnh phúc.
Hiện nay, việc tiếp cận và thụ hưởng các giá trị từ các hoạt động của
phụ nữ DTTS MNPB còn nhiều hạn chế so với nam giới. Theo tác giả luận
án, có ba lý do chính khiến nam giới có nhiều cơ hội, điều kiện để tham dự
các hoạt động cộng đồng hơn so với nữ. Thứ nhất, theo quan niệm phổ biến
truyền thống, đã trở thành những “chuẩn mực” trong phân công lao động của
gia đình, đàn ông là người hiểu biết hơn và họ giữ vai trò “lãnh đạo”, chủ hộ
103

trong gia đình và trong các sinh hoạt cộng đồng, phụ nữ phần đông là “trợ lý”
là người thừa hành công việc, quan niệm trên vô hình chung đã tạo cơ hội cho
nam giới được ưu tiên trong việc đi học, đi tập huấn, đi họp thôn xã, tiếp xúc
với thị trường, nắm bắt các thông tin, kỹ thuật mới, nâng cao giá trị đóng góp
của nam giới và khép lại cơ hội, sự tham gia và tiếng nói của phụ nữ trong các
công việc quan trọng của gia đình và cộng đồng. Thứ hai, phụ nữ vì phải dành
nhiều thời gian cho công việc nội trợ trong gia đình và chăm sóc con cái, nên
họ có ít điều kiện để tham gia sinh hoạt cộng đồng. Thực tế cho thấy, nếu
trong gia đình người vợ vừa phải lo kiếm sống, vừa phải lo công việc nội trợ,
chăm sóc con cái, thì họ không thể có thời gian để đọc báo, vui chơi giải trí.
Thời gian làm việc nhà của phụ nữ nhiều hơn rất nhiều so với nam giới, đối
với dân tộc Thái phụ nữ làm 75% việc nhà, còn dân tộc Mông, Dao phụ nữ
làm trên 90% việc nhà. Một kết quả nghiên cứu của tác giả Phan Thị Nhiệm
cho thấy phụ nữ làm việc 4309 giờ/ năm, vượt xa nam giới với 2955 giờ, gần
gấp rưỡi so với nam giới [49, tr.37].
Trong các phỏng vấn sâu của tác giả luận án, hầu hết các ý kiến đều
cho rằng, thời gian làm việc trong ngày của phụ nữ thường kéo dài hơn nam
giới. Ngoài thời gian dành cho sản xuất là tương đương giữa nam và nữ
(khoảng 8h/ngày), nam giới thường chăm sóc con cái dưới 1h, công việc gia
đình cũng rất ít, trong khi nữ giới phải mất 2 -3 giờ cho con cái và khoảng
bằng ấy thời gian cho nội trợ và dọn dẹp nhà cửa.
Mặt khác, việc phụ nữ dành hầu hết thời gian chăm sóc các thành viên
gia đình, cũng có nghĩa họ không có điều kiện tham gia các hoạt động trong
xã hội. Vì vậy mà, phụ nữ không có điều kiện để tiếp cận với các cơ hội phát
triển, học hỏi và trao đổi kiến thức tăng gia sản xuất hay tiếp cận những
nguồn lực kinh tế có thể giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của bản thân và
gia đình. Thứ ba, người phụ nữ còn mang tâm lý tự ti, ngại tiếp xúc do trình
độ học vấn thấp.
104

Như vậy, có nhiều nguyên nhân cản trở người phụ nữ tham gia hoạt
động cộng đồng, chủ yếu là do nguyên nhân khách quan từ dư luận cộng
đồng, xã hội và ảnh hưởng của sự phân công lao động dựa trên cơ sở giới tính
trong nhiều gia đình các DTTS. Tuy nhiên, nguyên nhân chủ quan từ phía bản
thân phụ nữ là yếu tố không nhỏ - đó là thái độ tự ty, mặc cảm, ngại giao tiếp
với cộng đồng, do hạn chế về vốn hiểu biết xã hội, cũng như trình độ học vấn.
Vì vậy, phụ nữ muốn khẳng định tiềm năng, vị thế xã hội của mình trong các
hoạt động cộng đồng, thì bên cạnh sự quan tâm của nam giới, chị em phải tự
vượt lên chính mình, tự học hỏi nâng cao trình độ hiểu biết của mình và tích
cực, chủ động tham gia công tác xã hội.
Tóm lại, mối quan hệ giới trong các cộng đồng DTTS không tĩnh tại,
mà cũng đã có sự thay đổi rất nhiều, cùng với sự biến động của đời sống xã
hội, của quá trình định canh định cư, quá trình đô thị hóa và tác động của
truyền thông đại chúng, việc giảm nhẹ các nghi lễ thực hành truyền thống
cũng dẫn đến những quan niệm cởi mở hơn về vai trò và vị thế của vợ và
chồng. Theo đánh giá của bản thân phụ nữ DTTS MNPN, cuộc sống của họ
đã thay đổi rất nhiều, nhiều phụ nữ cũng đã không còn cho rằng chỉ “việc
nhà” mới là việc của mình. Mặt khác, nhiều thanh niên cũng không còn cảm
thấy “xấu hổ” nếu làm “việc nhà”, chẳng hạn việc chồng giặt quần áo cho vợ,
giúp việc nhà, nấu ăn, dọn dẹp, chăm con, chăm lợn gà.
Tuy nhiên, trong gia đình DTTS MNPB hiện nay, về cơ bản vẫn còn
mang nhiều định kiến giới, phân công lao động vẫn tuân theo quan điểm
truyền thống “việc đàn ông”, “việc đàn bà”. Sự phân công này xuất phát từ
quan niệm nam giới là “phái mạnh” phải đảm nhận những “việc nặng”, cần
“tính toán” và “kỹ thuật,” còn phụ nữ thuộc “phái yếu” nên phụ trách những
“việc nhẹ”, “công việc không tên”. Sự phân biệt “việc đàn ông” và “việc đàn
bà” trên thực tế đã làm giảm giá trị lao động của phụ nữ, chính điều này đã
105

cản trở họ trong việc tiếp cận, kiểm soát các nguồn lực để phát triển, hạn
chế quyền quyết định trong lao động gia đình. Trong gia đình người vợ vẫn
bị lệ thuộc vào người chồng, người nam giới. Trong khi thực hiện khối
lượng công việc nội trợ và các công việc chăn nuôi, trồng trọt nhiều hơn
người chồng thì người vợ chỉ có tiếng nói quyết định về các vấn đề quan
trọng ít hơn nhiều so với người chồng. Điều cần chú ý, BĐG trong tiếp cận
và hưởng thụ các nguồn lực của gia đình vẫn còn khoảng cách khá lớn giữa
nam và nữ, giữa vợ và chồng. Trên thực tế thấy rằng, việc thực hiện BĐG
trong lao động gia đình của DTTS MNPB còn đứng trước rất nhiều khó
khăn, thử thách.

3.2. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG
GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC
VIỆT NAM
3.2.1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu về tiền đề kinh tế để thực hiện bình
đẳng giới trong lao động gia đình với thực trạng kinh tế nghèo, lạc hậu ở
miền núi phía Bắc hiện nay
Thực tế cho thấy khi kinh tế - xã hội phát triển sẽ mở rộng cơ hội việc
làm, tăng thu nhập, giảm đói nghèo, tạo điều kiện các gia đình đầu tư vào
chăm sóc sức khỏe và giáo dục cho con cái, nhờ đó bất bình đẳng giới cũng sẽ
được thu hẹp. Ngược lại, trong điều kiện kinh tế khó khăn, thu nhập thấp buộc
các gia đình phải tính toán, cắt giảm các khoản chi tiêu, đầu tư trước hết là
giáo dục, y tế, dinh dưỡng… trong bối cảnh đó, phụ nữ và trẻ em gái thường
chịu thiệt thòi hơn nam giới do phụ nữ không có quyền quyết định, có trình
độ học vấn thấp hơn và có ít cơ hội hơn và những điều đó khiến họ trở thành
những người nghèo nhất trong số những người nghèo. Nghèo đói không chỉ
ảnh hưởng đến cơ hội phát triển, hưởng thụ của phụ nữ, mà nó còn làm gia
tăng thêm gánh nặng cho họ trong lao động sản xuất và tái sản xuất để duy trì
cuộc sống gia đình.
106

Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã triển khai thực hiện
nhiều chủ trương, chính sách, chương trình, dự án đầu tư phát triển kinh tế
- xã hội nhằm nâng cao đời sống nhân dân ở MNPB, theo kết quả khảo sát
mức sống hộ gia đình năm 2012 của Tổng cục Thống kê, có 29,8% hộ gia
đình MNPB tự đánh giá mức sống đã cải thiện hơn nhiều, 57,8% hộ nhận
xét cuộc sống đã cải thiện hơn một ít [71, tr.348]. Tuy nhiên, nghèo đói vẫn
là vấn đề nan giải của khu vực này, tỷ lệ hộ nghèo của vùng là cao nhất
nước, gấp đôi so với trung bình của cả nước [72, tr.739]. Thu nhập bình
quân đầu người một tháng theo giá hiện hành, của vùng MNPB thấp nhất
trong cả nước, cụ thể trung bình cả nước năm 2010: 1.387.000; 2012:
2.000.000, thì vùng MNPB chỉ đạt tương ứng là 905.000; 1.258.000 [72,
tr.720]. Nghèo đói, thu nhập thấp dẫn đến con người ta ít có cơ hội nghĩ
đến việc hưởng thụ cuộc sống và dường như cũng không có thời gian quan
tâm tới nhiều vấn đề xã hội, trong đó có vấn đề BĐG trong lao động gia
đình. Song song với tình trạng kinh tế kém phát triển, sẽ là sự kém phát
triển về xã hội, trong đó có vấn đề bất BĐG, mà biểu hiện là phân công lao
động bất hợp lý giữa nam và nữ.
Nghèo đói là sự phản ánh trực tiếp trình độ lực lượng sản xuất, khoa
học - kỹ thuật lạc hậu, phân công lao động xã hội còn kém phát triển. Trong
các yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất, công cụ lao động là yếu tố
động, căn bản nhất, quyết định tới sự phân công lao động, đồng thời nó cũng
đóng vai trò quan trọng quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tính
chất thô sơ, thủ công của công cụ lao động trong gia đình DTTS MNPB, là
sự thể hiện trình độ thấp kém của lực lượng sản xuất - một trong những
nguyên nhân trực tiếp của nghèo đói. Do những điều kiện, đặc điểm tự nhiên
ít phù hợp với các loại máy móc cơ giới, do hoàn cảnh lịch sử để lại, nên các
công cụ sản xuất ở MNPB chưa phải là hiện đại, vẫn mang nhiều nét thô sơ
tiền công nghiệp như cái cuốc, cái cày, cái bừa… và sử dụng sức kéo của
trâu bò là chính, nhiều biện pháp thủ công còn phổ biến như: gặt lúa nương
107

từng bông, giã gạo bằng tay, gieo trồng bằng chọc lỗ tra hạt…, nên cường độ
làm việc của phụ nữ rất cao (vì phụ nữ là người đảm nhiệm chính trong
những công việc này). Cường độ lao động cao, khiến phụ nữ ít có thời gian
nghỉ ngơi, hưởng thụ văn hóa, mất cơ hội học tập, nâng cao trình độ, thiếu
cơ hội tiếp cận thông tin. Hoàn cảnh đói nghèo và thu nhập của gia đình
thấp, đã tăng gánh nặng cho phụ nữ trong việc kiếm sống cho gia đình, tạo
nên hình ảnh người phụ nữ DTTS cam chịu, sẵn sàng hy sinh cho chồng con,
chấp nhận bất BĐG.
Chính vì công cụ sản xuất thô sơ, năng suất lao động thấp, nên trong
quá trình sản xuất, gia đình cần sử dụng đến nhiều lao động, nên trẻ em DTTS
có xu hướng tham gia lao động rất sớm, nhất là trẻ em gái. Đến 15 tuổi nhiều
em gái DTTS MNPB đã tham gia làm việc như người trưởng thành, trong khi ở
độ tuổi này, em gái dân tộc Kinh, dân tộc Hoa phần lớn còn đang đi học trung
học phổ thông và sau đó tiếp tục học nghề, cao đẳng, đại học. Do vậy, tỷ lệ
tham gia thị trường lao động của nữ DTTS là 82,9%, cao hơn đáng kể so với tỷ
lệ này của nữ dân tộc Kinh - Hoa là 70,2%. Tỷ lệ nữ dân tộc Mông tham gia thị
trường lao động cao nhất với 94,2%, dân tộc Mường 89,8% và dân tộc Thái là
88,5% [88, tr.5].
Từ các đặc điểm trên của lực lượng sản xuất, tất yếu dẫn đến những
đặc điểm riêng biệt về quan hệ sản xuất của vùng MNPB. Với một lực lượng
sản xuất lạc hậu, kém phát triển, thì các quan hệ sản xuất cũng mang những
hình thức lạc hậu, thể hiện ở tình trạng manh mún trong sản xuất, đời sống
du canh, du cư, nền kinh tế mang tính tự cung, tự cấp. Hình thức kinh tế phổ
biến nhất của đồng bào DTTS MNPB là kinh tế hộ gia đình, tự cung tự cấp,
chứ không phải theo kiểu kinh tế hộ gia đình ở vùng đồng bằng để sản xuất
hàng hóa. Dạng thức kinh tế hộ gia đình loại này chứa đựng quan hệ giữa
những người sản xuất là quan hệ huyết tộc, đàn ông là lực lượng sản xuất
chính, phụ nữ sinh con và hái lượm, trồng trọt. Đồng bào dân tộc chủ yếu
108

sống bằng nương rẫy, kinh tế mang nặng tính tự cung, tự cấp. Với loại hình
kinh tế nương rẫy, trong cơ chế sản xuất tự cung tự cấp khép kín, nên phân
công lao động trong mỗi gia đình rất chặt chẽ, bố mẹ và con cái, đều có công
việc cụ thể, không thể thiếu hoặc vắng mặt một lao động nào. Do đó điều
kiện đi học của người dân, nhất là phụ nữ và trẻ em, gặp nhiều khó khăn.
Phụ nữ ở khu vực này, thường làm những công việc không mang lại giá trị
kinh tế cao, hoặc những công việc mà không được tính công như công việc
tái sản xuất lao động. Do đó tiếng nói của họ ít có trọng lượng, thường
không có vai trò quyết định trong những vấn đề lớn của gia đình. Đây chính
là nguyên nhân sâu xa dẫn đến việc người phụ nữ ít có cơ hội, điều kiện để
phát huy tiềm năng bản thân, dẫn đến bất BĐG. Điều này cần phải được
nhận thức rõ, từ đó có giải pháp thiết thực để phát triển kinh tế, từng bước
xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, tạo việc làm, tăng thêm thu
nhập cho phụ nữ. Thực chất, đây chính là một trong những điều kiện cần
thiết để giải phóng phụ nữ khỏi đói nghèo và bất BĐG, vì những điều kiện
kinh tế - xã hội khác nhau sẽ là nhân tố quyết định sự khác biệt của các hình
thức hôn nhân, gia đình, cũng như xác định vị thế của các thành viên nam,
nữ trong gia đình.
3.2.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao dân trí, nhận thức với thực
trạng trình độ dân trí thấp, nhận thức về bình đẳng giới trong lao động
gia đình của cộng đồng xã hội nói chung và đồng bào dân tộc thiểu số nói
riêng còn chưa cao
Nhiều nhà kinh tế học và các nhà hoạch định chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội đều thống nhất: xét đến cùng thì tài nguyên sức người quyết định
tốc độ phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia hay khu vực. Trình độ học
vấn là chìa khóa mở đường cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, là một
biện pháp hàng đầu nhằm thực hiện BĐG nói chung và giải phóng phụ nữ
thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu, bất bình đẳng.
109

Trong những năm qua, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào
MNPB đã có nhiều thay đổi, trình độ học vấn đã được nâng lên, nhưng so với
trình độ dân trí và phát triển giáo dục, đào tạo với các vùng trong cả nước thì
khoảng cách chênh lệch còn lớn. Ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, đời sống
kinh tế, văn hoá, xã hội thấp, điều kiện học tập thiếu thốn, thì trình độ dân trí
của đồng bào DTTS còn nhiều hạn chế. Theo kết quả chủ yếu điều tra dân số
và nhà ở giữa nhiệm kỳ thời điểm 1.4.2014, thì MNPB có tỷ lệ dân số từ 5
tuổi trở lên chưa bao giờ đi học cao nhất cả nước (9,0%) [74, tr.4]. Tỷ lệ đi
học chung chia theo cấp học của MNPB rất thấp so với các vùng khác trong
cả nước chỉ đạt 89,9% (chỉ cao hơn Tây Nguyên) [71, tr.75]. Tỷ lệ dân số từ
15 tuổi trở lên biết chữ của vùng MNPB thấp nhất so với cả nước (89,5%),
hai tỉnh có tỷ lệ dân số 15 tuổi trở lên biết chữ thấp nhất nước là Điện Biên
(71,4%) và Lai Châu (64,3%), trong khi trung bình của cả nước năm 2013 là
94,8% [72, tr.123]. Số học sinh người DTTS học tới cấp 3 trong tổng số
những học sinh DTTS đang học là rất thấp cụ thể tính đến thời điểm
30.9.2013 Tỉnh Hà Giang có 124.855 học sinh DTTS đang học thì chỉ có
10612 học sinh cấp 3 (chiếm 8,49%), Cao Bằng 15,9%; Lào Cai 10,2%; Lạng
Sơn 20,17%; Điện Biên 12,2%; Lai Châu 7,8%. Tỷ lệ phụ nữ từ 15 -24 tuổi
biết chữ ở khu vực MNPB cũng thấp nhất cả nước 87,3% [76, tr.190].
Trình độ dân trí thấp cản trở sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và
hạn chế thực hiện quyền bình đẳng dân tộc, cản trở việc khai thác các tiềm
năng của vùng đồng bào dân tộc. Trình độ học vấn thấp đã hạn chế việc tiếp
thu các kiến thức khoa học kỹ thuật tiên tiến, làm chậm quá trình thay đổi tập
quán sản xuất lạc hậu của người dân, trực tiếp ảnh hưởng đến hiệu quả thực
hiện các chương trình, dự án của Nhà nước, của các tổ chức quốc tế đối với
miền núi và vùng đồng bào DTTS.
Trình độ học vấn của cả nam và nữ đều ảnh hưởng đến thực hiện BĐG,
tuy nhiên trình độ học vấn của phụ nữ ảnh hưởng lớn hơn đến việc thực hiện
110

BĐG trong gia đình, cũng như ngoài xã hội. Phụ nữ vừa là người vợ, người
mẹ, người thầy, ảnh hưởng của họ rất lớn, không chỉ đối với việc xây dựng và
giữ gìn hạnh phúc gia đình, mà còn có vai trò quan trọng trong việc phát triển
nguồn lực con người trong tương lai của đất nước. Một khi người phụ nữ
được giáo dục, đào tạo đầy đủ, trình độ được nâng lên, họ sẽ nhận thức và
thực hiện tốt kế hoạch hóa gia đình, có kiến thức và biết nuôi dạy con tốt,
thực hiện quyền bình đẳng tốt hơn trong gia đình.
Với xuất phát về học vấn thấp hơn nam giới, khi lập gia đình điều kiện
học hành vươn lên của phụ nữ lại càng khó khăn, họ phải chịu những thiệt
thòi mới. Trình độ học vấn ảnh hưởng lớn đến cơ cấu nghề nghiệp của phụ nữ
DTTS, đa số họ làm việc trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, với lao
động thủ công là phổ biến. Năm 2014, tỷ lệ đã qua đào tạo chuyên môn kỹ
thuật của lao động nữ DTTS chỉ là 7,2% so với lao động nữ dân tộc Kinh -
Hoa là 17,6%. Trình độ của phụ nữ Mông thấp nhất trong các DTTS, chỉ có
1,4% đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật [88, tr.4]. Điều tra Lao động - Việc
làm năm 2014 cho thấy, tỷ lệ nữ DTTS có công việc làm công ăn lương là
37,9% so với tỷ lệ 43% của nữ Kinh - Hoa. Những nhóm nữ DTTS có công
việc làm công, ăn lương chiếm tỷ lệ thấp nhất là nữ dân tộc Mông. Do khả
năng tiếp cận giáo dục còn hạn chế, phụ nữ DTTS ít cơ hội có việc làm được
trả lương hoặc các công việc phi nông nghiệp, hơn 77,1% phụ nữ DTTS ở
khu vực nông thôn là lao động tự làm hoặc lao động gia đình không hưởng
lương trong nông nghiệp. Những dân tộc có tỷ lệ nữ là lao động tự làm trong
nông nghiệp trên 90% như: dân tộc Mông 98,7%, dân tộc Thái gần 92%, dân
tộc Nùng 90,5% và dân tộc Mường 90%. Tình trạng này đã tạo cho họ nhận
thức chỉ cần làm với kinh nghiệm cổ truyền, không sáng tạo, vì thế không
thúc đẩy lao động nữ học tập văn hoá, nâng cao trình độ chuyên môn. Họ
chấp nhận bớt giờ ngủ, nghỉ, hạn chế đến mức thấp nhất việc hưởng thụ văn
hoá, việc giao tiếp, tham gia các hoạt động tinh thần để làm thêm việc đồng
111

ruộng và việc gia đình, dẫn tới phụ nữ ít có điều kiện được tiếp cận với giáo
dục, đào tạo để nâng cao trình độ văn hóa, càng không có điều kiện để tiếp
cận các phương tiện thông tin, họ trở nên lạc hậu với thực tế, nhận thức xã hội
bị hạn chế, gặp nhiều khó khăn trong cơ chế thị trường.
Thực tiễn đời sống đã chứng minh, để thực hiện BĐG trong cộng đồng
dân cư, thì điều có ý nghĩa quan trọng là tổ chức Đảng, chính quyền và các tổ
chức đoàn thể cần xây dựng chương trình, kế hoạch, tổ chức các hoạt động
cũng như kiểm tra, giám sát một cách thường xuyên, có tính định kỳ. Để vấn
đề BĐG được hiện thực hóa trong cuộc sống, đặc biệt là đối với khu vực
MNPB, nơi đang phải đối mặt với nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội, cũng
như các hủ tục lạc hậu, đòi hỏi sự nỗ lực và quyết tâm của đội ngũ cán bộ cơ
sở trong việc triển khai, chỉ đạo các chủ trương, chính sách về BĐG, như Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều
xong xuôi”. Tuy nhiên, số liệu điều tra cho thấy, sự hiểu biết của đội ngũ cán
bộ cơ sở ở MNPB về vấn đề này còn hết sức hạn chế và bất cập. Có tới 80,4%
cán bộ trong diện khảo sát, trả lời chưa từng được nghe và tiếp cận với
chương trình lồng ghép giới, tỷ lệ cán bộ trả lời đúng Luật BĐG có bao nhiêu
lĩnh vực lại hết sức khiêm tốn (9,2%) và có tới 58,8% trả lời không biết Luật
có mấy lĩnh vực. Điều này cho thấy, việc nghe đến Luật và nắm được các lĩnh
vực mà Luật quy định đối với đội ngũ cán bộ cấp cơ sở đang có một khoảng
cách khá lớn. Đây là một trong những chỉ báo phản ánh mức độ quan tâm của
cán bộ cơ sở tại MNPB với chính sách BĐG còn hết sức mờ nhạt. Kết quả
phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các
cấp cũng đã phản ánh thực tế vẫn còn một số tổ chức cấp cơ sở chưa quan tâm
đến việc đưa vấn đề BĐG vào các chương trình, kế hoạch hoạt động của địa
phương mình, nếu có đưa cũng chỉ dừng ở mức chung chung, mang tính “hô
khẩu hiệu”, mà chưa thực sự coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng
của địa phương.
112

3.2.3. Mâu thuẫn giữa yêu cầu xây dựng gia đình văn hóa, tạo điều
kiện thực hiện bình đẳng giới hiệu quả với sự tồn tại dai dẳng của nhiều
hủ tục lạc hậu
Gia đình là môi trường tuyên truyền, giáo dục tốt nhất về bình đẳng
giới. Gia đình đóng vai trò cơ bản trong việc định hình mối quan hệ giới ngay
từ những buổi đầu của cuộc sống con người và truyền tải chúng từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Gia đình là nơi xã hội hóa vấn đề giới, truyền lại các kiến
thức và kỹ năng về giới. “Hạt nhân của xã hội là gia đình”, do vậy mà xây
dựng gia đình văn hóa mới có ý nghĩa rất quan trọng trong tình hình hiện nay,
góp phần phát triển lực lượng sản xuất, ổn định và cải thiện đời sống, thực
hiện kế hoạch hóa dân số, giữ gìn và phát huy những truyền thống đạo đức,
văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Muốn xóa bỏ bất BĐG trong lao động gia đình
DTTS, việc làm cần thiết là đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hóa,
vì đây là môi trường trực tiếp nhất để thiết lập quan hệ bình đẳng giới trong
gia đình. Tuy nhiên, việc xây dựng gia đình văn hóa ở MNPB lại đang đứng
trước những thách thức to lớn từ những hủ tục đã tồn tại từ rất lâu như tảo
hôn, hút thuốc phiện, nghiện rượu, tâm lý tự ti…
Do tập quán trồng và sử dụng thuốc phiện, nên từ lâu vấn đề nghiện hút
thuốc phiện đã trở thành một tệ nạn xã hội nhức nhối trên địa bàn của nhiều
DTTS MNPB, đặc biệt là người Mông và La Hủ. Việc nghiện hút đã làm cho
kinh tế gia đình đã khó khăn lại càng thêm khánh kiệt, bên cạnh đó, người
nghiện không đủ sức khỏe để lao động do đó đã trở thành gánh nặng của gia
đình, dẫn đến việc thiếu lương thực trầm trọng. Nghiện hút đã làm giảm hiệu
quả của các chương trình, dự án của Nhà nước, đang triển khai tại địa bàn
người La Hủ, khi nhận được gạo trợ cấp của Nhà nước hay nhận tiền, hàng, quà
cứu trợ của các cơ quan đoàn thể…, những gia đình có người nghiện thường
bán hoặc đổi lấy thuốc phiện để hút. Việc chồng, con họ nghiện ma túy không
chỉ là cho kinh tế gia đình đi đến chỗ kiệt quệ, mà còn phá vỡ các mối quan hệ
113

trong gia đình, đe dọa tương lai của các thành viên khác. Hơn ai hết, những
người mẹ, người vợ là những người phải gánh chịu những hậu quả nặng nề
nhất trong mọi khía cạnh về kinh tế, tinh thần và sức khỏe do hành vi nghiện
ma túy của chồng con gây ra.
Do thiên nhiên khắc nghiệt núi đồi chiếm đa số, dân cư sống thưa
thớt, thậm chí “mỗi nhà một quả đồi”, “ra thấy núi vào thấy núi”, nên hình
thành ở đồng bào DTTS MNPB nếp nghĩ trực quan, cảm tính, tư tưởng tiểu
nông sản xuất nhỏ, chỉ thấy cái trước mắt chứ không thấy cái lâu dài, chỉ
tin những cái “nhìn thấy”, ”sờ thấy” chưa có tầm mắt nhìn ra bên ngoài,
nên suy nghĩ bó hẹp làng, bản địa phương mình. Tâm lý, tập quán gắn liền
với sản xuất nhỏ đã tạo cho con người lối sống gia trưởng, mệnh lệnh áp
đặt một chiều trên bảo dưới nghe, trọng nam khinh nữ. Nhiều dân tộc sống
du canh du cư nay đây mai đó vẫn còn tồn tại, dẫn đến cách suy nghĩ, cách
làm của người dân mang tính tạm thời thiếu tính chiến lược lâu dài. Điều
này ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của người dân, đến việc xây dựng gia
đình văn hóa, thực hiện BĐG trong lao động gia đình. Đồng bào DTTS
thường có lối tư duy đơn giản, thiếu tính “mở” và “động”, được hình thành
trong môi trường kinh tế xã hội khép kín, ít giao lưu với thế giới bên ngoài.
Ngay ở trẻ nhỏ cũng đã có tâm lý khuôn mình trong bản làng, nương rẫy,
ngại học tập, phấn đấu để thoát ly, vì thế không thích ứng với nhu cầu tái
cơ cấu lao động trong thời kỳ CNH, HĐH. Lối tư duy đơn giản, khép kín
cũng kìm hãm sự phát triển của tư duy “động”, “mở”, nhất là trong điều
kiện kinh tế thị trường được xác lập với tính năng động và phức hợp của nó
đặt ra nhiều vấn đề phát triển trí lực con người tương ứng. Một bộ phận
đồng bào có tính tự ti, ỷ lại, thiếu chí tiến thủ, ngại cạnh tranh, nổi bật nhất
của người La Hủ hiện nay. Tâm lý này được biểu hiện cụ thể ngay trong
cuộc sống hàng ngày của các gia đình, nguồn sống chính của nhiều gia
đình La Hủ là phụ thuộc vào rừng. Hàng ngày, họ vào rừng với con dao và
114

chiếc gùi, ở đó sẽ tìm được các loại rau, củ, quả, chim thú, chuột bọ có thể
nuôi sống qua ngày, dần dần lối sống dựa vào khai thác tự nhiên đã ăn sâu
trong tâm thức, hình thành ở họ một thói quen, nếp nghĩ cứ có rừng là sống
được, mọi nhu cầu cuộc sống đều trông chờ vào khai thác những sản vật có
sẵn trong rừng. Đây chính là biểu hiện của tâm lý “trông chờ, ỷ lại vào
rừng”, điều này được cán bộ địa phương đúc kết trong khẩu ngữ quen thuộc
“đói không lo, no không mừng” (ổ mứa mà cô, ổ cha pố mà cô). Từ năm
2009 trở lại đây, đồng bào La hủ được hưởng nhiều chính sách của Đảng,
Nhà nước, các cấp chính quyền, điển hình nhất là chính sách trợ cấp gạo
của Nhà nước cho các hộ gia đình theo định mức 15kg/người/tháng, bình
quân 4 tháng/ người/năm. Khi nhận được gạo, người La Hủ yên tâm sẽ có
mấy tháng không phải lao động, cứ ở nhà ăn hết gạo, khi nào đối mặt với
cái đói thì lại vào rừng. Đó là chưa kể đến các bản xa trung tâm xã, khi
nhận gạo trợ cấp, do khả năng có hạn, nên đồng bào đổi/bán bớt một phần
gạo để trả tiền công vận chuyển, hoặc đổi lấy rượu uống. Song hành với
tâm lý trông chờ, ỷ lại là không biết tích lũy, người La Hủ khi nhận được
tiền rừng, thì không gì ngăn cản được họ ăn uống và tiêu xài, có thể thấy
điều này ảnh hưởng không nhỏ tới việc phát triển kinh tế gia đình, xây
dựng gia đình văn hóa, tạo tiền đề để thực hiện BĐG.
3.2.4. Mâu thuẫn giữa xu thế tất yếu của việc giải phóng phụ nữ với
tâm lý tự ti, an phận của phụ nữ dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc
Bình đẳng nam nữ một cách toàn diện, triệt để là lý tưởng mà nhân loại
đã theo đuổi nhiều thế kỷ. Đầu thế kỷ XIX, nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa
không tưởng Pháp S.Phurie đã nhận định: Trình độ giải phóng phụ nữ là
thước đo trình độ phát triển của xã hội. Luận điểm này tiếp tục được khẳng
định trong học thuyết Mác ngay từ khi nó ra đời và được phát triển ở trình độ
mới cao hơn ở các giai đoạn tiếp theo. Những luận điểm trên đã cổ vũ cho
nhiều phong trào đấu tranh đòi quyền bình đẳng giữa nam và nữ, trở thành
115

một trong những mục tiêu đấu tranh của nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới
trước đây và cho tới ngày nay.
Việc thực hiện BĐG nói chung và BĐG trong lao động gia đình DTTS
MNPB hiện nay còn gặp nhiều trở ngại. Bên cạnh các nguyên nhân về điều
kiện kinh tế, điều kiện xã hội, làm cho địa vị của phụ nữ luôn thấp kém hơn
nam giới, còn có nguyên nhân cơ bản nhất là do phụ nữ chưa nhận thấy rõ vị
trí, vai trò của mình trong gia đình và ngoài xã hội, còn thiếu tự tin, chưa thật
sự cố gắng vươn lên trong mọi lĩnh vực để khẳng định mình.
Do ảnh hưởng lâu dài của tập tục truyền thống, nên các định kiến xã
hội về giới không chỉ ăn sâu, bén rễ trong nhận thức của nam giới, mà còn in
đậm chính ngay trong tâm tưởng của phụ nữ DTTS. Nhiều người vẫn giữ
quan niệm về phân công lao động truyền thống đối với phụ nữ, yêu cầu phụ
nữ cần phải đặt gia đình lên trên hết, thậm chí hy sinh cả sức khỏe, nguyện
vọng cá nhân, phải tuân theo quyền lực của nam giới. Kết quả là phụ nữ
không thể biết đến, hoặc không thể thực hiện được quyền của họ, mặc dù đã
được pháp luật công nhận.
Bản thân người phụ nữ DTTS MNPB hiện nay, chưa thay đổi cách nhìn
truyền thống về vai trò của mình trong gia đình và ngoài xã hội. Tư tưởng an
phận, tự ti còn phổ biến, chị em vẫn bằng lòng chấp nhận quan niệm rằng:
phục vụ vô điều kiện cho chồng con là “chức năng”, là “thiên chức”, là sự hy
sinh, là nữ tính của người phụ nữ trong gia đình. Ở các mức độ khác nhau,
thừa nhận quan niệm này, tự phụ nữ đã gán cho mình những trách nhiệm
chính rất nặng nề trong các công việc nội trợ, chăm sóc con cái và các thành
viên trong gia đình, trong khi họ là người thực hiện chính nhiệm vụ tái sản
xuất sinh học ra con người và chịu trách nhiệm sản xuất như nam giới. Đồng
nghĩa với việc lao động quá sức, sự hưởng thụ của phụ nữ bị coi là thứ yếu,
thậm chí không được tính đến, đây được coi là dạng bạo lực lao động mà nạn
nhân chủ yếu là phụ nữ.
116

Theo kết quả điều tra của MICS 2014, thì số phần trăm phụ nữ từ 15 -
49 tuổi tin rằng người chồng có quyền đánh đập vợ mình của các tỉnh MNPB
là tương đối cao, có một số chỉ số là cao nhất so với các vùng trong cả nước,
cụ thể như sau: nếu đi chơi mà không nói với chồng 13,0%; nếu bỏ bê con cái
26,2%; nếu cãi lại chồng 17,4%; nếu từ chối quan hệ tình dục với chồng
6,1%; nếu làm cháy thức ăn 1,7%; nếu không làm việc nhà 9,6%; nếu nghi
ngờ không chung thủy 13,1%; nếu bị phát hiện không chung thủy 43,9%; bất
kỳ lý do nào trong 8 lý do 52,4% [76, tr.235]. Đáng lưu ý là có tới 52,4% phụ
nữ được khảo sát cho rằng, chồng có quyền đánh vợ khi vợ mắc một trong
tám lỗi đưa ra, chứng tỏ nhận thức của phụ nữ về bạo lực gia đình là chưa đầy
đủ, những suy nghĩ kiểu như nam giới có quyền được uống rượu cả ngày, hay
nam giới có quyền chửi mắng, đánh đập vợ con vẫn còn tồn tại như điều cố
hữu trong tư tưởng của phụ nữ nơi đây. Với cách nghĩ đơn giản, nhiều chị em
chấp nhận những hành vi thô bạo của các ông chồng với quan điểm cho rằng
“phải biết thông cảm”, việc chấp nhận các hành vi bạo lực gia đình của phụ
nữ DTTS là khá rõ ràng.
Với tính tự ti, an phận, phụ nữ DTTS chưa thật sự tích cực phát huy
quyền dân chủ tham gia bàn bạc những vấn đề chung của cộng đồng, cũng
như của gia đình, chưa biết vận động nam giới tham gia, chia sẻ cùng mình
trong công việc nội trợ, chưa chủ động nắm bắt thông tin về BĐG, chưa thật
sự tích cực tham gia sinh hoạt các nhóm, hội do phụ nữ tổ chức. Nhiều chị
em do thiếu hiểu biết và do hệ quả của quá trình giáo dục trên cơ sở các định
kiến về giới, nên chấp nhận quan niệm việc làm “ra tiền” và “không ra tiền”,
vì thế hầu hết phụ nữ DTTS chấp nhận làm nhiều việc hơn chồng để chồng
nghỉ ngơi. Điều này không những làm tăng gánh nặng cho phụ nữ, ảnh
hưởng đến sức khỏe, cơ hội học tập và điều kiện tham gia công việc xã hội
của phụ nữ, mà còn khiến giá trị công việc của phụ nữ không được gia đình
và cộng đồng đánh giá đúng.
117

Vì vậy, muốn thực hiện BĐG, bản thân phụ nữ cần phải nâng cao nhận
thức cho chính mình, bản thân phụ nữ phải tự cởi trói cho mình khỏi vòng
kim cô của tư tưởng tự ti, an phận thủ thường. Khắc phục sự tự ti, an phận,
vượt khó khăn tự vươn lên khẳng định mình thì bình đẳng, bình quyền mới
được hiện thực hóa trong cuộc sống.

Kết luận chương 3

Sự nghiệp đổi mới của đất nước ta đã làm thay đổi trên nhiều lĩnh vực
của đời sống xã hội. Gia đình là một thiết chế xã hội cũng có những biến đổi
theo xu hướng tích cực, tiến bộ, đặc biệt các mối quan hệ trong gia đình ngày
càng hướng tới sự dân chủ, bình đẳng hơn. Vai trò của người phụ nữ trong gia
đình và ngoài xã hội ngày càng được khẳng định hơn.
MNPB là vùng đất có nhiều tiềm năng và nguồn lực phát triển về kinh
tế, công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng, lãnh đạo trong 30 năm
qua đã làm cho đời sống vật chất và tinh thần của người DTTS được nâng
cao, đặc biệt là phụ nữ không ngừng được cải thiện, vị thế của họ ngày càng
được nâng lên. Mối quan hệ giới trong các cộng đồng DTTS không tĩnh tại,
mà cũng đã có sự thay đổi rất nhiều, cùng với sự biến động của đời sống xã
hội, của quá trình định canh định cư, quá trình đô thị hóa và tác động của
truyền thông đại chúng. Trong tất cả các hoạt động sản xuất, tái sản xuất, hoạt
động cộng đồng, vị thế vai trò của phụ nữ ngày càng được nâng cao, họ đã có
nhiều cơ hội trong việc tiếp cận, ra quyết định cũng như hưởng thụ lợi ích từ
lao động gia đình. Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế kém phát triển, trình độ
dân trí còn thấp, các tư tưởng, tập quán cũ, tâm lý trọng nam khinh nữ vẫn
còn tồn tại, đã ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống hàng ngày của người dân,
nên còn nhiều biểu hiện chưa bình đẳng giữa nam và nữ trong hoạt động xã
hội và gia đình. So với phụ nữ ở các đô thị, đồng bằng, phụ nữ dân tộc Kinh,
118

thì phụ nữ DTTS MNPB trên mọi phương diện đều khó khăn hơn, kể cả
những điều kiện để phát huy khả năng của mình.
Việc thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB vẫn đang
đứng trước hàng loạt thách thức, mâu thuẫn như: tiền đề kinh tế còn lạc hậu,
nghèo nàn; nhận thức trình độ dân trí còn chưa tương xứng với yêu cầu thực
hiện BĐG; nhiều hủ tục lạc hậu cản trở việc xây dựng gia đình văn hóa; trong
khi giải phóng phụ nữ đã trở thành xu thế tất yếu thì một bộ phận không nhỏ
phụ nữ DTTS vẫn mang tâm lý tự ti an phận.
Đây thật sự là những thách thức lớn đối với việc thực hiện BĐG trong
lao động gia đình DTTS trong sự vận động và phát triển của xã hội. Để khắc
phục được điều này, đòi hỏi phải có một loạt các giải pháp đồng bộ, trên tất cả
các lĩnh vực, để tạo điều kiện cho phụ nữ DTTS MNPB, nâng cao vị thế và
thực hiện được BĐG trong lao động gia đình.
119

Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY
BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC
THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC HIỆN NAY

4.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN THÚC ĐẨY BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG
LAO ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC HIỆN NAY
4.1.1. Thực hiện bình đẳng giới trong lao động gia đình dân tộc
thiểu số miền núi phía Bắc phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế
xã hội, chiến lược phát triển nguồn nhân lực của vùng và chủ trương xây
dựng nông thôn mới
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng giữa kinh tế và bình đẳng giới có mối
quan hệ biện chứng tác động lẫn nhau. Phát triển kinh tế chính là mở rộng cơ
hội, nguồn lực và nới lỏng các ràng buộc đối với các thành viên trong gia đình
- nhất là đối với phụ nữ và trẻ em gái, bảo đảm sự bình đẳng hơn trong mối
quan hệ giới. Ngược lại, kinh tế kém phát triển, các gia đình thu nhập thấp,
đói nghèo buộc phải thắt chặt các chi tiêu cho giáo dục, y tế và dinh dưỡng,
các dịch vụ xã hội khác thì phụ nữ và trẻ em gái thường phải chịu thiệt thòi
nhiều hơn, bất bình đẳng nhiều hơn. Có thể khẳng định, ở nơi nào điều kiện
kinh tế khó khăn, ở đó gặp phải nhiều thách thức, trở ngại trong quá trình thực
hiện mục tiêu BĐG. Chính vì vậy, phát triển kinh tế - xã hội để nâng cao mức
sống cho từng gia đình, từng dân tộc là điều kiện quan trọng để có thể thực
hiện được BĐG nói chung, BĐG trong lao động gia đình nói riêng và ngược
lại thực hiện được BĐG trong lao động gia đình sẽ có tác động to lớn đến sự
phát triển kinh tế của gia đình, xã hội.
Chiến lược Quốc gia về BĐG giai đoạn 2011 - 2020 đã nêu rõ quan
điểm: “Chiến lược quốc gia về BĐG là một bộ phận cấu thành quan trọng của
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, là cơ sở nền tảng của chiến
lược phát triển con người của Đảng và Nhà nước” [11]. Vì vậy, việc thực hiện
120

BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB, không thể không gắn liền với
chiến lược phát triển kinh tế xã hội, phát triển nguồn nhân lực của vùng.
Chiến lược phát triển kinh tế của MNPB hiện nay, cần hướng vào việc
giải quyết vấn đề lao động, việc làm có thu nhập cao, để cải thiện điều kiện
sống cho nhân dân, tạo tiền đề thúc đẩy thực hiện BĐG. Để làm được điều
này, các tỉnh MNPB cần:
- Khai thác và phát huy có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của vùng, đẩy
mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, thông qua phát triển các hành lang kinh tế,
tăng cường hợp tác giữa các địa phương trong vùng nhằm huy động và sử
dụng tốt mọi nguồn lực để phát triển nhanh và bền vững.
- Tập trung đầu tư có trọng điểm vào những ngành, lĩnh vực có lợi thế
của các địa phương trong vùng, phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế
cửa khẩu nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa, tạo bước đột phá làm
thay đổi căn bản cơ cấu kinh tế. Phát triển nông, lâm, nghiệp với quy mô tập
trung, gắn với công nghiệp chế biển sản phẩm sau thu hoạch phục vụ tiêu
dùng trong nước và xuất khẩu.
- Phát triển kinh tế gắn với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội, tạo
việc làm, xóa đói giảm nghèo và nâng cao mức sống nhân dân trong vùng,
đặc biệt là đối với đồng bào DTTS
- Phát triển kinh tế xã hội kết hợp với bảo vệ môi trường và phát triển
bền vững, gắn phát triển kinh tế với phát triển du lịch, bảo tồn và phát huy giá
trị văn hóa lịch sử, văn hóa truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc.
Yếu tố quan trọng nhất để phát triển kinh tế chính là nguồn nhân lực,
hiện tại chất lượng nguồn nhân lực miền núi phía Bắc còn thấp hơn so với các
vùng khác, có sự chênh lệch lớn giữa nam và nữ. Phần lớn lao động của đồng
bào DTTS là lao động giản đơn, trình độ văn hóa thấp, ít được đào tạo nghề, ít
có cơ hội tiếp xúc với khoa học kỹ thuật và công nghệ mới. Nếu tình trạng
này kéo dài sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc phát triển kinh tế, xã hội của
vùng, vì vậy việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở khu vực MNPB nói
121

chung và đồng bào DTTS nói riêng, là sự cần thiết khách quan để có thể phát
triển kinh tế của vùng. Sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực hiện có, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, từng bước thực hiện BĐG trong lao động gia đình
là việc làm có ý nghĩa quan trọng cấp thiết và có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Đảng bộ và chính quyền các cấp cần thiết phải có chính sách đầu tư
giáo dục cho đồng bào DTTS; có chương trình dạy nghề và đầu tư phát triển
các hình thức, các cơ sở dạy nghề phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của
đồng bào dân tộc, qua đó nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.
Thực tế cho thấy, thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB
hiện nay, không chỉ là mục tiêu của phát triển, mà còn là cách thức để có thể
xóa đói giảm nghèo ở nơi đây. Thực hiện BĐG trong lao động gia đình là một
bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển, chiến lược giảm nghèo của
đồng bào DTTS, góp phần xây dựng nông thôn mới ở vùng đồng bào DTTS.
Vì vậy cần quán triệt trong nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân
về tính tất yếu phải tăng cường hoạt động lồng ghép giữa chiến lược phát triển
kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của các tỉnh
MNPB với chính sách BĐG.
4.1.2. Thực hiện bình đẳng giới trong lao động gia đình dân tộc
thiểu số miền núi phía Bắc cần phải gắn với Chiến lược Quốc gia về bình
đẳng giới, kế hoạch hành động bình đẳng giới của các tỉnh trong vùng
Chiến lược Quốc gia về BĐG xác định mục tiêu tổng quát: “Đến năm
2020, về cơ bản, bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam và nữ về cơ hội, sự
tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội,
góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước” [11].
Để đạt được mục tiêu tổng quát trên, chiến lược Quốc gia về BĐG giai
đoạn 2011 - 2020 đã đưa ra nhiều mục tiêu cụ thể như: giảm khoảng cách giới
trong lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm; tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ
122

nghèo ở nông thôn, phụ nữ người DTTS đối với các nguồn lực kinh tế, thị
trường lao động, cụ thểtỷ lệ nữ ở vùng nông thôn nghèo, vùng DTTS có nhu
cầu được vay vốn ưu đãi từ các chương trình việc làm, giảm nghèo và các
nguồn tín dụng chính thức đạt 80% vào năm 2015 và 100% vào năm
2020;nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, từng bước bảo đảm sự tham gia
bình đẳng giữa nam và nữ trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, với chỉ tiêu về tỷ
lệ biết chữ của nam và nữ trong độ tuổi từ 15 đến 40 ở vùng sâu, vùng xa, vùng
DTTS, vùng đặc biệt khó khăn đạt 90% vào năm 2015 và 95% vào năm 2020;
bảo đảm BĐG trong tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe; bảo
đảm BĐG trong đời sống gia đình, từng bước xóa bỏ bạo lực trên cơ sở giới, cụ
thể rút ngắn khoảng cách về thời gian tham gia công việc gia đình của nữ so
với nam xuống 2 lần vào năm 2015 và xuống 1,5 lần vào năm 2020.
Trên cơ sở Chiến lược quốc gia về BĐG, các tỉnh MNPB đều đã ban
hành Kế hoạch thực hiện chiến lược quốc gia về BĐG và sự tiến bộ của phụ
nữ phù hợp với thực tiễn của tỉnh mình. Cho nên thực hiện BĐG trong lao
động gia đình DTTS MNPB, cần thiết phải đặt trong mối quan hệ với việc
thực hiện bình đẳng trên các lĩnh vực khác, phải gắn với chiến lược thực hiện
BĐG của từng tỉnh.
4.1.3. Thực hiện bình đẳng giới trong lao động gia đình dân tộc thiểu
số miền núi phía Bắc trên cơ sở phối hợp tổng thể sức mạnh của các cấp
ủy Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể và bản thân người phụ nữ
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, giải phóng phụ nữ không phải là công
việc của riêng ai, mà là sự nghiệp của mỗi cá nhân và toàn xã hội “phải cách
mạng từng người, từng gia đình, đến toàn dân. Dù to và khó nhưng nhất định
thành công” [41, tr.155]. Quán triệt tư tưởng của Bác, một trong bốn quan
điểm được đưa ra trong Nghị quyết 11 ngày 27/4/2011 của Bộ Chính trị là:
“Công tác phụ nữ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và
từng gia đình, trong đó, hạt nhân lãnh đạo là các cấp ủy đảng, trách nhiệm
123

trực tiếp và chủ yếu là cơ quan quản lý nhà nước các cấp, vai trò chủ thể là
phụ nữ mà nòng cốt là các cấp Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam” [9]. Các cơ
quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, tổ chức xã hội, cơ
quan thông tin đại chúng cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao
nhận thức về giới và ý thức trách nhiệm thực hiện BĐG cho cán bộ, đảng
viên, các tầng lớp nhân dân.
Giới là một lĩnh vực đa ngành, không nên xem BĐG một cách thiển
cận như là vấn đề chỉ của riêng phụ nữ, việc xây dựng xã hội có BĐG, bảo
đảm BĐG là lời kêu gọi không chỉ của riêng nữ giới, mà của mọi người, là
mục tiêu cần sớm hoàn thành của các quốc gia, để từ đó góp phần xây dựng
một thế giới phát triển bền vững. Do vậy, đòi hỏi có sự phối hợp và trách
nhiệm của cả xã hội. Chương IV của Luật BĐG đã quy định cụ thể về trách
nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình và cá nhân trong việc thực hiện và bảo
đảm BĐG. Thực hiện BĐG là cam kết và trách nhiệm cao của Đảng, Nhà
nước và của cả hệ thống chính trị, đồng thời mở rộng sự tham gia của các tổ
chức xã hội, cộng đồng trong việc tổ chức thực hiện các mục tiêu BĐG.Phát
huy vai trò của hệ thống chính trị vùng DTTS MNPB hiện nay, là yêu cầu cấp
bách, có ý nghĩa đối với việc thực hiện BĐG nói chung và BĐG trong lao
động gia đình nói chung. Các cấp, các ngành và các tổ chức Hội, Đoàn thể
trên địa bàn có sự phối hợp chặt chẽ trong việc thúc đẩy BĐG. Các cấp, các
ngành, các địa phương cần tăng cường phối hợp trong xây dựng chương trình,
kế hoạch thực hiện BĐG cho địa phương, tổ chức mình. Tạo sự phối hợp nhịp
nhàng, đồng bộ, thống nhất tốt nhất cho thực hiện BĐG trên địa bàn MNPB
4.1.4. Thực hiện bình đẳng giới trong lao động gia đình dân tộc
thiểu số miền núi phía Bắc phải xuất phát từ điều kiện đặc thù của vùng
và đặc điểm riêng của các dân tộc
Thực hiện nam nữ bình đẳng là tư tưởng, quan điểm cơ bản của Đảng và
Nhà nước ta. Quan điểm đó đã được khẳng định ngay từ thời kỳ Đảng mới
124

thành lập, đồng thời được thể chế hóa trong Hiến pháp của nước ta qua các thời
kỳ và trong hệ thống chính sách phát triển kinh tế của nước nhà. Tuy nhiên,
việc biến chủ trương, chính sách của Đảng thành hiện thực cuộc sống còn
nhiều bất cập. Vì giới là một phạm trù gắn chặt với các mối quan hệ xã hội,
được quy định bởi hoàn cảnh cụ thể, điều này tạo ra sự khác biệt trong mối
quan hệ giới giữa các vùng miền, tộc người ngay bên trong cùng một lãnh thổ.
Chính bởi lẽ đó, thực trạng BĐG ở Việt Nam có sự khác biệt rất rõ nét giữa
các vùng và giữa các dân tộc.
Chúng ta đã có một hệ thống chính sách, pháp luật vì sự tiến bộ của phụ
nữ Việt Nam, vấn đề là cần phải biến các cơ sở pháp lý đó trở thành nếp sống
hàng ngày của toàn xã hội. Không thể áp dụng một cách máy móc mọi quy
định của chính sách và pháp luật, chúng ta phải biết phát hiện những điểm bất
hợp lý, cần bổ sung, hoàn thiện và nâng cao chất lượng của chính sách và pháp
luật, đây là việc làm cần thiết và thường xuyên, việc đổi mới và hoàn thiện
chính sách đối với phụ nữ nói chung và phụ nữ DTTS nói riêng, phải phù hợp
với phát triển kinh tế - xã hội là điều kiện tiên quyết để chị em tham gia tích
cực vào các hoạt động trong gia đình và xã hội.
Miền núi phía Bắc là vùng còn tồn tại nhiều tập tục lạc hậu, điều kiện
kinh tế của đồng bào DTTS còn vô cùng khó khăn, nên đây cũng là vùng mà
bất BĐG trong gia đình còn phổ biến và nặng nề hơn so với nhiều vùng khác
trong cả nước.
Những yếu tố văn hóa truyền thống, đã ảnh hưởng tới quan niệm của
đồng bào DTTS về BĐG trong phân công lao động trong gia đình, đã tác
động đến cơ hội được tiếp cận, kiểm soát các nguồn lực, hưởng thụ đời sống
của người phụ nữ trong gia đình và xã hội. Chính vì vậy, để đảm bảo các
chính sách nhằm thúc đẩy BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB có thể
khả thi, cần chú trọng tới tính đặc trưng về văn hóa cũng như yếu tố vùng
miền trong cả khâu thiết kế và thực thi chính sách. Chính sách phải xuất phát
125

từ thực tiễn, từ nhu cầu, lợi ích giới và đặt trong chương trình phát triển chung,
đảm bảo sự bình đẳng, công bằng về quyền lợi, nghĩa vụ cho cả hai giới.
Như đã phân tích, ở MNPB hiện nay, vấn đề BĐG nói chung và bất
BĐG trong lao động gia đình nói riêng, còn khoảng cách so với nhiều vùng
khác trong cả nước, do đó chính sách thực hiện BĐG có lẽ cần lấy vùng
DTTS MNPB làm đối tượng cần ưu tiên trong thời gian tới, cần đặc biệt quan
tâm tới phụ nữ DTTS.
Mỗi vùng miền có những điều kiện khác nhau, mỗi địa phương có
những thế mạnh riêng, vì vậy, cần phát huy những thế mạnh của địa phương
nhằm thúc đẩy sự phát triển của từng đối tượng phụ nữ ở địa phương đó. Cần
quan tâm đầy đủ đến quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ, để họ có điều
kiện thực hiện tốt vai trò của người công dân, người lao động, người mẹ,
người thầy đầu tiên của con người, đặc biệt quan tâm đến việc cải thiện điều
kiện học tập, làm việc của phụ nữ DTTS, tập trung giải quyết những vấn đề
nhằm ngăn chặn sự tổn thương đối với phụ nữ.

4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LAO
ĐỘNG GIA ĐÌNH DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC HIỆN NAY
4.2.1. Phát triển kinh tế hàng hóa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp nông thôn
Kinh tế phát triển là điều kiện vật chất quan trọng để thực hiện BĐG
trong lao động gia đình DTTS MNPB, kinh tế phát triển thì hạ tầng cơ sở sẽ
được đầu tư nhiều hơn. Các khoản đầu tư này cùng với việc phát triển thị
trường cho các lao động thay thế, có thể làm giảm nhẹ các công việc phi thị
trường của phụ nữ và đem lại cho họ nhiều cơ hội làm công ăn lương, cũng như
thời gian rảnh rỗi, tạo điều kiện phá bỏ sự phân công lao động cứng nhắc. Cùng
với đó, việc giảm nhẹ gánh nặng công việc gia đình, cũng có thể đem lại những
lợi ích tiềm tàng cho sức khoẻ của người phụ nữ, cho thu nhập của hộ gia đình
và cho việc học tập của trẻ em gái. Để phát triển kinh tế, cải thiện đời sống cho
126

nhân dân, nhiệm vụ hàng đầu hiện nay của các tỉnh MNPB là phải phát triển
kinh tế hàng hóa, đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Thứ nhất, MNPB cần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất
hàng hóa, phát huy lợi thế cạnh tranh của vùng
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng, phù hợp với điều kiện tự
nhiên, xã hội của vùng không chỉ bảo đảm an ninh lương thực, tạo động lực
cho sự phát triển bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư, mà
còn tạo cơ hội phát triển cho phụ nữ nói chung và phụ nữ DTTS nói riêng.
Một là, với điều kiện kém thuận lợi về địa lý, hạn chế về đất nông
nghiệp, nhạy cảm về môi trường, nên việc làm cần thiết để phát triển nông
nghiệp hàng hoá cạnh tranh ở MNPB là phải đa dạng hóa nông nghiệp. Đa
dạng hoá nông nghiệp là sự đáp ứng của nông dân đối với các cơ hội mới của
thị trường, dựa vào tính khả thi về kinh tế và kỹ thuật, bao gồm việc chuyển
từ các cây trồng có giá trị thấp sang các sản phẩm nông nghiệp có giá trị cao
hơn, từ sản xuất các cây trồng truyền thống sang sản xuất hàng hoá chăn nuôi,
lâm nghiệp, thuỷ sản, hoặc sang các hoạt động tạo thu nhập phi nông nghiệp.
Để đa dạng hóa nông nghiệp các tỉnh MNPB cần phải:
Thực hiện các dự án sản xuất giống cây trồng, vật nuôi, tiến hành đưa
những giống lúa mới cho năng suất cao và khả năng thích nghi tốt với những
điều kiện tự nhiên vào trồng phổ biến, đồng thời tăng cường khuyến cáo để
người dân lựa chọn giống, cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện đất, thổ
nhưỡng, khả năng đầu tư và trình độ canh tác của mình, đẩy mạnh việc tăng
vụ đông xuân nhằm đảm bảo nhu cầu lương thực cho người dân.
Cần lựa chọn các kiến thức khoa học kỹ thuật phù hợp với trình độ
nhận thức, điều kiện sản xuất của đồng bào, từng bước chuyển giao với các
hình thức đa dạng, có sự tham gia ngay từ đầu của đồng bào DTTS, để có thể
tiếp nhận, học tập, vận dụng làm theo; Tăng cường cán bộ khoa học kỹ thuật
(chú trọng cán bộ biết tiếng DTTS) đến từng bản hướng dẫn bà con làm kinh
tế một cách cụ thể, thậm chí đối với những dân tộc, những địa phương kém
127

phát triển phải “cầm tay chỉ việc”, tránh tình trạng chỉ đạo chung chung, chỉ
đạo từ xa có thể áp dụng với mọi vùng, mọi miền. Cần tạo mối liên kết chặt
chẽ giữa bốn nhà: nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nước, để
đảm bảo cả đầu vào và đầu ra trong sản xuất cho đồng bào.
Ngoài ra, để phát triển nông nghiệp, các tỉnh MNPB cần có sự phân
vùng một cách tương đối, để hoạch định chính sách nông nghiệp: Đối với
vùng cao, khó khăn, khả năng sản xuất nông nghiệp hạn chế, cần tập trung
cho việc hỗ trợ trồng và bảo vệ rừng, bảo vệ vùng đầu nguồn, vùng biên giới
thông qua chính sách hỗ trợ lương thực và hỗ trợ sản xuất phù hợp; Đối với
vùng có khả năng sản xuất nông nghiệp, nhưng chưa có điều kiện sản xuất
hàng hóa, thì trước mắt nên đặt trọng tâm vào phát triển, khai thác hệ canh tác
truyền thống chuyển đổi thành hệ thống nông lâm kết hợp để tạo ra lượng sản
phẩm nhiều hơn, đáp ứng nhu cầu tại chỗ và cung cấp hàng hóa cho thị trường
phạm vi nhỏ, đa dạng sinh kế cho người dân; Đối với vùng có khả năng sản
xuất hàng hóa, cần quy hoạch vùng sản xuất hàng hóa cho những sản phẩm
đặc trưng có lợi thế so sánh, xây dựng cơ sở chế biến nông sản để tăng giá trị
sản phẩm và thúc đẩy sản xuất, xây dựng các kênh thị trường tiêu thụ sản
phẩm hàng hóa theo các cấp độ thị trường vùng, trong nước và xuất khẩu.
Hình thành và phát triển những vùng chuyên canh cây công nghiệp và cây ăn
quả quy mô lớn, đặc biệt với những sản phẩm đặc trưng có giá trị xuất khẩu
cao, như các loại chè thơm ngon ở Phú Thọ, Thái Nguyên, Yên Bái, Hà
Giang, Sơn La. Ở các vùng núi giáp biên giới của Cao Bằng, Lạng Sơn, cũng
như trên vùng núi cao Hoàng Liên Sơn, điều kiện khí hậu rất thuận lợi cho
việc trồng các cây thuốc quý như: tam thất, đương quy, đỗ trọng, hồi, thảo
quả và các cây ăn quả như mận, đào, lê. Ở Sa Pa có thể trồng rau mùa đông và
sản xuất hạt giống quanh năm. Việc đẩy mạnh sản xuất cây công nghiệp và
cây đặc sản, sẽ cho phép phát triển nền nông nghiệp hàng hóa có hiệu quả cao
của vùng và có tác dụng hạn chế nạn du canh, du cư.
128

Đa dạng hoá nông nghiệp sẽ tạo ra các cơ hội để phát triển các ngành
công nghiệp, dịch vụ kèm theo như cung cấp nguyên liệu đầu vào, chế biến,
tiếp thị, điều này sẽ thu hút nhiều lực lượng lao động dư thừa, đồng thời tạo ra
thu nhập phi nông nghiệp cho các nông hộ. Đa dạng hoá nông nghiệp đóng
góp lớn vào công tác giảm nghèo cho các vùng DTTS MNPB, đồng thời cải
thiện BĐG thông qua việc tạo ra việc làm mới có thu nhập cao cho phụ nữ.
Hai là, MNPB là vùng có nhiều khoáng sản, như mỏ quặng đồng -
niken (Sơn La), đất hiếm (Lai Châu), mỏ sắt (Yên Bái), thiếc và bô xít (Cao
Bằng), kẽm - chì ở (Bắc Cạn), đồng - vàng (Lào Cai), đây chính là thế mạnh
rất lớn để vùng phát triển công nghiệp khai khoáng, chế biến khoáng sản, mà
không phải vùng nào cũng có. Tuy nhiên, hiện nay việc khai thác còn lộn xộn,
gây ảnh hưởng đến nguồn tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường và trật
tự an ninh xã hội. Các tỉnh MNPB cần tổ chức lại ngành công nghiệp khai
thác, tập trung đầu tư để từng bước xây dựng cơ sở khai thác, chế biến khoáng
sản hiện đại, nhằm đảm bảo việc khai thác vừa có hiệu quả, vừa bảo vệ được
môi trường và an ninh xã hội;tiếp tục điều tra, khảo sát tìm kiếm thêm các mỏ
mới, nhằm tạo điều kiện thúc đẩy ngành công nghiệp này tiếp tục phát triển
với tốc độ nhanh, góp phần tạo thêm việc làm và thu nhập cho nhân dân.
Ba là, vùng có nhiều di tích lịch sử đã được xếp hạng, nhiều địa danh
nổi tiếng như Điện Biên phủ, nhà tù Sơn La, hang Pắc Pó, cây đa Tân Trào,
hồ Núi Cốc, Ba Bể, Cẩm Sơn, Thác Bà, Sa Pa... đây là tiềm năng lớn để phát
triển du lịch.Với vị trí địa lý thuận lợi giáp Trung Quốc ở biên giới phía Bắc,
giáp Lào ở biên giới phía Tây, MNPB có nhiều lợi thế để tham gia hội nhập
kinh tế quốc tế, buôn bán hàng hóa qua các cửa khẩu vùng biên giới như: Tân
Thanh, Chi Ma (Lạng Sơn), Tà Lùng (Cao Bằng), Thanh Thủy (Hà Giang),
Hà Khẩu (Lào Cai), Ma Lù Thàng, Tây Trang (Lai Châu).
Các tỉnh MNPB cần tổ chức khai thác có hiệu quả hoạt động dịch vụ
thương mại tại các cửa khẩu, khu kinh tế cửa khẩu; cần mở rộng, xây dựng
các trung tâm thương mại, chợ biên giới, chợ nông thôn, để tiêu thụ hàng hoá
129

trong và ngoài tỉnh; chú trọng phát triển và nâng cao chất lượng sản phẩm du
lịch, với những sản phẩm đặc sắc gắn với kỳ quan thiên nhiên, di tích lịch sử
của vùng.
Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở MNPB, cần phải đi liền với tổ
chức phân công lại lao động một cách hợp lý, cần chống xu hướng nữ hóa
trong nông nghiệp như hiện nay, cần tiến hành phân công lại lao động ở nông
thôn theo hướng giảm lao động thuần nông, tăng lao động trong những ngành
phi nông nghiệp trên cơ sở phát triển các ngành, nghề, làng nghề truyền
thống; các loại hình dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Dù là hộ
thuần nông, kiêm ngành nghề hay chuyên ngành nghề, phân công lao động
phải tính tới yếu tố sinh học của phụ nữ, để tránh họ làm các công việc nặng
nhọc, độc hại hay căng thẳng về cường độ và thời gian lao động. Trong mỗi
ngành nghề, tùy điều kiện, khả năng từng người mà phân công lao động, làm
sao để vừa tăng thu nhập vừa phát huy được khả năng của từng người. Việc
đưa các công nghệ tiên tiến, kỹ thuật máy móc vào sản xuất, cần chú trọng
việc cải thiện điều kiện lao động cho phụ nữ, làm thế nào để phụ nữ có thể sử
dụng được các công nghệ mới, các thiết bị máy móc mới để nâng cao năng
suất, tăng thu nhập, cần xóa bỏ sự phân công lao động theo giới vốn bất lợi
cho phụ nữ.
Thứ hai, MNPB cần thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế
Với trình độ thấp kém và phát triển không đồng đều của lực lượng sản
xuất ở khu vực MNPB, buộc chúng ta phải mở rộng nhiều hình thức quan hệ
sản xuất, phá vỡ hình thức sản xuất tự cấp, tự túc truyền thống của khu vực,
xây dựng một nền kinh tế gồm nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế của
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Do sản xuất chủ yếu vẫn là tự cấp, tự túc, nên kinh tế hộ gia đình ở
MNPB nhìn chung là bảo thủ, lạc hậu, sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm
là chính, nên sản phẩm lao động làm ra kém năng suất và chất lượng. Tạo
điều kiện để cho hộ gia đình phát huy tối đa mọi khả năng trong sản xuất và
130

kinh doanh, là trực tiếp thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh nhất
trong tình hình hiện nay ở MNPB. Kinh tế hộ gia đình phát triển là cơ sở hình
thành nền sản xuất hàng hóa, chuyên môn hóa - điều đó được thể hiện ở chỗ
từ những sản phẩm dư thừa của hộ gia đình được đem ra thị trường để bán và
trao đổi, trong những sản phẩm này, có những mặt hàng đã được thị trường
chấp nhận, nếu các sản phẩm đó được nhân rộng trong làng, bản hay cả khu
vực và được đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, thì đó sẽ là con đường
nhanh chóng chuyên môn hóa sản xuất ở MNPB, là cơ sở để thực hiện chuyển
giao kỹ thuật, công nghệ về chăn nuôi, trồng trọt, nâng cao hiểu biết cho nhân
dân, nâng cao đời sống của nhân dân.
Kinh tế tư nhân ở MNPB chưa phát triển thật sự mạnh mẽ, nên việc thu
hút đầu tư và phát triển thành phần kinh tế này càng cần thiết và mang ý nghĩa
thiết thực hơn. Ngoài những mục tiêu phát triển kinh tế, nó còn tạo điều kiện
để cải tạo tác phong, lề lối làm việc, kiểu sản xuất tự túc, tự cấp.
Việc mở rộng hình thức kinh tế hợp tác ở MNPB có vai trò to lớn trong
việc thúc đẩy phát triển kinh tế, không chỉ có khả năng giải quyết những khó
khăn trong quá trình sản xuất và kinh doanh, tạo ra sức cạnh tranh lớn hơn, mà
còn là một trong những cách thức đưa MNPB đi từ sản xuất tự cung, tự cấp,
tiến tới xây dựng quan hệ sản xuất hiện đại. Việc xây dựng kinh tế hợp tác ở
MNPB, có thể đi theo hướng mở rộng các hình thức hợp tác trong nội bộ làng,
bản, ngành, xây dựng các hợp tác xã từ những tổ đổi công vốn có trong truyền
thống sản xuất của đồng bào các dân tộc. Cần nhân rộng các mô hình liên kết
hộ nông dân, các hình thức kinh tế hợp tác, việc hộ gia đình tham gia vào các
nhóm, các câu lạc bộ, được hưởng lợi từ việc vay vốn của các dự án phát triển
kinh tế, tạo thêm nhiều cơ hội việc làm, tăng thu nhập và giảm nghèo đói là
một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy BĐG trong lao động gia đình.
Thứ ba, MNPB cần đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng
Phát triển kết cấu hạ tầng ở MNPB là một yêu cầu tất yếu và cấp bách
trong quá trình CNH, HĐH, xây dựng nông thôn mới. Các yếu tố như giao
131

thông, thủy lợi, năng lượng… mặc dù ít tham gia trực tiếp vào quá trình hình
thành các sản phẩm hàng hóa, nhưng giữ vai trò quan trọng đối với sản xuất
hàng hóa. Sản xuất hàng hóa có phát triển được hay không sẽ phụ thuộc rất
lớn vào các chi phí giao thông, điện sinh hoạt, thông tin. Những yếu tố này sẽ
tạo ra mối quan hệ, giao lưu giữa MNPB với các khu vực khác, là cơ sở tiền
đề để thực hiện CNH, HĐH nông thôn.
Một là, do giao thông khó khăn, nên đã cản trở rất lớn đến hoạt động
vận chuyển các sản phẩm nông - lâm nghiệp để đem ra chợ trao đổi, nhiều chi
phí cho vận chuyển hàng hóa đã chiếm hết giá trị trao đổi của hàng hóa, nên
nhiều nông sản của đồng bào DTTS đem bán hoặc trao đổi bao giờ cũng phải
chịu mức giá thấp hơn giá trị thực của nó, trong khi những hàng hóa cần thiết
phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng của đồng bào thì lại phải mua với giá đắt
hơn nhiều lần. MNPB cần cải tạo, xây dựng hệ thống giao thông trong vùng,
quan tâm phát triển giao thông nông thôn để dễ dàng sử dụng xe cơ giới nhỏ,
xe cải tiến, xe kéo ở vùng thấp, ngựa thồ ở vùng cao.
Hai là, sử dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào xây dựng hệ
thống thủy lợi và thủy điện nhằm phục vụ sản xuất và sinh hoạt của người dân.
Đối với sản xuất nông nghiệp và nông thôn, thủy lợi có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Trong khi xây dựng hệ thống thủy lợi, MNPB cần kết hợp xây dựng thủy
điện vừa và nhỏ, phục vụ cho nông thôn miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Để có thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế của vùng DTTS MNPB, bên
cạnh chính sách chung của Nhà nước, thì Đảng ủy, Ủy ban nhân dân các cấp
ở MNPB cần có những chính sách đầu tư và quản lý đầu tư tốt hơn trong xây
dựng cơ sở hạ tầng, có chính sách ưu đãi, tạo điều kiện thuận lợi nhất trong
việc vay vốn để mở rộng sản xuất cho cả người dân và doanh nghiệp đầu tư
vào khu vực DTTS; cần thu hút các kênh đầu tư của cá nhân hoặc tổ chức
trong nước, quốc tế, các dự án phát triển làng nghề truyền thống bền vững;
cần thiết phải lồng ghép giới vào quá trình hoạch định chính sách và chương
trình phát triển kinh tế xã hội ở địa phương như: ưu tiên cho các gia đình nông
132

dân nghèo vay vốn để phát triển sản xuất, tham gia dịch vụ xã hội. Mặt khác,
cần phát triển các dịch vụ xã hội, đặc biệt là dịch vụ hỗ trợ các công việc gia
đình nông thôn.
Bên cạnh những chính sách chung cần có những chính sánh, chương
trình đặc thù phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và văn hóa miền núi,
nhằm tạo điều kiện cho các DTTS có cơ hội phát triển, có như vậy mới tạo ra
được những nhân tố mới thúc đẩy quá trình phát triển tiến tới thực hiện BĐG.
Hội Phụ nữ các tỉnh MNPB cần phối hợp với Sở Lao động Thương
Binh - Xã hội, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức nhiều hoạt
động dạy nghề, tạo việc làm cho đồng bào miền núi. Hội Phụ nữ các cấp
huyện, xã tư vấn, giới thiệu việc làm tại các doanh nghiệp trong tỉnh, đi xuất
khẩu lao động ở nước ngoài… góp phần thực hiện chương trình dạy nghề,
giải quyết việc làm, giúp lao động nữ miền núi có việc làm, tăng thu nhập, ổn
định cuộc sống.
Hội Nông dân cần phối hợp Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
tuyên truyền, vận động hội viên là nông dân DTTS tích cực ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất, bảo quản chế biến... Tổ chức
đào tạo nghề cho hội viên nông dân thông qua việc tổ chức các lớp dạy nghề
ngắn hạn tại chỗ về trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp và ngành nghề
nông thôn, gắn với tạo việc làm tại chỗ, phù hợp với tình hình thực tiễn của
nông nghiệp, nông thôn MNPB; Xây dựng và phát triển các mô hình câu lạc
bộ khuyến nông, câu lạc bộ nông dân làm kinh tế giỏi, chuyển giao khoa học
kỹ thuật, các hoạt động dịch vụ, tư vấn cho hội viên nông dân. Xây dựng tủ
sách khoa học kỹ thuật cho các câu lạc bộ, các chi hội nông dân, mỗi xã, bản
để hội viên nông dân hàng tháng sinh hoạt trao đổi.
4.2.2. Nâng cao trình độ học vấn và nhận thức về bình đẳng giới
cho đồng bào dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc
Trình độ học vấn luôn đóng vai trò quyết định và tỷ lệ thuận với những
tiến bộ, những giá trị mới của mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống gia đình.
133

Trình độ học vấn cao sẽ làm thay đổi nhận thức, quan niệm, thái độ và hành vi
của các thành viên gia đình. Quan hệ gia đình vì thế trở nên tốt đẹp, quan hệ vợ
chồng bình đẳng hơn, có điều kiện phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập, thay
đổi quan niệm và hành vi bất BĐG, hành vi sinh sản. Hơn nữa, chỉ khi nào
đồng bào DTTS có được một trình độ học vấn cao, thì khi ấy họ mới có điều
kiện thay đổi tập quán canh tác lạc hậu, tiếp thu và áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào
trong sản xuất và đời sống, vượt qua nghèo nàn, mới thực hiện được BĐG
trong lao động gia đình. Cho nên nâng cao trình độ học vấn cho đồng bào
DTTS là khâu then chốt, nhằm tạo nội lực phát triển cho vùng. Văn kiện Đại
hội Đảng XII của Đảng đã ra quan điểm chỉ đạo: “Nâng cao chất lượng giáo
dục - đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số, người tiêu biểu có uy tín trong cộng đồng các dân tộc”
[19, tr.164].
Để nâng cao học vấn cho đồng bào DTTS MNPB hiện nay, cần thực
hiện đồng bộ nhiều giải pháp, với sự tham gia của các cấp chính quyền, ngành
giáo dục và toàn thể người dân.
Thứ nhất, cần gây dựng và củng cố niềm tin về các cơ hội học tập và
nghề nghiệp cho đồng bào DTTS. Để làm được điều này, cần đẩy mạnh tuyên
truyền về việc dạy và học, những chính sách giáo dục đối với vùng DTTS của
Nhà nước và của địa phương, để người dân có được thông tin một cách đúng
đắn, kịp thời, chính xác và thiết thực. Đối với đồng bào DTTS MNPB, do còn
hạn chế về nhận thức và bất đồng ngôn ngữ, nên cần có một khoảng thời gian
rất dài mới có thể thay đổi nhận thức, vì thế việc cung cấp thông tin, tuyên
truyền, giúp họ dần dần hiểu được vai trò của giáo dục phổ thông đối với đời
sống, tương lai công việc của con em họ, hiểu được những chính sách ưu đãi
của Nhà nước và địa phương dành cho việc học tập, cần phải tiến hành
thường xuyên, liên tục. Từ sự thay đổi tích cực trong nhận thức sẽ đưa đến
những thay đổi tích cực trong hành động, giúp họ chủ động hơn, tích cực hơn,
hợp tác hơn trong việc xây dựng xã hội học tập cho chính con em họ và mọi
134

nỗ lực của Nhà nước trong quản lý, đầu tư cho giáo dục vùng dân tộc mới đạt
mục tiêu.
Thứ hai, hoàn thiện quy hoạch mạng lưới trường học, đầu tư chuẩn hóa
cơ sở vật chất trường, lớp học. Trường có cơ sở gần thôn bản là ước mơ của
các học sinh từ bậc tiểu học đến trung học phổ thông, để các em được đến
trường nhiều, các tỉnh MNPB nên mở rộng hệ thống trường cấp 1 theo hình
thức liên thôn bản (nhiều bản cách xa nhau đến 7 km), xây dựng trường cấp 2
và cấp 3 theo hình thức liên xã (khoảng ba đến 4 xã chung một trường cấp 3).
Khi đó khoảng cách từ hộ gia đình đến trường dao động trong khoảng từ 3-
5km, thì học sinh dù không có phương tiện xe đạp vẫn có thể đi bộ đến
trường; Cần củng cố hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú, đồng bào
DTTS MNPB mong đợi hình thức này được mở rộng hơn để con em họ có thể
tiếp cận với cách học “tập trung và chuyên tâm”, về phía cha mẹ cũng bớt
phải lo về kinh tế; nhân rộng mô hình trường phổ thông dân tộc nội trú có dạy
nghề, thành lập trường phổ thông dân tộc nội trú liên cấp trung học cơ sở -
trung học phổ thông; đảm bảo điều kiện sinh hoạt cho học sinh các trường
phổ thông dân tộc bán trú, xây dựng nhà ở bán trú cho học sinh DTTS học
trung học phổ thông ở những địa bàn đặc biệt khó khăn, giao thông cách trở.

Thứ ba, MNPB có nhiều dân tộc cùng sinh sống, nên trong một trường,
một lớp lại có nhiều học sinh thuộc nhiều tộc người khác nhau. Hơn nữa,
trong vùng có một số dân tộc có mức độ phát triển cao như Tày, Nùng,
Mường, Thái, nhưng cũng có tới 13/16 dân tộc thuộc nhóm rất ít người ở mức
độ phát triển thấp như: La Hủ, Cống, Cờ Lao, Mảng, Lô Lô, Pu Péo, Pà
Thẻn,... đời sống của các dân tộc thiểu số này ở mức kém phát triển, tình
trạng đói nghèo phổ biến, dân số ít, sống biệt lập, rải rác. Đây cũng là đặc thù
so với các vùng DTTS khác trong cả nước (Tây Nguyên, Tây Nam Bộ), là
khó khăn trong việc phát triển giáo dục, nhất là việc dạy song ngữ, nên cần
chú ý tới rào cản ngôn ngữ và nhu cầu giáo dục đặc thù cho người DTTS.
135

Hiện nay, các môn học trong trường đều được dạy bằng tiếng Việt, trong khi
đó kỹ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh DTTS còn rất kém. Việc chưa
thông thạo tiếng Việt, thể hiện qua cách các em không nghe kịp được các thầy
cô giảng, hoặc nhiều em nghe nhưng không hiểu nghĩa của từ nên không nhớ
được kiến thức. Ở bậc tiểu học, nên có giáo viên người địa phương (cùng
nhóm tộc người) dạy cho học sinh là tốt nhất bởi sẽ cần vận dụng cả tiếng phổ
thông và tiếng địa phương để truyền dạy, giải thích cho các em hiểu rõ.
Thứ tư, MNPB là vùng có trình độ phát triển kinh tế - xã hội còn kém,
đời sống người dân thấp, điều kiện tự nhiên không thuận lợi, những rào cản
về nhiều mặt khiến cho việc học hành của học sinh vùng DTTS gặp nhiều khó
khăn. Ở nơi mà mối quan tâm đầu tiên và hàng ngày là miếng cơm, manh áo;
việc làm hàng ngày là lên nương làm rẫy, chống chọi lại sự khắc nghiệt của tự
nhiên thì con đường đến với cái chữ của những trẻ em vùng DTTS, vùng sâu,
vùng xa còn rất dài và rất gian nan. Chính vì vậy, nếu để giáo dục phổ thông
vùng DTTS phát triển tự nhiên theo cùng một chính sách, cùng một phương
thức quản lý ngang bằng như, giống như mọi vùng miền, thì sự phát triển của
nó lại gặp thêm rất nhiều khó khăn mới. Để đảm bảo sự công bằng trong cơ
hội học tập của học sinh dân tộc thiểu số, Nhà nước phải là chủ thể trực tiếp
cung ứng dịch vụ giáo dục cho các em, đồng thời cần đặc biệt, ưu tiên hơn
nhằm tạo những “cú hích”, xây dựng những nền tảng, tạo dựng những cơ sở
vững chắc cho nó có điều kiện phát triển. Đó là những hỗ trợ, ưu tiên cho học
sinh, cho giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục về chế độ học tập, sinh hoạt, cơ
hội học tập, về cơ sở vật chất, phương tiện dạy và học, về tinh thần,… để giáo
dục phổ thông vùng DTTS MNPB có cơ hội và điều kiện phát triển như
những vùng miền khác. Ví như, với học sinh cấp 3, nhà nước nên giảm 50%
mức đóng góp ở bậc PTTH và có thể áp dụng thời điểm thu phí uyển chuyển
hơn (không nhất thiết phải đóng ngay đầu năm học mà có thể cho nộp dần
trong học kỳ, giãn đến một hoặc hai tháng sau). Đối với các thôn bản đặc biệt
khó khăn, nhà nước có thể xét trợ cấp gạo, tiền cho học sinh trong những
136

ngày giáp hạt từ tháng 1 đến tháng 4 dương lịch (vùng người Mông và người
La Hủ).
Thứ năm, do lực lượng lao động ở MNPB chưa qua đào tạo còn chiếm
tỷ lệ rất cao, nên đào tạo nghề cho người lao động phải được mở rộng và phổ
biến, thì mới có thể phát triển được chất lượng nguồn nhân lực. Việc đào tạo
ngành nghề cho lao động ở MNPB cần phải dựa trên nguyên tắc là gắn với
tiềm năng, thế mạnh của địa phương, trong đó cần tập trung và đào tạo cấp
tốc các ngành nghề về phát triển nông - lâm nghiệp dưới các hình thức
khuyến nông, khuyến lâm, mở rộng các ngành nghề tiểu thủ công như các
ngành đan, thêu, dệt truyền thống của một số dân tộc. Đối với đào tạo nghề,
không nhất thiết mọi người phải trải qua trình độ trung học phổ thông, mà có
thể đào tạo ngay từ những năm trung học cơ sở hoặc sớm hơn. Cần miễn học
phí và hỗ trợ sách giáo khoa và vở, hỗ trợ tiền ăn ở cho các em, bởi vì hầu hết
những người đi học nghề đều là những người đóng góp chính cho kinh tế gia
đình và chi phí cơ hội của việc bỏ lỡ việc làm do đi học nghề cần được bù đắp
để các em có thể tham gia học nghề.
Kết quả khảo sát, cũng như qua nghiên cứu các tài liệu liên quan cho
thấy, tuy vấn đề BĐG nói chung, BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB
đã có nhiều bước cải thiện đáng kể so với giai đoạn trước, nhưng những định
kiến giới, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” vẫn còn tồn tại mạnh mẽ ở MNPB.
Vì vậy, nhiệm vụ của chúng ta cần làm thay đổi nhận thức ở mỗi người, đặc
biệt phải làm cho nhận thức đó chuyển hóa thành các hành vi, thái độ ứng xử
bình đẳng với phụ nữ.
Để nâng cao nhận thức về BĐG nói chung và BĐG trong lao động gia
đình nói riêng, công tác tuyên truyền cần được tiến hành trong xã hội, ở
cộng đồng và trong các cơ quan Nhà nước, trước tiên là lực lượng cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành. Hiện nay, một số cán bộ lãnh đạo và
công chức chưa nhận thức đầy đủ về vấn đề BĐG. Nhiều người còn gặp khó
khăn hoặc nhầm lẫn khi phân biệt những khái niệm cơ bản như: “giới”, “giới
137

tính”, “bất BĐG”, “lồng ghép giới”… chẳng hạn, khi nói về giới một số
người nghĩ rằng đó là nói về phụ nữ. Mặt khác, vẫn còn một bộ phận lãnh
đạo các cấp, ngành ở địa phương chưa nhận thức rõ mối quan hệ mật thiết
giữa BĐG và công cuộc phát triển phát triển bền vững. Họ chưa hiểu hết tầm
quan trọng của việc lồng ghép BĐG, như là một cách tiếp cận hiệu quả nhất
để thực hiện BĐG, nên chưa xây dựng được những chính sách tốt nhằm phát
huy vai trò của phụ nữ, nâng cao vị thế của phụ nữ. Vì vậy cần đẩy mạnh
tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về giới trước hết cho đội ngũ lãnh
đạo các cấp.
Để làm được điều này, cần tăng cường mở các lớp đào tạo về giới và
BĐG cho các đối tượng là cán bộ lãnh đạo của các ban, ngành, đoàn thể, cán
bộ Hội phụ nữ đặc biệt là ở cấp cơ sở. Thông qua các đợt tập huấn đó sẽ góp
phần nâng cao kiến thức và kỹ năng về BĐG cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý, giúp họ có khả năng lồng ghép các chính sách về giới trong các
chương trình kinh tế - xã hội ở địa phương có hiệu quả hơn.
Về nội dung đào tạo, cần cung cấp cho các học viên kiến thức mang tính
toàn diện và khách quan về BĐG, cần tránh hiện tượng cung cấp những thông
tin một chiều như quá nhấn mạnh đến những thiệt thòi của nữ giới, mà phải
đánh giá cả thực trạng bình đẳng của giới nam và giới nữ… cũng như mối quan
hệ qua lại giữa hai giới. Nếu trước kia, xu hướng chung là cử một số cán bộ
tham gia tập huấn về giới chủ yếu là cán bộ nữ, thì hiện nay để đạt được BĐG
trong xã hội, việc đào tạo tuyên truyền về giới không chỉ tập trung ở đối tượng
nữ. Bởi lẽ hiện nay, nam giới vẫn đang có những ưu thế trong xã hội, nếu cán
bộ lãnh đạo cả nam và nữ, được đào tạo về giới, họ nhận ra được bất BĐG là
do định kiến và quan niệm, thì việc xóa bỏ những bất bình đẳng đó sẽ dễ dàng
hơn, khoảng cách bất BĐG giữa nam và nữ sẽ mau thu hẹp hơn. Đưa nội dung
về BĐG vào chương trình bồi dưỡng về quản lý nhà nước, đào tạo về cao cấp
lý luận chính trị, nhằm nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ chủ chốt. Như
138

vậy, để công tác BĐG có hiệu quả, phải bắt đầu từ nhận thức và sự đánh giá
đúng đắn từ phía những người có chức trách, thẩm quyền cao là nam giới.
Đặc biệt cần nâng cao nhận thức về BĐG cho đồng bào DTTS, đây là
việc cần được tiến hành thường xuyên. Bởi lẽ với điều kiện kinh tế xã hội ở
miền núi vùng phía Bắc còn khó khăn, trình độ dân trí còn hạn chế, thì việc
trang bị cho đồng bàoDTTS những kiến thức, thông tin về BĐG kịp thời là
hết sức quan trọng, nếu không sẽ dẫn tới khoảng cách bất BĐG giữa hai giới
ngày càng tăng.
Về nội dung: do trình độ dân trí thấp và vốn hiểu biết xã hội còn hạn
chế, nên nội dung tuyên truyền cần dễ hiểu, ngắn gọn súc tích.
Về đối tượng: từ thực trạng về BĐG trong lao động gia đình DTTS
MNPB, cho thấy nam giới cần được tuyên truyền, vận động để có cách nhìn
nhận cởi mở, tích cực về BĐG, nhất là về sự cần thiết phải nâng cao vai trò
giới, vai trò của phụ nữ, tiến tới xóa bỏ những định kiến và cách suy nghĩ
khuôn mẫu cứng nhắc, lạc hậu về vai trò làm vợ, làm mẹ của người phụ nữ,
cần phải phân tích để cho người dân thấy được sự bất bình đẳng trên nhiều
khía cạnh sẽ là một trong những yếu tố cản trở sự phát triển của chính bản
thân phụ nữ, gia đình và toàn xã hội. Đối tượng tuyên truyền còn chính là
những phụ nữ còn mang tư tưởng lạc hậu, an phận ở các nhóm dân tộc khác
nhau, cũng như không chỉ tuyên truyền cho lớp trẻ, mà còn chú ý đến những
người có tuổi, người già, còn bảo thủ, có giữ lại những định kiến, vì chính họ
là tác nhân quan trọng nhất trong trong việc tuyên truyền, giáo dục về BĐG
cho thế hệ trẻ. Khi các thành viên gia đình nhận thức đúng đắn về BĐG, thì
trẻ em trai và trẻ em gái ngay từ khi chào đời đã được cha mẹ, những người
lớn tuổi đối xử bình đẳng. Khi lớn lên, được chứng kiến quyền bình đẳng giữa
cha mẹ, ông bà; được hưởng quyền và thực hiện trách nhiệm bình đẳng với
nhau. Gia đình mà trong đó nam và nữ được bình đẳng với nhau, sẽ tiếp tục là
môi trường tuyên truyền, giáo dục hiệu quả nhất về BĐG, ngoài ra cần phát
huy vai trò của người có uy tín trong cộng đồng.
139

- Hình thức tuyên truyền cần đa dạng, với tư duy cụ thể, đồng bào
DTTS cần lượng thông tin thật, người thật, cần có nhiều hình ảnh trực quan,
sinh động dễ hiểu (song ngữ) qua các phương tiện thông tin đại chúng, hoặc
tuyên truyền trực tiếp trong các cuộc họp, sinh hoạt cộng đồng, các phiên chợ,
lễ hội, sinh hoạt văn hoá, văn nghệ, biểu đạt bằng pa nô, áp phích. Có thể lồng
ghép các kiến thức về BĐG vào sinh hoạt của các câu lạc bộ: “Câu lạc bộ
không sinh con thứ ba”, sinh hoạt nhóm “lồng ghép dân số với phát triển gia
đình bền vững”, câu lạc bộ “gia đình 5 không, 3 sạch”, tiếp tục thực hiện đề
án “giáo dục 5 triệu bà mẹ nuôi dạy con tốt”, đặc biệt cần nâng cao hơn nữa
tính hiệu quả của Dự án Tín dụng gia đình, bởi lẽ thông qua các sinh hoạt của
các nhóm, các câu lạc bộ là một trong những hình thức có hiệu quả nhất cho
việc cung cấp các kiến thức về giới và BĐG cho cả phụ nữ và nam giới. Đối
với đồng bào DTTS, không thạo tiếng phổ thông cần sử dụng đội ngũ cán bộ
người dân tộc tuyên truyền bằng chính ngôn ngữ của họ... Bên cạnh đó cần
lồng ghép nội dung giáo dục này, vào chương trình giảng dạy trong các nhà
trường phổ thông hiện nay như môn: Giáo dục Công dân, kỹ năng sống.
Đặc biệt cần tăng cường kinh phí cho việc thực hiện chương trình phát
thanh, truyền hình và làm báo hình, tăng thời lượng phát sóng truyền thanh,
truyền hình, về nội dung BĐG nói chung, BĐG trong lao động gia đình nói
riêng, bằng tiếng dân tộc ở địa phương, duy trì và phát triển các điểm bưu
điện văn hóa xã tới tận địa bàn cư trú của bà con
Ở MNPB, do trình độ am hiểu pháp luật của người dân còn thấp, lại
chịu ảnh hưởng của những tập tục lạc hậu, những chuyện xảy ra trong gia
đình thường được xem là chuyện riêng tư của vợ chồng, không can hệ gì đến
pháp luật, cho nên nhiều vấn đề tiêu cực trong gia đình phát sinh dẫn đến
những hậu quả đáng tiếc. Nên cần đẩy mạnh việc tuyên truyền phổ biến chính
sách và pháp luật đến với đồng bào DTTS, nhất là luật Hôn nhân gia đình,
luật BĐG, Luật phòng chống bạo lực gia đình. Khi tuyên truyền, phổ biến
chính sách, pháp luật, cần xác định đối tượng cả nam và nữ, nội dung cần
140

được xác định cụ thể cho từng đối tượng để họ nắm được toàn bộ quyền và
nghĩa vụ pháp lý liên quan trực tiếp đến mình, trên cơ sở đó thực hiện và bảo
vệ được quyền và nghĩa vụ.
Có thể nói, để có thể thực hiện được giải pháp trên, thì vai trò của các
cấp ủy Đảng, chính quyền là vô cùng quan trọng, trong việc chỉ đạo lồng ghép
các nội dung tuyên truyền vào các chương trình phát triển kinh tế xã hội của
địa phương, là trách nhiệm của các tổ chức chính trị xã hội như Hội phụ nữ,
Đoàn thanh niên và có vai trò to lớn của người có uy tín trong cộng đồng của
đồng bào DTTS.
4.2.3. Đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở miền núi
phía Bắc
Gia đình là thể chế xã hội đầu tiên có thể làm thay đổi tập quán phân
công lao động theo giới, tạo điều kiện thực hiện BĐG một cách hiệu quả. Khi
trong gia đình nam giới sẵn sàng chia sẻ việc nhà, thì phụ nữ có cơ hội tham
gia vào thị trường lao động, phát huy khả năng và sở thích của mình, trực tiếp
tạo thu nhập, từ đó phụ nữ có khả năng tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực,
có tiếng nói trong gia đình. Vì gia đình và sự tiến bộ của phụ nữ là hai vấn đề
có quan hệ khăng khít với nhau, nên ở MNPB- nơi còn tồn tại nhiều ràng
buộc khắt khe đối với phụ nữ, dẫn tới họ phải chịu nhiều thiệt thòi, muốn xóa
bỏ bất BĐG trong lao động gia đình DTTS, thì cần đẩy mạnh phong trào xây
dựng gia đình văn hóa.
Trong những năm qua, phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở MNPB
đã được triển khai bằng nhiều hình thức phong phú và đem lại hiệu quả thiết
thực. Tại Cao Bằng, các dòng họ đã phát huy truyền thống hiếu học, xây dựng
quỹ khuyến học, những hộ khá giỏi hỗ trợ vốn, truyền nghề, tạo công ăn việc
làm giúp hộ nghèo thoát nghèo, nhiều gia đình văn hóa thuộc đối tượng chính
sách gia đình thương binh, bệnh binh gương mẫu, gia đình công giáo sống tốt
đời, đẹp đạo. Các gia đình văn hóa tỉnh Lào Cai gương mẫu thực hiện nếp
sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội tại các bản văn hóa, tích cực
141

vận động bà con xóa bỏ những hủ tục lạc hậu trong việc cưới, việc tang ở
thôn, bản. Bắc Kạn xây dựng các mô hình hòa thuận, tương thân tương ái,
hiếu học, phát triển kinh tế vườn, đồi theo hướng hàng hóa, có ý thức bảo tồn
và gìn giữ các giá trị văn hóa của dòng họ, cộng đồng, kế thừa, xây dựng các
tập quán tốt đẹp trên cơ sở truyền thống văn hóa đồng bào dân tộc. Tại nhiều
tỉnh Tây Bắc, đồng bào DTTS đã phấn đấu xây dựng gia đình văn hóa theo
phương thức tập trung phát triển kinh tế gia đình, vươn lên dám nghĩ dám
làm, mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, áp dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh giỏi, làm giàu bằng chính bàn tay, khối
óc của mình.
Hiện nay, để đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở
MNPB cần:
Thứ nhất, tiếp tục phát triển với các hình thức đa dạng và phong phú.
Chú trọng xây dựng mô hình các câu lạc bộ “gia đình hạnh phúc, bình đẳng
và không có bạo lực”, “nhóm cùng sở thích”. Thúc đẩy sự tham gia của nam
giới trong các hoạt động truyền thông và các mô hình, câu lạc bộ nhằm tác
động tích cực đến nhóm nam giới trong cộng đồng.
Thứ hai, cần tuyên truyền người dân thực hiện tốt kế hoạch hóa gia
đình, “gia đình ít con” để vừa giảm tỷ lệ tăng dân số, vừa đảm bảo sức khỏe
cho phụ nữ và chăm sóc, nuôi dạy con cái được tốt hơn. Cần phát huy sức
mạnh cộng đồng, thông qua các biện pháp: cung cấp đầy đủ các dịch vụ kế
hoạch hóa gia đình, nhất là tổ chức, triển khai biện pháp đình sản, triệt sản,
không coi việc sử dụng các biện pháp tránh thai chỉ là nhiệm vụ của phụ nữ.
Nêu gương tốt, việc tốt trong thực hiện chính sách dân số kế hoạch hóa gia
đình. Tuyên truyền, vận động việc thực hiện chính sách dân số bằng nhiều
hình thức khác nhau, phù hợp với trình độ nhận thức của đồng bào: tổ chức
các câu lạc bộ sinh hoạt văn nghệ để lồng ghép giới, sử dụng hình thức trực
quan như áp phích, tranh cổ động, tuyên truyền lưu động.
142

Thứ ba, không thể có bình đẳng trong nghèo nàn, lạc hậu nên “no ấm”
được coi là điều kiện để xây dựng gia đình văn hóa, hạnh phúc, vì vậy xóa đói
giảm nghèo, phát triển kinh tế để nâng cao phúc lợi cho gia đình, tạo sự ấm
no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc cho các thành viên trong gia đình, nhất là
cho người phụ nữ. Khi kinh tế phát triển, các gia đình không phải đứng trước
sự lựa chọn ưu tiên do tình trạng khan hiếm, phụ nữ không còn phải đối mặt
với một loạt vấn đề của cuộc sống như: ăn, mặc, học tập, sức khỏe..., họ sẽ có
điều kiện phát triển cá nhân.
Thứ tư, để xây dựng gia đình văn hóa, trong đó đảm bảo các tiêu chí
tiến bộ, hạnh phúc, bền vững, thì phải kiên quyết ngăn chặn và đẩy lùi các hủ
tục như: tảo hôn, hôn nhân cận huyết; tệ nạn: hút thuốc phiện, buôn bán phụ
nữ; bạo lực, tích cực vận động các thành viên trong gia đình và cộng đồng xây
dựng đời sống văn hóa, nếp sống văn minh. Cần áp dụng các hình thức nhằm
khuyến khích thanh niên DTTS ở các vùng khó khăn kết hôn ở độ tuổi muộn
hơn, có thể là tặng quà (khăn bông, màn) nếu họ đến đăng ký kết hôn tại văn
phòng ủy ban nhân dân xã, cần hỗ trợ để họ được tiếp cận thông tin tốt hơn về
tình dục và hôn nhân, đồng thời cần cung cấp các dịch vụ tư vấn làm cha mẹ
ở các khu vực DTTS và miền núi, kết hợp với nâng cao nhận thức về những
tác động tiêu cực của hôn nhân cận huyết.
Hội Phụ nữ cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, các ngành chức
năng kiểm tra, giám sát chế độ chính sách liên quan đến phụ nữ, trẻ em: giám
sát việc thực hiện Luật Phòng chống Bạo lực gia đình, Chương trình an sinh
xã hội...; thành lập nhóm phụ nữ phòng chống bạo lực gia đình ở một số cơ
sở; trực tiếp can thiệp, đề nghị xử lý một số vụ bạo lực gia đình nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích của phụ nữ… Cung cấp nhiều hơn các dịch vụ tài chính vi
mô bền vững và hiệu quả cho những phụ nữ nghèo DTTS thông qua hoạt
động của quĩ Tình thương. Huy động sức mạnh nội lực trong chị em, giúp
143

nhau bằng cây, con giống... kết hợp các chương trình hỗ trợ của tổ chức
trong và ngoài nước về vốn, kiến thức cho phụ nữ phát triển kinh tế, xây
dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
Hội Phụ nữ tiếp tục tổ chức sinh hoạt “câu lạc bộ gia đình hạnh phúc”
với những nội dung thiết thực như: lợi ích của việc sinh đẻ có kế hoạch đối
với sự phát triển kinh tế và hạnh phúc gia đình, phương pháp nuôi con khoẻ,
dạy con ngoan. Qua đó, mỗi đoàn viên, hội viên trở thành một tuyên truyền
viên dân số tích cực tuyên truyền, vận động thực hiện sinh đẻ kế hoạch.
Để đảm bảo sự phát triển của phụ nữ mang tính bền vững, các cấp hội
phụ nữ cần tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục về quyền phụ nữ,
quyền bình đẳng của phụ nữ trên mọi lĩnh vực; Cần đẩy mạnh đấu tranh
chống lại các quan niệm lạc hậu về vai trò của phụ nữ trong đời sống chính
trị, kinh tế- xã hội. Điều quan trọng là, các cấp hội cũng cần phải tuyên truyền
giáo dục để tự bản thân người phụ nữ cũng phải xóa bỏ những mặc cảm tự ti,
vượt lên trên những thành kiến cổ hủ, mạnh dạn tham gia vào các hoạt động
xã hội để khẳng định vị trí, vai trò của mình.
Đoàn Thanh niên cần phối hợp tổ chức tuyên truyền, đẩy mạnh giáo
dục đào tạo, nâng cao đời sống văn hoá tinh thần và vận động các hoạt động
phòng chống tệ nạn xã hội, ma tuý trong đoàn viên thanh niên, đẩy mạnh hoạt
động của “câu lạc bộ tiền hôn nhân”.Vận động phong trào Đoàn viên thanh
niên sinh đẻ có kế hoạch, vận động thực hiện gia đình 2 con, con thứ nhất
cách con thứ hai 5 năm, không có người sinh con thứ 3, nuôi con khỏe, dạy
con ngoan…Vận động phong trào xóa mù chữ cho đoàn viên thanh niên, nhất
là nhóm nữ đoàn viên DTTS.
Tóm lại, con đường nhận thức và hành động vì BĐG phải bắt đầu từ
gia đình và ngay trong gia đình. Do đó, xây dựng gia đình văn hóa là điều
kiện để giải phóng phụ nữ DTTS, thực hiện BĐG, góp phần xây dựng thể chế
gia đình bền vững ở MNPB.
144

4.2.4. Phát huy vai trò nỗ lực vươn lên của phụ nữ dân tộc thiểu số
miền núi phía Bắc
V.I.Lênin từng chỉ ra rằng: Phụ nữ chỉ được giải phóng, được phát triển
khi họ tự nhận thức được vị trí, vai trò của mình và có quyết tâm đấu tranh vì sự
nghiệp cao cả ấy, việc giải phóng lao động nữ phải là việc của bản thân phụ nữ.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nhắc nhở: phụ nữ phải vươn lên để
bình đẳng với nam giới về trình độ, về năng lực quản lý kinh tế và quản lý xã
hội, chủ động quyết tâm khắc phục khó khăn, phải tự tin, tự lực, tự cường, không
nên tự ti, “ngồi chờ Chính phủ, chờ Đảng ra chỉ thị giải phóng cho mình”. Theo
Người, hơn tất cả mọi điều chính là bản thân chị em phụ nữ phải tự phấn đấu
vươn lên để thoát khỏi tâm lý tự ti, bó hẹp, để đấu tranh giải phóng đòi quyền lợi
cho chính mình và giới mình, góp công sức, trí tuệ của mình trong xây dựng đất
nước. Để có thể xóa bỏ tâm lý tự ti, phụ nữ DTTS MNPB cần:
Thứ nhất, phải cố gắng học tập, nâng cao trình độ
Sự nghiệp đổi mới đang đòi hỏi bên cạnh việc kế thừa và phát huy
những giá trị truyền thống của phụ nữ DTTS như: chân thật, giản dị, chăm
chỉ, nhân hậu, khéo léo, sống có trách nhiệm với gia đình và xã hội, thì nay
cần hình thành những phẩm chất mới như: năng động, sáng tạo, bản lĩnh, tự
tin, tinh thần chủ động, dám nghĩ, dám làm đem lại lợi ích cho bản thân và
cộng đồng, tác phong lao động linh hoạt, nhanh nhẹn, để ứng phó được những
tình huống mới liên tục xuất hiện trong xu thế cạnh tranh, giao lưu, hợp tác.
Để có thể khẳng định được vị thế xã hội của mình trong gia đình, đòi
hỏi phụ nữ DTTSMNPB phải nâng cao hiểu biết, năng lực, phải có tri thức,
kỹ năng nghề nghiệp, năng động sáng tạo, có lối sống văn hóa, có lòng nhân
đạo, để tự tin khẳng định mình. Việc phụ nữ có đủ năng lực và sự chủ động
trong việc ra các quyết định quan trọng về các mặt trong gia đình, sẽ là điều
kiện quan trọng để tiến tới bình đẳng giới thực sự trong gia đình.
Muốn vậy, gia đình và các các tổ chức xã hội cần phải tạo những cơ
hội và điều kiện thuận lợi để phụ nữ DTTS có điều kiện và cơ hội tham gia
145

các lớp tập huấn, các khoá đào tạo ngắn hạn và dài hạn liên quan đến hoạt
động sản xuất, giúp họ tham gia và trực tiếp ra các quyết định liên quan đến
kinh tế hộ gia đình như đối với hoạt động vay vốn để đầu tư vào sản xuất
kinh doanh và các hoạt động khác. Có chính sách thoả đáng đối với họ khi
tham gia học tập tại các trường lớp, nâng cao trình độ trên các địa bàn này,
tiến tới xoá bỏ dần khoảng cách và sự chênh lệch kiến thức, trình độ giữa
phụ nữ các dân tộc và giữa phụ nữ và nam giới.
Cần đặc biệt chú ý tới việc tạo điều kiện, cơ hội cho phụ nữ tham gia
vào các hoạt động xã hội, tự học hỏi, tự đào tạo để nâng cao kiến thức văn
hoá và khắc phục mặc cảm tự ti, xóa bỏ định kiến, để tiến tới chủ động và tích
cực phấn đấu nâng cao sự công bằng giới trong các lĩnh vực của đời sống gia
đình và xã hội. Nâng cao kiến thức, kỹ năng cho phụ nữ DTTS về chăm sóc
sức khoẻ, nuôi dạy con, dân số và kế hoạch hoá gia đình, kỹ năng sống và tổ
chức cuộc sống gia đình. Xây dựng phụ nữ DTTS MNPB có “ sức khoẻ, tri
thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, có lối sống văn hoá, có lòng
nhân hậu, tích cực lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”.
Hội phụ nữ cần nêu gương người tốt, việc tốt của phụ nữ DTTS trong
các lĩnh vực. Họ là những con người có những phẩm chất cao quý trong lao
động sản xuất, trong sinh hoạt và học tập, là những tấm gương sáng về sự
kết hợp giữa hài hoà giữa ý chí kiên cường, lòng dũng cảm đức hi sinh, nghị
lực sống và tài năng sáng tạo không ngừng. Những tấm gương đó không chỉ
thôi thúc mỗi người phụ nữ noi theo, mà còn góp phần thay đổi những nhận
thức chưa đầy đủ về vị trí và vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội. Tổ
chức các lễ hội tôn vinh phụ nữ DTTS nhằm tạo dư luận xã hội rộng rãi ủng
hộ, khuyến khích các hành động tích cực chăm lo cho sự phát triển của phụ
nữ đồng thời phê phán, loại bỏ những hành vi tiêu cực, những phong tục tập
quán, tâm lý, thói quen coi thường, hạ thấp nhân phẩm của phụ nữ,giúp cho
phụ nữ nhận thức rằng vị thế xã hội thấp kém của họ so với nam hiện nay,
không phải chỉ là do những khác biệt về mặt thể chất tự nhiên, mà là bắt
nguồn từ những yếu tố xã hội.
146

Trong bối cảnh hiện nay,ở MNPB còn nhiều định kiến với phụ nữ,
công cuộc đổi mới đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao về chất lượng
nguồn nhân lực nữ. Sự nghiệp đổi mới đã tạo điều kiện và đòi hỏi phụ nữ phát
huy ý thức, ý chí, khả năng của cá nhân cho sự phát triển của cộng đồng.Vì
vậy, muốn đấu tranh xoá bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu coi thường
phụ nữ, thì bản thân phụ nữ phải biết vươn lên, không ngừng học hỏi, nâng
cao năng lực, trình độ về mọi mặt để có một nền tảng tri thức vững chắc có
thể chủ động, tự tin giải quyết các vấn đề của bản thân, gia đình và xã hội.
Thứ hai, cần nâng cao tính tích cực xã hội của phụ nữ
Tham gia vào các hoạt động mang tính xã hội, phụ nữ DTTS MNPB
không chỉ được phát huy khả năng, mà hơn thế nữa họ được hoàn thiện chính
bản thân mình. Tâm lý tự ti, mặc cảm của họ chắc chắn sẽ dần được khắc
phục, nếu họ được tham gia vào một môi trường hoạt động giàu tính năng
động, sáng tạo, luôn có sự giao lưu đa chiều tôn trọng nhu cầu, khả năng và
nguyện vọng của mỗi cá nhân.
Để thực hiện BĐG trong lao động gia đình, không chỉ dừng lại ở việc
xoá bỏ những định kiến bảo thủ lạc hậu đối với phụ nữ DTTS, mà quan trọng
hơn là phải bằng những hành động thiết thực tạo điều kiện cho sự phát triển
của phụ nữ DTTS thông qua việc tiếp cận với giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức
khoẻ, nâng cao đời sống văn hoá tinh thần, chống tệ bạo hành, buôn bán phụ
nữ, các tệ nạn xã hội từ trong gia đình.

Kết luận chương 4


Quá trình thúc đẩy thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS
MNPB, cần phải quán triệt những quan điểm cơ bản như: phải gắn liền với
chiến lược phát triển kinh tế xã hội, chiến lược phát triển nguồn nhân lực và
chủ trương xây dựng nông thôn mới; phải gắn với Chiến lược Quốc gia về
BĐG, kế hoạch hành động BĐG của các tỉnh trong vùng; thực hiện BĐG
trong lao động gia đình DTTS MNPB là sự kết hợp sức mạnh tổng thể của các
147

cấp ủy, chính quyền, các tổ chức đoàn thể và bản thân người phụ nữ. Đặc biệt,
thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB cần phải xuất phát từ
điều kiện đặc thù của vùng và đặc điểm riêng của từng dân tộc.
Việc thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS ở MNPB hiện nay,
đang đối diện với nhiều khó khăn, thách thức như: kinh tế lạc hậu, trình độ
dân trí và nhận thức của người dân còn thấp, trong đời sống xã hội còn tồn tại
nhiều hủ tục lạc hậu. Để giải quyết được những mâu thuẫn này, thúc đẩy
BĐG trong lao động gia đình, đòi hỏi MNPB cần thực hiện một hệ thống các
giải pháp mang tính đồng bộ. Trước tiên các tỉnh MNPB cần phát triển kinh tế
để cải thiện đời sống cho nhân dân, thông qua việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng sản xuất hàng hóa để phát huy lợi thế cạnh tranh của vùng, đồng
thời thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế và đẩy mạnh việc hoàn
thiện kết cấu hạ tầng phục vụ phải triển kinh tế. Thứ hai, các tỉnh MNPB cần
phải có giải pháp để nâng cao trình độ học vấn và nhận thức về BĐG cho
đồng bào DTTS, với những hình thức và nội dung phù hợp với đặc thù vùng
và đặc điểm của dân tộc. Thứ ba, các tỉnh MNPB cần phải đẩy mạnh phong
trào xây dựng gia đình văn hóa bằng nhiều hình thức khác nhau, để đẩy lùi
ảnh hưởng tiêu cực của các hủ tục, vì con đường nhận thức và hành động vì
BĐG bắt đầu từ gia đình và ngay trong gia đình. Thứ tư, cần có những chính
sách giải pháp tạo điều kiện cho phụ nữ học tập, nâng cao tính tích cực xã hội,
để phát huy vai trò vươn lên của phụ nữ DTTS.
148

KẾT LUẬN

Bình đẳng giới là một trong những mục tiêu toàn cầu, mà Liên hợp
quốc và nhiều tổ chức quốc tế khác từ lâu đã vận động và thúc đẩy. Quyền
bình đẳng nam nữ trên mọi lĩnh vực đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn thế
giới về quyền con người (1948), Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức
phân biệt đối xử với phụ nữ của Liên hợp quốc (1979) và nhiều văn kiện pháp
lý quốc tế khác, cũng như đã được khẳng định trong pháp luật của hầu hết các
quốc gia trên thế giới.
Bình đẳng giới là mục tiêu vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài, vừa có
tính cấp bách trong sự nghiệp đổi mới của đất nước ta. Thực hiện mục tiêu
này, nam giới và nữ giới có thể có những điều kiện bình đẳng để phát huy đầy
đủ các tiềm năng của họ, có cơ hội để tham gia, đóng góp trong công cuộc
phát triển đất nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội.
Thực tiễn đời sống đã chứng minh, bất kỳ một sự phân biệt đối xử nào cũng
đều dễ gây nên những căng thẳng và xung đột xã hội. Bất BĐG không chỉ hạn
chế sự phát triển của phụ nữ, mà còn cản trở tiến trình phát triển của mỗi quốc
gia, đặc biệt là với các nước đang phát triển.
Vấn đề BĐG được đề cập rất sớm ở Việt Nam, các quan điểm về BĐG
không chỉ được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng, Hiến pháp của Nhà
nước, được cụ thể hóa bằng các văn bản, những chỉ thị, nghị định, mà quan
trọng hơn, ở một mức độ nhất định, đã và đang được thực thi trong cuộc sống
nhằm phát huy vai trò, vị trí và tiềm năng của phụ nữ trong xã hội.
Sự nghiệp đổi mới của đất nước ta đã làm thay đổi nhiều lĩnh vực của
đời sống xã hội. Gia đình là một thiết chế xã hội, cũng có những biến đổi theo
xu hướng tích cực tiến bộ, đặc biệt các mối quan hệ trong gia đình ngày càng
hướng tới sự dân chủ, bình đẳng hơn. Có thể nói gia đình và sự tiến bộ của
phụ nữ là hai vấn đề có quan hệ khăng khít với nhau. Trong gia đình, phụ nữ
có vai trò hết sức quan trọng, là người thầy đầu tiên của con người, là linh hồn
149

của một gia đình, là người tạo dựng nền tảng tâm hồn và nhân cách cho con
người ngay từ thuở lọt lòng cho đến khi trưởng thành. Để phát huy tốt vai trò
của mình, người phụ nữ phải là người tiến bộ và gia đình là nơi bắt đầu sự
tiến bộ của phụ nữ. Người phụ nữ không thể nâng cao vị trí của mình khi gia
đình thiếu sự bình đẳng, sự chia sẻ vai trò của mình cùng với các thành viên
trong gia đình và sự ủng hộ của xã hội. BĐG trong lao động gia đình có ý
nghĩa to lớn, góp phần phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
và thúc đẩy thực hiện công bằng xã hội.
Miền núi phía Bắc là vùng đất có nhiều tiềm năng và nguồn lực phát
triển về kinh tế, công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng, lãnh đạo
trong 30 năm qua đã làm cho đời sống vật chất và tinh thần của người DTTS
được nâng cao.
Trong gia đình DTTS hiện nay đã có sự biến đổi theo hướng tích cực
trong mối quan hệ giữa các thành viên, đặc biệt trong phân công lao động
trong gia đình. Tuy nhiên trên thực tế thấy rằng, việc thực hiện BĐG trong
lao động gia đình của DTTS MNPB còn đứng trước rất nhiều khó khăn, thử
thách. Trong gia đình DTTS MNPB hiện nay, về cơ bản vẫn còn mang nhiều
định kiến giới, phân công lao động vẫn tuân theo quan điểm truyền thống
“việc đàn ông”, “việc đàn bà”. Sự phân công này xuất phát từ quan niệm nam
giới là “phái mạnh” phải đảm nhận những “việc nặng”, cần “tính toán” và “kỹ
thuật,” còn phụ nữ thuộc “phái yếu” nên phụ trách những “việc nhẹ”, “công
việc không tên”. Sự phân biệt “việc đàn ông” và “việc đàn bà” trên thực tế đã
làm giảm giá trị lao động của phụ nữ, chính điều này đã cản trở họ trong
việc tiếp cận, kiểm soát các nguồn lực để phát triển, hạn chế quyền quyết
định trong lao động gia, cản trở quá trình thực hiện BĐG trong lao động gia
đình đồng bào DTTS.
Thực hiện BĐG trong lao động gia đình DTTS MNPB đòi hỏi phải
nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò lao động của người phụ nữ trong gia đình
ở các địa phương này, cần phải vận động tuyên truyền mạnh mẽ hơn nữa để
150

mọi người thay đổi cách nhìn thiên lệch về vai trò của phụ nữ đặc biệt là phụ
nữ DTTS trong thời đại ngày nay. Cần phải phát triển kinh tế hàng hóa ở
MNPB để tạo điều kiện thúc đẩy năng suất lao động, đa dạng hóa sinh kế, giải
phóng sức lao động. Ngoài ra các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị và các
thành viên trong gia đình cần tạo điều kiện cho chị em phụ nữ DTTS có cơ
hội học hành, có công ăn việc làm, được đảm bảo tốt về mặt sức khỏe…, để
họ có thể vừa hoàn thành thiên chức làm vợ, làm mẹ, mà vẫn đảm bảo tốt mọi
trọng trách mà xã hội giao phó. Đặc biệt để thực hiện được BĐG trong lao
động gia đình thì bản thân người phụ nữ DTTS cũng phải nỗ lực vươn lên vì
BĐG không phải là làm giúp cho phụ nữ mà là tạo cơ hội, tạo điều kiện cho
phụ nữ phát huy được năng lực bản thân, BĐG không phải là tạo chỗ dựa, mà
là giúp phụ nữ đứng vững trên đôi chân của mình để họ góp phần xây dựng
một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Muốn thực hiện được BĐG trên các lĩnh vực khác, thì trước hết phải
thực hiện được BĐG trong gia đình, vì gia đình là “tế bào” của xã hội. Và
trong gia đình để có BĐG thì thực hiện BĐG trong lao động gia đình lại có ý
nghĩa quyết định. BĐG trong lao động gia đình không những là chìa khóa để
đảm bảo cho sự ổn định bền chặt, êm ấm của gia đình, mà còn tạo điều kiện
cho sự phát triển toàn diện của cả nam và nữ về mặt xã hội, cải thiện dần địa
vị của mỗi giới, đặc biệt là địa vị của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
151

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ


LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Lệ Thu (2012), "Tâm lý tự ti, an phận của phụ nữ và sự bất bình
đẳng giới trong gia đình dân tộc HMông ở Hà Giang", Tạp chí Dân tộc
và thời đại, (146), tr.8-14.
2. Nguyễn Lệ Thu (2015), "Tâm lý tự ti, an phận và sự bất bình đẳng giới với
phụ nữ trong gia đình Hmông vùng Đông Bắc", Kỷ yếu hội thảo khoa
học quốc gia Nữ quyền những vấn đề lý luận và thực tiễn, Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội, Nxb Đại học Sư phạm, tr.500-505.
3. Nguyễn Lệ Thu (2016), "Triết lý nhân sinh trong nghi lễ tang ma của người
Tày ở miền núi phía Bắc", trong cuốn Triết lý nhân sinh trong văn hóa
Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Nxb Lý luận chính trị,
tr.464-469.
4. Nguyễn Lệ Thu (2016), "Đào tạo sinh viên ngành Giáo dục công dân kiến
thức về giới đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông
mới", Kỷ yếu hội thảo Trường Sư phạm trong phát triển năng lực nghề
nghiệp cho giáo viên phổ thông đáp ứng chương trình giáo dục mới,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội, tr.207-213.
5. Nguyễn Lệ Thu (2016), "Bình đẳng giới và xóa đói giảm nghèo ở miền núi
phía Bắc", Tạp chí Dân tộc và thời đại, (187), tr.55-60.
6. Nguyễn Lệ Thu (2016), "Cung cấp kiến thức về giới cho sinh viên sư phạm
đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay", Kỷ yếu hội thảo khoa học
sinh viên và cán bộ trẻ các trường Sư phạm toàn quốc năm 2016 toàn
văn, Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Đại học Sư
phạm thành phố Hồ Chí Minh, tr.325-331.
7. Nguyễn Lệ Thu (2016), "Tác động của phong tục tới thực hiện bình đẳng giới
trong lao động gia đình dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc", Tạp chí Lao
động và công đoàn, (605), tr.18-19.
152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Thị Ngọc Anh (2006), Vai trò giới và lượng hóa giá trị lao động
gia đình, Trường Cán bộ phụ nữ Trung ương, Hà Nội.
2. Trần Thị Vân Anh, Lê Ngọc Hùng (2000), Phụ nữ và gia đình, Nxb Phụ
nữ, Hà Nội.
3. Trần Thị Vân Anh (2007), “Đóng góp kinh tế của vợ chồng”, Tạp chí
Nghiên cứu gia đình và giới, (5), tr.3-14.
4. Trần Thị Vân Anh, Nguyễn Hữu Minh (chủ biên) (2008), Bình đẳng giới ở
Việt Nam (phân tích số liệu điều tra), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
5. Do Thi Binh (1999), Cao Bang - Bac Kan - Rural Development project:
Gender Studies on Tay Nung ethnic minorities in Cao Bang, Ha Noi.
6. Đỗ Thị Bình (2001), “Mấy vấn đề về vai trò giới trong gia đình nông
thôn hiện nay” (Nghiên cứu trường hợp các xã phía Bắc), Tạp chí
Khoa học về phụ nữ, (3), tr.20-33.
7. Đỗ Thị Bình, Lê Ngọc Văn và Nguyễn Linh Khiếu (2002), Gia đình Việt
Nam và người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
8. Bộ Chính trị (1993), Nghị quyết số 04, ngày 12-7-1993 về đổi mới và tăng
cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới, Hà Nội.
9. Bộ Chính trị (2007), Nghị quyết số 11, ngày 27-4-2007, về công tác phụ
nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.
10. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Viện Chiến lược phát triển (2010), Các vùng,
tỉnh thành phố trực thuộc trung ương: Tiềm năng và triển vọng đến
năm 2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2010), Chiến lược Quốc gia về
bình đẳng giới giai đoạn 2010 - 2020, Hà Nội.
12. Tony Chapman (2004), Gender and Domestic life (changing Pratices in
family and Household), Palgranve Macmillan.
153

13. Chính phủ (2006), Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07/9/2006 về việc
lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội,
Hà Nội.
14. Chính phủ (2011), Báo cáo tổng kết thực hiện dự án “trồng mới 5 triệu
hecsta rừng” và kế hoạch bảo vệ phát triển rừng giai đoạn 2011 -
2020, Hà Nội.
15. Chính phủ (2011), Nghị định số 05/2011/NĐ-CP, ngày 14-1-2011 về
Công tác dân tộc, Hà Nội.
16. Chương trình hợp tác chung giữa Chính phủ Việt Nam và Liên hợp quốc
về bình đẳng giới (2011), Hệ thống các văn bản quy định hiện hành
về bình đẳng giới và phòng, chống Bạo lực gia đình, Nxb Thời đại,
Hà Nội.
17. Đại học Thái Nguyên (2014), Phát triển bền vững và xóa đói giảm nghèo
cho đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi, Nxb Đại học Thái
Nguyên, Thái Nguyên.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng: Toàn tập, tập 47, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Sa Trọng Đoàn (2000), Phát triển kinh tế hộ gia đình miền núi trong quá
trình chuyển dịch sang cơ chế thị trường, Luận án tiến sĩ, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
21. Trần Thị Minh Đức (2006), Định kiến và phân biệt đối xử theo giới: lý
thuyết và thực tiễn, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
22. Nguyễn Thị Hà (2012), Quan hệ giới trong gia đình dân tộc thiểu số
miền núi phía Bắc hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính
trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
23. Lương Thị Thu Hằng (2002), “Vài nét về người phụ nữ trong xã hội
Thái” (Nghiên cứu tại huyện Thanh Luông, tỉnh Lai Châu), Tạp chí
Khoa học về phụ nữ, (5), tr.21-29.
154

24. Trần Minh Hằng (2001), “Một số phong tục tập quán ảnh hưởng tới
chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ các dân tộc tỉnh Hà Giang”,
Tạp chí Dân số và phát triển, (2), tr.35-40.
25. Bế Văn Hậu (2014), “Gia đình người Tày ở Việt Nam - truyền thống và
đổi mới”, Tạp chí Nghiên cứu gia đình và giới, (2).
26. Phạm Thu Hiền (2013), “Tác động của thiên tai và biến đổi khí hậu đối
với cộng đồng dân tộc thiểu số phía Bắc - nhìn từ lăng kính giới”,
Tạp chí Nghiên cứu gia đình và giới, (2), tr.56-66.
27. Đặng Thị Hoa (2001), “Vị thế của người phụ nữ H’Mông trong gia đình
và xã hội”, (Nghiên cứu ở bản Hang Kia, xã Hang Kia, huyện Mai
Châu, Hòa Bình), Tạp chí Khoa học về phụ nữ, (1), tr.33-36.
28. Đặng Thị Hoa, Phạm Thị Kim Oanh (2008), “Vấn đề bạo lực gia đình ở
vùng dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam”(nghiên cứu
trường hợp dân tộc Mông), Tạp chí Dân tộc học, (4).
29. Nguyễn Linh Khiếu (2002), “Khía cạnh quan hệ giới trong gia đình
nông thôn” (Nghiên cứu trường hợp xã Cát Thịnh, Văn Chấn, Yên
Bái), Tạp chí Khoa học về phụ nữ, (1), tr.25-29.
30. Nguyễn Linh Khiếu (2003), Nghiên cứu phụ nữ, giới và gia đình, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
31. Phan Thanh Khôi, Đỗ Thị Thạch (đồng chủ biên) (2007), Những vấn đề
giới - từ lịch sử đến hiện đại, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
32. Knud Knudsen and Kari Waerness (2008), National context and spouses’
Housework in 34 countries (bối cảnh đất nước và công việc gia đình
của vợ chồng tại 34 quốc gia), Europian Sociological Review,
Volume 24. Number 1.
33. Lê Ngọc Lân (2005), “Phụ nữ các dân tộc miền núi phía Bắc: về hôn
nhân, văn hóa giáo dục và chăm sóc sức khỏe”, Tạp chí Khoa học về
phụ nữ, (6), tr.34-44.
34. Lê Ngọc Lân (2007), “Vấn đề lao động, việc làm nhìn từ góc độ giới”,
Tạp chí Nghiên cứu gia đình và giới,(2).
155

35. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 39, NXb Tiến bộ, Matxocova.
36. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Matxocova.
37. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Matxocova.
38. C.Mác, Ph. Ănghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Phan Thị Thanh Mai (2009), “Thực trạng và vai trò của phụ nữ dân tộc
thiểu số các tỉnh miền núi phía Bắc trong chăm sóc sức khỏe sinh
sản”, Tạp chí Nghiên cứu gia đình và giới, (1).
40. Hồ Chí Minh (1980), Tuyển tập, tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội.
41. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội.
43. Dương Thị Minh (2004), Gia đình Việt Nam và vai trò người phụ nữ
trong giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Nguyễn Hữu Minh (2008), “Khía cạnh giới trong phân công lao động gia
đình”, Tạp chí Xã hội học, (4), tr.44-56.
45. Nguyễn Thị Nga, Phạm Anh Hùng (2015), “Lao động nữ không được.
trả công ở Việt Nam”, Tạp chí khoa học xã hội Việt Nam, số 1 (86).
46. Nguyễn Thị Ngân (2008), “Thực hiện quan điểm của Đảng và chính sách
của Nhà nước về bình đẳng giới”, Tạp chí Lý luận Chính trị, (3),
tr.42-45.
47. Nguyễn Thị Ngân (2008), “Chủ trương của Đảng, Nhà nước về giải
phóng phụ nữ và bình đẳng giới ở Việt Nam”, Tạp chí Lịch sử Đảng,
(3), tr.48-55.
48. Lê Tuấn Ngọc (2015), “Phát triển nguồn lực con người trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các tỉnh miền núi phía Bắc hiện nay”,
Tạp chí Triết học, số 4 (287), tr.65-70.
49. Phan Thị Nhiệm (2009), “Tác động của gia nhập WTO tới phụ nữ dân
tộc thiểu số nông thôn tại một số tỉnh miền núi phía Bắc”, Tạp chí
Kinh tế và phát triển, (142), tr.36-42.
156

50. Trần Thị Vân Nương (2013), “Phân công lao động theo giới trong gia
đình: cách nhìn mới cho một chủ đề cũ”, Tạp chí Nghiên cứu giới và
gia đình, (3).
51. Oxfarm actionaid, Oisee, Caritas (2010), Báo cáo hiện trạng bất bình
đẳng giới trong cộng đồng người dân tộc thiểu số.
52. Oxfarm - Actionad (2013), Mô hình giảm nghèo tại một số cộng đồng
dân tộc thiểu số điển hình ở Việt Nam.
53. Lò Giàng Páo (2010), Điều tra, đánh giá tăng trưởng và giảm nghèo ở một
số vùng dân tộc thiểu số phía Bắc, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
54. Lò Giàng Páo (2010), Điều tra đánh giá thực trạng kinh tế - xã hội tuyến
biên giới Việt Nam - Trung Quốc, Báo cáo dự án điều tra cấp bộ, Ủy
ban dân tộc, Hà Nội.
55. Nguyễn Hồng Quang (2003), “Gia đình DTTS và lao động trẻ em”, Xã
hội học, số 1 (81), tr.41-50.
56. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2007), Luật Bình
đẳng giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật Đất
đai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Hôn
nhân và gia đình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Lê Thị Quý (2004), “Vấn đề giới trong các dân tộc ít người ở Sơn La -
Lai Châu hiện nay”, Tạp chí Xã hội học, số 1 (85).
60. Lê Thị Quý (2013), “Bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa
học xã hội Việt Nam, (2).
61. Quỹ Health Bridege Canada - Viện Nghiên cứu phát triển xã hội (2007),
Women’s Economic Contribution through their Unpaid Work in
Vietnam (Đóng góp kinh tế của phụ nữ thông qua công việc nhà).
62. Roberta Satow (2001), Gender and social life (Giới và đời sống xã hội),
Nxb Allyn and Bacon, Boston.
157

63. Nguyễn Thị Thanh Tâm và nhóm nghiên cứu (2005), Thu nhập, việc
làm và địa vị của phụ nữ dân tộc thiểu số trong quá trình phát triển
kinh tế thị trường - những phân tích qua lăng kính giới (nghiên cứu
trường hợp Lào Cai và Lạng Sơn), Viện Gia đình và giới, Hà Nội.
64. Nguyễn Thị Thanh Tâm, Lê Việt Nga và Phan Thị Thanh Mai (2007),
Một số vấn đề giới của các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc, Viện
Gia đình và giới, Hà Nội.
65. Lê Ngọc Thắng (1998), “Phụ nữ dân tộc và miền núi trong đời sống
kinh tế - văn hóa các dân tộc”,Tạp chí Cộng sản, (539).
66. Lê Ngọc Thắng (2001), “Mấy vấn đề về sự phát triển của phụ nữ
Hmông (từ thực tiễn ở Mộc Châu, Sơn La và Quản Bạ, Hà Giang)”,
Tạp chí Dân tộc học, (1).
67. Lê Thi (1996), Gia đình Việt Nam ngày nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
68. Lê Thi (1998), Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt Nam,
Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
69. Nguyễn Thị Phương Thủy (2014), Gia đình và giáo dục gia đình, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70. Tổng cục Thống kê (2011), kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp
và thủy sản năm 2011, Nxb Thống kê, Hà Nội.
71. Tổng cục Thống kê (2012), Điều tra mức sống, Hà Nội.
72. Tổng cục Thống kê (2013), Niên giám thống kê, Hà Nội.
73. Tổng cục Thống kê (2013), Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa
gia đình thời điểm 1/4/2013, Hà Nội.
74. Tổng cục Thống Kê (2014), Kết quả chủ yếu Điều tra dân số và nhà ở
giữa kỳ thời điểm 1/4/2014, Hà Nội.
75. Tổng cục Thống kê (2014), Niên giám thống kê tóm tắt 2014, Hà Nội.
76. Tổng cục Thống kê, UNICEF (2015), Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ
em và phụ nữ Việt Nam 2014, Báo cáo cuối cùng, Hà Nội.
158

77. Nguyễn Thị Mỹ Trang, Nguyễn Lê Tâm (2007), “Quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về giải phóng phụ nữ”, Tạp chí Giáo dục lý luận,
(5), tr.7-11.
78. Trương Thu Trang (2008), “Những yếu tố ảnh hưởng đến BĐG trong
phân công thực hiện công việc nội trợ giữa vợ và chồng”, Tạp chí
Thông tin khoa học xã hội, (4).
79. Trung tâm Nghiên cứu gia đình và phụ nữ (1998 - 2000), Điều tra cơ
bản về gia đình Việt Nam và vai trò của người phụ nữ trong gia đình
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Hà Nội.
80. Trịnh Quốc Tuấn, Đỗ Thị Thạch (Đồng chủ biên) (2008), Khoa học giới -
Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Lý luận - Hành chính, Hà Nội.
81. UN (2002), Tóm tắt tình hình giới.
82. UN (2009), Báo cáo tiến độ thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ,
xóa bỏ khoảng cách thiên niên kỷ.
83. UNDP (2010), Human Development Report 2010 (Báo cáo phát triển con
người 2010).
84. UNDP (2013), Thewomen’s access to land in contemporary Viet Nam
(Tiếp cận đất đai của phụ nữ trong xã hội Việt Nam hiện nay).
85. UN Women (2010), Pháp luật của chúng ta có thúc đẩy bình đẳng giới,
Sổ tay nghiên cứu rà soát pháp luật dựa trên công ước CEDAW, (Dịch
ra tiếng Việt: Hà Ngọc Anh), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
86. UN Women (2011), Thúc đẩy quyền của phụ nữ tại Việt Nam.
87. UN Women (2012), Những phát hiện chính từ Báo cáo An sinh xã hội
cho phụ nữ và trẻ em gái ở Việt Nam.
88. UN Womem (2015), Tóm tắt tình hình phụ nữ và trẻ em gái dân tộc thiểu số.
89. Ủy ban dân tộc (2011), Nghèo của DTTS ở Việt Nam - thực trạng và
thách thức ở các xã thuộc Chương trình 135 - II, Hà Nội.
90. Ủy ban Dân tộc (2012), Báo cáo nghiên cứu thực trạng quản lý và sử
dụng đất đai ở vùng dân tộc và miền núi, Hà Nội.
159

91. Ủy ban dân tộc (2013), Báo cáo đánh giá và triển khai thực hiện chính
sách dân tộc và miền núi, Hà Nội.
92. Ủy ban Dân tộc (2014), Đề án giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân
cận huyết thống trong đồng bào DTTS (dự thảo), Hà Nội.
93. Ủy ban Dân tộc (2015), Kết quả điều tra thực trạng kinh tế - xã hội 53 dân
tộc thiểu số năm 2015, Hà Nội.
94. Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam (2004), Hướng dẫn lồng
ghép giới trong hoạch định và thực thi chính sách, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
95. Uỷ ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ (2010), Chiến lược quốc gia vì sự
tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
96. Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (ISEE) (2010), Báo cáo
đánh giá tiếp cận và sử dụng các dịch vụ pháp lý của phụ nữ dân tộc
thiểu số, Hà Nội.
97. Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (ISEE) (2010), Giới,
tăng quyền và phát triển: quan hệ giới từ góc nhìn của người dân tộc
thiểu số, Hà Nội.
98. Word Bank (2009), Country Social Analysis - Ethnic and Development in
Viet Nam (Phân tích xã hội về tộc người và phát triển ở Việt Nam.
99. Word Bank (2011), Gender Assessment in Viet Nam (đánh giá Giới tại
Việt Nam).
100. Word Bank (2012), TheWord Development Report 2012: Gender Equality
and Development (Báo cáo phát triển thế giới: BĐG và phát triển).
160

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH


VIỆN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

PHIẾU HỎI

Kính thưa Ông (bà) !


Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của việc thực hiện BĐG trong gia
đình dân tộc thiểu, chúng tôi triển khai đề tài: Bình đẳng giới trong lao động
gia đình dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam
Để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài, chúng tôi xin trân trọng kính
nhờ ông, bà giúp đỡ cung cấp thông tin bằng cách hoàn thành phiếu hỏi này.
Sự giúp đỡ của ông bà sẽ góp phần quan trọng vào việc thực hiện thành công
đề tài nghiên cứu nói trên.
Việc cung cấp thông tin này là hoàn toàn tự nguyện. Vì vậy, chỉ xin
ông, bà vui lòng trả lời câu hỏi mà không cần ghi tên. Xin trân trọng cảm ơn
ông, bà đã giành thời gian giúp đỡ chúng tôi hoàn thành phiếu trưng cầu ý
kiến này.
Câu 1: Ông/bà có biết về Luật BĐG không? (khoanh tròn 1 lựa chọn)
1. Có 2. Không
Câu 2: Ông/bà có cho rằng cả hai vợ chồng phải làm các công việc
như nhau mới là bình đẳng không? (khoanh tròn 1 lựa chọn).
1. Rất đồng ý 2. Đồng ý 5. Ý khác
3. Không đồng ý 4. Khó trả lời
161

Câu 3: Trong gia đình ông/bà ai là người làm chính các công việc
sau đây (Tích dấu X vào lựa chọn)
Người làm chính Cả hai Người
Vợ Chồng
Công việc vợ chồng khác
Cầy bừa
Gieo trồng, cấy
Chăm sóc, làm vườn
Phun thuốc sâu
Thu hoạch
Bảo quản sản phẩm
Chăm sóc gia súc, gia cầm
Làm chuồng nuôi gia súc
Bán sản phẩm (nông sản, thủ công)
Dệt
Rèn
Làm thuê

Câu 4: Theo ông/bà việc sản xuất do nam giới đảm nhận đem lại lợi
ích kinh tế lớn hơn so với nữ giới? (khoanh tròn lựa chọn)
1. Đồng ý 2. Không đồng ý
Câu 5: Trong gia đình ông/bà ai là người thường xuyên làm những
công việc sau?(Tích dấu X vào lựa chọn)
Người làm chính Cả hai vợ
Vợ Chồng Như nhau
Công việc chồng
Nấu ăn
Giặt giũ
Đi chợ
Giữ tiền
Chăm sóc, dạy bảo con
Chăm sóc người già
Lấy nước
Giã gạo
Thu lượm chất đốt
Sửa chữa đồ dùng
162

Câu 6: Ông/bà có thể cho biết, trong gia đình ông/bà ai là người
tham gia các hoạt động cộng đồng dưới đây? (Tích dấu X vào lựa chọn)
Các công việc cộng đồng Vợ Chồng Cả hai Người khác
Dự đám hiếu/ hỉ
Giao tiếp với chính quyền
Họp thôn bản
Tiếp khách
Làm vệ sinh làng, xóm
Cũng giỗ của làng

Câu 7: Theo ý kiến của ông/bà, sự phân công giữa vợ và chồng


trong hoạt động sản xuất trong gia đình như hiện nay có hợp lý không?
(khoanh tròn 1 lựa chọn)
1. Rất hợp lý2. Hợp lý3. Chưa hợp lý, cần thay đổi
Câu 8: Theo ý kiến của ông/bà, sự phân công giữa vợ và chồng
trong công việc nội trợ của gia đình như hiện nay có hợp lý không?
(khoanh tròn 1 lựa chọn)
1. Rất hợp lý2. Hợp lý3. Chưa hợp lý, cần thay đổi
Câu 9: Theo ý kiến của ông/bà, sự phân công giữa vợ và chồng
trong việc tham gia hoạt động cộng đồng như hiện nay có hợp lý không?
(khoanh tròn 1 lựa chọn)
1. Rất hợp lý2. Hợp lý3. Chưa hợp lý, cần thay đổi
Câu 10: Trong hoạt động sản xuất, gia đình ông bà có sử dụng các
loại máy móc nào? (Khoanh các máy móc có dùng)
1. Máy cày 2. Máy bừa 3.Máy xát 4. Máy tẽ ngô
Câu 11: Trong gia đình ông (bà) ai là người đứng tên giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà đất(tích X vào 1 lựa chọn).
Người đứng tên
Loại hình giấy tờ
Vợ Chồng Cả hai Người khác

Giấy sở hữu nhà đất


163

Câu 12: Trong gia đình ông (bà) hiện nay, ai là người sử dụng biện
pháp tránh thai? (khoanh tròn lựa chọn)
1. Vợ 2. Chồng
Câu 13: Theo ông/bà, vợ hay chồng sử dụng biện pháp tránh thai
sẽ tốt hơn? (khoanh tròn lựa chọn)
1. Vợ 2. Chồng
Câu 14: Trong gia đình ông/bà ai là người quyết định trong sản
xuất và đời sống? (tích dấu X vào lựa chọn)

Quyết định Vợ Chồng Cả hai Người khác


Sử dụng vốn
Chuyển hướng SX
Chi tiêu hàng ngày (gạo, thực phẩm…)
Mua sắm đồ đắt tiền
Học hành của con cái
Xây sửa nhà cửa
Số con

Câu 15: Trong 12 tháng qua ông/bà có vay tiền để làm ăn không?
(Khoanh tròn 1 lựa chọn)
1. Có 2. Không
Câu 16: Nếu gia đình có nhu cầu vay vốn bên ngoài, ai là người đi
vay? (khoanh tròn 1 lựa chọn)
1. Vợ 2. Chồng 3. Cả hai vợ chồng
Câu 17: Ông/bà từng tham gia khóa tập huấn về khuyến nông nào
chưa?(khoanh tròn 1 lựa chọn)
1. Có 2. Không
Câu 18: Khi có giấy mời tham dự lớp tập huấn khuyến nông, trong gia
đình ông/bà ai là người thường xuyên tham gia? (khoanh tròn 1 lựa chọn)
1. Vợ 2. Chồng 3. Người khác
164

Câu 19: Khi gia đình ông/bà được mời họp đại diện tại xã ai là
người trong gia đình thường xuyên tham gia? (tích dấu X vào lựa chọn)

Mức độ
Thường Thỉnh Không
Ý kiến khác
xuyên thoảng bao giờ
Người tham gia
Phụ nữ
Nam giới

Câu 20: Trong cuộc họp mà ông/bà thường xuyên tham dự, ông bà
có: (khoanh tròn 1 lựa chọn)
1.Tham gia phát biểu ý kiến
2. Im lặng lắng nghe
3.Không quan tâm tới nội dung cuộc họp
Câu 21: Ông/bà dự định chia tài sản cho con sau này thế nào?
(khoanh tròn 1 lựa chọn)
1. Chỉ chia cho con trai 3. Chia đều cho các con
2. Chỉ chia cho con gái 4. Chia cho con trai nhiều hơn
Câu 22: ông/bà có nhận xét gì về mối quan hệ nam nữ trong gia
đình dân tộc mình hiện nay? (khoanh tròn 1 lựa chọn)
1. Rất bình đẳng 4. Rất không bình đẳng
2. Bình đẳng 5. Không trả lời
3. Chưa bình đẳng
Câu 23: Ông/bàdự định đầu tư cho con trai và con gái học hết bậc
học nào sau đây? (Tích X vào lựa chọn)

Trung học Trung học


Giới tính Tiểu học Đại học
cơ sở phổ thông

Con trai

Con gái
165

Câu 24: Quan niệm truyền thống cho rằng “con gái không cần học
cao”. Theo ông/bà quan niệm trên có còn phù hợp trong xã hội hiện nay
không? (Khoanh tròn lựa chọn)
1. Phù hợp 2. Phù hợp một phần 3.Không phù hợp
Câu 25: Nếu gia đình gặp khó khăn, ông/bà ưu tiên cho con nào
được đi học trước? (Khoanh tròn lựa chọn)
1. Con trai 2. Con gái
Câu 26: Thời gian rỗi ông/bà thường tham gia những hoạt động
nào sau đây? (Tích X vào lựa chọn)
Mức độ
Thường Thỉnh Không
Hiếm khi
xuyên thoảng bao giờ
Các dạng hoạt động
Nghỉ ngơi ở nhà
Đi chơi bản/xóm
Đọc sách báo
Nghe đài/ xem tivi
Chơi thể thao
Trông con
Dọn dẹp nhà cửa
Thêu thùa, may thổ cẩm
Câu 27: Trong 12 tháng qua, ông/bà có đi khám bệnh không?
(Khoanh tròn 1 lựa chọn)
1. Có 2. Không
Câu 28: Ông/bà thường đi khám bệnh ở đâu? (Khoanh tròn 1 lựa chọn)
1. Cơ sở y tế ở bản 2. Tại huyện
3. Tỉnh 4. Trung ương
Thông tin chung về bản thân Ông/ Bà:
a. Giới tính:
b. Dân tộc: Tôn giáo:
c. Tuổi:
d. Trình độ học vấn:
e. Công việc chính:

Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của ông/bà


PHỤ LỤC

Phụ lục 1
Vai trò của vợ và chồng trong sản xuất nông nghiệp xét theo tương quan dân tộc

Người tham gia


Vợ Chồng Cả hai Người khác
Loại hình công việc
Dân tộc Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ
Cày bừa 3,3 3,4 7,6 7,9 60,5 60,1 56,9 56,6 30,9 30,4 29,4 30,3 5,3 6,1 6,2 5,3
Gieo trồng, cấy 33,6 34,5 37,5 36,8 16,4 16,9 15,0 13,2 46,7 45,9 44,4 44,7 3,2 2,7 3,1 5,3
Chăm sóc, làm vườn 45,4 45,3 47,5 50,0 20,4 19,6 18,8 17,1 29,6 29,1 28,1 27,6 4,6 6,1 5,6 5,2
Phun thuốc sâu 11,2 10,8 16,3 14,5 60,5 60,2 56,2 55,3 18,4 18,2 16,9 17,1 9,9 10,8 10,6 13,1
Thu hoạch 32,9 32,4 34,4 35,5 18,4 18,2 16,9 15,8 42,8 42,6 41,3 39,5 5,9 6,8 7,5 9,2
Bảo quản 19,1 19,6 20,6 22,4 7,9 7,4 6,9 6,6 69,7 69,6 67,5 67,1 3,3 3,4 5,0 3,9
Làm chuồng 5,2 4,7 9,4 6,6 62,5 62,8 58,7 60,5 30,9 30,4 30,0 28,9 1,3 2,0 1,9 3,9
Chăm sóc gia súc 26,3 26,3 28,1 28,9 16,4 16,2 15,0 11,8 51,3 51,4 49,4 47,4 5,9 6,1 7,5 11,8
Bán sản phẩm 39,5 39,9 40,6 43,4 36,2 35,8 34,4 35,5 20,4 20,3 18,8 17,1 3,9 4,1 6,3 3,9
Dệt 59,2 60,1 67,5 50,0 7,2 6,8 6,3 5,3 14,5 14,2 12,5 9,2 19,1 18,9 13,8 35,5
Rèn 3,2 4,1 4,4 1,3 72,4 72,3 76,9 82,9 12,5 12,2 10,6 10,5 11,9 11,5 8,1 5,3
Làm thuê 18,4 18,2 17,5 15,8 36,8 37,2 38,8 38,2 32,9 32,4 30,6 30,3 11,8 12,2 13,1 15,7
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

166
Phụ lục 2
Người đứng tên quyền sở hữu nhà đất

Người đứng tên Vợ Chồng Cả hai Người khác


Dân tộc SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
Tổng chung (536) 48 9,0 405 75,5 74 13,8 9 1,7
Thái 16 10,5 113 74,3 22 14,5 1 0,7
Tày 15 10,1 111 75,0 21 14,2 1 0,7
Mông 13 8,1 123 76,9 21 13,1 3 1,9
La Hủ 4 5,3 58 76,2 10 13,2 4 5,3
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

Phụ lục 3
Người đi vay vốn

Người đi vay Vợ Chồng Cả hai


Dân tộc SL TL% SL TL% SL TL%
Tổng chung (536) 110 20,5 212 39,6 214 39,9
Thái 32 21,1 59 38,8 61 40,1
Tày 31 21,0 57 38,5 60 40,5
Mông 32 20,0 65 40,6 63 39,4
La Hủ 15 19,7 31 40,8 30 39,5
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
167
Phụ lục 4
Người quyết định trong chuyển hướng sản xuất
Người quyết định Vợ Chồng Cả hai Người khác
Dân tộc SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
Tổng chung (536) 110 20,5 184 34,3 217 40,5 25 4,7
Thái 35 23,0 45 29,6 65 42,7 7 4,7
Tày 33 22,3 47 31,8 60 40,5 8 5,4
Mông 30 18,7 60 37,5 62 38,8 8 5,0
La Hủ 12 15,8 32 42,1 30 39,5 2 2,6
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

Phụ lục 5
Dự kiến chia tài sản thừa kế
Chia tài sản Chia cho con trai
Chỉ chia cho con trai Chỉ chia cho con gái Chia bằng nhau
nhiều hơn
Dân tộc SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
Tổng chung (536) 340 63,4 12 2,2 75 13,9 109 20,5
Thái 95 62,5 5 3,3 22 14,5 30 19,7
Tày 93 62,8 4 2,7 21 14,2 30 20,3
Mông 103 64,3 2 1,3 22 13,8 33 20,6
La Hủ 49 64,5 1 1,3 10 13,1 16 21,1
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
168
Phụ lục 6
Mức độ tham gia của vợ và chồng trong hoạt động tái sản xuất xét theo tương quan dân tộc

Người tham gia


Loại hình Vợ Chồng Cả hai Người khác
công việc

Dân tộc Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ

Nấu ăn 64,5 64,9 68,8 69,7 8,6 8,8 6,3 2,6 17,1 16,9 15,6 14,5 9,8 9,4 9,3 13,1

Giặt giũ 65,1 67,6 68,8 68,4 6,6 6,1 4,4 3,9 22,4 22,3 18,1 17,1 5,9 4,0 8,7 10,5

Đi chợ 74,3 75 77,5 77,6 5,9 5,4 5,0 4,0 17,2 16,9 14,4 11,8 2,6 2,7 3,1 6,5

Giữ tiền 73,0 74,3 68,8 73,7 13,8 12,1 18,8 14,5 12,5 12,8 11,3 11,8 0,7 0,7 1,2 0,0

Chăm sóc và dạy con 38,2 38,5 41,3 46,1 5,9 5,4 4,4 2,6 53,3 52,7 51,3 50,0 2,6 3,4 3,0 1,3

Chăm sóc người già 27,6 27,7 29,4 30,3 15,8 15,5 13,1 14,5 53,3 52,7 51,3 50,0 3,3 4,1 6,3 5,2

Lấy nước 79,6 81,1 82,5 84,2 5,9 5,4 3,8 2,6 12,5 12,1 10,0 10,5 1,9 1,4 3,7 2,7

Giã gạo 38,8 39,2 41,3 43,4 13,2 12,8 11,9 11,8 43,4 43,2 41,3 39,5 4,6 4,7 5,6 5,3

Thu lượm chất đốt 58,6 59,5 61,3 63,2 5,3 4,7 3,8 3,9 29,6 29,1 27,5 27,6 6,6 6,8 7,5 5,3

Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

169
Phụ lục 7
Người quyết định trong gia đình

Người quyết định Chồng Vợ Cả hai Người khác Tổng

Việc SL TL SL TL SL TL SL TL SL

Mua sắm đồ đắt tiền 185 34,5 79 14,7 262 48,9 10 1,9 536

Xây sửa nhà cửa 185 34,5 68 12,7 273 51,0 10 1,8 536

Việc học hành của con 128 23,9 110 20,5 293 54,7 5 0,9 536

Đi chợ 38 7,1 211 39,4 278 51,9 9 1,6 536

Số con 264 49,3 82 15,3 180 33,6 10 1,9 536

Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

170
Phụ lục 8
Người quyết định trong gia đình theo tương quan dân tộc
Người quyết định
Vợ Chồng Cả hai Người khác
Loại hình công việc
Dân tộc Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ
Mua sắm đồ đắt tiền 15,8 15,5 13,8 13,2 33,6 33,8 33,8 39,5 50,0 49,3 48,1 47,4 0,7 1,4 4,3 0,0
Xây dựng nhà cửa 13,8 13,5 11,9 10,5 33,6 33,8 33,8 39,5 52,0 51,4 50,0 50,0 0,7 1,4 4,4 0,0
Việc học hành của con cái 21,1 20,9 20,0 19,7 23,0 23,0 24,4 26,3 55,3 54,7 54,4 54,0 0,7 1,4 1,3 0,0
Số con 16,4 16,2 14,4 13,2 48,0 48,6 50,0 51,3 34,9 34,5 32,5 31,6 0,7 0,7 3,1 3,9
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

Phụ lục 9
Các hoạt động ngoài thời gian sản xuất
Dân tộc Vợ (268) Chồng (268)
Hoạt động Thái Tày Mông La hủ chung Thái Tày Mông La Hủ Chung
Nghỉ ngơi ở nhà 78,7 78,4 75,0 73,5 77,0 82,9 82,4 82,5 84,2 82,8
Đi chơi bản/xóm 48,7 48,6 46,3 44,7 47,4 55,3 55,4 56,3 57,9 55,9
Đọc sách/ báo 7,9 8,1 2,5 2,6 5,6 28,9 28,4 22,5 18,4 25,4
Nghe đài/ xem tivi 38,2 37,8 33,8 28,9 35,4 39,5 39,2 35 34,2 37,5
Chơi thể thao 2,6 1,4 1,3 2,6 1,9 6.6 6,8 6.3 5,3 6,3
Trông con 40,8 41,9 45,0 50,0 43,7 23,7 23,0 21,3 21,1 22,4
Dọn dẹp nhà cửa 65,8 67,6 70,0 73,7 68,7 28,9 28,4 26,3 26,3 27,6
Thuê thùa, may thổ cẩm 47,4 41,9 47,5 44,7 45,5 3,9 2,7 2,5 2,6 3,0
Bán hàng, làm thuê 19,7 24,3 23,8 21,1 22,4 7,9 12,2 12,5 5,3 10,1
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
171
Phụ lục 10
Người đại diện cho gia đình tham gia hoạt động cộng đồng xét theo tương quan dân tộc
Người tham gia
Vợ Chồng Cả hai Người khác
Loại hình công việc
Dân tộc Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ
Dự đám hiếu hỉ 17,1 16,9 15,6 15,8 34,9 35,1 35,6 35,5 46,1 45,9 43,1 42,1 2,0 2,0 5,6 6,6
Giao tiếp với chính quyền 22,4 21,6 19,4 19,7 46,1 46,6 48,1 51,3 30,3 29,7 28,8 28,9 1,3 2,0 3,8 0,0
Họp bản làng 21,1 20,9 19,4 19,7 45,4 45,3 46,9 48,7 32,2 32,4 31,3 30,3 1,3 1,4 2,5 1,3
Tiếp khách 23,0 22,9 21,9 21,1 36,8 37,2 38,8 42,1 38,8 37,8 37,5 35,5 1,3 2,0 1,9 1,3
Làm vệ sinh làng, xóm 28,9 28,4 30,0 32,9 22,4 22,3 20,6 18,4 39,5 39,2 37,5 34,2 9,2 10,1 11,9 14,5
Cúng giỗ làng 3,3 2,7 2,5 1,3 57,9 58,1 58,8 59,2 38,2 37,8 36,9 36,8 0,7 1,3 1,9 2,6
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

Phụ lục 11
Tham gia tập huấn của nam/ nữ theo các nội dung
Vợ Chồng Cả hai
Các lớp tập huấn
SL (%) TL (%) SL (%) TL (%) SL (%) TL (%)
Kỹ thuật nông lâm 122 22,8 217 40,5 197 36,7
Công tác dân số 233 43,5 121 22,6 182 33,9
Chăm sóc sức khỏe 245 45,7 126 23,6 165 30,7
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

172
Phụ lục 12
Tham gia tập huấn xét theo tương quan dân tộc

Người tham gia Vợ Chồng Cả hai

Dân tộc
Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ Thái Tày Mông La Hủ
Lớp tập huấn

Kỹ thuật nông lâm 23,7 23,6 21,9 21,1 38,8 39,2 41,9 43,4 37,5 37,2 36,3 35,5

Công tác dân số 42,8 42,6 44,4 44,7 23,0 23,0 21,9 22,4 34,2 34,4 33,7 32,8

Chăm sóc sức khỏe 44,1 43,9 46,9 50,0 24,3 24,3 22,5 22,4 31,6 31,7 30,6 27,6

Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

173

You might also like