Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 361

MIẾU HOANG-TRƯỜNG LÊ

Thầy Tàu.
“ Ăn...đi….Tiếp...tục...ăn...đi…”

“ Hi...hi...hi….Nó...ngon...lắm….có...phải…..không…? “

-- Rất ngon, nó rất ngon….

“ Nhoàm….nhoàm….nhoàm…”

“ Rầm “

Cánh cửa của ngôi nhà sàn bị đạp bung ra, tiếng nói ồn ào cũng với những bước chân
đang chạy trên chiếc cầu thang gỗ vang lên dồn dập, nhưng rồi những kẻ chạy lên
sau bị khững lại, đập mặt vào lưng của người phía trước :
Cái gì vậy…? Tại sao lại dừng lại…?

Tiếp theo đó là một tiếng hét thất thanh :

-- QUỶ…..QUỶ ĂN THỊT NGƯỜI…..CHẠY…..CHẠY…..NGAY...Đi.

Một vài kẻ yếu bóng vía lập tức quay đầu, bỏ chạy trối chết, thậm chí còn ngã lăn lộn
từ trên bậc cầu thang xuống bên dưới nền đất khô cằn đầy đá sỏi. Những kẻ bạo gan
hơn thì tiếp tục tò mò, bám vào thành cửa, họ không dám tin vào mắt mình. Đang
ngồi giữa nhà chính là người thầy thuốc mà họ vô cùng tin tưởng, quý mến. Nhưng
bộ dạng đó không phải người thầy thuốc với ánh mắt nhân từ, ân cần thường ngày,
thay vào đó là một tấm thân nhuốm đầy máu tươi, trên sàn nhà là một người phụ nữ
đã chết. Nhưng đó vẫn chưa phải cảnh tượng kinh khủng nhất. Người thầy thuốc đó
trên tay đang cầm một quả tim người và nhe răng cắn xé, nhai một cách ngấu
nghiến. Đôi mắt anh ta đỏ sọng, sau những nhát cắn, khóe miệng của hắn lại rỉ ra
những giọt máu tươi rồi chảy tong tong xuống sàn nhà. Quả tim đó là quả tim của cô
con gái đang nằm ngay bên dưới chân của hắn.

“ Ăn...đi….ăn….tiếp...đi…”

“ He...he...he...Nó...ngon...lắm….phải...không….”

“ Nhoàm...Nhoàm….Nhoàm “

-- Phải rồi….hi...hi...hi...nó….rất ngon….

[.........]

“ Uỳnh “
Một tiếng sấm nổ vang, cảm tưởng như cả ngôi nhà vừa khẽ rung chuyển. Mở trừng
mắt, bốn xung quanh chỉ là một màu đen tối. Bên ngoài có lẽ trời sắp đổ mưa lớn,
những ánh chớp lập lòe thi thoảng lại giật lên khiến ánh sáng len lỏi qua những khe
hở của cánh cửa sổ lâu năm có phần ọp ẹp. Tất cả những chuyện vừa rồi chỉ là một
giấc mơ. Không, nó không hẳn là mơ, bởi đó là những việc đã xảy ra trong quá khứ.
Một quá khứ nghiệt ngã, đau thương tưởng chừng như chỉ có cái chết mới khiến cho
người đàn ông này trút bỏ được gánh nặng. Một giấc mơ có thật, kéo dài dai dẳng
suốt 30 năm qua.

“ Cạch “

Khẽ mở cửa phòng vì thoáng nghe thấy tiếng động bên ngoài. Dưới ánh đèn dầu leo
lắt, chủ nhà trọ cuống quýt xin lỗi :

-- ́y chết, thầy Lương, có phải do tôi gây tiếng động khiến thầy không ngủ được phải
không ạ…?

Ông Lương đáp :

-- Không phải do bác chủ đâu, tiếng sấm ban nãy to quá.

Chủ nhà trọ nói :

-- Dạ đúng rồi thầy, sấm động giữa đêm, trời bất chợt chuyển mưa lớn, không biết có
xảy ra chuyện gì không…? Ban nãy tôi đi xem cái máng nước, sợ rác nó tắc, mưa lớn,
nước không chảy đi được rồi lụt hết vào bên trong. À mà, cái cửa sổ phòng của thầy
hơi cũ rồi, tiện thầy còn thức, để tôi lấy thanh gỗ chẹn lại cho chắc ăn. Kẻo đang ngủ
mà bị gió thổi bung ra, bất tiện lắm.

Ông Lương đáp :

-- Vậy cảm phiền bác chủ.

Bước vào trong, chủ nhà trọ châm thêm ngọn đèn dầu trong phòng rồi lịch kịch chèn
cửa. Vừa chèn ông vừa bắt chuyện :

-- Vậy là thầy Lương chỉ ở lại đây đêm nay nữa thôi phải không…? Cũng phải 3 năm
rồi thầy mới quay lại đây đấy nhỉ…?

Ông Lương khẽ gật đầu :

-- Bác chủ vẫn còn nhớ quá nhỉ….? Ba năm trước mộ tổ nhà họ Nguyễn phát mộ kết,
xuất hiện dây tơ hồng. Lúc đó gia chủ họ Nguyễn mời tôi về ban đầu chỉ là làm một
cái lễ cầu siêu cho người cha mới mất. Ông ta ngỏ ý muốn đưa xác cha về mảnh đất
xây mộ tổ để chôn cất. Nhưng khi đến đó xem tôi thấy không được, mộ kết, lại nằm
ngay trên long mạch của làng. Nếu đào huyệt chôn ở đó, không cẩn thận, không chỉ
họ Nguyễn lụi bại mà cả dân làng cũng phải chịu hậu quả về sau. Do vậy tôi có lời
khuyên không nên chôn ông cụ tại đó, và đợi 3 năm sau mới được trùng tu, xây sửa
lại mộ tổ…..Nay công việc cũng đã xong, trưa mai tôi đi có chút công chuyện ở chùa
Thiên An rồi sẽ rời khỏi đây.

Chủ quán trọ đã chèn xong cửa, phủi phủi tay ông ta cười rồi nói :

-- Phải nhớ chứ ạ, tiếng tăm của thầy Lương khắp nơi ai mà không biết. Họ Nguyễn
có thầy giúp đỡ thế này thì lại nở mày, nở mặt rồi. Nhưng được cái họ giàu mà cũng
biết san sẻ lắm. u cũng là phúc đức gia tộc tích cóp để lại cho con cháu sau này. Tiện
đây, nếu thầy không chê, trưa mai mời thầy về nhà tôi dùng bữa cơm. Cảm kích tấm
lòng của thầy mà sau mấy năm mới dám ngỏ lời. Nói nhà tôi chắc thầy lạ vì tôi sống ở
đây, nhưng đó là nhà vợ tôi. Khổ cũng hơn 40 tuổi rồi, cố lấy mụn con trai nên sinh
xong, tôi đưa vợ về bên ngoại để bà chăm sóc. Nhà cũng ở gần chùa Thiên An thôi,
thầy cứ đi công chuyện, khoảng mấy giờ xong tôi đến chùa đợi thầy….Được không ạ.

Nhìn vẻ mặt phúc hậu của chủ quán trọ, cộng thêm lời mời chân thành, 3 năm trước
cũng từng trọ tại đây, 3 năm sau gặp lại âu cũng là có duyên, ông Lương mỉm cười rồi
gật đầu đồng ý.

Đêm đó trời mưa rất lớn, nhưng may thay đến sáng thì trời quang mây tạnh. Cơn
mưa rào buổi đêm lại khiến cho không khí có phần mát mẻ, thoáng đãng hơn. Thịnh
tình của chủ quán trọ còn được biểu hiện bằng việc, mới sáng sớm, chủ quán trọ đã
pha trà, đem thêm một vài cái bánh nếp nhân đậu xanh lên tận phòng của ông
Lương.

Ông Lương khẽ nói :

-- Như này bác chủ khiến tôi cảm thấy ngại quá, không có công sao dám nhận hậu
đãi.

Chủ quán trọ vội xua tay :

-- ́y chết, thầy đừng nói vậy….Chút đồ điểm tâm này đâu có là gì, chỉ là lòng thành
của tôi đối với thầy thôi. Thầy dùng xong rồi sửa soạn còn lên chùa sớm chứ, mạn
phép hỏi thầy, khoảng mấy giờ thì thầy xong việc ạ..?

Ông Lương trả lời :

-- Tôi lên đó cũng không lâu đâu, trước là thăm sư trụ trì, sau có một vài việc nhỏ.
Chắc chỉ khoảng độ 10h sáng là tôi xong việc.

Chủ quán trọ vâng dạ rồi nói :

-- Vậy khi ấy tôi sẽ đứng đợi thầy ở đầu con đường đi vào chùa. Trà nóng, bánh nóng,
thầy dùng đi ạ.

Ăn điểm tâm sáng xong, ông Lương sửa soạn đồ đạc rồi đi bộ đến chùa Thiên An. Cái
thời mà dân còn không đủ ăn thì nói gì đến việc tu sửa, chăm lo cho đình chùa, miếu
mạo. Trải qua những cuộc chiến tranh dai dẳng, nhiều ngôi chùa, ngôi đình bị thực
dân Pháp tàn phá. Chùa Thiên An cũng không ngoại lệ, sau chiến tranh, dù đã được
bà con giúp sức tu bổ, nhưng cũng chỉ phần nào. Cảnh quan của chùa rất đẹp và
thanh tịnh, nhưng những khoảng sân, những bờ tường, hay thậm chí gian nhà chính
của chùa cũng phải chắp vá, lụp xụp…..Nhưng điều đó không phải là nguyên nhân
khiến thầy Lương lui đến chùa. Mà là, dù cho ngôi chùa có tiêu điều đến đâu thì đó
vẫn là nơi mà sư trụ trì Thích Vạn Đức đang cưu mang những đứa trẻ bị bỏ rơi,
những đứa con bị lạc mất cha mẹ, hoặc cũng có thể cha mẹ chúng đã chết bởi những
lý do nào đó mà chúng trở thành trẻ mồ côi, không nơi nương tựa.

Bước vào chùa, ông Lương thấy đang quét những chiếc lá rụng lả tả sau cơn mưa
đêm qua chính là sư trụ trì. Khẽ cúi đầu, ông Lương nói :

-- Kính bạch thầy, đã lâu không gặp. Bạch thầy vẫn khỏe chứ.

Thoáng thấy tiếng người, sư trụ trì dừng tay lại rồi nhìn về phía ông Lương, nở một
nụ cười hiền hậu, sư trụ trì đưa tay trước ngực rồi cúi đầu chào đáp lễ :

-- Thì ra là thí chủ, đã ba năm rồi mới thấy thí chủ quay lại vãn cảnh chùa. Mời thí
chủ vào bên trong, bần tăng pha trà mời thí chủ.

Ông Lương kính cẩn rồi bước vào bên trong mái hiên của chùa, nhác thấy người lạ
đến chùa, những cô bé, cậu bé mới chỉ khoảng chừng 11-12 tuổi, có đứa lớn hơn
một chút, chúng len lén đứng sau cây cột trụ trong chùa nhìn ra bên ngoài. Rót trà
vào hai cái chén đã cũ kỹ nhưng rất sạch sẽ, sư trụ trì khẽ nhìn bọn trẻ rồi mỉm cười
nói :

-- Đã ba năm rồi, mấy đứa nhỏ giờ cũng đã lớn hơn trước. Ngày thí chủ đến đây lần
đầu mấy đứa hãy còn nhỏ xíu, thí chủ lượng thứ nếu các con không nhận ra mặt ân
nhân….A di đà phật.

Ông Lương nói :

-- Bạch thầy đừng nói vậy, tất cả cũng là vì một chữ duyên. Giúp người mà đợi trả
công thì không còn là giúp người nữa. Thật may mắn khi đến đây, thấy bạch thầy và
bọn trẻ vẫn khỏe mạnh.

Sư trụ trì nhìn ông Lương, thoáng buồn, nhà sư tiếp :

-- Chẳng hay cuộc sống ba năm qua của thí chủ đã gặp phải nhiều khó khăn, biến
cố…?

Ông Lương hỏi lại :

-- Sao bạch thầy lại hỏi vậy…?


Nhà sư đáp :

-- Chỉ ba năm mà thí chủ đã già đi trông thấy, đuôi mắt, vầng trán, tất cả đã xuất hiện
thêm nhiều nếp nhăn.

Ông Lương cười :

-- Ha ha ha, ra là vậy…..Bạch thầy đừng lo, công việc của tôi vốn dĩ đã như vậy. Thôi,
không dài dòng nữa, tôi đến đây hôm nay là muốn đưa cho thầy thứ này.

Dứt lời, ông Lương lấy tay nải mở ra, cầm lấy cái bọc nhỏ bằng nắm tay được làm tử
vải đen. Ông Lương đặt xuống mặt rồi nói :

-- Mong bạch thầy nhận lấy số tiền này để trang trải cuộc sống.

Sư trụ trì mở cái túi ra, nhà sư vội đặt xuống rồi xua tay từ chối :

-- Nhiều tiền quá, cảm ơn lòng tốt của thí chủ. Ba năm trước, nhờ thí chủ mà các con
vượt qua được cảnh đói khát, ơn đức của thí chủ với các con và nhà chùa cao tựa
mây xanh. Còn chưa trả được ơn làm sao nhà chùa dám nhận tiếp.

Ông Lương mỉm cười :

-- Ban nãy tôi đã nói với bạch thầy, giúp người đâu cần đến chuyện đền ơn. Bạch
thầy yên tâm, những đồng tiền này đều là tiền chân chính, không phải cướp bóc, dối
lừa của ai. Bọn trẻ cần phải ăn uống, nhà chùa cũng đâu dư dả gì, mọi người cần số
tiền này hơn tôi. Bạch thầy có thể không biết, nhưng ba năm trước tôi đến mảnh đất
này, duyên số đã đưa tôi đến chùa Thiên An kịp lúc. Và ba năm sau, tôi có việc phải
quay lại đây, tất cả những điều đó như một sự sắp đặt của ông trời. Tôi, bạch thầy và
bọn trẻ, có một sợi dây nào đó gắn kết chúng ta lại với nhau, đó là số trời. Bạch thầy
từ chối há chẳng phải muốn trái lệnh trời hay sao. Hơn nữa số tiền này là để dành
cho bọn trẻ, những người như chúng ta tiền bạc chỉ là vật ngoài thân, mong bạch
thầy suy nghĩ những điều tôi vừa nói và nhận cho.

Bên trong chùa, bọn trẻ không còn thấy lạ nữa, từng đứa, từng đứa bước ra cửa rồi
nhìn ông Lương bằng những cặp mắt long lanh, ngây thơ, non dại. Nhìn những bộ
quần áo rách phải chắp vá những miếng vá nham nhở, nhưng nụ cười của bọn chúng
lại tươi sáng và vô cùng hồn nhiên. Ban nãy sư trụ trì có nói sau ba năm ông Lương
đã già đi nhiều, nhưng nhà sư quên mất rằng, bản thân nhà sư cũng đã gầy đi quá
nhiều so với ba năm trước, đôi gò má hốc hác, tuy ánh mắt của nhà sư vẫn đầy nhân
từ, hiền hậu nhưng nhiêu đó cũng không thể thay đổi sự thật, cuộc sống của họ vẫn
còn nhiều nỗi trăn trở.

Sư trụ trì rơi nước mắt khi nhìn đám trẻ, nhà sư chắp hai tay trước ngực rồi cúi đầu :

-- A di đà phật, cảm tạ công đức của thí chủ. A di đà phật.
Ông Lương cũng chắp tay, cúi đầu đáp lễ……..Công việc mà ông Lương nói với chủ
quán trọ cần lên chùa Thiên An chính là đem toàn bộ số tiền ông được trả công sau
khi giúp họ Nguyễn phát mộ kết để công đức, cứu tế cho nhà chùa.

Trước khi rời đi, ông Lương có nói thêm với sư trụ trì :

-- Sau này tôi sẽ không trở lại đây nữa, công việc của tôi ở đây đã hoàn thành. Tôi
cũng có một giao kèo với họ Nguyễn, nếu như trong vòng 1 năm tới mà đại sự hanh
thông, họ Nguyễn ăn lên làm ra, thì khi đó chỉ mong họ trích một phần nhỏ để công
đức cho chùa. Đó cũng là điều cuối cùng tôi có thể giúp cho bọn trẻ và nhà
chùa…...Chào bạch thầy, tôi đi.

Ông Lương rời khỏi chùa Thiên An, bọn trẻ đứng bám lấy chân của sư trụ trì, chúng
hỏi nhà sư :

-- Ông lão đó là ai vậy, thưa thầy…?

Nhà sư chắp tay cúi đầu tiễn bước ông Lương rồi khẽ trả lời :

-- Ông ấy là một người Trung Quốc nhưng dành phần lớn cuộc đời ngao du khắp nơi
trên đất nước của chúng ta. Cũng là ân nhân của các con, ông ta tên là
Lương…..Người đời gọi ông ta bằng cái tên quen thuộc, thầy Tàu

#Chap2 : Tà Ám.
Ông Lương rời khỏi chùa, lúc đó cũng đã là hơn 9h sáng. Đeo cái tai nải, ông Lương
bước ra đến đầu đường, vừa thấy ông Lương xuất hiện, chủ nhà trọ đã chạy vội lại
rồi nói :

-- Chào thầy, thầy xong việc rồi ạ..?

Ông Lương nhìn chủ quán trọ rồi mỉm cười :

-- Chào bác chủ, bác đợi tôi ở đây lâu chưa…?

Chủ quán trọ gãi đầu gãi tai, đúng ra thì ông ấy đã đến đây từ sớm, ngay khi ông
Lương rời khỏi quán trọ là chủ quán cũng giao lại quán cho người làm rồi đi theo ông
Lương rồi. Chủ quán trọ đáp :

-- Dạ, cũng không lâu lắm thưa thầy. Nếu thầy đã xong việc thì mời thầy quá bộ đến
nhà ăn bữa cơm gia đình, dạ, mời thầy đi đường này.

Nhìn sắc mặt của chủ quán trọ có phần hơi nhợt nhạt, ông Lương hỏi :

-- Vừa đây chắc bác chủ còn chạy đi đâu nữa phải không…?

Chủ quán trọ giật mình, ông ta đáp :


-- À dạ, dạ….Ban nãy trước khi đến đây đợi thầy, tôi có đảo qua nhà nói vợ tôi ở nhà
chuẩn bị cơm nước đợi thầy về dùng. Mà sao thầy lại biết ạ…?

Ông Lương khẽ vuốt nhẹ chòm râu, ông nói :

-- Là do thí chủ mặt ướt mồ hôi, nếu chỉ ở đây đợi thì không đến nỗi như vậy, trời tuy
có nắng nhưng đang giữa thu, sao lại đổ mồ hôi nhiều như thế.

Chủ quán trọ cười cười :

-- Thầy đúng là có mắt tinh tường.

Đi sau chủ quán trọ, ông Lương nhìn chằm chằm vào phần lưng của chủ quán trọ. Tất
nhiên câu hỏi ban nãy của ông Lương xem chủ quán trọ đi đâu là có nguyên nhân.
Còn việc giải thích thì là ông Lương chỉ nói để cho chủ quán trọ yên tâm mà thôi. Còn
sự thật, chủ quán trọ này có vấn đề. Đêm hôm qua chủ quán trọ mời mọc rất nhiệt
tình, nhưng việc quá săn đón khiến cho ông Lương có chút suy nghĩ.

Tuy nhiên chủ quán trọ này chắc chắn không phải người xấu, chỉ là ông ta đang có
một vấn đề gì đó khó nói mà thôi. Biết vậy nên ông Lương vẫn đồng ý đi theo chủ
quán trọ về nhà mẹ vợ của ông ta. Trên đường đi, ông Lương đặc biệt chú ý quan sát
những giếng nước, bụi tre, hoặc những ngôi mộ được đắp ngay ven bờ ruộng.

Ông Lương nói :

— Làng mình mấy năm nay yên bình quá nhỉ. So với 3 năm trước thì có vẻ sung túc
hơn nhiều.

Chủ quán trọ đáp :

— Dạ, cũng còn nhiều khó khăn, nhưng đúng là được cải thiện hơn mấy năm trước.

Vòng vèo thêm hai đoạn đường đất, cuối cùng thì cũng đến nhà chủ quán trọ. Đúng
như ông ta nói, nhà vợ ông ta cách chùa Thiên An không xa lắm.

Chủ quán trọ mời ông Lương vào trong rồi nói :

— Thầy vào đi ạ, chắc cơm nước cũng sắp xong cả rồi.

Nhưng ông Lương lại không chịu bước qua cổng, ngay trước cổng nhà có một bụi
trúc nhỏ, bụi trúc chỉ cao hơn nửa thân người một chút. Chủ quán trọ thì mở cổng
chờ đợi, vậy mà ông Lương lại chỉ đứng ngắm nhìn bụi trúc. Đột nhiên, ông Lương
tháo tay nải, ông đặt ngay dưới bụi trúc rồi lẩm bẩm nói những câu gì đó nghe rất
khó hiểu.

Xong ông Lương mới bước qua cổng, chủ quán trọ vội nói :
— Ấy chết, sao thầy lại để đồ đạc ngoài đó, lỡ như ai đi qua lấy mất thì tôi biết phải
làm sao..? Thầy, thầy để tôi đem vào trong nhà.

Ông Lương hừm một tiếng rồi xua tay :

— Đồ của tôi có người trông rồi, để đến ba ngày cũng không ai lấy đâu mà sợ. Bác
chủ, nếu bác muốn tôi giúp thì sau khi bước chân vào nhà, không được gọi tôi là
thầy, không được đả động gì đến chuyện đang lo lắng trong lòng. Coi như tôi chỉ là
một người bạn quá giang xin ở lại một hôm.

Nghe ông Lương nói, toàn thân chủ quán trọ nổi da gà. Nhận ra ông Lương dường
như đã biết mọi chuyện nên chủ quán trọ chỉ biết rơm rớm nước mắt rồi cúi đầu khẽ
nói :

— Dạ, lâu ngày không gặp…Mời bác vào nhà chơi.

Lúc này ông Lương mới khoan thai bước vào sân nhà, cái tay nải ông vẫn để ngoài
bụi trúc. Thấy chồng về, đoán người đi cùng chính là thầy Tàu mà chồng đã nói.
Người vợ đi ra định chào thì chủ quán trọ lắc đầu ngăn lại. Chủ quán trọ vội cướp lời
vợ :

— Bác lâu lắm mới đến thăm vợ chồng em. Bác ra sau nhà rửa chân tay mặt mũi rồi
lên nhà ngồi uống nước.

Ông Lương cười rồi đáp :

— Cảm ơn vợ chồng anh đã tiếp đón. Lâu không gặp, nay tôi đến thăm gia đình, cũng
xin bữa cơm rồi tôi lại đi. À mà tôi đang có vấn đề về tiêu hoá, thịt cá ăn vào sợ đau
bụng. Phiền chị nhà luộc giúp tôi 5 quả trứng. Luộc xong cứ để trên nhà, lát tôi vào
ăn tạm. Chậc, phải lót dạ cái gì đó mới uống rượu được. Cảm phiền anh chị.

Chủ quán trọ ra hiệu cho vợ đi luộc ngay 5 quả trứng gà. Gà nhà mới đẻ sáng ngày
hôm nay, về phần ông Lương, ông đi ra sau hè, nhìn ngắm vườn tược, múc nước
trong bể, ông Lương khẽ đưa lên mũi ngửi ngửi rồi gật gù, uống một ngụm nước
mưa trong bể, rửa tay chân xong, ông Lương dạo quanh nhà một vòng rồi mới bước
vào bên trong.

Lúc ông Lương đi vào thì thấy một bà cụ đang nằm trên giường. Bà cụ nằm quay úp
mặt vào bên trong tường. Hơi thở có phần yếu ớt, ông Lương hỏi chủ quán trọ :

— Bác gái ốm lâu chưa..?

Chủ quán trọ đáp :

— Đã 2 tuần nay mà không có dấu hiệu thuyên giảm. Hình như bệnh càng lúc càng
nặng hơn. Cũng đã mời thầy thuốc về tận nhà thăm khám. Nhưng cứ uống thuốc là
lại nôn ra hết. Giờ ngày chỉ ăn được bát cháo loãng. Tôi cũng không biết phải làm
sao..?

Ông Lương tiếp :

— Sao anh không đưa cụ đi khám..?

Chủ quán trọ thở dài :

— Tôi cũng muốn vậy, nhưng cứ đưa đi là cụ nằng nặc không chịu. Gào thét, cào cấu
rồi đòi chết.

Ông Lương nhấp ngụm chè rồi tặc lưỡi :

— Nhà anh là bậy bạ lắm, cứ để thế này không ổn đâu.

Khẽ liếc mắt nhìn về góc buồng trong, trong buồng có 1 giường và 1 cái nôi. Bên
trong nôi là con của chủ quán trọ, một bé trai mới sinh được khoảng 6 tháng. Đứa bé
đang nằm trong nôi ngủ rất ngon.

Vừa lúc đó vợ chủ quán trọ bê bát trứng gà luộc đặt lên mặt bàn rồi kính cẩn nói :

— Mời bác dùng cho nóng. Trứng gà nhà nuôi, sáng nay vừa mới đẻ, lúc em nhặt vào
hãy còn nóng hổi. Bác ăn rồi ngồi uống nước, cơm em nấu xong hết rồi. Khi nào bác
và nhà em dùng em bê lên.

Chủ quán trọ thò tay vào bát trứng, có lẽ ông ta định bóc trứng mời thầy Lương.
Nhưng ông Lương ngăn lại, ông Lương lấy ấm rót nước chè vào chén rồi nhấp môi :

— Chè ngon có khác, trứng hãy nóng, bóc không sạch vỏ. Anh cứ để đấy, lát nguội tôi
khắc ăn.

Để bát trứng đó phải đến 10 phút sau, ông Lương vẫn chưa chạm vào 1 quả nào. Đột
nhiên, ông Lương đứng dậy rồi nói :

— Ban nãy quên, trước khi đến đây tôi có đi qua quán rượu ngoài đầu đường lớn.
Nghe mùi rượu thơm lắm. Giờ tôi đi ra đó mua một ít, về mình nhâm nhi. Anh đi
cùng tôi chứ..?

Chủ quán trọ gật đầu đồng ý, ông Lương lúc này mới thò tay vào nhặt hai quả trứng
gà, miệng nói :

— Vậy tôi lấy hai quả trứng, vừa đi đường vừa ăn vậy. Chị nhà cứ sắp mâm cơm đi
nhé. Chúng tôi về ngay.

Ở dưới bếp, vợ chủ quán trọ “ Dạ “ một tiếng rõ to. Ông Lương cùng chủ quán trọ rời
khỏi nhà, ông Lương đi trước, chủ quán trọ đi sau. Lúc đi ra tay nải của ông Lương
vẫn còn nguyên ở đó, ông Lương cúi xuống, thò tay vào tay nải lấy một thứ gì đó rồi
nhanh tay bỏ vào túi áo, xong xuôi ông Lương thắt tay nải lại rồi để im vị trí cũ.

Đi đến gốc cây bàng cách nhà chủ quán trọ ước chừng 300m, dưới tán cây bàng. Ông
Lương mới lấy ra 2 quả trứng gà ban nãy rồi nhìn chủ quán trọ nói :

— Trứng gà nhà mới đẻ ban sáng phải không..?

Chủ quán trọ gật đầu lia lịa :

— Dạ đúng thưa thầy.

Ông Lương tiếp :

— Trứng thối hết rồi, không chỉ hai quả này mà cả ba quả ở nhà cũng đều đã thối
hết.

Dứt lời, ông Lương bẻ đôi hai quả trứng, chủ quán trọ giật mình, bên trong lòng đỏ
hai quả trứng đã thâm đen, đưa lên mũi ngửi đúng thật nó đã bốc mùi thum thủm.

Ông Lương nhìn chủ quán trọ rồi nói :

— Nhà có tà, lẽ ra bác chủ nên nói với tôi ngay từ đầu. Tà ám một già, một trẻ….Vợ
chồng bác chủ vẫn khoẻ mạnh thì có nghĩa, cụ bà và cháu nhỏ bị tà ám rồi

#Chap3 : Bắt Hồn.


Lời nói của ông Lương như giúp cho chủ quán trọ trút bỏ hết được những tâm tư
đang đè nén trong lòng. Chủ quán trọ vội chắp tay rồi cúi lạy ông Lương, miệng run
run nói :

-- Thầy ơi, thầy giúp nhà tôi với…..Tôi không dám giấu thầy, thực lòng cũng rất
ngưỡng mộ thầy vì những việc thầy đã làm. Nhưng mấy ngày qua thấy thầy bận bịu
công chuyện, đi sớm về muộn nên tôi không dám mở lời. Lúc thầy xong việc thì cũng
là lúc thầy rời đi. Tôi chỉ còn biết cách mời thầy về nhà, mong thầy giúp đỡ…..Gia
đình tôi đội ơn thầy nhiều lắm.

Ông Lương đỡ chủ quán trọ lên rồi đáp :

-- Bác chủ đứng dậy đi, tôi biết bác chủ không phải người xấu, ba năm trước khi đến
ở trọ tại nhà của bác chủ, tôi mắt thấy những việc tốt mà bác chủ làm. Mặc dù thời
gian đó rất khó khăn, vậy mà bác chủ vẫn san sẻ đồ ăn cho những người ăn mày, cơ
nhỡ ghé vào nhà trọ chỉ để xin ngụm nước. Nhưng tôi chỉ đoán được phần nào khi
ban nãy nhìn thấy bác chủ đợi tôi ở gần chùa Thiên An. Khi tôi hỏi bác chủ có chạy đi
đâu không là lúc ấy trên người bác chủ có vương chút tà khí. Và lúc bác chủ trả lời là
có về nhà mẹ vợ, tôi đã đoán ngôi nhà đó có điểm bất thường. Và quả thực khi đến
nơi, chỉ cần nhìn vào trong thôi là đã nhận ra chướng khí khá nặng rồi. Tôi để tay nải
bên ngoài là vì trong đó có một vài bảo pháp trừ yêu, có dương khí cao. Nếu tôi đem
vào đó, tà âm trong nhà có thể sẽ lập tức ám hại người thân của bác chủ. Nhưng để
xác định chính xác nên tôi đã nhờ chị nhà luộc trứng gà rồi để trong nhà khoảng nửa
tuần hương. Trứng bẻ ra bên trong đã thâm đen, chắc chắn trong nhà có tà khí. Căn
cứ vào màu đen của lòng đỏ, tà này ít nhất đã lưu lại trong nhà nửa năm nay rồi. Tại
sao suốt thời gian đó bác chủ không đưa cháu bé đi…? Về điều này hình như có uẩn
khúc gì đó…?

Chủ quán trọ đáp :

-- Thưa thầy, sự việc mới chỉ xảy ra gần 1 tháng nay. Mẹ vợ tôi đang khỏe mạnh. mặc
dù bà đã 70 tuổi. Nhưng hãy còn tinh tường lắm, vợ chồng tôi cũng luống tuổi rồi
nhưng vẫn cố đẻ lấy mụn con trai. Vì công việc nên từ lúc lâm bồn cho đến nay, tôi
để vợ con ở nhà ngoại để tiện chăm sóc. Trước đó thì mọi thứ vẫn rất bình thường,
chỉ là một tháng trước, mẹ tôi bắt đầu ốm. Mà ốm không rõ bệnh. tôi mời thầy về
nhà, thuốc nam, thuốc bắc đều cắt cả. Nhưng uống đủ loại mà bà vẫn không khỏi,
ban đầu chỉ là mệt mỏi, nằm rên trên giường. Nhưng mấy ngày sau thì cứ mỗi đêm,
bà lại dậy lọ mọ đi lại trong nhà, rồi ngồi quay mặt vào tường cười khúc khích. Cái
này tôi cũng nghe vợ tôi kể lại, nghĩ mẹ tuổi già, đau ốm nên sinh lẩn thẩn. Lúc đó mà
bỏ đi thì sao đành, con tôi được 4 tháng tuổi rồi nên cũng đỡ, trộm vía, sinh ra nó rất
ngoan, không quấy khóc bao giờ. Vậy nên vợ tôi ở lại chăm mẹ luôn, thêm vài ngày
nữa thì bà đỡ dần…..Đang ốm mà khỏe dậy ăn liền lúc 3-4 bát cơm, có hôm tôi đến
thấy bà ăn ngấu nghiến, thậm chí còn dùng tay bốc. Nhìn mẹ khỏe lại vợ chồng tôi
cũng mừng. Mẹ tôi trước vẫn ẵm cháu, nên ốm dậy là lại tìm cháu bế bồng ngay.
Nhưng khác với trước kia, sau này khi bà bế cháu thì thằng bé cứ khóc thôi, nó khóc
không dỗ được, vợ tôi bế thì nó lại nín.

Ông Lương hỏi :

-- Rồi sau đó thế nào…?

Chủ quán trọ tiếp :

-- Thực tình thì ngay lúc đó tôi đã muốn vợ bế con về nhà. Nhưng khi tôi đến thì mẹ
vợ tôi lại lăn ra ốm. Mà lần này còn ốm nặng hơn trước, bà nôn mửa khắp nhà, mặt
mũi hốc hác. Mà cả vợ tôi cũng không biết bà ăn uống lúc nào ở đâu mà nôn ra thức
ăn nhiều lắm…..Khi dọn bãi nôn, vợ tôi còn phát hiện….trong đó….trong đó…

Ông Lương khẽ nói :

-- Có thức ăn sống như thịt sống đúng chứ…?

Chủ quán trọ tròn mắt gật đầu lia lịa :

-- Dạ...dạ….đúng, đúng rồi thầy….Có thịt lợn sống, vợ tôi nói tôi không tin, vợ tôi
cũng không tin vì thịt mua về đều nấu chín thì sao bà lại ăn thịt sống được. Nhưng
sao thầy lại biết…?
Ông Lương đáp :

-- Mẹ vợ của bác chủ bị tà nhập rồi…...Ngoài thức ăn bình thường thì người bị tà
nhập rất thích ăn đồ sống. Lúc ra sau rửa tay chân, tôi thấy trong bụi cỏ, ngay bên
ngoài cửa sổ chỗ bà cụ nằm….Có vài vỏ trứng gà, bà cụ đã ăn trứng gà sống rồi vứt
vỏ ra bên ngoài. Giờ bác chủ nói lúc nôn, có nôn ra cả thịt sống thì chắc chắn bà cụ
đã bị tà nhập.

Chủ quán trọ kể tiếp :

-- Mẹ ốm, vợ tôi phải ở lại chăm…..Con nhỏ đang bú không xa mẹ được, nhưng đó
cũng không phải lý do chính….Mà mỗi khi tôi đến bế con, ngỏ ý muốn bế cháu về nhà
một chút là mẹ vợ tôi nổi điên, chửi bới um sùm, thậm chí còn lấy dọa sẽ đập đầu
vào tường, hoặc nhảy giếng chết nếu tôi bế cháu đi. Phận con cái, sao dám để cha
mẹ phải chịu đau đớn. Mời thầy thuốc về không chữa được bệnh, tôi có mời thầy
cúng về nhà để cúng kiếng, giải hạn….Đã mời 2 thầy, nhưng không những không
cúng được, ngược lại mỗi lần cúng xong, con của tôi trên người lại nổi những vết hằn
tím bầm, thằng bé cứ thế khóc ré lên cả đêm. Có một điều lạ, trước đó 2 tuần mẹ vợ
tôi bế là nó khóc, nhưng 1 tuần gần đây khi mẹ vợ tôi bế nó không khóc nữa. Nhưng
cháu lười bú mẹ, chỉ ngủ li bì suốt ngày. Còn mẹ vợ tôi, sáng nằm không ăn uống gì,
chỉ úp mặt vào trong tường…..Đến tối mới dậy ăn cơm, ăn xong phải bế cháu đến
khoảng 8-9h tối mới chịu buông.

Ông Lương hỏi :

-- Mới xảy ra 1 tháng nay, nhưng lòng đỏ quả trứng chuyển màu thâm đen như vậy
thì chắc chắn ta khí trong nhà lưu lại phải lâu hơn thời gian đó. Nhưng bác chủ chắc
chắn mấy tháng trước không xảy ra vấn đề gì chứ…?

Chủ quán trọ vội đáp :

-- Vâng ạ, tôi không dám giấu thầy nửa lời.

Ông Lương tiếp :

-- Vậy trong vòng 2 tháng trở lại đây, gia đình có tang hay có đi đám ma của ai rồi về
không…?

Chủ quán trọ trả lời :

-- Nhà không có tang thưa thầy, gia đình vợ tôi chỉ có mình vợ tôi là con, bố vợ cũng
đã mất cách đây 2 năm rồi, vẫn còn chưa bốc mả. Nhà có người mới đẻ, lại có trẻ con
nên tôi chắc chắn là mẹ tôi cũng như vợ tôi không đi đám ma của ai trong làng.

Ông Lương chép miệng :


-- Ừm, đối với tôi, loại tà ma này không khó để diệt trừ. Nhưng trong nhà còn có trẻ
con, hơn nữa cụ bà đã lớn tuổi. Giải trừ tà khí không đúng cách, không những không
giúp được gì, ngược lại còn gây hậu quả nghiêm trọng. Như 2 lần trước, bác chủ mời
thầy cúng về, cúng không được mà chỉ khiến nó giận dữ thêm mà thôi. Tôi nói để bác
chủ còn chuẩn bị, nhưng nghe xong phải bình tĩnh.

Chủ quán trọ im lặng chờ đợi ông Lương chỉ dạy, ông Lương nói :

-- Tà ma trong nhà đang muốn bắt con của bác chủ đi đấy. Linh hồn của cậu bé dần
dần sẽ bị nó cướp lấy, đó là lý do vì sao bây giờ bà cụ bế cháu mà cháu nó không
khóc, ngủ li bì không phải là tốt, trẻ con khi sinh ra, dương khí rất mạnh, có thể cảm
nhận được phần âm, do vậy trẻ con rất dễ bị ma trêu, quỷ ghẹo. Do tiếp xúc với tà
lâu ngày, con của bác chủ đã bị bắt đi một phần hồn. Nếu không nhanh chóng tìm
cách ngăn lại, tính mạng khó mà giữ được. Chính vì nó đã bắt hồn con của bác chủ
nên nếu tôi ra tay diệt nó, chỉ sợ nó sẽ hại con của bác chủ. Chuyện ma quỷ không
thể xem thường.

Chủ quán trọ nghe ông Lương nói mà rùng mình, nổi da gà. Đôi mắt khẽ nheo lại ép
nươc mắt chảy ra, chủ quán trọ quỳ luôn xuống đất van nài :

-- Thầy ơi, thầy làm phúc, làm đức….thầy bày cách cho nhà con với, phải mất gì con
cũng chịu…..Vợ chồng con cố mãi mới sinh được mụn con trai, con trăm ngàn lạy lạy
thầy.

Vội đỡ chủ quán trọ dậy, bởi đây đang là ở ngoài đường, tuy đường làng vắng vẻ
không ai qua lại nhưng làm thế cũng khó coi. Ông Lương nói :

-- Bác chủ đừng làm vậy, khi phát hiện ra trên người bác chủ có điều bất ổn mà tôi
vẫn theo bác chủ về tận nhà thì tất nhiên tôi phải giúp bác chủ rồi. Bác chủ đối xử với
tôi không tệ, lại có tấm lòng nhân hậu, việc này coi như là phúc đức giúp người bao
năm qua của bác chủ, không cần nghĩ đến chuyện công xá, báo đáp. Chỉ có điều, dục
tốc bất đạt, vạn vật trên đời này từ khi sinh ra cho đến khi chết đi đều có nguyên
nhân của nó. Trước khi tôi tìm được cách hợp lý để cứu con bác chủ thì trong nhà,
mọi người đừng vội làm gì cả. Hãy cứ sinh hoạt như bình thường, việc còn lại cứ để
tôi liệu sự. Còn bây giờ, bác chủ dẫn tôi ra chợ mua một vài thứ cần thiết, gần đây có
tiệm bạc nào không nhỉ…?

Chủ quán trọ đáp :

-- Dạ có, để tôi dẫn thầy đi, mà thầy đến tiệm bạc làm gì vậy..?

Ông Lương mỉm cười :

-- Đừng hỏi nhiều quá, sau khi đến tiệm bạc, tôi sẽ ở lại đó, còn phiền bác chủ ra
ngoài chợ mua cho tôi một cân muối hột, nhớ chọn loại nào hạt càng to, càng trắng
càng tốt, mua thêm ít than hoa…..Và cả rượu nữa..nhớ là quán rượu ở đầu đường
nhé.
Chủ quán trọ ngạc nhiên, ông ta nói :

-- Tôi tưởng thầy chỉ lấy lý do đi mua rượu để ra đây thôi chứ…?

Ông Lương cười :

-- Khà khà, một phần thôi, còn đúng là quán rượu ở đó có rượu ngon thật. Hôm nay
tôi với bác chủ phải uống một bữa thật say…..Khà khà khà. Nhớ mua đúng những gì
mà tôi dặn.

#Chap4 : Bóng In Trên Tường.


Ông Lương và chủ quán trọ quay trở về nhà vào lúc gần 11h trưa. Ở nhà, vợ chủ
quán trọ cũng đã bày mâm đũa, sắp xếp bát chén chờ sẵn. Trước khi bước vào trong
nhà, chủ quán trọ còn cẩn thận ngó qua bụi trúc, thấy vậy ông Lương nói :

-- Bác chủ đừng lo, đồ của tôi không mất được đâu mà sợ.

Quả đúng như lời ông Lương, cái tay nải bằng vải nâu đã bạc màu vẫn nằm nguyên vị
trí. Ban nãy đi chủ quán trọ thấy ông Lương lấy gì đó bên trong tay nải, nhưng lúc về
không thấy động đến tay nải nữa. Không dám thắc mắc nhiều, chủ quán trọ mở cổng
rồi mời ông Lương đi vào.

Bữa cơm trưa hôm ấy diễn ra khá rôm rả, trước lúc quay về, ông Lương có dặn gia
đình không được ủ rũ, buồn rầu mà phải cố gắng cười nói, coi như không có chuyện
gì xảy ra. Rượu ngon, lại nhiều đồ nhắm, ông Lương và chủ quán trọ cứ ngồi chén
vơi, chén đầy, thế mà quay lại trời đã chuyển chiều.

Lúc này ông Lương mới vươn vai rồi nói :

-- y da, chết thật, đã gần 4h chiều rồi…..Mải mê uống rượu mà quên cả thời gian. Giờ
cũng muộn mất giờ đi, có đi cũng sợ không kiếm được chỗ ngủ. Hay là anh chị cho
tôi ngủ nhờ ở đây một tối, sáng mai tôi đi sớm. Như vậy có được không ạ…?

Vợ chồng chủ quán trọ rối rít :

-- Dạ được chứ…? Nhưng nhà không còn giường trống, liệu có bất tiện không ạ..?

Ông Lương mỉm cười :

-- Không cần bận tâm, tôi nằm ở ghế dài dựa lưng ngủ cũng được….Chỉ cần cho tôi
mượn 1 cái chăn là đủ.

Nói xong, ông Lương đứng dậy rồi ngồi luôn lên ghế, vợ chồng chủ quán trọ vội đi lấy
chăn gối cho ông Lương kê đầu. Quay đi quay lại ông Lương đã ngáy o o, ngủ lúc nào
không biết. Đến khoảng 6h tối, mẹ vợ chủ quán trọ đang nằm úp mặt vào trong
tường lúc này mới lục đục ngồi dậy, mái tóc dài đã bạc phơ xõa xuống lưa thưa,
thoáng trông qua rất đáng sợ. Bước xuống giường, có vẻ như bà cụ không quan tâm
gì đến tiếng ngáy của người lạ đang nằm ở ghế. Bám tay vào thành cửa, bà cụ quát :

-- Cơm….cơm của tao đâu…?

Chắc có lẽ thời gian gần đây chuyện này đã xảy ra thường xuyên nên sau khi nghe
thấy tiếng mẹ, vợ chủ quán trọ lập tức bê mâm cơm đã chuẩn bị sẵn từ dưới bếp lên.
Ngồi luôn ở hiên nhà, dưới ánh đèn dầu leo lắt, một mình bà cụ cứ thế xúc cơm
trong nồi rồi ăn ngấu nghiến, nồi cơm phải dành cho 3 người ăn mà cụ bà ăn sạch.
Không chỉ thế, bà ta còn lấy móng tay cạo cháy nồi rồi bốc rau, thịt bỏ hết vào mồm
nhai.

Ông Lương tuy giả bộ ngủ, nhưng vẫn he hé mắt nhìn toàn bộ sự việc đang diễn ra
trước hiên nhà. Một cụ bà gần 70 tuổi nhưng lại ăn khỏe hơn cả thanh niên, chẳng ai
dám nghĩ cụ bà năm nay đã 70 tuổi. Ăn xong, cô con gái dọn dẹp cho mẹ, còn bà cụ
lẳng lặng đi ra phía sau vườn không nói không rằng. Nghe phía sau nhà có tiếng nước
dội, chắc có lẽ bà cụ múc nước rửa tay hoặc uống. Tiếp theo đó, ông Lương còn nghe
thấy cả những tiếng bước chân sột soạt, bởi sau nhà là vườn tược nên cỏ mọc phủ
kín lối đi.

“ Quác...Cục….Tác….Ục...Tác…”

Tiếng gà kêu vang lên sau vườn, ông Lương nghe thấy giọng của vợ chủ quán trọ :

-- Mẹ, tối rồi mẹ còn ra chuồng gà làm gì…?

Nhưng không thấy bà cụ đáp lại, ông Lương tiếp tục ngáy khò khò khi tiếng bước
chân loẹt quẹt của bà cụ đang bước vào bên trong nhà. Ăn uống xong, bà cụ lại trèo
lên giường nằm quay mặt vào bên trong. Miền quê, nên 7h là mọi nhà tối om, bên
ngoài chỉ có tiếng ếch nhái đang kêu ra rả. Nhà mẹ vợ chủ quán trọ cũng không ngoại
lệ, hôm nay có thêm ông Lương đang nằm trên ghế, còn bên trong buồng nhỏ là
chiếc giường nơi vợ chồng chủ quán trọ đang nằm, kế bên cạnh là cái nôi của cậu
con trai vài tháng tuổi. Gian ngoài là giường của cụ bà, đèn dầu được tắt hết, chỉ duy
nhất còn một ngọn đang cháy ngay bàn uống nước, cạnh ghế ông Lương đang nằm.
Cái này cũng là do ông Lương nói vợ chồng chủ quán trọ sắp xếp cho mình.

“ Loẹt….xoẹt...Loẹt...xoẹt “

Tiếng bước chân của bà cụ đi ngang qua chỗ ông Lương đang nằm. Khi bà cụ chưa
bước đến buồng của vợ chồng chủ quán trọ thì cậu con trai nằm trong nôi, cả ngày
không khóc một tiếng thì lúc này bất chợt ré lên :

“ Oe….Oe….Oe….”

“ Oe...Oe...Oe..”
Vợ chủ quán trọ ngồi dậy, đưa nôi dỗ con, khi chị ta định bế con lên để dỗ thì bà cụ
đứng ngay trước cửa buồng, mái tóc xõa rũ rượi, ánh mắt nhìn chằm chằm vào con
gái, bà cụ nhoẻn miệng cười :

-- Để đó….để đó mẹ dỗ cháu nó cho….He he he….Ngoan nào, con ngoan nào, bà
thương, bà thương..

Nhìn cảnh tượng đó, chị vợ rùng mình, chị không muốn đưa con cho bà, nhưng nhớ
lời chồng nói lúc chuẩn bị đi nằm :

“ Thầy dặn cứ để cho bà bế cháu hôm nay nữa. Đừng ngăn cản, cố gắng coi như
không có chuyện gì. “

Cắn răng chịu đựng, chị vợ đành để cho bà cụ bế cháu. Ẵm đứa bé trong tay, bà cụ
tiếp tục loẹt xoẹt tiếng dép quay về giường của mình, vừa đi bà ta vừa hát :

-- Cái...cò...mày đi...á….ăn đêm….Đậu phải...cành mềm...ả à ơi…..Lộn


cổ...xuống….ả...à….ao….Hi...hi hi….Ngoan qua….ngoan quá...nín khóc...rồi nè…

Bước qua bàn uống nước, nơi có ngọn đèn dầu vẫn đang sáng. Ông Lương khẽ hé
chút chăn để nhìn. Và điều mà ông Lương đang chờ đợi cuối cùng cũng đã đến, cái
bóng người đang đổ trên tường nhà dưới ánh đèn dầu le lắt không phải là cái dáng
còng lưng của một cụ bà 70 tuổi, bóng đen đang in trên tường có hình dáng thẳng
đứng, tóc dài, không chỉ vậy, bà cụ đang ẵm đứa bé, nhưng cái bóng đổ lên tường thì
lại là hình ảnh một người phụ nữ đang dắt theo sau một đứa trẻ con chứ không phải
bế.

Bất chợt, bà cụ dừng lại rồi nhìn vào cái ghế nơi ông Lương đang nằm.

“ Khò….Khò….Khò…”

Tiếng ngáy vang lên, không thấy gì lạ, bà cụ tiếp tục đi về phía giường của mình. Ngồi
trên giường, trong bóng tối, bà cụ liên tục hát ru rồi cười khúc khích. Cứ như thế
phải đến 9h tối bà cụ mới đem đứa bé quay lại buồng hai vợ chồng chủ quán trọ rồi
đặt cậu nhóc vào trong nôi. Đến lúc này, vợ chồng chủ quán trọ mới dám đi ngủ,
bình thường chủ quán trọ cũng có chút nghi vấn, nhưng cả hai vợ chồng vẫn nghĩ do
bà quý cháu, mà cứ đến tầm đó thằng bé lại khóc, chẳng ai dỗ được, chỉ có bà cụ bế
là nó im nên không thấy sợ. Trưa nay, nghe ông Lương giải thích, đến tối, lúc mẹ vợ
vào đòi bế cháu, nhìn bà cụ khi ấy, chủ quán trọ sợ đến kinh hồn bạt vía.

Không biết ông Lương đã có cách gì chưa, nhưng bên ngoài vẫn vang lên tiếng ngáy
khá to. Hai vợ chồng chủ quán trọ khép cửa lại rồi chốt bên trong, màn đêm trôi qua
mỗi lúc một tĩnh lặng, tiếng ếch nhái vang vọng mỗi lúc một rõ hơn. Họ chìm vào giấc
ngủ lúc nào không hay.

[.....]
“ Ò….Ó...O….O “

Tiếng gà gáy báo hiệu buổi sáng vang lên khiến cho vợ chồng chủ quán trọ giật mình
tỉnh giấc. Hồi tối còn nơm nớp lo sợ, ấy vậy mà đêm qua cả hai ngủ rất ngon. Gà đã
gáy, nhưng trời mới chỉ tờ mờ chứ chưa sáng hẳn. Nhớ đến ông Lương đang nằm
bên ngoài, chủ quán trọ vội bật dậy, nhìn trong nôi, cậu con trai vẫn nhắm mắt ngủ
ngon lành. Mở cửa buồng, phía cái ghế dài, không còn thấy ông Lương đâu nữa.
Chăn gối đã được gấp gọn và xếp cẩn thận.

Cửa nhà thì đang mở một bên cánh, nghĩ ông Lương đã đi, chủ quán trọ vội chạy ra
sân thì may thay ông Lương đang đứng ngoài sân nhìn ngắm thứ gì đó. Chủ quán trọ
bước lại gần rồi nói :

-- Bác dậy sớm thế…? Tôi còn tưởng bác đi rồi..?

Ông Lương nói :

-- Cả đêm qua cụ bà lục xục tôi không ngủ được….Đến nửa đêm bà còn mở cửa đi ra
ngoài, nửa canh giờ sau mới quay lại. Lát nữa vợ chồng anh kiểm tra xem dưới bếp
có mất hay thiếu gì không…?

Vợ chủ quán trọ nghe thấy vậy lập tức chạy xuống bếp, lát sau chị ta đi ra với cái rổ
nhỏ trên tay :

-- Rổ trứng gà tối qua vẫn còn chục quả, hôm nay không hiểu biến đâu hết cả rồi.

#Chap5 : Gỗ Áo Quan.


Hai vợ chồng chủ quán trọ quay sang nhìn nhau, mặt mũi ngẩn ngơ không hiểu ông
Lương đang nói gì. Trong nhà tính ra thì chỉ có 2 gian, căn buồng nhỏ thì hai vợ chồng
chủ quán trọ cùng cậu con trai ở đó, bên ngoài là bàn uống nước, còn bên trong nữa
kê một chiếc giường nơi mẹ vợ chủ quán trọ nằm. Chỗ bàn uống nước thì đêm qua
ông Lương đã nằm trên ghế dài, vậy nếu bà cụ không nằm trên giường thì còn nằm
đi đâu được nữa, vợ chủ quán trọ như vừa nghĩ ra điều gì, chị ta vội nói :

— Vậy….vậy có phải, mẹ tôi thường nằm dưới gầm giường đúng….đúng không ạ..?

Chủ quán trọ thấy vợ nói cũng hợp lý, những vỏ trứng dưới gầm giường phần nào đã
giải thích điều này, nhưng ông Lương lắc đầu :

— Không phải, bà cụ chỉ ăn trứng sống rồi vứt vỏ xuống gầm giường mà thôi. Còn
chỗ mà bà cụ ngủ mỗi đêm là chỗ khác. Đó cũng chính là nguyên nhân tại sao ngôi
nhà này lại bị tà ma quấy nhiễu.

Chủ quán trọ càng nghĩ lại càng không ra nơi mà ông Lương đang nói là nơi nào.

“ Ò….Ó….O….O “
Tiếng gà gáy lại vang lên, nhìn hai vợ chồng chủ quán trọ ông Lương lúc này mới nói
tiếp :

— Thời gian qua, cứ đến nửa đêm, bà cụ lại chui vào tủ quần áo để ngủ. Tà ma trong
nhà bắt nguồn từ cái tủ quần áo đó mà ra.

Vợ chồng chủ quán trọ nhìn nhau tròn mắt, họ há hốc mồm :

— Tủ….tủ...quần áo sao…? Sao lại là tủ quần áo thưa bác…?

Ông Lương trả lời :

— Cái tủ đó chắc chắn đã được đóng bằng gỗ quan tài của người chết. Có thể người
đóng ra chiếc tủ ấy cũng không hề biết loại gỗ mà mình dùng là gỗ quan tài. Chuyện
này tuy hiếm nhưng không phải không có, có những ngôi mộ của người giàu, họ chôn
cùng xác chết nào là vàng bạc, trang sức. Và ngay cả loại gỗ đóng quan tài đó cũng
phải là gỗ tốt, còn là gỗ hiếm, gỗ đắt tiền. Những ngôi mộ như vậy nếu không chôn
cất bí mật, hoặc có người canh gác thì rất dễ bị bọn trộm mộ đánh hơi thấy. Và khi
đào mộ để lấy đi những vật quý giá, những tên trộm có kinh nghiệm, có hiểu biết về
gỗ sẽ phát hiện ra ngay cả chiếc quan tài đó cũng có giá trị. Gỗ quan tài sẽ được
chúng ra ra thành từng mảnh, bào đi phần hoa văn chạm trổ, lúc ấy những ván gỗ ấy
được đem đến những tiệm gỗ bán lại với cái giá thấp hơn, nhưng chất lượng thì lại là
gỗ tốt. Thợ mộc mua gỗ đó đóng thành những vật dụng như bàn, ghế mà không hề
hay biết loại gỗ đó chính là áo quan của người đã chết. Tà trong nhà xuất hiện từ cái
tủ mà ra, do vậy mỗi đêm, bà cụ lại chui vào tủ để ngủ, như người chết nằm trong
quan tài vậy.

Nghe đến đây, cả hai vợ chồng chủ quán trọ đều lạnh gáy, rùng mình. Chị vợ bây giờ
mới nghiệm lại, chị ta nói :

— Mình….mình ơi….Vậy là đúng rồi…..Cái...cái tủ...đó, mẹ đem về nhà chỉ trước 1
tháng khi tôi sinh.

Chủ quán trọ hỏi vợ :

— Nhưng cái tủ đó mẹ mua ở đâu…?

Chị vợ đáp :

— Cũng….cũng...không phải mua…..Mà là một nhà...người quen bên làng bên cho
mẹ…...Mình biết nhà chú Sáu không…? Chú Sáu là họ hàng với mẹ, chú ấy mất 1 năm
trước đó. Nhà đó bỏ không suốt 1 năm vì con trai chú ấy đi làm mãi trên vùng biên.
Đợt rồi nó về rao bán nhà, còn đồ dùng trong nhà nó gọi người quen rồi cho
hết…..Mẹ, mẹ mình sang, thấy cái tủ còn mới, gỗ lại tốt, chắc chắn nên xin đem về
nhà…..Tôi...tôi còn nhớ lúc về đây chuẩn bị sinh, mẹ còn khoe là xin được cái tủ đẹp
lắm….Nhưng không ngờ...cái tủ lại như...như vậy….?
Ông Lương cau mày :

— Chị nhà có biết, nguyên nhân mà chú Sáu đó chết là do đâu không..?

Vợ chủ quán trọ mặt tái mét, chị ta ấp úng nói :

— Chú Sáu sống 1 mình, vào cái hôm mà chú ấy chết, lúc hàng xóm chạy sang nhà
mượn cái cuốc, gọi mãi không thấy ai trả lời, ngó vào trong nhà thì chú ấy đã chết
cứng từ bao giờ. Lúc đó tôi cũng chỉ nghe kể lại là chú Sáu chết do lên cơn đau tim,
đột quỵ. Chân tay co quắp, mắt trợn ngược nhìn lên trần nhà, miệng sùi bọt mép, họ
bảo chết nhìn sợ lắm.

Chủ quán trọ nhìn ông Lương mặt đầy hoang mang :

— Bác ơi….có khi nào...là do….

Ông Lương gật đầu :

— Rất có thể là như vậy…..Nếu như tà ma này đã giết người thì oán nghiệt của nó
càng nặng. Tôi đoán không nhầm, cứ để tình trạng này diễn ra, chưa tới 3 tháng nữa
bà cụ sẽ chết, và người tiếp theo bị bắt đi chính là con trai của hai vị. Không thể kéo
dài nữa, chuyện này đã trở nên rất nghiêm trọng. Tôi cũng không ở lại đây lâu hơn
được, tối nay tôi sẽ bắt con ma này cho hai vị. Nguyên nhân đã rõ, việc này cũng
không quá khó khăn. Nhưng để làm được điều này, hai vị phải làm theo những gì tôi
dặn sau đây.

Vợ chồng chủ quán trọ vâng dạ chờ đợi, ông Lương tiếp :

— Ngày hôm qua quan sát, tôi thấy bà cụ chỉ dậy lúc chập tối. Trước đây bà cụ có vậy
không..?

Vợ chủ quán trọ trả lời :

— Dạ, chỉ mới mấy ngày gần đây thôi, trước đó mẹ tôi buổi trưa vẫn dậy ăn cơm
bình thường.

Ông Lương gật gù :

— Đó là do âm khí nhập vào bà cụ lâu ngày, dương khí yếu đi, do vậy sẽ sợ ánh nắng
ban ngày. Đó là lý do vì sao tôi nói nếu càng để như này, sợ rằng chưa đến 3 tháng
bà cụ sẽ phải chết.

Nhìn sang chủ quán trọ, ông Lương nói :

— Chỗ muối trắng và than hoa hôm qua tôi nhờ bác chủ mua vẫn còn chứ..?
Chủ quán trọ gật đầu đáp :

— Dạ, vẫn còn…..Tôi để ở trong thùng sắt dưới nhà bếp.

Ông Lương tiếp :

— Giờ bác chủ giã than hoa vụn thành bột, tiếp đó trộn với muối trắng. Trộn xong
đêm rải xung quanh nhà, rải quanh buồng, trước cửa ra vào buồng của vợ chồng bác
chủ. Như vậy sẽ ngăn cho bà cụ không tiếp cận được con của hai vị nữa, hồn vía của
cậu bé đã bị bắt đến mấy phần. Hồi tối qua tôi nhìn thấy bóng con ma dẫn theo một
đứa bé, đó chính là một phần hồn phách của con bác chủ. Nếu nó bắt hết mấy phần
hồn vía còn lại, con trai hai vị sẽ chết. Vì hồn vía bị bắt mất nên cậu bé nằm ngủ li bì
suốt cả ngày. Làm theo lời tôi dặn, tà mà này tiêu diệt không khó, nhưng cái khó là
phải lấy lại được phần hồn phách của cậu bé đã bị nó bắt đem đi. Tôi đã có dự liệu,
nhân lúc gà còn gáy, chị nhà đun ngay cho tôi một nồi nước gừng pha với rượu. Sau
khi đun xong chế thêm nước ấm rồi tắm cho con, còn bác chủ, đi giã than hoa rồi
trộn với muối như tôi đã nói. Tắm cho cậu nhóc xong, thay quần áo mới, tã mới,
không cho nằm nôi nữa mà để nằm trên giường, cái nôi đó đem bỏ ra ngoài. Cuối
cùng là rắc muối trộn than hoa xung quanh buồng. Lập tức đi làm ngay.

Khi vợ chồng chủ quán trọ vừa quay đi thì ông Lương gọi người vợ lại, lấy trong
người ra một mảnh giấy màu vàng, vuông vuông chỉ nhỏ bằng đầu ngón tay cái, ông
Lương cắn ngón tay trỏ đến bật máu, thấm máu của mình vào mảnh giấy, ông Lương
đưa cho chị vợ chủ quán trọ rồi dặn thêm :

— Dính cái này vào trán con chị, như vậy khi đưa cháu đi tắm, nó sẽ không khóc. Giờ
tôi sẽ ra ngoài, đến tối tôi mới quay lại. Làm xong tất cả những gì tôi dặn, sau đó hai
người cứ tiếp tục công việc như thường ngày. Khi trời bắt đầu tối, trước khi tôi quay
lại, nơi bàn uống nước gần chỗ ghế tôi nằm đêm qua, đặt ở đó ba cây đèn dầu. Cơm
nước cứ chuẩn bị cho bà cụ như thường ngày, cổng cử mở để đấy cho tôi. Vào lúc 7h
tối, cả hai người cũng phải ngồi bên trong buồng, tuyệt đối không đươc bước ra
ngoài. Nhớ thêm điều này nữa, trước khi vào buồng thì thắp sáng ba cây đèn dầu kia
lên.

Vợ chủ quán trọ lo lắng :

— Bác...bác đi đâu vậy….? Bác sẽ...quay lại chứ…?

#Chap6 : Đinh Bạc Ghim Vong Hồn.


Thời gian cứ thế trôi đi, một ngày dài đằng đẵng theo như cảm nhận của vợ chồng
chủ quán trọ cuối cùng thì trời cũng chuyển về chập tối. Nhưng đã gần 6h tối mà vẫn
chưa thấy ông Lương quay lại. Như mọi ngày, mẹ vợ chủ quán trọ lúc này mới bước
xuống khỏi giường, và bà cụ lại đòi ăn cơm. Ăn xong, hôm nay bà cụ không đi ra sau
vườn nữa mà trèo lên giường, nằm úp mặt vào tường luôn.

Vợ chồng chủ quán trọ vừa dọn dẹp, vừa nhìn ra bên ngoài cổng, trong lòng lo lắng
không biết ông Lương có quay lại hay không..?

“ Ộp...Ộp...Ộp “

Tiếng ếch kêu bên ngoài bờ ruộng, dã gần 7h tối mà vẫn chưa thấy ông Lương đâu.
Nhớ lời thầy dặn :

“ Lúc 7h tối, khi mà bà cụ chuẩn bị bước vào buồng đòi bế cháu thì cả hai người cũng
phải ở im trong đó, tuyệt đối không được bước ra ngoài.”

Nhìn đồng hồ thì chỉ còn 5 phút nữa là đến 7h tối. Ngồi im bên trong buồng, hai vợ
chồng chủ quán trọ vội đóng chặt cửa buồng lại, khi mà bên gian ngoài, chiếc giường
mà bà cụ đang nằm bắt đầu vang lên những tiếng :

“ Kẽo...kẹt….ẹt...kẹt...kẹt “

Bà cụ đang xoay người ngồi dậy khiến cho chiếc giường phát ra những âm thanh gai
người. Từ trong buồng, qua khe nứt của cánh cửa, vợ chồng chủ quán trọ nhìn nhau
kinh sợ, họ không dám thở mạnh bởi dưới ánh sáng của ba cây đèn dầu, bóng của bà
cụ đang đổ xuống nền nhà đen thui.

“ Loẹt….xoẹt...loẹt...quẹt “

Tiếng bước chân của bà cụ mỗi lúc một gần với cánh cửa buồng hơn, nhưng hôm nay
cậu con trai bé bỏng của họ không khóc, trên trán đứa bé vẫn được dán miếng giấy
nhỏ màu vàng có thấm máu của ông Lương.

Vừa đúng 7h tối, vợ chồng quán chủ giật bắn người bởi tiếng gõ cửa bên ngoài :

“ Cộc...cộc...cộc…”

Kèm theo đó là giọng nói thều thào của bà cụ :

— Con ơi…..con ơi…..mở cửa...cho mẹ đi con…..mẹ bế cháu một chút….

Hai vợ chồng im bặt không ai dám trả lời, tiếng gõ cửa lại vang lên, và lần này tiếng
gõ đã mạnh hơn :

“ CỘC…...CỘC….CỘC “

Giọng nói của bà cụ cũng ma mị hơn, xen lẫn đó là tiếng cười man dại :

— Hi...hi...hi….Mở cửa ra nào….Mẹ đây….mẹ đây mà….Cho mẹ bế cháu…..Hi...hi...hi

Vợ chồng chủ quán trọ sợ quá, cả hai ngồi hẳn lên trên giường rồi ôm lấy cậu con trai
vẫn đang nhắm mắt ngủ say. Và ngay sau đó chị vợ phải hét toáng lên bởi bên ngoài
cửa buồng, bà cụ không gõ cửa nữa, thay vào đó là những âm gai sống lưng, cứ như
cánh cửa đang bị thứ gì đó cào vào vậy.

“ Kít….két….kít...kít…..”

“ Kẹt….kẹt….kẹt….”

Đột nhiên, không gian im ắng, không còn tiếng cào cửa, cũng không còn nghe thấy
giọng nói của bà cụ nữa. Nhưng không, sự tĩnh lặng chỉ diễn ra trong chốc lát. Hai vợ
chồng chủ quán trọ thất kinh bạt vía khi phá tan sự im lặng đó chính là tiếng khóc
của cậu con trai mà họ đang bế trên tay :

“ Oe...oe….Oa…..Oa….”

“ Oe….Oe….oe…”

Ngay khi cậu con trai vừa cất tiếng khóc thì bên ngoài buồng, những tiếng đập cửa
dồn dập vang lên :

“ Rầm….Rầm….Rầm “

Bà cụ gào lên điên dại :

— Mở cửa ra….Mở ra...Ngừ….ngừ…..Đừng khóc….đừng khóc….Mẹ đây….mẹ đây..

Hai vợ chồng chủ quán trọ vội bế con lùi sâu vào trong góc nhà, cánh cửa buồng yếu
ớt như sắp sửa bung ra bởi lực đập như điên cuồng từ phía bên ngoài của bà cụ.
Không ai dám tin một cụ già 70 tuổi lại khỏe đến như vậy, giọng nói của bà cụ mỗi lúc
một khác, không thều thào như ban đầu nữa, bây giờ, giọng nói đó là của một người
phụ nữ đối với vợ chồng chủ quán trọ hoàn toàn xa lạ :

— Con tao….ngừ...ngừ…..he he he…..Trả con...tao đây…..Chúng...mày…..trả con tao


đây….Hi...hi..hi…

Chủ quán trọ chắp tay lạy vào không trung, miệng lắp bắp :

— Thầy….thầy….Lương...thầy...ở đâu….cứu...cứu...chúng con với.

“ Rầm “

Ngay khi chủ quán trọ vừa cầu khấn thì nguyên cánh cửa buồng bị đạp đổ rạp xuống
nền nhà. Ngồi trên giường, hai vợ chồng chủ quán trọ sợ đến cứng cả họng, trước
mắt họ, đang đứng bên ngoài cửa buồng là người mẹ già của họ, nhưng khác với
ngày thường, bà cụ đi lại với cái lưng còng thì nay, người đứng ngoài căn buồng lại
đứng thẳng lưng, mái tóc bạc trắng xõa xuống che kín khuôn mặt, hai bàn tay bà cụ
buông thõng sát phần hông với những cái móng tay dài ngoằng, nhọn hoắt.

Giọng nói lạ lùng kia từ đâu vang lên :


“ Đây rồi….con...tao….đây...rồi…”

Đứa bé nằm trong vòng tay mẹ lại càng khóc to hơn, vợ chủ quán trọ ôm chặt lấy
con, miệng mếu máo :

— Cút đi….cút đi…..Đừng bắt con của tôi….Tôi xin bà…..Đừng bắt con tôi…

Cả hai nhận ra đó không còn phải là mẹ của họ nữa, những ngón tay với những chiếc
móng nhọn hoắt bắt đầu bám lấy thành cửa. Nhưng ngay khi bà cụ định bước vào
trong thì bà ta lập tức thét lên đầy đau đớn :

— Á…..á….đau...quá….đau quá…

Dưới ánh đèn dầu, vợ chồng chủ quán trọ nhìn thấy đôi bàn chân của mẹ mình đang
bốc khói, cứ như thể ai vừa dùng lửa đốt chân bà cụ vậy. Thì ra khi bước chân vào
bên trong, bà cụ đã đạp phải chỗ muối được trộn cùng vối than hoa mà chủ quán trọ
đã rải khắp căn buồng.

Đau đớn đứng dậy, cụ bà cào những cái móng tay xuống nền nhà thành vết rồi tiếp
tục bước vào trong một lần nữa, nhưng vẫn như lần trước, đôi bàn chân của bà cụ
ngay khi đạp trúng muối tinh trộn than hoa thì lại cháy khét, bốc khói.

Đến lúc này, vợ chồng chủ quán trọ mới phần nào yên tâm vì chí ít thì tạm thời bà cụ
vẫn chưa thể lao được vào bên trong phòng.

Đúng lúc này, bên ngoài cửa ra vào đổ xuống nền nhà một cái bóng đen, kèm theo
đó là giọng nói quen thuộc :

— Có ai ở nhà không…? Tôi quay lại làm phiền gia đình một đêm nữa đây.

Nhận ra đó là giọng của ông Lương, chủ quán trọ hét lớn :

— Thầy Lương, cứu….cứu nhà con với...Mẹ vợ con phát điên rồi.

Khác với ngày hôm qua, có lẽ lúc này, con ma nhập vào bà cụ đã biết được ông
Lương không phải người bình thường. Vừa nhác thấy ông Lương bước vào, bà cụ đã
chồm dậy rồi lao bổ nhào ra phía cửa. Nhưng không phải tấn công ông Lương, mà nó
muốn tìm đường thoát thân, lối thoát duy nhất bây giờ chính là cửa ra vào.

Nhưng sao nó có thể chạy thoát, tất cả mọi chuyện đều nằm trong dự tính của ông
Lương. Trước khi bước vào nhà, ông Lương đã ghim ngay cửa hai lá bùa, bà cụ chạy
ra đến cửa thì lập tức ngã ngửa lại đằng sau, đưa hai bàn tay lên ôm mặt, bà ta lăn
lộn dưới dất gào lên những tiếng đầy đau đớn :

— Ư….ư…..đau quá…..ngừ...ngừ…..đau quá….đau quá…


Lùi về phía bàn uống nước, cái bóng của bà cụ bị ánh đèn dầu soi sáng, bóng đổ lên
trên tường nhà. Ngay lập tức, ông Lương rút ra một cây đinh bạc rồi dùng búa trong
tay nải ghim cây đinh bạc vào phần đầu của cái bóng.

Tiếp theo đó, lấy trong người ra một lá bùa, ông Lương dán thẳng vào phần đầu của
bà cụ rồi lẩm nhẩm đọc những câu gì đó. Lập tức, bà cụ đổ rạp xuống đất bất tỉnh,
nhưng cái bóng trên tường thì vẫn giãy dụa. Nếu không tận mắt chứng kiến, chắc có
lẽ vợ chồng chủ quán trọ cũng không thể tin đây là sự thật.

Đứng trước cái bóng đang bị ghim bởi cây đinh bạc, ông Lương quát lớn :

— Vong nữ kia, mau trả hồn vía nhà ngươi đã bắt mất của con hai vị gia chủ đây.
Bằng không ta đánh cho ngươi hồn bay phách tán, mãi mãi không được siêu sinh.

Nhưng có vẻ như cái bóng trên tường không đồng ý, nó vẫn giãy dụa, thậm chí là tạp
thành hình nanh vuốt như muốn bổ vào ông Lương.

Im lặng, không nói thêm câu nào….Ông Lương tiến về phía cái tủ gỗ rồi bắt đầu lấy
tiếp ra 4 cây đinh bạc khác.

“ Cộp...Cộp...Cộp “

Cây định bạc đầu tiên được đóng vào giữa thân tủ. Ngay khi chiếc đinh cắm sâu vào
thân tủ, trong nhà lập tức vang lên những âm thanh gai người.

“ Ngéc….ngéc….ngừ….ngừ…”

Ông Lương quát :

— Còn không chịu thả hồn.

“ Cộp….Cộp...Cộp “

Chiếc đinh thứ hai được đóng xuống chân tủ, và lần này âm thanh vang lên là tiếng
khóc của một người phụ nữ :

“ Hu...hu...hu….Đau...quá….tôi...thả...tôi….thả…..hu...hu…”

Từ cái bóng lớn in trên tường nhà bỗng xuất hiện một cái bóng nhỏ xíu khác mang
hình dáng của trẻ con. Cái bóng nhỏ đó từ từ tách ra khỏi cái bóng lớn rồi biến mất,
bên trong buồng, cậu bé con đang khóc sa sả bỗng nhiên im bặt, nó ngừng khóc,
thậm chí còn đưa tay lên gãi gãi mũi rồi cười khúc khích. Vợ chồng chủ quán trọ cũng
nhận ra sự thay đổi của con mình. Lúc này, ông Lương cũng rút chiếc đinh ghim trên
bức tường ra, cái bóng kia cũng biến mất.

Ông Lương nói với vợ chồng chủ quán trọ :


— Ổn rồi, mọi người ra đưa bà cụ lên giường nằm nghỉ. Chắc có lẽ phải tối mai bà cụ
mới tỉnh dậy được. Nhớ, trong vài ngày tới chăm sóc cho bà cẩn thận. Công việc tạm
thời đã xong một nửa, con trai hai vị cũng đã không còn nguy hiểm. Chị nhà có thể
cho cháu đi ngủ, còn bác chủ ra bàn uống nước, tôi có vài điều cần nói.

#Chap7 : Con Đường Trả Nghiệp.


Hai vợ chồng chủ quán trọ đỡ bà cụ lên giường, bà cụ hình như bị bị ngất xỉu, phần
cánh tay có một vài vết bầm nhỏ do va đập nhưng không đến nỗi tồi tệ lắm. Những
cái móng tay dài ngoằng, sắc nhọn khi nãy giờ cũng đã biến mất. Đắp chăn cho bà cụ
xong, vợ chủ quán trọ đi vào bên trong phòng ru cậu con trai ngủ, còn chủ quán trọ
ngồi xuống ghế, đối diện với ông Lương, chờ đợi xem ông Lương sắp nói gì.

Nhấp ngụm nước, ông Lương bắt đầu :

— Trước tiên cho tôi xin lỗi vì đã quay về hơi chậm. Chắc hai vị đã phải rất sợ hãi.

Chủ quán trọ vâng dạ gật đầu, chủ quán trọ thắc mắc :

— Dạ, thưa thầy, bây giờ đã xong việc, thầy có thể cho tôi biết thầy đã đi đâu được
không ạ..?

Ông Lương mỉm cười :

— À, cũng không có gì. Tôi đến chỗ tiệm bạc hôm trước. Bác chủ còn nhớ trưa hôm
qua, lúc rời khỏi nhà, tôi có thò tay vào tay nải để dưới bụi trúc lấy một vật gì đó
chứ…?

Chủ quán trọ tất nhiên là nhớ, ông ta hỏi :

— Dạ có, là thứ gì vậy thầy..?

Ông Lương đáp :

— Là một thỏi bạc, tôi đem thỏi bạc ấy dến tiệm bạc rồi nhờ họ đúc thành 5 cây đinh
bạc và hẹn hôm nay sẽ lấy. Nhưng không may, chẳng hiểu họ làm ăn thế nào mà lúc
tôi đến lại chỉ có 3 cây đinh. Thành thử ra phải đợi làm nốt 2 cây còn lại, do vậy mới
quay về hơi muộn giờ. Nhưng không ai bị sao là tốt rồi.

Mặc dù ông Lương nói như vậy, nhưng chủ quán trọ cũng hiểu, ông Lương đã dự trù
hết được mọi việc. Thế cho nên ông Lương mới cẩn thận dặn dò rải muối trộn than
hoa bên trong buồng. Thứ đó đã ngăn cản không cho bà cụ đặt chân vào bên trong,
ông Lương tiếp :

— Ban nãy tôi mới chỉ dùng đến 3 cây đinh, trong đó mới chỉ ghim 2 cây vào tủ. Số
đinh vẫn còn, điều đó có nghĩa là tà ma trong nhà tôi chưa diệt được hết. Đó là lý do
vì sao ban nãy tôi nói công việc mới làm xong một nửa.
Chủ quán trọ run run hỏi :

— Như vậy có nghĩa là nó vẫn sẽ tiếp tục ám hại nhà tôi phải không hả thầy…?

Ông Lương cười :

— Không, diệt ma, trừ yêu xưa nay mỗi một thầy bùa, thầy pháp đều có những cách
khác nhau. Người thì bắt nhốt, người thì đánh cho hồn tiêu, phách tán khiến cho linh
hồn ma quỷ đó tan vào hư vô, còn cũng có người tuy biết chúng là tà ma, đã từng hại
người nhưng vẫn để cho chúng một con đường sám hối, sau đủ duyên kiếp chúng sẽ
được siêu thoát. Thường thì người ta không dùng cách số 3, bởi nó mất công, mất
sức, giải nghiệp cho người sống đã khó, huống gì là giải nghiệp cho người đã chết.
Cần phải tìm hiểu cặn kẽ, căn nguyên sâu xa mọi chuyện, gỡ bỏ những oán hận chất
chứa trong linh hồn, và quan trọng muốn độ cho người khác thì bản thân người độ
phải có tâm trước đã. Tôi đóng 2 cây đinh bạc vào tủ là đã phong bế linh hồn của
người phụ nữ này trong đó. Bây giờ chỉ cần đóng nốt 3 cây đinh còn lại vào tủ, cuối
cùng, bác chủ chỉ cần đốt cái tủ đó đi, đem tro tủ rải về 4 hướng. Như vậy thứ tà ma
này sẽ bị tiêu diệt, vạn kiếp linh hồn phân tán, không còn cách siêu sinh. Như vậy, nó
cũng không còn hại được gia đình thí chủ hay bất cứ một ai nữa. Tôi để ba cây đinh
bạc còn lại ở đây, cách làm tôi cũng đã chỉ rõ. Khi trời sáng, bác chủ chỉ cần làm đúng
như vậy là được.

Khẽ đặt ba cây đinh lên mặt bàn, ông Lương nhìn chủ quán trọ chờ đợi. Nhưng chẳng
mất một giây suy nghĩ, chủ quán trọ nói :

— Thưa thầy, đúng là tôi đã rất sợ khi chứng kiến chuyện này. Nhưng suy cho cùng,
cũng do mẹ tôi đưa cái tủ này về nhà. Giờ nếu làm như thầy nói tôi thấy ác quá, lỗi
do chúng ta gây ra nhưng lại trút bỏ hết lên người khác, tôi e, tôi không thể làm
được. Tôi….tôi…..tôi xin thầy, còn có cách nào khác để giúp cho hồn ma này được
siêu sinh không ạ…? Tốn kém như thế nào, gia đình tôi cũng đều xin chấp nhận.

Ông Lương hỏi :

— Vậy là bác chủ muốn giải nghiệp cho người đã chết…? Nhưng điều này sẽ khiến
bác chủ gặp một số phiền hà đấy, bác chủ vẫn muốn làm như vậy…?

Chủ quán trọ gật đầu đầy quả quyết :

— Dạ thưa thầy, chỉ cần có cách tôi chấp nhận. Mong thầy chỉ dạy.

Ông Lương cười lớn :

— Ha ha ha, ha ha ha, quả đúng là bác chủ đây có lòng nhân hậu. Tôi thật kính phục,
quả nhiên tôi đã không nhìn lầm người.

Dứt lời, ông Lương nói vào không trung :


— Vong nữ kia, nhà ngươi nghe thấy rồi chứ. Lẽ ra ta phải đánh cho người hồn tiêu
phách tán. Nhưng nay, vị gia chủ đây một lòng nhân đức, không những muốn tha
cho ngươi mà còn muốn giúp ngươi giải nghiệp chướng. Thương hoàn cảnh của
ngươi đáng thương hơn là đáng trách, trước khi rời khỏi đây, ta sẽ giúp ngươi vậy.

Nhìn chủ quán trọ, ông Lương nói :

— Gỗ đóng tủ chính là gỗ được trộm từ quan tài của một người phụ nữ, người này
chết năm 30 tuổi, chôn chưa được mấy ngày thì bị đào mộ. Linh hồn đi theo quan tài
vất vưởng trần gian, qua nhiều năm oán khí tích tụ, dần dần trở thành vong ác.
Nhưng cũng chưa hại ai bao giờ, việc chú Sáu chết không phải do hồn ma của cô ta
báo oán. Cái tủ này đã ở nhà chú Sáu 3 năm nay rồi, nhưng việc trong nhà có vong
hồn người chết thực sự không phải chuyện tốt. Tuy nhiên đúng như lời bác chủ nói,
một phần nguyên nhân dẫn đến chuyện này cũng do người sống. Xét về một mặt nào
đó, cô ta cũng là người bị hại.

Chủ quán trọ thắc mắc :

— Nhưng sao cô ta ở nhà chú Sáu 3 năm không hại ai mà về đây lại muốn hại mẹ vợ
và con của tôi.

Ông Lương gật đầu giải thích :

— Người phụ nữ này chết trong khi sinh, con cô ta cũng không cứu được. Do vậy khi
vợ bác chủ sinh con, vô hình cô ta nghĩ đó là con của mình. Do chỉ là vong linh gá vào
cái tủ nên cô ta bắt buộc phải nhập vào mẹ vợ thí chủ, ngày ngày đòi bế cháu. Âm
dương cách biệt, ma quỷ cuối cùng vẫn là ma quỷ, tà niệm trong chúng là vô cùng
lớn. Nó khiến cô ta muốn đưa đứa bé đi cùng để thay thế cho đứa con của mình.
Mấy năm qua, hồn phách của cô ta luôn đi cùng chiếc tủ, muốn đi không được,
muốn ở không xong.

Chủ quán trọ rân rấn nươc mắt sau khi nghe ông Lương kể chuyện về quá khứ của
hồn ma nơi chiếc tủ, chủ quán trọ hỏi :

— Thưa thầy, vậy giờ tôi phải làm gì…?

Ông Lương đáp :

— Mọi thứ muốn giải quyết triệt để thì phải giải quyết từ điểm bắt đầu. Ngày mai,
sau khi làm một cái lễ, phiền bác chủ chuẩn bị cho tôi hai con hình nhân bằng giấy,
con lớn là người nữ, con nhỏ mang hình hài một bé trai, kèm theo đó là tiền vàng,
vài bộ quần áo dành cho hai con hình nhân. Làm lễ xong, bác chủ khấn tên Đoàn Thị
Thanh Trang rồi đốt. Còn về phần cái tủ như tôi nói ban nãy, nếu chọn cách cầu siêu
cho vong hồn thì bác chủ sẽ phải đưa cái tủ này về với gia đình của vong nữ kia để họ
nhận lại rồi có cách cải táng mồ mả, nhang khói, thờ phụng, như thế mới giúp cô ta
sớm được siêu thoát. Địa chỉ, nơi chốn của cô ta trước khi rời khỏi đây tôi sẽ để lại
cho bác chủ. Chỉ cần đưa cái tủ đúng đến nơi đó và đọc tên Đoàn Thị Thanh Trang là
họ sẽ biết.

Chủ quán trọ còn cẩn thận hỏi :

— Nhưng nếu họ nghĩ tôi lừa đảo thì sao ạ…?

Ông Lương mỉm cười :

— Nếu vậy thì bác chủ chỉ cần mở cánh tủ bên tay trái, nhìn vào góc tủ phía trên sẽ
thấy một dòng chữ, cho người nhà họ Đoàn nhìn thấy dòng chữ đó ắt họ phải cúi lạy
bác chủ chứ đừng nói đến chuyện vu cho bác chủ là lừa đảo.

Chủ quán trọ cũng muốn xem dòng chữ trong tủ là gì nhưng do sợ nên không dám
đến gần cái tủ. Sáng hôm sau, đúng như lời thầy Lương dặn, đồ lễ bái được chuẩn bị
đầy đủ. Làm lễ, đốt hình nhân xong thì bà cụ bên trong nhà bừng tỉnh, bà bước
xuống giường rồi đi ra ngoài nhà nhìn con gái, bà cụ nói :

#Chap8 : Mùi Tanh Của Mưa.


2 tuần sau….Tại chùa Thiên An..

“ Cộp...Cộp...Cộp..”

Chủ quán trọ cũng đang có mặt tại đây, mồ hôi ướt đẫm khuôn mặt, ông ta nói :

— Chỗ cánh cửa đó ép gỗ lại rồi đóng cho chắc vào nhé, nãy tôi thấy vẫn còn hở đó.

Sư trụ trì chùa Thiên An tay cầm siêu nước, rót một cốc nước, đưa cho chủ quán trọ,
sư trụ trì nói :

— Thí chủ uống ngụm nước cho tỉnh táo, từ sáng đến giờ thí chủ cũng vất vả rồi.

Chủ quán trọ kính cẩn đưa hai tay nhận lấy cốc nước từ sư trụ trì, ông nói :

— Dạ, cảm ơn sư thầy, vất vả gì đâu ạ, con chỉ đứng xem rồi thấy chỗ nào chưa được
yêu cầu họ làm cẩn thận hơn thôi.

Sư trụ trì đáp :

— A di đà phật, công đức này của thí chủ, nhà chùa vô cùng cảm kích. Vậy là mùa
đông sắp tới, các cháu không còn lo chỗ nằm bị mưa gió tạt vào nữa rồi. Cảm ơn thí
chủ nhiều lắm.

Chủ quán trọ ngồi xuống nhấp ngụm nước rồi vội xua tay :

— ́y chết, này là con chỉ góp công thôi...Còn thực ra chi phí tu sửa lại chùa là của thầy
Lương cả đó chứ. Mà nhắc đến thầy Lương, phải nói thầy Lương dự liệu mọi chuyện
như thần. Lúc nghe thầy nói gì đến tiền công sau chuyến đi, con còn chẳng hiểu ý
thầy là gì, nhưng khi tìm đến đúng với địa chỉ mà thầy Lương ghi lại trên giấy. Nơi mà
con đem chiếc tủ đến là nhà họ Đoàn, một dòng họ nổi tiếng giàu có. Sư thầy biết
không, khi con nhắc đến cái tên Đoàn Thị Thanh Trang, người nhà họ Đoàn ai cũng
giật mình, nhưng họ nghĩ con bịa chuyện hòng kiếm tiền cúng bái, giải hạn….Sau khi
con làm như lời thầy Lương dặn, mở cánh tủ rồi nhìn vào góc trong tủ, quả đúng là
có một dòng chữ.

Sư trụ trì khẽ hỏi :

— Chẳng hay đó là dòng chữ gì vậy..?

Chủ quán trọ trả lời :

— Trong góc tủ đó có khắc một dòng chữ nhỏ, tuy hơi mờ nhưng vẫn đọc được : Bà
trẻ họ Đoàn - Đoàn Thị Thanh Trang. Những tấm gỗ được đóng thành cái tủ ấy hóa ra
lại chính là gỗ từ quan tài của bà trẻ nhà họ Đoàn. Những chữ khắc trong tủ được
chính họ Đoàn thuê người về rồi khắc tên vào quan tài. Ngay khi nhìn thấy ký tự
được lưu lại, người nhà họ Đoàn lập tức mời con vào trong nhà. Sau khi con kể lại
những việc đã xảy ra thì già trẻ trong nhà ôm mặt khóc nức nở. Họ nói đúng là 4 năm
trước, mộ của bà trẻ sau khi chôn được một thời gian ngắn thì đã bị bọn trộm mộ
đào bới, xới tung lên, ngoài vàng bạc chôn kèm, ngay cả đến áo quan chúng cũng lấy
bởi chúng biết loại gỗ đóng quan tài đó là gỗ quý, đắt tiền. Hôm sau người nhà phát
hiện ra thì chỉ nằm dưới cái hố chỉ còn cái xác trơ trọi. Nhìn cảnh tượng đó ai cũng
xót xa, đau đớn.

Sư trụ trì khẽ nhắm mắt, chắp hai tay lại ông thở dài :

— A di đà phật, thiện tai, thiện tai…..Trên đời này sao lại còn những người nhẫn tâm,
mất đi nhân tính đến như vậy…? Đến người chết mà cũng không tha, nghe thôi mà
bần tăng cũng thấy nhói tận tâm can. Nhưng cũng thật may là thí chủ không quản
ngại đường xá xa xôi, lặn lội đưa vong linh người chết về gia đình của họ.

Chủ quán trọ nghe sư trụ trì khen thì ngượng ngùng đáp :

— Sư thầy quá lời rồi, tất cả con đều làm theo lời của thầy Lương mà thôi. Nhưng
con không hiểu, tại sao buổi tối hôm ấy, thầy Lương lại cho con lựa chọn. Một là
thiêu cái tủ ra tro, đem tro ấy rải bốn hướng, nếu làm như vậy sau này hồn ma kia sẽ
không hại ai được nữa, và cách sau đó là chấp nhận giải nghiệp cho người đã chết.

Sư trụ trì mỉm cười :

— Thầy Lương sau khi cứu được bà cụ và cháu bé thì coi như đã làm hết công việc
của mình. Thầy Lương cũng không thể đưa vong hồn người phụ nữ đó về với gia đình
cô ta. Việc này chỉ có thí chủ làm được, nhưng những việc mà vong nữ đó đã làm với
gia đình thí chủ cũng coi như vướng phải tội nghiệt, nếu như thí chủ có đốt cái tủ thì
cũng không thể trách thí chủ được. Nhưng thí chủ đã chọn cách khó khăn hơn, tuy
vậy lại là cách nhân nghĩa nhất. Ý của thầy Lương há chẳng phải quá rõ ràng rồi sao.
Việc thí chủ chọn cách đưa vong linh người phụ nữ đó quay về nhà cũng chính là
phúc phần của thí chủ. Công đức của thí chủ không chỉ được tính bằng số tiền mà
người nhà họ Đoàn phúc báo mà còn là đức hạnh cho đời sau. Tiếp theo đó thí chủ
lại dùng toàn bộ số tiền nhận được để giúp chùa xây sửa, tu bổ, giúp cho các con nhỏ
nương tựa cửa chùa có một cuộc sống bình an hơn…...Cái này là thầy Lương dùng
chính phúc của thí chủ để tạo phúc cho thí chủ và cho nhà chùa. Thầy Lương quả
thật suy nghĩ sâu xa, đầy lòng nhân hậu. A di đà phật..

Nghe sư trụ trì nói mà chủ quán trọ như vỡ ra được nhiều điều. Đúng là như vậy, nếu
khi ấy, ông chọn cách tiêu diệt hồn mà đó thì sao có được công đức về sau. Nếu chỉ
hám cái lợi trước mắt chẳng phải sẽ mất những thứ trân quý sau này hay sao.

Chắp tay cúi lạy sư trụ trì, chủ quán trọ khẽ nói :

— A di đà phật, cảm ơn sư thầy đã giúp con hiểu ra được mọi chuyện.

Sư trụ trì mỉm cười :

— Đều là do lòng nhân hậu của thí chủ mà thành, bần tăng mới là người phải cảm
ơn.

Chủ quán trọ trầm ngâm một lát rồi bất chợt hỏi :

— Nhưng sao thầy Lương lại phải lang thang, nay đây mai đó. Với khả năng cũng như
cái tâm của mình, thầy Lương hoàn toàn có thể có một cuộc sống sung túc.

Sư trụ trì nét mặt thoáng buồn, ông nói :

— Mỗi con người từ khi sinh ra đã có một số mệnh khác nhau. Thí chủ nói không sai,
thầy Lương là người đức độ, tuy nhiên bần tăng cảm nhận thấy sâu thẳm bên trong
trái tim của thầy Lương vẫn còn một màn đen tựa sương khói bao phủ. Trong mỗi
chúng ta, có người sinh ra đã mang thiên mệnh giàu sang, phú quý, nhưng cũng có
những người phải chịu cảnh bần hàn, bệnh tật, nhưng ai cũng phải cố gắng để tiếp
tục sống. Ngoài những người đó ra thì có người mang trong mình ác nghiệp, có thể
nghiệp đó từ kiếp trước, hoặc chính kiếp này do bản thân họ gây ra….Và nói theo
dân gian, họ là những người bị trời hành. Bần tăng không biết thầy Lương đã mắc tội
nghiệt gì đến mức sống qua tuổi 50 vẫn phải trả nghiệp. Nhưng bần tăng hi vọng,
công đức của thầy Lương suốt những năm tháng qua sẽ sơm giúp cho thầy sớm
thanh thản, trút bỏ được gánh nặng trong lòng….A di đà phật.

Lặng lẽ nhìn lên bầu trời xanh cao vời vợi, cả chủ quán trọ và sư trụ trì đều thầm cầu
mong cho thầy Lương thượng lộ bình an, sớm tạo được nhiều công đức giúp đời.

[.......]
“ Rào….Rào….Rào…”

Trời vẫn đổ mưa lớn, 2 tuần nay, ông Lương vẫn đang đi về phía Nam trong cuộc
hành trình của mình. Tình từ lúc rời khỏi nhà chủ chủ quán trọ, ông Lương ước
chừng mình chắc có lẽ đã đi được 50 dặm. Đi đến nơi này thì trời bắt đầu đổ mưa,
càng đi thì mưa lại càng lớn.

“ Ùng...Ùng...Oàng “

Sấm chớp gầm gừ rung chuyển trời đất, biết khó mà có thể đi tiếp trong tình trạng
thời tiết thế này, nhưng ngặt một nỗi, xung quanh đây chỉ toàn là ruộng lúa, là đồng
không, mông quạnh. Chẳng thấy có một ngôi nhà nào cả.

“ Lộp...độp...lộp..độp “

Mưa càng lúc càng nặng hạt, cố lê những bước chân nặng nhọc dính đầy bùn đất với
hi vọng tìm đươc một chỗ trú chân. Cuối cùng thì ông Lương cũng nhìn thấy dưới gốc
cây đa có một quán lá, đội mưa, đội gió, ông Lương vừa chạy vào trong thì một tiếng
sấm nổ kinh thiên động địa vang lên :

“ Oàng “

Cảm tưởng mặt đất dưới chân ông cũng vữa rung chuyển, tiếng sấm khủng khiếp
cộng thêm cơn mưa xối xả như dự báo điềm chẳng lành. Bất ngờ bên trong quán có
tiếng nói, vừa giật mình bởi tiếng sấm nên ông Lương chưa kịp mở lời chào hỏi chủ
quán nước, người vừa nói là một người phụ nữ ngoài 40 tuổi :

— Bác đứng lui vào trong này cho nó đỡ mưa…...Cả năm nay mới thấy một trận mưa
to đến như vậy. Thế này thì lại ngập úng hết cả thôi, thời tiết giữa thu rồi mà mưa
khiếp thế không biết.

#Chap9 : Điềm Báo Thiên Tai.


Trời đã ngớt mưa nhưng không khí thì vẫn âm u, ảm đạm. Theo lời của chủ quán lá,
ông Lương đi thẳng rồi gặp một cái giếng rộng, quanh giếng được lát gạch đỏ, thành
giếng phủ những mảng rêu xanh toát lên cái vẻ cổ kính, lâu năm khi mà cách đó một
khoảng ngắn là cây lộc vừng với bộ thân gồ ghề, cành lá um tùm. xanh mướt. Phía
bên phải giếng có một con đường đất, hai bên đường trồng rặt tre là tre chảy dài
một đoạn.

Ông Lương khẽ nói :

— Làng này cảnh vật thật yên bình, giếng nước trong vắt, cây lộc vừng tốt
tươi….Chướng khí không có, vậy sao nước mưa lại xuất hiện mùi tanh…? Thật khó
hiểu.

Đi theo lời bà hàng nước, ông Lương toan bước chân vào đoạn đường đất, trời mới
mưa xong nên đường làng vắng vẻ, không có ai qua lại. Đang không biết phải hỏi
đường ai thì ông Lương nghe thấy tiếng ho khù khụ ngay sau lưng mình. Khẽ quay
lại, ông Lương nhìn thấy đang múc nước ở giếng là một cụ già mặc đồ trắng. Mới vừa
đây còn chẳng thấy ai, nhưng quay đi ngoảnh lại đã xuất hiện một ông cụ. Rõ ràng là
chuyện lạ, nhưng ông Lương chưa kịp nói gì thì cụ già khẽ chỉ tay về phía trước đoạn
đường đất rồi nói :

— Cứ đi thẳng, thấy nhà nào trước cổng có cây me thì vào.

Bất giác ông Lương nhìn theo chỉ tay của cụ già, nhưng ngay sau đó ông Lương quay
lại nhìn về phía giếng thì chẳng còn thấy ai ở đó nữa. Có điều, cái gầu múc nước lúc
nãy vẫn nằm đổ dưới nền gạch đỏ thì nay đang nằm trên thành miệng giếng, trong
gầu sóng sánh nước vương cả ra bên ngoài.

Giữa đoạn đường vắng vẻ, ông Lương khẽ cúi đầu rồi nói :

— Cảm ơn đã chỉ đường.

Đi độ hơn 300m, qua một vài ngôi nhà, bất chợt ông Lương dừng lại trước một cánh
cổng tre, bên trong cổng chếch về bên phải là một cây me lớn. Đứng bên ngoài nhìn
vào thì ngôi nhà nằm sâu trong sân là nhà tranh, mái lá nhưng khá rộng, có vườn
tược cùng một cầu ao nhỏ đối diện trước nhà.

Ông Lương cất tiếng gọi :

— Có ai ở nhà không…?

Nhà có nuôi chó nên nghe thấy động, con chó với bộ lông màu vàng sậm từ trong sân
lao ra lối đi vào trước cổng sủa lên inh ỏi :

“ Gâu….Gâu….Gâu…”

Nghe tiếng chó sủa, trong nhà vọng ra một giọng nói đàn ông :

— Ai ở ngoài đấy đấy….?

Ông Lương đứng bên ngoài cổng chờ đợi, bước ra sân là một người đàn ông khoảng
chừng hơn 50 tuổi. Ông ta nhìn ra cổng, thấy bên ngoài có người bèn lớn tiếng quát
con chó :

— Vàng, thôi nào….Đi vào trong.

Nghe thấy tiếng chủ, con chó đang sủa hung dữ lập tức im bặt, khi người đàn ông
trong nhà bước ra gần đến cổng nó mới cụp đuôi quay đầu đi vào trong sân rồi nằm
phủ phục dưới mái lá hiên nhà.

Người đàn ông nhìn ông Lương thì thấy lạ lắm, chắc có lẽ ông ta nhận ra ông Lương
không phải người trong làng, ông ta hỏi :

— Chào bác, bác tìm ai ạ…?

Sở dĩ ông ấy xưng hô như vậy bởi vì vẻ bề ngoài của ông Lương khá già so với độ
tuổi. Ông Lương cúi đầu chào rồi đáp :

— Chào bác, mạn phép cho tôi hỏi bác có phải là trưởng làng không ạ…?

Mở cổng ra, người đàn ông trả lời :

— Đúng rồi, tôi là trưởng làng đây, nhìn bác không phải người làng này. Chẳng hay
bác tìm tôi có chuyện gì…?

Đứng gần, nhìn rõ, điều đầu tiên ông Lương nhận thấy ở vị trưởng làng này là khuôn
mặt chữ điền, tuy nước da đen sạm, điểm nhiều nốt đồi mồi nhưng ánh mắt rất sáng
toát lên một vẻ phúc hậu. Ông Lương kính cẩn nói tiếp :

— Chào trưởng làng, vừa nhìn đã nhận ra không phải người trong làng, chứng tỏ bác
trưởng làng đây phải quan tâm đến người dân trong làng lắm. Tôi chỉ là một người đi
qua làng mình, chẳng may trời đổ mưa to, muốn tìm một chỗ dừng chân để nghỉ
ngơi, hong khô quần áo mà không có. Được bà hàng nước gốc đa đầu làng chỉ đường
nên đến đây nhờ vả.

Nghe vậy thôi mà trưởng làng đã hồ hởi rồi mở toang hai cánh cổng tre, ông nói :

— Ra là vậy, thế mời bác vào trong nhà, ướt hết cả rồi. Nhanh, nhanh đi vào bên
trong.

Được trưởng làng nhiệt tình tiếp đón mặc dù chỉ là người lạ, ông Lương lại càng thấy
có gì đó không ổn. Cảnh vật, con người làng này đều rất tốt, tuy chưa tiếp xúc được
nhiều người ở đây, nhưng từ bà hàng nước cho đến ông trưởng làng, họ đều là
những con người chất phác, lương thiện. Chưa kể ban nãy nơi giếng làng còn có
điềm lạ chỉ dẫn. Từ khi đặt chân vào làng, mọi thứ đều rất yên bình, ông cụ chỉ
đường cho ông Lương khi nãy chắc chắn không phải người thường. Với giếng nước
cổ cùng cây lộc vừng tươi tốt ấy, cụ già mặc đồ trắng xuất hiện chỉ đường tựa hồ như
thần trong làng. Điều đó chứng tỏ đất này rất thiêng, có thần bảo hộ, nhưng sao
vương trong nước mưa, ông Lương lại ngửi thấy mùi tanh.

Thấy quần áo ông Lương ướt hết, trưởng làng chu đáo lấy quần áo của mình cho ông
Lương thay rồi nói :

— Bác thay bộ quần áo ướt ra rồi mặc cái này vào. Nhìn tạng người chúng ta cũng
dựa dựa nhau nên chắc là vừa.

Ông Lương nhận lấy bộ quần áo rồi mỉm cười :
— Cảm ơn trưởng làng, trưởng làng chu đáo quá.

Thay quần áo xong, bước ra ngoài, nơi bàn uống nước, trưởng làng đã pha trà đợi
sẵn. Mời ông Lương ngồi, trưởng làng rót nước ra chén rồi khẽ nói :

— Mời bác xơi nước, tôi vẫn chưa biết tên bác là gì…?

Ông Lương trả lời :

— Tôi tên Lương, chẳng giấu gì trưởng làng, tôi làm nghề bốc mộ, đang trên đường
đi công chuyện thì gặp trời mưa. Ven đường không có chỗ trú chân nên ướt hết cả,
gặp bà hàng nước ở gốc đa hỏi thăm xem nơi này có nhà trọ nào không để tá túc ít
ngày trước khi lên đường thì mới biết làng mình không có. Nghe bà ấy chỉ đường nên
mạo muội đến đây xin nhờ vả. Làm phiền trưởng làng thế này…..thật bất tiện quá.

Trưởng làng xua tay :

— ̀y, bác đừng nói thế…..Có bất tiện gì đâu, tôi sống ở đây có một mình. Thường
thường làng có hội gì, mấy ông cán bộ xã về đây cũng đều nghỉ lại ở nhà tôi cả. Thế
cho nên bà Miên hàng nước mới chỉ bác đến đây đó. Bác đi vào đây thì chắc cũng
thấy rồi, làng này dân còn nghèo lắm, toàn nhà tranh, vách đất thì lấy đâu ra nhà trọ.
Nếu bác không chê, cứ ở lại đây khi nào tiện thì đi.

Ông Lương hỏi :

— Người nhà mình đi đâu hết rồi ạ…?

Trưởng làng đáp :

#Chap10 : Máu Đen.


Đêm hôm đó, ông Vọng đang ngủ cũng phải giật mình choàng tỉnh vì tiếng sấm động
rung cả nền nhà. Kèm theo đó là một trận mưa như trút nước, tuy mưa lớn nhưng
trời không có giông, gió cũng chẳng lớn, chỉ có mưa là xối xả. Lúc ông Vọng tỉnh dậy
thì đã thấy ông Lương đứng trước cửa nhà nhìn ra ngoài bờ ao.

Ông Vọng vội nói :

— Mưa to quá khiến bác không ngủ được à..?

Ông Lương quay lại trả lời :

— Thực ra thì tôi chưa ngủ, trưởng làng nhìn kìa.

Vừa nói, ông Lương vừa chỉ tay ra phía cầu ao trước sân nhà. Chớp giật liên hồi, dưới
ánh chớp, ông Vọng phải dụi mắt hai lần mới dám tin đây là sự thật, mưa chưa được
bao lâu, nhưng phía ao nhà ông, mực nước đã dâng lên ngập cả sân. Sống mấy chục
năm ở đây từ khi cha sinh mẹ đẻ, chưa bao giờ ông Vọng thấy nước ao lại dâng cao
đến ngập cả sân như vậy cả. Ông Vọng nhìn ông Lương mà rùng mình, nổi da gà, lùi
lại một bước, ông Vọng bàng hoàng :

— Lụt…..lụt rồi…..Ở đây còn lụt thì ngoài ruộng, hoa màu….hoa màu của bà con chết
úng hết mất. Lẽ ra, lẽ ra tôi phải nghe theo lời bác.

Ông Lương thở dài, khẽ lắc đầu ông đáp :

— Muộn mất rồi, giờ có ra đó mở đường thoát nước xuống kênh, xuống mương
cũng chẳng kịp. Ý trời đã vậy, không thể thay đổi.

Quay lưng đi vào trong nhà, ông Lương đưa tay lên bấm độn, nhưng ông chợt cau
mày, một tiếng sấm lớn vang lên giữa màn đêm mưa gió. Ông Lương suy nghĩ :

“ Sao quẻ không ứng, chẳng lẽ trận mưa này mới chỉ là khởi đầu của tai ương. Làng
này sắp gặp họa lớn rồi. “

[........]

4 ngày sau, trời vẫn mưa rả rích, tuy lượng mưa không lớn như mấy ngày trước đó,
nhưng sau 2 ngày mưa như thác đổ, hoa màu, ruộng lúa không có gì che chắn, ruộng
nào cũng ngập úng, xác xơ hết cả. Chỉ còn hơn 2 tháng nữa sẽ đến mùa thu hoạch,
nhìn công lao bấy lâu chăm bẵm giờ úng sạch, úa sạch, dân làng Văn Thái cả đời chỉ
trông mong vào nghề nông đau đến thắt từng đoạn ruột. Đến buổi chiều thì trời
ngừng mưa, nhưng bầu không khí u ám của đất trời cũng không thê lương bằng cảnh
dân làng thất thểu trên từng cánh đồng, rừng ruộng lúa chỉ mong sao hi vọng còn
cứu vớt được chút gì sót lại.

Đã 5 ngày trôi qua, nhưng ông Lương vẫn không thể luận được bất cứ một quẻ nào
về sự việc đã xảy ra với ngôi làng. Trong cuộc đời hành nghề của mình, đây là lần đầu
tiên ông Lương gặp phải hoàn cảnh như vậy. Do không luận được quẻ nên mặc dù có
nhiều hoài nghi trong lòng nhưng ông Lương cũng không thể giải thích cũng như giúp
dân làng ra sao. Xưa nay chuyện thiên tai vốn là chuyện của trời, muốn xê dịch là
điều không thể, âu đó cũng là số trời đã định.

Tối hôm đó, sau khi dùng cơm xong, ông Lương gấp một vài bộ quần áo vào trong
tay nải. Nhân tiện, ông Lương lấy một ít tiền đưa cho trưởng làng, ông Lương nói :

— Cảm ơn trưởng làng đã cho tôi ở lại mấy ngày qua. Chỗ này không nhiều, nhưng
đây là tấm lòng cảm kích của tôi những ngày qua được ăn uống, ngủ nghỉ tại đây.
Mong trưởng làng nhận cho, sáng mai tôi lên đường sớm.

Ông Vọng nhất mực từ chối số tiền mà ông Lương đưa, ông Vọng nói :

— Bác cất tiền đi, nhà rộng để không cũng chẳng ai ở, cơm nước thì chỉ là thêm bát
thêm đũa, hà có tốn bao nhiêu mà bác đưa tiền. Như thế há chẳng phải bác coi lòng
hiếu khách của người làng tôi chỉ đong đếm bằng tiền bạc hay sao. Mấy ngày qua tôi
không ngủ được, đêm nào cũng trằn trọc suy nghĩ về lời bác nói, phải chi tôi nghe
theo bác, thông báo với bà con thì thiệt hại đâu nặng nề, đâu mất trắng đến như vậy.
Tôi thật hổ thẹn với dân làng, là do tôi cả.

Vừa nói ông Vọng vừa rưng rưng nước mắt, đúng là 3 ngày nay ông Vọng đêm không
ngủ, lúc nào cũng đứng ngoài hiên nhà mong cho trời đừng mưa nữa. Mới có mấy
ngày mà tóc ông Vọng đã bạc đi trông thấy do suy nghĩ quá nhiều.

Ông Lương nói :

— Chuyện thiên tai là do trời định, có những lúc biết để mà tránh cũng không tránh
được. Trưởng làng đừng trách bản thân, mỗi chúng ta so với trời đất thì chỉ như hạt
bụi không hơn không kém, làm sao có thể nghịch chuyển được càn khôn. Tôi rất tiếc
vì không giúp gì được cho dân làng.

Ông Vọng buồn bã pha ấm trà rồi đáp :

— Vâng, lời bác dạy chí phải…..Uống chén trà thơm rồi bác nghỉ sớm, mai còn lên
đường.

Trà hãm chưa được bao lâu thì từ bên ngoài cổng có một người phụ nữ chạy như ma
đuổi vào bên trong sân nhà, nhìn thấy ông Vọng đang ngồi trên ghế, chị ta quáng
quàng đến mức ngã dúi xuống hiên, ông Vọng vội chạy ra đỡ thì chị ta khóc lóc kêu
gào :

— Bác Vọng ơi, bác Vọng ơi…...Chết, chết nhà em rồi…..Bác Vọng ơi.

Vừa nói chị ta vừa vò đầu bứt tai, ông Vọng hỏi :

— Chết cái gì…? Sao lại khóc lóc thảm thiết thế…?

Chị nay vừa nấc vừa nói :

— Đàn gà, đàn gà….. nhà em bị đứa nào nó….nó…. đánh thuốc chết hết cả đàn rồi
bác….Vọng ơi. Em chết mất thôi, mùa màng thì hư hoại hết, đến đàn gà mấy chục
con mà cũng chết sạch thế này thì bác bảo….em chết đi chứ….sống sao nổi nữa….Hu
hu hu….Trời ơi là trời.

Ông Vọng nhăn mặt, từ trước đến nay trong làng bà con ai nấy cũng đều sống hòa
thuận, vui vẻ với nhau….Mười mấy năm làm trưởng làng ở làng Văn Thái, chưa bao
giờ có ai lấy trộm của nhau quả trứng chứ đừng nói là đánh thuốc chết cả đàn gà
mấy chục con.

Ông Vọng nói :

— Không thể nào, người làng mình từ xưa đến giờ làm gì có ai làm mấy chuyện đó.
Chị này chống tay đứng dậy, đầu tóc bết bát, nước mắt giàn dụa, chị ta mếu máo :

— Hu hu, bác không tin thì bác đến nhà em mà xem….Em nói điêu trời đánh em chết,
mấy hôm mưa to nên nhân tầm chiều tạnh ráo, em mới thả gà ra rồi rải thóc cho ăn.
Lúc chiều vẫn còn khỏe mạnh, nhưng đến chập tối xua gà vào chuồng thì ra vườn
thấy nằm chết cứng, chổng cả chân lên trời. Thử nói không phải đánh thuốc thì sao
gà nhà em chết hết như vậy.

Ông Vọng chạy ngay vào nhà lấy đèn pin, đi qua ông Lương, ông Vọng nói :

— Xin lỗi bác, tôi có chút chuyện phải đi bây giờ….Bác cứ ở nhà nghỉ ngơi đi nhé.

Ông Lương nói :

— Tôi cũng đã nghe qua rồi, không biết tôi có thể đi cùng trưởng làng đến đó được
không..?

Ông Vọng gật đầu :

— Thế cũng được, nếu bác muốn đi thì đi theo tôi.

Ông Lương đeo tay nải rồi bước ra bên ngoài, cả hai đi theo người phụ nữ kia về nhà
của chị ta. Trên đường, tiếng chó sủa inh ỏi, đi một lúc thì cũng đến nơi. Dẫn ông
Vọng ra ngay khu vườn sau nhà, người phụ nữ nấc lên những tiếng nghẹn ngào :

— Hức...ức…..đây, bác...bác nhìn mà xem…..Chết, chết hết cả rồi….Hức...hức...ức.

Dưới ánh đèn pin, nằm la liệt trên khoảng vườn là xác của hơn 20 con gà chết cứng
ngắc, ngửa bụng, chân giơ lên trời. Chứng kiến tận mắt ông Vọng mới dám tin đây là
sự thật. Ông Vọng hỏi :

— Nhưng sao chị lại nghi là có người đánh thuốc, thóc là thóc nhà chị, chính tay chị
cho ăn cơ mà….?

Chị này vừa khóc vừa đáp :

— Đúng là như vậy, nhưng thả gà cho ăn xong, em có chạy ra ngoài ruộng để nhặt lại
ít rau cải đem về ăn. Về đến nhà thì gà chết hết cả, bác nghĩ mà xem, nếu mà dịch thì
nó đâu có chết một loạt mà nhanh như vậy, lúc em thả khỏi chuồng chúng nó còn
khỏe lắm.

Khi mà ông Vọng và người phụ nữ kia còn đang kẻ phân bua, người gặng hỏi thì ông
Lương lên tiếng :

— Chị ta không nói dối đâu, đàn gà này chết là do trúng độc.
Ông Vọng cũng không biết ông Lương đã lấy đèn pin của mình khi nào, đang ngồi
xem dưới đất, ông Lương kiểm tra một con gà rồi tiếp tục :

— Trưởng làng lại đây mà xem, chân gà cứng đơ, phần cựa chuyển màu tím đen, cả
mào gà cũng như vậy. Toàn bộ những con gà chết ở đây đều bị một triệu chứng
giống như nhau. Chị ta nói đúng, nếu là dịch thì ít nhất cũng phải vài ngày mới phát
tác, hơn nữa không thể chết đồng loạt.

Ông Vọng vẫn cố chấp :

— Nhưng tôi tin trong làng này không ai làm chuyện thất đức như vậy cả….Làm sao
có thể trúng độc được.

Lúc này ông Lương mới lấy trong tay nải ra một cây châm dài nửa gang tay màu trắng
ngà, đưa đèn pin cho ông Vọng, ông Lương nói :

— Nếu trưởng làng vẫn chưa tin thì hãy nhìn đây, tôi sẽ dùng cây châm bằng ngà voi
này chích vào thân con gà.

Ông Vọng cùng người phụ nữ kia hồi hộp chờ đợi, khẽ chích châm ngà voi vào thân
con gà, ông Lương rút ra sau đó để đầu mũi châm vào ánh sáng đèn pin, máu gà dính
ở phần đầu cây châm khoảng chừng 2cm, ông Lương khẽ nói :

— Là máu đen.

#Chap11 : Nắm Thóc “ Độc “ ?


Ông Vọng há hốc mồm, chị chủ nhà thì ôm mặt nói :

-- Em đã nói với bác rồi mà, gà nhà em có kẻ dùng thuốc độc đánh chết cả đàn.

Đưa tay định chạm vào chỗ máu dính vào đầu cây châm ngà voi để một lần nữa
khẳng định xem đó có thực sự là máu đen hay không, nhưng ông Lương ngăn lại, ông
Lương nói :

-- Đừng chạm vào, còn chưa biết độc này từ đâu và là loại độc gì. Nếu trưởng làng
chạm vào nó chỉ e cả con người cũng sẽ trúng độc. Việc cần làm bây giờ là đem toàn
bộ những con gà đã chết này dốt đi tránh loại độc này truyền nhiễm ra bên ngoài.

Chị chủ nhà nghe ông Lương nói xong thì ngồi phịch xuống đất, chị ta khóc lóc kêu
gào :

-- Ông trời ơi là ông trời, hoa màu thì ngập úng, nhà chỉ còn đàn gà cũng chết sạch
không còn một con…..Tại sao ông không giết tôi luôn đi, để tôi sống làm gì nữa.

Thương cảm trước hoàn cảnh của chị ta, của đau con xót, dân làng Văn Thái cũng
không phải thuộc dạng khá giả gì. Chuyện đồng áng, chăn nuôi, chân lấm tay bùn
cũng chỉ giúp cho mọi người đủ ăn. Nhìn đàn gà nằm chết cứng dưới sân vườn,
không ai không đau lòng. Ông Vọng nói với chị ta :

-- Trước mắt cứ làm theo lời của bác Lương đây đã, chỉ giữ lại 1 con, ngày mai trời
sáng tôi sẽ ra đình làng thông báo sự việc. Nếu thật sự là người trong làng làm
chuyện này, bằng mọi giá tôi sẽ truy ra đến cùng. Không thể bỏ qua được, chuyện đã
thế rồi, chị đừng quá đau buồn, khi đưa việc này ra, tôi cũng sẽ vận động bà con
trong làng, mỗi người giúp đỡ một ít. Chắc cũng không được nhiều, nhưng trong lúc
này một miếng khi đói bằng một gói khi no. Giờ tôi sẽ giúp chị chào một cái hố rồi
thiêu số gà này.

Nghe ông Vọng nói như vậy, chị chủ nhà vừa khóc vừa cảm ơn trưởng làng, nén đau
thương lại, ông Lương cũng xắn tay áo phụ giúp việc đào hố. Số gà chết được chất
củi rồi thiêu cháy chỉ giữ lại duy nhất 1 con để ngày mai ông Vọng họp làng tại đình
để trình bày sự việc.

Xong việc thì cũng phải đến 9h tối, trên con đường đất vắng vẻ đi về nhà, ông Vọng
nói với ông Lương :

-- Tuy bác nói là đàn gà đó chết do bị trúng độc, nhưng đến tận bây giờ tôi vẫn không
dám tin trong làng lại có người ra tay ác đức như vậy.

Ông Lương im lặng một lát rồi khẽ trả lời :

-- Bác trưởng làng lại hiểu sai ý tôi rồi, tôi chỉ nói là đàn gà đó trúng độc mà chết chứ
chưa hề nhắc hay khẳng định việc này là do ai làm.

Trưởng làng ngạc nhiên hỏi lại :

-- Như vậy là sao…? Nếu như là bị hạ độc thì há chẳng phải do con người làm hay
sao..?

Ông Lương thở dài :

-- Trước mắt chúng ta cứ đi về nhà cái đã, tiện đây trưởng làng có thể cho tôi ở lại
thêm ít ngày nữa được không…?

Ông Vọng đáp :

-- Tất nhiên là được rồi, nhưng tại sao đột nhiên bác lại thay đổi ý định như vậy..?

Ông Lương trả lời :

-- Thú thật với trưởng làng, nếu sự thật đàn gà nhà chị kia là do có kẻ gian đánh
thuốc độc thì thực sự mà nói vấn đề còn có thể khắc phục được, bởi dẫu sao kẻ ác
đó cũng chỉ là con người. Nhưng tôi sợ, đàn gà chết đó không phải do bàn tay con
người làm thì đó mới là điều kinh khủng nhất. Tôi nói câu này mong trưởng làng
đừng giận, chỉ e làng ta sắp gặp họa lớn rồi.

Trở về nhà trưởng làng, trời đã chuyển dần về nửa đêm, chỉ có mấy ngày thôi ma
cảm giác như làng Văn Thái đã thay đổi hoàn toàn. Sau cơn mưa kéo dài, một bầu
không khí âm u, ảm đạm bao trùm lấy toàn bộ dân làng. Khi còn chưa bình tĩnh lại
được tinh thần trước vụ mùa bị tàn phá thì tin dữ về đàn gà hơn hai chục con của
một hộ gia đình bị trúng độc chết cả thảy khiến cho ông Vọng vốn đã suy nghĩ nay lại
còn suy nghĩ nhiều hơn.

Màn đêm cứ thế trôi đi, quá nửa đêm, ông Lương giật mình bởi ông vừa chợt nghe
thấy tiếng chó tru vọng về từ nơi nào đó trong làng. Ban đêm yên tĩnh, do vậy tiếng
chó tru rõ mồn một. Ngay sau tiếng chó tru là con Vàng, con chó của ông Vọng đang
nằm trong hiên nhà dưới cột trụ, bỗng nó nhảy phốc ra giữa sân gạch rồi cứ thế cào
cào những chiếc móng vuốt của hai chân trước xuống nền sân, miệng gầm gừ :

“ Ngừ…..Ngừ….Ngừ….”

Nó hạ thấp người xuống, hai chân trước quỵ như sắp sửa lao bổ về phía trước tấn
công một thứ gì đó vậy, mặc dù lúc này trời đã chuyển về quá nửa đêm, bên ngoài
không có lấy một bóng người qua lại.

“ Gừ…..Ngừ….Ngừ….”

Con Vàng vẫn gầm gừ bên ngoài sân, ông Lương đã tỉnh dậy từ bao giờ, nhưng ông
chỉ đứng bên trong nhà nhìn ra bên ngoài qua khe cửa gỗ. Bầu trời đêm hôm nay khá
sáng, bởi sau cơn mưa dài, trời cao, trăng sao hiện rõ. Dưới ánh trăng mờ ảo, ông
Lương thấy con Vàng đang xù lông, nó cào xước hết cả nền sân gạch, nhìn nó hung
dữ như thế nhưng nó lại không sủa. Trong con người hay động vật, luôn tồn tại thứ
gọi là bản năng sinh tồn, khi cảm nhận được nguy hiểm, chúng ta sẽ thủ thế để chờ
cơ hội rút lui, kẻ yếu nhìn thấy kẻ mạnh sẽ không dại dột mà tấn công.

Ngày đầu khi đến nhà trưởng làng, con Vàng nhìn thấy ông Lương đã lao từ trong
nhà ra sủa inh ỏi. Nhưng đêm nay, nó xù lông, tứ chi trong tư thế phòng thủ, không
dám sủa mà chỉ dám gầm gừ…..Đó là bởi vì bên ngoài kia đang xuất hiện một thứ gì
đó khiến cho nó sợ hãi. Chó là loài vật theo quan niệm dân gian là có thể nhìn thấy
những thứ mà con người không nhìn thấy được.

Giữa đêm hôm thế này, con người không phải là thứ khiến cho chó phải sợ, vậy thì là
thứ gì ngoài ma quỷ được nữa…...Tiếng chó tru vang vọng ban nãy ông Lương nghe
được không bình thường, chó chỉ tru lên vào ban đêm khi chúng nhìn thấy hồn ma
xuất hiện xung quanh mình, khi đó tiếng sủa của chúng sẽ biến thành tiếng tru vang
xa, ngắt nhịp lên xuống.

Một lát sau, con Vàng trở lại trạng thái bình thường, nhưng nhưng bước chân của nó
khi đi vào trong hiên nhà rất rệu rã, mệt mỏi, vừa đến cột trụ, con Vàng nằm bẹp
xuống bất động, cứ như thể nó vừa phải chiến đấu với thứ đáng sợ kia bằng tất cả
sức lực vậy. Ông Lương cũng quay lại giường, nhưng ông không ngủ nữa, cứ mỗi
ngày trôi qua, nơi này dường như lại có sự thay đổi bất thường nào đó. Điều lạ đó là,
bình thường ông Vọng rất thính khi ngủ, chỉ một tiếng động nhỏ thôi cũng khiến cho
ông Vọng thức giấc trở mình, vậy mà từ lúc con Vàng gầm gừ, cào xước cả mặt sân
mà ông Vọng vẫn không biết gì.

[.....]

Sáng ngày hôm sau, ông Vọng thức dậy thì đã thấy ông Lương đang ngồi ngoài sân
vuốt ve con Vàng. Ông Vọng nói :

-- Ủa, con chó làm sao vậy bác…?

Ông Lương mỉm cười :

-- À, nó không sao đâu, chắc cu cậu thích được vuốt lông nên nằm im thôi. Lát lại
chạy tung tăng ngay ấy mà.

Đúng như lời ông Lương nói, khi ông Lương thả tay ra, con Vàng nhổm dậy, nó quẫy
đuôi rồi dụi dụi đầu vào lòng bàn tay ông Lương, nó liếm liếm tay ông Lương một
cách thân thiện.

Đứng dậy, ông Lương hỏi trưởng làng :

-- Nhà ta cũng có nuôi gà phải không nhỉ..?

Ông Vọng gật đầu :

-- Có có, tôi có nuôi mấy con thả ngoài vườn, nuôi ít nên cứ thả ra vườn cho chúng
nó bới đất tìm sâu mà ăn, xong chuồng ở đó, đến giờ vào chuồng là tự kéo nhau vào.
Bác thèm ăn thịt gà phỏng, để xong việc ở đình làng, tôi làm gà đãi bác ăn.

Ông Lương khẽ cười rồi đáp :

-- Cảm ơn trưởng làng, nhưng ý tôi không phải như vậy…..Trưởng làng đi theo tôi ra
vườn một chút, tôi muốn cùng trưởng làng cùng làm thử điều này.

Ông Vọng dù không hiểu rốt cuộc thì ông Lương muốn làm điều gì, nhưng vẫn đi
cùng với ông Lương ra đến vườn. Ngoài vườn cây cối tươi tốt, dưới gốc cây là ba con
gà ông Vọng đang nuôi, con nào con đấy béo múp, chắc nịch. Ông Vọng cười :

-- Giờ mà thịt đãi khác là chuẩn nhất rồi đấy.

Khi ông Vọng đang nói thì ông Lương móc trong túi áo ra một bọc giấy, mở lớp giấy
bọc ngoài ra thì bên trong là một nắm thóc, ông Lương rải xuống đất cho gà mổ
trước sự ngỡ ngàng của ông Vọng, ông Vọng hỏi :

-- Bác lấy thóc này ở đâu ra vậy..?


Ông Lương trả lời :

-- Là thóc của nhà chị tối hôm qua bị chết cả đàn gà, trong lúc hai người thiêu hủy
xác lũ gà thì tôi đã lén bốc trộm một nắm thóc ngay chỗ chị ta rải cho gà ăn.

Ông Vọng giật mình, ông ta nói :

-- Giời ơi là giời, sao bác lại làm thế…? Mấy con gà trúng độc chết hết thì sao…?

Ông Lương khẽ đáp :

-- Trưởng làng đừng lo, nếu như gà mà chết, tôi sẽ đền trưởng làng gấp 3 số tiền bán
gà. Hơn nữa, chẳng phải đây là cách hiệu quả nhất để xác minh xem có phải có kẻ đã
tẩm độc vào thức ăn cho gà hay không sao….? Trưởng làng bình tĩnh đợi một chút
xem sao.

Nghe ông Lương nói cũng hợp lý, nếu mấy con gà nhà ông ăn thóc nhà chị kia mà lăn
quay ra chết thì chắc chắn có kẻ hạ độc. Nhưng sau khi gà mổ hết chỗ thóc đó phải
đến gần 1 tiếng sau, chẳng có con nào chết cả, ba con gà béo múp vẫn khỏe mạnh
bình thường.

Ông Vọng hỏi :

-- Vậy...vậy là sao…?

Ông Lương nói :

-- Độc giết chết lũ gà không phải từ thóc, chuyện này nguy hiểm rồi đây.

#Chap12 : Nén Nhang Trước Sân Đình.


Lúc này ông Vọng mới thực sự hoảng loạn, mọi chuyện càng lúc càng rối rắm, không
cách nào giải thích. Sực nhớ ra một chuyện, ông Vọng quay sang nói với ông Lương :

— Bác Lương, lần trước bác đã cảnh báo mà tôi không nghe. Hình như bác biết gì đó
về phong thuỷ, dự đoán được cả thời tiết. Nay trong làng xảy ra chuyện này, tôi cúi
đầu xin bác giúp tôi tìm hiểu về sự việc này được không ạ…? Tối qua chắc hẳn bác đã
có suy tính gì rồi thì phải..?

Ông Lương đáp :

— Trưởng làng không cần quá khách khí, thực ra tôi cố nán lại nơi này cũng chính là
muốn tìm hiểu rõ nguyên nhân sự việc. Chỉ có điều mọi nghi vấn của tôi đến giờ vẫn
còn nhiều khúc mắc. Không giấu gì trưởng làng, ngoài công việc bốc mộ, tôi cũng biết
một chút về kinh dịch, phong thuỷ. Ngay khi đặt chân vào trong làng, Lương tôi đã có
một linh cảm không lành. Tuy nhiên làng mình có vượng khí khá tốt, con người hiền
hậu, mến khách. Làng còn có thần bảo hộ, nhưng mà….

Ông Vọng hồi hộp hỏi :

— Nhưng sao ạ, bác có gì cứ nói.

Ông Lương đáp :

— Nhưng sau cơn mưa kéo dài ấy, làng ta đã có một sự thay đổi. Đúng hơn, trận
mưa đầu tiên rơi xuống, nước mưa đã phảng phất một mùi tanh rồi. Xưa nay, trong
nước mưa mà có mùi hôi tanh, thường đó là điềm dữ. Ngay sau đó làng liên tiếp xảy
ra chuyện. Chỉ e đất làng bị động, hoặc không may nơi linh thiêng của làng đã bị ô uế.
Cơ mà không hiểu tại sao, mấy ngày qua tôi thử bấm độn, luận quẻ, cố cách mấy
cũng không thể luận được ra đó là nơi nào. Thịnh tình của trưởng làng đối với tôi rất
tốt, tôi cũng muốn giúp dân làng nhưng xem ra phải tìm hiểu thêm một số chuyện.
Trưởng làng yên tâm, tôi sẽ cố gắng hết sức mình. Đây có lẽ cũng chính là một cơ
duyên trong cuộc hành trình của tôi. Trước mắt, trưởng làng cứ họp làng rồi thông
báo cho mọi người chuyện đã xảy ra ngày hôm qua. Cẩn tắc vô áy náy, để mọi người
đề phòng thì vẫn hơn.

Ông Vọng cúi đầu cảm ơn ông Lương rối rít. Đúng là việc cần làm bây giờ chính là
thông báo về đàn gà bị trúng độc chết tối ngày hôm qua. Hối hả cho người đi thông
báo với đại diện từng hộ gia đình trong làng, làng Văn Thái họp làng khẩn cấp.
Khoảng hơn 1 tiếng sau, người này gọi người kia, cuối cùng mọi người cũng đã tụ tập
ở trước sân đình thờ thần Thành Hoàng làng. Ngôi đình khá lớn nằm về phía tay trái
tính từ chỗ giếng làng quẹo sang. Ngược với đường đi vào nhà trưởng làng.

Thoáng thấy đã đông người, ông Vọng, với tư cách là trưởng làng đứng trước dân
làng phát biểu :

— Mọi người trật tự, gọi mọi người đến sân đình gấp như thế này là có hai việc quan
trọng. Việc đầu tiên đó là chúng ta phải hợp sức cùng nhau cải tạo lại đồng ruộng sau
đợt ngập úng vừa rồi. Thiên tai là ý trời khó tránh khỏi, nhưng bà con đừng vì thế mà
nản lòng. Vụ sau chắc chắn sẽ bội thu. Còn con giống, cây giống là chúng ta còn có
thể bắt đầu lại. Làng ta đã tồn tại cả 100 năm nay, ngày xưa các cụ cũng phải oằn
mình chống chọi với mưa bão, lụt lội. Chỉ cần bà con ta đoàn kết thì khó khăn nào
cũng có thể vượt qua.

Nghe ông trưởng làng nói, mọi người bên dưới đều đồng tình. Dù sao đó cũng là
cách tốt nhất lúc này, không thể cứ ngồi ủ rũ tiếc nuối những thứ đã bị tàn phá được.
Mọi người chờ đợi trưởng làng nói tiếp đến việc thứ hai.

Ông Vọng tiếp tục, nhưng trước khi nói, ông đặt cái chậu bên trong có đựng xác con
gà đã chết từ tối hôm qua lên trên bàn. Từ tối qua cho đến sáng nay mà con gà đã
rụng hết lông, thịt của nó đã thối bốc mùi rồi rữa ra từng mảng nhỏ. Một mùi xú uế
toả ra trong không khí khiến cho ai ngửi thấy cũng phải bịt mũi.
Ông Vọng chỉ tay vào cái chậu rồi nói :

— Đây chính là chuyện thứ 2 tôi muốn nói với mọi người. Tối ngày hôm qua, đàn gà
nhà cô Xoan không rõ tại sao nhưng đã lăn đùng ra chết cả đàn. Nguyên nhân ban
đầu được xác định, đàn gà chết là do bị trúng độc. Cả đàn hơn hai chục con chết
cứng, chổng chân lên trời, chích máu từ thân gà ra thì máu đó có màu đen kịt. Do sợ
để lâu sẽ sinh lây nhiễm nên ngay tối qua, tôi cùng với cô Xoan đã thiêu huỷ toàn bộ
số gà chết. Chỉ giữ lại 1 con để cho mọi người nhìn. Mọi người xem xem, mới qua 1
đêm, nhưng xác con gà đã thối rữa, rụng hết lông, da thịt chuyển màu đen sậm.

Dứt lời, ông Vọng kêu người bê cái chậu đựng xác con gà đặt giữa sân đình để bà con
tự nhìn. Mọi người bịt mũi tiến lại gần xem có đúng như vậy hay không. Và không ai
dám nhìn lại lần thứ hai. Dưới sân đình, những tiếng xì xào bàn tán bắt đầu vang lên :

“ Sao lại chết thối ra thế nhỉ..”

“ Có thật là bị trúng độc không..? “

“ Thật đấy, nhìn xác con gà chuyển màu đen kia thì không sai đâu. Mà nhìn mặt nhà
Xoan thất thần thế kia cơ mà..Cả đàn gà 20 con chứ ít gì.”

“ Tôi không tin trong làng lại có kẻ nào ác đức thế đâu.”

“ Khổ thân nhà Xoan, chồng thì mất sớm, hai mẹ con sống với nhau, đã vậy đứa con
gái còn bị mù. Nhà nó có bao giờ cãi vã hay gây thù với ai đâu cơ chứ..”

Ông Vọng gõ gõ tay xuống bàn rồi nói :

— Bà con cũng nhìn thấy rồi đấy, cả đàn gà chết cùng với một triệu chứng giống hệt
nhau. Không thể là do dịch được. Bản thân tôi cũng không tin trong làng có người
làm chuyện ác nhân này. Nhưng trước khi tìm ra nguyên nhân khiến cho đàn gà bị
chết. bà con nên cẩn thận chú ý, đề phòng vẫn hơn. Bà con ạ, hoàn cảnh của cô Xoan
đây chúng ta ai cũng biết, hai mẹ con cô ấy nương tựa vào nhau mà sống sau khi anh
Tỵ qua đời. Biết rằng dân làng ta làm lụng đồng áng quanh năm cũng chỉ đủ ăn, nhà
cũng vẫn toàn nhà tranh vách đất, ai khá giả mới có cái nhà ngói. Vụ mùa vừa rồi
mưa lụt làm úng ngập gần như mất trắng. Nhưng truyền thống của làng từ thời cha
ông để lại, luôn đặt ra tôn chỉ, đoàn kết, gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau. Bà con ta nghèo
tiền bạc, vật chất nhưng sống với nhau luôn giàu cái tình cảm xóm làng. Nay tôi thay
mặt cô Xoan, mở lời mong muốn bà con mỗi người giúp cho cô ấy một chút. Để mẹ
con cô ấy có cái sinh nhai sau những chuyện không may.

Ông Vọng vừa nói dứt câu thì bên dưới đã hô hào :

— Bác trưởng làng nói đúng lắm, chúng tôi cũng nghĩ như vậy. Thế nên, ai có gì giúp
nấy, người có tiền giúp tiền, người có gạo giúp gạo. Của ăn bao nhiêu cũng hết, mỗi
người góp một ít cũng đủ mẹ con cô ấy trang trải đến vụ mùa sau. Góp gió thành
bão, đây là lúc dân làng ta thể hiện tình làng nghĩa xóm thiêng liêng, phải không mọi
người.

Người khác đồng tình :

— Nhà Xoan đừng lo lắng nhiều nhé, của đi thay người. Lát về tôi bảo mụ vợ cầm
sang cho dăm cân gạo.

Ông Vọng cảm động rấn nước mắt trước tình cảm của người dân trong làng. Đó
chính là lý do vì sao khi ông Lương nói đàn gà bị trúng độc mà chết ông không tin.
Xưa nay người dân trong làng chưa bao giờ sống ác với nhau như vậy. Nhưng cái
chết của cả đàn gà vẫn còn là một ẩn số chưa có lời giải. Nếu không phải có người hạ
độc thì làm sao cả đàn gà lại chết hết cùng một lúc như vậy..?

Trong lúc mọi người đang an ủi nhà chị Xoan thì bất ngờ có người đàn ông đứng lên
trước đám đông rồi nói :

-- Thưa bác Vọng, thưa toàn thể bà con, tôi có điều này muốn nói.

Ông Vọng đáp :

-- Nhà anh Sửu có gì cứ trình bày cho bà con nghe.

Anh Sửu tiếp :

-- Việc giúp đỡ nhà cô Xoan thì chắc chắn bà con sẽ chung tay giúp đỡ rồi. Nhưng còn
việc cả đàn gà bị trúng độc chết chúng ta cũng phải tìm ra nguyên nhân. Cho dù nó
có không phải là do bị hạ độc thì việc chết cả đàn gà ít nhiều cũng khiến bà con lo
lắng nếu không biết rõ lý do là vì đâu.

Ông Vọng ngắt lời Sửu :

-- Nhà Sửu nói rất đúng, tôi cũng đang tìm hiểu chuyện này, trước mắt tôi sẽ báo cáo
xã về việc này để cán bộ xã cử người về xem xét, điều tra. Hi vọng chúng ta sẽ có câu
trả lời sớm nhất.

Sửu đưa tay ra rồi nói tiếp :

-- Trưởng làng nói chí phải, nhưng ý của tôi là….Mặc dù lâu nay làng ta chưa xảy ra
việc này bao giờ, nhưng con người ai cũng có mặt tốt, mặt xấu….Thế nên, trước khi
chờ sự việc sáng tỏ, chi bằng ngay bây giờ, tại sân đình thờ Thành Hoàng làng, bà con
mỗi người đứng trước lư hương của đình, thắp một nén nhang rồi khấn không phải
mình làm chuyện ác đức kia, có thần linh chứng giám, kẻ nào làm ác sẽ bị trừng phạt.

Ông Vọng ấp úng :

-- Chuyện này….chuyện này có cần phải như vậy không….? Tôi tin bà con mình không
ai….
Sửu lắc đầu :

-- Cũng chỉ là thắp một nén hương thôi mà, nếu ai không có tâm ác thì sao phải sợ
chứ, phải không bà con. Đình làng mình xưa nay rất thiêng, kẻ nào làm ác đứng
trước sân đình coi chừng bị Thành Hoàng vật cho méo miệng đấy nhé. Chắc mọi
người còn nhớ ngày trước thằng con nhà Thìn uống rượu say, đi bậy ngay cổng đình
bị vật cho ốm suốt 2 tháng, không có bà Điều thầy cúng làm lễ đi xin Thành Hoàng 3
ngày thần mới tha cho là gì.

Thấy Sửu nói cũng có lý, dù sao cũng chỉ là thắp một nén hương trước sân đình, tâm
trong sạch, không làm chuyện thất đức thì có gì đâu phải sợ. Vậy nên mọi người đều
đồng ý. Ông Vọng là trưởng làng lên ông là người dầu tiên thắp nhang cầu khấn
trước. Tiếp theo đó là nhà Sửu, người đã đề xuất việc này…..Lần lượt, lần lượt từng
người đứng trước lư hương lớn của đình chắp tay kính cẩn.

Cũng gần hết những người có mặt ở Đình thì đột nhiên ông Vọng nghe thấy có tiếng
ồn ào phía dưới :

-- Ơ này, nhà Mão định đi đâu đấy….Thắp hương xong rồi hãy về chứ.

Mọi người nghe vậy thì quay lại, đúng thật là có người đang định bỏ về, mà người
này còn đứng cuối hàng, đó chính là tay Mão bán rượu. Thấy mọi người nhìn mình
Mão cười gượng :

-- À hi hi, tôi định đi ra ngoài vệ sinh một chút, mắc quá….Ngồi từ sớm đến giờ rồi.

Cuối cùng cũng đến lượt Mão khi tất cả mọi người đều đã thắp hương lạy thần
Thành Hoàng xong. Mão lúng túng không chịu lên, Sửu nói :

-- Kìa chú Mão, còn mỗi mình chú thôi đấy….Nhanh rồi cho mọi người còn về.

Mão nói run run :

-- Hay….hay là không...cần đâu…..Mọi người cứ về...đi nhỉ…?

Càng lươn khươn thì Mão lại càng khiến mọi người cảm thấy có gì đó không bình
thường. Tất nhiên là Mão phải lên thắp hương, bước chân chậm chạp, càng tiến đến
gần lư hương thì Mão lại càng run lên bần bật. Khói nhang bốc lên nghi ngút từ
những nén nhang được mọi người thắp trước đó, phía bên trong đình, bức tượng
thần Thành Hoàng cứ như đang nhìn thẳng vào mặt Mão.

Hai bàn tay run như cầy sấy, Mão nhìn mọi người xung quanh, ai cũng đang chờ Mão
cắm nhang vào lư, thì đột nhiên Mão thả nén nhang ở tay ra rồi quay lưng bỏ chạy,
miệng gào thét :

-- Không…..không….Tha...tha….cho tôi
#Chap13 : Vết Nứt Trên Mai Rùa.

Mão vừa quay lưng bỏ chạy thì ngay lập tức Sửu cùng một người nữa lao bổ vào tóm
lấy Mão. Mão bị lôi quay lại sân đình, Sửu nói :

-- Mão, là mày làm phải không…? Ngay từ lúc bác Vọng đem con gà đặt giữa sân cho
mọi người xem, tao đã chú ý đến mày rồi….Mày là thằng không xem xét gì hết, cứ
như thể mày biết trước điều gì vậy. Nhà mày với nhà cô Xoan đây lại chỉ cách nhau
mỗi ruộng rau muống. Mắt của mày đảo như rang lạc, mặt thì gian…..Nói, có phải
chính mày đã hạ độc đàn gà nhà cô Xoan không…?

Những lời mà Sửu phân tích khá đúng với hoàn cảnh, lúc này mọi người mới nhận ra,
ngay khi xuất hiện ở đình, Mão đã có những biểu hiện kỳ lạ, nhưng do ai cũng nghĩ
làng vừa xảy ra chuyện nên mọi người cùng buồn, nhưng đến khi tất cả thắp nhang
lạy Thành Hoàng thì chỉ duy nhất một mình Mão không dám làm.

Ông Vọng sợ bà con quá khích sẽ đánh Mão nên đứng ra hỏi :

-- Kìa nhà Mão, trả lời câu hỏi của chú Sửu đi chứ…? Có đúng là cho nhà Mão làm
không..?

Mão chắp tay rồi quỳ mọp xuống van lạy :

-- Bác Vọng ơi, oan cho em quá, em không làm chuyện đó…..Em xin thề là em không
làm.

Sửu cục cằn :

-- Mày còn dám cãi, nếu như mày không làm thì tại sao đứng trước sân đình mày lại
không dám thề là không làm ác với nhà cô Xoan….Mày còn dám chối, cái mặt mày
gian nhất làng này, hay để tao phải đánh thì mày mới khai.

Sợ quá, Mão túm lấy chân ông Vọng rồi khóc lóc :

-- Bác Vọng cứu em với…..Em không làm mà, em không giết gà nhà cô Xoan….

Ông Vọng ngăn Sửu rồi khuyên nhủ Mão :

-- Nếu nhà anh không làm thì có gì mà phải sợ, anh mà không nói thật thì tôi cũng
không cứu được anh đâu. Nếu có làm thì nhận đi, rồi tôi bảo mọi người tha cho.

Đến nước này thì Mão đành phải nói, nước mắt ngắn dài, mặt mũi tái nhợt vì sợ,
Mão phân trần :

-- Không phải tôi làm mà…..Bởi vì, khi tôi sang nhà cô Xoan đàn gà đã chết từ trước
rồi…..Tôi thề là tôi nói thật, nói sai nửa lời Thành Hoàng vật tôi chết.
Sửu vẫn chưa vừa lòng với câu trả lời của Mão, Sửu quát :

-- Nếu chỉ có thế tại sao mày không dám thắp hương trước Thành Hoàng…….Mà mày
sang nhà cô Xoan tầm đó để làm gì..?

Chị Xoan lúc này mới nói :

-- Bác Mão, lúc em đi ra đồng tầm chập tối, trên đường em có gặp bác, em còn chào
bác….Có phải trên đường về bác đã ghé nhà em phải không..?

Mão gật đầu lia lịa :

-- Đúng rồi, là lúc đó…..Tôi định sang nhà mượn….mượn cô cái thùng…..Nhưng lúc
sang ra đoạn vườn thì đã thấy gà chết nằm la liệt, sợ quá nên tôi chạy về luôn.

Sửu vẫn cương quyết :

-- Mày nói láo, mượn gì thì mày cũng phải nói qua người ta, được đồng ý thì mới
được phép vào nhà chứ…..Thề miệng tao không tin, giờ mày thắp nhang đứng trước
sân đình thề rồi cắm nhang vào lư lạy ba lạy tao mới tin.

Mọi chuyện đang căng thẳng thì từ bên ngoài, một người phụ nữ chạy thúc mạng
vào bên trong, miệng gọi lớn :

-- Chết rồi, chết rồi…...Anh Mão ơi, về nhà ngay…..Chết….chết mất rồi.

Người đang chạy vào trong đình chính là vợ của Mão, vợ Mão chạy trối chết, mặt
mũi tá hỏa, mồ hôi mồ kê đầm đìa, hình như chị ta vừa chạy một mạch từ nhà đến
đình làng.

Thở hồng hộc, vợ Mão không hiểu tại sao chồng mình lại đang bị bắt quỳ giữa sân
đình, nhưng chị ta hốt hoảng nói :

-- Mình ơi….mình ơi…..Về nhà mau…Hai con bò….của nhà mình….lăn đùng ra chết
rồi.

Thông tin của vợ Mão khiến cho những người có mặt ở làng phải giật mình, khi mà
họ còn đang truy cứu chuyện đàn gà nhà cô Xoan trúng độc chết còn chưa xong thì
đã nhận thêm một tin dữ.

Ông Vọng chạy lại chỗ vơ Mão gặng hỏi :

-- Vợ Mão nói thật chứ…? Bò sao lại chết…? Mà chết bao giờ…?

Vợ Mão sụt sùi :

-- May quá, có bác trưởng làng ở đây….Em thề em nói điêu sét đánh em chết, hai còn
bò nhà em sáng vẫn còn khỏe mạnh, dột nhiên ban nãy lăn đùng ra chết cứng, ngửa
cả bụng. Mà em ở nhà từ sáng đến giờ, có thấy chúng nó đau ốm gì đâu. Đang dở tay
nấu mẻ rượu thì nghe cái rầm một cái…..Chạy ra chuồng bò, hai con bò chết đổ kềnh
ra đất….Hu hu hu, bác xem xét giúp em với.

Ông Vọng suy nghĩ :

“ Chết cứng ngửa cả bụng, cái chết của hai con bò sao lại giống với cái chết của đàn
gà nhà Xoan như vậy…? Hơn nữa vợ Mão có nói cô ta ở nhà cả buổi sáng, ai ra vào
thì phải biết ngay chứ…? Tại sao hai con bò lại chết..? “

Ông Vọng kêu Sửu thả Mão ra, ông Vọng nói :

-- Nhà Sửu thả nhà Mão ra, giờ mọi người giải tán ai về nhà nấy. Tôi sẽ đến nhà Mão
xem sự tình thế nào. Việc hôm nay ở đình sẽ truy cứu sau, mà mọi người nhớ, về đến
nhà thì phải lấy vôi rải xung quanh chuồng gia súc, gia cầm…..Nếu đúng là hai con bò
nhà Mão bị chết giống với đàn gà nhà cô Xoan thì bà con cần phải cẩn trọng đề
phòng. Nhà Mão, dẫn tôi về xem sao.

Sửu thả Mão ra, nghe tin bò bị chết, dân làng ai cũng nơm nớp lo lắng, chưa biết
nguyên nhân do đâu nhưng họ sợ nhà tiếp theo chính là nhà mình. Bởi làng quê nên
gia đình nào cũng có con trâu, con bò, con gà, con lợn để chăn nuôi, phụ việc nông
trồng. Riêng Sửu thì nói với ông Vọng :

-- Bác Vọng, bác cho tôi đi cùng được chứ…? Tôi là tôi vẫn nghi ngờ nhà Mão kia có gì
khuất tất, bác cứ để tôi đi cùng, tôi hứa sẽ không gây phiền toái gì đâu.

Ông Vọng gật đầu :

-- Ừ, như thế cũng được…Đến nhà Mão phải đi qua nhà tôi, tới đó tôi ghé qua nhà
nhờ người này đi cùng xem sao…?

Sửu thắc mắc :

-- Ủa, nhà bác Vọng còn có ai nữa hả…?

Ông Vọng đáp :

-- Ừ, mấy ngày trước khi trời mưa, có một người đàn ông đi ngang qua làng, gặp
mưa ướt hết nên được bà hàng nước gốc đa chỉ đến nhà tôi xin giúp đỡ. Ông ấy ở
đây cũng 6 hôm rồi, mấy hôm trước mưa lũ có đi được đâu đâu….Người này thông
về phong thủy, làm nghề bốc mộ, ông ta có những suy đoán theo tôi rất chính xác.
Đàn gà nhà Xoan cũng do ông ta xác định là trúng độc đó chứ. Tôi có lời nhờ ông ấy
ở lại xem xét giùm vài chuyện….Sáng nay, ông ta có nói nếu không phải đàn gà nhà
Xoan do có người hạ độc mà chết thì làng ta gặp chuyện lớn rồi. Giờ đến bò nhà Mão
cũng chêt, lời ông ấy nói cứ như đang ứng nghiệm theo từng ngày trôi qua. Phải nhờ
ông ấy đi đến nhà Mão xem thế nào.
Nghe ông Vọng nói, Sửu bán tín bán nghi, Sửu nói :

-- Có thực vậy không..? Có người lạ trong làng, nhỡ đâu lại do chính ông ta gây ra
mấy chuyện này thì sao…?

Ông Vọng nheo mày :

-- Đừng có nói bừa nói bãi, suốt mấy ngày qua trời mưa lớn, ông ấy ở nhà tôi, đến tôi
còn chẳng đi đâu thì ông ấy đi được chỗ nào…..Ông ta nói chạc tuổi tôi nhưng nhìn
già lắm, tuy nhiên đôi mắt ông ta sáng quắc, mặt phúc hậu….Nhà Sửu đừng nghĩ như
thế oan cho người ta, lẽ ra tôi mà nghe lời ông ấy thì dân làng mình có thể đã tránh
được họa rồi….

Thấy trưởng làng tin tưởng người đó như vậy, lại cho ở trong nhà, Sửu vội xin lỗi :

-- Tôi lại vạ miệng rồi, bác Vọng thông cảm...Cũng tại có mấy ngày mà làng mình xảy
ra nhiều chuyện quá, xin lỗi bác Vọng.

Về đến nhà, ông Vọng bảo vợ chồng Mão cứ về nhà trước, nhớ đừng động gì vào
hiện trường, lát ông Vọng sẽ đến ngay sau. Mở cổng, ông Vọng cùng Sửu bước vào
trong, đến trước sân thì hai người thấy trong nhà, trên bàn uống nước, ông Lương
đang ngồi trên ghế, trước mặt bàn là những thanh quẻ nằm ngổn ngang. Khuôn mặt
ông Lương tấm tấm mồ hôi mặc dù trời không lạnh.

Ông Vọng khẽ nói :

-- Bác Lương, tôi về rồi đây.

Nhìn sang bên, ông Lương chào trưởng làng cùng Sửu rồi thở dài :

-- Vẫn không thể được, quẻ luận kiểu gì cũng không ra. Có cảm giác như khả năng
của tôi tại mảnh đất này đang bị phong tỏa. Ngôi làng nay đang có thứ gì vậy…?

Ông Vọng vội nói tiếp :

-- Bác Lương, lại có chuyện xảy ra rồi….Hôm nay lại có nhà báo tin hai con bò của họ,
đang khỏe mạnh bỗng lăn đùng ra chết. Cái chết giống hệt như đàn gà nhà cô Xoan
tối ngày hôm qua.

Đang thu xếp những thanh quẻ gọn vào, trên tay ông Lương đang cầm một chiếc mai
rùa. Nghe thấy trưởng làng nói vậy, ông Lương tự nhiên rùng mình rồi buông tay ra
khiến cho chiếc mai rùa rơi xuống nền nhà.

Cái mai rủa nhỏ bằng lòng bàn tay rơi xuống rồi lăn lông lốc đến chân của Sửu, Sửu
vội nhặt lên thổi thổi bụi rồi nói :
-- Mấy cái mai rùa này cứng lắm…..không….vỡ...được….

Nhưng bất chợt Sửu dừng lại, bởi khi đang thổi bụi thì Sửu nhận ra trên mai rùa có
vết nứt. Sợ bị vu cho làm hỏng, Sửu vội đặt cái mai rùa lên bàn trước mặt ông Lương.
Ông Lương chợt đổ mồ hôi hột, ông nuốt nước bọt, bởi vì sau khi đặt nguyên vị trí
trên bàn, vết nứt trên mai rùa vẫn tiếp tục nứt ra rồi lan rộng khắp bề mặt của mai.

Ông Lương nhìn trưởng làng nói :

-- Làng động Long Mạch…….Họa lớn rồi


#Chap14 : Hiểm Họa Từ Lòng Đất.

Không chậm trễ nữa, ông Lương cùng với trưởng làng và Sửu tức tốc đi đến nhà
Mão. Đường đến nhà Mão cũng nằm trên trục đường đến nhà chị Xoan tối ngày hôm
qua. Hai nhà cách nhau chỉ đúng một ruộng rau muống, đến nơi, cổng nhà đã mở,
ông Vọng bước vào trong miệng gọi :

-- Nhà Mão đâu hết rồi…?

Phía sau chuồng bò vang lên tiếng của Mão :

-- Bác Vọng ơi, chết hết thật rồi.

Ông Lương cùng với Sửu chạy nhanh ra sau nhà nơi chuồng bò, quả không sai, bên
trong chuồng bò là hai con bò đã chết cứng đơ, ngửa bụng, chổng bốn chân lên trời.
Ông Vọng quay lại nhìn ông Lương rồi ấp úng nói :

-- Bác Lương….như...như này...là sao…?

Ông Lương nói mọi người tránh ra, ông lấy trong tay nải chiếc châm ngà ngày hôm
qua rồi cũng chích vào phần đùi của con bò để lấy máu. Đưa cây châm ngà ra trước
mặt mọi người, ông Lương nói :

-- Vẫn là máu đen, không còn nghi ngờ gì nữa, hai con bò này cũng chết do bị trúng
độc. Mà loại độc này giống với loại độc đã giết chết cả đàn gà nhà cô Xoan ngày hôm
qua.

Ông Vọng hoang mang cố gắng nhìn máu trên cây châm ngà một lần nữa, Sửu thì vẫn
chưa hiểu lắm nên Sửu hỏi :

-- Vậy là sao bác trưởng làng..?

Ông Vọng đáp :

-- Tối hôm qua, đàn gà nhà cô Xoan cũng chết y như thế này. Lúc đó thầy Lương đã
lấy châm ngà voi ra để thử máu gà, kết quả máu trên đầu cây châm có màu đen xì, là
máu dộc. Xác con gà để qua 1 đêm đã thối rữa như những gì chúng ta nhìn thấy
ngoài đình sáng nay.

Mão nổi khùng :

-- Đứa nào, đứa nào lại làm trò thất đức này cơ chứ…?

Sửu đến giờ đã bớt nghi ngờ rằng gà nhà chị Xoan chết là do Mão. Bởi chẳng thằng
ngu nào lại đi hạ độc 2 con bò nhà mình cả, tính thiệt hại thì hai con bò ấy còn gấp
nhiều lần đàn gà, tuy nhiên việc Mão không dám thắp hương trước đình thờ Thành
Hoàng làng vẫn có gì đó khiến Sửu chưa yên tâm. Nhưng đó không phải là việc cần
suy nghĩ bây giờ, đã có gia cầm, gia súc bị chết do trúng độc. Thế rốt cuộc độc đó là
do ai bỏ, và từ đâu mà ra….? Đây mới chính là điều cần lo lắng ngay lúc này.

Sửu hỏi ông Lương :

-- Nếu thầy đã nói là độc thì liệu thầy có thể phân tích xem thứ độc đó có nguồn gốc
từ đâu được không ạ…? Hôm qua cô Xoan ra ngoài thì còn có khả năng là người khác
hạ độc, nhưng nhà Mão đây, vợ Mão ở nhà cả ngày, muốn đi vào trong nhà phải đi
qua cổng, nhà còn có chó, chẳng lẽ người lạ vào mà chị Mão không biết hay sao…?

Ông Lương đáp :

-- Cậu bình tĩnh, tôi nói là do độc, nhưng chưa bao giờ tôi nói là do con người hạ độc.
Điều cậu thắc mắc cũng chính là điều mà cả đêm qua tôi suy nghĩ, hôm qua tôi còn
đem thóc nhà cô Xoan về, sáng nay dùng thóc đó cho gà nhà bác Vọng mổ, kết quả
mấy con gà không sao cả, như vậy độc không phải bị thả vào thức ăn.

“ Ve….Vo...Ve “

Chuồng bò nên ruồi nhặng vo ve khá nhiều, chúng đậu trên thành chuồng, trên xác
hai con bò, trên cả máng nước nơi chuồng bò…...Đột nhiên ông Lương nhìn thấy hai
con ruồi sau khi vừa đậu vào máng nước được vài giây thì bỗng nhiên chết nổi trên
mặt nước mặc dù nước trong máng rất trong và sạch.

Khi ông Vọng, Sửu cùng vợ chồng Mão vẫn đang cố gắng xem ai là người hạ độc, hay
chất độc đó có nguồn gốc từ đâu thì họ im bặt khi ông Lương nói lớn :

-- Mọi người trật tự, nhà Mão có thể cho tôi biết điều này được không…?

Mão đáp :

-- Có chuyện gì bác cứ hỏi..?

Ông Lương hỏi :

-- Nước này hai vị lấy ở đâu…?


Vợ Mão trả lời :

-- Dạ là nước giếng ở gần đình đấy ạ. Bao năm nay dân làng này vẫn dùng nước ở
giếng làng. Vừa rồi mưa lớn, nhưng theo thói quen tôi vẫn ra giếng gánh nước về cho
gia súc uống, rồi tắm rửa cho chúng luôn. Mưa lớn nên nước giếng dâng cao gần
miệng, gánh về cũng tiện lắm.

Ông Lương tiếp :

-- Vậy là sáng nay chị cho bò uống nước giếng phải không..?

Vợ Mão gật đầu, ông Vọng hỏi :

-- Thầy, thầy nói vậy nghĩa là sao….? Chẳng lẽ trong nước có độc…?

Ông Lương chưa vội chắc chắn, nhưng việc hai con ruồi chết trong máng nước thật
khiến cho người ta phải nghi ngờ. Lấy châm ngà ra thêm một lần nữa, ông Lương
nhúng phân nửa cây châm vào nguồn nước. Tất cả mọi người có mặt ở đó chăm chú
chờ đợi xem việc gì sẽ xảy ra, và rồi mọi người tá hỏa, ngay khi cây châm được nhung
vào nước, chỉ ít giây sau chỗ nước bao quanh cây châm ngà ấy đã sủi bọt trắng, tiếp
theo đó nước trong máng chuyển dần về màu đen.

Rút cây châm ra, ông Lương nói :

-- Ngà voi có tính kháng độc, nếu phát hiện độc tố, nó sẽ có phản ứng…..Nước trong
máng sủi bọt, đổi màu thì tôi đã chắc chắn, nguồn nước đã bị nhiễm độc. Hai con bò
chết là do trúng độc sau khi uống nước.

Ông Vọng vội hỏi :

-- Vậy còn đàn gà nhà cô Xoan thì sao…? Liệu có phải cũng do nước, nhưng hôm qua
cô ấy nói, buổi chiều mới thả gà, và tầm đó cô ta ra ruộng chứ không phải đi gánh
nước giếng, trước đó thì trời mưa thông mấy ngày, không phải cô ấy đã gánh nước
giếng về từ trước rồi chứ…?

Ông Lương lắc đầu :

-- Không đâu, theo những gì mà tôi dự đoán. Những chuyện kỳ lạ xảy ra trong làng
chỉ bắt đầu khi trời tạnh mưa. Nhưng bác trưởng làng này, hình như nhà cô Xoan
cũng có một cái giếng nhỏ phải không..? Hôm qua trời tối nên tôi chỉ nhìn mang
máng.

Ông Vọng gật đầu :

-- Đúng...đúng rồi, nhà cô Xoan có cái giếng nhỏ nằm ngay gần vườn.

Ông Lương tức tốc đi ngay sang bên nhà cô Xoan, mọi người cũng vội đi theo. Ông
Vọng gọi nhưng bên trong không có ai trả lời, chắc có lẽ cô Xoan không có nhà. Tình
hình cấp bách nên ông Vọng tự động mở cổng bước vào trong. Đi ngang qua hiên
nhà, ông Lương nhìn thấy một đứa bé gái đang ngồi dưới bậc thềm, hình như cô bé
bị mù nên dù mọi người đi đến gần cô bé vẫn cứ ngồi im không nói năng gì cả.

Ông Lương hỏi :

-- Đây là…?

Ông Vọng buồn rầu trả lời :

-- Là con gái của cô Xoan, con bé tên là Mị, mới sinh ra đã bị mù và câm bẩm sinh.
Gia đình cô Xoan hoàn cảnh lắm, chồng mất sớm, cô Xoan một mình nuôi con, con
gái thì lại không được như những đứa trẻ khác. Lần này nhà cô ấy lại thiệt hại gần
hết, thế cho nên tôi mới đứng ra kêu gọi dân làng ủng hộ cho mẹ con cô ấy.

Tạm bỏ qua cô bé, ông Lương cùng mọi người đi ra cái giếng nhỏ nhà cô Xoan. Cạnh
giếng có một chậu nước, nhìn xung quanh một vòng, ông Lương nói mọi người đừng
đi lại, tiếp đó ông Lương soi kỹ khu vực giếng. Xung quanh chậu nước có vô số nhưng
vết chân gà hãy còn in hằn lại bởi phần đất quanh giếng vẫn còn ẩm ướt.

Dùng châm ngà để thử độc nước bên trong chậu, kết quả cuối cùng cũng y hệt như
nước trong máng nhà vợ chồng Mão. Ông Lương nhìn cây châm mà sắc mặt nhợt đi,
đúng lúc đó, cô Xoan đi về, trên tay cầm rổ rau sam, chắc có lẽ cô Xoan mới đi hái, và
đây là bữa trưa của hai mẹ con cô.

Nhìn thấy mọi người, cô Xoan đặt rổ rau xuống hiên rồi chạy lại hỏi :

-- Các bác, các bác đang làm gì vậy ạ…?

Ông Lương hỏi cô Xoan :

-- Chậu nước này cô lấy ở đâu vậy…? Có phải từ giếng làng không..?

Cô Xoan đáp :

-- Bác nói gì vậy..? Nhà em cũng có giếng nên bao năm nay em có dùng nước giếng
làng đâu. Nước trong chậu là em múc lên từ chiều hôm qua, thả gà ra thì phải múc
nước cho chúng nó uống chứ..

Ông Vọng nhìn cô Xoan hốt hoảng :

-- Nước giếng nhà cô có độc, đó chính là nguyên nhân khiến cho cả đàn gà bị chết
đó…..Cả nhà Mão….

Ông Lương ngắt lời ông Vọng, ông Lương nói run run giọng :
-- Không chỉ nước giếng nhà cô ấy có độc đâu, mà là tất cả nguồn nước trong làng
này, trừ nước mưa…...Đều đã bị nhiễm độc…..Đây cũng chính là nguyên nhân phần
mai rùa bị nứt cứ thế lan rộng ra khắp nơi. Như tôi đã nói, làng gặp họa lớn rồi……

#Chap15 : “ Giấu Long Mạch “


Ông Vọng cùng mọi người nghe xong ai nấy cũng giật mình, giếng làng có từ thời xa
xưa, ngay cả ông Vọng, năm nay đã ngoài 50 tuổi, nhưng khi ông mới sinh ra thì cái
giếng đã có mặt từ rất lâu rồi. Lịch sử 100 năm của làng gắn liền với cái giếng, ngày
xưa để đào được một cái giếng không phải đơn giản, vậy mà làng Văn Thái lại đào
được một cái giếng khá lớn, nước luôn trong vắt và chưa bao giờ cạn. Nước giếng
làng chính là nước sinh hoạt của hầu như toàn bộ những hộ dân trong làng bởi
không phải nhà nào cũng đào được giếng, cũng không phải nhà nào cũng có nhiều bể
lớn để mà chứa nước mưa.

Nay nghe nước giếng bị nhiễm độc, ông Vọng không khỏi bàng hoàng, ông Vọng nói :

-- Thực...thực….sự là như...như vậy sao….? Sao nước giếng lại có độc được chứ…?

Ông Lương vội vàng nói :

-- Để chứng minh rằng nước giếng có độc, có rất nhiều cách, nhưng bây giờ, điều
quan trọng nhất chính là trưởng làng phải lập tức đi thông báo cho toàn bộ người
dân trong làng Văn Thái, tuyệt đối không được sử dụng nước giếng, nước ao trong
phạm vi khu vực làng. Chỉ được uống nước mưa, bởi vì nếu trong nước mưa có độc
thì bác và tôi cũng đã chết rồi, vì ngày nào chúng ta cũng dùng nước mưa để pha trà.

Nhà Mão nói :

-- Nhưng hôm qua tôi cũng dùng nước giếng để tắm rửa cho bò có sao đâu nhỉ…?

Ông Lương thở dài :

-- Nước giếng đó các vị đã gánh về từ trước hôm trời đổ mưa lớn có phải không..?
Cái tôi đang nói ở đây chính là, sau cơn mưa, trong làng đã xảy ra chuyện bất ổn. Tôi
chưa dám chắc điều gì đang xảy ra, nhưng tôi đã sai một chuyện, cơn mưa kéo dài ấy
chưa chắc đã là thiên tai….Nếu như nước giếng bị nhiễm dộc thì trận mưa 5 ngày
vừa qua chính là thiên ý của trời muốn cứu dân làng này. Nếu đúng là như vậy thì
làng này vẫn còn có thể thoát được kiếp nạn. Đừng mất thời gian nữa, bác trưởng
làng, bác phải nghe tôi, thông báo với mọi người ngay….Càng để lâu, sự việc càng
nguy hiểm. Sau khi trời mưa tạnh, thời tiết bắt đầu nắng nóng trở lại, chuyện này
không đùa được đâu.

Lần trước vì không nghe cảnh báo của ông Lương khiến cho thiệt hại mùa màng vô
cùng nặng nề nên lần này, ông Vọng vội vã vâng dạ rồi nói với Sửu :

-- Anh Sửu, nhà anh sức khỏe tốt, anh giúp tôi chạy đi thông báo cho từng hộ gia
đình….Người này truyền tai người kia, như vậy mới giúp cho bà con tránh sử dụng
nguồn nước nhiễm độc. Nhanh lên, nhanh chân lên…

Ông Lương khẽ hỏi :

-- Nhưng chỉ thông báo vậy có sợ bọn họ sẽ không tin không..?

Sửu đáp :

-- Thầy cứ yên tâm, làng chúng tôi tuy nghèo nhưng đồng tâm một lòng từ đời cha
ông, chỉ cần nói đó là lời cùa trưởng làng, ai ai cũng sẽ nghe theo thôi.

Ông Lương thở phào :

-- Nếu được như vậy thì thật là may mắn, vậy cậu nhanh chân đi thông báo cho mọi
người đi. Còn bác trưởng làng, giờ bác đi cùng tôi ra giếng làng một chuyến, tôi
muốn kiểm tra nước ở giếng.

Sửu chạy vội đi, cả nhà Mão cũng chạy theo giúp sức, nhà chị Xoan thì ôm mặt khóc :

-- Trời ơi, chẳng lẽ ông trời lại tuyệt đường sống của dân làng chúng con đến độ này
hay sao…?

Ông Lương nói :

-- Kìa cô Xoan, cô đừng mói vậy….Trời xanh luôn có đức hiếu sinh, chuyện xảy ra vẫn
còn nhiều uẩn khúc. Không phải tự nhiên trên trời lại mưa ròng rã suốt 5 ngày, tất cả
đều có lý do của nó…...Trước mắt nhà chị nên đậy cái giếng lại, đừng sử dụng nước ở
giếng nữa. Tôi thấy nhà chị cũng có một bể nước mưa cùng vài cái cóng đầy nước.
Trước khi khắc phục được hậu quả, tạm thời hãy sử dụng nước một cách tiết kiệm.
Giờ tôi với bác trưởng làng phải đi đây.

Đi ngang qua cô bé Mị đang ngồi trên hiên nhà, trên tay cô bé cầm một mẩu gạch
nhỏ, đôi mắt mù hướng thẳng về phía trước một cách ngây dại, cô bé đang gạch
những nét nguệch ngoạc xuống nền hiên. Chị Xoan nhìn con buồn rầu :

-- Khổ thân con tôi.

Ông Lương cùng ông Vọng chào chị Xoan rồi đi đến giếng của làng Văn Thái. Đến nơi,
ông Lương cẩn thận xem xét kỹ lưỡng những chi tiết xung quanh khu vực giếng. Trời
mới mưa kéo dài, vậy mà bám trên thành giếng, một vài khoảng rêu đã úa màu và
đang có dấu hiệu chết dần.

Ông Lương gọi trưởng làng lại rồi nói :

-- Bác trưởng làng nhìn xem, rêu mọc quanh giếng bắt đầu chết rồi. Chỉ e là sau đây,
không chỉ nguồn nước mà cả đất đai cũng không thể nuôi dưỡng được bất kỳ một
loại cây nào nữa.

Ông Vọng nhìn khoảng rêu úa vàng mà lắc đầu ngao ngán, ông không biết chuyện gì
đang xảy ra với ngôi làng của mình, ông nói :

-- Chỉ còn 2 ngày nữa là đến lễ hội 100 năm của làng, dân làng tôi từ xưa đến nay ăn
ở nhân đức. Chẳng ai tranh cướp, giành giật thứ gì của ai…..Tại sao lại xảy ra họa này
cơ chứ…?

Nói xong, quay sang nhìn ông Lương, ông Vọng vội tiếp :

-- Thầy Lương, thầy là người thông thiên văn, địa lý…..Thầy như nhìn trước được sự
việc sắp xảy ra…..2 ngày nữa đình làng mở hội, hay là nhân đây thầy giúp cho chúng
tôi lập đàn, làm một cái lễ, bái lạy thánh thần, xin các ngài cứu dân làng Văn Thái qua
khỏi tai kiếp. Chỉ cần giải được hiểm họa này, dân làng chúng tôi dù nghèo cũng sẽ cố
lo đầy đủ. Trăm sự nhờ thầy….

Ông Lương không phải không muốn giúp, nếu có ý bỏ qua thì ông đã đi khỏi làng này
rồi. Nhưng chuyện cúng tế, lập đàn phải có căn nguyên, phải biết chỗ nào động, chỗ
nào sai để mà sửa. Không phải cứ thích làm lễ là làm, thích cúng là cúng. Những ngày
qua, ông Lương miệt mài luận quẻ, xem thiên văn, địa lý trong làng để cốt yếu tìm ra
được Long Mạch nhưng không thể nào luận được một điều gì cả.

Biết đất động Long Mạch, nhưng lại không thể xem xem Long Mạch đang nằm ở đâu,
nếu làm bừa, đào bừa, tai ương không giải được mà chỉ chồng chất hiểm họa mà
thôi. Thấy ông Lương ngập ngừng, ông Vọng tưởng ông Lương không muốn giúp nên
vội van nài :

-- Thầy, nếu thầy mà không giúp làng chúng tôi thì chúng tôi chết mất, mong thầy rủ
lòng thương.

Đỡ ông Vọng dậy, ông Lương giải thích :

-- Trưởng làng đừng nói như vậy, tôi ở lại đây là cũng muốn chung tay cùng bà con
vượt qua tai ương này. Chỉ có điều, tôi sử dụng đủ mọi cách cũng chưa thể tìm ra
được Long Mạch. Ngay khi đặt chân đến đây, nhìn cảnh vật, cây đa, giếng nước, sân
đình….tất cả đều toát lên làng này có vượng khí rất tốt. Tuy dân không giàu có nhưng
chân chất, thật thà, ai cũng khỏe mạnh và có lòng nhân hậu. Thiết nghĩ, nếu một
mảnh đất chướng khí tích tụ, sẽ không bao giờ người dân được sống thư thái như
vậy. Tuy nhiên, sau trận mưa kéo dài, không khí nơi đây đã thay đổi, mây đen tích tụ,
nước mưa bốc mùi tanh nhẹ, gia súc, gia cầm trúng độc mà chết, nguồn nước nhiễm
độc chính là nguyên nhân…..Nhiêu đó thôi cũng đủ nhận thấy thằng, làng ta vượng
khí đang cạn dần, ban đêm có tiếng chó tru nghĩa là ma quỷ bắt đầu xuất hiện. Chắc
chắn là động vào Long Mạch nhưng nếu không xác định được Long Mạch nằm ở đâu
mà đào bới, trấn yểm bừa bãi, chỉ e ngay đến tính mạng của bà con cũng không giữ
được. Tôi rất muốn giúp mọi người, nhưng tôi khả năng cũng chỉ có hạn. Tạm thời
tránh để bà con gặp nguy hiểm, trước mắt chúng ta cần phong tỏa những cái giếng
trong làng lại, Đừng cho ai dùng nước giếng nữa, trận mưa vừa qua chắc có lẽ nhà
nào nhà nấy đều ít nhiều tích được nước mưa. Trời xanh vẫn để cho dân làng một
con đường sống. Việc tìm ra Long Mạch không phải chuyện một sớm một chiều. Nếu
như quẻ luận không được thì chúng ta phải tìm dựa trên các ghi chép, các dấu tích ở
những nơi trọng yếu, là địa thế đinh của làng trong suốt 100 năm qua. Việc này
không chỉ tôi, mà bác trưởng làng, cùng toàn thể dân làng phải cùng nhau làm mới
thực hiện được.

Ông Vọng nghe thầy Lương ( giờ chuyển sang gọi thầy Lương cho đỡ lặp từ ) nói thì
đã hiểu được tâm sự canh cánh trong lòng thầy mấy ngày hôm nay. Trông vậy thôi,
nhưng từ khi trận mưa đổ xuống, thầy Lương chưa đêm nào ngủ được trọn giấc,
tiếng chó tru đêm ngày hôm qua càng khiến cho thầy lo lắng hơn, bởi con Vàng đến
sáng đã gần như không còn sức lực. Cả đêm qua, hình như nó đã phải chiến đấu với
một thứ đáng sợ vô hình nào đó. Vượng khí trong làng yếu đi, không khó để đoán
đây là lúc âm binh, ma quỷ hoành hành.

Nhưng điều mà thầy Lương chưa hiểu được, tại sao với khả năng của mình mà thầy
Lương không thể luận ra dù chỉ một quẻ. Xưa nay càn khôn thiên biến vạn hóa, vạn
vật sinh linh trên cõi đời này nếu có sinh có tử, đều có tương khắc, áp chế lẫn nhau
giống như âm dương là hai phần tách biệt.

Dù rất khó để chấp nhận, nhưng thầy Lương không còn cách nào để giải thích về việc
này đó chính là :

“ Ngôi làng này đã bị trấn yểm bởi một người cực kỳ cao tay, hoặc thứ bùa chú trấn
yểm này thuộc dạng vô cùng thâm độc.”

Đến đây, thầy Lương nhớ lại lúc mình mới chỉ 15 tuổi, ngày đó thầy còn đang theo vị
đạo sĩ kia học nghề….Đó là năm thầy Lương mới chỉ tầm 15 tuổi, lúc đó hình như sư
phụ của ông có nhắc đến một thuật trấn yểm với tên gọi : Giấu Long Mạch.
#Chap16 : Yêu Cầu Của Bà Thầy Cúng.

[.......]

-- Sư phụ, sư phụ uống trà ạ. - Lương vừa nói vừa nhẹ đặt ly trà nóng phảng phất
khói thơm lên bàn.

Sư phụ Lương mỉm cười :

-- Con đọc hết chỗ sách mà ta dặn chưa…?

Lương đáp :

-- Dạ thưa sư phụ, con đã đọc xong hết rồi ạ.

Vị đạo sĩ gật đầu, ông vuốt nhẹ chòm râu rồi nói :
-- Khá lắm, quả đúng là người có tư chất thông minh. Con là người có thiên phú từ
nhỏ, học một biết mười. Tính tình lại nhân hậu, chỉ mong con sau này thay ta làm
việc thiện giúp đời, nhưng đừng phô trương, khoe mẽ, hãy cứ giản dị hành nghề y
cứu giúp người dân. Nhớ kỹ lời ta dặn.

Lương cúi đầu kính cẩn nghe lời sư phụ dặn, thấy trên bàn, sư phụ đang đọc một
quyển sách, Lương hỏi :

-- Sư phụ, người đang đọc sách gì vậy ạ..?

Vị đạo sĩ trả lời :

-- À, quyển sách này nói về thuật “ Giấu Long Mạch “. Đây là một thuật trấn yểm cực
kỳ xấu xa. Nó không dành cho những người như chúng ta.

Lương thắc mắc :

-- Vậy sao thầy lại đọc nó..?

Vị đạo sĩ cười lớn :

-- Ha ha ha, câu hỏi hay lắm….Nó xấu nhưng tại sao ta lại đọc..? Bởi vì trên đời này,
có những kẻ làm việc xấu, thì cũng có những người làm điều tốt. Ta đọc để lỡ như
sau này, có kẻ dùng thuật “ Giấu Long Mạch “ để làm chuyện ác thì ta còn biết cách
để phá giải….Ha ha ha..

Lương hỏi tiếp :

-- Nhưng sao thuật “ Giấu Long Mạch “ lại là xấu hả sư phụ…?

Vị đạo sĩ trả lời :

-- Long Mạch là nơi tích tụ nhiều vượng khí, có địa mạch mạnh mẽ, dương khí tích tụ
có thể lên đến hàng triệu năm, có thể ví Long Mạch như căn nguyên, khởi nguồn sinh
khí, năng lượng của cả một vùng đất, thậm chí là của cả một đất nước. Vậy cho nên,
những thầy bùa, thầy địa lý luôn cố gắng đi tìm Long Mạch, số ít thì vì lợi ích của
chúng sinh, nhưng số nhiều lại muốn độc giữ Long Mạch đó cho bản thân, cho gia tộc
của họ. Bởi nắm được Long Mạch, gia tộc sẽ vượng phát, hoặc họ còn có thể điều
khiển sự hưng thịnh, vong suy của vùng đất đó. Tuy nhiên, Long Mạch có nhiều
nhưng không phải ai cũng nhìn thấy, chỉ những người có khả năng mới phát hiện ra
và mỗi loại Long Mạch sẽ được sử dụng theo đúng với những mong muốn riêng của
từng thầy địa lý, từng thầy bùa. Nhưng Long Mạch là tinh hoa của đất trời, chiếm giữ
làm của riêng chính là nghịch đạo. Do vậy những thầy địa lý, những thầy bùa cao tay
họ đã nghĩ ra một cách khiến cho ngoài họ ra, không ai có thể tìm được Long Mạch
mà họ trấn yểm với mục đích giữ Long Mạch cho riêng mình. Và đó là thuật “ Giấu
Long Mạch “. Họ tạo ra một kết giới dựa trên địa hình, địa lý vùng đất đó, khi con
bước vào kết giới này, con không thể dùng khả năng của mình để tìm được Long
Mạch của họ.

Lương tròn mắt ngạc nhiên :

-- Thực sự có chuyện này sao sư phụ..?

Vị đạo sĩ gật đầu :

-- Có chứ, chuyện kinh thiên, dị lý trên cõi đời này nhiều vô số kể, dù là ta hay con
cũng không bao giờ am hiểu hết được…..Chúng ta chỉ cần làm tốt với lương tâm của
mình là được….Ha ha ha, nhưng con đừng lo, để tạo được kết giới ấy, người thực
hiện phải là một người cực kỳ tinh thông về địa lý, về bùa thuật trấn yểm. Không
nhiều người có thể làm được điều này đâu, hơn nữa “ Giấu Long Mạch “ là đại kỵ, vì
ai trấn yểm Long Mạch sẽ phải trả giá bằng chính mạng sống của mình.

[......]

-- Thầy Lương, thầy làm sao vậy…? Ra ăn chút cơm đi chứ…? Thầy ngồi thẫn thờ như
thế một lúc rồi đấy…?

Nghe giọng trưởng làng, thầy Lương mới sực nhớ ra trời đã tối, bên ngoài im phăng
phắc không một tiếng động, khẽ ngồi xuống, tay cầm bát cơm, thầy Lương lẩm bẩm :

-- Thực sự có người làm được điều này sao….?

Cả hai người đang ăn cơm thì con Vàng bên ngoài sủa lên inh ỏi :

“ Gấu...Gâu...Gâu….Gâu..”

Hạ bát cơm xuống, ông Vọng đi ra ngoài sân nói vọng ra cổng :

-- Ai đấy…? Ai ở ngoài đó đấy.

Một giọng nói vang lên đáp lại :

-- Là con, con là Tèo cháu của cô Điều đây ạ..

Ông Vọng đáp :

-- À, ra là thằng Tèo, đợi ông một chút. Mày đến giờ này có việc gì đấy.

Ông Vọng tất bật đi ra cổng, 5 phút sau, ông Vọng quay lại, lấy cái đèn pin, bữa cơm
ăn còn chưa xong mà hình như ông Vọng định đi đâu thì phải, thầy Lương bèn hỏi :

-- Ủa, bác trưởng làng, cơm ăn chưa hết bát sao đã vội đi đâu..?

Ông Vọng trả lời :


-- Thầy cứ ăn đi rồi để trên bàn, lát về tôi ăn sau….Giờ tôi phải đến ngay nhà bà thầy
cúng, bà ấy bảo thằng cháu sang gọi, nhắn là làng có chuyện, cần phải cúng tế gấp.
Xưa nay lễ bái trong làng đều do một tay bà ấy làm cả. Thầy ở nhà nhé, tôi đi một
chút rồi về.

Thầy Lương lấy làm lạ, ông cố sức kiểu gì cũng không thể luận được chút gì về thiên
cơ trong ngôi làng. Không lẽ bà thầy cúng đã phát hiện ra điều gì đó, nhưng nghĩ
bụng, chắc có lẽ bà ta ở làng này đã lâu, quen với thổ nhưỡng nơi đây, ít nhiều cũng
biết được chút ít. Lòng muốn xin đi cùng để biết thêm một vài manh mối, nhưng ông
Lương trộm nghĩ, đi theo sợ rằng bà thầy cúng lại nghĩ ông Lương là người ngoài mà
tham gia sâu, sẽ sinh lòng nghi hoặc. Bởi vậy, ông Lương chỉ nói :

-- Vậy bác cứ đi đi, lát về có gì bác nói cho tôi nghe để tôi biết thêm một chút cũng
được.

Ông Vọng gật đầu rồi rảo bước rời khỏi nhà, còn lại một mình, thầy Lương ăn nốt bát
cơm rồi dọn mâm đũa. 7h tối, trên bầu trời sao sáng lung linh, không khí có chút khô
hanh, đang thu mà cảm giác oi bức lạ thường. Tất cả giải thích cho việc, sau trận
mưa kéo dài kia, dường như thời tiết bắt đầu hanh khô khắc nghiệt. Thầy Lương
bỗng cảm thấy may mắn, bởi nếu như không có cơn mưa kia, chắc có lẽ cả làng này
sẽ lầm vào tình trạng khốn đốn bởi thiếu nước sinh hoạt khi mà các nguồn nước
ngầm đều đã bị nhiễm độc. Tuy nhiên, nước mưa cũng chỉ có hạn, cùng lắm dùng
được 1-2 tháng, nếu trời sau đó tiếp tục không mưa há chẳng phải người dân trong
làng cũng đến bước đường cùng hay sao. Hơn nữa, nước ngầm bị nhiễm độc, khả
năng lâu dần, đất đai cũng sẽ không trồng trọt được gì nữa. Viễn cảnh tồi tệ đang
hiển hiện trước mắt nếu không nhanh dứt điểm nguồn gốc của sự việc.

Suy nghĩ của thầy Lương cũng chỉ là dự đoán, nếu thực sự có kẻ “ Giấu Long Mạch “
thì lý do tại sao hắn lại làm điều này, tại sao 100 năm qua không xảy ra chuyện gì mà
phải đợi tới tận bây giờ. Liệu ngôi làng này còn ẩn giấu bí mật nào đó không ai biết..?
Còn nếu Long Mạch không bị giấu thì nó nằm ở đâu, làng này vượng khí tồn tại suốt
trăm năm, không thể không có địa mạch, ngược lại địa mạch nơi đây còn rất vượng,
có như vậy mới xuất hiện thần bảo hộ cho làng. Dương khí mạnh như thế tại sao
không thể nhận biết Long Mạch đang nằm ở đâu…?

Biết như không biết, có như không có, mọi thứ cứ rối tung rối mù, chỉ có một điều
chắc chắn đó là làng Văn Thái đang đứng trước một tai họa lớn, nếu muốn toàn
mạng, dân làng không còn cách nào khác là bỏ làng ra đi, nhưng đi đâu khi đây là nơi
chôn, cắt rốn của họ, lịch sử trăm năm của làng gắn liền ít nhất là 3 đời người dân ở
đây. Bỏ làng đi rồi sống ở đâu, sống bằng gì….?

Tầm 8h tối thì ông Vọng quay về, thầy Lương rót nước cho ông Vọng rồi khẽ hỏi :

-- Bác đi công chuyện thế nào…? Có phát hiện được điều gì mới không..?

Ông Vọng đáp :


-- Bà Điều thầy cúng có nói, do dân làng năm qua không tu sửa đình làng, không đúc
tượng thần Thành Hoàng nên thần giận trút tai ương lên đầu dân chúng.

Ông Lương nheo mày :

-- Đúc tượng thần Thành Hoàng là sao…? Tôi nhớ không lầm thì ở đình đã có tượng
thờ thần Thành Hoàng rồi mà..?

Ông Vọng nhấp ngụm nước rồi chép miệng :

-- Không giấu gì thầy, năm ngoái xong vụ mùa, như mọi năm, dân làng có giết trâu
cúng tế thần ở sân đình, mong thần phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng gieo
trồng tươi tốt. Mổ trâu xong, dân làng đem đầu trâu tế trước tượng thần, thì đúng
lúc đó, cái bệ nơi tượng thần bị nứt một vết nhỏ. Chỗ nứt đó chỉ nhỏ xíu, nhưng bà
Điều thầy cúng nói nghiêm trọng lắm, nói là phải xây tượng mới. Mà thầy thấy đấy,
chi phí xây dựng tượng không phải ít, mùa màng bà con thu lại cũng chỉ đủ ăn. Tôi
nghĩ không hợp lý nên chỉ cho thợ trát lại vết nứt. Đến năm nay thì xảy ra nhiều
chuyện, bà ấy trách móc tôi là trưởng làng mà không biết thờ cúng thần linh, để thần
phật nổi giận. Nếu năm ngoái nghe lời bà ấy xây tượng mới thì đâu ra nông nỗi.

Ông Lương lặng im nghe rồi khẽ hỏi thêm :

-- Bà ấy còn nói gì nữa không…?

Ông Vọng kể tiếp :

-- Có chứ, bà ấy bảo 2 ngày nữa làng làm lễ 100 năm, lúc đó phải làm tượng mới để
bà ấy thật long trọng, thật lớn để mong thần xá tội. Mà thầy thấy đấy, mới có 2 ngày
trong làng đã xảy ra bao nhiêu chuyện, mùa màng coi như mất trắng, người dân bây
giờ chạy từng bữa ăn, nguồn nước nhiễm độc. Nếu giờ tổ chức xây tượng, làm lễ lớn,
những nhà như nhà cô Xoan, biết đào đâu ra tiền.

Thầy Lương bây giờ mới gật gù, ông nói :

-- Thần phật trên cao là để phổ độ chúng sinh, là bảo vệ cho mọi người. Làng ta năm
nào cũng nhớ đến thần, làm lễ, giết trâu tạ ơn thần thì làm sao thần nổi giận được cơ
chứ. Chuyện xảy ra trong làng không phải do thần nào trị tội cả, nói như vậy há
chẳng phải vu tội cho thần hay sao. Tôi chỉ là người ngoài, can thiệp vào chuyện của
làng sợ rằng kẻ gian không đạt được mục đích sẽ đàm tếu, dèm pha. Trong lúc này,
một chút của dự trữ cũng là quý giá, đừng đem phung phí. Vài lời này mong trưởng
lang suy nghĩ kỹ. Ngày mai, tôi xin phép trưởng làng được đi dạo quanh một vòng
làng, biết đâu tôi lại tìm được gì đó. Hôm nay cũng mệt mỏi rồi, trưởng làng nên nghỉ
ngơi sớm đi.

Dứt lời, thầy Lương đi ra ngoài hiên, trên tay thầy Lương cầm một quả chuông bạc
nhỏ bằng ngón chân cái. Ông lấy một sợi dây gai, luồn qua móc chuông rồi buộc vào
cổ con Vàng. Xoa đầu con Vàng, ông khẽ mỉm cười :

-- Đêm nay mày lại vất vả rồi, cái này sẽ giúp mày.

Con Vàng hướng đôi mắt mệt mỏi lên nhìn thầy Lương, nó khẽ liếm tay thầy Lương
như muốn cảm ơn…..Trở vào trong, vừa nằm lên giường, khẽ nhắm mắt, thầy Lương
chìm vào giấc ngủ lúc nào không hay……..Bên ngoài, màn đêm tĩnh lặng, một tiếng
ếch nhái kêu lên cũng không hề có, lúc này đã là 12h đêm…...

#Chap17 : Cái Lắc Bạc.


Đêm đó thầy Lương đã nằm mộng, ông thấy mình đứng ngay tại giếng làng, đúng với
vị trí mà lần đầu tiên ông bỡ ngỡ còn chưa biết nhà của trưởng làng ở đâu. Tuy
nhiên, khác với lần đó, lúc này cảnh vật xung quanh ông điêu tàn, đất đai chuyển
màu xám xịt, từ dưới giếng bốc lên một mùi hôi thối, tanh nồng, cây lộc vừng lá đã
ngả màu vàng úa….Còn chưa hiểu chuyện gì xảy ra thì thầy Lương giật mình nhìn
thấy, đang ngồi dưới gốc cây lộc vừng chính là ông cụ mặc bộ đồ trắng đã chỉ đường
cho mình bữa trước. Ông cụ ngồi tựa lưng vào gốc cây lộc vừng, nét mặt u buồn,
thầy Lương toan chạy lại hỏi thăm nhưng đôi chân không thể bước tới.

Dưới gốc cây, ông cụ ho lên những tiếng khù khụ, hướng mắt về phía thầy Lương,
miệng ông cụ mấp máy điều gì đó. Trong đầu ông Lương chợt vang lên một giọng nói
:

“ Hướng Đông 5 dặm, trâu gặm đồng hoang, mặt trời trên cao, giờ Ngọ tam khắc “

“ Bóng đổ đến đâu, đào sâu 6 thước “

Dứt lời, thầy Lương thấy ông cụ ho ra máu rồi biến mất. Choàng tỉnh dậy, lúc này đã
quá nửa đêm, đêm nay thầy Lương không còn nghe thấy tiếng chó tru nữa, khẽ bước
xuống giường, ông Vọng vẫn đang ngủ say, ngoài hiên nhà, con Vàng cũng nằm thu
mình vào góc tường, hôm nay nó không có biểu hiện gì lạ như đêm ngày hôm qua.
Chỉ duy nhất, màn đêm tĩnh lặng một cách bất bình thường.

Thầy Lương ngồi xuống ghế, ông dựa mình vào thành ghế, mồ hôi trên trán khẽ lăn
xuống. Giấc mơ ban nãy là sao, hai câu nói của ông cụ mặc đồ trắng đó có ý nghĩa gì,
tại sao đêm nay mọi thứ lại tĩnh mịch đến thế. Một sự im ắng khiến cho con người ta
phải thấy rùng mình. Cố nằm để ngủ lại nhưng thầy Lương không tài nào chợp mắt
nổi, trong đầu ông văng vẳng 2 câu nói của cụ già mặc đồ trắng mà vẫn chưa thể luận
được ý nghĩa của hai câu nói đó là gì, phải chăng đây là một điều chỉ dẫn, nhưng chỉ
dẫn đến đâu và đào cái gì thì phải đợi trời sáng mới tính tiếp được.

Màn đêm cứ thế trôi qua, tiếng gà gáy báo hiệu trời sáng vang lên từ vườn nhà ông
Vọng. Cả đêm không ngủ, thầy Lương dậy sớm mở cửa ngay khi gà vừa mới gáy, bên
ngoài trời vẫn còn nhá nhem, buổi sáng trời khá lạnh mặc dù đến trưa thì lại hanh
khô khó chịu. Thầy Lương vừa bước ra cửa thì con Vàng nhổm đầu dậy, đi ra phía
cổng, thầy Lương lẩm bẩm :
-- Hướng Đông 5 dặm, lát nữa đợi trưởng làng dậy rồi hỏi vậy. Nhân tiện hôm nay
mình cũng có ý muốn đi quanh làng 1 vòng.

Thấy con Vàng cào cào vào thành cổng, tưởng nó muốn ra ngoài, thầy Lương bèn mở
cổng cho nó chạy ra. Vừa ra đến đường, con Vàng lập tức chúi mũi xuống mặt đường
đất hít hít, đánh hơi cái gì đó. Đột nhiên nó sủa lên ba tiếng :

“ Gâu...Gâu...Gâu “

Đoạn nó quay lại cắn lấy ống quần của thầy Lương kéo xuống, thấy lạ, thầy Lương
nạt con Vàng :

-- Mày làm sao đấy…? Sao lại cắn quần của tao..?

Nhưng con Vàng vẫn cứ thế dùng răng kéo kéo quần thầy Lương, đoạn chân nó cào
xuống mặt đường đất. Lúc này, thầy Lương mới hiểu ra ý của con chó, nó muốn ông
cúi xuống nhìn thứ mà nó vừa tìm thấy. Trời hãy còn tối, thầy Lương phải ngồi hẳn
xuống mới nhận ra, dưới mặt đường có một sợi dây bạc nhỏ xíu. Hóa ra đây là thứ
mà con Vàng sủa báo hiệu từ nãy đến giờ.

Nhặt sợi dây bạc lên, sợi dây khá ngắn, là dây bạc để đeo tay, với kích cỡ này thì chỉ
vừa với tay của trẻ con, bởi người lớn không thể đeo vừa. Chắc có lẽ ai đi qua đây đã
vô tình đánh rơi, tạm giữ lại, lát thầy Lương sẽ đưa cho trưởng làng để tìm người
đánh rơi mà hoàn.

Xoa đầu con Vàng, thầy Lương khen :

-- Giỏi lắm, không ngờ mày lại tinh vậy luôn.

Mở cổng bước vào trong nhà cũng là lúc ông Vọng thức dậy, bước ra sân, ông Vọng
nói :

-- Thầy dậy sớm thế, trời mới tờ mờ sáng thôi mà.

Thầy Lương mỉm cười :

-- Có nhiều chuyện khiến tôi không ngủ được. À, bác trưởng làng, ban nãy tôi với cu
cậu này ra đường có nhặt được sợi dây bạc nhỏ nhỏ, không biết của ai. Nay đưa cho
bác trưởng làng, hỏi xem của nhà ai thì trả lại họ.

Nói rồi thầy Lương đưa cho ông Vọng sợi dây bạc, ông Vọng nhìn rồi ngờ ngợ :

-- Này hình như là tôi nhìn thấy ở đâu rồi thì phải. Mà nhỏ như này chắc của trẻ con,
của con nhà ai được nhỉ. Rơi ở đường này thì chắc chỉ có mấy nhà như nhà Sửu, nhà
Mão, nhà cô Xoan là có con nhỏ…..Nhưng chắc không phải của nhà cô Xoan rồi, tại
con bé Mị nó có ra ngoài đường bao giờ đâu. Nghĩ lại thấy khổ thân nó, bố thì mất
sớm, sinh ra đã bị mù với câm bẩm sinh. Năm nay cũng phải 13-14 tuổi rồi mà suốt
ngày chỉ ở trong nhà. Cũng may hôm qua bà con cũng đến giúp đỡ chút ít. Cảm ơn
thầy nhé, lát trời sáng tôi đi dọc đường này ghé qua hỏi mấy nhà xem có phải của họ
không…?

Dứt lời ông Vọng đứng dậy, thầy Lương vội hỏi :

-- Trời còn chưa sáng hẳn, bác tính đi luôn bây giờ à..?

Ông Vọng cười :

-- Không, tôi đi rửa mặt rồi bắc nồi nước luộc mấy củ khoai, tiện pha ấm trà….Lát
thầy cầm đi đường mà ăn. Chẳng phải hôm qua thầy nói hôm nay sẽ đi vòng quanh
làng hay sao. Thầy cứ ngồi đó đi, đợi tôi lát xong ngay ấy mà.

Ông Lương đáp :

-- ́y chết, bác trưởng làng không phải mất công như vậy đâu, trong tay nải tôi có ít
lương khô, tôi ăn thế được rồi. Mùa màng mới mất hết, cái ăn, cái uống không phải
dễ dàng gì, khoai để ăn bữa trưa cũng được.

Ông Vọng xua tay :

-- Thầy đi là đi lo công chuyện cho làng, phải ăn có sức thì mới đi được chứ. Đi xong,
trưa thầy quay lại đây tôi nấu cơm chờ sẵn.

Cung kính không bằng tuân lệnh, đây cũng là lý do mà thầy Lương muốn ở lại để tìm
hiểu căn nguyên sâu xa của mọi chuyện. Họa giáng xuống đầu những người dân làng
nhân hậu như này chẳng phải quá bất công hay sao. Khoai luộc xong, trời cũng đã
sáng hẳn, gói hai củ khoai to nhất vào lá chuối, ông Vọng dúi vào tay thầy Lương rồi
cười cười :

-- Thầy cầm lấy đi ăn đường, làng này trông thế thôi nhưng rộng lắm đấy, đi có khi cả
ngày vẫn chưa hết. Sáng rồi, giờ tôi cũng đi hỏi mấy nhà trên con đường này xem ai
đánh rơi sợi dây bạc này.

Thầy Lương hỏi ;

-- Đi xuống cuối con đường này có lối vòng ra gốc đa nơi bà hàng nước không bác
nhỉ..?

Ông Vọng gật đầu :

-- Có chứ, nhưng đường vòng là đường ruộng, không phải đường đất, làng tuy rộng
nhưng dân cư cũng chỉ tập trung quanh đây. Còn đâu toàn ruộng lúa, bờ hoang ấy
mà.
Thầy Lương đáp :

-- Vậy tiện đường tôi đi với bác trưởng làng một đoạn.

Ông Vọng mở cổng, con Vàng vẫy đuôi tiễn chủ. Trên đường đi, ông Vọng nói :

-- Nhà Sửu gần đây nhất, có cậu con trai tầm 10 tuổi, ta ghé vào hỏi xem sao.

Miền quê nên gà gáy là hầu như nhà nào cũng dậy hết cả, đang phơi quần áo ở sân là
vợ Sửu, ông Vọng đứng ngoài cổng gọi với vào trong :

-- Anh Sửu có nhà không đấy..?

Vợ Sửu nghe giọng nhận ngay ra là bác trưởng làng, chạy ra phía cổng vợ Sửu chào
rồi đáp :

-- Bác Vọng, bác tìm nhà em có việc gì thế….? Mà sáng nay nhà em đi đâu từ sớm rồi
bác ạ. Mời bác vào nhà ngồi đợi ạ.

Ông Vọng nói :

-- À không cần đâu, có vợ Sửu cũng được….Chẳng là tôi có nhặt được sợi dây bạc
này, của trẻ con, vợ Sửu ra nhìn xem có phải của con mình không…?

Vợ Sửu nhìn sợi dây bạc trên tay ông Vọng, cô lắc đầu :

-- Không phải ạ, thằng cu nhà em cũng đeo bạc, nhưng mắt nó to hơn cái này. Không
phải của nhà em đâu.

Ông Vọng chào vợ Sửu rồi đi tiếp, ông Vọng nói :

-- Quanh đây thì chỉ còn hai nhà là nhà Mão với nhà cô Xoan, hai nhà đều có con gái,
con nhà Mão thì mới 9 tuổi, có khi là của nhà hắn thật.

Nhưng kết quả là khi hỏi Mão, thì Mão cũng nói con gái Mão không có đeo dây bạc.
Thầy Lương lúc này mới nói :

-- Hai nhà cạnh nhau, hay ta sang bên cô Xoan hỏi xem sao…?

Ông Vọng chép miệng :

-- Cơ mà con bé Mị nó có bao giờ ra đường đâu cơ chứ…? Thôi cứ đi sang vậy.

Bước sang nhà cô Xoan, ông Vọng gọi :

-- Cô Xoan có nhà không đấy..?


Ngay sau câu đầu tiên, cô Xoan trong nhà đã hớt hải chạy ra, tay vẫn còn lấm lem, cô
Xoan nói :

-- Là bác Vọng ạ, bác tìm em có chuyện gì ạ..?

Ông Vọng cầm sợi dây bạc giơ lên, chưa kịp hỏi gì thì cô Xoan đã vội chộp lấy :

-- Ơ, sao bác lại có cái lắc bạc này, cái này là của con gái em mà.

Ông Vọng ngớ người, ông hỏi lại :

-- Thật là của con gái cô chứ…? Sáng nay tôi nhặt được ở ngoài đường, phía trước
cổng nhà tôi đấy. Thảo nào tôi cứ ngờ ngợ là thấy ở đâu, chắc là hôm qua nhìn thấy
con bé ngồi vẽ trên hiên nhà nên nhớ mang máng.

Cô Xoan gật đầu lia lịa :

-- Em thề với bác là em nói thật, cái này là lắc bạc của con gái em. Này là của bà nội
nó cho nó trước khi mất mà. Nhưng bác nói thế nào, con em nó có đi đâu đâu mà lại
rơi trước cổng nhà bác được.

Ông Vọng cau mày :

-- Ơ nhà cái cô này, cô nói thế khác gì bảo tôi lấy….Mà cô vào xem xem có đúng là
của con bé không..?

Cô Xoan mở cổng cho ông Vọng và thầy Lương vào, hãy còn sớm nên Mị chưa ngủ
dậy, cô Xoan dẫn mọi người vào tận giường, đúng là trên tay Mị không đeo cái lắc
nào cả. Cô Xoan ngớ người :

-- Sao lại thế nhỉ, cả ngày hôm qua em ở nhà, mà trước tới nay con bé có đi đâu đâu.
Nó mù, lại không nói được, sao thấy đường mà đi để rơi cả lắc bạc được chứ..?

Đến đây thì ông Lương bắt đầu thấy lạ, nếu như cả ngày hôm qua cô Xoan ở nhà với
con như cô ấy nói thì Mị không thể nào đi ra ngoài mà cô Xoan không biết được,
nhưng cái lắc bạc cũng không thể nào có chân tự chạy đến đó mà rơi được. Đang
thắc mắc thì từ ngoài đường, một giọng nói thất thanh vang lên :

-- Bác Vọng ơi, bác có ở đây không….? Xảy…...xảy ra chuyện…..lớn rồi…..Có...có
người…..chết….chết rồi.

#Chap18 : Nét Vẽ Trên Hiên Nhà.


Chạy thục vào bên trong nhà cô Xoan chính là Sửu, Sửu vừa chạy vừa hét, vừa thở,
thấy ông Vọng cùng thầy Lương đứng trong nhà, Sửu nói vội vàng :

-- May quá, bác Vọng….bác ở đây….Em vừa chạy đến nhà bác không thấy bác đâu,
chạy về nhà thì vợ bảo bác đi xuống dưới này. Bác Vọng ơi, lão Phan thầy
thuốc…...treo cổ chết trong nhà…..từ...từ đêm hôm qua rồi.

Ông Vọng giật mình hỏi lại :

-- Cậu nói gì cơ…? Nói lại tôi nghe xem nào…?

Sửu nói lại thật chậm rãi :

-- Lão Phan thầy thuốc, nhà ở đầu làng, treo cổ chết từ đêm hôm qua rồi. Sáng nay
người nhà mới biết, đang khóc lóc um sùm hết cả lên. Em đi ngang qua thấy nên
chạy về đây báo bác. Mà lạ một cái, đêm qua vợ chồng lão ấy vẫn còn ngủ chung, thế
mà chồng đi ra ngoài sân treo cổ chết từ bao giờ vợ cũng không biết, đến sáng mở
cửa ra nhìn thấy chồng lủng lẳng nơi gốc cây nhãn mới hét toáng lên. Bác đến ngay
đi….

Đến đây thì cả ông Vọng lẫn cô Xoan đều bàng hoàng, nghe đến có người chết, mặt
cô Xoan tái đi trông thấy. Hai bàn tay cô Xoan bất giác túm chặt lấy áo ông Vọng, ông
Vọng hỏi :

-- Cô có đến đó xem không..? À mà quên, cô còn con Mị….Thôi, tốt nhất là ở nhà.

Cô Xoan ấp úng :

-- Vâng...dạ….dạ….Bác trưởng làng đến đó...chứ...chứ...em đến làm gì.

Ông Vọng vội vã rời khỏi nhà cô Xoan, cả thầy Lương cũng đi theo, hai hôm trước là
gà với bò chết, hôm nay lại có người treo cổ tự tử. Đang định đi quanh làng một
vòng để xem xét địa hình, mà giờ mới sáng sớm đã có tin người chết, thầy Lương
đành tạm gác việc kia lại.

Đứng trước nhà lang Phan, đây có lẽ là một trong vài ngôi nhà gạch hiếm hoi của
làng Văn Thái, nói vậy đủ hiểu nhà lang Phan giàu có hơn hầu hết những gia đình còn
lại. Sân gạch đỏ, nhà mái ngói, người dân đang bu kín cổng vì nghe tin lang Phan treo
cổ chết. Sửu dọn đường cho ông Vọng :

-- Trưởng làng đến rồi, mọi người tránh ra một chút.

Đi vào trong sân, đập ngay vào mắt hình ảnh đầu tiên chính là lang Phan đang treo lơ
lửng trên một cành nhãn với phần cổ thít chặt thòng lọng. Phủ phục dưới gốc cây là
vợ của Phan, thấy trưởng làng đến, vợ Phan gào thét :

-- Bác trưởng làng ơi, sao chồng em lại chết thế này.

Nhìn xác lang Phan vẫn còn treo ở đó, ông Vọng phải nhờ Sửu cùng vài người nữa cố
gắng đưa xác lang Phan xuống. Nhìn khuôn mặt lang Phan khi ấy ai cũng phải kinh
sợ, chết vì treo cổ nên toàn thân lang Phan tím tái, tụ máu bầm, hai tròng mắt thì
chảy ra máu tươi đỏ lòm, đắp tạm cái chiếu lên xác của lang Phan, ông Vọng mới hỏi
vợ của y :

-- Trong nhà không xảy ra vấn đề gì đấy chứ…?

Vợ Phan lắc đầu nguầy nguậy :

-- Không có bác ơi, chiều hôm qua vẫn còn uống rượu, ăn nhậu bù khú….Đêm đến
hai vợ chồng em còn ngủ chung, ổng còn hùng hục cho đến tận nửa đêm. Ổng hành
em đến hết cả sức, em mệt quá lăn ra ngủ…..Lúc đó cũng thấy ông ấy nằm vật ra rồi,
sáng nay tỉnh dậy sờ bên cạnh không thấy người đâu. Tưởng ông ấy ra sân tập thể
dục. ai ngờ….Vừa mở cửa ra thì lấp loáng phía cây nhãn có bóng người đung
đưa…..Em chạy lại thì nhận ra chồng mình đã treo cổ chết từ bao giờ….hu hu hu….hu
hu hu.

Lời nói của vợ Phan mặc dù trong hoàn cảnh có người chết nhưng những người đứng
xem bên ngoài đường cũng không khỏi bật cười. Nhưng nhìn cái xác của Phan lúc
đưa xuống thì chẳng ai dám cười dai thêm nữa. Nhà cao cửa rộng, lại hành nghê bốc
thuốc, một trong những nghề được tôn làm thầy, chẳng có lý do gì khiến cho lang
Phan phải tự tử. Nhưng nếu không phải do lang Phan tự tìm cái chết thì chẳng lẽ là
do ma nhập.

Gà chết, bò chết, nước giếng nhiễm độc, giờ lại đến một người không rõ nguyên
nhân gì mà treo cổ tự tử trong khi lắm tiền, nhiều bạc, có của ăn của để…..Tất cả
những sự việc diễn ra trong ba ngày qua đang khiến cho người dân làng Văn Thái
cảm thấy sợ hãi.

Trong đám đông bỗng nhiên có một người cười lớn :

-- Ha ha ha….Ha ha ha….Ta đã bảo rồi, nếu không nghe lời ta thì làng này sẽ bị thần
trừng phạt.

Giọng nói của bà Điều làm nghề thầy cúng trong làng, nghe làng có người bị chết, bà
Điều đến xem rồi tiếp tục gieo thêm sự sợ hãi vào tiềm thức của mọi người. Ông
Vọng nhìn thầy Lương khẽ nói :

-- Có lẽ….có lẽ bà ta nói đúng…..Phải dựng tượng thần Thành Hoàng mới thôi.

Ông Lương nói :

-- Phiền trưởng làng dẫn tôi đến đình, cho tôi xem vết nứt của tượng được chứ…?

Ông Vọng gật đầu, người nhà lang Phan khi đó cũng đã đến, xác lang Phan được đưa
vào trong nhà. Ông Vọng cùng thầy Lương và Sửu đi đến đình làng cách đó không xa.
Cả bà Điều cũng đi đến đó, dân làng cũng hiếu kỳ đi theo bà thầy cúng. Đến ngã ba
làng, bỗng nhiên từ dưới giếng nhảy lên một con cá chuối phải to bằng cổ chân
người lớn, con cá quẫy tung mặt nước rồi rơi bịch xuống nền gạch, tất cả mọi người
ai nấy hoảng hồn, bởi con cá chuối to bất thường ấy không mang màu đen như
những con cá chuối khác mà nó có màu trắng.

Con cá giãy đành đạch vài nhịp rồi nằm im bất động, có vẻ như nó đã chết.

Chứng kiến cảnh tượng đó, trong đầu ông Lương nghĩ ngay đến hình ảnh cụ già ngồi
dưới gốc cây lộc vừng trong giấc mơ đêm qua, cũng là hình ảnh cụ già mặc bộ đồ
trắng đứng bên giếng chỉ đường cho ông đến nhà trưởng làng lần trước. Hay nói
cách khác, con cá chuối màu trắng kia chính là hiện thân của cụ già, và cũng chính là
vị thần bảo hộ cho làng Văn Thái.

“ Rầm “

Giếng làng cách đình không xa, một tiếng động lớn vừa phát ra hướng đình làng,
hình như là có gì vừa đổ vỡ. Chẳng ai bảo ai, tất cả mọi người lập tức chạy về hướng
đình làng. Dừng chân lại giữa sân đình, phía bên trong đình bụi tung mờ mịt. Ông
Vọng điếng người, ông loạng choạng suýt nữa thì ngả ngửa ra đằng sau nếu không có
Sửu đỡ. Bên trong đình, bức tượng thờ thần Thành Hoàng đã đổ sập xuống thành
từng mảnh.

Tiếng cười của bà Điều thầy cúng lại vang lên sang sảng :

-- Ha ha ha…..Hết rồi, hết thật rồi….Làng này rồi sẽ chết hết không còn một ai….Thần
nổi giận rồi….Ha ha ha.

Điệu cười man rợ ấy khiến một người cục cằn như Sửu cũng phải rùng mình nổi da
gà. Ông Vọng thì đổ mồ hôi lạnh, mặt ông tái nhợt đi, theo như những gì ông biết thì
từ xưa đến nay, chưa bao giờ làng lại xảy ra chuyện này. Tượng thờ thần Thành
Hoàng đã có từ rất lâu, nhưng chưa bao giờ tượng bị vỡ chứ đừng nói đến đổ nát
thành những mảnh vụn như thế này.

Tượng thần bị đổ, bị vỡ chính là đại kỵ, nhưng đây không phải là do thần phật nổi
giận, mà là bởi vì vị thần bảo hộ cho làng Văn Thái đã biến mất, hay theo cách gọi của
người đời, vị thần đó đã chết.

Dân làng Văn Thái, những ai chứng kiến hình ảnh bức tượng thần Thành Hoàng bị đổ
sập đều bỏ chạy khỏi sân đình. Sửu nuốt nước bọt, Sửu hỏi :

-- Bác...bác Vọng….bây….bây giờ phải làm sao…? Chẳng lẽ lời...bà Điều nói khi nãy là
sự thật.

Ông Vọng không biết phải trả lời làm sao, bởi ông cũng tin vào những lời mà bà thầy
cúng vừa nói, ông Vọng hối hận đáp :

-- Phải chi năm ngoái tôi nghe lời bà ta dựng tượng mới thì làng đâu gặp phải họa
này.
Nói rồi ông Vọng quỵ chân xuống đất chắp tay hướng vào trong đình bái lạy. Giữa
sân đình thanh vắng, thầy Lương giờ mới lên tiếng :

“ Hướng Đông 5 dặm, trâu gặm đồng hoang, mặt trời lên cao, giờ Ngọ tam khắc. “

“ Bóng đổ đến đâu, đào sâu 6 thước “

-- Đó là những gì mà thần bảo hộ nhắn nhủ cho dân làng trước khi biến mất. Thần
Thành Hoàng của làng Văn Thái gắn bó với con dân nơi đây hàng trăm năm. Nay làng
gặp đại họa, bản thân thần cũng không tránh được kiếp nạn, nhưng thần vẫn cố gắng
gửi lời sấm đến người dân trong làng. Giờ thì tôi đã hiểu rồi, bác trưởng làng, giờ đây
ngồi khóc lóc không giải quyết được việc gì, nếu như cái chết dành cho dân làng là
điều không tránh khỏi, vậy tại sao trước khi chết, chúng ta không làm một điều gì đó.

Sửu nhìn thầy Lương hỏi :

-- Những lời thầy vừa nói là sao…? Thầy có cách nào giúp dân làng chúng tôi không
thầy.

Thầy Lương khẽ đáp :

-- Tôi không chắc chắn, nhưng muốn giúp dân làng chẳng bằng người dân trong làng
tự cứu mình. Giờ tôi cần hai người đi theo tôi, tính từ giếng làng, dẫn tôi đi đúng 2
dặm về hướng Đông, cầm theo cuốc, xẻng, dụng cụ đào bới. Đến nơi tôi sẽ có chỉ dẫn
tiếp theo. Trước khi gặp kiếp nạn, thần bảo hộ vẫn cố đưa ra lời sấm truyền….Đây có
lẽ là cách cứu dân làng tránh được họa diệt thân.

[.........]

Tại nhà cô Xoan, Mị đã ngủ dậy, vẫn như thường lệ, Mị lần từng bước đi ra trước
hiên nhà, tay cầm mẩu gạch đỏ nhỏ, Mị tiếp tục vẽ những nét nguệch ngoạc lên nền
hiên.

Đôi mắt trắng đục, vô hồn nhìn thẳng vào không trung, tay Mị cứ thế đưa đi đưa lại
mẩu gạch trên hiên nhà tạo thành những tiếng :

“ Quẹt...Xoẹt...Quẹt “

Vừa vẽ Mị vừa cất tiếng cười :

“ Hi...hi...hi….He...he...he….”

“ He….he….he….he..”

Cô Xoan đang ở sau nhà, nghe thấy tiếng cười, cô vội buông rổ rau đang nhặt dở,
chạy vội lên nhà thấy Mị đang ngồi đó, cô Xoan nhìn xung quanh, cô hỏi con gái mặc
dù biết con mình không thể trả lời :
-- Có phải con vừa cười không…?

Mị không đáp lại dù chỉ bằng hành động, cô Xoan thở dài :

-- Làm sao nó cười được, mười mấy năm nay mình có thấy nó cười bao giờ đâu.

Nhìn xuống hiên nhà nơi con gái đang ngồi, cô Xoan tưởng con gái chỉ vẽ những nét
không có hình thù nên thở dài bỏ xuống bếp nhặt tiếp mớ rau. Nhưng không, dưới
hiên nhà là một hình vẽ nhìn rất giống một cái cây, trên cành cây có treo một vật
được vẽ giống như hình thù con người…...Những nét vẽ đó không phải những nét
gạch lung tung, nó có hình dạng nhất định. Và “ bức tranh “ cây và người kia là bức
tranh mà Mị vẽ ngày hôm qua.

Còn bây giờ, nó đang vẽ một bức tranh mới với những nét nguệch ngoạc mới…...

#Chap19 : Bãi Hoang.


30 phút sau, Sửu quay lại nơi giếng làng, đi theo Sửu là một người khác, trên tay họ
cầm đủ cả cuốc, xẻng, dây thừng, nước uống.

Sửu nói với thầy Lương :

-- Đây là Lực, là em vợ tôi….Nó khỏe lắm, thầy bảo đem theo cuốc xẻng thì chắc phải
đào bới ở đâu đó, vậy nên tôi gọi nó theo có gì phụ một tay.

Trước khi đi, thầy Lương nói với trưởng làng :

-- Chuyện nước giếng bị nhiễm độc bác trưởng làng đã thông báo cho mọi người hết
chưa…?

Ông Vọng đáp :

-- Đã báo đến từng nhà rồi thưa thầy.

Sửu nói chen vào :

-- Thầy đừng lo, khi nãy nhìn thấy con cá chuối trắng nhảy lên khỏi giếng rồi chết,
dân làng ai cũng khiếp hồn. Hôm qua còn bán tín bán nghi chứ hôm nay chẳng ai
dám dùng nước giếng nữa đâu.

Để chắc ăn, thầy Lương tiếp :

-- Tuy đó mới chỉ là dự đoán sau khi nước giếng nhà cô Xoan làm chết đàn gà và
nước giếng của làng khiến cho hai con bò nhà anh Mão cũng chết theo cách tương
tự. Nhưng có vẻ như nước ở ao, ở mương vẫn chưa có dấu hiệu bị nhiễm độc bởi
nếu nước có độc, chắc chắn tôm cá đã chết nổi hết rồi. Đây tạm coi như một dấu
hiệu chất độc hiện tại chỉ ngấm trong mạch nước ngầm của nước giếng. Tuy nhiên,
để cho an toàn, mọi người trong khoảng thời gian này vẫn chỉ nên sử dụng nước
mưa.

Ông Vọng gật đầu :

-- Ngày hôm qua khi thầy nói là tôi đã nhắc nhở mọi người cẩn thận rồi.

Thầy Lương ban nãy nhìn thấy trong sân đình có một tấm bạt che mưa khá lớn, nãy
ông đã đem ra đây. Dải tấm bạt ra, thầy Lương nói :

-- Giờ mọi người giúp tôi căng tấm bạt này che miệng giếng lại, tốt nhất nên làm vậy
để cảnh báo mọi người.

Phủ bạt che kín miệng giếng xong, lúc này đã gần 9h sáng, thầy Lương đứng im lặng
một lúc rồi chỉ tay ra hiệu cho mọi người :

-- Hướng đông 5 dặm, cảm phiền mọi người dẫn đường.

Lực khẽ hỏi :

-- Nhưng hướng này chẳng phải là đi đến bãi hoang của làng hay sao…? Mà sao biết
được đi đến đâu thì đúng 5 dặm.

Thầy Lương khẽ cười :

-- Cậu đừng lo điều đó, tôi tự có cách tính đường của riêng mình. Mà cậu nói bãi
hoang là sao…?

Ông Vọng liền giải thích :

-- À, đó là khu đất cũng thuộc làng Văn Thái, nhưng từ đời bố mẹ tôi kể lại là đất ở
đó trồng cây gì cũng không lên được, không hiểu lý do vì sao. Nghĩ là đất xấu nên dân
làng không canh tác ở đó nữa. Cha ông chúng tôi sau này mới mở rộng đất, dựng
nhà, dựng cửa, vậy cho nên thầy thấy đó, làng tui đất rộng nhưng bà con chỉ tập
trung quanh khu vực đình làng, giếng làng. Khu vực không trồng trọt được, dần dà
mọi người gọi nó là bãi hoang.

Được nghe thêm một chi tiết khá lạ, đang trên đường đi, thầy Lương phải tập trung
vào những sải chân, qua đó tính được quãng đường đang đi. Ông Vọng nói không
sai, giống với đoạn đường đi tới cây đa đầu làng, phải nói đất làng này rất rộng,
nhưng dân cư, nhà ở lại thu hẹp trong phạm vi kể từ ngôi đình thờ Thần Thành
Hoàng đổ ra. Khi mới đặt chân đến đây, khó khăn lắm thầy Lương mới tìm được
quán nước ngay dưới gốc đa để xin trú mưa. Thầy Lương nghĩ trong đầu :

“ Bãi Hoang, chẳng lẽ đất đai ở đó cằn cỗi đến mức không trồng được thứ gì hay
sao..? “
Đi hết con đường đất, đến đoạn này thì hai bên đường cỏ mọc um tùm che kín cả lối
đi. Có lẽ rất lâu rồi chẳng ai đi đến đây nên con đường cũng dần bị cỏ dại, cây dại che
phủ. Sửu với Lực đi trước dùng dao phạt bớt cỏ hoang hai bên lấy lối, thầy Lương
vẫn đi sau, vừa đi vừa lẩm nhẩm…...Cuối cùng thì cũng đi qua đoạn đường rậm rạp,
cũng là lúc con đường đất đã đến điểm cuối cùng.

Bất chợt thầy Lương nói :

-- Dừng lại, chúng ta đi được 5 dặm rồi.

“ Phạt...Roạt….Roạt…”

Những nhát dao sắc lẹm chém quang cả bụi cây trước mặt của Sửu để lộ ra phía
trước mặt chính là Bãi Hoang.

Lực chạy ra rồi cười lớn :

-- Đấy thấy chưa, em đã bảo là đến Bãi Hoang mà.

Trước mặt thầy Lương, cảnh vật hoàn toàn trái với suy nghĩ của ông, khi nghe đến cái
tên Bãi Hoang, ông đã nghĩ nơi đây đất đai khô cằn, xám xịt, vậy cho nên bà con
nông dân mới không canh tác được, vậy mà những gì ông tưởng tượng đều ngược
lại. Trước mặt thầy Lương là một cánh đồng cỏ tươi tốt, những bụi bông lau cao gần
bằng người trải dài bao quanh.

Thầy Lương có phần bất ngờ với nơi này, Sửu chạy lại hỏi :

-- Thầy Lương, có phải chỗ thầy muốn đến là nơi này không..?

Thầy Lương gật đầu :

-- Đi đúng 5 dặm thì đến nơi đây, chắc không sai được.

Sửu tiếp :

-- Thế bây giờ phải đào ở đâu, thầy cứ nói…..Chúng tôi sẽ làm ngay.

Ông Vọng cũng chờ đợi xem tiếp theo thầy Lương sẽ chỉ dẫn làm gì, thầy Lương đáp :

-- Hướng đông 5 dặm đã đến, nhưng phải đợi đến giờ ngọ tam khắc mới đúng thời
điểm. Chưa kể hãy còn một vấn đề mà tôi đang chờ đợi.

Ông Vọng hỏi :

-- Là vấn đề gì vậy thầy, có thiếu gì nữa không ạ…? Cuốc xẻng, nước uống cũng đã
đem theo đủ rồi.
Thầy Lương đưa tay ra bấm độn, nhưng vẫn như những ngày trước đây, ông không
thể luận ra được điều gì cả. Thầy Lương hỏi :

-- Đồng cỏ tốt như này chắc bà con cũng dắt trâu bò ra đây thả phải không trưởng
làng.

Lực cười rồi nói :

-- Không có đâu thầy ơi, ban nãy đi vào đây thầy cũng thấy rồi, lối đi bị cây dại phủ
kín, phải dùng dao phạt quang mới đi được. Hơn nữa làng chúng tôi đất rộng, xung
quanh khu vực nhà dân cũng có đồng ruộng, chẳng ai hơi đâu mà dắt trâu đến tận
Bãi Hoang để chăn cả. Vừa xa mà lại vừa ghê chết đi được.

Sửu quát :

-- Cái thằng này, ăn nói cho cẩn thận…..Mày nói chuyện với thầy thế à…?

Lực gãi tai vội xin lỗi thầy Lương, thầy Lương cười rồi hỏi :

-- Xa thì đúng, nhưng sao lại ghê…? Cậu có thể nói rõ hơn được không..?

Lực nhìn ông Vọng với anh rể không dám nói, ông Vọng đáp :

-- Thực ra thì từ khi tôi lên làm trưởng làng, thấy đất đai ở đây rộng, cỏ với lau mọc
tươi tốt nên tôi cũng có ý định khai khuẩn rồi bảo bà con trồng thêm ngô, mía ở
đây….Mặc dù đời ông bà đã nói là làm cách nào cũng không trồng được. Tính tôi bộ
đội nên ngày ấy tôi chẳng tin. Huy động được một vài hộ gia đình đồng lòng, bọn tôi
có đến đây cày cuốc để gieo giống. Nhưng…..

Thầy Lương hỏi :

-- Nhưng sao….?

Ông Vọng ấp úng :

-- Nhưng trong ba hộ gia đình đi theo tôi, có hai vợ chồng mới cưới. Sau khi khai
hoang được 3 ngày thì cả hai không đến đây nữa. Tôi có hỏi lý do thì họ nói không
muốn làm…...Và 3 ngày sau, chẳng hiểu tại sao cả hai vợ chồng đều chết trong nhà
không rõ lý do. Lúc chúng tôi đến nhà đóng cửa khóa trong, gọi mãi không thấy ai trả
lời, sợ xảy ra chuyện gì nên tôi phá cửa lao vào. Trên giường, hai vợ chồng họ đã chết
từ bao giờ, họ nằm trên giường với tư thế quằn quại, cứ như trước khi chết họ phải
chịu đựng điều gì đau đớn lắm…...Còn một điều nữa, ngoài xác của hai vợ chồng đó
thì trên giường còn có rất nhiều tiền.

Thầy Lương nheo mày :


-- Tiền sao…? Họ giàu có lắm phải không..?

Ông Vọng lắc đầu :

-- Nếu mà giàu thì họ đâu cần theo tôi đi mở đất ở chỗ này. Tôi cũng không hiểu tại
sao chỉ sau vài ngày mà họ lại có nhiều tiền như vậy…? Nguyên nhân cái chết của cặp
vợ chồng đó đến bây giờ vẫn còn là bí ẩn. Đã hơn 20 năm trôi qua rồi.

Sửu chen vào :

-- Thế cho nên dân làng nói khu đất này có vấn đề, vậy nên chẳng ai mò ra đây cả.

Lực lúc này mới nói thêm :

-- Em còn nghe thằng Hòa kể, đợt nó với con vợ nó mới yêu nhau. Vì gia đình ngăn
cấm nên chúng nó mò tận ra đây để tâm sự….Ban đầu thanh vắng không có gì,
nhưng một hôm hai đứa ngồi trước bụi lau tâm sự thì đột nhiên nghe thấy tiếng cười
ở ngay sau lưng. Mà giọng cười ghê lắm, đợt đó chúng nó bỏ cả quần áo chạy luôn
mà.

Tuy không rõ ràng, nhưng một hai mẩu chuyện về Bãi Hoang khiến cho thầy Lương
biết, khu đất này chắc chắn ẩn giấu một thứ gì đó. Nhưng rốt cuộc nó là thứ gì thì
phải đợi đến giờ Ngọ ba khắc mới có thể biết được…...
Thử đăng chap buổi trưa xem tương tác có cao hơn không. Nhóm tối nay ra chap 74
nhé. Đầu tuần vui vẻ.

#Miếu_Hoang - Tác Giả Trường Lê.

#Chap20 : Giải Mã Giấc Mơ.


Ngồi nghỉ ngơi uống nước chờ đợi đến thời gian mà ông cụ mặc đồ trắng đã nói
trong giấc mơ. Lúc này cũng đã là 11h30 buổi trưa, có nghĩa là chỉ còn 15 phút nữa là
đến giờ Ngọ ba khắc ( 11h45 ).

Giờ sắp điểm, nhưng vẫn chưa thấy có gì xuất hiện ngoài 4 con người là thầy Lương,
ông Vọng, Sửu và Lực.

Có phần nóng ruột, ông Vọng hỏi :

-- Sắp đến giờ rồi mà vẫn chưa biết phải đào ở đâu sao hả thầy.

Thầy Lương cũng không biết giải thích ra sao, ông nói :

-- Còn 15 phút nữa, cố đợi đến lúc đó xem sao. Đã đến được đây, chẳng lẽ lại sai…?

Chờ đợi cũng đã lâu, lại cuồng chân, Sửu đứng dậy vươn vai rồi nói :
-- Ngồi một chỗ khó chịu quá, bác trưởng làng cùng thầy cứ ngồi đây, tôi đi tiểu một
chút rồi quay lại.

Còn Lực thì ngồi dưới bụi lau, gió hiu hiu thổi đã ngủ từ lúc nào. Thầy Lương mỗi lúc
lại hoang mang hơn khi mà thời gian đang trôi dần về giữa trưa, chỉ còn chưa đầy 10
phút nữa là sẽ đến giờ Ngọ ba khắc. Thầy Lương lẩm bẩm :

-- Hướng đông 5 dặm, nơi mà thần bảo hộ nói chắc chắn là nơi này….Nhưng còn trâu
gặm đồng hoang là sao…? Giữa đồng cỏ chỉ có 4 người với cỏ lau, làm gì có con trâu
nào cơ chứ…?

Cũng sốt ruột, thầy Lương đi ra giữa trời nắng, ông ngước mắt lên nhìn mặt trời đã
sắp đứng bóng. Tiếp tục ông nhìn xung quanh, cố gắng tìm kiếm xem có con trâu nào
ở gần đây không, tuy nhiên làm gì có.

Chỉ có nơi gò đất khẽ nhô lên cao hơn bề mặt đồng cỏ, trên gò có một bụi lau nhỏ chỉ
cao đến quá gối người , đứng đi tiểu ngay bụi lau chính là Sửu. Đột nhiên thầy Lương
cười lớn :

-- Ha ha ha…..Ha ha ha…...Đúng rồi, chính là hắn….Trời đất ơi, sao ta lại không nghĩ ra
được cơ chứ. Trâu đã xuất hiện ngay từ khi ta đặt chân đến bãi hoang.

Hướng về phía Sửu, thầy Lương hét lên :

-- SỬU, CẬU ĐỨNG IM Ở ĐÓ.

Sửu đang kéo quần thì nghe thấy tiếng thầy Lương, chưa hiểu mô tê gì nhưng thầy
bảo đứng im nên Sửu nào dám di chuyển. Miệng vẫn ngậm cành bông lau vừa ngắt ở
bụi lau nhỏ dưới chân, Sửu ngơ ngác khi thầy Lương chạy vội đến.

Thầy Lương lẩm nhẩm đếm gì đó rồi bất chợt ông cầm xẻng cắm phập xuống đỉnh cái
bóng của Sửu đang đổ trên mặt đất. Xong thầy Lương nói :

-- Được rồi, cậu hãy đào ngay chỗ này…..Đào sâu 6 thước.

Cả ông Vọng cùng với Lực cũng đứng sau nhìn, ông Vọng hỏi :

-- Thầy, như vậy là sao…?

Thầy Lương cười rồi giải thích :

-- Hướng đông 5 dặm, trâu gặm đồng hoang, mặt trời trên cao, giờ ngọ ba khắc -
bóng đổ đến đâu, đào sâu 6 thước. ý nghĩa của câu nói này chính là cái bóng của cậu
Sửu đây. Tôi hỏi khí không phải, cậu tuổi sửu phải không..?

Sửu gật đầu lia lịa :


-- Dạ đúng rồi thầy, tôi tuổi sửu nên bố mẹ đặt luôn tên là Sửu.

Thầy Lương cười rồi nói tiếp :

-- Hướng đông 5 dặm chính là chỉ chúng ta đến Bãi Hoang này, còn trâu gặp đồng
hoang, tôi cứ chờ đợi ai đó sẽ dắt trâu ra đây chăn thả, nhưng thực ra câu sấm đó
không phải nói về con trâu, mà ám chỉ người tuổi trâu…..Mọi người nhìn xem, trên
miệng cậu ta đang ngậm bông lau kìa, thế chẳng phải “ trâu gặm đồng hoang “ là
gì..? Mặt trời trên cao, giờ ngọ ba khắc, bóng đổ đến đâu, đào sâu 6 thước chính là
muốn nói đến bóng của cậu Sửu khi đến giờ ngọ ba khắc. Chính là nơi tôi cắm cái
xẻng…….Chỉ dẫn của thần bảo hộ cho làng đều có nguyên do của nó. Giờ lời sấm đã
được giải, công việc của chúng ta lúc này chính là đào chỗ này sâu xuống 6 thước
xem dưới đó có gì.

Nghe xong, ngay lập tức Sửu với Lực, cả ông Vọng vội lấy dụng cụ để chuẩn bị đào
bới. Nhưng trước khi Sửu định cuốc nhát đầu tiên xuống mặt cỏ thì thầy Lương ngăn
lại :

-- Khoan đã, khoan hãy đào….Đợi tôi một chút.

Dứt lời, thầy Lương lấy ra hai sợi dây đeo cổ bằng chỉ đỏ có xỏ mỗi dây là một hạt
tràng màu nâu.

Thầy Lương nói ;

-- Hai hạt tràng này được lấy ra từ chuỗi hạt tràng của sư trụ trì Thiên An Tự. Hai lần
đến đó tôi đều giúp đỡ nhà chùa chút công quả, sư trụ trì luôn muốn báo ơn nên mỗi
lần tôi đều xin ông ấy một hạt tràng từ chiếc vòng của ông ấy. Ban nãy có nghe qua
một vài mẩu chuyện mà các vị kể có liên quan đến Bãi Hoang này, hiện tại tôi chưa
thể xác định được khu vực này có chướng khí hay trấn yểm gì không, nhưng để cẩn
thận, ai đào bới ở đây nên đeo vòng này vào. Nếu có tà khí, thứ này sẽ bảo vệ người
đeo. Bởi hạt tràng có nguồn gốc từ chùa, lại là của người có đức hạnh, ai sẽ đeo.

Ông Vọng định lấy nhưng Sửu chộp luôn cả 2 sợi dây đeo, đưa cho Lực một cái, Sửu
nói với trưởng làng :

-- Bác cứ ngồi nghỉ ngơi đi, chuyện đào bới để anh em tôi làm là được rồi. Hơn nữa
chỉ có 2 sợi, thế nên hai thằng chúng tôi là hợp lý nhất.

Ông Vọng đáp :

-- Nhưng lỡ….như có gì nguy hiểm…..thì…

Lực cười :

-- Chính vì sợ có gì nguy hiểm nên bác cứ để 2 anh em tôi đào. Bác còn phải gánh vác
chuyện cả làng cơ mà. Phải không anh rể….
Thầy Lương nhìn ông Vọng gật đầu :

-- Bác trưởng làng quả thực là người nhân hậu, để những người dân trong làng kính
trọng, sẵn sàng chấp nhận nguy hiểm thay bác không phải chuyện dễ dàng. Đây là
chuyện mà tất cả người dân trong làng cần phải chung tay giải quyết, vậy nên bác
đừng suy nghĩ nhiều, trong lúc chờ đợi, không biết bác trưởng làng có thể kể cho tôi
nghe rõ hơn về câu chuyện cặp vợ chồng theo bác đến đây khai hoang rồi chết trong
nhà có được không ạ..?

Ông Vọng đáp :

-- Tất nhiên là được rồi, nhưng sao thầy lại muốn biết rõ về chuyện đó…?

Thầy Lương nói :

-- Khi nãy nghe câu chuyện mà trưởng làng kể, tôi có suy đoán như thế này….Có thể
hai vợ chồng họ trong lúc đào bới nhiều khả năng đã đào hoặc nhặt được thứ gì đó
tại đây. Và chắc hẳn thứ đó phải có giá trị, nhưng họ muốn giấu đi làm của riêng nên
không nói cho ai biết, sau đó đã bán vật đó lấy tiền, và số tiền trên giường nơi hai vợ
chồng đó chết chính là tiền bán “ bảo vật “.

Ông Vọng run giọng hỏi :

-- Nhưng….nhưng nếu chỉ...là bán bảo vật….tại sao họ lại...chết…?

Thầy Lương khẽ đáp :

-- Có thể trưởng làng không biết, người xưa, nhất là những người giàu có, họ sợ sau
khi họ chết đi sẽ có người đến cướp lấy tài sản của mình, cho nên họ chọn cách chôn
xuống đất. Tuy nhiên cũng có những người nghĩ như vậy chưa đủ an toàn nên họ tìm
thầy phù thủy, thầy bùa về trấn yểm, đặt ra lời nguyền nếu như có ai không phải họ
hoặc mang dòng máu, dòng dõi của họ mà sử dụng tài sản đó sẽ bị nguyền rủa cho
đến chết. Nhiều năm qua đi khắp mọi nơi trên lãnh thổ Việt Nam, tôi biết dưới lòng
đất này có rất nhiều bảo vật, nhưng muốn lấy chúng không phải chuyện dễ dàng. Kẻ
nào cố gắng xâm phạm đều phải chịu những cái chết vô cùng đau đớn.

Thấy ông Vọng nhìn về phía Sửu và Lực đang đào, thầy Lương vội nói :

-- Trưởng làng đừng lo, tôi đã dặn dò kỹ họ, khi đào sâu được 6 thước, nếu thấy vật
gì cũng tuyệt đối không được chạm tay vào. Hơn nữa họ đã đeo vòng hạt tràng, sẽ
không có vấn đề gì đâu.

Ông Vọng thở phào, ông nói :

-- Lời của thầy quả thực giải thích hợp lý cho cái chết của vợ chồng kia, nhưng đó
cũng chỉ là suy đoán, lỡ đâu không phải thì tội nghiệp họ quá.
Thầy Lương im lặng một hồi rồi mới đáp lại :

-- Cũng có thể, nhưng tôi vẫn có cảm giác, chuyện xảy ra hơn 20 năm trước về cái
chết của họ và Bãi Hoang này có gì đó liên quan. Bởi giờ bình tĩnh lại, ngắm nhìn bao
quát cả khu vực này…..Tôi thấy đây chính là…..

Đang nói bất chợt thầy Lương dừng lại, ông Vọng hỏi :

-- Là gì vậy thưa thầy…?

Thầy Lương nhìn ông Vọng rồi khẽ tảng lờ, đánh trống lảng sang chuyện khác :

-- À….không có gì, trước mắt phải đợi xem hai người kia liệu sẽ đào được thứ gì đã.

Thấy thầy Lương không muốn nói, ông Vọng cũng không dám hỏi, ông đem nước ra
cho Sửu và Lực. Đứng phía sau ông Vọng, thầy Lương nhìn kỹ từng bước đi cho đến
dáng người của ông Vọng, thầy Lương tự nhủ trong đầu :

“ Sao lại thế nhỉ…? Vừa rồi trong khoảng khắc ta khẽ rùng mình khi nhìn thấy trưởng
làng có chút liên quan đến khu đất này. Tạm thời chưa thể nói hết cho ông ta biết
được, đợi xem sau thế nào..? Có khi nào ông ta còn đang giấu diếm một sự thật nào
đó mà không muốn kể cho người khác…? “

Từ lúc bắt đầu đào bới đến bây giờ đã được hơn 30 phút. Giữa trưa nắng hanh khô,
Lực và Sửu vẫn miệt mài đào, độ sâu 6 thước với nền đất càng xuống sâu lại càng
cứng không phải chuyện dễ dàng. Cả hai mồ hôi mồ kê nhễ nhại, nhưng họ vẫn tích
cực đào không ngơi tay…..Liệu họ sẽ tìm được vật gì dưới độ sâu 6 thước đất ấy…?

Mời các bạn hóng cháp sau he he he.


Thấy post trưa tương tác khá tốt nên sẽ tiếp tục. Group tối nay chap 75 nhé.

#Miếu_Hoang - Tác Giả Trường Lê.

#Chap21 : “ Thanh Long “


-- Trời nắng quá thầy Lương nhỉ..? - Ông Vọng nói.

Khẽ lau mồ hôi trên trán, thầy Lương sắp xếp lại một ít vật dụng trong tay nải rồi gật
đầu trả lời :

-- Vừa qua chính ngọ, hai ngày gần đây, kể từ sau cơn mưa thời tiết chuyển hanh
khô, nắng nóng một cách khó hiểu.

Ông Vọng khẽ hỏi :

-- Liệu chuyện của làng có cách giải quyết không hả thầy…?
Thầy Lương đáp :

-- Đừng nóng vội, trước mắt cứ thực hiện theo những gì chúng ta được mách bảo.
Còn về vấn đề nguồn nước, trận mưa vừa qua đúng là trong họa lại có phúc. Nhà nào
cũng tích được một lượng nước mưa đủ dùng trong vòng 1 tháng tới. Trong thời gian
này phải nhanh chóng tìm ra nguồn cơn dẫn đến việc mạch nước ngầm do đâu
nhiễm độc. Cơ mà bác trưởng làng cũng phải dặn dò mọi người cần phải cực kỳ tiết
kiệm nước, cẩn tắc vô áy náy, còn chưa biết tình trạng này kéo dài bao lâu.

Ông Vọng vâng dạ nói tiếp :

-- Nhưng ví dụ trong trường hợp tìm được nguyên nhân thì liệu có cách giải độc
không thầy…? Vì như thầy thấy đấy, nước giếng bị nhiễm độc hết, chẳng lẽ phải tát
cạn hay sao... ?

Thầy Lương mỉm cười :

-- Cũng có thể hoặc không, thực ra mà nói, loại độc có trong nước cho đến lúc này tôi
cũng chưa xác định được nó là loại độc gì. Khi không có phản ứng thì độc trong nước
không có biểu hiện gì, nguồn nước vẫn trong, không bốc mùi…..Bác trưởng làng
đừng lo, vạn vật trên đời đều tương sinh, tương khắc, độc còn có thể dùng độc trị cơ
mà. Ngày hôm trước tại nhà trưởng làng, chắc trưởng làng cũng đã thấy vết nứt trên
mai rùa, từ vị trí trung tâm của mai rùa bị vỡ, ngay sau đó những vết nứt lan rộng
trên khắp bề mặt chiếc mai. Điều này ám chỉ, điểm trung tâm nơi bị vỡ của mai rùa
chính là Long Mạch, độc có thể xuất phát từ đó và lan rộng ra khắp mạch nước ngầm
trong làng. Vậy nên, khi xác định được nguồn gốc nơi độc phát tác, ắt sẽ có cách
khắc phục. Nhưng suy cho cùng đó vẫn chỉ là dự đoán của tôi, tiếc là khả năng của tôi
có hạn, không thể giải quyết ngay được.

Ông Vọng vội đáp :

-- Ấy chết, thầy đừng nói như vậy...Nghe thầy phân tích tôi cũng yên tâm phần nào. À
mà nãy thầy hỏi tôi về chuyện cặp vợ chồng chết cách đây hơn 20 năm phải không..?

Thầy Lương nói :

-- Đúng vậy, bởi vì họ cũng là người từng đào bới ở khu đất này. Nếu được thì bác
trưởng làng kể rõ chi tiết cho tôi nghe xem sao.

Ông Vọng thở dài rồi bắt đầu kể :

-- Năm đó tôi vừa xuất ngũ, chiến tranh mới chấm dứt, người dân còn khổ cực nhiều
lắm. Mà làng tôi thầy cũng biết rồi đấy, người dân chỉ biết làm nghề nông, bà con lại
bảo thủ, cổ hủ, sống theo tập tục của làng từ bao đời nay nên khi ấy lớp trẻ như tôi
có khuyên các cụ cũng không nghe. Làng Văn Thái đất rộng, nhưng việc trồng trọt
cũng không giúp đời sống của dân làng bớt cực nhọc được là mấy. Nhắm thấy Bãi
Hoang này địa hình bằng phẳng, lại có kênh nước chạy ngang qua, tôi mới đề xuất ý
kiến đến đây để khai hoang. Vì từ nhỏ tôi đã biết Bãi Hoang này mấy chục năm đều
bỏ hoang, không ai canh tác. Mà đất đó làng cũng coi như bỏ, chẳng thèm đoái hoài
gì đến luôn. Tuy nhiên, lạ một cái, khi tôi nói muốn đến Bãi Hoang để canh tác thì
hầu như các hương thân, phụ lão đều ngăn cản. Họ bảo rằng đất đó không trồng trọt
được, cây gì cũng không lớn nổi, chỉ có cỏ là sống được. Vốn tính bộ đội, xông pha
bom đạn còn chẳng sợ thì sợ gì mấy câu chuyện ma quỷ của các cụ. Vậy nên dù bị
ngăn cản nhưng tôi vẫn quyết tập hợp được thêm một vài người nữa trong làng,
cũng đều là những người có hoàn cảnh khó khăn. Ngoài tôi ra thì còn có 6 người
nữa, trong đó có cặp vợ chồng kia. Năm ấy tôi chưa đầy 30, còn hai người họ hình
như kém tôi 3-4 tuổi gì đó. Hôm nay ngồi tại Bãi Hoang, tôi lại nhớ đến giọng nói của
họ…Người chồng tên Đà, còn người vợ tên Liễu.

Ông Vọng hồi tưởng…..

[.........]

-- Wow, khu đất này đẹp quá anh Vọng nhỉ…? Đất này xây nhà còn hết xẩy chứ đừng
nói là canh tác để trồng trọt.

Vọng đưa tay lên trán che mặt trời rồi hướng tầm mắt ra xa bao quát một lượt, Vọng
cười :

-- Đẹp thật, địa hình bằng phẳng, có kênh nước chạy qua, này chỉ cần đào mương
dẫn nước tận ruộng là tha hồ mà trồng trọt.

Liễu hỏi Vọng :

-- Mà sao các cụ lại nói đất ở đây không trồng trọt được gì nhỉ..? Em thấy cỏ mọc
xanh mướt thế này cơ mà…?

Vọng đáp :

-- Cô chú còn lạ gì các cụ trong làng, làng mình ấy, từ xưa đến nay luôn có những tục
lệ riêng biệt, thậm chí ngay cả trong làng còn có những địa điểm mà các cụ cấm
không cho người khác ra vào cơ mà. Cô chú theo người thân chạy nạn từ nhỏ nên
không biết chứ, tôi từ ngày bé đã được quán triệt là không được lang thang ra Bãi
Hoang này rồi, cỏ tốt thì tốt thật nhưng chẳng ai dẫn trâu bò ra đây chăn thả đâu.
Nhưng chiến tranh xong, các cụ hương thân, già tuổi nhất làng cũng không còn mấy
ai, thành ra giờ nó cứ phiên phiến đi.

Đà hỏi :

-- Nơi này có vấn đề gì hả anh Vọng..?

Vọng khẽ lắc đầu :


-- Tôi cũng không biết, chỉ biết là nhỏ bị cấm đến đây thôi chứ tại sao thì chẳng ai nói.
Mà thôi, các cụ thì ai chẳng có những truyền thuyết ly kỳ, bí ẩn, rùng rợn….Ông bà ta
lúc còn sống chẳng là những kho truyện ma, nghe các cụ có mà nghe cả ngày. Đi lính
về hơn năm nay, thấy đất đai làng ta bỏ không nhiều quá, nhất là nơi này, vừa đẹp
lại vừa tiện cho việc trồng trọt, cày cấy…..Vậy mà bỏ không chắc cũng phải mấy chục
năm rồi quá. Khai khẩn mà ngon lành, có khi cô chú dựng cái nhà ở đây mà ở khà khà
khà.

[.......]

Đến đây, ông Vọng dừng lại một nhịp rồi nhìn thầy Lương buồn bã :

-- Nói thật với thầy, hơn 20 năm nay, nhiều đêm tôi cũng nằm suy nghĩ rồi nhớ tới
họ. Vì sau cái chết của họ, các cụ trong làng cho rằng họ chết là do xâm phạm vào
mảnh đất bị nguyền rủa. Nhưng thầy thấy đấy, ngoài vợ chồng họ ra thì tôi cũng đào,
mà mấy người khác cũng đào bới, xới đất….Nhưng chúng tôi có bị làm sao đâu, vậy
nhưng tôi vẫn canh cánh trong lòng, vợ chồng Đà - Liễu chết là do một phần lỗi của
tôi. Kỳ thực trên đời này có những thứ không nghe các cụ không được.

Thầy Lương hỏi :

-- Nhưng trước đó họ có biểu hiện gì lạ không..?

Ông Vọng suy nghĩ một hồi rồi trả lời :

-- Hai ngày đầu tiên, sau khi phân đất cho từng hộ thì họ làm việc chăm chỉ lắm, phát
quang bụi rậm, cắt cỏ…..Ban ngày chúng tôi đến đây làm việc, đến chiều thì về.
Chẳng ai làm sao cả, ai cũng vui vẻ vì khi xới đất lên, đất tơi xốp, có độ ẩm tốt. Chúng
tôi còn tính trồng những loại cây dài ngày nhưng cho hiệu quả kinh tế cao cơ mà.

Đột nhiên ông Vọng nhớ đến điều gì đó, ông nói :

-- Nhưng…..đúng rồi, buổi chiều của ngày làm việc thứ 2….Khi mà tôi cùng 4 người
kia thu dọn đồ chuẩn bị ra về thì hai vợ chồng họ đi đâu đó, tôi phải gọi đến câu thứ
3 họ mới hớt hải chạy ra và nói là đi rửa chân tay. Sớm đó vẫn còn kêu mệt, nhưng
lúc ra về, trên đường cả hai cứ tủm tỉm nhìn nhau cười vui vẻ lắm. Nghĩ vợ chồng
son, mới cưới nên tình tứ, chúng tôi còn trêu cơ mà. Khi đó Liễu còn quay lại hỏi lại
tôi….

[........]

-- Ủa mà bác Vọng này, sao bác không gọi cả vợ bác ra đây làm cùng.

Vọng đáp :

-- Nhà tôi cũng có ruộng mà, tôi đi làm với mọi người để mọi người đỡ nghi kỵ là đất
đai có vấn đề, vợ tôi ở nhà lo chuyện đồng áng chứ.
[.......]

Ông Vọng nói tiếp :

-- Sáng hôm sau, khi tôi cùng 4 người kia ra đến Bãi Hoang thì đã thấy vợ chồng Đà -
Liễu có mặt ở đó từ sớm. Khoảng tầm tiếng sau thì Liễu bị đau bụng, họ bỏ dở công
việc đang làm rồi xin về luôn. Chiều hôm đó tôi có đến thăm xem tình hình thế nào
thì vợ chồng họ nói không ra Bãi Hoang nữa. Tôi có hỏi lý do thì họ chỉ bảo là ốm đau
nên không làm được. Mình cũng không ép họ được nên cũng đành chịu. Những ngày
sau đó nhóm của tôi vẫn tiếp tục làm, đất đai cải tạo xong, chúng tôi bắt đầu gieo
trồng…...Ba ngày sau khi đến nhà thì phát hiện họ đã chết. Cái chết của họ khiến cho
dân làng xôn xao một thời gian dài, một thời gian sau nữa những cây giống, hạt giống
mà chúng tôi trồng trên Bãi Hoang cũng cứ thế chết dần, không sống nổi. Và lúc này
các cụ già trong làng cho rằng, cái chết của họ là do xâm phạm đến Bãi Hoang. Khi ấy
những người đi cùng tôi bắt đầu sợ, cuối cùng thì từ đó đến nay, Bãi Hoang vẫn là
Bãi Hoang.

Thầy Lương nheo mày :

-- Qua câu chuyện mà trưởng làng vừa kể, đúng là vợ chồng nhà nọ có chút vấn đề.
Rõ ràng trước đó còn phấn khởi làm việc, nhưng ngay sau lại đổi ý. Điều này càng
khiến cho suy nghĩ của tôi là đúng. Một gia đình khó khăn, không thể tự nhiên lại có
số tiền lớn như vậy được. Mà cho tôi hỏi trưởng làng câu này…?

Ông Vọng đáp :

-- Có gì thầy cứ hỏi.

Thầy Lương tiếp tục :

-- Từ đời ông bà, cha mẹ của trưởng làng, có ai có liên quan gì đến Bãi Hoang này
không….? Ví dụ như trước đó từng có ai trong gia đình sống ở đây hoặc canh tác ở
đây chẳng hạn.

Ông Vọng lắc đầu :

-- Không thầy ạ, gia đình tôi là người gốc của làng này, tuy không khá giả nhưng cũng
có mảnh ruộng để trồng trọt từ đời các cụ để lại. Nên tôi chắc chắn các cụ không có
ai canh tác ở Bãi Hoang đâu. Mà sao thầy lại hỏi vậy..?

Thầy Lương im lặng suy nghĩ một hồi lâu, lúc sau thầy nói :

-- Trưởng làng là người tốt, chậc, thôi thế này, tôi cũng không muốn giấu làm
gì…...Bãi Hoang, hay là khu đất mà chúng ta đang đứng ở đây quả thực không phải là
mảnh đất bình thường đâu, đất ở đây có thế đất rất rõ ràng. Chỉ có điều hình như
làng mình không ai biết.
Ông Vọng hồi hộp hỏi lại :

-- Ý thầy là sao ạ…?

Thầy Lương đáp :

-- Mảnh đất này có thế Thanh Long, một trong tứ tượng tạo hình của Long Mạch.
#Miếu_Hoang - Tác Giả Trường Lê.

#Chap22 : Gạch Đỏ.


Ông Vọng tròn mắt ngơ ngác, tất nhiên làm sao ông Vọng có thể hiểu được những gì
mà thầy Lương vừa nói, bởi ông không phải người biết về phong thủy, chẳng để ông
Vọng chờ đợi lâu, thầy Lương tiếp tục :

-- Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ là Tứ Tượng hay còn gọi là Tứ Thanh Tú
tạo nên Long Mạch. Thanh Long tượng trưng cho chính đông, nơi này cỏ mọc xanh
tốt, có phần đất nhô cao hơn so với địa hình, về bản chất dương khí nơi đây rất
mạnh. Bởi vậy khung cảnh hữu tình, thơ mộng, nói cách khác nơi đây có thế đất tốt.
Duy chỉ có điều tôi đang thắc mắc tại sao lại không thể gieo trồng ở nơi này mặc dù
cỏ lau phát triển sinh sôi um tùm. Tả Thanh Long. hữu Bạch Hổ, tiền Chu Tước, Hậu
Huyền Vũ. Để tôi nói thế này cho trưởng làng dễ hiểu, hãy tưởng tượng Long Mạch
giống như một chiếc ngai vàng, thì khi ấy, Thanh Long sẽ là tay ghế trái, Bạch Hổ là
tay ghế phải, Huyền Vũ là phần lưng ghế, còn Chu Tước là chiếc ghế nhỏ dùng để đặt
chân khi ngồi vào ngai vàng. Và khi bác trưởng làng ngồi vào ngai vàng đó thì nơi ấy
chính là Long Mạch.

Ông Vọng rối rít :

-- Thầy quả thực là cao nhân, nói vậy nghĩa là thầy đã biết được Long Mạch nằm ở
đâu phải không ạ…?

Thầy Lương khẽ lắc đầu :

-- Tạm thời vẫn chưa thể chắc chắn, bởi chỉ xác định được Thanh Long thì vẫn chưa
quả quyết được rằng Long Mạch nằm ở đâu. Nhưng bước đầu như vậy thì chúng ta
còn có cơ sở để tìm Bạch Hổ, Huyền Vũ và Chu Tước. Nhưng đến thời điểm này thì
tôi chắc chắn rằng, Long Mạch của vùng đất này có vượng khí vô cùng tận, là một nơi
có địa mạch cực tốt. Nhưng tôi không hiểu tại sao, và vì đâu mà có người lại dùng
thuật Giấu Long Mạch để che giấu điều này. Chưa kể đến việc sau 100 năm Long
Mạch mới bị động dẫn đến tai ương cho người dân nơi đây. Dù lý do gì đi nữa thì
người Giấu Long Mạch không có ý đồ tốt. Thử nghĩ mà xem, nếu không phát hiện kịp
thời, nguồn nước bị nhiễm độc, mọi người vẫn dùng nước giếng thì có lẽ bây giờ số
lượng người chết trong làng đã không thể đếm được.

Nghe thầy Lương nói mà ông Vọng rùng mình, bủn rủn hết cả chân tay. Nghĩ lại thì
đúng như vậy, nguồn nước từ giếng làng là nguồn nước sinh hoạt thứ chính của hầu
hết dân làng văn thái, trước đó họ vẫn dùng nước giếng để tắm, để cho gia súc, gia
cầm uống. Sẽ ra sao nếu như người dân làng Văn Thái không biết về chất độc trong
nước và cứ thế sử dụng, ông Vọng thực không dám tưởng tượng.

Thầy Lương nói tiếp :

-- Vậy cho nên tôi mới nói, cơn mưa kéo dài 5 ngày ấy là trong phúc có họa. Mùa
màng tuy không cứu được, nhưng bù lại dân làng Văn Thái đã tích được lượng nước
mưa trong cơn khốn cùng này. Từ xưa đến nay, tính mạng của con người mới là quan
trọng nhất, giữ được mạng thì mới tiếp tục làm ra của cải được. Ý trời đã vậy, bác
trưởng làng đừng tự dằn vặt hay trách móc bản thân mình. Bác chính là người đã
cứu cả làng đấy.

Ông Vọng xua tay :

-- Thầy đừng nói thế, tất cả là nhờ thầy chỉ bảo, tôi chỉ làm theo thôi chứ có giúp
được gì đâu.

Thầy Lường mỉm cười :

-- Sao lại không..? Thử nghĩ xem, nếu như bác trưởng làng là người nhỏ nhen, ham
lợi, khi tôi đến xin ở nhà mà bác không cho thì chẳng phải làm gì còn sau đó, có đúng
không nào. Tất cả là nhờ vào lòng nhân hậu, thương người của bác cả. Nhìn người
dân trong làng yêu quý, tôn trọng, nhất mực nghe lời bác như thế, tôi quả thực đã
không nhìn lầm người. Mỗi chúng ta, khi sinh ra đều có số phận của riêng mình, tai
ương, phúc phần đều là do nhân quả báo ứng tiền kiếp, hoặc từ nhiều kiếp trước mà
thành. Qua cơn mưa dài ngày ấy tôi thấy rằng, số mệnh của dân làng Văn Thái vẫn
chưa tận, ông trời vẫn chưa tuyệt đường sống của mọi người, vẫn còn có thể cứu
vãn. Bác trưởng làng đừng quá lo lắng, chúng ta sẽ tìm ra cách giải quyết. Tôi sẽ cố
gắng hết sức để giúp mọi người vượt qua tai kiếp này, cũng như trả ơn trưởng làng
những ngày vừa qua.

Ông Vọng nghe xong mà rơm rớm nước mặt, ông khẽ chắp tay lại rồi cúi đầu trước
thầy Lương :

-- Đội ơn thầy lắm lắm, làng Văn Thái xin trông cậy cả vào thầy.

Phía trước mặt, nơi mà Sửu và Lực vẫn đang miệt mài đào bới, do thời tiết nắng
nóng, sức người cũng có hạn, Lực và Sửu không chịu nổi đành phải đi vào bóng râm
nơi bụi cỏ lau mà thầy Lương cùng ông Vọng đang ngồi nói chuyện. Đưa nước cho
Sửu, ông Vọng nói :

-- Hai cậu nghỉ đi, để đó tôi đào tiếp cho.

Tu ừng ực bình nước, Sửu xua tay :


-- Đã bảo bác trưởng làng đừng lo rồi mà. Nghỉ mệt một chút hai anh em tôi lại đào
tiếp.

Thầy Lương hỏi :

-- Đã đào sâu được bao nhiêu rồi…?

Lực đáp :

-- Đã được hơn 2 thước rồi ạ.

Thầy Lương gật đầu :

-- Vậy là còn 4 thước nữa, xin lỗi vì đã bắt hai cậu phải đào giữa trời nắng thế này.
Nhưng chuyện cấp bách, càng sớm tìm được nguyên nhân, dân làng càng bớt nguy
hiểm.

Sửu cười, lau đi những giọt mồ hôi đang túa ra trên khuôn mặt, Sửu nói :

-- Thầy đừng bận tâm, việc của làng mà thân là con dân trong làng sao có thể phàn
nàn, nề hà…...Trước khi chiều tối, chắc chắn anh em chúng tôi sẽ đào xong. Nhưng
không biết liệu đào sâu 6 thước sẽ tìm thấy gì nhỉ…?

Thầy Lương trầm ngâm :

-- Cái này tôi cũng không biết được, nhưng chúng ta ở đây đều có nguyên nhân của
nó. Lời mách bảo từ thần bảo hộ trong giấc mơ của tôi tính tới hiện tại đều trùng
khớp. Nhưng hai cậu phải nhớ, trong lúc đào bới, tuyệt đối không được tháo sợi dây
đỏ có hạt tràng kia ra khỏi người. Khi đào thấy gì lập tức báo cho tôi ngay, không
được tự động sờ vào thứ gì cả.

Lực và Sửu vâng dạ gật đầu, nghỉ ngời được chừng 15 phút, cả hai lại bắt tay vào đào
bới. Hơn 2h chiều, cái hố mà Sửu với Lực đang đào mỗi lúc một sâu hơn, lúc này
dưới hố chỉ còn thấy phần đầu của cả hai nhô lên. Thầy Lương ước chừng họ đã đào
được tầm hơn 4 thước.

Sau khi nghỉ ăn chút lương khô đem theo, Lực và Sửu càng đào nhanh hơn. Phải nói
hai anh em Sửu có sức khỏe hơn người, nếu như hôm nay không có họ thì chắc còn
phải lâu lắm ông Vọng với thầy Lương mới đào được đủ độ sâu.

Trời chuyển về chiều nhưng nắng vẫn oi bức, thi thoảng ông Vọng phải đem nước ra
cho hai anh em Sửu vừa uống, vừa đào. Đang định đem khăn ướt với nước ra khu
vực hố thì từ dưới hố, Sửu nói vọng lên :

-- Thầy Lương, bác trưởng làng ơi…..Lại đây xem này, có cái này….

Ông Vọng nhìn thầy Lương rồi cả hai lập tức chạy lại miệng hố nơi anh em Sửu đang
đào, ông Vọng nói :

-- Có phải đào được thứ gì đó rồi không…?

Lực đặt cái xẻng lên mặt đất rồi lau mồ hôi nói :

-- Chưa thấy gì, nhưng mà chỗ đất này cứng quá….Cứ như đào vào đá ấy.

Lực nhảy lên miệng hố để Sửu có thêm không gian, hình như Sửu đang dùng tay
không vét vét chỗ đất dưới chân, Sửu thờ phì phò rồi nói :

-- Gạch, là gạch đỏ…...Sao lại có gạch đỏ ở đây nhỉ…? Đùa chắc…?

Thầy Lương vội trèo xuống hố, ông nói Sửu dừng đào, quả đúng như lời Sửu nói,
dưới cái hố đang đào dở là một hàng gạch đỏ. Không thể nào mà tự nhiên lại có gạch
đỏ ở đây cả. Mà gạch này không phải gạch vụn, nó được ghép vào nhau thành một
hàng gồm 3 viên.

Thầy Lương nhìn ông Vọng rồi hỏi :

-- Trước đây nơi này từng có nhà hay kiến trúc nào được xây dựng sao…?

Cả ông Vọng lẫn anh em Sửu đều ngơ ngác, ông Vọng nói :

-- Trước đó thì tôi không biết, nhưng ngay từ khi tôi còn nhỏ thì nơi này đã được gọi
là Bãi Hoang, nghĩa là chẳng có ai ở đây cả. Mà năm nay tôi ngoài 50 thì ít nhất là
mấy chục năm nay không có ai xây dựng ở đây cả.

Thầy Lương nhìn hàng gạch ba viên, ông suy nghĩ rồi tiếp tục nói :

-- Như trưởng làng nói, ngôi làng này có lịch sử 100 năm, có khi còn dài hơn thế.
Nghĩa là ít nhất 50 năm trước khi trưởng làng sinh ra là cả một khoảng thời gian rất
dài. Có thể trong khoảng thời gian đó dã có người xây nhà, dựng cửa ở đây…..Hoặc
nó có thể là cả một kiến trúc lớn hơn nữa. Căn cứ vào loại gạch đỏ này tôi có thể
khẳng định, người xây dựng nơi này chắc chắn là người giàu có, thậm chí là cực
giàu….Bởi nếu như cách đây gần 100 năm mà dùng gạch để xây dựng thì đó không
phải tầm thường.

Ước chừng mới chỉ đào được tầm 5 thước, thầy Lương nói với Sửu :

-- Vẫn chưa đủ độ sâu, phiền hai anh em cậu cố gắng đào thêm một chút nữa.

Thầy Lương không nói thì anh em Sửu cũng đã tính trước điều này. Ban nãy Lực nhảy
lên khỏi hố là để đi lấy đục. Cầm thanh đục bằng sắt dài tầm 1,5m. Lực nhảy xuống
hố rồi nhìn Sửu nói :

-- Gặp đất cứng rồi, may lúc đi em bảo cầm theo cái này, không thì giờ có xúc bằng
mắt.

Sửu cười :

-- Vẫn là chú chu đáo, thầy với bác trưởng làng yên tâm đi, chúng tôi đào tiếp đây.

Thầy Lương với ông Vọng trèo lên miệng hố, bên dưới Lực với Sửu kẻ đục người đào,
nhưng cả hai cũng vô cùng cẩn trọng bởi độ sâu lúc này đã là 5 thước, chỉ còn một
chút nữa thôi là đúng với yêu cầu của thầy Lương, họ không dám mạnh tay vì sợ đục
trúng thứ mà thầy Lương đang tìm.

Phía trên mặt đất, thầy Lương nhìn bao quanh khu vực Bãi Hoang một lần nữa, ông
lẩm nhẩm :

-- Rốt cuộc, trong quá khứ thứ gì đã biến mất tại nơi này….?
#Miếu_Hoang - Tác Giả Trường Lê.

#Chap23 : Phong Thư Bọc Giấy Dầu.


“ Keng….Keng “

Tiếng kim loại va chạm vào vật cứng vang lên, ông Vọng chạy lại chỗ thầy Lương gọi
vội vàng :

-- Thầy, thầy lại đây mà xem…..Lại đào trúng cái gì rồi.

Thầy Lương cũng vừa nghe thấy âm thanh phát ra từ bên dưới hố, chắc hẳn Sửu và
Lực đã đào vào thứ gì dó rất cứng nên mới phát ra tiếng như vậy. Từ trên miệng hố
nhìn xuống, thầy Lương thấy Lực đang xoa hai bàn tay vào nhau, Lực nói :

-- Mẹ kiếp, sao mà cứng thế, không đào được nữa rồi….Cứng lắm.

Sửu ngước lên trên nói tiếp :

-- Quả thực là cứng lắm thầy ạ, đục vào nó mà chỉ sứt mẻ có một tí ti.

Thầy Lương hỏi :

-- Là đá phải không..?

Sửu gật đầu :

-- Đá thầy ạ, mà sao đá cứng thế không biết.

Thầy Lương nói ông Vọng đi lấy chút nước rồi đổ xuống hố. Tiếp đó, ông dùng tay
rửa trôi đi lớp bùn đất còn bám trên bề mặt hòn đá mà hai anh em Sửu đang đào.
Nhưng khi lớp bùn được rửa bớt đi, thầy Lương dùng xẻng hớt nhẹ lớp đất xung
quanh thêm một chút nữa. Lúc này cả 4 người mới nhận ra, đó không phải là hòn đá
mà là cả một tảng đá vân mây vuông vắn, còn một điều nữa, tảng đá đó không nằm
một mình, cái hố mà hai anh em Sửu đang đào tầm khoảng 80 x 80 thì tảng đá đó có
kích thước 60 x 40 được chia cắt bởi hàng gạch đỏ mà ban nãy đào trúng.

Thầy Lương một lần nữa trèo lên miệng hố, từ trên nhìn xuống dưới, thầy Lương hỏi
ông Vọng :

-- Bác trưởng làng, bác nhìn có thấy quen không…?

Ông Vọng đáp :

-- Có phải đây là….móng….

Thầy Lương gật đầu :

-- Đúng vậy, chính là nền móng của một ngôi nhà hoặc có thể là một dinh thự lớn.
Bởi vì căn cứ vào gạch đỏ, cộng với tảng đá vân mây vuông vức kia, nền móng này
nếu như tồn tại cách đây ít nhất 50 năm về trước thì nó không phải thứ mà người
nghèo có thể làm được. Hơn nữa, biến đá tảng thành những khối vuông, sau đó
dùng chúng để đặt móng, kỹ thuật này không phải ai cũng biết. Mà dù biết cũng
không có điều kiện để mà xây dựng. Thường thì chỉ những biệt phủ, những công
trình lớn của những phù hào, quan lại họ mới làm như thế này. Làng Văn Thái đến
nhà gạch cũng chỉ đếm được trên 1 bàn tay. Vậy tại sao ngay Bãi Hoang này, khu đất
được cho là bỏ hoang mấy chục năm nay, như lời bác trưởng làng nói thì đời cha mẹ
trưởng làng nơi này đã được gọi là Bãi Hoang lại xuất hiện một nền móng chắc chắn
đến như vậy. Móng còn đây, vậy kiến trúc trên bề mặt đã biến đi đâu, và tại sao nó
lại biến mất…? Nền móng này chắc chắn là do con người xây dựng, trước khi nơi này
trở thành Bãi Hoang…...chuyện gì đã xảy ra…?

Rất nhiều câu hỏi cứ thế hiện ra trong đầu thầy Lương mà chưa có lời giải đáp, cả
ông Vọng với hai anh em Sửu cũng bàng hoàng. Chưa bao giờ họ nghĩ, Bãi Hoang lại
có một bí ẩn đến như vậy. Nếu như không phải chính tay họ đào thấy những viên
gạch đỏ, tảng đá vân mây vuông vức, mà không phải chỉ có một tảng thì chắc có nói
họ cũng không bao giờ tin.

Sửu ấp úng :

-- Bây giờ….phải làm sao hả...thầy…?

Thầy Lương trả lời :

-- Giờ tiếp tục đào cũng không phải cách, tảng đá này được dùng để đặt móng, vậy
giờ thay vì phá vỡ nó chúng ta nên tìm cách cậy nó lên. Quanh tảng đá đều có những
gờ nối ngăn cách bởi hàng gạch đỏ. Đào đến chân tảng đá rồi dùng sức bẩy nó lên.

Sửu vâng dạ rồi ra hiệu cho Lực tìm cách để nhanh chóng lật được tảng đá. Hai anh
em Sửu tiếp tục dùng sức đào bới. Chính giữa cái hố, tảng đá vân mây càng lúc càng
lộ rõ. Thầy Lương và ông Vọng đứng bên trên hồi hộp chờ đợi, ở bên dưới, Sửu và
Lực đang dùng thanh xà beng dài để làm đòn bẩy, hai anh em dùng hết sức, nghiến
răng nghiến lợi hô lớn :

-- NÀO….1….2….3….NÀO….H Y…...A…...H Y….

Phải đến 5 lần 7 lượt như vậy thì lúc này tảng đá mới bắt đầu nhúc nhích. Sửu lên
hết gân cốt, mắt mũi trợn ngược, miệng mím chặt lại, cả Lực cũng thế. Không ai bảo
ai, cả hai cùng gật đầu rồi cùng nhau hét lớn :

-- LÊN….NÀO…...LÊN……

“ Keng…..Keng…..Keng..”

Tiếng thanh xà beng va vào tảng đá, đất bên dưới hố bị hất tung lên trời, Lực và Sửu
thở hồng hộc, họ ngồi phịch luôn xuống đất vì đã quá mệt, hai anh em nhìn nhau vừa
cười vừa thở. Bên trên, ông Vọng hô :

-- Bẩy được rồi…..Bẩy được rồi….Thầy Lương ơi, bẩy lên được rồi kìa.

Thầy Lương cũng mừng không kém khi tảng đá đã được lật lên, nhưng khi nhìn vào
cái hố mà tảng đá để lại thì dưới đó chẳng có gì cả.

Sửu và Lực thẫn thờ bởi bên dưới tảng đá này lại có thêm một tảng đá khác, chúng
có độ cao tầm 40cm chồng lên nhau. Nếu tính cả độ cao của tảng đá vừa được lật lên
thì cái hố mà anh em sửu đang đào sâu đúng 6 thước. Nhưng tại sao dù đã lật được
tảng đá lên mà bên dưới lại không có gì.

Ông Vọng buồn rầu nhìn thầy Lương khẽ hỏi :

-- Vậy là sao hả thầy…?

Bên dưới chỉ là một lớp đá khác, cố gắng công sức cả ngày hôm nay, cũng đã đào đến
kiệt cả sức, nhưng rốt cuộc họ vẫn chưa thể tìm được thứ gì ngoài đá và đá. Thấy
mọi người đang nản dần, Sửu cầm lấy thanh xà beng rồi quát Lực :

-- Đứng dậy, tiếp tục đào…..Tiếp tục bẩy nốt tảng đá phía dưới này lên. Trời vẫn còn
sáng, đừng vội bỏ cuộc.

Ông Vọng ngăn sửu lại rồi nói :

-- Thôi, dừng lại đi….Hôm nay 2 cậu cũng hết sức rồi….Có gì để mai tiếp tục, có đào
tiếp thì lát nữa trời cũng sẽ tối.

Ức quá, Sửu đâm mạnh thanh xà beng vào mặt dưới của tảng đá vừa lật lên ban nãy,
Sửu chửi thề :
-- Khốn kiếp, tức quá đi mất…..Sao lại chôn lắm đá thế không biết.

Sau cú va đập, trong lúc Sửu định trèo lên mặt đất thì Lực kéo tay Sửu lại khiến cho
Sửu càng bực :

-- Cái gì nữa….?

Lực nói :

-- Anh Sửu, nhìn kìa…

Sửu quay lại thì tảng đá mà hai anh em lật lên hồi nãy đã vỡ ra làm đôi, một điều quá
dị thường, lúc sớm, khi mới đào đến mặt trên tảng đá, Lực dùng hét sức đục vỡ nó
mà nó chỉ mẻ mỗi chút, điều này chứng tỏ tảng đá rất cứng. Vậy mà vừa rồi, Sửu đập
xà beng vào mặt dưới thì tảng đá đã vỡ ra làm hai. Khi hai nửa của tảng đá tách ra thì
từ chính giữa tảng đá rơi ra một thứ gì đó mỏng như giấy. Lực đính cúi xuống nhặt
thì thầy Lương ngăn lại :

-- Để đó, đừng chạm tay vào…..Hóa ra thứ chúng ta đang tìm lại nằm bên trong tảng
đá.

Nhìn gần hơn thì đó giống như một phong thư dài khoảng 1 gang tay, bên ngoài
được bọc kỹ bằng 1 lớp giấy dầu. Nhìn phong thư đó rât bình thường nhưng để cẩn
thận, thầy Lương lấy trong tay nải ra một cái lọ nhỏ màu trắng, ông khẽ đổ nước
trong lọ lên bề mặt phong thư lạ. Nước vừa chạm vào giấy dầu lập tức sủi bọt.

Thầy Lương nói :

-- Bên ngoài lớp giấy dầu đã được tẩm độc, kẻ giấu thứ này vào tảng đá chắc chắn
muốn đề phòng không cho người khác chạm vào. Dù sao cũng đã tìm được thứ đồ
vật được giấu dưới 6 thước đất. Cũng sắp tối rồi, chúng ta về thôi.

Dùng que gỗ gắp phong thư cho vào trong một cái túi vải, để nó trong tay nải, thầy
Lương tiếp tục :

-- Sau khi về nhà, tôi sẽ dùng găng tay để bóc lớp giấy dầu này ra. Dù bất kể trong
này là gì đi chăng nữa thì nó cũng rất quan trọng trong việc tìm hiểu nguyên nhân
khiến cho ngôi làng này gặp tai họa.

Sửu hỏi thầy Lương :

-- Thầy, thầy có thể cho anh em tôi về đó xem cùng được chứ…?

Thầy Lương gật đầu :

-- Tất nhiên là được rồi, hôm nay hai anh em cậu là những người có công lớn nhất.
Việc này cũng không có gì phải giấu diếm, có hai cậu cũng thêm sức lực.

Ông Vọng mừng rỡ :

-- Vậy là làng có cơ hội rồi, giờ tất cả về nhà tôi nấu tạm bữa cơm rồi cùng ăn…..Sau
đó chúng ta sẽ xem xem, bên trong phong thư này là thứ gì.

[........]

5h30 chiều, tại nhà cô Xoan, bên ngoài hiên nhà, cái Mị vẫn đang ngồi vẽ những nét
vẽ loẹt quẹt. Trời lúc này đã nhá nhem tối, cô Xoan bê mâm cơm chỉ có đĩa lạc răng
muối trắng và bát canh bí luộc lên nhà trên. Thấy con gái vẫn ngồi hí hoáy ở hiên từ
lúc thức dậy, cô Xoan đi ra kéo tay Mị đứng dậy nói :

-- Ăn cơm thôi con…..Vẽ gì mà từ trưa tới giờ vậy…?

Mị thả miếng gạch nhỏ trong tay ra, bên ngoài không còn đủ ánh sáng để cô Xoan
nhìn rõ được dưới hiên nhà Mị vẽ cái gì nữa, mà biết con bị mù, cô cũng chẳng hi
vọng con gái mình sẽ vẽ được thứ gì có hình thù. Nhập nhoạng cô thấy trên nền hiên
hình như thứ Mị vẽ có hình tròn, mà nhiều nét chồng lên nhau, rất rối…..Khẽ lắc đầu,
cô Xoan dìu con vào bên trong ngồi xuống cái chiếu trước mâm cơm, cô Xoan thở
dài, miệng lẩm bẩm :

-- Sao tôi khổ thế này…..hả trời….!!

Vừa gắp lạc vào bát cơm cho con gái, cô Xoan vừa ấm ức, nghiến răng hận trời.

#Chap24 : Phổ Truyền.

Cơm nước xong xuôi, lúc này cũng đã là 7h tối, ông Vọng đóng kín các cửa, đóng cả
cổng, ngồi trong nhà là thầy Lương, Sửu và Lực…..Đóng chặt cửa nẻo xong, ông Vọng
nói :

-- Thưa thầy, đã đóng hết các cửa rồi.

Thầy Lương gật đầu rồi nhìn Sửu nói :

-- Cậu Sửu, để cái chậu nhôm xuống gần chỗ tôi. Lát nữa, khi tôi bóc lớp giấy dầu này
ra, cậu lập tức đem ra ngoài đốt cháy nó nhé.

Sửu vâng dạ, tất cả đều chờ đợi xem rốt cuộc thứ được bọc trong giấy dầu là thứ gì.
Đeo găng tay cao su, thầy Lương vừa khẽ bóc tách lớp giấy dầu bọc bên ngoài, ông
nói :

-- Nhìn bên ngoài không có vẻ gì nguy hiểm, nhưng chạm tay không vào sẽ dính độc
ngay. Tôi nghĩ, thứ này phải được chôn giấu ít nhất là 60 năm, vậy mà nhìn xem,
không hề bị mục nát, phần bởi nó được giấu vào giữa tảng đá đặt nền móng, mọi
người cũng thấy rồi đấy, loại đá chúng ta đào phải vẫn rất cứng, nền đất nơi đó khô
ráo, vậy cho nên thứ này gần như không bị tổn hại. Dù đã giấu rất kỹ, vậy mà kẻ giấu
vật này còn tẩm độc ra bên ngoài lớp giấy dầu. Chứng tỏ đây chắc hẳn là một vật cực
kỳ quan trọng.

Lớp giấy dầu được bóc ra, thầy Lương vứt ngay xuống cái chậu dưới chân. Sau lớp
giấy dầu là một tấm vải nhung màu đỏ, tấm vải này được thêu hình rồng phượng,
thầy Lương ra hiệu cho Sửu đem đốt lớp giấy dầu được tẩm độc đi. Thầy Lương tháo
găng tay, đặt tấm vải nhung được gấp thành hình chữ nhật lên mặt bàn, ông nói :

-- Rốt cuộc thì họ muốn giấu đi thứ gì…?

Không chờ đợi lâu, thầy Lương mở tấm vải nhung màu đỏ đó ra, trước mặt ông
Vọng, Sửu và Lực, ở giữa tấm vải nhung là một tấm da thuộc có màu vàng nhạt được
gấp làm đôi. Thầy Lương nhẹ nhàng cầm tấm da lên trên tay, ông trải toàn bộ tấm da
lên mặt bàn rồi khẽ nói :

-- Là…...Phổ Truyền.

Nhìn trên bề mặt tấm da tất cả các chữ đều là chữ Trung Quốc, nhưng nhìn sơ thì
ông Vọng cũng hiểu được chút ít, ông Vọng hỏi :

-- Nhìn rất giống với bản gia phả…..Chỉ có điều ghi chép ở đây chi tiết và nhiều hơn..

Thầy Lương gật đầu :

-- Không sai, Phổ Truyền hay còn được gọi là Gia Phả….Chính là thứ này, nhưng đây
không phải gia phả của dòng họ người Việt Nam….Nó là gia phả của một dòng họ
người Trung Quốc, là “ Cao Tộc Phổ Ký “ ( Phả Ký Của Dòng Họ Cao ). Tuy nhiên tấm
Phổ Truyền này có lẽ chỉ là ghi chép của một chi họ mà thôi, người đứng đầu chi họ
này là Cao Côn là người U Châu…….Chỗ này đã bị mờ nên không đọc tiếp được thân
thế của ông ta, nhưng chẳng lẽ đây lại là người của dòng dõi Cao Biền.

Ông Vọng cùng Sửu và Lực tròn mắt hỏi :

-- Cao Biền là ai…?

Thầy Lương giải thích :

-- Cao Biền là một tướng lĩnh đời nhà Đường bên Trung Quốc, ông ta còn là một
chính trị gia và là một nhà phong thủy đại tài. Mọi người nếu ai tìm hiểu về phong
thủy thì ít nhiều cũng từng nghe đến tên người này. Những câu chuyện về việc Cao
Biền trấn yểm long mạch của Việt Nam cho đến tận bây giờ vẫn còn là một bí ẩn.
Tương truyền rằng, vua Đường Ý Tông muốn xâm chiếm nước Nam, nhưng vua nhận
thấy địa mạch của nước Nam vượng phát, linh khí ngút trời, thời nào cũng sản sinh
ra nhiều anh hùng hào kiệt. Bởi vậy, vua Đường muốn tìm cách trân yểm linh khí của
nước Nam. Và vua Đường đã phong cho Cao Biền làm Tiết Độ Sứ đi sang nước Nam
nhằm tìm cách cắt đứt long mạch của nước này, trấn yểm những nơi linh khí hội tụ
để nước Nam không còn sinh ra những bậc hào kiệt nữa. Người xưa nói rằng, Cao
Biền cưỡi diều bay trên không trung, nhìn xuống bao quát toàn bộ các vùng đất của
nước Nam. Hễ thấy nơi đâu có long mạch, ông ta sẽ đáp xuống cắt đứt long mạch ở
đó. Nay đến làng Văn Thái lại đào được một bản gia phả thuộc dòng họ Cao, cùng với
đó việc long mạch nơi đây bị ẩn giấu, làng gặp tai họa, nước ngầm nhiễm độc, gia súc
gia cầm chết phơi thây…..Thật khó để mà không nghĩ tới họ Cao này là dòng dõi của
Cao Biền năm xưa.

Ông Vọng lo lắng hỏi :

-- Nhưng nếu như lời thầy nói, tại sao họ Cao kia lại dùng bùa phép để trấn yểm làng
chúng tôi….?

Thầy Lương khẽ đáp :

-- Như tôi đã nói, địa mạch là tinh khí của đất trời….Kẻ nắm giữ được long mạch sẽ
khiến cho gia tộc, dòng họ trở nên cường thịnh, thậm chí còn có thể kiểm soát cả
một vùng đất. Trước khi trả lời câu hỏi của trưởng làng, trưởng làng cho tôi hỏi một
câu.

Ông Vọng vội nói :

-- Có gì xin thầy cứ hỏi.

Thầy Lương tiếp :

-- Chẳng hay trong làng này còn ai sống đến 90 tuổi hoặc có ai họ Cao còn sống hay
không..?

Ông Vọng lập tức lắc đầu :

-- Không còn ai nữa, người già nhất trong làng này còn sống cũng chỉ độ 85 tuổi mà
thôi…..Đó là cụ Cẩn, còn họ Cao thì tôi chắc chắn trong làng này không có ai mang họ
Cao cả, nhưng sao thầy lại hỏi vậy…?

Thầy Lương trả lời :

-- Mọi người lặng im nghe tôi phân tích, tại Bãi Hoang chúng ta đã đào thấy nền
móng của một công trình, mà theo như những gì trưởng làng biết, ngay từ khi
trưởng làng còn nhỏ, nơi đó đã được gọi là Bãi Hoang, không có nhà cửa hay ai sinh
sống ở đó cả, kể cả là người trong làng. Tiếp đó chúng ta đào được phổ truyền của
chi họ Cao, căn cứ vào những ghi chép trong phổ truyền này thì người đứng đầu họ
Cao kia tính cho đến này là 150 tuổi. Mọi người còn nhớ tôi từng nói, nền móng mà
chúng ta đào thấy chắc chắn người xây dựng nó phải rất giàu có, thậm chí còn có thể
là quan lại có tước vị. Vấn đề ở đây chính là tại sao những gì từng có trên Bãi Hoang
đó lại biến mất, nếu như dòng họ Cao này đã gắn bó với làng Văn Thái lâu như vậy
thì tại sao cho đến giờ, trong làng hầu như không còn vết tích gì của họ. Bằng chứng
đó là khi hỏi đến Bãi Hoang, ngay cả trưởng làng cũng không biết gì về nơi đó. Nếu
làng đã tồn tại 100 năm, trong suốt 100 năm đó, có sự hiện diện của dòng họ
Cao…..Vậy, nếu muốn biết đã xảy ra chuyện gì trong quá khứ, chỉ còn một cách duy
nhất đó là hỏi những bậc bô lão trong làng, những cụ già có tuổi đời đi cùng với sự
hình thành của làng…..Như vậy chúng ta mới có thể tìm hiểu về dòng họ Cao này.

Quả đúng như lời thầy Lương nói, rõ ràng bí mật về Bãi Hoang còn quá nhiều bí ẩn kể
từ khi Sửu và Lực đào bới và phát hiện ra những bằng chứng chứng minh rằng, Bãi
Hoang từng có cả một kiến trúc lớn. Ông Vọng run giọng :

-- Chẳng lẽ….chẳng lẽ những gì mà các cụ trong làng lúc còn sống khuyến người dân
không được ra Bãi Hoang là có nguyên nhân của nó.

Thầy Lương thở dài :

-- Bác trưởng làng bắt đầu hiểu ra vấn đề rồi đó. Chỉ đáng tiếc, có lẽ họ không còn
sống đến bây giờ để cho chúng ta biết sự thật. Giờ chỉ còn hi vọng vào cụ Cẩn mà
trưởng làng nói ban nãy, biết đâu cụ Cẩn còn nhớ được điều gì đó quan trọng. Ngày
mai, bác trưởng làng dẫn tôi đến nhà cụ Cẩn để hỏi chuyện, sau đó tôi muốn đến
đình làng để tìm hiểu xem, liệu trên bia công đức của đình có ghi chép gì về dòng họ
Cao này hay không…?

Lúc này cũng đã gần 9h tối, Sửu và Lực xin phép quay về nhà bởi đã đi cả ngày hôm
nay. Trước khi họ ra về, thầy Lương cẩn thận dặn dò họ tạm thời đừng kể chuyện
này cho ai biết, tránh việc bà con lo lắng mà hành động không hay. Cả hai nghe xong
vâng dạ và hứa sẽ không nói những gì họ biết cho bất cứ ai.

Quay lại trong nhà, ông Vọng lúc này mới hỏi :

-- Tôi vẫn chưa hiểu, tại sao họ lại đem gia phả giấu đi như vậy…?

Thầy Lương ngồi xuống rồi khẽ đáp :

-- Gia phả là một vật cực kỳ quan trọng của một dòng họ, một gia tộc…..Ở đây, tấm
gia phả này còn quan trọng hơn gấp bội phần, bởi vì họ Cao kia có thể đã làm điều gì
đó không đúng với đạo lý, ngược lại ý trời nên họ sợ rằng, nếu như tấm gia phả này
lộ ra, con cháu đời sau sẽ gặp phải nguy hiểm. Tuy chưa dám khẳng định, nhưng nếu
quả thực việc họ giấu đi long mạch, rồi trấn yểm long mạch nơi đây suốt 100 năm
qua thì việc họ phải giấu gia phả không có gì khó hiểu. Bởi nếu người nào biết về
phong thủy, biết thuật trấn yểm thì họ có thể khiến cho họ Cao này phải điêu đứng.
Bởi trong tấm gia phả này còn ghi rõ cả mộ phần, nơi chôn cất của Cao Côn, người
đứng đầu chi họ.

Ông Vọng tròn mắt :

-- Nói như vậy là thầy Lương cũng có thể yểm lại họ khi có trong tay tấm gia phả này
phải không..?

Thầy Lương đáp :

-- Đúng vậy, với những ghi chép rõ ràng về năm sinh, tên tuổi, nơi chôn cất như thế
này thì tôi chỉ cần đến mộ phần của Cao Côn là có thể khiến cho họ Cao bị điêu đứng,
nếu đang hưng thịnh thì sẽ sụp đổ trong một khoảng thời gian ngắn. Nhưng đây
không phải là điều tôi muốn làm, hơn nữa, hiện tại chẳng phải họ Cao đó đã phải trả
giá rồi sao. “ Giấu Long Mạch “ là điều đại cấm kỵ, thật đáng tiếc cho họ Cao, có tài
nhưng lại không thoát khỏi sự tham lam, ích kỷ. u cũng là ý trời, đáng buồn thay.

Ông Vọng bực tức nói :

-- Họ thật là những kẻ xấu xa, tại sao lại muốn hại dân làng của tôi cơ chứ…?

Thầy Lương khẽ trả lời :

-- Bác trưởng làng đừng vội trách móc, cũng như cơn mưa rào dài ngày đã giúp dân
làng có nước để uống, để duy trì sự sống. Việc gì cũng có nguyên nhân của nó, bác
trưởng làng đã tự hỏi, tại sao dòng họ Cao đó lại biến mất không một vết tích, mặc
dù tôi có thể chắc chắn rằng, trước đó họ cực kỳ hưng thịnh, giàu có. Tai ương mà
dân làng phải gánh chịu cũng đều có lý do, nhân quả báo ứng…..Ban nãy khi bác
trưởng làng hỏi tôi liệu tôi có thể trấn yểm lại được họ Cao, tôi có thể nhưng đó
không phải cách tôi ở đây. Dù tôi có khiến cho mồ mả của Cao Côn chịu bùa yểm
cũng không khiến cho làng Văn Thái thoát được kiếp nạn này. Muốn giải quyết triệt
để, chúng ta cần tìm hiểu được gốc rễ của vụ việc...Ai sai, ai đúng vẫn là câu hỏi chưa
có lời giải đáp. Tôi không muốn làng ta tiếp tục mắc sai lầm…..Cũng muộn rồi, bác
trưởng làng nghỉ ngơi sớm đi, ngày mai chúng ta còn nhiều thứ phải bận rộn lắm
đấy.

#Chap25 : Ngôi Làng Điêu Tàn.


Đêm hôm đó, thầy Lương ngồi dưới ánh đèn dầu cố gắng đọc kỹ hết tất cả những gì
được ghi chép trong tấm phổ truyền của họ Cao. Qua đó thầy Lương thêm một lần
nữa khẳng định rằng, họ Cao khi còn vượng rất giàu có, việc xây dựng nhà cửa, đặt
nền móng trên thế đất Thanh Long đã chứng tỏ, họ Cao này rất am hiểu về phong
thủy. Như lời ông Vọng thì làng Văn Thái ngày mai mới tròn 100 năm tuổi, nhưng
theo như phổ truyền thì Cao Côn tính đến nay đã 150 tuổi, có nghĩa là việc ông ta
xuất hiện ở đây trước khi làng Văn Thái được lập nên thì cũng không có gì là khó
hiểu, hoặc chí ít, dòng dõi họ Cao cũng phải là người gắn bó xuyên suốt chiều dài lịch
sử của ngôi làng.

Việc đào bới ở Bãi Hoang phát hiện ra gạch đỏ cùng những tảng đá vân mây vuông
vức cho thầy Lương biết rằng, nơi đó chắc chắn phải có công trình gì đó rất lớn. Nếu
suy rộng ra một chút, đó có thể là biệt phủ của dòng họ Cao. Nhưng rốt cuộc thì tại
sao một thế đất Thanh Long đẹp như vậy, vượng khí như vậy lại biến thành Bãi
Hoang. Nền móng vẫn còn, vậy những gì xây dựng trên đó đã biến đi đâu….?
Trong phổ truyền có ghi, Cao Côn có 2 người con trai đó là Cao Lãm và Cao Kiệt. Việc
tấm phổ truyền được giấu trong tảng đá vân mây suy ra, có thể khi khởi công xây
dựng biệt phủ, dinh thự thì khi đó Cao Côn đã mất. Điều này hợp lý, bởi nếu biệt phủ
của họ Cao được xây dựng khi làng Văn Thái được lập lên thì Cao Côn khi đó cũng
phải hơn 100 tuổi rồi. Ban đầu thầy Lương nghĩ sẽ dễ dàng tìm được Long Mạch khi
nhìn lướt qua tấm phổ truyền. Bởi thông thường, khi tìm được Long Mạch tốt, muốn
chiếm long mạch đó làm của riêng, họ sẽ chôn người đứng đầu gia tộc, chi họ vào
đúng nơi có long mạch để vượng khí của gia tộc, dòng họ sau này sẽ được đảm bảo.
Nhưng trong phổ truyền lại viết, Cao Côn được chôn ở quê nhà là U Châu ( Bắc Kinh
bây giờ ), thành thử ra việc xác định long mạch vẫn còn khó khăn. Và bởi hai người
con của Cao Côn không muốn phổ truyền bị người khác biết nên họ mới giấu vào
giữa tảng đá vân mây đặt nền móng trong khi xây dựng. Có nghĩa, khi đó, dòng họ
Cao vẫn còn rất vượng phát.

Thầy Lương cau mày suy nghĩ :

“ Sau khi Cao Côn chết, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì…? “

Trời đã chuyển dần về nửa đêm, dầu trong đèn cũng không còn nhiều, cả ngày hôm
nay đã quá mệt mỏi, thầy Lương thổi tắt đèn dầu rồi lên giường nằm nghỉ. Biết mọi
chuyện không thể lý giải trong một sớm một chiều được, trước mắt cũng đã có manh
mối quan trọng về dòng họ Cao. Ngày mai biết đâu khi đến thỉnh chuyện cụ Cẩn, một
người năm nay đã 85 tuổi, là bô lão trong làng,, biết đâu thầy Lương sẽ nghe được
chuyện gì đó về dòng họ Cao. Dù có tinh thông quảng đại thì thầy Lương vẫn chỉ là
một con người đã 50 tuổi, những ngày qua quá chú tâm vào việc tìm hiểu về làng
Văn Thái, sức khỏe của ông đã giảm đi trông thấy. Đặt lưng nằm được vài phút, thầy
Lương chìm vào giấc ngủ. Đêm nay ông không mơ thấy điềm báo hay câu sấm nào
nữa cả. Có lẽ đây là giấc ngủ yên bình nhất của ông sau chuỗi ngày vừa qua.

Nhưng…...trong lúc thầy Lương ngủ say thì bên ngoài hiên, con Vàng đang nằm chúi
đầu vào hai chân trước bỗng dưng chồm dậy, nó nhảy thẳng ra phía sân giữa rồi sủa
lên ba tiếng :

“ Gâu….Gâu….Gâu “

Nhưng cũng chỉ như tối qua, con Vàng sủa xong ba tiếng thì lại quay đuôi bước lên
hiên nhà nằm phủ phục xuống. Tiếng chó sủa khiến cho ông Vọng mở mắt, nhưng
không thấy con Vàng sủa nữa nên ông chỉ lẩm bẩm :

-- Đêm hôm không biết nó sủa cái gì thế.

Bên ngoài đường, đâu đó thi thoảng lại vang lên tiếng cười rất khẽ :

“ Hi...hi….hi…”

“ Hi….hi...hi “
Tiếng cười đó lướt qua rặng tre, trời đêm thanh vắng, những cây tre bị gió thổi đưa
qua đưa lại vang lên những tiếng lạnh người :

“ Kẹt….ẹt…..Kít….kít…”

Trên con đường đất ấy vào giờ này chẳng còn ai qua lại, chỉ có hai cái bóng người
nhập nhoạng vừa mới đi lướt qua chậm rãi.

“ Hi...hi...hi…..”

“ He...he...he “

“ Chết….đi….lão...thật….đáng….chết…”

“ Hi….Hi….Hi..”

[........]

Sáng hôm sau, thầy Lương và ông Vọng thức dậy vào lúc 6h30 sáng. Thời gian gấp
gáp nên cả hai người đang chuẩn bị đến nhà cụ Cẩn để hỏi chuyện luôn. Trước khi ra
khỏi nhà, ông Vọng nói với con Vàng :

-- Tao đi, mày ở nhà trông nhà cẩn thận nhé. Đêm qua mày sủa làm tao tỉnh cả giấc
ngủ..?

Nghe vậy, thầy Lương hỏi :

-- Đêm qua chó có sủa ư…?

Ông Vọng cười rồi gật đầu :

-- Tầm hơn 12h đêm thì phải, thấy nó sủa mấy tiếng, còn đang thắc mắc đêm hôm
làm gì có ai đi đường mà nó sủa gì không biết, nhưng sau đó thì nó ngừng luôn.

Thầy Lương thấy lạ là đêm qua con Vàng sủa mà ông không hề hay biết gì, có lẽ vài
ngày qua thức đêm, thức hôm, suy nghĩ nhiều nên ông đã ngủ quá say. Nhưng khác
với đêm của hai hôm trước, con Vàng hôm nay cũng không thấy có biểu hiện gì. Nó
còn vẫy đuôi mừng hai người khi rời khỏi nhà. Nhà cụ Cẩn cũng không cách nhà lang
Phan, người treo cổ chết buổi sáng ngày hôm qua là bao xa. Đi qua nhà lang Phan,
người trong nhà khóc đến nức nở, kèn đám ma cũng thổi từ sáng sớm, vợ lang Phan
khóc đến tưởng chừng như điên dại, bà con làng xóm cũng đến chia buồn.

Ông Vọng buồn rầu đáp :

-- Lát về qua tôi cũng ghé vào thắp cho lang Phan nén hương. Tuy có cái tính trăng
hoa, hay nhòm ngó phụ nữ trong làng, bị vợ dằn mặt không biết bao nhiêu lần nhưng
được cái bốc thuốc mát tay. Đau ốm gì đến hắn bốc cho vài thang thuốc uống là khỏi.
Sao đang yên đang lành lại treo cổ chết không biết.

Chuyện của gia đình họ nên thầy Lương không muốn tham gia, nhưng quả thực, một
người đang khỏe mạnh, thậm chí đêm đó còn mây mưa với vợ chán chê xong mới
chịu lăn ra ngủ, tinh thần lẫn sức khỏe tốt như vậy mà bỗng dưng treo cổ chết, cái
chết của lang Phan khiến cho ai cũng thắc mắc không hiểu tại sao.

Đi được chục mét nữa thì đến nhà cụ Cẩn, ông Vọng đứng bên ngoài ngõ gọi to :

-- Nhà bác Cung có nhà không đấy…?

Vừa dứt lời thì bên trong nhà, một người đàn ông phải tầm 55 tuổi đi ra đáp lại :

-- Ai như giọng chú Vọng thế nhỉ…?

Ông Vọng cười :

-- Tôi đây, bác cho tôi vào nhà thưa câu chuyện.

Ông Cung mở cửa rồi niềm nở mời cả hai người đi vào bên trong. ông Vọng giới thiệu
xong bèn hỏi :

-- Cụ Cẩn có nhà không hả bác Cung..?

Ông Cung đáp :

-- Chú hỏi như đùa, ông cụ nhà tôi không ở nhà thì đi được đâu. Cụ ốm mấy ngày
hôm nay rồi, chỉ nằm trên giường, ăn được chút cháo thôi. Việc làng bây giờ cụ
không cho ý kiến được nữa đâu.

Ông Cung nói như vậy là bởi vì, trong số các cụ hương thân, phụ lão trong làng thì bố
ông là người còn sống duy nhất. Những cụ khác đã lần lượt về trời mấy năm trở lại
đây. Trước đó, khi các cụ còn đông đủ, làng muốn làm gì cũng đều phải hỏi qua ý
kiến của các cụ. Nhưng vài năm trở lại đây, các cụ tuổi cao sức yếu, dần dần bây giờ
chỉ còn lại mỗi mình cụ Cẩn, cũng là cụ ít tuổi nhất trong số các cụ có tuổi đời lâu
nhất làng Văn Thái.

Bước vào trong nhà, đang nằm trên giường quay mặt ra phía cửa chính là cụ Cẩn, cụ
nằm xõa bộ tóc dài bạc phơ gần chấm cả xuống đất. Cụ vẫn mở mắt, mặc dù sắc mặt
có phần nhợt nhạt và hơi thở không được đều cho lắm.

Ông Cung lại gần giường bố rồi chắp tay lễ phép :

-- Ông ơi, có chú Vọng trưởng làng đến thăm ông này. Ông nói chuyện được chứ..?

Cụ Cẩn giơ tay lên trời ra hiệu cho con đỡ mình dậy, dựa vào thành giường, cụ Cẩn
thều thào :

-- Anh….Vọng….đấy...à…..Hư….hư….Tôi...nghe thằng….Cung nó….nói…..làng...xảy...ra


chuyện...có phỏng…?

Ông Cung kéo ghế cho thầy Lương với trưởng làng ngồi, ngồi xuống, ông Vọng nhìn
cụ Cẩn đáp :

-- Thưa cụ phải rồi ạ, làng ta đang gặp chuyện chẳng lành….Không hiểu tại sao nước
giếng trong làng bị nhiễm độc hết, trâu bò, gà lợn chết cả. Hôm nay là ngày làng Văn
Thái chúng ta tròn 100 năm tuổi mà làng lại xảy ra chuyện. Thân làm trưởng làng,
con không còn mặt mũi nào nhìn mọi người nữa.

Cụ Cẩn tiếp :

-- Thế….anh….đến...đây...có...việc….gì…?

Ông Vọng trả lời :

-- Không giấu gì cụ, chúng con đang tìm cách giải quyết việc nguồn nước bị nhiễm
độc. Đây là thầy Lương, là một người am hiểu về phong thủy, thầy Lương nói, long
mạch làng ta bị động dẫn đến tai ương. Chúng con đang tìm xem long mạch nằm ở
đâu để cứu lấy dân làng. Chúng con đã đến Bãi Hoang và đào bới ở đó, và rồi con
phát hiện ra nơi đó có gia phả của dòng họ Cao. Hiện giờ, cụ là người lớn tuổi nhất
trong làng, chẳng hay thời còn trẻ, cụ có nghe hay biết đến làng ta từng xuất hiện
dòng họ Cao……

Ông Vọng chưa nói hết câu thì cụ Cẩn đã trợn mắt, chỉ tay vào mặt ông Vọng, cố lấy
hết sức để nói, cụ Cẩn quát :

-- Tại sao…..tại sao anh dám đến đó….đào...bới hả….hả…..Họa….lớn...rồi…..Anh


không….coi những….điều cấm….của làng….ra gì hay...sao…..Khụ….khụ…
khụ….Cút...đi…..cút...đi mau….

Tất cả mọi người đều sững sờ trước thái độ của cụ Cẩn, ngay khi nhăc đến Bãi
Hoang, đến họ Cao thì cụ Cẩn đã lập tức trở nên gay gắt, ông Vọng định giải thích thì
thầy Lương ngăn lại, thầy Lương nhìn cụ Cẩn khẽ nói :

-- Quả nhiên tôi đoán không sai, các cụ hương thân phụ lão trong làng dường như
đang muốn che giấu sự thật về dòng họ Cao. Nhưng thưa cụ, họa của làng này xảy ra
trước khi chúng tôi đến Bãi Hoang đào bới. Có vẻ như các cụ không muốn ai biết về
những gì đã từng xuất hiện trên khu đất đó. Chuyện ân oán xa xưa bây giờ không
phải lúc để giấu kín, sinh mạng, cũng như sự tồn vong của làng Văn Thái bây giờ chỉ
còn biết dựa vào cụ. Chẳng lẽ một người đã 80 tuổi, là người gắn bó với ngôi làng
100 năm tuổi như cụ, cụ muốn nhìn thấy từ nay về sau, mảnh đất này chỉ còn là một
mảnh đất chết hay sao…?
Cụ Cẩn nghe xong thì ho ra máu, ông Cung thấy vậy bèn đuổi ông Vọng với thầy
Lương về. Ông Cung chửi bới :

-- Hai người muốn bức chết bố tôi đấy à…? Cút khỏi đây ngay, cút ra khỏi nhà tôi.

Không biết thêm được điều gì, ngược lại còn khiến cho cụ Cẩn tức hộc máu, rời khỏi
nhà cụ Cẩn, ông Vọng ghé vào thắp hương cho lang Phan. Xong xuôi cả hai đi đến
đình làng, hôm qua, bức tượng thờ thần Thành Hoàng đổ sập vỡ thành nhiều mảnh,
sự việc khiến cho dân làng sợ hãi nên không ai dám đến dọn dẹp. Một ngôi làng vốn
dĩ yên bình cùng những cảnh vật đẹp đẽ với cây đa, giếng nước, sân đình, đồng
ruộng thì nay điêu tàn, ruộng đồng xác xơ, sân đình quạnh vắng, tượng thờ đổ nát,
giếng nước nhiễm độc……..Nhìn cảnh tượng đó mà ông Vọng trực rơi nước mắt, ông
nói :

-- Rồi làng này sẽ đi về đâu….?

#Chap26 : Bức Tranh Thứ 3.


Bước chân vào trong đình, thầy Lương cũng phải kinh ngạc bởi kiến trúc của đình, từ
những cây cột trụ cho đến nền gạch đá hoa, các ban bệ thờ cúng, tất cả đều còn rất
tốt.

Thầy Lương hỏi :

-- Ngôi đình này chắc có lẽ cũng phải tồn tại ngang với tuổi đời của làng ta bác nhỉ..?

Ông Vọng gật đầu có chút hãnh diện :

-- Dạ, đúng rồi thưa thầy….Làng tôi có thể ăn đói, mặc rét nhưng chuyện chăm lo, tu
sửa cho đình thì bao năm qua chưa ai dám lơ là. Từ đời ông bà, cha mẹ tôi đã như
vậy, năm nào cũng phải xem xét, sửa chữa, tu bổ những chỗ hư hỏng. Cũng nhờ ơn
các cụ lúc xây dựng đình, vật liệu đều là đồ tốt, gỗ quý nên trải qua ngót nghét 100
năm, đình làng vẫn sừng sững. Mà những năm chiến tranh, bom đạn liên miên, vậy
mà ngôi đình chưa từng một lần bị tàn phá. Thế cho nên dân làng Văn Thái càng tin
vào sự linh thiêng của đình.

Nhìn bức tượng thờ thần Thành Hoàng bị đổ vỡ vụn, ông Vọng buồn bã nói thêm :

-- Mưa bom, bão đạn không khiến cho đình suy chuyển, vậy mà trong thời bình,
tượng thờ thần lại đổ vỡ nát thế này. Tôi thật hổ thẹn trước những bậc tiền bối đi
trước.

Đi tới tấm bia công đức, trên bia có khắc tên những dòng họ có công đóng góp cho
làng Văn Thái, đọc từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, quả thực, thầy Lương không
hề thấy một ai mang họ Cao cả. Cứ như thể trong làng này không hề tồn tại dòng họ
Cao vậy…? Mà thực tế thì đúng là như vậy, nếu thầy Lương không chỉ điểm cho mọi
người tới Bãi Hoang để đào bới thì chẳng ai biết, nằm sâu dưới 6 thước đất ấy lại là
một nền móng cổ xưa cùng tấm phổ truyền của dòng họ Cao.

Thầy Lương chắc chắn cụ Cẩn, người lớn tuổi nhất còn sống trong làng này phải biết
điều gì đó. Nhưng cụ Cẩn lại không chịu tiết lộ, có điều gì mà khiến cho các hương
thân, phụ lão trong làng dù có chết cũng không hé răng nửa lời như vậy. Việc họ cấm
dân làng bén mảng đến Bãi Hoang phải có lý do nào đó. Nhưng là gì thì đến đời của
ông Vọng hầu như không ai biết. Họ đã gây ra chuyện gì mà dù dân làng Văn Thái
đang gặp nạn mà cụ Cẩn sống chết giữ bí mật.

Tất nhiên thầy Lương đã nghĩ đến một lý do, một lý do tàn ác, nhẫn tâm, và đây sẽ
giải thích dòng họ Cao kia bị xóa sổ, đó chính là : Họ Cao đã bị người dân làng Văn
Thái tàn sát cả họ. Nhưng tại vì sao mà người dân làng Văn Thái lại làm như vậy, thầy
Lương vẫn chưa có câu trả lời thích đáng.

Chuyến đi đến nhà cụ Cẩn cũng như đến đình làng đều không đem lại kết quả gì.
Tưởng chừng như sắp tìm ra được nguyên nhân thì mọi thứ lại rơi vào bế tắc. Thầy
Lương cùng ông Vọng đành trở về nhà, lúc đi qua cái giếng, thấy tấm bạt ngày hôm
qua Sửu cùng với Lực phủ lên để che miệng giếng vẫn còn nguyên vẹn, ông Vọng
cũng phần nào yên tâm. Ngày nào ông Vọng cũng cử người đi đến từng gia đình
trong làng, nhắc nhở bà con, nhất quyết không được sử dụng nước giếng. Trong thời
gian này, mọi người chỉ được dùng nước mưa mà thôi.

Trên đường về, thầy Lương hỏi ông Vọng :

-- Bác trưởng làng này, làng ta có bản đồ vẽ các khu vực, các hướng, địa hình của
làng không nhỉ…?

Ông Vọng lắc đầu :

-- Không có đâu thầy ạ, đâu ai rành mà vẽ được thứ đó chứ. Quanh quanh đường
làng, muốn đi đâu đi nhiều là nhớ chứ còn vẽ bản đồ làm gì.

Thầy Lương đáp :

-- Việc này tuy khó, cần một người am hiểu về địa hình, địa vật mới có thể vẽ được.
Nhưng nó rất cần, bởi sau này nhìn vào đó, bác trưởng làng có thể biết được khu đất
nào còn trống, hay kể cả việc dẫn nước, đào mương dựa trên bản đồ, địa hình của
làng cũng sẽ dễ hình dung hơn. Tôi không phải người làng, địa giới của làng đến đâu
tôi không nắm rõ, nhưng nếu bỏ ra vài ngày có người dẫn đường, tôi nghĩ tôi có thể
nắm được chút căn bản của địa vật nơi đây.

Ông Vọng hỏi :

-- Sao thầy lại muốn vẽ bản đồ địa phận đất của làng vậy ạ...Làng này trông thế thôi
nhưng rất rộng, chỉ sợ tốn nhiều thời gian của thầy, chứ tôi có thể dẫn thầy đi hết địa
giới của làng.
Thầy Lương khẽ thở dài, bởi ông Vọng nói không sai, tuy nói là vài ngày nhưng thực
tế không thể nhanh như vậy. Nhưng không phải tự nhiên thầy Lương lại muốn biết
rõ địa hình của làng Văn Thái, ông nói :

-- Thực ra tôi muốn có một tấm bản đồ bao quát địa hình của làng chính là để tìm
xem vị trí long mạch nằm ở đâu. Như tôi đã nói, tứ thanh tú tạo nên long mạch, nay
chúng ta đã nhìn thấy Thanh Long hướng đông, còn lại Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền
Vũ….Khi đã xác định được tứ tượng, tôi sẽ biết long mạch nằm ở đâu. Giờ chỉ còn
cách đó mà thôi, nhưng việc này cần tỉ mỉ, cẩn trọng, hấp tấp dẫn đến sai vị trí, sai
thế đất sẽ gây hậu quả khôn lường. Dù có là thầy phong thủy giỏi cũng phải mất ít
nhất một tháng mới có thể xác định được thế đất tốt. Chỉ sợ đến lúc đó mọi chuyện
còn tồi tệ hơn bây giờ. Phải chi tấm phổ truyền kia có ghi chép về long mạch thì tốt
biết mấy.

[......]

Cùng lúc đó tại nhà bà Điều thầy cúng, Lực đang đứng bên ngoài núp sau bụi cây giả
giọng tắc kè :

-- Tắc kè….tắc kè….tắc kè…

Bên trong nhà, cô con gái của bà Điều nghe thấy ám hiệu thì đứng ngồi không yên,
bà Điều nhìn con gái, miệng nhai trầu nhóm nhép, quẹt mỏ, bà ta nói :

-- Đừng có mà giao du với dạng khố rách áo ôm ấy. Để yên tao nhờ kiếm cho một
mối ngon lành. Con gái nhà này xinh đẹp thế kia thì ít cũng phải lấy con nhà gia thế.
Cấm tiệt, nghe chưa…?

Cái Út, con gái bà Điều nũng nịu :

-- Con lớn rồi, mẹ phải để con lấy người con yêu chứ….? Nhà ta cũng đâu phải nghèo
khổ gì mà mẹ còn tham tiền bạc.

Bà Điều cầm cái gậy đập mạnh xuống đất :

-- Tao đẻ mày ra để mày cãi lại thế này hả..? Không nói nhiều, tao có ép cũng là
muốn mày chui vào được cái nhà nó giàu có, cho đời mày rồi đời con mày sau này nó
không phải khổ con ạ. Lấy cái thằng ngoài thịt với cơ bắp kia ra rồi cháo không có mà
ăn con ạ. Đi vào bên trong…

Không dám cái mẹ, cái Út giận dỗi đi vào buồng trong, bà Điều nhổ toẹt bãi nước
trầu ra ngoài cửa sổ rồi lốc cốc làm bộ chống gậy bước ra sân. Miệng bà ta chửi bới :

-- Bà là bà biết con tắc kè nào đang chui sau bụi cây kia rồi nhé…..Còn léng phéng ở
đây, bà là bà gọi người bà bắt bỏ ngâm rượu nghe chửa….Cút ngay không bà thả chó
cho mày tắc tịt luôn bây giờ.
Biết bị lộ, Lực không dám ho he ở trước cổng nhà bà Điều nữa, tháo cả dép chạy vì
nhác thấy tiếng bà Điều đang mở then cài cổng, Lực chạy bay chạy biến không dám
quay đầu lại nhìn luôn.

Chạy đến con đường đất đường đi vào nhà ông Vọng thì Lực thấy hớt ha hớt hải đi
tới từ phía đối diện là vợ Mão, cô ta chạy ngang qua Lực rồi lộn lại hỏi :

-- Cậu Lực, cậu vừa đi đâu về phải không…?

Lực đáp :

-- Sao đấy chị Mão..?

Vợ Mão hỏi tiếp :

-- À không, tôi muốn hỏi cậu xem có thấy tay Mão nhà tôi đâu không…?

Đang bực mình vì không gặp được người yêu, Lực cáu :

-- Ơ cái bà này, chồng bà đi đâu bà lại hỏi tôi….Sao tôi biết được, vớ vẩn.

Thấy phía sau là trưởng làng cùng thầy Lương đang đi tới, vợ Mão nguýt Lực một cái
rồi chạy đến chỗ ông Vọng cũng hỏi câu như vậy, ông Vọng cũng bảo không gặp Mão
ở đâu cả, vợ Mão tức mình nói :

-- Đấy, bác thấy đấy…..Bảo đi lên huyện đến tối hôm qua về, mà tới tận sáng nay còn
chưa thấy đâu. Nhà cửa thì bề bộn, đang trong lúc nước sôi lửa bỏng thế này mà lão
đi đâu không biết. Có khổ thân em không chứ..?

Ông Vọng khuyên :

-- Thôi, cô đừng đi tìm nữa, anh ta có chân đi khắc có chân về, có phải con nít lên ba
đâu mà sợ lạc. Tôi thấy cô nên về nhà chăm lo cho con nhỏ tốt hơn đấy. Lúc này
không trông chừng, chúng nó đi mới là chết dở. Thôi về đi, nếu tôi gặp anh ta ở đâu
tôi nhắn cho. Lát nữa tôi cũng đi quanh quanh có chút việc.

Vợ Mão nghe vậy thì cảm ơn ông Vọng rối rít rồi quay trở về nhà…….Đi qua nhà cô
Xoan, vợ Mão còn ngó đầu vào xem rồi hỏi đổng :

-- Cô Xoan ơi, cô có thấy lão Mão nhà tôi sang đây không nhỉ..?

Đáp lại câu hỏi vô duyên của vợ Mão, cô Xoan nói :

-- Không chị ạ, mà chồng chị sao lại tìm ở nhà em…..

Vợ Mão cười mỉa :


-- Đấy là tôi cứ hỏi thế, biết đâu được…...Trước kia cô chẳng với….

Cô Xoan tức giận quát :

-- Này cái chị Mão kia, chị đừng có mà thối mồm nhé. Chuyện nhà chị, chồng chị đi
đâu hà cớ làm sao chị sang đây kiếm chuyện. Đừng tưởng mẹ góa con côi mà muốn
bắt nạt.

Vợ Mão chép miệng rồi bỏ sang nhà, cô Xoan đi vào trong, trên hiên lúc này cái Mị
vẫn đang ngồi vẽ nghuệch ngoạc, nó cứ thế quơ tay vẽ một vòng tròn trên nền hiên.
Đang bực vợ Mão, con lại chắn lối ra vào, Xoan tiện chân sút luôn miếng gạch vụn mà
Mị đang cầm vẽ trên tay. Bị mất miếng gạch, cái Mị ngồi sững người lại, mắt nó nhìn
vô hồn về khoảng không trước mặt, nhưng nó đâu có thấy gì bởi nó bị mù mà, nó ú ớ
hai tay quờ quạng tìm mẩu gạch.

Lát sau Xoan đi ra, Xoan thay quần áo đi đâu đó, Xoan nói với con bằng giọng khó
chịu :

-- Ở nhà không được đi đâu, cơm để trên bàn kia….Bao giờ đói tự tìm lấy mà ăn, tối
mẹ về.

Dứt lời, Xoan đội nón đi ra khỏi nhà, Xoan vừa đi thì cái Mị nhoẻn miệng cười khanh
khách :

“ Hi...hi...hi…”

“ Hi….Hi….Hi..”

Con bé mù lòa, không nói được đang cố gắng bò bò trên nền hiên để tìm mẩu gạch,
mẹ nó đã đá bay mẩu gạch vào trong tận kẹp cửa…….Nhưng chẳng hiểu sao, mẩu
gạch lúc này đang tự động lăn đến chỗ bàn tay nhỏ bé của nó. Cái Mị chụp nấy rồi
giơ mẩu gạch lên lấy tay sờ sờ. Cánh tay áo rộng thùng thình của nó tụt xuống, để lộ
ra những vết hằn bầm tím nơi cổ tay, cánh tay, bắp tay…..Cái Mị lại lê lết về đúng vị
trí mà nó đang vẽ dở, nó lại tiếp tục nghuệch ngoạc, nhưng hôm nay, nó đã vẽ sang
bức thứ 3….

“ Hi...hi...hi…”

“ Hi….hi...hi…”

#Chap27 : Ngôi Nhà Vắng Vẻ.


Tại nhà ông Vọng, lúc này đã là giữa trưa, thầy Lương đang ngồi nghiên cứu lại thật
kỹ tấm phổ truyền đào được từ Bãi Hoang. Bất ngờ bên ngoài cổng có tiếng gọi :

-- Ông Vọng, ông Vọng đâu rồi…? Có nhà không đấy..?
Thầy Lương hỏi :

-- Ai gọi bác trưởng làng vậy..?

Ông Vọng trả lời :

-- Là giọng của bà Điều thầy cúng, sao bà ấy lại sang đây giờ này nhỉ..?

Nói rồi ông Vọng đi ra mở cổng, đúng là bà Điều đang đứng bên ngoài, ông Vọng
nói :

-- Bà Điều đấy à…? Cơm nước gì chưa…? Bà tìm tôi có chuyện gì đấy..?

Bà Điều đáp :

-- Có chuyện thì mới phải đến tận nhà tìm ông để bàn chứ..? Không mời tôi vào nhà
được à..?

Ông Vọng ngại trong nhà còn có thầy Lương, nhưng dẫu sao bà thầy cúng cũng là
người làng, bao năm nay việc cúng tế, lễ bái đều nhờ đến bà ấy, nếu đứng ngoài
đường nói chuyện cũng không tiện, ông Vọng nói :

-- Vâng, mời bà vào trong nhà.

Nghe tiếng bước chân, thầy Lương gấp tấm da lại rồi cất đi, đi vào trong nhà thấy
người lạ mặt, bà Điều dò xét một hồi rồi hỏi ông Vọng :

-- Nhà ông đang có khách à..?

Liếc nhìn thầy Lương, thấy thầy Lương khẽ lắc đầu ra hiệu, ông Vọng hiểu ý bèn đáp :

-- Là bà con xa của tôi tới nhà ở vài hôm, bà vào nhà ngồi có chuyện gì cứ nói.

Ậm ờ đảo mắt nhìn thầy Lương, bà thầy cúng trịnh thượng ngồi xuống ghế, không để
mất thời gian, bà ta nói luôn :

-- Chẳng hay việc làng ông định tính thế nào…? Chẳng lẽ ông cứ định để như thế à…?
Tôi đã nói với ông rồi, chuyện thánh thần không đùa được đâu. Thần linh đang nổi
giận, giờ muốn các ngài tha cho dân làng Văn Thái thì chỉ có cách là dựng tượng mới,
lập đàn lễ bái các ngài thì mới mong các ngài bỏ qua mà tiếp tục phù hộ cho làng.

Rót nước mời bà thầy cúng, ông Vọng đáp :

-- Chuyện này….chuyện này không phải tôi không nghĩ đến. Nhưng bà thấy đó, mùa
màng mất sạch, nước giếng thì bị nhiễm độc, bà con ta đã khổ lắm rồi. Nếu bây giờ
còn kêu gọi mọi người chung tiền xây dựng tượng mới, rồi làm lễ nọ kia tôi e bà con
không lo được.
Bà Điều cau mặt sẵng giọng :

-- Ý ông là không làm chứ gì…?

Ông Vọng nói :

-- Không phải như thế, nhưng hôm sang bên nhà bà, tôi thấy bà liệt kê ra những thứ
cần mua bán, rồi kinh phí dựng tượng mới, lập đàn thuê thầy, thuê thợ…..Quả thực
số tiền đó quá lớn, bà là người trong làng bà cũng biết dân làng ta đang khó khăn thế
nào rồi mà. Hay là ta cũng làm lễ, nhưng làm nó nho nhỏ thôi, còn chuyện dựng
tượng mới, để qua đợt này, bà con ổn định hơn hãy bàn tiếp có được không…?

Bà Điều mím môi mím lợi :

-- Nhỏ là nhỏ thế nào…? Bao nhiêu năm nay, kể từ khi tôi với ông sinh ra trên cái làng
này, đã bao giờ làng xảy ra chuyện lớn như thế này chưa…? Trâu bò chết đằng trâu
bò, người thì cũng tự nhiên treo cổ mà chết, giếng làng cả bao đời nay là nguồn nước
sử dụng cho bà con thì nay nhiễm độc, cá chết trắng người, tượng thần đổ vỡ….Bao
nhiêu chuyện kinh hãi như thế mà ông còn nói làm lễ nhỏ mà được à..? Báng bổ,
báng bổ quá…...Cứ tiếp tục thế này không bỏ đi thì cũng chẳng sống được ở cái đất
này được nữa đâu.

Ông Vọng giờ cũng không biết phải làm sao, không phải ông không muốn làm lễ như
lời bà Điều yêu cầu, mà thực sự ông lo lắng cho bà con trong làng, vốn đã không đủ
ăn, giờ xảy ra bao chuyện mà còn còng lưng quyên tiền làm lễ, xây tượng, sợ lễ xong
thì dân làng đã chết đói. Nhưng không làm ông lại sợ những lời mà bà Điều nói là
thật, sự việc sẽ càng tồi tệ hơn. Bởi quả thực 1 năm trước, bà Điều đã đề xuất ý kiến
xây tượng mới, thậm chí là tu bổ toàn bộ ngôi đình. Do không làm theo nên bây giờ
xảy ra chuyện, ông Vọng cũng cảm thấy có gì đó đáng sợ.

Thấy ông Vọng lung lay suy nghĩ, bà thầy cúng nói thêm :

-- Đói một chút nhưng an yên sau này, còn bây giờ cứ để như thế sợ còn chết trước
khi bị đói ấy chứ. Thôi, tôi sang đây cũng để nhắc ông thôi, thời gian để lâu các ngài
càng nổi giận…..Đêm hôm qua tôi mơ thấy thần Thành Hoàng hiện về quở trách,
thần bảo sao tượng đổ sập mà không chịu dựng tượng mới. Thần hỏi có phải làng
Văn Thái muốn chịu tai kiếp nặng nề hơn thì mới biết hối lỗi phải không..? Đấy, ông
xem xem mà liệu….Tôi là tôi cũng chỉ truyền đạt lại những gì mà thần thánh muốn
nói thôi. Tôi về, ông không cần phải tiễn.

Vừa đứng dậy thì bà Điều thấy Lực và Sửu đi vào trong sân, ngó vào nhà Sửu buột
miệng nói khi chưa nhìn thấy bà Điều :

-- Bác Vọng, thầy Lương….Hai người ăn cơm chưa…?

Thấy bà Điều, Sửu không nói nữa, còn Lực thì quay mặt tránh đi bởi Lực đang tăm te
còn gái của bà Điều. Nghe thấy Sửu gọi thầy Lương là thầy, lập tức bà Điều quay lại
nhìn, nhưng thầy Lương vẫn điềm tĩnh không tỏ thái độ gì, có chút nghi ngờ nhưng
bà Điều tặc lưỡi bỏ đi. Đi qua bà ta không quên lườm Lực một cái rõ không vừa lòng.

Đợi bà ta đi khỏi, Sửu mới bước vào nhà, Sửu nói :

-- Nhìn cái bà này sợ thế, lúc nào cũng nhìn chằm chằm như muốn ăn tươi nuốt sống
người ta vậy. Không vì bà ấy là thầy cúng chắc tôi phải chửi rồi, thầy cúng thầy bái gì
mà ghê gớm, đanh đá, ai không vừa ý là bả chửi luôn….Sợ thật….Mà bà ấy đến tìm
bác Vọng co chuyện gì vậy ạ…?

Ông Vọng thở dài rồi đáp :

-- Thì vẫn là chuyện dựng tượng mới với lập đàn cúng tế đấy thôi…..Nhưng số tiền bỏ
ra lớn quá, tôi vẫn chưa dám quyết định. Làng mình đâu phải dư dả gì, bao nhiêu
năm nay mọi người cũng cố gắng lắm rồi, khó khăn chồng chất khó khăn, giờ còn đẻ
ra chuyện tiền cúng, tiền xây dựng, sửa sang đâu phải dễ dàng gì.

Sửu gật gù :

-- Bác trưởng làng nói đúng, như nhà em đây, cũng không phải dạng cùng đinh, hay
khó khăn như nhà cô Xoan, cơ mà giờ bảo bỏ ra một khoản để lo việc làng em sợ em
cũng không lo được, vợ con nheo nhóc…..Em cũng tín lắm mà trong lúc này quả thực
khó khăn bác ạ.

Nhìn thầy Lương, Sửu hỏi :

-- Liệu có cách gì giúp dân làng không hả thầy….? Tiền bạc thì tôi không có nhưng sức
khỏe thì dư thừa, đi đâu, đào gì, làm gì thầy chỉ cần ới một tiếng là anh em tôi có
mặt. À mà sáng nay bác và thầy đến nhà cụ Cẩn sao rồi ạ, cụ Cẩn có biết gì về cái họ
Cao kia không…?

Thầy Lương trả lời :

-- Có lẽ cụ Cẩn biết điều gì đó, nhưng cũng như lời bác trưởng làng kể, các bậc hương
thân, phụ lão trong làng đều không hé nửa lời. Tôi cũng có đến đình xem bia công
đức cùng một số văn tự có trong đền, nhưng không hiểu sao, tuyệt nhiên không hề
thấy ghi chép hay bất cứ ai được đề tên mà mang họ Cao cả. Cứ như thể họ chưa
từng tồn tại ở làng này vậy…?

Sửu thở dài :

-- Đúng đấy thầy ạ, tôi cũng về, cũng đi hỏi dò nhưng chẳng ai biết gì về dòng họ Cao
đó cả….Có khi nào tấm gia phả ấy không liên quan gì đến làng này khồng..?

Thầy Lương nói :


-- Chắc chắn có liên quan, không thể tự nhiên mà Bãi Hoang lại có cả một nền móng
kiên cố như vậy được, mà cũng không tự nhiên các cụ trong làng thời còn sống lại
cấm dân làng tới Bãi Hoang đó, mọi chuyện ắt hẳn phải có liên quan. Nhưng giờ
người có vẻ như biết chút gì đó về nguồn gốc câu chuyện lại không chịu nói. Nhưng
tạm thời mọi người nhớ đừng kể chuyện về Bãi Hoang cho ai nghe, giờ chưa giải
quyết được gì, nói ra sợ dân làng lại càng lo lắng. Theo tôi thấy, khu đất đó không
đơn giản, mọi người cũng thấy chất độc được tẩm bên ngoài lớp giấy dầu rồi đó. Giả
dụ tấm gia phả ấy được chôn cách đây 100 năm mà độc tính vẫn còn thì nó thực sự
đáng sợ. Còn về câu chuyện mà bác trưởng làng kể hai vợ chồng nhà kia chết một
cách bí ẩn sau khi đào bới ở Bãi Hoang cũng khiến cho tôi lo lắng.

Nhìn trên cổ Sửu và Lực vẫn còn đeo sợi dây đỏ có hạt tràng, thầy Lương tiếp :

-- Vì hai cậu là người trực tiếp đào bới ở Bãi Hoang nên nhất định trước khi tôi giải
thích được mọi chuyện, hai cậu không được tháo hạt tràng đó ra nghe chưa..?

Sửu với Lực vâng dạ gật đầu. Tại nhà Mão, đã sang đầu giờ chiều, Mão đi đâu vẫn
chưa về, vợ Mão sốt ruột đi ra đi vào bên ngoài cổng hóng chồng, nhưng càng hóng
lại càng mất tích.

Ngó vào nhà cô Xoan, vợ Mão gọi gọi mấy câu nhưng không thấy ai trả lời, thực ra vợ
Mão gọi vậy thôi chứ lúc cô Xoan đi ra ngoài vợ Mão cũng biết. Đột nhiên vợ Mão
nảy ra ý định vào nhà cô Xoan ngó nghiêng xem một chút, làng quê nên cổng cũng
chỉ đóng hờ, cài then chứ không khóa. Nghĩ là làm, vợ Mão nhẹ nhàng mở cổng rồi
rón rén bước vào trong.

Đến hiên nhà, vợ Mão gọi nho nhỏ :

-- Có ai ở nhà không…?

Chẳng có ai trả lời, mà cô Xoan đi rồi thì nhà chỉ còn cái Mị câm, nó có nghe thấy
cũng chẳng nói được. Bước lên hiên, thò đầu vào trong nhà, nhìn lên giường, nhìn
vào cả bộ bàn ghế cũ kỹ, vợ Mão cũng không thấy ai. Cái nhà thì bé tí, một chiếc
giường hai mẹ con cô Xoan nằm, từ hiên đi vào là bộ bàn ghế bị mọt ăn bụi gỗ rơi
xuống đánh đống bên dưới.

Vợ Mão lẩm bẩm :

-- Quái lạ, con mẹ đi rồi thì con con phải ở nhà chứ…? Sao nhà lại vắng tanh vắng
ngắt thế này.

Đang định liều đi hẳn vào trong nhà vì nhà không có ai thì vợ Mão giật mình hét
toáng lên :

-- Ối….giời….đất ơi…..Ma…..ma….

#Chap28 : Người Câm Biết Nói.


Từ kẹp cửa một bàn tay nhem nhuốc thò ra rồi bất chợt túm lấy vạt áo của vợ Mão
khiến cô này hoảng hốt giật bắn cả người, lùi người hẳn ra khỏi cửa, vợ Mão toan bỏ
chạy thì cái Mị lúc này mới lù lù bước ra từ trong kẹp cửa nơi hốc hiên nhà.

Thấy vậy, vợ Mão thở hồng hộc rồi quát :

-- Con kia, mày dọa tao sợ hết cả hồn…..Nhà cửa không ngồi lại đi chui vào trong cái
kẹp đó….Mày, mày cố tình phải không..?

Mị nghe được, nhưng nó câm nên đâu có thể trả lời được. Mị bám hai tay vào thành
cửa rồi lò dò bước vào trong nhà. Biết có chửi con câm, con mù cũng không giải
quyết được gì, hơn nữa vợ Mão bây giờ đang tự tiện xông vào nhà người khác, chửi
ầm um lên ai đi qua nghe thấy chỉ tổ thiệt thân. Nãy nhòm vào nhà cô Xoan, không
thấy gì cả nên vợ Mão cũng đinh ninh rằng chồng mình không có qua đây. Hậm hực
ra về, vừa đi vợ Mão vừa rủa chồng :

-- Đi chết dấm, chết dúi ở đâu mà từ hôm qua đến giờ chưa về….Cái tính ấy á, để bà
mà bắt được…..thì….thì bà xẻo.

Vợ Mão bước ra ngoài đường rồi đóng cửa lại, bên trong nhà cô Xoan, ngồi trên
chiếc ghế đã mục nát, mọt ăn gỗ kêu ken két, kèn kẹt…..Cái Mị lại tiếp tục dùng bàn
tay đen nhẻm, bẩn thỉu ấy bốc cơm, bốc rau cho vào miệng nhai nhồm nhoàm. Đột
nhiên nó mở miệng nói :

-- Chết rồi…..Chết rồi….He he he.

Con bé bị câm bẩm sinh từ khi mới đẻ ra giờ lại có thể nói, nhưng chẳng ai biết cả, nó
chỉ nói lên một câu như vậy rồi tiếp tục lặng im thò tay vào bát cơm bốc cơm cho vào
miệng ăn tiếp, thi thoảng nó lại nhe răng ra nhoẻn miệng cười như thể bên cạnh nó
đang có người vậy.

[........]

Trở về nhà, bà Điều ngồi thụp xuống cái ghế gỗ bóng loáng, cô Út, con gái bà Điều
thấy mẹ về thì vội vàng rót nước, đặt lên bàn trước mặt mẹ, cô Út hỏi :

-- U đi đâu về mà mang bực dọc thế..?

Bà Điều bực tức đáp :

-- Cái lão trưởng làng, đúng là ngu dốt….Nói đến như thế rồi mà lão cứ bàn lùi….Tao
đang điên hết cả người lên đây.

Chẳng hiểu sao, tuy là con gái bà Điều, nhưng Út lại có tính tình khác hẳn với mẹ, cô
dịu dàng, thùy mị và rất thương người, Út nói :
-- U lại nghĩ chuyện xây dựng tượng với lập đàn cúng tế phải không..? Con thấy bác
Vọng cũng chỉ là lo nghĩ cho dân làng mà thôi. U đừng nói thế tội bác ấy.

Tu cốc nước ừng ực, bà Điều quát con :

-- Ơ hay, cái con này….Tao vất vả nuôi mày từ lúc thằng cha mày bỏ đi cho đến bây
giờ mà mày hễ cứ mở miệng ra là bênh người ngoài. Thế mày nghĩ dễ thường mày có
được cuộc sống sung túc như bây giờ đấy hả con. Nhớ lại xem, hồi đó mẹ mày phải
phát điên, phát khùng, thậm chí là tự tử không chết nên mới có ngày hôm nay. Đi
vào trong nhà, con với cái.

Út vội cúi đầu xin lỗi mẹ, khi cô đang định quay đi thì chẳng hiểu bà Điều nghĩ gì, bà
ta gọi Út :

-- Mà này, khoan đã…..Có phải mày với thằng Lực nhà cuối làng có tình ý với nhau
phải không..?

Út thật thà nên không dám chối :

-- Dạ….dạ thưa u...Chúng con đúng là..có tình cảm...với nhau ạ.

Nói xong, Út đang chuẩn bị tinh thần để nghe chửi thì bà Điều đột nhiên hạ giọng :

-- Thế hử, vậy chiều nay, con gọi nó đến đây ăn cơm. U là u không có cấm đoán,
nhưng làm cái gì nó cũng phải rõ ràng, minh bạch….Chứ chúng mày cứ thậm thụt, lén
lút như vậy, người làng người ta chửi vào mặt u chứ chửi ai. Cứ gọi nó đến đây, có gì
trình bày, u nói chuyện qua nếu được thì u xem xét.

Nghe vậy, Út mừng quá, cô cảm ơn mẹ rối rít, không để tốn thời gian, Út xin phép
mẹ chạy đi mời Lực qua nhà mình ăn cơm chiều luôn. Cô gái ngây thơ không biết
được rằng, trong đầu người mẹ nham hiểm của cô đang có dự tính về một chuyện
khác. Ngay từ lúc ở nhà ông Vọng, nhìn thấy thầy Lương là bà Điều đã có chút dự
cảm về con người này, nhưng qua cách nói chuyện thì bà ta biết ông Vọng không
muốn nói. Nhưng khi Sửu và Lực bước vào, Sửu có chào ông Lương là thầy, điều này
lập tức khiến cho bà Điều có phần ái ngại. Bà Điều tự đặt ra vài câu hỏi, chuyện
nguồn nước giếng bị nhiễm độc, rồi đến chuyện gà, bò nhà Xoan, nhà Mão trúng độc
mà chết…..Chắc chắn ông Vọng không thể xác định được chuyện đó một mình, ngay
bản thân bà Điều, tuy là thầy cúng nhưng những chuyện đó bà ta chẳng biết gì cả. Kể
cả là việc bà Điều nói nằm mơ thấy thần Thành Hoàng báo mộng cũng chỉ là bịa đặt.
Vậy mà ông trưởng làng kia lại phát hiện ra thì chắc hẳn phải có ai đó đứng sau giúp
đỡ. Là một người tinh ranh, bà Điều đoán giữa ông Vọng và người đàn ông kia còn
đang giấu diếm điều gì đó. Gặp Sửu và Lực tại nhà ông Vọng, ít nhiều hai người này
cũng có liên quan nên bà Điều muốn khai thác thông tin từ phía Lực.

Không ngoài dự đoán của bà thầy cúng, nghe Út báo tin, Lực mừng đến không còn
quan tâm đến chuyện gì luôn. Là thầy cúng nên việc nắm bắt tâm lý của bà Điều là
cực kỳ tốt, chỉ qua một vài lời ngon ngọt, sau bữa cơm, bà Điều bắt đầu dò hỏi thông
tin về người đàn ông lạ mặt xuất hiện tại nhà trưởng làng.

Bà Điều nói :

-- Trưa nay tình cờ gặp cậu ở nhà ông Vọng, nhìn tướng tá cậu cũng chân thật. Đấy,
cứ đàng hoàng gặp mặt như thế này có phải hay hơn không..? Thanh niên các cậu
toàn làm những chuyện khiến người lớn phải đau đầu.

Lực bối rối :

-- Dạ, cháu xin lỗi bác…..Tại cháu sợ bác sẽ không đồng ý, cho nên…

Bà Điều mỉm cười :

-- Tôi cũng đâu có khó khăn gì, cậu cũng biết đấy, tôi có mỗi mụn con gái. Nó cũng
thiếu thốn tình cảm của bố từ nhỏ, nên tôi sợ đời nó không cẩn thận lại giống như
tôi.

Lực xua tay :

-- Dạ không đâu ạ, tuy hoàn cảnh nhà cháu không phải khá giả gì nhưng cháu hứa sẽ
không để Út phải khổ..?

Câu chuyện đã mềm môi, bà Điều chuyển hướng :

-- À mà trưa nay cậu với tay Sửu đến nhà ông Vọng cũng để bàn chuyện làng à…? Mà
hình như tôi thấy 2 cậu có quen biết với cái ông ngồi trong nhà đó thì phải..?

Lực ấp úng không nói, bà Điều tiếp luôn :

-- Đấy, có cái chuyện cỏn cỏn thế thôi mà cậu còn giấu không nói, thế thì sao tôi dám
tin mà giao con gái của mình cho cậu được.

Đến đây thì Lực tuôn ra hết, Lực vội vàng giải thích mọi chuyện, câu chuyện cứ thế
diễn ra, vì mối tình của mình và Út, vô hình chung Lực đã quên đi toàn bộ những gì
mà thầy Lương dặn dò. Từ việc thầy Lương đến nhà ông Vọng như thế nào, cho đến
chuyện mới ngày hôm qua, Lực và Sửu đi cùng thầy Lương, ông Vọng tới Bãi Hoang
đào bới ra sao, đào được thứ gì, trong đó có nội dung gì…...tất cả, tất cả mọi thứ Lực
đều kể sạch bách không thiếu một điều gì.

Bà Điều vừa nghe vừa tròn mắt, nếu không phải có nghi ngờ, cũng như cách mà ông
Vọng giải quyết những chuyện xảy ra trong mấy ngày qua một cách cẩn thận thì bà
Điều không bao giờ tin vào lời của Lực. Nhưng một người có muốn bịa chuyện cũng
không thể bịa ra được những chi tiết hợp lý đến như vậy.

Nghe xong câu chuyện, biết đằng sau vẫn còn nhiều uẩn khúc, nghĩ Lực vẫn còn giá
trị lợi dụng, bà Điều đánh trống lảng, tảng lờ như mình không quan tâm đến những
gì mà Lực vừa kể, bà ta tập trung vào đòn tâm lý với Lực :

-- Đúng là hoang đường, nhưng mà thôi, tôi cũng không muốn biết sâu việc trưởng
làng đang làm là gì. Hôm nay cậu đến đây, cũng ăn cơm cùng gia đình, tôi cũng thấy
có thiện cảm với cậu. Cơ mà việc của làng cũng là việc của tôi, nếu có gì mới cậu cứ
kể cho tôi biết, để tôi còn biết đường chung tay giúp sức…..Sau có gì cậu cứ đến nhà
chơi nhé, chắc mấy chuyện cậu vừa nói là bí mật, nên tôi hứa sẽ không nói cho ai
khác biết nữa đâu. Cậu cũng không nói ra là kể cho tôi thì cũng chẳng ai biết. Người
thân quen cả, nên có gì cứ đến, đừng ngại.

Một câu nói mang tính chất dụ khị rất tinh quái của bà Điều, khi nói như vậy, bà Điều
ngầm nhắc nhở Lực rằng, nếu muốn đến nhà gặp con gái bà thì Lực phải có gì đó để
thông tin cho bà Điều. Tình yêu làm mờ mắt, Lực không nghĩ được sâu xa, lại thêm
những lời ngon ngọt, đầy hảo ý, Lực sung sướng cảm ơn bà Điều rối rít. Tất nhiên là
để lấy lòng bà Điều, chắc chắn Lực phải cố hóng cho được nhiều thông tin từ chỗ
thầy Lương cũng như ông Vọng hơn.

Trước khi ra về, bên ngoài trời cũng đã nhá nhem tối, bà Điều để con gái ra tiễn Lực
tận cổng để thể hiện thành ý. Hai cô cậu không hề hay biết rằng mình chỉ đang là con
cờ trong tay của bà thầy cúng. Đứng trong nhà, bà Điều khẽ nhếch mép cười một
cách đắc chí, bà ta lẩm bẩm :

“ Thì ra là vậy, chẳng trách hôm ở đây bàn chuyện, tay trưởng làng đã xuôi xuôi, vậy
mà hôm sau hắn lại thay đổi quyết định. Hóa ra là có kẻ mách nước, muốn phá
chuyện làm ăn của ta hả…? Cứ đợi đấy, để xem tụi bay làm gì tiếp theo. Nhưng xem
chừng làng này đang thật sự bất ổn. Mình cũng phải tính đến kế khác thôi, còn ở lại
đây không chừng rước họa vào thân. “

[.......]

7h tối, không biết cô Xoan đi đâu từ trưa, nhưng bây giờ cô Xoan mới về nhà. Bên
trong nhà tối om, không một chút ánh đèn dầu. Cũng phải thôi, cái Mị bị mù thì làm
sao thắp được đèn.

Lảo đảo bước vào bên trong nhà, cô Xoan loạng choạng không nhìn thấy cả con mình
đang ngồi thù lù một trước hiên nhà. Dẫm chân vào tay cái Mị xong cô Xoan mới giật
mình, nhìn kỹ con gái, cô ta cười cười :

-- Thấy mẹ về mà cứ ngồi đực ra thế à…?

Cả người cô Xoan nồng nặc mùi rượu, bấu chặt hai tay vào cơ thể Mị, những đầu
ngón tay của cô Xoan cứ thế cấu vào người nó. Cái Mị vẫn cứ ngồi im như một pho
tượng, nó không phản ứng, hoặc có lẽ nó đã quen với chuyện này rồi. Bấu, bẹo con
xong, cô Xoan đi vào trong nhà rồi nằm luôn lên giường ngủ.

“ Roẹt….Roẹt...Xoẹt “
Trời tối om, trong nhà cô Xoan không chút ánh sáng, nhưng con bé Mị lại vẫn đang
tiếp tục ngồi vẽ nguệch ngoạc những nét gì đó trong bóng tối âm u, tĩnh mịch.

Cô Xoan vừa đặt lưng xuống đã ngủ say nên cô không biết được rằng, bên ngoài hiên
nhà, con gái của cô đang vừa vẽ vừa cười man dại :

“ Hi...hi...hi….He...He...He “

“ Mẹ….Mẹ…”

#Chap29 : Chiếc Hộp Truyền Đời.


9h tối, ông Vọng đang khép cửa nhà lại thì bên ngoài đường có ánh đuốc dừng trước
cổng nhà ông. Bước vội ra sân xem là ai thì người đứng bên ngoài gọi với vào trong :

-- Chú Vọng, là tôi đây…..Cung đây.

Dưới ánh đuốc sáng, ông Vọng nhìn ra đúng là ông Cung, con của cụ Cẩn….Không
hiểu sao tối muộn thế này ông Cung lại đến tận nhà, nhưng nhìn mắt của ông Cung
đỏ hoe, ông Vọng mở cổng rồi hỏi :

-- Bác Cung, có chuyện gì mà bác đến tìm tôi muộn thế…?

Ông Cung đáp :

-- Ông cụ nhà tôi mất rồi.

Ông Vọng thoáng giật mình, buổi sáng lúc ông và thầy Lương đến nhà, tuy lúc đó cụ
Cẩn có yếu thật, nhưng vẫn còn nói chuyện được, sao đến tối đã ra đi nhanh như
vậy…? Ông Vọng cúi đầu chia buồn :

-- Cụ đi có đau đớn gì không..? Mà bác vào trong nhà rồi nói chuyện.

Ông Cung xua tay :

-- Ông cụ nhắm mắt xuôi tay không đau đớn gì cả, chỉ có trước lúc chết được độ 1
tiếng, ông bắt người nhà lấy ghế kê ra giữa sân rồi cứ thế ngồi nhìn về phía trước.
Lúc đó còn không thấy ông ho hay đau đớn gì cả. Sắc mặt còn thay đổi tốt hơn một
chút, sau đó ông cụ dặn dò tôi vài điều, cuối cùng ông đưa cho tôi cái hộp này rồi rơi
nước mắt nói lời sau cuối. Nói xong thì cụ mất.

Dứt lời, ông Cung đặt cái hộp gỗ vào tay ông Vọng, ông Vọng còn đang ngơ ngác thì
ông Cung nói tiếp :

-- Ông cụ nói, sau khi ông mất thì đưa cái hộp này cho trưởng làng. Chú yên tâm,
chưa có ai mở cái hộp này ra đâu, người trong nhà cũng chẳng biết trong hộp này có
thứ gì. Nhưng đồ vật mà phải tận đến lúc chết ông cụ mới đưa ra thì chắc chắn nó vô
cùng quan trọng. Chú cầm lấy, tôi bây giờ phải quay về nhà lo đám tang cho cụ.

Ông Vọng cầm chiếc hộp trên tay mà ngỡ ngàng, ông hỏi :

-- Trước khi mất, lời cuối cùng mà cụ Cẩn nói là gì vậy bác Cung..?

Ông Cung nghẹn ngào :

-- Ông cụ ôm tôi rồi nói :” Khổ thân các con, ta chết đi cũng hết kiếp người, cũng coi
như được giải thoát. Mong các con cùng làng Văn Thái qua được kiếp nạn này” Vừa
nói cụ vừa khóc sướt mướt, chưa bao giờ tôi thấy ông cụ khóc nhiều như vậy...Thôi
tôi về đây.

Ông Cung rảo bước quay về, đóng cổng cẩn thận, ông Vọng trở lại trong nhà. Lúc này
thầy Lương vẫn chưa ngủ, ban nãy nghe ngoài cổng có tiếng người nên thầy đợi xem
ai đến, và đến có việc gì.

Đặt cái hộp gỗ mà ông Cung vừa đưa, ông Vọng nói với thầy Lương :

-- Thầy Lương, chiếc….chiếc hộp này...là….là do cụ Cẩn bảo bác Cung mang đến.

Thuật lại toàn bộ câu chuyện, thầy Lương nghe xong cũng đã hiểu được tất cả. Cầm
chiếc hộp lên xem xét, nó chỉ là một hộp gỗ bình thường, bên cạnh hộp có giắt một
chiếc chìa khóa nhỏ để mở hộp. Thầy Lương nói :

-- Giờ tôi sẽ mở chiếc hộp này ra xem bên trong có gì. Chắc chắn trong hộp phải chứa
đựng một bí mật có liên quan đến lịch sử của ngôi làng này. Vậy cho nên các cụ bô
lão mới chuyền tay gìn giữ cẩn thận đến như vậy. Giờ tôi và bác trưởng làng sẽ xem
xem, trong này là đồ vật gì.

“ Cạch “

Khóa hộp gỗ được mở ra, bên trong chiếc hộp chỉ có một quyển trục được cuộn lại
gọn gàng, buộc chỉ đỏ và một tấm bản đồ vẽ địa hình của làng vô cùng chi tiết. Ông
Vọng cầm lấy quyển trục rồi gỡ nút chỉ đỏ ra. Mở quyển trục, ông Vọng thấy bên
trong quyển trục đều được viết bằng chữ nho, ông Vọng không thể đọc được. Còn
thầy Lương đang xem tấm bản đồ vẽ địa thế của làng Văn Thái. Thầy Lương chong
đèn lại gần hơn để xem thật kỹ, xem đến đâu, thầy Lương rùng mình đến đó, ông nói
:

-- Thật tỉ mỉ, chi tiết một cách không thể ngờ được…..Người vẽ ra được tấm bản đồ
địa thế của làng này chắc chắn phải là một người cực kỳ tinh thông về địa lý và phải
là một nhà phong thủy tài ba. Còn nữa, trong tấm bản đồ này thì vị trí của bãi hoang
đúng là trước kia từng có một ngôi biệt phủ, ở đây còn viết rõ đó là “ Cao Gia “.

Đặt quyển trục xuống, ông Vọng khẽ hỏi :


-- Sáng nay thầy nói nếu có tấm bản đồ địa thế của làng thì sẽ biết được long mạch
nằm ở đâu….Vậy tấm bản đồ mà thầy đang cầm trên tay có giúp gì được không ạ..?

Thầy Lương chưa trả lời vội, ông muốn xem thật kỹ từng chi tiết được vẽ trong tấm
bản đồ, lát sau thầy Lương đáp :

-- Trời đúng là không phụ lòng người, tấm bản đồ này còn vượt quá sự mong đợi của
tôi. Bác trưởng làng, thật may mắn là tôi đã xác định được vị trí long mạch nằm ở
đâu rồi. Đúng là xa tận chân trời mà gần ngay trước mắt, nhưng có điều tôi vẫn
không hiểu, tại sao các cụ trong làng lại giấu kín bí mật này.

Ông Vọng vội vàng hỏi :

-- Vậy long mạch nằm ở đâu thưa thầy…? Làng tôi được cứu rồi phải không thầy..?

Thầy Lương mừng rỡ đáp :

-- Chính là giếng làng, đúng vậy, tìm được long mạch thì sẽ có cách để hóa giải nguồn
cơn của việc nước giếng ngầm bị nhiễm độc.

Nhưng bất chợt thầy Lương thở dài vì ông vừa nghĩ đến một chuyện, ông nói tiếp :

-- Nhưng chính vì giếng làng là vị trí của long mạch nên sự việc sẽ rất khó khăn. Bởi
hiện tại nước giếng đã bị nhiễm độc, nếu không may bị nước giếng bắn vào người thì
sẽ rất nguy hiểm. Muốn tìm hiểu về long mạch chắc chắn phải xuống được đáy giếng.
Quả thực, kẻ trấn yểm long mạch của làng này đã suy tính rất kỹ, dựa vào tấm bản
đồ cùng với nơi long mạch bị trấn yểm là giếng làng, tôi không thể nghĩ ra được ai
khác đủ khả năng làm chuyện này ngoài dòng họ Cao kia. Mà trong quyển trục kia
viết gì vậy bác trưởng làng..?

Ông Vọng vội đưa quyển trục cho thầy Lương, ông đáp :

-- Trong này viết toàn chữ nho thì phải, tôi không đọc được.

Cầm quyển trục trên tay, thầy Lương từ từ mở ra, thầy Lương nói :

-- Tôi đọc được, đây là ghi chép lại của các cụ hương thân trong làng. Có thể, sau khi
đọc xong quyển trục này, mọi thắc mắc về quá khứ cũng như lịch sử của ngôi làng sẽ
được giải đáp.

Chăm chú đọc từng chữ được viết trong quyển trục, bên ngoài trời càng lúc càng
chuyển về khuya, gió bắt đầu thổi mạnh hơn. Cánh cửa nhà ông Vọng bị gió đập vào
kêu lập cập, gió luồn qua cả những khe cửa tạt vào bên trong khiến ánh lửa trong cây
đèn dầu lay qua lay lại như trực muốn tắt. Ông Vọng vẫn ngồi lặng im chờ đợi thầy
Lương đang mở dần quyển trục về đoạn cuối cùng. Từ nãy đến giờ, thầy Lương chỉ
đọc mà không nói gì cả. Cuối cùng, quyển trục cũng đã được mở hết, trời bên ngoài
se se lạnh, nhưng bên trong nhà, trên khuôn mặt của thầy Lương đang khẽ chảy
xuống lấm tấm những giọt mồ hôi.

Nuốt nước bọt, thầy Lương cuộn quyển trục lại rồi khẽ đặt quyển trục vào lại trong
hộp, thầy Lương nhìn ông Vọng, giọng thầy có phần hơi run, thầy Lương nói :

-- Tôi đã hiểu toàn bộ mọi chuyện, đây đúng là một bí mật kinh thiên, động địa…..Đó
chính là lý do vì sao các cụ trong làng không muốn ai biết đến việc Cao Gia từng xuất
hiện, thật khủng khiếp….

Ông Vọng chờ đợi từ nãy, bây giờ ông mới dám hỏi :

-- Trong đó viết gì vậy thưa thầy..?

Thầy Lương nhấp một ngụm nước rồi trả lời :

-- Quyển trục này ghi rõ về xuất thân, nguồn gốc của Cao Gia. Dòng họ Cao đã ở đây
trước khi làng Văn Thái được lập lên. Họ có một khoảng thời gian cực kỳ hưng thịnh,
có thể nói, tại mảnh đất rộng lớn này, Cao Gia được ví như bậc vua chúa về sự giàu
có cũng như quyền lực của mình. Tấm bản đồ trong chiếc hộp này được vẽ trước cả
khi làng Văn Thái được hình thành, chẳng trách ban nãy tôi phải xem kỹ, liên kết
những địa thế quen thuộc mới có thể nhận ra đây là bản đồ địa hình của làng Văn
Thái. Người vẽ tấm bản đồ này chính là Cao Côn, cũng là người được nhắc đến trong
quyển trục. Theo như ghi chép, tôi nghĩ, Cao Côn chính là người nhận ra được long
mạch của làng cực kỳ vượng phát, ông ta đã dùng tài trấn yểm, cũng như những hiểu
biết đại tài của mình về phong thủy để giúp cho Cao Gia phát triển mãi về sau. Tấm
bản đồ khi ấy đánh dấu vị trí của long mạch nhưng chưa xuất hiện giếng làng, nghĩa
là giếng làng phải sau khi Văn Thái làng lập lên mới có. Trong này viết, Cao Gia cậy
quyền, cậy thế, tham lam vô độ, hãm hại dân lành, đàn áp chúng sinh. Nhưng chẳng
hiểu vì sao, thế lực của Cao Gia luôn được bảo vệ, triều đình không dám làm gì họ
Cao cả. Tội ác của Cao Gia cao tựa núi, số người chết vì Cao Gia nhiều không đếm
xuể. Không chịu nổi cảnh áp bức của họ Cao, làng Văn Thái đã đi đến quyết định, đó
chính là diệt trừ Cao Gia. Các bậc tiền bối, trưởng lão trong làng đã thống nhất đi
đến quyết định này. Kết cục, sau cái chết của Cao Côn, những người thuộc họ Cao
trong làng này đều bị giết sạch, tất cả, già trẻ, trai gái, những người có liên quan đến
Cao Côn…..không trừ một ai. Điều này giải thích vì sao, họ Cao từng rất hưng thịnh
nhưng lại đột ngột biến mất. Họ đã bị dân làng Văn Thái giết cả nhà, nói cách khác,
việc làm của làng Văn Thái chính là thảm sát, là một vết nhơ không thể rửa sạch cho
nên sau khi xóa sổ Cao Gia, toàn bộ người dân trong làng không được hé răng nửa
lời nói về bí mật chấn động trời đất này.

Ông Vọng rùng mình, hai bàn tay ông run lên khi thầy Lương dừng lại, ông ấp úng :

-- Không...thể..nào…..Dân làng Văn Thái….xưa nay rất hiền lành….Làm sao họ lại giết
cả….người già...và trẻ em...chứ….?

Thầy Lương đáp :


-- Sự đồng lòng ủng hộ người đứng đầu làng trong mỗi quyết định được đưa ra của
người dân trong làng thực sự khiến tôi phải nể phục. Nhưng đó cũng là thứ đáng sợ
nhất, sự việc của Cao Gia, chắc chắn những người đời trước như ông bà, bố mẹ của
bác trưởng làng đều biết, nhưng tất cả bọn họ không một ai nói ra bí mật này. Quá
đáng sợ, người xưa có câu “ Phép Vua Còn Thua Lệ Làng “. Việc giết chết cả một
dòng họ trong làng mà người đời sau không ai biết thật là một việc kinh khủng, bởi
khi dân làng đã đồng lòng, ngay cả Vua cũng còn phải kiêng nể chứ đừng nói đến
một Cao Gia.

Đóng chiếc hộp gỗ lại, thầy Lương khẽ thở dài :

-- n oán vậy là đã kéo dài gần 100 năm, giờ đây chính là sự trả thù của Cao Gia đối
với dân làng Văn Thái…

#Chap30 : Giếng Làng.


Ông Vọng thẫn thờ ngồi dựa vào thành ghế bàng hoàng, ông không dám tin những gì
mà thầy Lương vừa nói là sự thật. Nhưng tất cả những điều đó đã giải thích cho toàn
bộ lý do vì sao từ đời cha ông, các cụ đã cấm tiệt mọi người bén mảng đến khu đất
đó, rồi đến chuyện Bãi Hoang xuất hiện nền móng của Cao Gia nhưng tuyệt nhiên
trong làng không một ai nhắc tới điều này…..Đó là vì, từ xa xưa, dân làng Văn Thái đã
gây ra một chuyện tày trời và họ không muốn nhớ đến vết nhơ tàn sát cả một dòng
họ trong quá khứ. Giờ đây, con cái đời sau của họ đang phải lãnh chịu hậu quả.

Ông Vọng ấp úng hỏi :

-- Nhưng liệu...liệu có chắc đây là do….họ Cao làm không..? Chẳng phải thầy nói
người trấn yểm long mạch là Cao Côn, nhưng Cao Côn còn chết trước khi họ Cao bị
tàn sát cơ mà…?

Thầy Lương đáp :

-- Câu hỏi của bác trưởng làng rất hay, tính theo phổ truyền thì lúc Cao Côn chết
cũng 70 tuổi rồi, và theo những gì ghi trong quyển trục thì sau khi Cao Côn chết, dân
làng Văn Thái mới dám nghĩ đến chuyện xóa sổ Cao Gia. Điều này cho ta biết được
rằng, khi Cao Côn còn sống, dân làng chắc chắn phải rất sợ nên dù bị áp bức nhưng
không dám làm gì. Chỉ khi Cao Côn qua đời, là đến đời Cao Lãm và Cao Kiệt mới xảy
ra chuyện. Một người tinh thông về phong thủy khi trấn yểm sẽ tính toán cho đến
tận nhiều đời sau, hoặc cho đến khi long mạch bị yểm đó không còn linh khí thì bùa
yểm mới biến mất. Thầy phong thủy càng cao tay thì thời gian long mạch bị trấn yểm
càng lâu, có thể lên đến 100 năm, 200 năm hoặc hơn thế nữa. Và khi yểm long mạch
đó, tùy theo cái tâm của thầy phong thủy mà bùa chú ràng buộc giữa họ với long
mạch sẽ khác nhau. Nhưng Cao Côn đã dùng đến thuật “ Giấu Long Mạch “ thì chắc
chắn ông ta không có ý đồ tốt. Vậy nên nhất định ông ta đã tạo một ràng buộc nhằm
khi Cao Gia gặp nguy hiểm, và ràng buộc đó có thể là việc những tai ương, kiếp nạn
đang xảy đến với làng Văn Thái. Điều này giải thích vì sao tồn tại đến 100 năm nay,
đến bây giờ làng Văn Thái mới xảy ra chuyện. Bởi vì, thâm ý của Cao Côn là muốn
làng Văn Thái tận diệt cho đến đời sau.

“ Vù….Ù….Ù…”

“ Lạch...Cạch….Lạch….Cạch..”

Bên ngoài gió tiếp tục thổi mạnh, gió đập vào cửa khiến cho con Vàng đang nằm
ngoài hiên cũng phải nhổm dậy rồi hếch mõm ra phía ngoài sân sủa lên vài tiếng.
Càng nghe thầy Lương nói, ông Vọng lại càng rùng mình. Chưa bao giờ ông dám nghĩ
sự việc lại nghiêm trọng đến mức này. Nhưng những gì đang diễn ra hàng ngày thực
sự rất tồi tệ.

Ông Vọng hỏi :

-- Trước thầy có nói, chỉ cần tìm được long mạch thì sẽ có cách giải cứu dân làng. Nay
long mạch chính là nơi giếng làng, thầy đã nghĩ ra cách gì chưa ạ..?

Tất nhiên là thầy Lương đã nghĩ đến cách giải quyết, nhưng vấn đề hiện giờ làm cách
nào để xuống được đáy giếng. Với những ghi chép cùng tấm bản đồ thì có vẻ như
Cao Côn đã nhìn thấy được long mạch của vùng đất này, nhưng phải đến khi làng
Văn Thái được lập lên thì mới đào giếng làng. Chắc hẳn ý kiến đào giếng cũng là do
Cao Côn đề ra, lợi dụng việc đào giếng, lúc đó Cao Côn mới “ Giấu Long Mạch “.

Nhớ lại những lời mà sư phụ từng nói ngày trước, thầy Lương trầm ngâm hồi
tưởng….

[......]

-- “ Giấu Long Mạch “ là điều đại cấm kỵ, kẻ sử dụng thứ bùa yểm tà đạo này phải trả
giá không chỉ bằng mạng sống của bản thân mà còn là họa lớn đối với cả gia tộc,
dòng họ một khi sơ suất hoặc thất bại. Bởi suy cho cùng, con người cũng chỉ là sinh
linh nhỏ bé trong trời đất, còn long mạch hội tụ tinh hoa, vượng khí của thiên địa.
Muốn nắm giữ nó cho riêng bản thân quả thực quá tham vọng. Nhưng nếu làm
được, gia tộc đó vượng phát, khi rút đủ linh khí còn có thể phát bậc đế vương. Chỉ
những kẻ ôm mộng quyền lực, bị cám dỗ khiến cho mờ mắt mới đi “ Giấu Long Mạch
“.

Lương hỏi sư phụ :

-- Nếu đã nguy hiểm như vậy tại sao vẫn có những người sử dụng thuật yểm nguy
hiểm đến thế thưa sư phụ..?

Vị đạo sĩ mỉm cười :

-- Con còn nhỏ, có thể con chưa hiểu được sức mạnh của quyền lực. Từ xa xưa, vua
chúa được coi là con của trời, là con của rồng…...Ai chẳng mong muốn mình được
làm vua, được đứng đầu thiên hạ. Nhưng không vì thế mà con người được phép trái
lại mệnh trời, trái lại tạo hóa. Những kẻ làm như vậy được coi là nghịch thiên, bởi chỉ
có nghịch thiên thì mới nhanh chóng chạm được đến cái ngưỡng mà người bình
thường có đi mấy kiếp cũng không thể đến.

Lương hỏi tiếp :

-- Nếu vậy có cách nào để hóa giải không sư phụ..?

Vị đạo sĩ khẽ chạm vào đầu Lương rồi gật đầu :

-- Vạn vật trên đời tương sinh, tương khắc….Tất cả đều có cách giải quyết, giờ con
hãy chuyên tâm đọc sách, nghiên cứu những bài thuốc, những cây thuốc cứu người.
Còn những cấm thuật như thế này con còn nhỏ, không nên đọc. Đi đi…

[......]

-- Kìa thầy Lương, thầy lại đang suy nghĩ gì rồi..?

Giọng ông Vọng khiến thầy Lương chợt tỉnh, thầy Lương không ngờ được rằng, câu
chuyện mà ông nói với sư phụ năm đó giờ lại đang xảy ra ở tại mảnh đất này.

Quay trở lại câu hỏi của ông Vọng ban nãy, thầy Lương đáp :

-- Trước mắt chúng ta phải xuống được đến đáy giếng đã. Nếu long mạch nằm ở đó,
mà chất độc xuất phát từ đó chắc hẳn sẽ có cách để giải. Nhưng làm cách nào để
xuống đáy giếng khi mà chất độc đã ngấm toàn bộ trong nước.

Ông Vọng đề xuất ý kiến :

-- Chuyện này cũng không phải chuyện quá khó, trên huyện, mấy ông cán bộ có cái
máy bơm cỡ lớn. Mượn thì chắc hơi khó, nhưng nếu có cán bộ xã đi cùng rồi mình
biếu họ ít tiền là được thôi. Ta dùng máy bơm bơm hết nước ở giếng đi rồi xuống
dưới đó.

Thầy Lương đáp :

-- Nếu được vậy thì tốt quá, nhưng có điều này bác trưởng làng cần phải biết. Hiện
nay độc mới chỉ được phát hiện trong nguồn nước giếng. Nhưng nếu bơm nước
giếng ra bên ngoài, nước này chảy xuống kênh mương hay ao hồ trong làng tôi sợ
rằng hậu quả sẽ rất nghiêm trọng. Bởi khi nước nhiễm độc lan ra toàn bộ hệ thống
kênh rạch của làng, sợ rằng việc khắc phục còn khó khăn hơn rất nhiều. Nước luôn là
nguồn sống của tất cả các sinh vật, chuyện này không thể hấp tấp được. Chỉ một sai
sót nhỏ thôi, chúng ta sẽ đưa làng Văn Thái đến bờ vực vô cùng tồi tệ.

Long mạch đã tìm ra, nhưng hiện giờ cách khắc phục, giải quyết lại đi vào bế tắc.
Giếng làng là cái giếng lớn nhất, sâu nhất, bao nhiêu năm qua giếng chưa một lần
cạn, cũng chẳng ai biết giếng sâu bao nhiêu. Muốn bơm nước giếng lên nhưng lại
không được đổ ra kênh rạch, thật sự rất khó. Suy nghĩ mãi, cuối cùng ông Vọng nảy
ra một ý tưởng, ông nói :

-- Thầy Lương, tôi có ý này, có thể sẽ giải quyết được cả 2 việc, vừa chứa được nước
giếng, lại vừa không để nước đó thoát ra ngoài…?

Thầy Lương hỏi :

-- Ý bác trưởng làng là sao..?

Ông Vọng tiếp :

-- Xây bể, chúng ta sẽ xây một cái bể thật lớn ở giữa sân đình. Thầy cũng biết rồi đấy,
đình làng gần ngay khu vực giếng, sân đình cũng rất rộng, giờ chúng ta dùng gạch xây
lên, biến sân đình thành một bể chứa lớn. Lúc bơm nước sẽ dẫn ống đổ nước giếng
vào cái bể nơi sân đình. Tôi nghĩ như vậy có thể giải quyết được vấn đề.

Thầy Lương quả thực ngạc nhiên trước ý tưởng thông mình của ông Vọng, thầy
Lương đáp :

-- Nhưng việc xây dựng sẽ tốn kém và cần nhiều người để hoàn thành nhanh chóng,
việc này bác trưởng làng nên thông báo với tất cả mọi người sẽ tốt hơn.

Ông Vọng gật đầu, ông nói tiếp :

-- Chuyện thuê máy bơm tôi sẽ bỏ tiền túi của tôi ra, thằng cu con nhà tôi đi làm hơn
2 năm nay ở ngoài, tháng nào cũng gửi tiền về, tôi chẳng tiêu đến, tính để dành cho
nó sau lấy vợ mà giờ làng có chuyện tôi sẽ đem số tiền đó ra đi thuê máy bơm. Còn
việc xây bể, cỡ như cậu Lực, cậu Sửu cũng xây được, chỉ là xây gạch lên thôi mà. Để
sáng mai, tôi sẽ vận động mọi người rồi xin ý kiến.

Lúc này cũng đã gần nữa đêm, thầy Lương kêu ông Vọng đi ngủ. Trời đêm gió cũng
đã ngừng thổi, mọi thứ trở lại tĩnh lặng, yên ả, cô tịch. Ngồi bên cây đèn dầu, thầy
Lương đang nghiên cứu lại tấm phổ truyền. Chắc hẳn sự chỉ dẫn của thần bảo hộ
ngôi làng cho thầy Lương cùng mọi người đào được tấm phổ truyền này lên không
chỉ dừng lại việc xác nhận đã từng có một Cao Gia hưng thịnh tại ngôi làng này.
Nhưng còn ý nghĩa gì ẩn sâu bên trong này thì thầy Lương vẫn chưa hiểu hết.

Ông thiếp đi lúc nào không hay, trong giấc mơ ông thấy mình đang bị mắng bởi sư
phụ :

-- Lương, con đang làm gì vậy…?

Lương giật mình vội gập quyển sách lại, Lương khẽ lắc đầu, mặt lo lắng :

-- Dạ….không, con...con chỉ đang...sắp xếp lại bàn đọc sách của,,,sư phụ thôi ạ…
Vị đạo sĩ đáp :

-- Được rồi, cảm ơn con….Con ra ngoài đi, lần sau không được tự tiện chạm vào
những quyển sách này, nghe rõ chưa hả…? Khi nào đến lúc, ta sẽ truyền lại hết toàn
bộ những gì ta biết cho con.

Nhưng sau đó 3 năm, trong một lần đi cùng sư phụ sang vùng núi phía Bắc của Việt
Nam, Lương đã phải lòng một cô gái nơi đây rồi bỏ qua sự khuyên can của sư phụ,
bất chấp tất cả, Lương đã ở lại Việt Nam cưới cô gái ấy…….Và rồi, nỗi bất hạnh đã xảy
đến với chàng trai tội nghiệp, còn quá non nớt trước sự nguy hiểm của bùa ngải, đến
khi Lương nhận ra lời sư phụ nói năm xưa quan trọng thế nào thì đã quá muộn.
Lương đã tự tay giết chết chính người con gái mà anh từng yêu nhất, không chỉ vậy,
trong vô thức, Lương đã moi rồi nhai sống trái tim của con gái mình.

“ Ò...Ó...O….O “

Tiếng gà gáy báo hiệu trời đã sáng, cả đêm qua thầy Lương ngủ gục trên ghế, bất
chợt ông giật mình tỉnh dậy khi giọng nói của ông Vọng hối hả cất lên :

-- Thầy Lương…..thầy Lương ơi....Con Vàng…..Con Vàng…..chết rồi.

#Chap31 : Xác Chết Nổi Lên.


Thầy Lương choàng tỉnh dậy chạy ngay ra bên ngoài sân, phía cánh cổng, con Vàng
nằm đó, nó chết ngửa bụng, chổng bốn chân lên trời, cứng đơ, cứng ngắc. Cái chết
của nó giống với đàn gà nhà cô Xoan và hai con bò nhà Mão. Đêm hôm qua, thầy
Lương thức phải đến hơn 2h sáng, lúc đó không hề thấy con Vàng sủa hay tru thêm
một lần nào. Thi thoảng thầy Lương còn nghe thấy tiếng thở của nó bên ngoài hiên
nhà. Vậy tại sao nó lại chết cứng vào lúc này. Ngay cạnh nơi con Vàng chết còn có
một thứ gì đó nhớp nhớp.

Ông Vọng rơi nước mắt khóc thương cho con chó, không còn nghi ngờ gì nữa, con
chó đã bị trúng độc mà chết và cái chết của con Vàng chắc chắn là do người khác hại.
Bởi nhà ông Vọng không có giếng, những ngày qua để chắc ăn, ngay cả khu vực cầu
ao ông Vọng cũng rào kín lại. Nước sinh hoạt trong nhà tuyệt đối dùng nước mưa,
con Vàng ăn uống cũng chính là nước mà ông Vọng với thầy Lương dùng hàng ngày.
Không thể nào con Vàng lại uống thứ nước nhiễm độc kia được, nhưng cái chết của
nó không khác gì những con vật uống nước độc đã chết trước đây vài ngày. Chỉ có kẻ
nào đó đã giết chết con Vàng bằng thứ nước độc kia. Bởi vết nhơ nhớp chỗ con Vàng
chết chính là thức ăn.

Thầy Lương khẽ xoa đầu con Vàng rồi nói :

-- Có kẻ nào đó trong làng đã giết con chó. Có lẽ hắn đã tẩm nước giếng vào chỗ thức
ăn này rồi quẳng vào sân, con Vàng ăn phải rồi trúng độc mà chết.

Ông Vọng vừa khóc vừa nói :


-- Trời ơi là trời, con chó có tội tình gì đâu mà lại giết nó. Nếu tôi có làm gì sai sao
không tìm tôi mà lại giết chết con Vàng…?

Thầy Lương nói ông Vọng nên nén đau khổ lại, trước mắt phải thiêu hủy con chó, sau
đó mới bàn tính đến chuyện khác. Mọi việc xong xuôi, ngồi trong nhà, thầy Lương
tiếp tục :

-- Bác nghĩ xem vài ngày qua bác có làm phật lòng ai không..?

Ông Vọng lắc đầu :

-- Thầy cũng biết rồi đấy, làng xảy ra bao nhiêu chuyện, tôi với thầy lúc nào cũng suy
nghĩ tìm cách giải quyết. Hơn nữa bao năm qua, tôi đối với dân làng luôn tận tâm,
sao ai ác đến mức lại hại chết con chó của tôi cơ chứ... ?

Lau nước mắt, một vài giây sau ông Vọng như sực nhớ ra điều gì, ông nói :

-- Hay là do bà Điều thầy cúng, có khi nào là do bà ta không..? Bởi vì tôi không đồng ý
với việc mà bà ta đề xuất nên bà ấy hại chết con Vàng khiến cho tôi lo sợ. Nếu nói
phật lòng ai thì tôi chỉ có nghĩ đến bà ấy mà thôi.

Thực ra thì lúc ban nãy đốt xác con Vàng, thầy Lương cũng đã nghĩ đến bà thầy cúng,
đúng như lời ông Vọng nói, bà Điều muốn khiến cho ông Vọng sợ mà phải lập tức
đồng ý với việc tu sửa đình làng, xây dựng tượng thần Thành Hoàng mới. Nhưng có
một vài điều thầy Lương vẫn còn lấn cấn, bà Điều quả thật là người đáng nghi nhất
nhưng chưa thể khẳng định được bà ta là người đã làm việc này.

Thầy Lương đáp :

-- Tạm thời chuyện con Vàng chết bác trưởng làng đừng nói ra cho ai khác biết. Hiện
tại trong làng đang rất hoang mang, nếu tin con chó của trưởng làng cũng chết vì độc
thì sẽ khiến mọi người thêm hoảng sợ. Chúng ta cứ coi như không có chuyện gì xảy
ra. Bản thân tôi cũng rất quý con Vàng, nó rất thông minh, kẻ làm ác sẽ phải chịu tội.
Việc làng lúc này quan trọng hơn, cũng không thể kéo dài thêm được.

Ông Vọng gật đầu, ông mếu máo nhưng vẫn nói :

-- Tôi biết, tôi coi nó như người thân, con tôi đi làm xa mấy năm nay, ở nhà chỉ có
con chó bầu bạn. Nhưng tôi hiểu ý thầy là gì, giờ tôi sẽ thông báo đến người dân
trong làng chuẩn bị cho việc xây bể để bơm nước giếng lên. Thầy ở nhà xem cần
chuẩn bị gì thì soạn trước, sau khi họp làng xong tôi sẽ quay về.

Ông Vọng sửa soạn rồi rời khỏi nhà, lúc này thầy Lương mới phân tích lại thật kỹ về
cái chết của con Vàng. Biết rõ làng này chướng khí bắt đầu tích tụ, vài ngày qua trong
làng cứ đêm đến là có tiếng chó tru, âm hồn, ma quỷ bắt đầu xuất hiện. Do vậy, con
Vàng có đêm cào xước cả nền gạch, gầm gừ không ngừng nghỉ là do chó là loài động
vật có thể cảm nhận được phần âm, và với giác quan nhạy bén của mình, chó có thể
nhìn thấy được những thứ mà con người không thể thấy. Từ khi đặt chân vào ngôi
làng này, khả năng của thầy Lương gần như bị kìm hãm. Bởi vậy, biết ma quỷ hoành
hành nhưng đến thời điểm này, thầy Lương chưa thể làm được gì. Để bảo vệ con
Vàng, thầy đã đeo cho nó một đạo bùa trừ ma, như vậy mỗi khi đêm xuống, con
Vàng sẽ không phải sủa inh ỏi cũng như gầm gừ, cào xé nền gạch nữa. Đã hai đêm
nay mọi thứ không có gì nghiêm trọng, nếu bảo ma quỷ vì sự hung dữ của con Vàng
mà ra tay hại chết nó thì không phải. Tuy không sử dụng được hết toàn bộ khả năng
như trước, nhưng những lá bùa của thầy Lương không phải vô dụng, ma quỷ muốn
hại chết con Vàng cũng không phải chuyện dễ dàng gì.

Nhìn vào thanh gỗ chắn song nơi cổng, bất chợt thầy Lương thấy ở một vài đoạn có
vết gì đó đỏ đỏ, có ai đó đã nắm tay vào chắn song gỗ, có thể hắn luồn tay qua khe
chắn song rồi thả thức ăn vào trong sân. Xem xét thật kỹ thì thầy Lương thấy, vết đỏ
mờ mờ ấy giống như là màu của gạch. Và để thò tay được qua khe mấy thanh gỗ của
cái cổng thì tay người lớn là không thể được.

Đến đây thì thầy Lương nghĩ ngay đến hai đứa trẻ, 1 trai, 1 gái. Đứa bé trai thì đó
chính là đứa cháu của bà Điều, thầy Lương chưa nhìn thấy mặt nó, chỉ biết nó từng
đến đây để chuyển lời của bà Điều cho ông Vọng. Bởi trong việc này, bà Điều là
người đáng tình nghi nhất nên không ngoại trừ khả năng bà ta sai cháu đêm đến
đánh bả con Vàng. Còn đứa thứ 2 đó chính là con gái của cô Xoan, tuy nhiên đứa bé
này bị mù và câm bẩm sinh. Thật khó để mà nghĩ chính con bé làm chuyện này, bởi
muốn hạ độc bằng nguồn nước vào thức ăn, kẻ này phải dùng đến nước giếng, một
con bé bị mù không nhìn thấy đường thì làm sao có thể chuẩn bị mọi thứ kỹ đến như
vậy. Lý do mà thầy Lương nghĩ đến con bé là vì ông từng nhặt được chiếc lắc bạc của
con bé đánh rơi trước cổng nhà ông Vọng. Lần đó chính con Vàng phát hiện ra cái lắc
bạc rơi trên khoảng đường đất trước cổng nhà. Sau đó thầy Lương và ông Vọng đã
đến nhà cô Xoan để trả lại, ngay đến cô Xoan cũng không giải thích được tại sao lắc
của cái Mị lại rơi ở gần cổng nhà ông Vọng.

Lần đó còn nhiều thắc mắc chưa được giải đáp thì cả làng xôn xao việc lang Phan
treo cổ tự tử chết trên cành nhãn trước sân nhà. Sau đó mấy ngày nay, thầy Lương
và ông Vọng mải mê tìm hiểu về sự việc của Cao Gia nên bẵng đi không nhớ đến
chuyện cái lắc bạc của con cô Xoan nữa. Bây giờ, không hiểu vì sao, thầy Lương lại
cảm thấy cô bé Mị đó có điều gì không bình thường.

Mặc dù cô Xoan nói con của cô không bao giờ ra khỏi nhà, bởi nó mù đâu có nhìn
thấy đường mà đi, nhưng cô Xoan lại không giải thích được vì sao cái lắc đó lại rơi
trước cổng nhà ông Vọng. Hơn nữa, hôm đó, đến nhà cô Xoan, cái Mị vẫn đang nằm
trên giường ngủ, bàn chân nó lấm lem bẩn thỉu, nếu nó chỉ đi lại trong nhà thì không
thể bẩn đến như vậy.

Thật sự khó tin khi nghi ngờ một cô bé mù, nhưng rõ ràng con cô Xoan khiến cho
người ta cảm thấy lo lắng. Thầy Lương đóng cổng đi vào bên trong nhà, chuyện này
ngồi đây lập luận không phải cách hay, nhưng một mình thầy Lương cũng không thể
đến nhà cô Xoan để hỏi được. Thầy Lương nghĩ, tốt nhất là nên đợi trưởng làng về,
sau đó sẽ đến cả nhà bà Điều và cô Xoan để thăm dò xem có phát hiện thêm điều gì
hay không..?

Không cần đợi lâu, chỉ một lúc sau Sửu từ đâu chạy về nhà, mặt cắt không còn hột
máu. Nhìn Sửu cứ như cậu ta vừa chứng kiến phải chuyện gì kinh khủng lắm. Thấy
thầy Lương ngồi trên ghế, Sửu vừa thở hồng hộc, vừa nói bằng một giọng đầy run
sợ :

-- Thầy…...thầy…..Lương…..thầy...ra...ra ngoài
giếng...làng...ngay….ngay….Tay...Mão….tay….Mão chết...rồi.

Thầy Lương đứng bật dậy, mặc dù Sửu nói vừa run, vừa vấp nhưng thầy Lương vẫn
nghe được đầy đủ, ông hỏi :

-- Chết ở đâu…? Cậu đang nói đến người mà chúng ta đến nhà có 2 con bò bị chết
phải không..?

Sửu thở mạnh rồi cố hít vào một hơi dài lấy bình tĩnh, Sửu gật đầu lia lịa :

-- Đúng...đúng rồi thầy ạ…..Chết đuối dưới giếng, xác nổi lềnh phềnh trên mặt nước,
toàn bộ cơ thể phù nước như muốn vỡ ra….Nhìn ghê lắm, trưởng làng bảo tôi chạy
về thông báo cho vợ hắn, tiện qua đây tôi vào nói với thầy luôn….Chưa ai dám vớt
xác hắn lên cả bởi vì nước giếng có độc.

Thầy Lương sững người, nếu đúng như Sửu nói thì Mão phải chết ít nhất là 3 ngày thì
xác mới nổi lên. Mà mới trưa hôm qua, vợ Mão vẫn còn đi tìm chồng nói là Mão lên
huyện từ hôm trước nhưng cả đêm qua không về. Tính đến giờ thì cũng mới chỉ hơn
1 ngày. Thầy Lương dừng lại suy nghĩ một chút :

“ Không, nếu như nhà Mão kia chết từ chiều hôm kia, qua đêm hôm kia và cả ngày
hôm qua cho đến tận sáng nay thì hoàn toàn có thể. Nhưng rõ ràng ngày hôm qua ta
và trưởng làng đã đi qua đó tận 2 lần. Miệng giếng vẫn được phủ bạt buộc kín, nếu
như nhà Mão này say rượu không may ngã xuống giếng thì tấm bạt che miệng giếng
không thể nguyên vẹn như vậy đươc. Chuyện này thật phi lí, nếu nói nhà Mão kia tự
tử bằng cách nhảy xuống giếng thì sau khi Mão chết, ai là người tiếp tục dùng bạt để
che miệng giếng lại như cũ. Do vậy chắc chắn khi đó còn có một người khác, và như
vậy thì Mão chết không phải do tự sát mà là có kẻ đã giết Mão rồi quẳng xác xuống
dưới giếng. “

Lúc này Sửu đã chạy đi thông báo cho vợ Mão, thầy Lương cũng vội vã đi ra khu vực
giếng làng.

Tại nhà Mão lúc này, vợ Mão nghe Sửu báo tin, đang đứng mà cô ta choáng váng ngã
ngửa ra đằng sau, may có Sửu đỡ kịp. Loạng choạng, vợ Mão vừa chạy chân đất vừa
khóc bù lu bù loa :

-- Trời ơi là trời…..Sao tôi khổ thê này….Anh Mão ơi, anh Mão ơi...Mẹ con em biết
phải làm sao.

Lúc vợ Mão chạy qua nhà cô Xoan, cô Xoan thấy ầm om bên nhà Mão từ nãy nên
cũng nhìn ra ngoài hóng. Nghe loáng thoáng hình như là Mão bị chết, thấy vợ Mão
chạy qua, cô Xoan vội núp rồi quay vào trong nhà. Hôm qua cô Xoan chỉ nhớ mang
máng là mình về nhà lúc trời đã tối, sáng nay tỉnh dậy thấy vẫn mặc nguyên bộ quần
áo hôm trước, cái Mị thì nằm dưới ngủ dưới đất. Trên bàn là bát cơm để từ hôm qua
vương vãi. Đang định dọn thì tính tò mò nổi lên, cô Xoan bỏ lại mọi thứ rồi cũng ra
khỏi nhà đi xem tình hình nhà Mão thế nào.

Cánh cổng vừa đóng lại, cô Xoan vừa đi khỏi thì con bé Mị đang nằm dưới cái chiếu
trải trên nền nhà cũng ngồi bật dậy. Nó đứng lên đi ra hiên nhà phía trước mà không
gặp bất cứ khó khăn nào, cứ như thể nó nhìn thấy đường vậy. Nó cúi xuống nhặt
miếng gạch đỏ rồi tiếp tục ngồi vẽ nguệch ngoạc, bức tranh lần này nó vẽ to hơn 2
bức tranh trước, vừa vẽ nó vừa lẩm bẩm :

“ Đến….lượt….mẹ….rồi….”

“ He..he..he….Hi...hi….hi…”

#Chap32 : “ Máu Của Cao Gia “


Ra đến giếng làng, thầy Lương thấy rất đông người đang tụ tập ở đây, cũng đúng
thôi, mấy hôm trước có con cá quẫy từ dưới giếng lên mặt đất rồi chết ngay sau đó,
tiếp theo bà Điều thầy cúng mới chỉ nói vài lời đã khiến cho dân làng vô cùng hoảng
sợ. Nay dưới giếng lại nổi lên một cái xác đã trương phềnh, vừa kinh sợ lại vừa hiếu
kỳ, tò mò nên hầu như ai cũng phải ghé qua xem xét. Người dân bao vây lấy miệng
giếng, nhưng cũng không ai dám lại quá gần mà chỉ dám đứng cách đó một đoạn, họ
bàn tán, ì xèo đủ mọi thứ nguyên do.

Nhác thấy thầy Lương, ông Vọng vội đi lại, mặt mũi lộ vẻ bàng hoàng, ông Vọng nói :

-- Lại chết người rồi thầy ơi...Là...là nhà….Mão….Chết nổi cả xác từ bao giờ.

Thầy Lương khẽ ghé lại miệng giếng rồi nhìn xuống, đúng là cái xác đã bị phù nước
trương phềnh lên. Còn chưa biết phải đưa xác lên bằng cách nào thì phía đằng sau,
vợ Mão vừa khóc vừa chạy tới :

-- Anh Mão ơi…..Sao anh lại chết.

Mọi người thấy vợ Mão thì vội tránh hết sang hai bên, ôm chầm rồi phủ phục xuống
thành giếng, vợ Mão nhìn xuống bên dưới, cô ta chết lặng đi khi nhìn thấy xác chồng,
lần này thì vợ Mão ngất thật, bà con phải đưa vợ Mão vào trong sân đình chờ cho
tỉnh lại.

Không thể để cái xác ở đó mãi được, ông Vọng muốn vớt xác của Mão lên, nhưng từ
sớm đến giờ vẫn chưa nghĩ ra cách, mặt khác bà con ai cũng sợ nên chẳng ai dám
nhận việc vớt xác. Ông Vọng hỏi thầy Lương :

-- Giờ phải làm sao hả thầy…?

Thầy Lương đáp :

-- Kiểu gì cũng phải đưa xác lên thôi, việc này cũng không quá khó. Giờ bác trưởng
làng dùng dây thừng buộc thành thòng lọng, đưa thòng lọng xuống luồn qua xác, làm
ba cái như vậy để cố định xác thành ba phần sau đó kéo lên. Nhưng người kéo phải
mặc áo mưa hoặc che bạt để tránh nước giếng bắn vào người. Sau khi đưa xác lên
tôi e là phải đem đi thiêu ngay.

Ông Vọng nghe xong thì liền nói với những người đang có mặt tại đó, nhưng ngoài
Sửu và Lực ra thì không ai dám nhận công việc vớt xác Mão lên cả. Ông Vọng nói :

-- Vậy bây giờ nhà ai gần đây cho tôi mượn ba cuộn thừng cùng ba bộ quần áo mưa
có thể che kín người, nếu được tôi muốn có thêm một tấm vải bạt để khi đưa xác
nhà Mão lên sẽ đặt vào đó, tôi và cậu Sửu, cậu Lực sẽ làm chuyện này. Trông cậy vào
mọi người vậy.

Nghe xong lời trưởng làng, một vài gia đình gần đó lập tức chạy về chuẩn bị những
thứ mà ông Vọng yêu cầu. Một lát sau tất cả đã có đầy đủ, ông Vọng tiếp :

-- Chuyện vớt xác không có gì đáng xem cả, bà con ở lại đây cũng không tiện, hiện
nay nước giếng đã bị nhiễm độc, lỡ may nước vô tình bắn vào ai sẽ rất nguy hiểm.
Vậy nên bà con giải tán ai về nhà nấy, nhớ cẩn thận trong việc dùng nước sinh hoạt.
Khi nào cần bàn tôi sẽ thông báo đến từng nhà. Cảm ơn bà con.

Nghe ông Vọng nói cũng đúng, ở lại chẳng may bị làm sao thì cũng uổng mạng, hơn
nữa mấy ngày qua, trong làng xảy ra toàn chuyện kinh hãi, gia súc, gia cầm, rồi cả
người cũng đã vong 2 mạng, tuy ai cũng nghĩ là tự tử nhưng lý do tự tử là gì thì
không ai biết. Tốt nhất là không nên lại gần, nghĩ vậy nên dân làng nghe theo lời ông
Vọng, đám đông giải tán.

Lúc này, tại khu vực giếng chỉ còn lại 4 người đó là thầy Lương, ông Vọng và anh em
Sửu, Lực. Buộc thừng đủ ba thòng lọng, ông Vọng cùng anh em Sửu mặc áo mưa,
đeo găng tay, chỉ để lộ ra đôi mắt. Sửu và Lực bắt đầu thả thòng lọng xuống mặt
nước, cũng may khi xác Mão đã nổi hẳn lên, cho nên việc luồn thòng lọng qua xác
của Mão sau đó dần thắt nút lại cũng không quá khó khăn, sau khi cả ba cái thòng
lọng được cố định vào xác Mão, trên bờ, ông Vọng, Sửu và Lực nhìn nhau rồi khẽ gật
đầu ra hiệu đồng loạt kéo cái xác lên. Với sức khỏe của mình, Sửu và Lực cộng thêm
ông Vọng, họ không tốn nhiều thời gian để đưa được thi thể Mão ra khỏi miệng
giếng, mặc dù cái xác trương lên vì phù nước khá nặng.

Đưa được xác Mão lên, một mùi thối bốc ra khủng khiếp từ cái xác đã bắt đầu rữa
thịt, phần bụng của Mão phình ra rất to, chân tay cũng phù lên một cách rõ ràng. Vợ
Mão lúc này cũng đã tỉnh lại sau khi bị ngất, loạng choạng đi ra chỗ giếng làng, thấy
xác chồng đã được kéo lên, vợ Mão lại càng khóc to hơn. Cô ta toan chạy lại ôm
chồng thì thầy Lương kịp thời ngăn lại, nhưng người đàn bà thấy chồng mình nằm
trên tấm bạt đó không kìm nén nổi cảm xúc, vợ Mão gào lên như điên dại, không còn
cách nào, vì lo cho sự an toàn của cô ta, thầy Lương đành dùng một chút thảo dược
có tác dụng gây mê đã được tinh chế thành dang lỏng, mở nắp lọ thảo dược khẽ đặt
vào mũi vợ Mão, chỉ một lát sau vợ Mão dần dần lịm xuống. Thầy Lương nhờ Sửu đỡ
vợ Mão ngồi dựa vào gốc cây lộc vừng.

Quay lại nơi xác Mão đang nằm, thầy Lương thấy ông Vọng và Lực đã cởi bỏ bộ áo
mưa đang mặc trên người. Thấy vậy, thầy Lương nói lớn :

— Khoan, đừng cởi vội…..Chờ đã…

Nhưng ông Vọng lúc này đã lột áo mưa ra khỏi người, đúng lúc đó đột nhiên trên
tấm bạt, xác của Mão bất chợt chuyển động, cái thi thể đó tự dưng rung lên. Quá
hoảng hồn, Lực lập tức co chân chạy nhanh ra khỏi khu vực giếng.

Thầy Lương với Sửu đang đứng ở gốc cây lộc vừng cách giếng cũng một khoảng rộng,
nhìn cái xác thầy Lương hét lớn :

— Bác Vọng, chạy khỏi chỗ đó ngay….Chạy đi…

Nhưng khi ông Vọng kịp quay người bỏ chạy thì..

“ Bụp...Bụp..”

Phần bụng đang phình to trên thi thể Mão bỗng nổ tung, nó căng lên rồi nổ như một
quả bong bóng bị thổi đầy hơi. Lục phủ, ngũ tạng bên trong cái xác đã thối rữa thành
một thứ chất lỏng đen sánh như bùn, cực kỳ hôi thối. Vì đứng ngay cạnh xác chết
nên ông Vọng không tránh kịp, mặc dù đã nhanh trí dùng áo mưa che chắn phần đầu
nhưng tay của ông vẫn bị thứ bùn đen ấy bắn vào tay.

Thầy Lương tỏ ra vô cùng hoảng hốt bởi ông nghĩ rằng do chết dưới giếng, bị ngâm
trong nước nhiễm độc, thi thể của Mão cũng chứa đầy độc tố. Nay ông Vọng bị chất
lỏng do nội tạng trong cơ thể Mão rữa nát bắn vào, sợ rằng ông Vọng cũng đã bị dính
độc.

Mọi người vội vã chạy lại xem, những vết bùn đen lấm tấm trên cánh tay của ông
Vọng nồng nặc mùi xú uế, nhưng có vẻ như ngoài mùi thối ra thì nó không khiến cho
ông Vọng bị làm sao cả.

Thầy Lương hỏi :

— Bác trưởng làng thấy trong người thế nào..? Chỗ bị chất bẩn này bắn vào có đau
rát gì không..?

Khi nãy cũng lo, nhưng đã trôi qua một lúc, ông Vọng thấy cơ thể vẫn bình thường,
không có biểu hiện gì khác lạ.

Ông Vọng đáp :

— Tôi không sao cả, hình như thứ này không có độc. Nhưng sao xác nhà Mão lại nổ
một cách đáng sợ như vậy.

Nhìn cái xác nhoe nhoét trên tấm vải bạt đến, Sửu với Lực cũng còn không dám nhìn
tiếp. Nhất là khi ban nãy cái xác trước khi bung bét ra còn rung lên chuyển động, mọi
người còn tưởng Mão sống lại.

Về việc tại sao xác của Mão lại vậy thì thầy Lương chỉ có thể giải thích, giống như
những người chết đuối, khi người nhà đến nhận xác thì thi thể người đã chết sẽ chảy
máu tươi có thể từ mắt, mũi, miệng hoặc lỗ tai. Xác Mão bị như vậy có thể là do ban
nãy vợ Mão đã chạy lại gần rồi gào khóc. Cái chết của Mão vẫn chưa được xác định
rõ ràng. Đây cũng là lần đầu tiên thầy Lương gặp chuyện lạ như vậy.

Phải cố gắng và cẩn thận lắm Sửu với Lực mới cuộn được gọn cái xác lại trong tấm
vải bạt. Sau đó ông Vọng đợi vợ Mão tỉnh dậy, dân làng nhiều người cũng đến chia
buồn ngay lúc ấy. Mọi người khuyên rồi chung tay giúp đỡ, xác của Mão được cho
vào quan tài gỗ rồi đem thiêu ngay giữa cánh đồng trong làng.

Trải qua mấy ngày mà làng Văn Thái xảy ra không ít chuyện. Quá sợ hãi, đã có gia
đình tính đến việc bỏ làng ra đi. Buổi chiều hôm ấy, sau khi từ cánh đồng thiêu xác
Mão trở về, ông Vọng đang buồn rầu vì trong làng lại có người chết, thêm chuyện
con Vàng lại càng khiến ông nao lòng hơn. Thì bên ngoài cổng có vợ chồng Hai - Miện
đến gặp, vừa chào hỏi xong thì Hai nói với vẻ mặt buồn rầu :

— Vợ chồng em đến đây để chào bác chúng em đi. Xảy ra nhiều chuyện quá, chúng
em không ở lại đây được. Con bé Vi nó cũng gửi thư về bảo chúng em vào trong đó ở
với nó. Bác trưởng làng ở lại bảo trọng.

Ông Vọng cũng không biết nói gì hơn, họ làm như vậy cũng không thể trách được.
Sống ở làng này bây giờ quá nguy hiểm, chẳng biết sau nguồn nước thì sẽ đến cái gì
nhiễm độc tiếp theo. Thở dài ông Vọng nói :

— Vậy cô chú đi cẩn thận, nếu sau này làng qua được những chuyện này nhớ về
thăm làng, thăm bà con nhé. Dù sao cũng là mảnh đất mình sinh ra.

Vợ chồng Hai - Miện cúi đầu chào ông Vọng rồi xách hành lý rời đi. Độ 1 tiếng sau thì
thầy Lương đi đâu đó quay về, ông Vọng hỏi :

-- Thầy đi đến Bãi Hoang có phát hiện thêm đươc gì không…?

Thầy Lương đáp :

-- Không tìm thêm được gì, nhưng hình như chỗ chúng ta đào bới đã có người khác
đến đó thì phải, hoặc cũng có thể là tôi nhầm. Vậy còn chuyện bơm nước giếng lên
thì sao rồi bác trưởng làng..?

Ông Vọng trả lời :

-- Dân làng đều đồng ý rồi thầy ạ, còn đang tính sẽ chuyển gạch, cát, xi măng đến sân
đình để xây bể ngay ngày hôm nay, sau dó tôi lên huyện thuê máy bơm trở về rồi
tiến hành bơm nước giếng lên. Vậy mà vừa mở tấm bạt ra thì phát hiện có xác chết
nổi dưới giếng từ bao giờ. Tôi đã bảo cậu Sửu ngày mai huy động người rồi xây bể
ngay giữa sân đình để dẫn nước vào.

[......]

Tối hôm đó, bên nhà Mão, tiếng khóc lóc thảm thiết vẫn chưa dừng, vợ Mão ôm hũ
tro cốt của chồng mình rồi thi thoảng lại gào lên đầy tức tưởi. Cô Xoan cũng bỏ đi
đâu từ trưa không rõ. Cái Mị ở nhà một mình, từ sáng tới giờ nó chưa được ăn gì, nó
vẫn ngồi bên ngoài hiên nhà, ngôi nhà tối om không một chút ánh sáng, nhưng đôi
mắt của nó đột nhiên lóe lên một ánh đỏ bất thường. Nó ngồi im một chỗ rồi cứ thế
nhìn sang bên nhà Mão cười khúc khích :

“ Hi...hi...hi….Đáng….chết….Đáng….chết...He….he….he…”

[.......]

“ Muốn giải thuật “ Giấu Long Mạch “ chỉ có thể dùng chính máu của người yểm hoặc
có chung huyết thống mới giải được. “

Thầy Lương nhớ lại những gì mình đã đọc trộm được trong quyển sách của sư phụ
năm xưa. Thấy thầy Lương trầm tư suy nghĩ, ông Vọng hỏi :

-- Mấy ngày qua thầy vất vả quá, tôi không biết phải lấy gì để tạ ơn thầy.

Thầy Lương khẽ lắc đầu :

-- Tôi đã giúp được gì cho làng đâu, những tưởng sẽ đơn giản khi tìm thấy tấm phổ
truyền của Cao Gia, nhưng thật không ngờ mọi chuyện lại khó khăn đến như vậy.

Ông Vọng vội hỏi tiếp :

-- Có gì khúc mắc thầy cứ nói.

Thầy Lương trả lời :

-- Có chuyện này tôi nên nói với trưởng làng, muốn giải bùa yểm trấn giữ long mạch,
cần phải có người của Cao Gia mới thành. Chẳng giấu gì trưởng làng, cả buổi chiều
hôm nay tôi đã đi đến Bãi Hoang, cũng như đình làng, đã xem xét rất kỹ từng chút
một những ghi chép trong phổ truyền cũng như bút tích các dòng họ được viết ở
đình làng. Tôi hi vọng máu mủ của Cao Gia vẫn còn sống….nhưng không còn ai cả.

#Chap33 : Sự Thật Trong Tấm Phổ Truyền.


Ông Vọng nghe xong mà chân tay bủn rủn, lời của thầy Lương khác gì nói làng Văn
Thái đã không còn cách nào cứu được.

Thầy Lương tiếp :

-- Để giấu đi long mạch, người sử dụng thuật này phải cắt bỏ một đoạn xương sườn
của mình rồi dùng máu của chính bản thân làm vật dẫn. Đoạn xương sườn ấy phải
được lấy ra khi chủ thể vẫn đang còn sống. Nói cho dễ hiểu thì Cao Côn đã dùng
chính xương sườn của mình để luyện bùa. Sau đó, khi xác định được vị trí của long
mạch, đoạn xương sườn ấy sẽ được cắm vào đúng điểm trọng yếu, nơi tích tụ nhiều
vượng khí nhất. Để làm được việc này tuổi thọ của Cao Côn sẽ bị rút ngắn, do đó mặc
dù là một thầy bùa am hiểu về phong thủy, vận số, nhưng Cao Côn chỉ thọ không quá
70 tuổi. Đó là bởi ông ta đã dùng đến thuật “ Giấu Long Mạch “. Đáng tiếc vì một lý
do nào đó, long mạch tuy đã được giấu nhưng vận mệnh của Cao gia lại trở nên
thảm hại chứ không vượng phát như dự tính của Cao Côn.

Ông Vọng vội hỏi :

-- Nhưng thầy có nói sau khi Cao Côn chết đi thì Cao gia mới bị diệt tộc. Vậy nếu Cao
Côn là người trấn yểm long mạch, chẳng lẽ ông ta biết sau này Cao gia sẽ bị xóa sổ
nên mới khiến cho mạch nước bị nhiễm độc…?

Thầy Lương trả lời :

-- Có hai khả năng, một đúng là Cao Côn đã yểm độc vào long mạch. Nhưng không
phải là do ông ta nhìn thấy được kết cục của Cao gia mà đây giống như một cách dự
liệu cẩn trọng. Bác trưởng làng biết tại sao gia phả của Cao gia lại được đem chôn kỹ
đến như vậy không…? Đó là vì họ Cao sợ rằng nếu có ai đó phát hiện ra điều mà Cao
Côn đã làm thì họ Cao sẽ vô cùng khốn đốn. Qua tấm gia phả đó ta biết được rằng
sau khi Cao Côn chết, con cháu của Cao gia mới đem giấu gia phả xuống lòng đất.
Như vậy có nghĩa là, con cháu của Cao Côn, hay nói cách khác chính là Cao Lãm và
Cao Kiệt đều biết bí mật về “ Giấu Long Mạch “. Cao Côn khi trấn yểm ắt hẳn phải có
tiên liệu, ông ta sẽ dự trù rằng trong khoảng 100 hoặc 200 năm sau, nếu Cao gia lụi
bại thì long mạch đó cũng coi như bỏ, nói cách khác long mạch sẽ bị hủy hoại. Bởi
nếu như Cao gia còn vượng, chắc chắn sẽ truyền đời về việc long mạch đang đươc
họ Cao nắm giữ và có cách để tiếp tục duy trì sự vượng phát ấy. Tiếc rằng, sau đó
người của Cao gia đã bị giết sạch. Những thầy phong thủy như Cao Côn luôn mang
trong mình tà niệm, ích kỷ, độc đoán. Do vậy ông ta mới muốn chiếm long mạch cho
riêng dòng họ Cao. Có thể Cao Côn không liệu trước được rằng họ Cao bị giết sạch,
nhưng cũng chính vì vậy nên những bí mật về long mạch cũng như Cao gia không còn
ai biết nữa. Trải qua thời gian 100 năm, đến thời điểm bây giờ, long mạch, địa mạch
do bùa yểm của Cao Côn đã biến tướng, vượng khí trở thành chướng khí, địa độc. Đó
cũng chính là khả năng thứ 2 khiến cho làng Văn Thái lâm vào cảnh tai ương. Tuy vậy,
dù là khả năng nào đi nữa thì việc chúng ta phải làm chính là phá giải được trấn yểm
này. Và như tôi đã nói, giấu long mạch là do Cao gia làm, vậy nên việc giải yểm cũng
phải có sự xuất hiện của người thuộc Cao gia mới được. Đây cũng coi như là một
nhân quả, báo ứng…..Cao gia trấn yểm long mạch dẫn đến kết quả cả họ bị giết,
người dân làng Văn Thái đã sát hại toàn bộ người của Cao gia nên giờ đang phải trả
giá.

Ông Vọng ôm đầu dằn vặt, ông không biết phải giải quyết mọi chuyện như thế nào
nữa. Nếu đúng như những gì mà thầy Lương nói thì làng Văn Thái chỉ còn cách bỏ
làng mà đi như vợ chồng Hai - Miện lúc chiều, ông Vọng đáp :

-- Vậy thì đúng là chỉ còn cách bỏ làng mà thôi.

Thầy Lương nói :

-- Khi không tìm được thông tin gì về Cao gia, quả thật tôi cũng đã nghĩ đến cách này.
Nhưng sự việc không đơn giản như vậy, nếu không phá được bùa yểm của Cao Côn,
làng Văn Thái sẽ trở thành ngôi làng chết. Ban đầu chỉ là mạch nước ngầm liên kết
những cái giếng trong làng. Nhưng có thể sau này chất độc sẽ lan rộng ra, khi ấy
không chỉ làng Văn Thái mà cả xã rồi cả huyện, cả những vùng đất lân cận đều sẽ
biến thành vùng đất chết. Sự đáng sợ khiến cho thuật “ Giấu Long Mạch “ trở thành
một thuật cấm kỵ đối với những thầy phong thủy chính là điều này. Trưởng làng đã
nhìn thấy những vết nứt lan rộng trên mai rùa rồi phải không…? Trong thời gian tới
mọi chuyện sẽ tồi tệ như vậy đấy.

Ông Vọng toát mồ hôi lạnh :

-- Vậy thầy nói tôi phải làm sao đây…..Tại sao mọi chuyện lại thành ra thế này…?

Nhìn chằm chằm vào ông Vọng, thầy Lương khẽ hỏi :

-- Bác Vọng, tôi có câu này bác phải trả lời thật cho tôi biết.

Ông Vọng thấy gương mặt của thầy Lương khá nghiêm trọng, không biết thầy Lương
muốn hỏi về điều gì, ông Vọng đáp :

-- Có gì thầy cứ hỏi ạ…?

Thầy Lương tiếp :

-- Có thật là bác trưởng làng không biết một chút gì về Cao Gia không..?

Ông Vọng thảng thốt, ông không hiểu tại sao thầy Lương lại hỏi như vậy, ông vội xua
tay :

-- Tất nhiên rồi, nếu tôi mà biết thì tại sao tôi phải vất vả đi từng nơi để tìm hiểu và
hỏi han như vậy….? Thầy nghi ngờ gì tôi sao..?
Thầy Lương nói :

-- Thực sự thì điều này tôi đã trăn trở mấy ngày hôm nay. Và giờ thì tôi càng đắn đo
hơn nên mới mạn phép hỏi trưởng làng câu như vậy. Bởi vì đã xảy ra một vài chuyện
khiến tôi có suy nghĩ, bác trưởng làng có liên quan đến Cao Gia. Bác đừng vội, nghe
tôi nói hết đã. Lần đầu tiên chúng ta cùng nhau đến Bãi Hoang đào bới, tôi có cảm
giác vận khí của bác trưởng làng và khu đất đó có liên kết với nhau. Nhưng khả năng
bị hạn chế nên tôi không thể nắm rõ được sợi dây liên kết giữa trưởng làng và Bãi
Hoang là gì, lúc đó tôi rất mơ hồ. Nhưng đến hôm nay, một việc diễn ra đã làm cho
tôi phải nghĩ kỹ lại, thật sự thì trưởng làng có liên quan gì đến họ Cao.

Ông Vọng ấp úng :

-- Thầy nói vậy là sao…?

Thầy Lương tiếp :

-- Bác biết không…? Chất nhầy giống như bùn đen bắn ra từ xác của cậu Mão khi thi
thể cậu ấy nổ bung bét là chất kịch độc. Sau khi đưa xác Mão đi thiêu, khu vực giếng,
những mảng rêu, lùm cỏ bị thứ như bùn ấy vương vào đều chết héo. Để tôi cho bác
trưởng làng xem, tôi có lấy một chút bùn ấy đem về đây.

Nói rồi, thầy lương dùng một cá chén nhỏ để uống trà, ông rót vào chén nửa phần
nước, tiếp đó thầy Lương lấy ra một gói nhỏ bằng vải bạt, bên trong là loại bùn màu
đen thối hoắc bắn ra từ xác Mão lúc sáng ngày hôm nay. Dùng châm ngà, thầy Lương
pha loại bùn đó vào trong chén nước để sẵn, chiếc châm nguấy đến đâu, nước trong
chén sôi lên sùng sục đến đó. Nhấc chiếc châm ngà ra khỏi chén nước độc, thầy
Lương giơ lên cho ông Vọng xem, toàn bộ phần châm ngà bị ngấm nước đã chuyển
sang một màu đen xám xịt vẫn còn bốc khói.

Ông Vọng nuốt nước bọt, còn thầy Lương nói tiếp :

-- Là chất kịch độc, điều này càng khẳng định giếng làng chính là nơi long mạch bị
trấn yểm. Nước trong giếng vô cùng độc, độc tính còn mạnh hơn gấp nhiều lần nước
giếng nhà cô Xoan. Cậu Mão kia bị chết dưới giếng khoảng thời gian là hơn 2 ngày,
xác của cậu ta cũng chính là một cái xác chứa toàn chất độc. Lúc đó, tôi và anh em
nhà Sửu đều nhìn thấy, thứ bùn bắn ra từ thi thể Mão đã vương vào tay của trưởng
làng. Nhưng trưởng làng lại không hề hấn gì cả…..Điều này….

Ông Vọng bất giác vén tay áo lên xem lại phần cánh tay bị bùn bắn vào sáng nay,
chiếc châm ngà chuyển thành màu đen xám, nước trong chén vẫn lục bục sủi bọt,
nhưng đúng là tay của ông lại không bị sao cả, ông Vọng lo lắng hỏi :

-- Nhưng….nhưng như vậy có nghĩa là sao...thưa thầy…?

Thầy Lương bắt đầu giải thích :


-- Để làm rõ thắc mắc đầu tiên của tôi về sự liên kết giữa vận khí của trưởng làng với
Bãi Hoang thì chúng ta sẽ giải thích về việc sáng nay, về chất độc từ xác của cậu Mão.
Để tôi nói cho trưởng làng nghe, những bậc thầy phong thủy khi trấn yểm sẽ không
để bùa yểm, lời nguyền ảnh hưởng đến người trong gia tộc, trong dòng họ, hoặc
những người mang cùng huyết thông với họ. Nói cho dễ hiểu, chất độc có trong
nước đối với những người khác sẽ là chất độc giết người, nhưng với những ai mang
dòng máu của người trấn yểm sẽ không sao cả. Họ phải làm vậy bởi trong một gia
tộc, dòng họ, không phải ai cũng có thiên phú về bùa thuật, phong thủy. Nếu đặt lời
nguyền, bùa yểm mà không trừ những người cùng huyết thống, cùng gia tộc ra thì
sau khi người đặt bùa yểm chết đi, đời sau rất khó để tiếp cận được vị trí trấn yểm.
Đến lúc này tôi không thể suy nghĩ được nguyên nhân nào khác ngoài việc, bác
trưởng làng có liên quan đến Cao Gia. Hay nói thẳng ra, bác Vọng, bác chính là người
mang dòng máu của họ Cao.

Ông Vọng nổi da gà, quá choáng váng, ông Vọng dựa lưng vào sau ghế, hai bàn tay
run rẩy bám chặt vào thành ghế, mắt mở to, miệng run run, dù có tưởng tượng hay
nằm mơ đến đâu, ông cũng không bao giờ nghĩ dược tới viễn cảnh, sự thật mà thầy
Lương đang nói.

Chưa dừng lại ở đó, thầy Lương lấy tấm da thuộc, cũng chính là tấm phổ truyền của
dòng họ Cao ra, thầy Lương trải tấm da lên mặt bàn trước mặt ông Vọng rồi chỉ vào
đó nói tiếp :

-- Cao Côn có 2 người con trai, đó là Cao Lãm và Cao Kiệt…..Cao Lãm là con trai cả,
ông ta đã lấy vợ và sinh con. Cao Kiệt thì khi đó cũng đã thành gia lập thất nhưng
chưa có con. Bác trưởng làng nhìn đây, Cao Lãm sinh con trai, và tên cùng năm sinh
của người con trai này cũng được ghi trong gia phả. Sau đó tấm gia phả này được
chôn sâu dưới lòng đất, giấu kín bên trong tảng đá vân mây. Căn cứ vào năm sinh
của con trai Cao Lãm thì tính đến nay, người này bằng đúng với tuổi của trưởng làng.
Những ngày qua tôi luôn phân vân, tại sao thần bảo hộ cho làng lại chỉ dẫn đưa
chúng ta đến Bãi Hoang để đào lên tấm gia phả này, nếu như chỉ xác nhận nơi đó
từng là nơi Cao Gia xuất hiện e chừng chưa đủ. Tất cả không thể trùng hợp đến ngẫu
nhiên như vậy được. Nhưng đó cũng là sắp đặt của ông trời, nếu đúng như những gì
tôi suy đoán thì trưởng làng chính là người cứu cả làng Văn Thái. Nhưng giờ đây
chuyện cứu hay không cứu không phải là việc tôi có thể quyết định. Nếu trưởng làng
vẫn chưa tin thì chúng ta có thể xác nhận sau khi xuống đáy giếng. Bởi vì, chỉ có
người mang dòng máu của Cao Gia mới có thể nhìn thấy đoạn xương sườn mà Cao
Côn đã cắm vào long mạch.

“ Vù….Hù…..ù…...ù…”

Bên ngoài gió lạnh từ đâu bỗng thổi vào, hai cánh cửa lập hập vang lên những tiếng
kẽo kẹt.

“ Lập...đập….Cộp….Cạch “
Cánh cổng bên ngoài dường như cũng bị gió thổi bung ra đang hập ra, hập vào. Bên
trong nhà, ông Vọng vẫn chưa dám tin vào những lập luận của thầy Lương…...Liệu
ông sẽ đưa ra quyết định như thế nào….?

#Chap34 : Người Mẹ Lăng Loàn.


Thầy Lương nói tiếp :

-- Tôi biết, việc này quá đột ngột với trưởng làng, chắc chắn đối với bất kỳ ai đây
cũng sẽ là một cú sốc lớn. Tuy khó tin, nhưng vẫn còn một điều quan trọng nữa, điều
này sẽ chứng minh trưởng làng có phải máu mủ của Cao Gia hay không..? Tấm phổ
truyền mà chúng ta đào được ghi chép rất rõ về nhân dạng, cũng như một đặc điểm
nhận biết của mỗi người được ghi tên trong đó. Ngay như Cao Côn, việc ghi chép rất
tỉ mỉ, kể cả nơi Cao Côn được chôn cất. Trong nay có viết, con trai của Cao Lãm, khi
sinh ra đã có một vết bớt màu đỏ nằm sau vai trái……

Thầy Lương vừa nói vừa nhìn vào mắt ông Vọng, ngay khi nghe đến cái bớt, ông
Vọng mặt như tái nhợt đi, bất giác ông Vọng đưa tay sờ lên vai trái rồi đổ mồ hôi hột.
Ông Vọng nói giọng lắp bắp :

-- Không….không….thể….nào..

Thầy Lương tiếp :

-- Bớt trên cơ thể con người sẽ theo người đó từ khi sinh ra cho đến khi chết đi. Bác
trưởng làng, nếu như sau vai trái của bác có vết bớt đỏ ấy thì không còn nghi ngờ gì
nữa, bác đích thị là con trai của Cao Lãm.

Ông Vọng nhớ lại ngày còn nhỏ……

[.....]

-- Mẹ ơi, sao sau vai con lại hằn lên vệt gì màu đỏ thế này..? - Vọng vừa cố ngoái đầu
ra phía sau, vừa lo lắng hỏi mẹ.

Mẹ Vọng mỉm cười :

-- Không sao đâu con, chỉ là một vết bớt đỏ mà thôi. Cứ coi đó như một lá bùa may
mắn ông trời ban cho con vậy..?

Vọng cười toe toét :

-- Hi, vậy bố mẹ cũng có phải không ạ…?

Mẹ Vọng xoa đầu con trả lời :

-- Chỉ những người được ông trời yêu quý thì mới có được vết bớt đó. Bố mẹ không
may mắn bằng con trai rồi, vậy nên con đừng lo nghĩ gì về cái bớt đó nhé.

Vọng cười tít mắt ôm lấy chân của mẹ…..

[......]

Ông Vọng bất chợt rơi nước mắt, ông hỏi thầy Lương :

-- Vậy….con trai của Cao Lãm….tên là gì….thưa thầy..?

Thầy Lương khẽ trả lời :

-- Là Cao Luân…..Bác trưởng làng…

Ông Vọng đưa tay lên rồi khẽ gật đầu, ông nói :

-- Tôi hiểu rồi….Quả đúng là một sự thật khó chấp nhận….Nhưng đã là sự thật thì dù
muốn, chúng ta cũng không thể thay đổi nó. Làm phiền thầy đừng nói chuyện này ra
cho ai khác biết. Nếu đúng như tôi là người có thể cứu nguy cho cả làng thì thật là
may mắn.

Thầy Lương không nói gì thêm, bởi thầy Lương cũng biết, một người nhân hậu như
ông Vọng, chắc chắn ông sẽ chọn cách cứu lấy làng Văn Thái cho dù có biết được sự
thật rằng người dân ở đây đã từng giết chết cả nhà họ Cao. Tuy nhiên dù có bao
dung đến đâu đi chăng nữa, nỗi đau trong lòng ông Vọng cũng vô cùng lớn. Số phận
trớ trêu khi sắp đặt ông vào một vận mệnh ngang trái đến nhường này. Gia đình ông
bị chính người làng Văn Thái giết sạch, nhưng rồi ông lại được chính người dân làng
Văn Thái nuôi nấng. Sống hơn 50 năm qua, đã quá nửa cuộc đời, lúc này ông Vọng
mới biết được thân phận, và nguồn gốc của mình.

Ban nãy nghe thấy tiếng cổng bị gió thổi mở toang va đập vào nhau, ông Vọng lau
nước mắt rồi bước ra ngoài đóng cổng lại. Chỉ qua một buổi tối, tất cả đối với ông
dường như đang bị đảo lộn. Nhưng từ sâu bên trong lòng của ông lại đang lóe lên
một tia hi vọng, đó chính là ông có thể cứu rỗi cho ngôi làng, cho mảnh đất nơi ông
sinh ra và lớn lên, cho tất cả những người dân kính trọng ông suốt những năm qua
được bình yên.

Ông không hiểu nguyên nhân tại sao Cao Gia lại bị dân làng giết sạch đến mức không
tha cho cả phụ nữ và trẻ em như vậy, nhưng 50 năm qua, ông sống tại mảnh đất này,
tội ác đời trước gây ra không thể để cho con cháu làng Văn Thái đời sau gánh chịu
được. Ông trời để cho ông sống có lẽ chính là vì lý do này, nhưng sao nước mắt của
ông cứ rơi mãi không ngừng, trái tim của ông đau quặn lại như đang có ai đó bóp
chặt….

[......]

Đã gần nửa đêm, tại nhà Bảy Dao…..Trong gian nhà chỉ còn mờ mờ ánh đèn dầu,
chiếc giường đang rung lắc tạo ra những âm thanh kèn kẹt, kèm theo đó là những
hơi thở gấp gáp, những tiếng rên đầy khoan khoái, hoan lạc của cả đàn ông lẫn đàn
bà.

Bảy Dao hùng hục như một con trâu mộng đến thời kỳ động dục, cái cơ thể hộ pháp
cùng hai cánh tay u lên những thớ cơ, những cục thịt rắn rỏi của Bảy Dao đang giữ
chặt lấy tấm thân trần truồng của cô Xoan, Bảy Dao thở hồng hộc :

-- Anh….anh sắp….ra rồi….

Cô Xoan đang phải lấy tay che miệng lại để tránh rên lên những tiếng quá lớn :

-- Ưm…..ưm…..mạnh….mạnh...quá….em...không...chịu….nổi….nữa….ư….ưm…

Những lời của Xoan lại càng khiến cho Bảy Dao thấy hứng hơn, hắn càng siết chặt hai
bàn tay hơn nữa rồi gồng mình kết thúc cuộc mây mưa bằng tất cả sức lực của mình.
Toàn thân run rẩy, Bảy Dao nằm đè lên người Xoan, trên cơ thể Xoan, những vết hằn
do lực tay của Bảy để lại nổi lên đỏ ửng. Xoan co quắp cả những ngón chân, hai bàn
tay bám vào chiếc chiếu đã xộc xệch như muốn quằn quại, đam mê, ham muốn, sung
sướng xác thịt khiến gã đàn ông với cái tên đầy khủng bố và người đàn bà luôn luôn
tỏ ra mình là một người phụ nữ đáng thương chìm trong hoan lạc, hai người quấn
chặt lấy nhau một lúc sau, Bảy Dao mới khẽ hỏi :

-- Ở lại đây đến sáng mai đi….Giờ muộn rồi.

Xoan vẫn thở phì phò, cố ngồi dậy, kéo cái chăn đắp lên che đi phần cơ thể lõa lồ,
Xoan đáp :

-- Không được, em bỏ đi từ trưa đến giờ….Ở nhà vẫn còn con Mị, lúc đi vội quá nên
đã chuẩn bị gì cho nó ăn đâu. Mà bây giờ đêm hôm, đi về không ai phát hiện…..Em
không muốn mọi người dị nghị, hình như dạo gần đây con mụ Mão đánh hơi được gì
nên hay xỉa xói em lắm. Giờ chồng mụ chết, cho đáng đời….

Bảy Dao tặc lưỡi :

-- Ôi dào, lo gì, con mù ấy nó đi được đâu đâu mà lo, nhịn một bữa chết sao
được…..Đợt này làng xảy ra nhiều chuyện quá, lâu lâu mới được gặp nhau, chiều anh
đêm nay nữa đi mà.

Nhưng Xoan nhất quyết không nghe, Xoan lấy quần áo mặc vào rồi đáp :

-- Chính vì xảy ra nhiều chuyện nên em không muốn chuyện của chúng ta bị bàn tán.
Hai hôm nay em đến với anh cả ngày rồi, anh còn đòi gì nữa...Cũng phải để cho
người ta nghỉ chứ. Mai nhà mụ Mão có đám, người ta đến thắp hương chắc từ sớm,
về giờ đó lỡ ai nhìn thấy phiền lắm.

Bảy Dao đành chấp nhận, vừa mới hành sự xong, nhưng giờ nhìn thấy Xoan lấp ló
nửa kín, nửa hở những phần cơ thể chưa mặc phục y, Bảy đã lại lên cơn hứng tính.
Vừa sờ soạng người của Xoan, Bảy vừa hỏi thầm :

-- Mà này, có đúng là em không léng phéng gì với thằng Mão không đấy…? Sáng nay
nhìn xác nó dưới giếng ghê phết. Đang định xem xem đưa nó lên bằng cách nào thì
lão Vọng bảo tất cả giải tán. Đến chiều thấy đưa đi thiêu vội lắm, nước giếng bị
nhiễm độc, nhà em có giếng cũng cẩn thận đấy.

Xoan gạt bàn tay Bảy đang đặt trên ngực mình ra rồi khẽ nạt :

-- Anh nói vậy là sao..? Anh cũng nghĩ em có quan hệ gì với lão Mão à…? Đừng có vớ
vẩn…?

Bảy Dao cười khẩy :

-- Ừ thì tại anh nhớ, hôm ở đình làng, lão Mão có khai tối đó lão có mò sang nhà em.
Chập choạng nếu không có việc gì thì lão sang đó hóng gió à…? He he he, nhưng
chảng sao, anh cũng không hơi đâu đi ghen với một thằng đã chết…..Nghe con vợ nó
nói, thằng Mão đi lên huyện hay xã gì đó từ ngày hôm trước, chắc lại rượu chè khướt
xong tối đêm đi ngang qua giếng rồi ngã mẹ nó xuống đấy. Cho đáng đời cái thằng
dâm dê, anh hỏi em vậy thôi, chứ thằng mắt lươn ấy phụ nữ trong làng ai mà nó
chẳng thèm khát. Chẳng thế mà con vợ nó cứ phải đi tìm suốt ngày….Hè hè hè.

Xoan cũng đã mặc quần áo xong, bỗng dưng Bảy Dao nhắc đến cái chết của Mão
khiến Xoan lại có chút giật mình. Sáng ngày hôm nay lúc mọi người đang tập trung
vào cái chết của Mão thì Xoan lén lút đi đường ruộng đến nhà Bảy rồi ở lại cho đến
tận bây giờ. Xoan cũng chỉ nghe tin Mão chết chứ chưa được nhìn tận mắt, chỉ biết
cái chết của Mão rất đáng sợ qua lời Bảy kể.

Bỗng nhiên Xoan nghe thấy bên ngoài có tiếng cười…

“ Hi...hi...hi….Hi...hi...hi…”

Rùng mình Xoan quay lại hỏi Bảy :

-- Này….anh có nghe thấy gì không..?

Bảy ngơ ngác đáp :

-- Nghe thấy gì là sao…?

Xoan tiếp :

-- Hình như có tiếng cười…?

Bảy nhìn xung quanh rồi lặng im nghe lại :


-- Làm gì có, chỉ có tiếng gió thổi chứ ai cười ở đây. Trong nhà có mỗi 2 người, chắc
tiếng gió thôi, mà vừa anh cười chứ ai.

“ Hiu….hiu….hiu…”

Nghe kỹ lại thì đúng là tiếng gió hiu hiu thổi bên ngoài, cũng nghĩ là nghe nhầm, Xoan
đáp :

-- Ừ, hình như là tiếng gió thổi….Mà thôi em về đây, cũng muộn lắm rồi.

Vẫn còn tiếc nuối, Bảy cố kéo tay Xoan lại rồi ôm chặt lấy, cả hai khúc khích cười đùa
bên trong nhà mà không biết rằng, ban nãy đúng là có tiếng gió thổi, nhưng lúc này,
đang đứng bên ngoài sân nhà Bảy chính là cái Mị, nó đi chân đất đứng giữa sân, mái
tóc của nó bị gió thổi bung lên che kín khuôn mặt.

Nó đang nhoẻn miệng cười :

“ Hi...hi...hi…..Hi….hi...hi “

Khi gió lặng lại cũng là lúc nó quay lưng bỏ đi, lúc sau, Xoan cũng mở cửa bước ra
ngoài, tay vẫn còn đang cài lại cái cúc áo mà vừa Bảy mới làm bung ra, cẩn thận nhìn
trước ngó sau mặc dù lúc này đã hơn 11h tối, Xoan rời khỏi nhà Bảy Dao để quay trở
về.
#Miếu_Hoang - Tác Giả Trường Lê.

#Chap35 : Đi Đêm.
Trời đã chuyển đêm, đường khuya thanh vắng, heo hút và đặc biệt là tối đen như
mực. Xoan không dám đi đường ruộng, hơn nữa tầm này cũng chẳng có ai ra ngoài
nên Xoan đi đường làng trở về nhà.

Đã gần 12h đêm, gió lúc thì thổi xì xào cả những bụi tre, lúc thì lại tĩnh lặng như tờ.
Đi tới khu vực giếng làng, gió lùa vào miệng giếng tạo nên những âm thanh như có
người đang huýt sáo.

“ Híu…..hiu…..hiu….”

“ Vù….Ù...ù…..ù…”

Xoan bỗng nổi da gà, bình thường sẽ chẳng có gì, nhưng mới sáng nay người ta phát
hiện thi thể Mão chết nổi dưới giếng, vớt xác Mão lên xong cũng chưa ai đậy miệng
giếng lại, bởi nghe đâu ngày mai, ngày kia là làng tập trung bơm nước giếng lên để
làm cái gì đó. Nừa đêm, nửa hôm, đi qua cái giếng có người mới chết, Xoan thấy
mình hơi dại khi không nghe lời Bảy ngủ lại đó quá đêm. Giờ đã đi quá nửa đường,
băng qua cái giếng này rẽ trái đi vài trăm mét nữa thôi là về đến nhà rồi, Xoan nhắm
mắt cố gắng rảo bước thật nhanh.
Tưởng nhắm mắt lại sẽ không nhìn thấy gì, nhưng ngay sau khi vừa nhắm mắt thì
trong đầu Xoan lại tưởng tượng ra toàn những hình ảnh đáng sợ. Mà cũng không
hẳn là tưởng tượng bởi nó xuất hiện một cách vô cùng rõ ràng. Xoan có cảm giác khi
Xoan đi vội qua giếng thì trên thành giếng hình như đang có ai ngồi nhìn theo từng
bước chân của Xoan.

“ Hi...Hi..Hi….Hi..Hi...Hi…”

Tiếng cười khúc khích của trẻ con đang vang lên văng vẳng trong đầu của Xoan, Xoan
không xác định được tiếng cười đó ở đằng trước, hay đằng sau vì nó phát ra từ cả
bốn phía. Khi đã đi qua khu vực giếng, Xoan rùng mình đứng sững lại bởi chắc chắn
cô vừa nghe thấy một giọng nói vô cùng quen thuộc đang gọi tên mình ở phía sau
lưng :

“ Xoan…..ơi..”

Không thể nào nhầm được, giọng nói đó rõ ràng vừa gọi đích danh tên của cô. Toàn
thân run rẩy, cổ họng khô cứng vì từ nãy đến giờ gần như Xoan không dám thở
mạnh, da gà nổi hết cả lên, ban đêm trời hơi se lạnh nhưng mặt Xoan đang túa ra
những giọt mồ hôi lăn xuống gò má. Sau 2 giây, không còn nghe thấy giọng nói đó gọi
tên cô thêm một lần nào nữa.

Xoan vừa bước, đầu vừa khẽ ngoái lại phía miệng giếng để nhìn, nhưng tuyệt nhiên
không có ai ở đó cả. Bước vào đoạn đường đất dẫn về nhà, hai bên đường độc tre là
tre, gió từ đâu bỗng thổi đến khá mạnh khiến cho những rặng tre khẽ lay động, tiếng
thân tre khẽ va vào nhau kêu kẽo kẹt, lá tre xào xạc…..Nhưng lẫn trong những âm
thanh ken két, kèn kẹt ấy, tiếng trẻ con cười lại vang lên, nó vang lên rõ mồn một,
chẳng phải do gió, mà chính xác, từ trong những bụi tre có tiếng trẻ con cười, không
phải 1 mà là nhiều điệu cười khác nhau…

“ Hi….Hi….Hi…”

“ He….He….He…”

“ Kéc…..kẹt…..kẹt….ẹt…”

Đã đi được thêm chục mét nữa, nhưng sao Xoan cứ có cảm giác đằng sau đang có ai
nhìn mình. Một lần nữa, Xoan đánh bạo quay đầu về sau, thì lần này, cô hét thất
thanh rồi co chân bỏ chạy thật nhanh :

-- Á…..M..a…...Ma….

Khác với ban nãy, lần này Xoan nhìn thấy đúng là đang ngồi trên thành giếng là một
người đàn ông với dáng ngồi vắt chéo chân, hai tay đặt trước, dù khá xa nhưng
chẳng hiểu tại sao Xoan lại nhìn rõ ánh mắt của người này đang nhìn chằm chằm vào
Xoan một cách đầy oán hận.
Chạy về đến nhà, bên nhà Mão vẫn còn lờ mờ ánh đèn dầu, tiếng khóc của vợ Mão
vẫn khẽ vang lên từng hồi, chỉ có điều có lẽ bây giờ vợ Mão cũng không còn sức để
mà khóc to được nữa. Xoan sợ bị vợ Mão nhìn thấy nên cực kỳ khẽ khàng mở nhẹ
cánh cổng đi vào nhà. Trong nhà Xoan tối om, cũng phải thôi, Xoan đi từ trưa, nhà
chỉ có cái Mị vừa mù, vừa câm thì làm sao thắp được đèn. Chắc giờ này nó cũng ngủ
rồi, bỏ đi cả ngày, nhưng giờ Xoan chỉ thấy sợ hãi, thấp thỏm bởi những thứ cô nhìn
thấy và nghe thấy ở khu vực giếng làng ban nãy. Phải vào tận trong nhà, đóng cửa,
chốt chặt lại, Xoan mới châm đèn dầu rồi ngồi lấy vạt áo lau mồ hôi đang chảy ướt cả
tóc mái, mặt mũi.

Một lúc lâu sau Xoan mới hoàn hồn, từ bé đến giờ, chưa bao giờ Xoan gặp ma, cũng
chưa bao giờ Xoan thấy sợ như lúc này. Còn đang rùng mình vì cái bóng đàn ông ngồi
trên thành giếng, rồi những tiếng cười khúc khích của trẻ con hai bên đường sau
những rặng tre thì Xoan suýt chút nữa đứng tim, phải nói là trong khoảnh khắc Xoan
đã sợ đến chết điếng khi từ đằng sau vừa có một bàn tay khẽ đặt lên vài của cô.

Xoan chỉ dám đảo mắt nhìn xuống vai xem đó là tay của ai, nhưng rồi bàn tay vừa
bám vào vai Xoan ấy tiếp tục huơ vào không trung, lại thêm một bàn tay bám vào
ghế mà Xoan đang ngồi.

Xoan trợn mắt, há hốc mồm khi nhận ra đó chính là con Mị, nó vẫn chưa ngủ, nó
đang đi lại lang thang trong nhà, tay cái Mị đang mò mẫm để dò đường, hình như nó
không biết Xoan đang ngồi ở đây. Vậy mà ban nãy Xoan cứ mơ hồ khi mới bước vào
nhà là con Mị đang nằm trên giường, nãy giờ Xoan ngồi ở ghế đây mà không hề hay
biết phía sau lưng mình con Mị đang quờ quạng, mà sao nó cũng không phát ra bất
kỳ một tiếng động nào.

Bị con gái vô tình dọa cho một trận muốn đứng tim, lại thêm những cảm xúc dồn nén
từ khi quay về từ nhà Bảy Dao, Xoan nghiến răng nghiến lợi, mọi tức tối, bực bội, lo
sợ không biết trút vào đâu, Xoan kéo giật tay con Mị lại rồi gằn giọng chửi bới :

-- Con khốn, mày dọa chết tao rồi….Sao giờ này mày còn chưa chịu ngủ.

Vừa chửi, Xoan từ bóp chặt lấy cái cẳng tay gầy nhóc của con bé Mị rồi cứ thế bấu
bẹo. Xoan còn dúi đầu con Mị, vò đầu nó khiến cho mớ tóc vốn đã bết, rối trên đầu
nó giờ đây lại càng thảm hại hơn. Đánh con xong, Xoan hất tay ra khiến cho con bé
lảo đảo rồi ngồi thụp xuống đất. Dưới ánh đèn dầu leo lắt, con Mị với mái tóc xõa rũ
rượi che kín khuôn mặt, một tay nó ôm lấy cánh tay vừa bị cấu, bẹo, tay còn lại nó
chống xuống đất.

Xoan thở hồng hộc, có lẽ có nơi để trút giận nên sau khi đánh con Mị, Xoan lại đỡ sợ
hơn. Xoan quát :

-- Đứng dậy….Mày còn định ngồi đó ăn vạ à…..Ngủ đi, mai tao nấu cơm sớm cho mà
ăn.

Mặc kệ con Mị, Xoan lên giường ngả lưng, cả ngày hôm nay vật lộn, mây mưa xác
thịt với Bảy Dao, giờ đã quá nửa đêm, Xoan cũng thấm mệt, mọi sợ hãi, bực dọc khi
nãy Xoan đã trút cả lên đầu đứa con gái vừa mù, vừa câm…..Con Mị vẫn ngồi đó, nó
không đứng dậy, có vẻ như nó cũng đã quen rồi, những vết bầm tím trên tay, trên
người nó không phải tự nhiên xuất hiện. Đây không phải lần đầu tiên nó bị trút giận
kiểu như thế này. Chẳng ai biết cả, bởi nó có bị đánh, có bị chửi thì cũng chỉ có một
mình nó chịu đựng. Nó đâu có nói được với ai, đã mấy năm qua, kể từ ngày bố nó
chết, nó chỉ là thứ để cho mẹ nó đay nghiến, rủa xả, hành hạ mỗi khi mẹ nó đi đâu
quay về nhà.

Trên giường, mới đây thôi mà Xoan đã ngủ, lúc này đã hơn 12h đêm, trên giường
Xoan ngủ say như chết, thi thoảng còn phát ra tiếng ngáy nhẹ.

“ Cạch “

Tiếng chốt cửa được mở ra, cái Mị mở he hé cánh cửa rồi từ từ bước ra bên ngoài.
Bên trong nhà, Xoan tất nhiên vẫn không hề hay biết vì cô ngủ rất say. Chính Xoan có
lẽ cũng không hiểu tại sao ban đêm cô ngủ không biết trời đất đâu đến như vậy.

Cái Mị mở cổng bước chân đất rời khỏi nhà, đã mấy ngày nay, đêm nào nó cũng đi
như thế. Trời đêm sương xuống, cái Mị chạy tung tăng trên con đường đất vắng vẻ,
nó nhoẻn miệng cười rất tươi.

“ Hi….hi….hi….”

Hình như đáp lại tiếng cười của Mị là nhiều giọng cười khác, trong không trung khẽ
vang lên những giọng nói lạ kỳ :

“ Hi...hi….Đi...chơi...nào….”

“ Nhanh...lên...He...he..he….Nhanh….lên….”

“ Mị….Mị….Mị….tới….rồi….Hí….hí….hí….”

Đâu đó trong làng bất chợt vang lên tiếng chó tru :

“ À...hú…...à….hú…..hú….”

[......]

Nằm trên giường, thầy Lương bất chợt tỉnh giấc, ông mở to hai mắt, tiếng chó tru
vào giữa đêm thêm một lần nữa khiến thầy Lương không ngủ được. Những ngày qua
đã xảy ra quá nhiều chuyện, mặc dù đã tìm ra cách, tìm được người hóa giải bùa yểm
của Cao Côn lên long mạch của làng Văn Thái, nhưng suốt từ tối đến giờ, thầy Lương
vẫn bồn chồn không yên. Một linh cảm xấu vẫn đang hiển hiện trong tâm trí ông rằng
mọi chuyện vẫn còn nhiều bí ẩn.

Bản thân là một thầy bùa mang trong mình kiến thức uyên thâm, từng là đệ tử chân
truyền của vị đạo sĩ mai danh ẩn tích bên Trung Quốc. Cho dù hiện tại khả năng của
thầy Lương đang bị kìm hãm, hạn chế bởi thầy đang ở trong khu vực kết giới do
thuật trấn yểm của Cao Côn tạo ra nhưng với thiên phú trời ban từ khi sinh ra, thầy
Lương biết từ lúc con cá trắng chết quẫy lên khỏi miệng giếng, rồi sau đó nước giếng
bị nhiễm độc là chướng khí của làng qua mỗi ngày lại càng tích tụ nhiều hơn.

Ban đêm xuống ma quỷ hoành hành, âm binh, cô hồn lang thang vất vưởng. Ban đầu
thầy Lương chỉ nghĩ đó là do long mạch bị kìm tỏa, vượng khí biến mất khiến cho âm
khí bắt đầu tràn lan….Đêm nào chó cũng tru lên một vài tiếng dai dẳng, không nhắc
đến bởi trước mắt, lo hóa giải trấn yểm của long mạch là điều quan trọng nhất,
nhưng bên cạnh đó cái chết của con Vàng cùng với cái chết của Mão vẫn còn là điều
mà thầy Lương băn khoăn cả ngày hôm nay.

Mọi chuyện trong làng không chỉ dừng lại ở vấn đề long mạch.

#Chap36 : Đánh Đổi Mạng Sống.


Sáng sớm ngày hôm sau, ông Vọng dậy trước khi gà kịp gáy. Bên ngoài trời vẫn còn
mờ hơi sương, thầy Lương đã thấy ông Vọng chuẩn bị đồ đạc gì đó, thầy Lương hỏi :

-- Bác chuẩn bị lên huyện phải không..?

Ông Vọng khẽ gật đầu đáp :

-- Đúng rồi thưa thầy, hôm qua tôi cũng có báo cho những người trong làng, sáng
nay tập trung xây bể chứa ở sân đình. Còn tôi sẽ lên trên huyện thuê máy bơm rồi
bảo người ta chở về đây. Việc trong làng, có gì thầy cứ nói với cậu Sửu. Tôi đi chắc
đến chiều là về.

Nét mặt của ông Vọng thoáng buồn, cũng phải thôi, mọi thứ đột ngột ập đến một
cách bất ngờ. Có lẽ cả đêm qua ông Vọng trằn trọc không ngủ nổi, nhưng con người
nhân hậu ấy vẫn cố gắng một lòng lo cho làng Văn Thái. Đi cùng với ông Vọng ra
đình, trời sáng hơn một chút, Sửu, Lực cùng một vài người nữa đã có mặt, họ đẩy
những chiếc xe bò chở nào gạch, cát, xi măng, chở cả nước để chuẩn bị xây bể chứa
ngay giữa sân đình. Bàn tính xong xuôi, ông Vọng giao lại việc cho Sửu cùng mọi
người dưới sự chỉ đạo của thầy Lương. Còn ông bắt đầu đi lên huyện để thuê máy
bơm. Sửu muốn đi theo nhưng ông Vọng nói việc trong làng gấp rút hơn, Sửu cần ở
lại làm cùng mọi người.

Không để tốn thêm thời gian, Sửu cùng mọi người lập tức bắt tay vào làm việc.
Những ngày qua làng Văn Thái trở nên tiêu điều, vắng lặng, sau sự việc Mão chết
dưới giếng ngày hôm qua bà con lại càng sợ hãi hơn. Đường làng giờ đây ngoài mấy
người ra đình để xây bể chứa thì chẳng có ai qua lại. Thông tin một hai hộ gia đình bỏ
làng ra đi cũng lan truyền đến tai cả làng Văn Thái. Tát nhiên đó là lựa chọn tốt nhất
trong hoàn cảnh này, nhưng không phải ai cũng có chỗ để đi. Dân làng Văn Thái xưa
nay bám lấy quê cha, đất tổ làm nông, đồng ruộng mưu sinh qua ngày. Chỉ mới 2-3
năm gần đây, số ít thanh niên mới nghĩ đến chuyện thoát ly, đi tìm công việc mới bên
ngoài. Còn lại những người trung niên, hầu hết mọi người đều không biết phải đi đâu
nếu không ở lại làng.

Giờ đây nỗi sợ bao trùm lên tất cả những con người khốn khổ ấy, vừa mất mùa đã
trăm thứ khổ đổ lên đầu, giờ đây họ còn phải nơm nớp sống trong lo lắng vì cứ mỗi
ngày trôi qua, trong làng lại có một người phải chết và cái chết của họ đều khó giải
thích. Lang Phan thì tự tử không rõ nguyên nhân mặc dù trước đó vẫn còn vui vẻ, ăn
uống nhậu nhẹt, cái chết của cụ Cẩn cũng trùng hợp vào lúc làng đang xảy ra chuyện
nên dù cụ Cẩn có chết già cũng khiến người ta phải suy đoán, rồi mới hôm qua, khi
mở bạt che miệng giếng ra, họ kinh hãi bởi dưới giếng có một cái xác đã chết nổi,
trương phình, đó là xác của Mão. Mà nghe đâu lúc dưa xác lên còn xảy ra một
chuyện cực kỳ ghê rợn. Thế cho nên đối với dân làng Văn Thái, lúc này đây cứ ở
trong nhà là an toàn nhất. Dẫu sao họ cũng được trưởng làng trấn an, mọi chuyện sẽ
có cách giải quyết.

Để đề phòng, thầy Lương yêu cầu mọi người xây một cái bể thật lớn, gần bằng với
diện tích của sân đình. Cũng may, trong làng có một nhà buôn bán vật liệu, tuy nhỏ
nhưng người này cũng vì làng mà ủng hộ hết những gì mình có, bên cạnh đó, ở quê,
nhà nào cũng trữ một ít gạch để tiện xây sửa, được trưởng làng huy động, bà con ai
có gì góp nấy. Nhờ vậy mà công việc xây bể chứa không gặp trở ngại hay khó khăn
nào. Chỉ có vấn đề nước là hơi ngặt, nhưng sau khi thử kiểm tra nguồn nước ở kênh
mương, thầy Lương nhận thấy nước ở đây vẫn chưa nhiễm độc nên có thể dùng. Đó
cũng là một điều may mắn nữa cho làng Văn Thái.

Đội thợ 6 người chỉ tập trung vào xây bể, trong số đó có 3 thợ xây lành nghề nên đến
cuối chiều, mọi việc gần như hoàn tất. Lúc này, ông Vọng cũng đã quay về, ông ngồi
trên một chiếc công nông chở theo cái máy bơm cỡ lớn thuê từ trên huyện về. Nhìn
thấy mọi người cũng đã xong công việc, ông Vọng mừng lắm. Mọi công tác chuẩn bị
đều được hoàn thiện ngay trong ngày hôm đó. Máy bơm đã lắp ống dẫn, căng dây
điện chỉ chờ đến ngày mai, khi xi măng nơi bể chứa khô là lập tức bơm nước giếng
đổ vào bể.

Cẩn tắc vô áy náy, ông Vọng muốn cắt cử một người ngủ lại trong đình để trông coi
máy bơm cũng như bể chứa. Lưỡng lự một lúc không ai dám nhận bởi có gan đến
mấy thì chuyện người chết dưới giếng, cũng như việc lang Phan treo cổ trên cây
nhãn cũng đều là những sự việc diễn ra khu vực gần với đình làng.

Nhưng rồi cuối cùng người lãnh trách nhiệm này chính là Sửu, Sửu nói :

-- Chỉ là ngủ lại một đêm ở đình thôi mà, có gì đâu…..Đêm nay tôi sẽ ở lại đây.

Tuy nói vậy nhưng khuôn mặt Sửu có chút hơi tái, đợi những người kia ra về, còn lại
thầy Lương, Sửu và ông Vọng, thầy Lương đáp :

-- Đình làng vẫn là nơi linh thiêng nhất, tuy hiện tại trong làng xảy ra nhiều chuyện
bất ổn nhưng nơi đây là nơi thờ cúng cả trăm năm qua. Tuy nhiên cẩn tắc vô áy náy,
tôi có một đạo bùa trừ ma, chỉ cần cậu đeo nó bên người thì ma quỷ sẽ không nhìn
thấy mà quấy phá cậu được.

Nghe thấy thế Sửu mừng hẳn, cả đời chưa gặp ma bao giờ, bản thân Sửu cũng rất tin
vào tâm linh. Nhưng nay vì mọi người, Sửu đành nhận công việc ngủ lại đình để
trông coi, nói thế không phải là Sửu không sợ, thầy Lương lấy trong tay nải ra một cái
túi vải có nhiều màu sắc. Miệng túi vải có một sợi dây buộ, cũng là để đeo vào tay.

Thầy Lương nói :

-- Đây là bùa ngũ sắc, một loại bùa tránh tà, trừ ma. Túi vải này được may bằng chỉ
ngũ sắc. Bên trong này có bỏ một số loại hạt như hạt mùi, hồng hoang và quả hồng
khô. Đeo thứ này bên mình cậu sẽ không bị ma quỷ quấy rầy, ngoài ra mùi hương từ
bùa ngũ sắc còn giúp cho người đeo nó tránh được rắn độc, nhện độc muốn lại gần.
Nhưng nhớ lời tôi dặn, ban đêm đừng bước chân ra khỏi khuôn viên của đình làng.

Sửu nhận lá bùa rồi cúi đầu cảm ơn thầy Lương rối rít. Cũng đã chập tối, cả ba người
cùng nhau rời khỏi đình, Sửu thì về nhà ăn cơm xong sẽ quay trở lại đình luôn.

Buổi tối hôm ấy, sau bữa cơm đạm bạc, ông Vọng hỏi thầy Lương một lần nữa :

-- Thầy Lương này…? Thực sự tôi sẽ cứu được làng Văn Thái phải không…?

Thầy Lương đáp :

-- Bác là con cháu của Cao Gia, lại là cháu đích tôn của Cao Côn thì điều đó chắc chắn
sẽ được. Tôi cũng đã xem ngày giờ, sáng mai tiến hành bơm nước, đến chính Ngọ,
lúc đó là lúc dương khí cực thịnh, chướng khí sẽ bị trấn áp, khi ấy trưởng làng xuống
giếng sẽ an toàn hơn. Còn điều này, vào chính Ngọ, lúc phá giải bùa yểm, không
được ai có mặt tại khu vực đó. Cao Côn đã yểm long mạch suốt 100 năm qua, kể cả
khi bùa yểm được hóa giải cũng sẽ khiến cho linh khí bị áp chế cả trăm năm được giải
phóng, bởi long mạch biến tướng xấu, có chứa độc nên nếu bà con nán lại xem sẽ bị
ảnh hưởng.

Ông Vọng hỏi :

-- Vậy có phải lập đàn, làm lễ trước khi phá giải bùa yểm hay không, thưa thầy..?

Thầy Lương trả lời :

-- Không cần, cả ngày hôm nay tôi đã xem xét kỹ vị trí, địa hình xung quanh giếng
làng, cũng đã bày bố những điểm trọng yếu xung quanh long mạch, việc làm lễ không
cần đến nữa. Chỉ cần trưởng làng thực hiện đúng với những gì mà tôi dặn sau đây.
Khi xuống đến đáy giếng, nếu thấy một hòn đá có hình đầu lâu, trên hòn đá có chữ ”
高” thì đầu tiên hãy gõ vào hòn đá 3 lần. Nếu hòn đá đầu lâu đó tách hoặc vỡ ra thì
tiếp tục nhìn vào trong đó. Bên trong hòn đá đầu lâu sẽ có một đoạn xương cắm vào
lòng giếng. Muốn hoá giải bùa yểm thì cần phải rút đoạn xương đó ra khỏi đáy giếng.
Nhưng trưởng làng không được rút ngay, trước khi rút, trưởng làng phải nhỏ lên
đoạn xương đó 3 giọt máu của mình. Máu thấm hết vào xương thì khi ấy mới được
rút đoạn xương đó lên. Còn một chuyện nữa…..

Thấy thầy Lương bất chợt dừng lại, ông Vọng gặng hỏi :

— Còn điều gì thầy cứ nói.

Thầy Lương đăm chiêu nhìn ông Vọng, lát sau thầy tiếp tục :

— Như tôi đã nói trước đây, kẻ nào giấu long mạch, kẻ đó sẽ bị rút ngắn tuổi thọ.
Một người như Cao Côn, am hiểu phong thuỷ, địa mạch, dương thọ của ông ta chắc
chắn phải hơn 100 tuổi. Nhưng theo phổ truyền, Cao Côn chỉ thọ 70 tuổi. Đó là vì
Cao Côn đã dùng tuổi thọ của mình để trấn yểm long mạch. Việc phá giải cũng như
vậy, để rút được đoạn xương đó ra, trưởng làng cũng sẽ bị rút ngắn tuổi thọ. Năm
nay trưởng làng đã ngoài 50 tuổi. Tôi e rằng….nếu phá giải bùa yểm xong….sợ rằng….

Ông Vọng nhắm mắt lại, ông khẽ cúi xuống đan hai bàn tay vào nhau, rồi ông ngẩng
lên nhìn thầy Lương mỉm cười :

-- Thầy lo rằng tôi sẽ chết nếu hóa giải bùa yểm của ông nội mình phải không..?
Không sao đâu, nếu đó là việc mà tôi có thể làm để cứu lấy toàn bộ dân làng Văn
Thái, để mảnh đất nơi tôi sinh ra và lớn lên được bình yên thì chẳng có gì phải suy
nghĩ cả. Hơn nữa, ngay từ đầu là họ Cao đã sai, tôi là người duy nhất còn sống của
Cao Gia, và tôi phải kết thúc chuyện này. Có lẽ đây là lý do mà ông trời để tôi sống
đến tận bây giờ.

Vừa nói ông Vọng khẽ rơi nước mắt nhưng ông vội gạt đi ngay. Dù có thế nào đi nữa
thì ông Vọng vẫn là máu mủ của Cao Gia. Cả họ Cao trong đó có cả bố mẹ ông đều bị
dân làng Văn Thái giết chết, nhưng bản thân ông lại được chính người dân làng Văn
Thái nuôi nấng. Dù chưa từng biết mặt bố mẹ đẻ, nhưng trong lòng ông Vọng không
khỏi đau xót cho số phận của Cao Gia.

Đứng dậy, ông Vọng thắp hương rồi quỳ trước ban thờ bố mẹ mình, ông nói :

-- Con không biết tại sao Cao Gia bị thảm sát, nhưng suốt bao năm qua, bố mẹ không
một lần nói cho con về bí mật này chắc hẳn bố mẹ không muốn con gặp nguy hiểm.
Từ nhỏ, con lớn lên trong sự bảo bọc của hai người, chưa bao giờ con dám nghĩ con
không phải con của bố mẹ. Cảm ơn bố mẹ đã cho con được sống đến ngày hôm nay,
nếu lỡ ngày mai con không còn sống được nữa, con hi vọng ở dưới suối vàng, lúc con
đứng bên hoàng tuyền, bên kia là bố mẹ đang đợi con.

Quỳ gối lạy ba lạy, ông Vọng đứng lên cắm nhang vào bát hương, nước mắt ông
không ngừng rơi xuống. Bản thân thầy Lương cũng cảm kích vô cùng trước hành
động của ông Vọng. Giữa ranh giới sự sống và cái chết, ít ai dám hi sinh bản thân vì
mọi người như ông Vọng.

Nhìn ông Vọng, thầy Lương khẽ gật đầu, ông im lặng không nói gì thêm bởi những gì
cần dặn dò ông đã nói hết rồi…….Mọi chuyện sẽ chờ đến ngày mai.

#Chap37 : Đêm Ngoài Đình Làng.


Buổi tối ngày hôm đó, trở về nhà ăn cơm xong, Sửu đem theo một cái chăn mỏng rồi
nói với vợ :

-- Bu nó ở nhà nhé, tôi đi ra đình làng đây. Hai mẹ con đóng cửa ngủ trong nhà cẩn
thận. Làng mình đang xảy ra nhiều chuyện lắm.

Vợ Sửu gói hai củ khoai luộc vào lá chuối rồi dúi vào tay chồng :

-- Anh mang theo đói thì ăn, anh đi là mẹ con em khóa trái nhà cửa lại luôn. Cẩn thận
anh nhé.

Sửu gật đầu :

-- Đừng lo, chỉ là ngủ ngoài đó 1 đêm thôi mà. Sáng mai mọi người cũng ra sớm bơm
nước nên bu nó đừng lo. Mình sống xưa nay không hại ai, vậy nên cũng chẳng lo có
ai hại mình. Thôi, tôi đi đây.

Sửu xoa đầu con rồi rời khỏi nhà, nói cho vợ yên tâm chứ ra khỏi nhà, bước trên con
đường đất heo hút, tối om, hai bên đường toàn tre là tre, tiếng lá tre xào xạc thôi
cũng đủ khiến Sửu cảm thấy ớn lạnh rồi. Đi qua nhà ông Vọng, thấy bên trong nhà
vẫn sáng ánh đèn, Sửu định tạt vào chào, nhưng nghĩ trời cũng tối rồi, phải ra sớm
trông coi đồ đạc, hơn nữa những gì cần dặn, thầy Lương cũng dặn hết cả rồi, thế là
Sửu đi qua luôn.

Trước khi xảy ra chuyện, khu vực giếng làng là nơi mỗi buổi chiều đến, trẻ con, người
lớn tụ tập ra đây, người thì gánh nước, trẻ con thì tắm rửa chơi đùa, chúng nó cởi
truồng trượt trên nền gạch trơn trượt bao quanh thành giếng rồi cười vang làng,
vang xóm. Kể từ hôm có cảnh báo nước giếng bị nhiễm độc, dân làng không ai dám
bén mảng đến khu vực này nữa. Rồi sau đó là cái chết của Mão, suốt cả ngày hôm
trước cho tới ngày hôm qua, buổi sáng không ai ra đường luôn chứ đừng nói bây giờ
trời đã tối. Nói đâu xa, ngay như gia đình Sửu, Sửu cũng dặn vợ con không được đi ra
ngoài.

Sợ thì tất nhiên là sợ, nhưng là một người dân làng Văn Thái, lại có con nhỏ, đã từng
đi theo thầy Lương tìm hiểu một số chuyện, Sửu biết, chậm trễ ngày nòa, mọi người
sẽ nguy hiểm ngày đấy. Một vài hộ trong làng có con đi làm ăn xa còn có nơi để đi,
chứ như gia đình Sửu, mấy đời gắn bó tại làng, giờ mà đi thì biết di đâu. Bởi vậy, giúp
được gì cho làng, Sửu đều cố gắng hết sức mình.

Cầm đèn pin, bước vào khuôn viên của đình, Sửu soi một vòng cái bể mà chiều hôm
nay Sửu cùng mọi người mới làm xong. Khẽ chạm nhẹ vào lớp xi măng, Sửu có chút
lo lắng bởi chỉ qua một đêm, sợ rằng xi sẽ không kịp khô, mặc dù trong lúc làm, mấy
anh em đã dùng đủ mọi thủ thuật để sau khi xong, phần vữa trát sẽ khô nhanh nhất
có thể. Máy bơm, dây điện, đường ống….tất cả đều đã được để trong sân đình, chỉ
đợi đến sáng mọi người đến là tiến hành bơm nước.

Nói chung, cho đến thời điểm hiện tại mọi thứ vẫn ổn. Trong đình có lắp bóng đèn,
lúc chiều Sửu cũng cẩn thận căng dây điện, đấu bóng sáng trưng ngay khu vực bể
cùng chỗ để máy bơm. Giờ vào đình, Sửu chỉ việc cắm điện là mọi thứ sáng trưng.

Sửu cười :

-- Hề hề, sáng thế này thì cũng đỡ sợ.

Thời gian chậm rãi trôi qua, đèn điện có sáng thật, nhưng ở một mình trong ngôi
đình rộng, bao quanh đình là đồng ruộng, cây cối, ngay cả trong khuôn viên của đình
cũng có mấy bụi trúc khá rậm rạp. Ban ngày nhìn thì chẳng sao, giờ tối đến, nhìn cái
gì cũng thấy ghê rợn. Mỗi lần gió thổi qua, mấy bụi trúc lại xôn xao, xào xạc, cành lá
rung chuyển, dưới ánh đèn điện, bóng của chúng đổ xuống đưa qua đưa lại giống
hệt bóng người đang lắc lư.

Không dám nhìn về phía đó, Sửu quay mặt đi chỗ khác. Cứ được một lát thì gió lại
ngừng thổi. Nhưng tiếng gió dừng thì tiếng ếch nhái bên ngoài ruộng lại vang lên ồm
ộp. Đem theo cả cái đồng hồ báo thức bằng nhựa, tròn tròn to bằng lòng bàn tay đã
cũ. Được một lúc Sửu lại nhìn vào xem mấy giờ rồi, lúc Sửu ra đây là 7h tối, ngồi bao
nhiêu lâu, cảm tưởng thời gian phải trôi nhanh lắm rồi mà nhìn lại, đồng hồ bây giờ
mới chỉ đến 8h tối. Nghĩa là mới trôi qua 1 tiếng, Sửu nuốt nước bọt lẩm bẩm :

-- Trời đất ơi, giờ mới 8h thì bao giờ mới đến sáng ngày mai.

Đương nhiên la Sửu nghĩ chỉ cần ngủ một giấc là sáng, nhưng khổ nỗi, ở nhà nghĩ
vậy, nhưng ra đến đây nằm mãi cũng không ngủ được. Thò thò vào cái túi đựng
chăn, đang định lấy cái chăn ra đắp thì Sửu mò thấy cái gì đó cưng cứng, Sửu ồ lên :

-- Mèng ơi, suýt quên….Chậc chậc, đây rồi, có cái này thì ngủ ngon luôn.

Sửu lôi trong chăn ra một chai rượu chừng nửa lít, sớm ở nhà, lúc cho chăn vào trong
túi là Sửu đã găm thêm chai rượu đem theo rồi. Ra đến đình, nhìn đâu cũng hoang
mang nên Sửu quên mất. Càng về khuya thì trời lại hơi se se lạnh, sẵn hai củ khoai vợ
bảo cầm theo chống đói, Sửu đem khoai ra nhậu với rượu luôn.

Có tí tửu vào người nó ấm hẳn lên, mà công nhận phải nói rượu đúng là tinh hoa của
con người. Làm hớp đầu tiên thấy nóng nóng, làm hớp thứ hai lại thấy cay cay, êm
êm…..Cứ thế Sửu uống hết chai rượu lúc nào không hay, rượu vào, ban nãy mấy cái
bụi trúc còn khiến Sửu sợ, bây giờ nhìn những cành trúc bị gió đưa qua, đưa lại Sửu
lại thấy vui mắt, tiếng ếch nhái kêu khi nãy Sửu thấy ồn ào, bây giờ thì lại thấy vui tai,
sao lo lắng, sợ hãi khi nãy theo men rượu bay biến hết. Mắt hoa hoa, người lâng
lâng, nhìn đâu cũng quay cuồng….Đúng là rượu vừa ngon lại còn vừa nặng, tang
rượu này bình thường ở nhà Sửu chỉ làm vài chén, hôm nay chơi hết cả nửa lít, bảo
sao mà không phê.
Nhưng phê tốt, ngồi thêm lúc nữa thì Sửu lăn quay ra luôn trước hiên đình ngủ say
như chết, thân hình vạm vỡ như con trâu, Sửu vừa ngủ vừa ngáy chẳng biết trời đất
gì luôn.

Cho đến nửa đêm, Sửu vẫn đang ngủ, tiếng ngáy vẫn chưa bị trật một nhịp nào.
Nhưng đột nhiên, cái bóng đèn treo ngoài sân đình bỗng nhiên chớp tắt liên tục…

“ Xoẹt….xoẹt...rẹt...rẹt…”

“ Phụp “

Bóng đèn tắt ngúm, bốn xung quanh tối đen như mực bởi lúc này đã là nửa đêm, khi
nãy gió vẫn còn hiu hiu thổi thì giờ đây cũng yên lặng, tiếng ếch nhái, côn trùng tất cả
cũng im bặt.

“ Khò…..Khò…..Khò…”

Âm thanh duy nhất đang vang lên trong màn đêm lúc này là tiếng ngáy của Sửu.
Không gian tĩnh lặng một cách bất thường.

“ Tích...Tắc...Tích...Tắc. “

Cái đồng hồ đặt ngay bên cạnh đầu Sửu đang nhích dần từng kim giây rồi trong
khoảnh khắc, khi cả kim giờ và kim giây cùng dừng lại ở con số 12 thì đồng hồ bỗng
dưng ngừng chạy.

Sửu cũng không còn ngáy nữa, tiếng ngáy của Sửu đột nhiên dừng lại. Không biết do
đâu, hay là do dù đang ngủ nhưng Sửu cũng cảm nhận được sự thanh vắng của
không gian xung quanh hay sao mà đang ngủ say, Sửu giật mình mở to mắt rồi lập
tức ngồi bật dậy.

Điều đầu tiên Sửu thấy đó chính là mọi thứ đều im lìm một cách đầy ghê rợn. Nhưng
không, sự tĩnh lặng đó đang dần bị phá vỡ bởi những tiếng cười cứ mỗi lúc một to
dần :

“ Hi….hi….hi…...Hi….hi...hi “

Sửu nuốt nước bọt, không dám cả thở mạnh, Sửu cố nghe rõ lại một lần nữa có đúng
là có ai đó đang cười hay không..?

“ Hí….hí….hí…..Hi….hi….hi..”

Lần này tiếng cười đã vang hơn, rõ hơn, có cảm giác gần hơn nhưng nhìn thẳng ra
phía cổng đình làng thì chẳng thấy có ai cả, bên ngoài tối đen như hũ nút.

Và rồi, đến lần thứ 3 thì Sửu không còn nghi ngờ gì nữa, đúng là có người đang cười,
mà không phải chỉ có 1 người, có ít nhất là ba điệu cười khác nhau đang vang lên, mà
đều là tiếng cười của trẻ con, cứ như thể có một đám nhóc đang chạy nhảy, chơi đùa
với nhau vậy.

“ Tích...tắc “

Tiếng kim đồng hồ chạy khiến cho Sửu giật mình, đã hơn 12h đêm. Nửa đêm, nửa
hôm, trẻ con nào lại nô đùa trong làng như vậy cơ chứ, tiếng cười đó phát ra ở
khoảng khu vực giếng làng phía trước cổng đình.

“ Bắt….tớ….đi…..Tớ...ở...đây...nè…”

“ He...he...he….He….he...he…”

Không chỉ có tiếng cười mà Sửu còn nghe rõ có cả tiếng nói nữa, đích thị là giọng trẻ
con. Toàn thân Sửu bắt đầu run lên rồi nổi da gà, Sửu tự hỏi :

-- Chẳng….lẽ….là….ma…..?

Ma thì ai cũng nghe, nhưng nhìn thấy ma thì hầu như chẳng ai nhìn thấy. Tiếng cười
với giọng nói đó phát ra ở khu vực giếng. Sửu đang rất sợ, sợ đến độ run cầm cập
luôn. Nhưng trong một thoáng suy nghĩ, Sửu lại thắc mắc, nếu lỡ như ngoài đó có
con cái nhà ai thật thì sao…? Mặc dù suy nghĩ này hơi bất thường, nhưng không phải
là không thể, nhà quê, trong làng có những hộ đẻ đến 3-4 đứa, bố mẹ chúng nó có
người hay đi soi đêm để câu ếch, bắt chim. Lỡ đâu nhà nào bố mẹ đi rồi bọn trẻ con
lại bỏ ra ngoài chơi thì sao…? Chứ ma sao lại nói tiếng người rõ thế được chứ, mặc
dù vô cùng sợ, nhưng cứ nghe thấy tiếng cười khúc khích, rồi tiếng đùa nghịch phía
bên ngoài đình là Sửu lại thấy bồn chồn.

Nén lại nỗi sợ, Sửu cầm đèn pin đứng dậy quyết định đi ra phía giếng làng xem sao.
Có lẽ do rượu một phần, cũng do tò mò, lo lắng nên Sửu quên mất lời mà thầy Lương
dặn lúc chập tối :

“ Nhớ ban đêm, đừng bước chân ra khỏi khuôn viên của đình “

Sửu lia đèn pin đi ra, đình làng cách giếng không xa, chỉ đi một đoạn là đến. Càng đi
đến gần giếng thì tiếng cười lại càng rõ hơn.

Nhưng khi Sửu dừng lại ngay chỗ giếng làng thì không còn nghe thấy bất cứ một âm
thanh nào cả. Bốn bề tối om, Sửu chiếu đèn pin vào thành giếng, không có ai, nhưng
khi đèn pin lia cao hơn một chút đến gốc cây lộc vừng thì Sửu tá hỏa giật nảy mình,
đang đứng úp mặt vào gốc cây là một cô bé chừng mười 13-14 tuổi, tóc thả dài
nhưng rối bù xù, nó mặc một bộ quần áo vừa bẩn lại vừa rách phải vá nhiều chỗ.

Còn chưa biết mình gặp người hay ma thì Sửu nghe thấy tiếng con bé đang đếm :

-- 1…..2…..3…...Nhìn…..thấy…..rồi…..nhé….he….he….he….
#Chap38 : Khoảnh Khắc Trước Chính Ngọ.
Sửu lạnh cóng hết cả người, vì đứa bé úp mặt vào gốc cây nên không biết được nó là
con nhà ai, nhưng khi nãy trong đình, Sửu nghe thấy có mấy điệu cười khác nhau,
nhưng giờ ra đến đây thì chỉ có một đứa bé gái. Sửu soi đèn pin vào người nó rồi run
run hỏi :

-- Này….này….cháu...là con cái...nhà ai...đấy…? Nửa...nửa đêm...còn ra...đây


làm...gì…?

Mặc cho ánh đèn pin soi phía sau lưng, đứa bé gái vẫn úp mặt vào gốc cây, Sửu nói
xong thì nó lại cười :

-- Hi...hi...hi….Thấy….rồi...nhé….Hi...hi...hi…

Nuốt nước bọt, đêm khuya thanh vắng, đứng ngay cái giếng hôm qua mới có người
chết đuối, giờ lại xuất hiện một đứa bé gái chơi trốn tìm dưới gốc cây lộc vừng, hỏi
nó không đáp mà chỉ cười. Sửu thấy không ổn, mà đúng là mọi thứ đã không ổn từ
lúc bóng đèn trong đình làng chập choạng rồi vụt tắt rồi mới đúng. Sửu lùi dần dần
lại từng bước một, Sửu vừa lùi vừa nhìn vào đứa bé gái, nó vẫn đứng im úp mặt vào
gốc cây không hề di chuyển. Vô tình Sửu bước hụt, tay cầm đèn pin hẫng lên cao
khiến cho ánh đèn soi thẳng lên cành lá um tùm của cây lộc vừng.

Và rồi, Sửu hét toáng lên xong quay lưng, ba chân bốn cẳng bỏ chạy trối chết. Khi
ánh đèn pin soi lên cây lộc vừng, Sửu nhìn thấy đang ngồi vắt vẻo trên cành cây, núp
núp sau những tán lá phải có đến 3 đứa trẻ con không mặc quần áo, nước da tái
nhợt, dưới ánh sáng của đèn pin, những cặp mắt của chúng đỏ lòm đang nhìn chăm
chăm vào Sửu.

-- Ma….ma…..cứu….tôi...với…Hộc….hộc...hộc…

Quá sợ hãi, Sửu vừa chạy vừa kêu cứu, Sửu chạy đến tuột cả dép nhưng không dám
quay lại nhặt, bởi Sửu càng chạy thì tiếng cười khúc khích của bọn trẻ con lại như
đang ở ngay phía sau lưng của Sửu :

“ Hi...hi...hi…..đứng….lại….hi...hi.hii”

“ He..he….he...tìm...thấy...rồi...nhé….”

Sửu toát mồ hôi lạnh, ướt hết cả cái áo mặc dù nửa đêm trời se lạnh chứ không hề
nóng bức. Quãng đường từ đình ra giếng giờ đây cảm tưởng Sửu chạy mãi không
hết, đến lúc này Sửu mới nhớ ra lời thầy Lương dặn là dù có chuyện gì cũng không
được rời khỏi khuôn viên đình làng, chập tối, thầy Lương còn dặn thêm đình làng là
nơi thờ cúng cả trăm năm nay, dù làng đang gặp nhiều chuyện nhưng trong đình vẫn
là nơi linh thiêng, ma quỷ không dám bén mảng lại gần. Bây giờ chỉ cần chạy được
vào đến trong đình là Sửu thoát được nỗi ám ảnh khủng khiếp này, ít nhất là Sửu
nghĩ vậy.

Nhưng không, ma quỷ thì ai cũng đã được nghe nhiều, nhưng đâu ai biết hình dáng
của chúng ra sao. Ngay khi nhìn thấy cổng đình, chỉ còn vài bước chân nữa thôi là
Sửu có thể chạy được vào trong sân thì đột nhiên Sửu đứng khựng lại. Vừa có gì đó
bám chặt lấy hai bàn chân của Sửu, nhìn xuống dưới Sửu không dám hét lên bởi cái
thứ nặng trịch đang bám lấy Sửu chính là hai đứa trẻ con, chẳng biết chúng đã bám
từ bao giờ, nhưng lúc này chúng đang nằm nhoài dưới mặt đất, hai tay túm chặt lấy
chân Sửu. Chúng nhìn Sửu bằng ánh mắt đỏ lòm rồi nhe cái miệng trắng ởn ra cười
man dại :

“ He he he….He...he he…”

“ Bắt..được...rồi...nè…..He..he...he….”

Sửu rất khỏe, nhưng giờ đây toàn bộ cơ thể không nhúc nhích được, chân như đeo
chì nặng trĩu, Sửu nhớ mình có đeo lá bùa ngũ sắc, mà theo thầy Lương nói chỉ cần
đeo tấm bùa đó, ma quỷ sẽ không quấy rầy được Sửu, nhưng không, lúc này nhìn lại,
cổ tay Sửu không có lá bùa nào cả. Có lẽ khi nãy uống rượu say rồi nằm lăn ra ngủ, lá
bùa đã vô tình rơi ra mà Sửu không hề hay biết.

Bọn trẻ ma kia từ từ leo lên người Sửu, chúng trườn bên này, rồi vắt sang bên nọ,
Sửu muốn kêu cứu nhưng không thể nói, cổ họng cứ như đang bị bóp chặt, đến hơi
thở cũng mỗi lúc một khó hơn, hai đứa trẻ ma bò lên đến vai của Sửu thì ngồi mỗi
đứa một bên, vung vẩy đôi bàn chân nhợt nhạt, chúng cười đùa rồi mỗi đứa một bên
bóp chặt lấy phần cổ của Sửu rồi siết mạnh, Sửu bắt đầu thấy đau và khó thở, nhưng
lại không thể lên tiếng. Thứ mà Sửu nghe được lúc ấy chỉ là tiếng cười văng vẳng hai
bên tai.

“ Hi….hi...hi…”

“ He...he...he…”

Ánh mắt Sửu dần mờ đi, mặt tím tái lại vì không thở nổi, trong khi trợn ngược mắt,
chảy nước dãi, Sửu nhìn thấy đứa bé gái đứng ở hốc cây lộc vừng khi nãy đang ở
trước mặt mình, mái tóc của nó xõa kín khuôn mặt. Nó đang đưa tay lên đặt tay của
nó vào bụng của Sửu…….Nhưng rồi Sửu cứ thế lịm đi cho đến khi mất hẳn ý thức,
tiếng cười, giọng nói không còn nữa, điều cuối cùng mà Sửu cảm nhận được chính là
cảm giác như cơ thể nhẹ tênh như đang bay lơ lửng trên không trung…….

[........]

-- Thằng cha này ngủ say thế, này, dậy, dậy đi….

Một người trong đội thợ ngày hôm qua vừa lay người Sửu vừa gọi, Nhưng Sửu vẫn
nằm im không có biểu hiện gì là sẽ tỉnh. Ông Vọng thấy vậy hỏi :
-- Vẫn chưa gọi dậy được à..?

Lực mới tiến lại hiên đình, ngay chỗ Sửu nằm, cầm chai rượu đã cạn sạch đưa lên
mũi ngửi ngửi, Lực nói :

-- Ông này hôm qua chắc uống rượu say nên ngủ giờ gọi còn không chịu dậy.

Dự cảm có chuyện không lành, thầy Lương ngồi xuống nhìn kỹ gương mặt của Sửu,
Sửu vẫn đang thở, nhưng có điều hơi thở không đều, thầy Lương khẽ cau mày khi
nhìn thấy lá bùa ngũ sắc chiều tối ngày hôm qua đưa cho Sửu đang nằm bên ngoài
mép chiếu. Nhận ra điều gì đó bất ổn, nhưng không để mọi người lo, thầy Lương
nói :

-- Cậu ta say rượu rồi, thôi giờ mọi người chuyển máy bơm ra bên ngoài giếng rồi đặt
ống dẫn nước vào trong bể này. Cũng may bể chứa đã khô, mọi người làm việc nhớ
cẩn thận, đeo găng tay, mặc áo mưa để tránh bị nước giếng bắn vào người. Khi nào
mọi thứ đã xong xuôi mới được bơm nước.

Lực cùng những người khác vâng dạ rồi chuyển đồ từ trong đình ra ngoài giếng, còn
lại thầy Lương, ông Vọng và Sửu…...Ông Vọng cũng định đi thì thấy thầy Lương hạ
tay nảy xuống rồi lấy ra một bộ đồ nghề châm cứu, chọn lấy một cây kim mảnh, thầy
Lương day day vào phần trán của Sửu rồi châm cây kim vào chính giữa ấn đường.

Khẽ xoay nhẹ cây kim 3 vòng, tiếp đó thầy Lương rút kim ra, từ ấn đường của Sửu
nơi vị trí vừa bị kim đâm vào liền chảy ra một giọt máu đen xì, chưa dừng lại ở đó,
thầy Lương tiếp tục nặn máu đen từ ấn đường ra cho đến khi máu đó chuyển thành
màu đỏ thầy Lương mới dừng tay lại.

Lau máu chảy ra, thầy Lương khẽ gật đầu, thấy vậy ông Vọng vội hỏi :

-- Có...có chuyện gì vậy thưa thầy…?

Thầy Lương đáp :

-- Đêm qua chắc hẳn đã xảy ra chuyện gì đó, cậu ta không phải say rượu mà ngủ đâu.
Nhìn kỹ khuôn mặt cậu ta, tôi thấy ấn đường có một vệt đen như sợi chỉ kéo dài tới
tận đỉnh đầu. Không hiểu tại sao cậu ta lại bị tà ám khiến cho chướng khí xâm nhập
vào cơ thể. Tuy không ảnh hưởng tính mạng nhưng nếu không trục tà khí ra khỏi cơ
thể thì phải 2 ngày nữa cậu ta mới có thể tỉnh lại, sau đó cơ thể sẽ mệt mỏi, có thể
dẫn đến ốm đau, bệnh tật. Nhưng đừng lo, tôi đã giúp cậu ấy xong rồi, sẽ tỉnh lại
ngay thôi. Máu đen tôi vừa lấy ra từ ấn đường của cậu Sửu chính là tà khí xâm nhập
vào cơ thể. Sẽ tỉnh lại ngay thôi….

Ông Vọng lo lắng hỏi tiếp :

-- Chẳng phải thầy đã cho cậu ấy lá bùa rồi cơ mà…?
Thầy Lương nói :

-- Bác trưởng làng nhìn kìa, lá bùa nằm ngoài mép chiếu. Đêm qua cậu ta không giữ
bùa trong người. Còn nữa, lòng bàn chân của cậu ta lấm bẩn, là loại đất đường, ở
đây chỉ có 1 chiếc dép, nếu tôi đoán không nhầm, đêm qua cậu Sửu này đã đi ra khỏi
đình. Cậu ta không nghe lời dặn, và đã gặp phải điều gì đó. Nhưng may mà vẫn giữ
được tính mạng.

Vừa lúc đó thì Sửu dần dần mở mắt, nhìn thấy thầy Lương và ông Vọng, Sửu ngồi bật
dậy, nhưng đầu óc vẫn còn choáng váng, Sửu ú ớ :

-- Thầy Lương….Bác trưởng làng…? Tôi vẫn...còn...sống…?

Thầy Lương mỉm cười :

-- Yên tâm, cậu vẫn còn sống….

Sửu giật mình nhớ lại toàn bộ truyện đêm qua, vừa lúc đó có một người đi vào trong
gọi ông Vọng ra xem mọi thứ chuẩn bị đã được chưa để còn bật máy bơm. Sửu
hoang mang định kể luôn mọi chuyện với thầy Lương, nhưng bị thầy ngăn lại :

-- Đừng vội, mọi chuyện để sau, trước mắt chúng ta phải tập trung làm cho xong
công việc hôm nay đã.

Bước ra ngoài giếng, máy bơm, đường ống dẫn, tất cả đều đã lắp đặt xong xuôi, bây
giờ chỉ cần khởi động là bắt đầu bơm nước từ giếng vào cái bể chứa ở giữa sân đình.
Trước khi chuẩn bị bơm, Lực thắc mắc :

-- Thầy Lương này, liệu bể chứa có đủ để chứa lượng nước giếng hay không…? Mặc
dù chúng ta xây một cái bể khá lớn, nhưng tôi e là….

Thầy Lương mỉm cười :

-- Đừng lo, sẽ ổn thôi….Giếng này không quá sâu, chỉ khoảng 4 trượng. Nhưng do
giếng chưa bao giờ cạn nước, lại là giếng làng, được coi là nơi linh thiêng nên chưa ai
từng nghĩ đến việc sẽ xuống đáy giếng, hay đo độ sâu của giếng. Điều này tôi đã hỏi
bác trưởng làng rồi. Và tôi cũng đã đo đạc chính xác độ sâu của giếng. Căn cứ vào
mực nước trong giếng hiện nay thì bể chứa có thể chứa được toàn bộ lượng nước
trong giếng.

Ông Vọng bất ngờ hỏi :

-- Thầy đã đo độ sâu của giếng từ lúc nào vậy…? Và đo bằng cách nào..?

Thầy Lương cười rồi trả lời :

-- Ban đầu tôi cũng nghĩ giếng sẽ rất sâu, việc đo đạc cũng rất đơn giản, tôi dùng một
cuộn dây mảnh chuyên dụng, trên dây đã có đánh dấu từng trượng. Khi đo giếng tôi
chỉ cần cột một hòn đá vào dây sau đó thả xuống giếng. Khi nào đá chạm đáy giếng,
dây không thả được nữa sẽ nổi lên mặt nước. Căn cứ vào vạch đo trên dây tôi biết
được giếng này sâu bao nhiêu. Từ đó tính toán việc xây bể chứa sao cho phù hợp.

Nghe đến đây thì ông Vọng cũng như Sửu với Lực phải cảm thấy nể phục thầy Lương
thêm bội phần. Mọi việc thầy Lương làm đều có tính toán cẩn thận, chi li, tỉ mỉ chứ
không phải làm bừa, làm bãi. Mọi thứ đều đã yên tâm, trước khi bơm nước, thầy
Lương dặn dò mọi người :

-- Sau khi giếng cạn nước, mọi người lập tức ra về. Tôi với bác trưởng làng sẽ ở lại,
việc hóa giải bùa yểm trấn giữ long mạch rất nguy hiểm, mọi người ở đây không
tránh khỏi ảnh hưởng, nếu không may xảy ra chuyện gì sẽ khiến tôi phân tâm không
thể tiếp tục được.

Dĩ nhiên tất cả đều đồng ý, nếu không phải vì làng thì chẳng ai muốn bén mảng ra
đây cả. Tiếng máy bơm được khởi động, mọi người hồi hộp chờ đợi, và rồi, nước từ
trong giếng bắt đầu theo đường ổng chảy vào bể chứa trong sân đình…..Ông Vọng
khẽ nở một nụ cười, gương mặt vẫn lộ ra những nét đầy lo lắng, nhưng ông đã
chuẩn bị tinh thần. Ông đưa mắt ngắm nhìn mọi thứ xung quanh, ông nhìn vào ngôi
đình gắn bó từ thuở nhỏ, ông nhìn giếng nước, nhìn cây lộc vừng đã bắt đầu xuất
hiện một vài chiếc lá héo úa, ông nhìn cánh đồng, ông phóng ta tầm mắt nhìn về
hướng con đường với hai bên là những rặng tre xanh mướt dẫn về ngôi nhà của
ông….bởi chỉ một khoảng thời gian nữa thôi, có thể sau đây ông không còn được
nhìn thấy những thứ đó nữa.

Và ông nhớ đến cậu con trai đi làm ăn xa của mình…….Nước mắt ông khẽ rơi xuống
nghẹn ngào.
#Miếu_Hoang - Tác Giả Trường Lê.

#Chap39 : Thiên Kiếp.


Mọi việc diễn ra rất suôn sẻ, khi nước giếng đã được bơm lên gần cạn cũng là lúc trời
chuyển dần về trưa. Sửu chạy lại thông báo :

-- Thưa thầy, chỉ còn một chút nữa thôi là cạn tới đáy rồi.

Thầy Lương bước lại gần giếng rồi nhìn xuống, đúng là đã gần cạn, thầy Lương nói :

-- Cậu nói với mọi người cũng đã đến trưa, mọi người quay về nhà nghỉ ngơi. Việc
còn lại ở đây cứ để tôi lo liệu.

Sửu có phần ngập ngừng :

-- Nhưng chỉ có thầy và trưởng làng liệu có ổn không ạ…?

Thầy Lương gật đầu :


-- Đừng lo lắng, tôi đã có dự liệu.

Qua những việc đã xảy ra, được chứng kiến cách mà thầy Lương làm việc, giờ nghe
thầy nói như vậy Sửu cũng không dám hỏi gì thêm. Thông báo với những người khác
ra về để cho thầy còn liệu sự, mọi người về hết, lúc này chỉ còn thầy Lương và ông
Vọng.

Thầy Lương nhìn ông Vọng nói :

-- Bác trưởng làng vẫn quyết định không muốn cho ai biết việc bác làm để cứu cả
làng sao…?

Ông Vọng trả lời :

-- Điều đó đâu có quan trọng bằng việc làng Văn Thái sẽ bình yên trở lại. Có những
chuyện tốt nhất nên giấu kín thì vẫn hơn. Tôi cũng không muốn người dân phải lo
lắng thêm một điều gì nữa. Dẫu sao, việc này cũng là do họ Cao gây ra, tôi là con
cháu của Cao Gia, tôi phải có trách nhiệm chuộc lại lỗi lầm.

Chỉ còn vài phút nữa là đúng chính ngọ, thầy Lương đã buộc sẵn một sợi thừng vào
gốc cây lộc vừng. Chỉ đợi đến giờ, ông Vọng sẽ đu theo sợi thừng để xuống đáy
giếng. Mọi công tác chuẩn bị đã xong, nhìn xuống giếng, thầy Lương hỏi lại ông Vọng
một lần nữa :

-- Bác trưởng làng đã nhớ kỹ những gì tôi dặn rồi chứ…? Việc hóa giải bùa yểm này
trông cậy tất cả vào bác.

Ông Vọng mỉm cười :

-- Thầy yên tâm, tôi sẽ thành công…..Chỉ có điều, nếu tôi nằm xác dưới đó, cảm phiền
thầy đứa xác tôi lên chôn cất nhé…..Ha ha ha.

Mặc dù chuẩn bị đưa bản thân vào nguy hiểm, nhưng ông Vọng lại cười rất sảng
khoái. Đúng chính ngọ, ông Vọng đu dây xuống đáy giếng một cách thoăn thoắt nhờ
vào những gờ đá nhô ra trong lòng giếng.

Khi ông Vọng vừa đặt chân chạm vào đáy giếng thì bầu trời bên trên bỗng chuyển âm
u mặc dù trước đó còn đang nắng. Điều này cũng khiến ông Vọng cảm thấy bất an, vì
trời đất bỗng dưng tối lại nên dưới này ông Vọng không nhìn rõ được gì cả. Tuy
nhiên, khi xuống giếng, ông Vọng cũng đã cẩn thận đội một chiếc đèn pin đeo đầu
đầu. Khi nãy nước đã được bơm cạn, nhưng giờ những mạch nước ngầm tiếp chục
chảy ra. Quả đúng như lời thầy Lương nói, nước giếng đối với người hay gia cầm, gia
súc rất độc, nhưng đối với ông Vọng thì nó không ảnh hưởng gì cả.

“ Hòn đá có hình đầu lâu “


Ông Vọng soi đèn rồi cúi xuống nhìn kỹ từng hòn đá lởm chởm, nhấp nhô bên dưới
đáy giếng.

“ Ùng….Ùng….Ùng…”

Trời nổ sấm khan, mây đen kéo đến mù mịt, gió bắt đầu thổi mạnh. Thầy Lương ngồi
xếp bằng ngay dưới gốc cây lộc vừng, mặc kệ sấm động, gió lớn, ông vẫn nhắm mắt
bình thản chờ đợi.

“ Xoẹt...Xoẹt…..Xoẹt “

“ Uỳnh “

Trời không mưa, nhưng giữa bầu trời xám xịt ấy, một tia sét xẻ dọc không trung lóe
lên sáng lòa.

Đứng dưới giếng mà ông Vọng cũng còn nhìn thấy tia sét đánh ngang bầu trời. Sau
ánh sét lóe lên, ông Vọng sững sờ khi ông nhìn thấy, ngay trước mặt mình là một hòn
đá rõ hình cái đầu lâu người hiện ra. Mặc dù chỉ mới đây thôi, nó chỉ là một hòn đá
tảng bình thường. Khi hòn đá có hình đầu lâu hiện ra thì nước từ mạch nước ngầm
cũng ngừng chảy, bốn bề tĩnh lặng một cách đáng sợ. Mặc dù bên trên, trời đang nổi
giông gió, sấm chớp ầm ầm, nhưng dưới đáy giếng, ông Vọng như đang ở trong một
khoảng không gian khác, mọi thứ xung quanh ông như đang ngưng đọng, kể cả là
thời gian.

Trước mặt ông Vọng, trên hòn đá đầu lâu đang dần nổi lên một chữ màu đen, chính
là chữ “ 高” mà thầy Lương đã cho ông xem trước đó.

“ Gõ vào hòn đá 3 lần “

“ Cộc...Cộc...Cộc..”

Ông Vọng dùng tay khẽ gõ 3 lần vào hòn đá đầu lâu, ngay lập tức, tảng đá bắt đầu
nứt ra rồi vỡ làm đôi, chia hòn đá đầu lâu làm hai nửa tách sang hai bên.

“ Uỳnh…..Uỳnh…”

“ Ào….Ào...Ào…”

Ngay khi hòn đá đầu lâu bên dưới đáy giếng vỡ ra thì bên trên mặt đất, giông gió
thổi như vũ bão, trời cuộn mây đen, sấm động, chớp giật rung chuyển cả mặt đất.

“ Vù….Ù….Ù….Vù….”

Cây lộc vừng bị gió thổi tưởng chừng như chao đảo, cành lá bị gió vặn kêu răng rắc.
Lúc này thây Lương mởi mở mắt, ông nhìn lên bầu trời, trên trời tính từ miệng giếng
hắt lên, mây ở đó đang cuộn vào nhau như những cơn sóng, trong những đám mây
đen kịt ấy thi thoảng lại chớp lóe ánh sét sáng rực.

Thầy Lương nuốt nước bọt, ông đổ mồ hôi hột, thời tiết biến chuyển cuồng nộ như
thế này đã khẳng định, bên dưới đáy giếng, long mạch bị trấn yểm cả trăm năm qua
đang dần xuất hiện. Nhưng thầy Lương không thể ngờ được rằng, việc phá giải bùa
yểm lại khiến cho đất trời rung chuyển, kinh thiên động địa đến mức này. Đáng sợ
hơn, mọi thứ hình như chỉ mới bắt đầu.

Dưới đáy giếng, khi hòn đá đầu lâu tách ra làm đôi, bên trong tảng đá đích thị là có
một đoạn xương, không, nếu như thầy Lương không nói trước đó là xương thì ông
Vọng cũng không biết được. Vì đoạn xương này có màu đen kịt, đoạn xương cắm
thẳng xuống đáy giếng, chỉ nhô lên một khúc nhỏ bằng 2 đốt tay. Đó chính là xương
sườn của Cao Côn, người đã yểm bùa giấu đi long mạch của vùng đất này, cũng chính
là ông nội của Cao Luân ( tên thật của ông Vọng ).

“ Chỉ có người của Cao Gia mới có thể thấy được đá đầu lâu và cũng chỉ có dòng dõi
Cao Gia mới nhìn thấy được đoạn xương sườn của người trấn yểm, và cũng chỉ có
máu của dòng họ Cao mới phá được bùa chú này. “

“ Nhỏ 3 giọt máu của trưởng làng vào đoạn xương đó, khi máu thấm hết vào đoạn
xương mới được nhổ nó lên “

Những lời thầy Lương dặn dò ông Vọng vẫn nhớ không quên một từ, lấy trong túi ra
một con dao lam nhỏ đã đem theo từ trước, ông Vọng dùng dao lam cứa đầu ngón
tay trỏ của mình rồi nhỏ máu vào khúc xương đen kịt đang cắm vào đáy giếng kia.
Máu nhỏ đến đâu, đoạn xương như hút hết đến đó và rồi nó chuyển từ màu đen
sang màu ngà ngà vàng. Khi giọt máu thứ 3 nhỏ xuống, đoạn xương đó không còn là
màu đen nữa.

“ Người rút đoạn xương đó lên sẽ bị rút ngắn tuổi thọ “

Ông Vọng nhắm mắt, ông đã chuẩn bị tinh thần từ trước, lúc này ông nhớ tới bố mẹ
của mình, ông nhớ tới những năm tháng sống và lớn lên trên mảnh đất này, ông nghĩ
tới người vợ quá cố, và cuối cùng hình ảnh cậu con trai ông hiện lên trong đầu.

Ông Vọng mỉm cười rồi khẽ nói :

-- Ít nhất thì Cao Gia vẫn không tuyệt tự. Cảm ơn trời cao đã cho Cao Gia một con
đường sống. Mạng sống của tôi hi vọng sẽ đổi được bình yên cho làng Văn Thái.

Dứt lời, ông Vọng đưa tay nắm chặt lấy đoạn xương của Cao Côn dùng để trấn yểm
long mạch, ngửa mặt lên nhìn trời cao, bầu trời qua miệng giếng vẫn đen xì, đen kịt.
Ông Vọng nhổ mạnh đoạn xương đó ra khỏi đáy giếng.

Ngay khi đoạn xương được rút ra, không gian tĩnh lặng khi nãy biến mất, lúc này ông
Vọng có thể nghe thấy tiếng sấm chớp, tiếng gió đang thổi rất mạnh, mạch nước
ngầm tiếp tục chảy trở lại, nhưng không chảy rò rỉ như khi nãy nữa, nước dưới đáy
giếng tràn ra rất nhiều.

“ Uỳnh...Uỳnh….Uỳnh “

Phía bên trên, dưới gốc cây lộc vừng, thầy Lương giật mình mở mắt, một cảm giác
khác lạ vừa lướt qua khiến ông rùng mình, nổi da gà.

“ ̀m... ̀m…. ̀m “

Thầy Lương khẽ nói :

-- Thành công rồi…

“ Xoẹt….Uỳnh….”

Khi thầy Lương vừa dứt lời thì đám mây đen đang cuộn sóng trên bầu trời nơi miệng
giếng đã đánh thẳng xuống giếng một tia sét long trời lở đất. Tia sét đánh thẳng
xuống giếng khiến cả khu vực này bị rung chuyển.

Thầy Lương há hốc miệng, ông tròn mắt sững sờ, toàn thân ông run lên bởi dưới
giếng ông Vọng vẫn đang ở đó. Thầy Lương rảo bước đi đến miệng giếng, miệng ông
run run nói :

-- Chẳng….lẽ...đây...đây….chính là….thiên...kiếp...giáng...xuống trừng phạt….

Nhìn xuống giếng, nước giếng đang cuồn cuộn dâng lên một cách nhanh chóng, thầy
Lương hét lớn :

-- Bác trưởng làng….

Nhưng trong dòng nước đang dâng lên cao đó, không thấy ông Vọng đâu cả.

#Chap40 : Nguồn Nước Được Thanh Tẩy.


“ Ào...Ào….Ào “

Nước giếng đang dâng lên rất nhanh, gió vẫn thổi mạnh, điều này nằm ngoài dự liệu
của thầy Lương, bởi đây cũng là lần đầu tiên thầy Lương được chứng kiến tận mắt
quá trình hóa giải trấn yểm “ giấu long mạch “.

Nhìn mực nước cuồn cuộn lên cao, đột nhiên sợi thừng được buộc vào gốc cây lộc
vừng khẽ giựt giựt rồi được kéo căng ra. Thấy vậy, thầy Lương lập tức túm lấy sợi
thừng rồi dồn sức kéo lên. Cũng may, nhờ nước dâng nên trọng lượng giảm bớt, từ
dưới làn nước, ông Vọng nổi lên, hai tay ông vẫn bám chặt vào sợi dây thừng, và
điều khiến thầy Lương vui mừng nhất chính là, ông Vọng vẫn còn sống.
“ Khục….Khục...Khụ….Khụ “

Ông Vọng ngẩng đầu lên ho khù khụ sau khi bị sặc nước, thầy Lương hét lớn :

-- Bác trưởng làng, bám chắc vào…..Tôi sẽ kéo bác lên.

“ Vù….ù….ù…”

Gió vẫn thổi, nhưng có vẻ như đã nhẹ hơn ban nãy, trời đất âm u nhưng không còn
sấm chớp nữa. Nước dưới giếng cũng êm dần trở lại rồi lặng hẳn sau khi chỉ còn cách
phía trên miệng giếng chừng 2m.

“ Pặp “

Ông Vọng bám tay vào miệng giếng, thầy Lương kéo ông Vọng lên, nằm luôn xuống
đất, ông Vọng ngửa mặt lên nhìn trời cao. Lúc này mây đen đang tan dần đi để lộ ra
những áng mây trong xanh vốn có của bầu trời ngày hôm nay. Ánh nắng cũng bắt
đầu chiếu xuyên qua màn mây u ám để rọi xuống mặt đất.

Vờ thở, vừa mỉm cười, ông Vọng hỏi thầy Lương :

-- Hộc...hộc….Tôi...vẫn sống….đúng...không...thầy…?

Thầy Lương gật đầu tươi cười đáp :

-- Tất nhiên rồi, chỉ có điều, tóc của bác trưởng làng đã bạc trắng.

Khẽ nhắm mắt, ông Vọng hít một hơi thật dài, ông tiếp :

-- Mọi chuyện xong rồi chứ thưa thầy..?

Thầy Lương trả lời :

-- Bác trưởng làng làm tốt lắm, trấn yểm của Cao Côn đã được phá giải, Tạm thời mọi
thứ đã ổn, tuy nhiên để ổn định thì cần thêm một khoảng thời gian nữa. Nhưng bác
trưởng làng yên tâm, nguồn nước không còn độc nữa rồi. Để chắc ăn, tôi và bác sẽ đi
đến một vài giếng của bà con trong làng để kiểm tra lại một lần nữa.

Ông Vọng cẩn thận hỏi tiếp :

-- Vậy còn lượng nước mà chúng ta bơm vào bể thì sao…? Nước đó được bơm lên
trước khi bùa yểm được tháo gỡ….Liệu….?

Thầy Lương cười :

-- Điều này không khó, sau khi hóa giải dược bùa yểm của Cao Côn, bác trưởng làng
chỉ cần nhỏ máu của mình vào trong bể nước là được, còn nước đó chúng ta có thể
bơm ngược trở lại khu vực ao hồ, kênh rạch. Nói đơn giản thì máu của họ Cao chính
là thuốc giải độc, khi trưởng làng nhỏ máu vào đoạn xương cắm vào địa mạch dưới
đáy giếng, máu của trưởng làng sẽ thanh tẩy chất độc trong mạch nước ngầm, làng
Văn Thái coi như đã được trưởng làng cứu sống. Mà không chỉ riêng làng Văn Thái,
nếu không sớm hóa giải được bùa yểm, chỉ e hậu quả cực kỳ nghiêm trọng. Bởi một
khi chất độc được lan rộng, ngấm vào cả đất thì thực sự không dám tưởng tượng.

Nghe thấy vậy, ông Vọng cố gắng gượng dậy mặc dù cơ thể vẫn còn rất yếu. Ông
Vọng nói :

-- Vậy phải làm ngay mới được, phiền thầy đưa tôi vào trong đình làng.

Thầy Lương dìu ông Vọng tiến về phía đình làng, chích máu ở đầu ngón tay, ông Vọng
nhỏ xuống bể chứa. Máu vừa nhỏ xuống mặt nước đã lập tức lan tỏa ra khắp bề mặt
nước rồi khẽ óng ánh lạ thường. Thầy Lương lấy châm ngà nhúng vào nước, chiếc
châm sau khi đưa lên vẫn có màu trắng ngà đặc trưng, không hề thay đổi. Thầy
Lương gật đầu :

-- Nước đã được thanh tẩy hết độc tố rồi.

Trời đã tan sạch mây đen, gió thổi hiu hiu mát rượi, bầu không khí có gì đó trong
lành hơn, giúp cho con người ta khoan khoái hơn. Hoặc cũng có thể là do tâm lý đã
không còn đè nặng nên ông Vọng thấy người mình nhẹ bẫng. Nhìn xuống mặt nước,
ông Vọng khẽ chạm tay lên đầu, đúng là tóc ông đã bạc trắng. Nhưng đâu có sao,
quan trọng ông vẫn sống, trước đó ông đã chuẩn bị sẵn tinh thần sẽ không qua khỏi
rồi. Ông thầm cảm ơn trời, trong khoảnh khắc tia sét đánh xuống giếng ấy, tưởng
chừng như ông Vọng đã bị sét đánh trúng, nhưng có lẽ trời thương nên ông vẫn còn
đứng đây, thật khó mà có thể tin được.

Đất trời trở lại bình thường, phía ngoài giếng, thầy Lương với ông Vọng nghe thấy
tiếng Sửu đang gọi. Có lẽ hết giông gió, Sửu lập tức chạy ra đây để xem xét tình hình.
Không nhìn thấy người đâu, Sửu lo lắng nhòm xuống giếng, Sửu cũng bàng hoàng khi
mà mực nước giếng đã dâng lên như trước khi bơm. Đang gào thét tên thầy Lương
với ông Vọng thì Sửu tròn mắt thấy cả hai người đang đi ra từ phía đình làng, Sửu
cười mừng rỡ :

-- Ha ha ha, bác trưởng làng, thầy Lương….Hai người không sao chứ..? Làm tôi sợ
chết khiếp…..

Rồi Sửu dừng lại thẫn thờ khi nhìn thấy mái tóc của ông Vọng đã bạc trắng, khuôn
mặt cũng có thêm nhiều nếp nhăn, Sửu ấp úng :

-- Bác trưởng làng, tóc của bác…?

Ông Vọng cười :

-- Có sao đâu, chỉ là bạc đi thôi mà….Tôi cũng đâu còn trẻ nữa, quan trọng là làng ta
đã yên ổn. Nước giếng không còn độc nữa đâu. Bà con có thể yên tâm rồi.

Sửu mừng rớm nước mắt, Sửu vội cúi đầu lạy thầy Lương :

-- Cảm ơn thầy, làng Văn Thái đội ơn thầy nhiều lắm.

Thầy Lương định nói gì đó thì ông Vọng ngăn lại, hiểu ý, thầy Lương đáp :

-- Cậu đừng làm thế, giải quyết được vấn đề là có công của tất cả mọi người, tôi chỉ
giúp đỡ một phần nhỏ thôi. Mọi chuyện đã xong xuôi, giờ cậu Sửu bơm nước từ bể
chứa ra ao, hồ, đồng ruộng…..Sau đó, có lẽ nên phá cái bể chứa đi để trả lại cảnh
quan cho sân đình.

Nghĩ cũng tiếc công, cả ngày hôm qua mọi người lao động hết sức để hoàn thành,
sang đến ngày nay lại phải phá. Nhưng cũng không thể để cả cái bể lớn chắn mặt
trước sân đình làng như vậy được.

Thầy Lương an ủi ông Vọng :

-- Bác trưởng làng đừng quá lo nghĩ, chuyện sinh mạng của con người mới là điều
quan trọng nhất. Bác thử nghĩ xem, nếu không có thần bảo hộ cho làng hiện về báo
mộng thì làm sao làng Văn Thái được kiếp nạn này. Hi vọng khi bùa yểm được hóa
giải, long mạch vẫn phát vượng khí, và thần sẽ quay trở lại tiếp tục bảo hộ cho con
dân làng Văn Thái. Đánh đổi nào cũng có hi sinh, thậm chí mất mát. Có thể đình làng
hiện tại có hơi hoang tàn, nhưng còn người thì còn làm lại được. Chỉ cần dân làng cố
gắng, 1 năm, 2 năm hoặc 10 năm sau chúng ta vẫn có thể xây dựng lại đình làng,
dựng lại tượng thờ thần Thành Hoàng. Không bao giờ là muộn cả.

Ông Vọng nghe xong những lời giải thích chí lý của thầy Lương thì khẽ gật đầu, bởi
đúng như thầy Lương nói, đình làng, tượng thần có thể xây lại, nhưng mạng sống của
con người chỉ có một. Sau những biến cố thì giờ đây người dân làng Văn Thái không
còn phải bỏ quê hương ra đi, cũng không phải sống trong nỗi lo sợ nữa.

Ngay sau lúc đó, ông Vọng thông báo cho cả làng biết nguồn nước giếng đã có thể sử
dụng bình thường. Mọi người chung tay dọn dẹp lại khu vực giếng nước, dỡ bỏ bể
nước để trả lại sự thoáng đãng của sân đình. Thầy Lương và ông Vọng còn cẩn thận
đến từng nhà có giếng để kiểm tra lại kỹ xem nước còn độc hay không…? Kết quả tất
cả giếng đều là nước sạch. Tiện đó ông Vọng cũng thông báo ngày mai sẽ họp làng để
bàn một sô chuyện sau những biến cố vừa qua.

Chỉ còn nhà cô Xoan là thầy Lương với ông Vọng chưa vào được, bởi Xoan đã đi đâu
mà khóa cả cổng ngoài. Muốn vào trong để kiểm tra giếng nước nhưng cổng khóa
nên cả hai đành quay về.

Ông Vọng quay lưng đi nhưng thầy Lương vẫn đứng trước cổng nhìn vào bên trong,
ông Vọng hỏi :
-- Ta đi thôi thầy, cũng đã chiều tối rồi….Có gì để sáng mai quay lại sớm vậy. Cái cô
Xoan này đi đâu không biết…?

Thầy Lương đáp :

-- Vâng bác, có điều tôi cảm thấy trong ngôi nhà này có gì đó không bình
thường….Nhưng thôi, mai tôi sẽ đi cùng bác đến đây.

Cảm nhận của thầy Lương chính là khi ông đứng ngoài cổng, ông biết có ai đó đang
nhìn ông. Từ lúc bùa yểm của Cao Côn được hóa giải, thầy Lương cũng bắt đầu sử
dụng được khả năng của mình.

Vừa đi, thầy Lương vừa khẽ quay lại nhìn, cảm giác ánh mắt đó vẫn dõi theo ông bắt
nguồn từ ngôi nhà của cô Xoan, nhưng có thể nó nhìn ông bởi vì khi nãy, thầy Lương
còn nhận thấy, xung quanh ngôi nhà có chút gì đó khá kỳ quái.

Thầy Lương khẽ lẩm bẩm :

-- Từ trong nhà phát ra âm khí là sao…?

#Chap41 : Ma Làng.
Buổi tối hôm ấy tại nhà ông Vọng, bên ấm trà nóng, trong lúc chờ trà ngấm, ông
Vọng hỏi thầy Lương :

-- Lúc chiều thầy bảo có chuyện gì cần bàn phải không ạ..?

Thầy Lương đáp :

-- Đúng rồi, đợi cậu Sửu đến tôi sẽ nói.

Vừa nhắc thì bên ngoài cổng có tiếng Sửu gọi, bước vào trong nhà, thấy ông Vọng và
thầy Lương đang đợi sẵn, Sửu cúi đầu chào rồi nói :

-- Chào bác Vọng, chào thầy Lương….Tôi đến rồi đây.

Thầy Lương gật đầu, ông Vọng rót trà mời khách, lúc này thầy Lương mới bắt đầu
vào việc :

-- Chuyện long mạch của làng coi như đã ổn, nhưng trong làng ta vẫn còn vài điều
chưa giải đáp được.

Ông Vọng ngạc nhiên :

-- Vậy là sao thưa thầy…? Còn chuyện gì nghiêm trọng nữa hay sao..?

Thầy Lương tiếp :


-- Nước giếng tuy độc, nhưng chưa khiến cho ai phải chết, ngoại trừ gia cầm, gia súc
thì chưa có ảnh hưởng đến con người. Cái chết của lang Phan, của cậu Mão có một
vài điểm nghi vấn.

Ông Vọng vội hỏi :

-- Thầy có thể nói rõ hơn được không ạ…?

Thầy Lương đáp :

-- Đầu tiên, về cái chết của lang Phan, nhìn qua thì ai cũng nghĩ đó là do lang Phan tự
tử. Nhưng một người mới tối hôm trước còn nhậu nhẹt vui vẻ với vợ, đến khi ngủ
còn chẳng biết gì thì nói tự tử rất khó tin. Khi lang Phan chết cũng chưa có gì đặc biệt
xảy ra, nhưng cái chết của cậu Mão dưới giếng làng thì lại hoàn toàn khác. Trước khi
chúng ta đi đến Bãi Hoang, chính tay chúng ta căng bạt che kín miệng giếng lại. Ngày
hôm sau đó mọi thứ vẫn bình thường, có một điều có thể hai vị ở đây không chú ý
đến, nhưng nó rất quan trọng. Bác trưởng làng cho tôi hỏi, buổi sáng hôm ấy bác
triệu tập mọi người để bàn việc bơm hút nước giếng, xây bể chứa….Lúc bác đi ra
đình làng chắc hẳn phải đi qua giếng, vậy miệng giếng khi đó có được bạt phủ kín hay
không..?

Ông Vọng trả lời :

-- Có chứ, miệng giếng vẫn được đậy kín, chỉ đến khi tôi bảo mọi người mở tấm bạt
lên xem nước dưới giếng như thế nào thì mới phát hiện ra có xác người chết nổi
dưới giếng, xác bị phù nước trương phềnh lên nhưng vẫn nhận ra được đó chính là
cậu Mão.

Thầy Lương gật đầu :

-- Vậy bác trưởng làng có tự hỏi, nếu một người say rượu ngã xuống giếng rồi chết
thì liệu có che tấm bạt phủ miệng giếng lại rồi cố dịnh như không có chuyện gì xảy ra
hay không…?

Lúc này ông Vọng với Sửu mới giật mình, đúng vậy, một người chết thì làm sao mà
che tấm bạt phủ miệng giếng lại được, chưa kể còn cột dây lại giống như cũ. Chi tiết
quan trọng như vậy mà sao không ai chú ý, hoặc có thể do lúc phát hiện xác Mão
chết nổi dưới giếng, dân làng sợ quá nên chẳng còn để ý đến chuyện khác nữa.

Sửu ấp úng :

-- Thầy Lương….Nói….nói như vậy là tay Mão….đã bị giết phải không..?

Thầy Lương đáp :

-- Chưa thể kết luận được Mão bị giết hay còn lý do khác, nhưng chúng ta có thể
chắc chắn một điều, lúc cậu Mão đó rơi xuống giếng đã có người khác xuất hiện tại
giếng lúc ấy. Và người này vì một nguyên nhân nào đó đã phủ tấm bạt rồi buộc lại
nguyên trạng ban đầu. Có thể kẻ này không muốn dân làng phát hiện ra xác của
Mão. Và nếu đúng như cậu Sửu nói, kẻ đó rất có thể là kẻ giết người. Một hành động
giết người phi tang. Do Mão đã đi đâu từ ngày hôm trước, sáng hôm sau chúng ta
gặp vợ Mão, lúc đó cô ta đang đi tìm chồng. Không ngoại trừ khả năng, Mão đã bị
giết ở chỗ khác, sau đó quẳng xác xuống dưới giếng. Khó khăn ở chỗ, xác Mão bị
nước giếng độc làm cho phân hủy nhanh, lúc đưa xác lên phần bụng phình nước còn
nổ tung nên không xác định được Mão chết lúc nào, do nguyên nhân gì dẫn đến tử
vong. Nhưng, căn cứ vào thời gian Mão đi từ ngày hôm trước đó, cho đến hôm sau
vợ Mão đi tìm rồi đến lúc dân làng phát hiện xác Mão dưới giếng, tôi có thể đoán,
Mão đã chết ít nhất là từ đêm ngày hôm trước, tức là ban ngày Mão đi, đến sáng
hôm sau chưa về nhà, không phải Mão không về, mà thực tế Mão đã chết rồi. Lúc
chúng ta gặp vợ Mão gần khu vực giếng làng, thì lúc đó có thể xác Mão đã nằm dưới
giếng mà không một ai hay biết. Phải đến ngày hôm sau nữa khi mở tấm bạt ra thì
xác đã trương rồi nổi lên. Khoảng thời gian như vậy giải thích hợp lý cho cái chết của
Mão. Chỉ có điều tại sao Mão phải chết, ai là người buộc lại tấm bạt thì thực tình tôi
vẫn chưa thể nghĩ ra. Tôi có một linh cảm, cái chết của lang Phan và Mão có chút gì
đó liên quan đến nhau, mặc dù hai người đó chêt bằng hai cách hoàn toàn khác biệt
và nó có liên quan đến ma quỷ.

Ộng Vọng rùng mình, còn Sửu thì nổi hết da gà da vịt, nhìn Sửu, thầy Lương hỏi :

-- Đến đây thì cậu đã hiểu vì sao tôi lại gọi cậu tới nói chuyện rồi chứ..?

Sửu nuốt nước bọt khẽ gật đầu, ông Vọng vẫn chưa hiểu gì, Sửu nói :

-- Có phải thầy muốn tôi kể lại chuyện ở đình làng đêm ngày hôm qua….?

Thầy Lương đáp :

-- Đúng vậy, sáng nay đến đó, nhìn vào ấn đường của cậu, tôi biết cậu đã bị tà nhập.
Khi ấy cậu không đeo bùa ngũ sắc, đôi bàn chân bị bẩn, dép thì chỉ còn một chiếc.
Lúc ấy có người nên tôi không muốn cậu kể ra, sợ mọi người hoang mang. Nhưng
chắc chắn đêm hôm qua cậu đã gặp phải chuyện gì đó. Cậu còn nhớ gì không..?

Sửu vội trả lời :

-- Nhớ….nhớ chứ…Thưa thầy, cả đời tôi chưa bao giờ sợ hãi như hôm qua. Mọi
người không biết cứ bảo tôi uống rượu say rồi mơ mộng, ngủ không biết gì….Nhưng
tôi thề, tôi thề là tôi đã thấy ma…...Đúng là tôi có say rượu, nhưng đến nửa đêm thì
chợt tỉnh giấc, lúc ấy gió lặng, ếch nhái cũng ngừng kêu, cái bóng đèn bắc nơi sân
dình cũng tắt ngúm. Nhìn đồng hồ khi ấy khoảng tầm 12h đêm. Vì không gian quá
tĩnh lặng nên bất chợt tôi nghe thấy tiếng cười, ban đầu nhỏ thôi, nhưng dần dần nó
vọng lại rất gần. Không phải một mà là mấy điệu cười khác nhau, đều là của trẻ con
cả. Đoán tiếng cười vọng ra từ khu vực giếng, tôi cũng sợ lắm, nửa đêm, nửa hôm
mà có tiếng trẻ con cười sợ chết đi được. Nhưng nghĩ sợ con nhà nào bố mẹ không
trông lang thang chạy ra đường chơi nên tôi mới soi đèn pin đi ra, nếu đúng con nhà
nào thì bắt chúng nó về. Nhưng…..nhưng…..

Sửu đang kể thì bỗng lạnh toát người, giờ chỉ nghĩ lại cái cảnh mấy đứa trẻ con trần
truồng, với cái miệng cười rộng ngoác, đôi mắt đỏ au như máu đang túm chặt lấy
chân tay mình rồi trườn lên thôi là Sửu đã toát mồ hôi lạnh. Những gì xảy ra đêm
qua Sửu nhớ như in.

Ông Vọng hối :

-- Nhưng sao…? Rồi cậu có thấy bọn trẻ nào không..?

Sửu vội nhấp ngụm trà cho đỡ khô cổ họng, thầy Lương vẫn đang đợi, Sửu run run
nói tiếp :

-- Có…..tôi có nhìn thấy bọn trẻ con….Nhưng...chúng...chúng nó….không phải


người….Cũng không...hẳn….có một đứa….tôi ngờ ngợ...tiếc là không nhìn rõ được
mặt mũi...của nó.

Sửu vẫn còn ám ảnh nên câu từ rối loạn hết cả lên, ông Vọng hỏi tiếp :

-- Là sao…? Không phải người….nhưng lại ngờ ngợ quen quen…? Cậu đang nói gì
vậy..?

Thầy Lương nhìn ông Vọng :

-- Bác trưởng làng đừng hối thúc, sáng nay ấn đường của cậu ấy như một sợi chỉ đen
kéo dài lên tận đỉnh đầu. Máu chích ra đen kịt, tà khí xâm nhập vào cơ thể cậu ấy rất
mạnh. Chắc hẳn đêm qua cậu Sửu đã vô cùng sợ hãi.

Sửu gật đầu lia lịa, nhìn thầy Lương, Sửu cố gắng bình tĩnh lại kể tiếp :

-- Lúc ra đến giếng, tôi có soi đèn pin vào gốc cây lộc vừng, thì tôi thấy một đứa bé
gái chừng 12 tuổi, nó gầy lắm, mặc bộ quần áo vá lỗ chỗ. Con bé đó nó đang úp mặt
vào gốc cây, miệng đếm 1...2….3…..Nó còn nói “ bắt được rồi nhé “. Tôi chẳng biết nó
là ma hay là người nữa, tôi còn hỏi nó con nhà ai nhưng nó không trả lời, cứ cười
khúc khích….Sợ quá tôi lùi lại thì suýt vấp té, tay cầm đèn pin quơ lên tán cây lộc
vừng thì tôi phải hét lên…..Vì….vì…...ngồi vắt vẻo trên cành cây, núp sau tán lá là mấy
đứa trẻ con, chúng bé lắm, chỉ độ đâu 2-3 tuổi là cùng, đứa nào đứa nấy trần như
nhộng, đầu trọc lóc, da tái nhợt, mắt bọn chúng đỏ như máu với cái miệng đang nhe
ra cười…..Hóa ra, tiếng cười mà tôi nghe được khi đang ở trong đình chính là tiếng
cười của bọn trẻ ma ấy. Tôi chạy bán sống bán chết quay về sân đình, nhớ lời thầy
dặn ở trong khuôn viên đình sẽ không sao. Nhưng chạy gần đến nơi thì bọn trẻ đó từ
đâu xuất hiện, chúng tum lấy chân tôi khiến tôi không chạy được nữa….Chúng trườn
lên người tôi rôi ngồi hai bên vai, đưa tay ra bóp cổ tôi. Khi ấy tôi cảm tưởng mình đã
chết rồi…..Không thở được nữa, nhưng…..
“ Ực “

Sửu lại nhấp chén trà bởi vừa phải nói luôn một hơi dài, kể đến đâu, mồ hôi mồ kê
Sửu toát ra đến đấy. Ông Vọng một lần nữa hối thúc vì đang nghe lại phải ngừng lại :

-- Nhưng sao nữa…..Cậu kể nốt đi chứ….?

Sửu gật gật :

-- Nhưng lúc gần chết, tôi nhìn thấy con bé đứng úp mặt dưới gốc cây lộc vừng khi
nãy đang ở trước mặt mình…..Hình như con bé còn đưa tay chạm vào người tôi
nữa….Sau đó thì tôi chẳng nhớ gì, cho đến khi tỉnh lại thì thấy thầy Lương và bác
trưởng làng đang ở cạnh, còn tôi thì ngủ trong hiên đình. Tôi thề, không phải mơ
đâu, mọi thứ là thật, tôi còn tưởng mình chết rồi ấy chứ….Không hiểu sao mở mắt ra
tôi vẫn còn sống. Hai người phải tin tôi, làng…..làng….mình...có ma...thật đó.
#Miếu_Hoang - Tác Giả Trường Lê.

#Chap42 : Cái Mị…..


Ông Vọng hỏi dồn :

-- Vậy lúc đó cậu có nhận ra đứa bé gái ấy là con nhà nào không..?

Sửu lắc đầu :

-- Thực sự là tôi không nhìn được rõ mặt nó, lúc đó quá hoảng sợ, lại thêm khuôn
mặt con bé bị tóc che kín, trời nửa đêm nên tôi không thể biết được đó là con nhà ai.
Mà cũng có thể nó là ma thì sao..?

Thầy Lương trầm ngâm nãy giờ, nghe Sửu kể hết câu chuyện, lúc này ông mới khẽ
nói :

-- Mọi người bình tĩnh lại đã, theo như những gì mà cậu Sửu kể, có vẻ như cô bé gái
đó chính là người đã cứu cậu Sửu. Tuy nhiên, việc một đứa bé gái xuất hiện giữa
đêm, chơi trò trốn tìm với ma đương nhiên đứa bé này không bình thường. Sau khi
nghe kỹ toàn bộ chi tiết trong lời kể của Sửu, tôi có liên tưởng đến một đứa bé mà
theo tôi, cô bé này có chút gì đó bí ẩn, xen lẫn kỳ lạ.

Sửu và ông Vọng im lặng chờ đợi thầy Lương nói tiếp, thầy Lương nói với ông Vọng :

-- Bác trưởng làng vẫn còn nhớ cái lắc tay bằng bạc rơi trước cổng nhà mà con Vàng
đã tìm thấy chứ…?

Ông Vọng gạt đầu :

-- Có chứ, cái lắc đó chẳng phải tôi và thầy đã đi tìm rồi đem trả cho cô Xoan hay rồi
mà. Cô Xoan có nói, đó là lắc tay của con gái cô ấy…..Có phải thầy đang nghĩ đứa bé
gái xuất hiện ngoài giếng đêm qua mà cậu Sửu nhìn thấy là cái Mị, con cô Xoan phải
không..? Không thể nào, con bé bị mù, bị câm bẩm sinh, từ nhỏ nó đã không nói
được, mắt nó có nhìn thấy đường đâu mà ra tận gốc cây lộc vừng chơi trốn tìm, lại
còn nói gì mà “ bắt được rồi nhé “. Đúng là cậu nghe thấy đứa bé gái đó nói phải
không Sưu..?

Sửu vội đáp :

-- Dạ đúng rồi, con bé đó nó nói được mà. Thề với thầy Lương với bác trưởng làng,
ban đầu tôi cũng ngờ ngợ là con gái của cô Xoan, nhưng con bé nó đúng như lời bác
trưởng làng nói, nó bị câm, bị mù từ nhỏ. Ngày bố nó còn sống thì thoảng còn cõng
nó đi xung quanh làng, nhưng từ hồi bố nó chết, chẳng bao giờ thấy nó rời khỏi nhà.
Nhiều người không sống ở con đường này còn chẳng biết là cô Xoan có đứa con gái,
bởi có ai thấy con bé đâu mà nhớ.

Thầy Lương khẽ nói tiếp :

-- Hai người nghe tôi giải thích đã, trước tiên là về cái lắc bạc. Sáng sớm hôm đó tôi
nghe theo tiếng sủa của con Vàng, nhìn xuống dưới đường thì thấy cái lắc, giờ tôi chỉ
hỏi hai người một câu, nếu như cái lắc bạc đó là của cô bé Mị, con gái cô Xoan, lúc
đem trả cái lắc, cô Xoan còn khẳng định con gái cô không hề đi ra khỏi nhà. Vậy tại
sao cái lắc đó lại rơi ngay trước cổng nhà của bác trưởng làng…?

Ông Vọng ấp úng :

-- Điều này….điều này…

Ông khẽ nhìn Sửu, nhưng Sửu cũng không thể giải thích nổi, Sửu hỏi :

-- Nếu vậy có thể nhà Xoan đã nói dối, có thể cô ta đưa con bé đi đâu đó nên đi qua
nhà bác Vọng mới làm rơi cái lắc…?

Thầy Lương đáp :

-- Nếu chỉ có vậy thì cô Xoan không cần phải nói dối làm gì, tôi tin cô Xoan đó nói
thật, con gái cô ấy không rời khỏi nhà…?

Ông Vọng nheo mày :

-- Nếu vậy sao khi nãy thầy lại hỏi câu hỏi mà không có lời giải đáp..?

Thầy Lương nói :

-- Con bé chỉ không rời khỏi nhà khi mà mẹ nó, tức cô Xoan còn thức mà thôi. Hay
nói cách khác, ban ngày, khi cô Xoan có ở nhà, con bé không đi đâu cả, và như vậy cô
Xoan không nói dối…..Tuy nhiên, nếu là lúc nửa đêm như đêm hôm qua thì sao…?
Cả ông Vọng lẫn Sửu há hốc mồm ngạc nhiên, họ hiểu nhưng không dám tin những
lời thầy Lương đang nói là sự thật, tuy nhiên mọi thứ quá hợp lý khiến họ cứng họng,
chưa dừng lại, thầy Lương nói tiếp :

-- Tôi nhặt được cái lắc vào buổi sáng, suy ra có thể nó rơi từ đêm hôm trước. Còn tại
sao tôi lại nói cái chết của lang Phan và cậu Mão có chút gì đó liên quan, tuy rất mơ
hồ. Bác trưởng làng còn nhớ chứ, sau khi chúng ta đến nhà cô Xoan hỏi về cái lắc bạc
thi cũng là lúc nhận được tin báo, lang Phan đã treo cổ chết từ đêm hôm trước. Tôi
chưa khẳng định việc lang Phan chết có liên quan gì đến con gái cô Xoan hay không,
nhưng cô bé tên Mị đó chắc chắn có điều gì bí ẩn. Trong cái đêm lang Phan treo cổ
tự tử, cô bé đó đã đi ra ngoài và đánh rơi cái lắc bạc. Khi đến nhà cô Xoan, con bé
vẫn nằm trên giường ngủ, tuy nhiên, bàn chân của nó rất bẩn. Nếu một đứa bé chỉ đi
lại trong nhà thì chân không thể bẩn đến như vậy được.

Ông Vọng run run giọng hỏi :

-- Vậy….tại...sao con...bé lại...nói được….?

Thầy Lương nheo mày :

-- Thứ chúng ta đang nói đến chính là ma quỷ, mọi thứ đều có khả năng xảy ra. Có
thể bác trưởng làng không tin về tâm linh, nhưng cũng không thể phủ nhận. Bởi
chính việc chúng ta tìm được tấm phổ truyền được chôn sâu trong lòng đất bên dưới
Bãi Hoang nghe thôi cũng thấy phi lý rồi, nhưng đó lại là sự thật.

Đang nói, đột nhiên thầy Lương khẽ rùng mình, ông nhớ lại lúc chiều tối khi đứng
trước cổng nhà cô Xoan gọi, khi đó thầy Lương đã cảm thấy trong nhà có điều bất
thường.

Thầy Lương hốt hoảng hỏi :

-- Bây giờ là mấy giờ rồi…?

Sửu nhìn đồng hồ treo tường nhà ông Vọng, Sửu trả lời :

-- Dạ, đã hơn 9h rồi thưa thầy…?

Thầy Lương vội đứng dậy, nhìn ông Vọng, thầy Lương nói :

-- Chúng ta phải đi đến nhà cô Xoan ngay…..Nếu con bé Mị có liên quan đến ma quỷ
thì giờ rất có thể cô Xoan đang gặp chuyện, hoặc ít nhất chúng ta cũng phải đến xem
xem con bé rốt cuộc đã gặp vấn đề gì…? Chiều nay khi nhìn vào ngôi nhà đó, tôi có
cảm nhận được một chút âm khí vất vưởng, nhưng do cổng khóa trái nên tôi và bác
trưởng làng không vào được. Nhanh chân lên mọi người….

[........]
3 tiếng trước, tại nhà Xoan…….

-- Cô Xoan ơi, cô có nhà không đấy…? Tôi Vọng, trưởng làng đây, tôi đến để kiểm tra
nước giếng nhà cô đã dùng được chưa…? Cô Xoan ơi..

Vừa gọi, ông Vọng vừa nhìn vào trong cổng, ông thở dài :

-- Hầy, lại đi đâu rồi…..Mà hôm nay còn khóa cả cổng bên trong, chắc sợ con bé Mị ở
nhà một mình đây mà. Thôi, chúng ta về đi, có gì mai quay lại sớm. - Ông Vọng nói
với thầy Lương.

Bên trong nhà, cái Mị đứng ở mép cửa sổ nhìn ra phía cổng, cửa sổ đóng kín, nhưng
cánh cửa gỗ lâu năm đã mục dần tạo nên những khe hở, và cái Mị đang đứng đó
nhìn chăm chăm ra ngoài cổng.

Trên giường, Xoan đang bị trói chặt, miệng bịt giẻ, Xoan sợ hãi, nước mắt giàn dụa,
Xoan cố gắng kêu cứu nhưng không được :

-- Ưm...ưm….ưm….

Không thấy trong nhà có động tĩnh gì, ông Vọng và thầy Lương rời đi, nhưng đi được
vài bước, thầy Lương lại khẽ quay đầu nhìn vào ngôi nhà của cô Xoan, tuy nhiên ông
cũng chỉ cảm nhận được chút gì đó mà thôi.

Cái Mị quay đầu nhìn mẹ đang bị trói nằm trên giường, nó cười man dại :

“ He...he...he….bắt...được….mẹ...rồi...nhé….he...he...he…

Ánh mắt nó long lên đỏ au như máu, tối hôm qua, cũng như hôm trước, Xoan từ nhà
Bảy Dao trở về, hôm nay Xoan về sớm hơn bởi đêm hôm trước thần hồn nát thần
tính, không biết có phải nhìn thấy ma thật không mà Xoan sợ gần chết. Nhưng ngủ
một giấc dậy Xoan lại quên ngay nỗi sợ ấy. Xoan vẫn tiếp tục lén lút, tằng tịu với Bảy
Dao. Để không bị hàng xóm làm phiền, cũng như sinh nghi, Xoan mua dây khóa, mỗi
lần đi là Xoan khóa luôn cổng lại, như vậy nếu có ai gọi, nhìn cổng nhà bị khóa chặt,
họ sẽ nghĩ Xoan đi làm và cũng không vào được nhà Xoan nữa.

Tối qua, trở về nhà lúc 9h tối, Bảy Dao đúng là một gã trâu bò đích thực, ngày nào
hắn cũng quần Xoan mấy hiệp nhưng chưa bao giờ hắn cảm thấy đủ. Xoan cũng đắm
chìm vào ham muốn, đam mê thể xác, Xoan cũng nghiện Bảy Dao lúc nào không hay.
Lần nào trở về nhà, Xoan cũng mệt mỏi, uể oải hết người, nếu không vướng con Mị,
chắc Xoan đi luôn không cần về nhà. Đi lăng loàn với tình nhân thì không sao, hễ trở
về nhà là Xoan lại thấy bực dọc, tức tối, bởi Xoan nghĩ vì Mị mà Xoan không được tận
hưởng hết thứ mình muốn. Vậy là Xoan lại lôi Mị ra đay nghiến, đánh đập. Hôm nay,
khi Xoan chửi bới, túm tóc, vẫn như mọi lần, cái Mị đứng im chịu trận, nó không
khóc, cũng chẳng kêu than nửa lời, nhưng khác với nhiều năm qua, lúc Xoan chửi nó
là :
-- Súc sinh, tại sao tao lại sinh ra đứa con như mày…? Hả..? Hả…? Cả thằng bố mày
nữa, chúng mày khiến đời tao khốn khổ khốn nạn. Bố mày chết, sao mày không đi
theo bố mày luôn đi.

“ Pặp “

Cái Mị đưa tay lên, nó nắm chặt lấy cổ tay của Xoan, Xoan giật mình bởi chưa bao giờ
nó làm như thế. Xoan cảm nhận được cổ tay đang bị siết mỗi lúc một chặt, Xoan đau
đến nhăn mặt, Xoan không hiểu tại sao con Mị lại khỏe thế, nhưng tất cả những thứ
đó chưa đáng sợ bằng việc, dưới mái tóc xõa che kín mặt, cái Mị vẫn cúi gằm đầu
xuống, nhưng nó đang cười :

“ He….he….he…..tới…..lượt...mẹ….rồi….He….he...he “

Xoan giật mình, toàn thân Xoan nổi da gà, sống lương Xoan lạnh buốt, Xoan ú ớ :

-- Mày…..mày….biết...nói.

Bóng đèn mờ mờ trong nhà nhấp nháy rồi vụt tắt, thứ cuối cùng mà Xoan thấy trước
khi bất tỉnh chính là cặp mắt đỏ au như máu cùng cái miệng đang ngoác ra cười đầy
kinh dị của con gái Xoan, cái Mị.

#Chap43 : Giết Mẹ.


Xoan không biết bây giờ là mấy giờ, và cô đã bất tỉnh bao lâu, nhưng mở mắt ra,
Xoan thấy mình đã bị trói chặt, miệng nhét một miếng giẻ lau bàn hôi rình, bẩn thỉu,
không thể cử động, cũng không thể nói được. Xoan sợ hãi khi nhìn về phía trước
mặt, cái Mị vẫn đứng đó nhìn Xoan bằng ánh mắt đỏ au màu máu. Vừa nãy lúc nghe
thấy tiếng ông Vọng gọi, Xoan cố hết sức kêu cứu nhưng âm thanh phát ra quá nhỏ,
không ai nghe thấy cả. Giờ ông Vọng đã đi khỏi, Xoan hướng đôi mắt hoảng loạn về
phía cái Mị, Xoan ú ớ trong miệng :

-- Ưm...ưm….ư…. ( Mày muốn làm gì tao..? )

Vậy nhưng cái Mị như đọc được suy nghĩ của Xoan, nó tiến lại gần, là mẹ con, nhưng
mấy năm nay, đây là lần đầu tiên Xoan nhìn cận mặt con gái. Thường ngày Xoan
không quan tâm đến cái Mị. Tóc tai, quần áo con bé rũ rượi, bẩn thỉu Xoan cũng mặc
kệ. Vẻ ngoài ai cũng nghĩ Xoan thương con, tận tình chăm sóc cho đứa con gái tội
nghiệp, nhưng thực tế thì hoàn toàn ngược lại. Mỗi ngày Xoan cơm nước rồi cho vào
một cái bát, đặt trên bàn, đói cái Mị tự túc lần mò mà ăn. Chỉ hôm nào trái gió trở
trời, bản tính Xoan thay đổi, tình mẫu tử nhen nhóm lên được chút chút thì Xoan
mới ngồi ăn chung với con. Nhưng dù như vậy, đối với Xoan, cái Mị vẫn là một gánh
nặng, là một trở ngại trong cuộc sống của cô.

Xoan không phải người làng này, Xoan là người ở tỉnh khác đến huyện này làm ăn.
Nói là làm ăn cho sang, chứ thực chất Xoan làm gái. Chẳng hiểu duyên số run rủi thế
nào, Xoan gặp được bố cái Mị. Hai người qua lại với nhau sau đó nảy sinh tình cảm,
bố Mị cũng không hề biết gì về quá khứ của Xoan. Còn Xoan thấy bố Mị là một người
đàn ông tốt, hơn nữa mỗi lần gặp gỡ, đi chơi, đi ăn, bố Mị đều tỏ ra rất ga lăng, có
dáng vẻ một người có tiền. Xoan có vẻ ngoài ưa nhìn, lại có khoảng thời gian làm gái
nên từ cách ăn mặc cho đến điệu bộ, cử chỉ đều rất hút hồn đàn ông. Nhưng khốn
nỗi phải tội, bố Mị thực chất gia đình cũng không có, bố mẹ đều đã mất hết. Nàng
tưởng chàng con nhà gia thế, chàng thì thực lòng muốn lấy nàng về làm vợ nên càng
giấu lại càng lún sâu. Nghĩ đời mình cũng không thể làm mãi cái nghề này được nên
tìm được người hợp ý, Xoan cũng bật đèn xanh luôn.

Qua lại với nhau độ đâu được 2 tháng thì Xoan mang bầu cái Mị, bố cái Mị thực lòng
yêu Xoan, nhưng do hoàn cảnh không được như những gì anh nói nên anh cứ thoái
thác hết lần này đến lần khác. Cho đến khi cái thai được 6 tháng, bố Mị mới dẫn
Xoan về làng Văn Thái. Bụng mang dạ chửa, cũng chẳng còn chỗ nào để đi, mặc dù
khi về đến nhà chồng, nhìn ngôi nhà lụp xụp, tồi tàn trước mặt, Xoan còn không dám
tin đó là nơi mà mình sẽ sống. Bị đưa vào thế, Xoan không còn cách nào ngoài việc
chấp nhận làm đám cưới cho dù trong lòng ấm ức vô cùng. Tuy khó chịu, nhưng
được cái người dân làng Văn Thai ai nấy cũng niềm nở, khác với trên huyện, khoảng
thời gian Xoan làm gái, người ta biết người ta coi khinh, coi rẻ Xoan, thôi thì Xoan
cũng coi như cái nghiệp mà mình phải trả. Vả lại bố cái Mị biết lỗi nên càng chăm lo
cho Xoan hơn, đó cũng là niềm an ủi với Xoan.

Nhưng rồi, trớ trêu thay, Xoan sinh ra cái Mị nguyên vẹn, đầy đủ, không đau ốm,
bệnh tật gì…..Vậy mà lớn bằng con người ta, cái Mị không biết nói, mắt của nó cứ thề
mờ đục dần đi rồi cuối cùng chẳng còn nhìn được gì nữa. Năm đó, chính lang Phan
đến nhà khám rồi thông báo với gia đình, Mị bị câm bẩm sinh và mắt nó cũng đã mù.

Nghe tin mà bố Mị thất thần, nhìn đứa con gái xinh xắn, dễ thương khi ấy mới tròn 7
tuổi anh không cầm được nước mắt. Mọi cố gắng tự an ủi mình rằng con gái chỉ nói
chậm hơn những đứa trẻ khác giờ đây bị dập tắt. Xoan từ ngày lấy chồng không
động tay động chân làm gì cả, bản tính thích ăn trắng mặc trơn, lười lao động nên
nhìn thấy công việc đồng áng là Xoan chê bẩn, than mệt. Thương vợ, cảm giác mình
có lỗi nên bố Mị chấp nhận tất cả. Lại nghe con bị câm điếc, nhà không có nên anh lại
càng làm việc quần quật hơn để mong dành dụm được chút tiền đưa con đi chữa
chạy.

Sức người có hạn, người đàn ông khốn khổ đó còn chưa thực hiện được một chút gì
mong muốn của mình thì đã trúng phong hàn rồi đột tử mà chết sau đó chưa đầy 1
năm. Đó cũng là lần đầu tiên Xoan thấy cái Mị phủ phục trước quan tài bố khóc nức
nở, nó khóc thông ngày, thông đêm cho đến khi người ta đưa bố nó ra đồng để
chôn, khi đó nó mới ngừng khóc và rồi cho tới tận bây giờ, Xoan chưa từng thấy nó
khóc thêm một lần nào nữa. Mặc dù trên cơ thể nó bầm lên những vết tím, vết đỏ
do bị Xoan đánh đập mỗi khi Xoan uống rượu say ở đâu về hay mỗi khi Xoan bực tức
chuyện gì đó. Có đánh thế nào nó cũng chỉ im lặng chịu đựng.

Nhìn cận mặt con gái, Xoan mặt tái nhợt đi, mồ hôi mồ kê ướt đẫm người, Xoan run
lên từng hồi bởi khuôn mặt cái Mị lúc này rất giống với người chồng quá cố của cô.
Cái Mị khẽ mấp máy môi, nhưng tiếng nói mà nó phát ra lại đang vang lên trong
khoảng không gian bốn bức tường vọng lại :

“ Mẹ….ơi…..Bố….đang….đợi….mẹ….đó…”

“ Hi...hi...hi…..Hi...hi...hi…”

“ Con...sẽ….đưa...mẹ...đi...gặp….bố….”

Cái Mị bước chân ra từ bóng tối, chút ánh sáng le lói yếu ớt chiếu xuyên qua khe hở
của cánh cửa sổ cuối chiều làm lóe lên một tia sáng từ vật mà cái Mị đang cầm trên
tay, đó là một con dao bầu dùng để chọc tiết lợn, con dao Xoan vẫn dùng để làm
bếp, chỉ có điều lúc này con dao đã được mài sáng loáng, sắc lẹm, ánh thép của nó
phản chiếu vào mặt Xoan khiến cho Xoan chỉ còn biết giãy dụa, cố gắng trườn vào
trong góc giường trong vô vọng.

Xoan lắc đầu nguầy nguậy, nhưng miệng bị bịt giẻ nên Xoan vẫn chỉ ú ớ được mà thôi
:

-- Ưm….ưm…..ưm….. ( Đừng giết tao…..tha...cho tao…..)

Cái Mị nhoẻn miệng cười :

“ He he he….He he he… “

“ Đi...gặp...bố….đi….mẹ…..Bố...đang...đợi...mẹ….đó…”

Đột nhiên Xoan rùng mình, Xoan đang nằm dựa vào bức vách, phía sau chính là
mảnh vườn nhỏ. Nhưng chắc chắn Xoan vừa nghe thấy một giọng nói bên kia bức
vách vừa cất lên :

“ Xoan….ơi…..Xoan...ơi “

Đó là giọng của chồng Xoan, cũng chính là giọng nói mà đêm hai ngày trước Xoan
nghe thấy có người đàn ông ngồi trên miệng giếng gọi mình. Mọi sự sợ hãi bị đẩy lên
đến cực độ, đêm đó Xoan đã ngờ ngờ khi nhận ra bóng người đàn ông mờ mờ nơi
thành giếng ấy chính là chồng Xoan, cho đến khi giọng nói gọi “ Xoan ơi “ cất lên thì
Xoan biết đó là giọng của chồng mình, bố cái Mị.

Bởi vậy Xoan đã bỏ chạy trối chết, hôm nay, giọng nói đó lại đang đứng bên ngoài
vườn và tiếp rục gọi Xoan.

Thu mình vào góc tường, Xoan mở to đôi mắt đầy kinh sợ nhìn Mị như van xin, nước
mắt giàn dụa, Xoan muốn kêu lên nhưng không thể được.

“ Kẹt,,,kẹt,,,ẹt “
Cái Mị bước chân lên chiếc giường cũ kỹ, ọp ẹp, nó bước đến đâu, âm thanh gai
người đó lại vang lên đến đó. Mỗi bước chân của nó như đang rút ngắn mạng sống
của Xoan lại.

Mặc kệ Xoan sợ đến đái cả ra quần, mặc kệ Xoan liên tục dập đầu xuống giường ra
chiều van xin Mị tha cho mình một mạng, nhưng cái Mị tay giơ con dao bầu lên cao
hơn đầu. Miệng nó ngoác ra cười một cách sung sướng, hả hê, man dại :

“ He...he...he….Hi...hi...hi...Ha...ha...ha “

“ Đến….lúc….mẹ….phải...đi...rồi…”

“ Phập….Phập….Phập…”

Những nhát đâm không một chút nương tay cứ thế giáng thẳng từ trên cao xuống cơ
thể của Xoan. Cái Mị quỳ trên giường, một tay giữ lấy xác mẹ, tay kia cầm dao bầu
dâm xuống rồi lại giơ lên, lại đâm xuống.

Máu bắn tung tóe ướt hết cả mặt mũi, quần áo của nó, máu vương vãi đỏ au cả một
góc tường, thấm đẫm cả chiếc chiếu cói đã ngả màu vàng úa.

Xoan chết, không biết Xoan đã bị đâm bao nhiêu nhát dao, nhưng tất cả những nhát
đâm đó đều nhắm vào phần đầu của Xoan. Khi cái Mị dừng lại cũng là nhát dao cuối,
con dao bầu bị nhuộm đỏ máu cắm thẳng vào giữa đống bầy nhầy chỉ còn thấy phần
cổ.

Cái Mị buông thõng hai tay, nó vẫn quỳ bên giường cạnh xác của người mẹ mà nó
vừa giết chết, nó ngẩng mặt lên trần nhà tối tăm, âm u, bên ngoài trời, ánh nắng cuối
cùng cũng vừa biến mất, bên trong nhà chỉ còn tiếng cười như điên dại vang lên :

“ He….he….he…..”

“ Mẹ….chết….rồi….”

“ Con...đã….giết….mẹ….rồi….”

“ Hi….hi...hi…..Ha….ha….ha…”

“ Vui...quá…..Vui...quá….đi….mất…”

Phía bên nhà Mão, mới qua việc đám ma cho chồng, vợ Mão đang dọn dẹp ngoài
sân. Bỗng cô dừng lại bởi hình như cô vừa nghe thấy tiếng cười đang vang lên từ bên
nhà Xoan, nhưng cố nghe lại lần nữa thì không còn nghe thấy gì nữa.

Vợ Mão nheo mày :

-- Nhà nó vừa cười thì phải…..Nó không biết bên này có tang hay sao, đồ khốn.
Vừa chửi, vợ Mão vừa tiếp tục quét dọn, đang hất rác ra bên ngoài cổng thì bất giác
vợ Mão quay lưng lại nhìn sang bên cổng nhà Xoan. Cánh cổng vừa hập vào như có ai
đó mở cổng đi ra, nhưng khi quay lại nhìn thì không thấy ai cả…..Lúc này đã là hơn 6h
tối.
#Miếu_Hoang - Tác Giả Trường Lê.

#Chap44 : Linh Cảm Của Thầy Lương.


9h tối, quay trở lại nhà ông Vọng, sau khi nghe thầy Lương nói xong, cả ông Vọng lẫn
Sửu bắt đầu thấy trong câu chuyện về cái Mị có chút gì đó ghê rợn. Lục tìm cái đèn
pin, ông Vọng khép cái cổng lại rồi khẽ nói :

-- Đi thôi…

Vào nhà từ sớm, nhưng bây giờ Sửu mới chú ý hình như nhà ông Vọng thiêu thiếu
thứ gì, Sửu hỏi :

-- À bác Vọng, con Vàng đâu…? Từ lúc bước vào sân đến giờ, không thấy nó đâu cả..?

Hóa ra là Sửu thấy thiếu con Vàng, cũng đúng thôi, mỗi lần đến nhà trưởng làng là
con Vàng chạy ra đầu tiên, hôm nay chẳng thấy nó đâu cả, một tiếng sủa cũng không.
Ông Vọng im lặng không đáp, lát sau ông thở dài :

-- Nó chết rồi.

Sửu giật mình, nhưng đang việc gấp nên Sửu không hỏi gì thêm, hơn 9h, bên ngoài
trời tối đen như mực, nhà nào nhà nấy đều đã tắt đèn đi ngủ, đi ngang qua nhà Sửu
thì vẫn còn ánh đèn, chắc có lẽ vợ Sửu đang đợi chồng về. Ông Vọng nói :

-- Muộn rồi, hay là cậu vào nhà đi, kẻo vợ con mong ngóng. Tôi với thầy Lương đi
được rồi.

Sợ vợ lo nên Sửu vâng dạ rồi chào hai người bước vào trong nhà, còn một quãng nữa
là đến nhà cô Xoan, trên đường đi, ông Vọng khẽ hỏi thầy Lương :

-- Liệu có xảy ra chuyện gì không thầy..?

Thầy Lương đáp :

-- Tôi không dám chắc, nhưng chuyện ma quỷ xuất hiện hay nhập vào con người vốn
dĩ không phải chuyện tốt lành gì. Thực ra ngay sau hôm con cá trắng quẫy lên khỏi
mặt giếng rồi chết là vận khí làng này đã bắt đầu thay đổi, bác trưởng làng còn nhớ
có những đêm tiếng chó tru lên vang vọng, kéo dài mà tôi nói không…? Thực ra khi
đó trong làng đã xuất hiện âm hồn, ma quỷ dạo chơi trong bóng đêm khiến cho chó
tru ma. Ngặt một nỗi, lúc đó tôi cũng không thể làm gì khác hơn, bởi trấn yểm của
Cao Côn chưa được giải thì kết giới của ông ta tạo ra vẫn hạn chế khả năng của tất cả
những thầy bùa, thầy phép xuất hiện trong ngôi làng này. Tôi chỉ không ngờ, sự việc
lại nghiêm trọng đến mức này. Nếu như cái chết của lang Phan, của cậu Mão là do
ma quỷ hại chết thì mọi chuyện chưa dừng lại ở đây đâu. Tuy bùa yểm trấn giữ long
mạch đã được hóa giải, nhưng sự kìm hãm vận khí trong 100 năm qua cần có thời
gian để địa mạch được ổn định trở lại. Lúc này chính là lúc âm dương hỗn loạn, âm
thịnh, dương suy, ma quỷ dễ bề lộng hành nhất.

Ông Vọng hốt hoảng nói :

-- Vừa mới qua được nạn nước nhiễm độc, còn chưa vui được bao lâu, giờ nghe thầy
nói tôi lại thấy sợ hơn cả lúc trước. Bởi nước giếng độc mới chỉ giết chết gia cầm, gia
súc mà thôi. Còn đây, nếu là ma quỷ hại chết người thì làng này chẳng phải không
còn được yên ổn hay sao…?

Thầy Lương im lặng không nói gì, ông đang suy nghĩ, dù cho chướng khí có tích tụ sau
khi thần bảo hộ cho làng biến mất thì chỉ trong một thời gian ngắn như vậy cũng
không thể làm hại đến người dân được. Có chăng chỉ là những âm hồn vất vưởng
chưa siêu thoát mà thôi, chúng chỉ có thể quấy phá chứ không thể giết được người,
chưa nói đến lang Phan và Mão, ngay cả Sửu, đêm ngày hôm qua suýt chút nữa Sửu
cũng đã phải bỏ mạng. Thứ tà khí xâm nhập vào ấn đường của Sửu rất nặng, khi nãy
thấy Sửu và ông Vọng tỏ ra khá sợ hãi nên thầy Lương không nói, thực thể không
phải người mà Sửu nhìn thấy, đám trẻ con vắt vẻo trên cây lộc vừng ấy không đơn
giản chỉ là ma, chúng chính là quỷ, những con tiểu quỷ đáng sợ có thể giết chết
người.

Đã đến nhà Xoan, khác với hồi chiều, cánh cổng nhà Xoan lúc này đã mở bung một
bên, trong nhà tối om không một chút ánh đèn. Trời trở dần về khuya nên không
gian càng lúc càng thanh vắng, bên nhà Mão mấy hôm nay khóc lóc thảm thiết giờ
cũng đã im lặng. Mặc dù đã muộn, nhưng ông Vọng vẫn đứng bên ngoài gọi :

-- Cô Xoan ơi….Cô có nhà không…?

Sau hai câu như thế vẫn không có ai trả lời, nhìn thầy Lương, ông Vọng đợi xem ý
thầy thế nào, có nên đi vào nhà hay không..? Ngôi nhà thường ngày đã điêu tàn, lúc
này đây trong bóng tối lại càng toát lên sự âm u, ghê rợn.

Bất chợt ông Vọng soi đèn pin xuống dưới đất, ông tá hỏa ấp úng nói :

-- Thầy...thầy….ơi…...Nhìn xem này…

Thầy Lương nhìn theo ánh đèn pin, dưới nền đất ngay cổng là những dấu chân máu
hơi mờ, ban nãy vừa mải nói chuyện, trời lại tối nên lúc đèn soi không ai chú ý.
Những dấu chân của trẻ con, nhưng còn máu thì sao…? Không nghĩ ngợi nhiều, ông
Vọng xộc thẳng vào trong nhà, thầy Lương chạy theo sau. Dấu chân máu đó bắt
nguồn từ trong nhà cô Xoan đi ra đến cổng thì mờ dần. Cửa nhà cô Xoan mở toang,
ông Vọng gọi thêm vài ba câu nhưng không thấy ai thưa cả. Sự im lặng xen lẫn những
vệt máu dẫn vào bên trong nhà khiến cho ông Vọng vừa bước vừa run. Đi theo dấu
máu, ông Vọng và thầy Lương dừng lại ở ngay giường ngủ, khẽ đưa đèn pin lên soi
thẳng vào chiếc giường. Một cảnh tượng không thể hãi hùng hơn hiện ra khi ánh
sáng đèn pin chiếu vào. Cái giường ướt đẫm máu tươi, phía góc giường là một cái
xác bị trói chặt, lia đèn pin lên cao hơn, ông Vọng toàn thân run lẩy bẩy, ông khẽ lùi
lại một bước rồi loạng choạng…….Bởi cái xác trên giường đã bị đâm đến nát phần
dầu, ghê rợn hơn, con dao bầu dùng để giết người đó vẫn còn cắm dựng đứng trong
đống thịt bầy nhầy.

Chưa hết, trên bức tường cạnh xác của Xoan còn một dòng chữ được viết bằng
máu : “ Tôi Đáng Chết “ .

Ông Vọng run giọng nói không thành câu :

-- Giết….người…..giết….người….rồi…..

30 phút sau, cả sân nhà Xoan xôn xao tiếng người, ánh đèn pin, ánh đuốc sáng rực cả
một khoảng. Mặc dù lúc này đã là gần 10h tối, nhưng sự việc xôn xao, truyền tai
nhau thu hút những kẻ hiếu kỳ. Ông Vọng nói với dân phòng cố gắng ngăn không cho
mọi người vào trong nhìn bởi cái xác quá ghê rợn, nhưng làm sao có thể ngăn được
khi mà lực lượng dân phòng chỉ có 2-3 người còn người dân thì lại quá đông. Người
chết được cho là Xoan, nhưng cái chết của Xoan hoàn toàn khác với cái chết của lang
Phan và Mão, Xoan chắc chắn đã bị giết, tất nhiên cái chết của Xoan cùng với những
dấu vết để lại, người ta nghĩ ngay đến cái Mị chính là kẻ giết người.

Sự vụ nghiêm trọng nên ông Vọng kêu một người trong tổ dân phòng lập tức đi lên
trên xã trình báo với các anh công an trên đó. Nhưng đã quá khuya, giờ có đi cũng
chẳng ai tiếp nhận thông tin. Cái chết của Xoan lan nhanh như một đám lửa gặp cơn
gió mạnh, bản chất sự việc đã rất đáng sợ, nhưng qua lời kể của dân làng truyền tai
nhau, sự việc lại còn kinh khủng hơn, người ta đồn nhau cái Mị nổi điên nên đã giết
mẹ rồi bỏ trốn, có người còn nói con bé Mị chính là quỷ đội lốt người.

Ban đầu nghe có người chết dân làng còn tò mò, nhưng sau khi một vài người nhìn
thấy xác Xoan trên giường với phần đầu bị đâm đến nát bét thì đám đông bắt đầu
giải tán. Chỉ còn lại 2 người dân phòng, ông Vọng và thầy Lương, lát sau có thêm cả
Sửu nữa. Ông Vọng muốn đưa người đi tìm cái Mị, nhưng trời tối, hơn nữa nhìn xác
cua Xoan, chẳng ai dám đi tìm một đứa bé mà ngay đến mẹ nó, nó cũng còn giết.
Đứng trong ngôi nhà có người chết thôi cũng đủ sợ lắm rồi, hai tay dân phòng nhìn
nhau rồi khẽ gật đầu, họ nói họ sẽ đi tìm Mị, nhưng thực chất sau khi rời khỏi nhà
Xoan, họ vội vã trở về nhà.

Gần 11h tối, Sửu nói với ông Vọng :

-- Hay là bác với thầy Lương cứ về nghỉ ngơi đi, có gì sáng mai chờ công an xã xuống
rồi họ xem xét. Chẳng lẽ cứ ngồi canh cái xác cả đêm nay à…?

Ông Vọng rất mệt, ngày hôm nay trôi qua quá dài đối với ông, mái tóc bạc trắng,
gương mặt hốc hác sau khi hóa giải trấn yểm long mạch. Quả thực sức ông cũng đã
kiệt, nếu còn tiếp tục ở lại đây cả đêm nay, e rằng ông không chịu nổi.

Ông vò đầu bứt tai :

-- Chẳng lẽ….chẳng lẽ cái Mị lại giết mẹ nó hay sao….? Tại sao lại xảy ra những
chuyện này.

Thầy Lương đứng trên hiên nhà, từ nãy đến giờ thầy Lương không nói gì, dưới ánh
đèn mập mờ, cộng thêm ánh sáng của đèn pin, thầy Lương lúc này mới nói :

-- Mọi người lại đây mà xem, trên hiên nhà với tường nhà có những hình vẽ kỳ lạ.

Sửu vội cầm thêm một ngọn đuốc lại gần, dưới nền hiên là những bức tranh được vẽ
bằng gạch đỏ nguệch ngoạc, khó hiểu. Nhưng nếu soi kỹ thì có thể nhận ra, đó là
những bức vẽ về người và vật…...Chỉ vào bức tranh đầu tiên, thầy Lương giải thích :

-- Hai người nhìn hình vẽ này có nhận ra đây chính là cái cây, còn đây là sợi dây treo
một người từ cành cây xuống không…?

Sửu nổi da gà, bởi khi thầy Lương chỉ rõ ra thì Sửu lập tức liên tưởng đến cái chết của
lang Phan, Sửu nói :

-- Là….là…..việc...lang Phan treo cổ…

Thầy Lương tiếp tục chỉ sang bức tranh thứ hai được ngăn bởi một đường kẻ, lần này
chẳng cần thầy Lương giải thích, cả ông Vọng và Sửu đều nhìn ra trên nền hiên vẽ
một cái giếng, cách đó là những nét vẽ tượng trưng cho cây lộc vừng, nhưng đáng sợ
nhất chính là trong lòng giếng, cái Mị vẽ một thứ gì đó mà nhìn vào ai cũng liên
tưởng đến sự việc Mão bị chết đuối dưới giếng làng…...Cuối cùng, thầy Lương soi
đèn pin lên bờ tường, cánh cửa, góc nhà…...Khắp nơi có rất rất nhiều những hình vẽ
khác, lần này những hình vẽ chỉ có hai người, một lớn, một nhỏ, nhìn vào hình vẽ,
ông Vọng hay Sửu đều tưởng tượng ra dược cảnh người lớn đang đánh đập, hành hạ
người nhỏ. Cuối cùng, tất cả nhìn về phía xác của Xoan, nhìn lên dòng chữ máu trên
tường : Tôi Đáng Chết.

Ông Vọng rùng mình, ông nổi da gà, Sửu thì bình tĩnh hơn một chút, Sửu hỏi thầy
Lương :

-- Con...bé...đó….chính là….đứa bé...gái tôi nhìn...thấy ở….gốc cây lộc vừng...phải


không thầy..?

Thầy Lương khẽ trả lời :

-- Đúng vậy, con bé đã bị quỷ nhập…..Những bức tranh nó vẽ ở đây chính là dự báo
về cái chết của những người mà nó giết. Không còn nghi ngờ gì nữa, cái chết của lang
Phan, của Mão và của cô Xoan đều do con bé đó gây ra. Việc nó xuất hiện cùng bọn
tiểu quỷ, cũng như nó có thể giết hai người đàn ông bằng một cách nào đó đã khẳng
định, con bé không phải là con người nữa rồi. Quỷ nhập, hay nói cách khác, nó chính
là một con quỷ.

“ Vù….ù….ù….”

Cơn gió lạnh bất thường khẽ thổi qua, bầu trời lóe lên những ánh chớp báo hiệu trời
sắp đổ mưa. Ông Vọng thấy người lả dần đi, mồ hôi toát ra như tắm, chân tay run lẩy
bẩy. Thầy Lương vội bắt mạch cho ông Vọng rồi nói với Sửu :

-- Không được, bác trưởng làng trúng gió rồi, cơ thể suy nhược cần được nghỉ ngơi
ngay. Phiền cậu đưa bác ấy về nhà giùm tôi. Trong nhà này tà khí vẫn còn vương, nếu
để bác trưởng làng ở đây lâu sẽ nguy hiểm. Có gì đợi đến sáng mai hãy tính.

Sửu lập tức cõng ông Vọng quay trở về nhà, đến nửa đêm thì trời đổ mưa, cơn mưa
đầu tiên sau chuỗi ngày làng Văn Thái xảy ra những chuyện kinh dị, kỳ bí đến mức
đáng sợ. Thầy Lương sau khi cho ông Vọng uống thuốc xong, ông Vọng lúc này cũng
đã chìm trong giấc ngủ. Bước ra hiên nhà, thầy Lương khẽ đưa tay ra hứng lấy chút
nước mưa, khẽ ngửi thử rồi đưa vào miệng uống, thầy Lương gật đầu :

-- Nước mưa không còn mùi tanh nữa, cơn mưa này sẽ giúp cho làng Văn Thái rửa
sạch những u ám trong khoảng thời gian qua….Bùa yểm long mạch đã được hóa giải,
nhưng linh cảm của ta mách bảo, Cao Gia vẫn còn che giấu một bí mật động trời.
#Miếu_Hoang - Tác Giả Trường Lê.

#Chap45 : Bọc Vải Hôi Thối.


Trời chỉ mưa một lúc rồi tạnh, sáng sớm hôm sau, thầy Lương bừng tỉnh bởi bên
ngoài ồn ào những tiếng la hét thất thanh :

“ Cháy nhà rồi, cháy nhà rồi “

Mở cửa bước ra ngoài sân, đúng lúc đó Sửu bám tay vào cổng gọi với :

-- Thầy Lương, bác Vọng đã khỏe rồi chứ…? Cháy rồi, nhà cô Xoan cháy rồi.

Ông Vọng cũng đã tỉnh dậy, mặc dù người vẫn còn mệt nhưng hôm qua được thầy
Lương cho uống thuốc, được ngủ một giấc sâu nên ông Vọng đã đỡ hơn nhiều. Nghe
thấy Sửu nói vậy, ông Vọng vội vàng hỏi :

-- Sao lại cháy, mà cháy từ bao giờ…?

Sửu đáp :

-- Tôi cũng không biết, nhưng chắc chỉ mới cháy vào tầm 3-4h sáng nay mà thôi. Lửa
cũng đã tàn nhưng cả ngôi nhà gần như bị thiêu rụi, vẫn chưa ai dám vào cả, bác đến
ngay đi.
Cả thầy Lương lẫn ông Vọng vội vã bước ra khỏi cổng, bỗng thầy Lương nhìn thấy
một cái bọc vải cũ kỹ, lấm lem bùn đất đặt ngay dưới trụ cổng của nhà ông Vọng. Khẽ
cúi xuống xem, bất chợt thầy Lương cau mày, từ trong bọc vải đó bốc lên một mùi
hôi nồng nặc. Đang vội, thấy thầy Lương chưa đi, ông Vọng nói :

-- Sao vậy thầy, chúng ta phải đến nhà cô Xoan ngay.

Thầy Lương chưa trả lời ông Vọng vội, thầy đưa tay mở bọc vải đó ra xem bên trong
đựng thứ gì, thầy Lương thoáng giật mình, ông nói :

-- Đây là……

Nhưng rồi, ngay lập tức thầy Lương gói tấm vải lại như cũ rồi đem cả bọc vải đó vào
bên trong nhà, thầy Lương nói với ông Vọng :

-- Bác đợi tôi một chút, tôi đem cất thứ này rồi chúng ta đi.

Không hiểu thầy Lương đang làm gì, vì vội nên ông Vọng cũng không hỏi. Đến nhà
Xoan, cả ngôi nhà giờ đã cháy đen thui, chỉ trơ trọi lại những bức tường ám khói, xà,
kèo, toàn bộ đồ đạc trong nhà cháy hết không còn gì cả. Lửa cũng đã tắt, khói bụi
bay mù mịt. Trong đám tro tàn, người ta nhìn thấy xác của Xoan nằm co quắp do bị
trói đã cháy đen thui, nhưng còn một cái xác khác đang quỳ trước thi thể của Xoan.
Đó chính là xác của Mị, không hiểu vì một lý do nào đó cái Mị đã quay về rồi đốt nhà
tự thiêu sau khi giết chết mẹ của mình.

Nó chết cháy trong tư thế quỳ, phần đầu ngửa thẳng lên trên trời, hai thay buông
thõng, trong lòng bàn tay cháy đen của nó vẫn nắm một mẩu gạch đỏ. Những lời bàn
tán bắt đầu xôn xao :

“ Vậy là con Mị giết mẹ nó xong rồi đốt nhà tự tử phải không.? “

“ Chứ còn gì nữa, có khi nào nó bị điên không nhỉ…? Mấy năm nay chẳng thấy mặt
mũi nó đâu, giờ xảy ra chuyện này nghĩ ghê rợn quá. “

“ Rồi giờ tính sao với xác hai mẹ con nó đây, nhìn thôi cũng thấy rợn người “

Ông Vọng cúi mặt lắc đầu, ông nói :

-- Sao mọi chuyện này thành ra thế này…? Giờ phải làm sao đây, thầy Lương…?

Thầy Lương nhìn vào xác cái Mị, ông nhớ đến bọc vải để trước cổng nhà ông Vọng
ban nãy, thầy Lương đáp :

-- Người chết cũng đã chết rồi, không thể để xác họ phơi bày ra trước đông người
như vậy được. Hiện tại tôi cũng chưa biết được nguồn cơn sự việc ra sao, tuy nhiên
trươc mắt, hãy kiếm cho mẹ con họ mỗi người một chiếc áo quan rồi đem chôn cất
tử tế, hai người này tuy đã chết, nhưng oán hận chất chồng, không nhang khói, thờ
phụng cẩn thận, hồn phách khó siêu thoát sẽ rơi vào ngã quỷ báo hại người dân.

Nhân lúc có đông người ở đây, ông Vọng nói lại những lời mà thầy Lương vừa bảo,
dẫu sao mẹ con Xoan cũng chẳng còn ai thân thích trong làng, tuy phiền hà nhưng rồi
mọi người cũng đồng ý. Trong số đó, có một người nói sẽ lo áo quan, rồi khâm niệm
cho mẹ con Xoan, đó chính là Bảy Dao. Quyết định của Bảy Dao khiến ai cũng ngỡ
ngàng, bởi thường ngày, Bảy Dao không quan hệ qua lại với bất cứ ai trong làng cả,
vậy mà lần này lại hào phóng bỏ tiền ra lo ma chay cho hai mẹ con Xoan.

Mọi người thắc mắc thì Bảy Dao nói ấp úng :

-- Nghĩa...tử là...nghĩa tận….Hoàn cảnh..mẹ con cô ấy...rất đáng thương….Tôi chỉ


mong mẹ con cô ấy sớm được siêu thoát.

Đa số người dân chứng kiến cái chết của mẹ con Xoan thì phần lớn là sợ, số ít thì
thương, nhưng cũng có một vài người thấy hả dạ, trong đó có vợ Mão. Không biết vì
lý do gì, nhưng tối hôm ông Vọng phát hiện ra Xoan bị giết, trong đám đông ùa vào
xem, vợ Mão có nói một câu :

-- Con Xoan này chết cũng đáng lắm, chết thế này cũng là do nghiệp của nó gây ra mà
thôi. Thứ đàn bà không biết liêm sỉ.

Hôm nay, ban nãy khi ông Vọng nói mọi người chung tay giúp đỡ chôn cất mẹ con
Xoan, ban đầu vợ Mão cũng là người không đồng tình, nhưng sau chẳng biết sao cô
ta lại thay đổi suy nghĩ, cuối cùng, lấy danh nghĩa hàng xóm, mặc dù nhà cũng mới có
tang nhưng vợ Mão vẫn góp tiền làm đám ma cho mẹ con Xoan, nhưng lúc đưa tiền
cho ông Vọng, thị có nói một câu :

-- Này là tôi thương con bé Mị, sinh ra đã chịu cảnh câm, mù bẩm sinh, không chứng
kiến được những thứ mà mẹ nó làm, khổ thân con bé, nhưng thôi, coi như cũng giải
thoát được một kiếp người. Còn cái thứ mẹ nó á, chết rồi tôi vẫn còn căm.

Không ai biết tại sao vợ Mão lại nói ra những lời cay nghiệt như vậy, đang trong lúc
rối ren, ông Vọng cũng không muốn hỏi nhiều. Bảy Dao giữ đúng lời hứa, ngay trong
ngày hôm đó xác hai mẹ con Xoan được khâm niệm chu toàn chỉ đợi giờ là ngày mai
sẽ đem chôn.

Quay trở về nhà, ông Vọng chỉ sau một đêm lại càng già đi trông thấy. Mọi thứ đối
với ông giờ đây mông lung, ông không thể biết hay xác định được chuyện gì nữa.
Những tưởng làng Văn Thái đã được bình yên sau khi trấn yểm của Cao Côn bị hóa
giải thì không…? Đã liên tiếp xảy ra 2 cái chết của mẹ con cô Xoan. Khi mà thầy
Lương vừa phân tích rằng cái chết của lang Phan và Mão có liên quan đến Mị thì cái
Mị đã giết chết mẹ mình sau đó quay về nhà tự thiêu.

Mớ bòng bong vốn dĩ khó giải thích giờ lại càng rối rắm hơn khi mà tất cả những
người có liên quan đều đã chết, những cái chết đều mang một màu sắc kinh dị đến
ghê rợn. Thầy Lương có chuyện muốn nói với ông Vọng, thầy Lương rót nước rồi bắt
đầu :

-- Bác trưởng làng, có điều này tôi muốn nói.

Ông Vọng nhìn thầy Lương đáp :

-- Thầy cứ nói đi ạ, tôi nghe đây.

Thầy Lương nhìn ra bên ngoài vườn rồi tiếp tục :

-- Tối hôm qua, khi nhìn những bức tranh được vẽ bằng gạch đỏ tại nhà cô Xoan, tôi
nhận ra, con Vàng chết cũng là do con gái của cô Xoan làm. Hôm đó trên cổng có vết
bẩn màu đỏ như màu gạch bám vào, con Vàng chết do ăn phải cơm được trộn với
nước giếng, tại nhà cô Xoan trên bàn cũng có 1 bát cơm trắng vương vãi. Khi đó
nguồn nước vẫn chưa được thanh tẩy, nhà cô Xoan cũng có giếng, căn cứ vào những
điều đó, chính con gái cô Xoan đã giết con Vàng.

Ông Vọng tròn mắt :

-- Nhưng tại sao con bé nó lại giết chết con Vàng cơ chứ..?

Thầy Lương giải thích :

-- Không biết từ bao giờ, nhưng đứa bé gái tên Mị ấy hàng đêm đã đi ra khỏi nhà,
việc con bé vẽ lên hiên nhà từng cái chết của từng người như lang Phan, như Mão,
như cô Xoan và việc nó chơi đùa cùng với tiểu quỷ chứng tỏ con bé đã bị quỷ nhập.
Lý do tại sao thì chỉ có thể giải thích, oán hận của nó quá lớn, có những trường hợp
khuyết tật bẩm sinh như bị mù, bị câm…..Họ có giác quan về mặt tâm linh rất nhạy
bén, chưa thể biết được con bé dẫn dụ ma quỷ hay ma quỷ dẫn dụ nó, nhưng giữa
nó và ma quỷ đã có một sự liên kết, hay chính xác là một giao kèo. Nói nôm na, ma
quỷ sẽ giúp đó hoàn thành tâm nguyện mà con bé mong muốn, ngược lại con bé sẽ
bán linh hồn của mình cho ma quỷ. Câu hỏi đặt ra ở đây chính là : Tại sao người con
bé muốn giết lại là lang Phan, là Mão và mẹ ruột của mình mà không phải những
người khác trong làng…? Tôi nói vậy bởi vì con bé từng cứu cậu Sửu thoát chết khỏi
đám tiểu quỷ kia. Chắc chắn ba người bị giết có liên quan đến nhau. Người thì cũng
đã chết, nhưng những uẩn khúc về cái chết của họ cần được giải đáp….Bởi vì, rất có
thể trong làng này còn ẩn chứa một bí mật cực kỳ kinh khủng. Và bí mật này có vẻ
như chính là một phần quá khứ của Cao Gia đã được nhắc đến trong quyển trục.

Ông Vọng thở gấp, ông nói trong sự sợ hãi khi thầy Lương lại nhắc đến Cao Gia :

-- Lại là Cao Gia sao…? Tại sao họ Cao lại có liên quan đến chuyện này..?

Thầy Lương trả lời :

-- Chẳng phải bác trưởng làng từng thắc mắc, rốt cuộc thì Cao Gia đã gây ra tội ác gì
khiến cho dân làng Văn Thái giết toàn bộ người của họ Cao hay sao….? Nhưng tạm
thời chưa tính đến chuyện đó vội, trước mắt, bác trưởng làng hãy dẫn tôi ra nghĩa
địa của làng Văn Thái, tôi cần xác nhận lại một thứ.

Dứt lời, thầy Lương đi ra ngoài, lát sau ông quay lại, hai tay bê một cái thau nhỏ,
trong thau là bọc vải ông nhặt được bên ngoài trụ cổng, hay nói cách khác, có ai đó
đã đặt bọc vải đó trước cổng nhà ông Vọng.

Vừa mở ra, mùi hôi thối đã bốc lên nồng nặc, ông Vọng giật mình khi nhìn vào bên
trong bọc, ông Vọng ấp úng :

-- Cái….cái….này…...là…..là….

#Miếu_Hoang - Tác Giả Trường Lê.

#Chap46 : Ngôi Mộ Bị Đào Bới - Hài Cốt Màu Đen.
Thầy Lương đáp :

-- Là xương người, bọc vải này sáng nay tôi thấy để ngay dưới trụ cổng nhà bác
trưởng làng. Lúc đó đang vội chuyện nhà cô Xoan bị cháy nên tôi chỉ mở ra xem rồi
đem cất vào trong. Có người đã để bọc xương người này lại cho chúng ta.

Đúng là xương cốt của người chết, trong bọc vải còn có cả một cái đầu lâu, bên dưới
là những khúc xương to nhỏ khác nhau, tất cả vẫn còn dính bùn bốc mùi hôi thối,
giống như những xương cốt này chỉ mới được bốc lên từ dưới mồ đêm ngày hôm
qua mà thôi. Tuy nhiên, có một điều khiến ông Vọng hoảng hồn, bởi xương cốt này
có màu đen kịt, không giống với xương người bình thường, do vậy khi nãy ông Vọng,
tuy nhận ra đó là xương của người chết, nhưng do màu xương đen nên ông mới
bàng hoàng.

Ông Vọng run giọng hỏi :

-- Nhưng….nhưng sao xương này...lại có màu đen…..Nó đen kịt như đoạn xương
sườn trấn yểm long mạch dưới giếng…? Chẳng lẽ, chẳng lẽ điều này có liên quan đến
Cao Gia mà thầy nhắc đến ban nãy…?

Thầy Lương lắc đầu, thầy Lương nói :

-- Không, thực ra buổi sáng, khi mở hé bọc vải ra xem, tôi cũng đã có suy nghĩ này.
Nhưng rất khó để khả năng này xảy ra, hài cốt này bị chuyển sắc đen là do người
chết đã bị trúng độc nặng mà chết. Người để bọc vải này trước cổng chính là cô bé
Mị, con gái cô Xoan.

Ông Vọng há hốc mồm :

-- Sao...sao có thể..? Chẳng phải con bé đã tự thiêu rồi sao..?
Thầy Lương đặt lên bàn chiếc lắc tay bằng bạc của Mị, thầy Lương tiếp :

-- Sáng nay, bên trên bọc vải còn để cái lắc bạc này. Đây chính là cái lắc của cô bé mà
tôi với bác trưởng làng từng đem trả lại cô Xoan. Căn cứ vào độ ẩm ướt của bọc vải,
hài cốt này chính xác là được đào lên vào đêm qua, đêm qua trời mưa nên bọc vải bị
ướt chưa khô, hài cốt vẫn còn lấm bùn đất. Con bé đã đào mộ rồi cho xương cốt vào
bọc vải này sau đó đem để trước cổng, cuối cùng nó trở về nhà tự thiêu chung với
xác của mẹ mình.

Thầy Lương giải thích rất hợp lý, nhưng ông Vọng vẫn không hiểu tại sao con bé lại
làm như vậy, ông vội hỏi :

-- Nhưng vì sao cái Mị lại đê xương cốt người chết ở đây..? Hơn nữa đây là xương
của ai…?

Thầy Lương trả lời :

-- Dựa vào xương đầu lâu, đây là hài cốt của một người đàn ông….? Tạm thời tôi
chưa dám khẳng định, nhưng rất có thể đây chính là xương của bố cô bé. Để chắc
chắn cho điều này, phiền bác trưởng làng dẫn tôi đến nghĩa địa hoặc nơi chôn cất
người chết trong làng. Chỉ cần tìm đến mộ của bố cô bé đó thực hư sẽ sáng tỏ. Khi
ấy, chúng ta có thể sẽ có đáp án cho câu hỏi của bác trưởng làng : Tại sao cô bé đó
lại để bọc vải đựng xương người trước cổng nhà…?

Đã quá trưa, mặc dù chưa ăn uống gì nhưng cả hai người lập tức rời khỏi nhà đi ra
nghĩa địa. Đất làng Văn Thái rộng, người lại không quá đông nên chẳng có gì lạ khi
dân làng dành hẳn một khu cánh đồng làm nơi chôn cất những người đã khuất. Địa
hình khu đất này cao ráo hơn so với mặt bằng chung của làng. Đường đi ra nghĩa địa
cũng cùng đường đi tới Bãi Hoang nhưng tính từ giếng làng đi tầm 1km rồi có lối rẽ
sang ngang bên phải là đến nghĩa địa chứ không hoang vu, hẻo lánh như Bãi Hoang.
Lần trước đi qua đây thầy Lương cũng thấy lối rẽ nhưng không hỏi, hôm nay ông mới
biết lối rẽ đó dẫn ra nghĩa địa.

Vẫn nằm trong khu vực có người đi qua, đi lại hàng ngày nhưng cỏ mọc hai bên ven
đường vẫn khá um tùm, ông Vọng nói :

-- Chắc khoảng thời gian qua chẳng ai dám đi ra đây, ngay cả đường làng cũng còn
vắng vẻ chứ nói gì tới nghĩa địa.

Thầy Lương hỏi :

-- Bác trưởng làng biết mộ của bố cô bé Mị đó ở đâu chứ…?

Ông Vọng suy nghĩ một hồi rồi đáp :

-- Cậu ta tên là Mạnh, nghĩa địa khá rộng nên làng tôi chia ra làm 3 khu vực, tính từ
trái qua phải sẽ là khu đất dành để chôn các cụ hương thân, phụ lão, những người
lớn tuổi trong làng như cụ Cẩn, tiếp đến là khu vực chôn cất những người chết trẻ,
đa phần là trẻ con yểu mệnh, cuối cùng là nơi chôn cất những người như cậu Mạnh
hay mới đây là lang Phan. Mộ của cậu Mạnh đó nằm ở phần cuối của nghĩa địa.

Đi theo ông Vọng, băng qua hai khu vực đầu tiên, không biết lúc quyết định dùng khu
đất này làm nghĩa địa, làng Văn Thái có được ai mách nước hay không mà quả đúng
là khu vực này rất thích hợp để chôn cất người chết, địa thế, địa vật, không gian
thoáng đãng, nằm cách long mạch không quá xa cũng không quá gần nên âm dương
hòa hợp, làng Văn Thái quả là nhiều đất tốt. Chẳng trách Cao Côn lại muốn giấu
nhẹm đi vượng khí đại phát từ long mạch đến như vậy. Bị kìm hãm tận 100 năm
nhưng xem ra linh khí nơi đây quá mạnh, đó chính là lý do vì sao Cao Côn sau khi “
giấu long mạch “ đã khiến cho toàn bộ Cao Gia gặp phải biến cố. Một cái giá quá đắt
khi muốn nghịch thiên, chống lại ý trời.

Đi sâu vào bên trong khu vực cuối của nghĩa địa, đa số những ngôi mộ ở đây đều
được đắp bằng đất, trước mỗi ụ đất nhô lên cao có một tấm bia xi măng nhỏ, trên
đó ghi tên họ, năm sinh, năm mất của người đã khuất. Có những tấm bia đã mòn cả
chữ sau nhiều năm.

Lách qua một vài ngôi mộ, ông Vọng chỉ tay về trước rồi nói :

-- Nếu tôi nhớ không nhầm thì mộ của cậu Mạnh đó nằm ở góc kia. Bốn năm trước
tôi cũng có đi đám ma rồi đưa cậu ấy về đây chôn cất. Nghĩ lại vẫn thấy thương, cậu
này lúc còn sống chăm chỉ mà thương vợ yêu con lắm. Đẻ được đứa con mới sinh ra
thì đã bị mù bẩm sinh, mù thôi đã khổ lắm rồi, vậy mà đến năm 6-7 tuổi vẫn không
nói được. Lúc còn sống, cậu ta hay cõng con đi dạo trên đường làng, cuối cùng đột tử
mà chết, mới hôm trước còn thấy vác cuốc ra đồng, 5 hôm sau đến nhà thì không
còn cứu được nữa. Người ta nói cậu ấy bị nhiễm phong hàn mà chết. Đây…..rồi….

Đang nói, ông Vọng khựng người lại, trước mắt ông chính là mộ của Mạnh, tấm bia xi
măng cắm lệch dưới đất vẫn còn, nhưng đúng như lời thầy Lương nói lúc ở nhà, mộ
của Mạnh đã bị đào bới, dưới huyệt chỉ còn lại những tấm ván gỗ đã mục nát cùng
lớp bùn đen bốc mùi xú uế. Không còn nghi ngờ gì nữa, bọc vải đựng hài cốt để lại
trước cổng nhà ông Vọng chính là xương cốt của Mạnh. Còn người đào mộ Mạnh lên
không ai khác ngoài cái Mị, con gái của Mạnh và Xoan.

Ông Vọng ấp úng nhìn thầy Lương lắp bắp hỏi :

-- Thầy…? Như vậy là sao…?

Thầy Lương nhìn xuống dưới huyệt mộ một hồi rồi khẽ đáp :

-- Vậy là rõ rồi, cô bé Mị đã đào mộ bố mình rồi nhặt xương cốt cho vào bọc vải đem
đến để trước cổng nhà bác trưởng làng..? Còn tại sao con bé lại làm như vậy…? Đó là
vì cái chết của Mạnh không phải chỉ đơn giản là nhiễm phong hàn, như khi nãy ở nhà
tôi đã nói, xương trong bọc vải đó là xương của người bị trúng độc mà chết. Xâu
chuỗi lại toàn bộ những sự việc đã xảy ra đối với cô Xoan, lang Phan, hay Mão tôi
chắc chắn rằng những người đó có liên quan đến cái chết của Mạnh. Như chúng ta
biết, Mị chỉ bị mù và câm, ngoài ra con bé vẫn có thể nghe được và hiểu được những
gì xảy ra xung quanh nó. Bao năm qua, con bé dường như biết được nguyên nhân
dẫn đến cái chết của bố mình. Nhưng nó không nhìn thấy, không nói được nên nó
nuôi thù hận trong lòng. Lòng căm thù, nỗi uất ức, mong muốn trả thù đã khiến cho
tâm hồn của con bé trở nên tà ác, chính điều này đã dẫn dụ ma quỷ tới trong khoảng
thời gian chướng khí được giải phóng sau khi làng Văn Thái xảy ra kiếp nạn. Và giao
kèo của cô bé với ma quỷ chính là giết người để trả thù cho bố mình, trong đó có cả
mẹ ruột của con bé.

“ Ù...ù….vù…..ù…”

Gió khẽ thổi qua khiến ông Vọng rùng mình, nghe đến đâu ông Vọng kinh hoàng đến
đấy. Từng chút, từng chút một, lần theo những dấu vết của những người đã chết,
thầy Lương như đang tái hiện lại câu chuyện tưởng chừng đã bị chôn sâu dưới vài
thước đất. Nhưng nay, không hiểu bằng cách nào, không biết cái Mị đã đào mộ lên
ra sao, nhưng giờ đây, làng Văn Thái tưởng chừng như yên bình mà thực tế lại không
phải như vậy.

Thầy Lương quay lưng đi rồi khẽ nói :

-- Oán nghiệt quá nặng nề, một đứa bé tội nghiệp nuôi dưỡng hận thù rồi bán linh
hồn cho quỷ để báo oán. Cô Xoan này cuối cùng đã gây nên ác nghiệp gì để khiến cho
con đẻ của mình phải phạm vào 1 trong 5 điều đại kỵ, khiến cho người đã chết không
thể siêu thoát…...Liệu còn có thể cứu được những linh hồn khốn khổ này hay
không…?

Trên đường trở về nhà, ông Vọng vẫn phân vân mãi một điều nhưng chưa dám hỏi,
thầy Lương nhận thấy vẻ bối rối của ông Vọng, thầy nói :

-- Bác trưởng làng vẫn còn điều gì thắc mắc sao…? Tôi đã nói khi nào về đến nhà sẽ
giải thích cho bác hiểu rồi mà. Hơn nữa chúng ta còn phải tìm hiểu thêm một số
chuyện. Giải oan cho người sống đã khó, nhưng để giải nghiệp cho người chết thì lại
càng khó hơn trăm lần. Tôi đã hiểu lý do tại sao cô bé lại đặt hài cốt của bố mình
trước cổng nhà rồi.

Ông Vọng ấp úng :

-- Không, không phải chuyện đó thưa thầy…? Lúc sớm tôi có nghe thầy nói việc này
có liên quan đến Cao Gia…...Dù sao tôi cũng là cháu nội của Cao Côn, điều này khiến
tôi phân vân mãi mà chưa dám hỏi.

Thầy Lương khẽ mỉm cười :

-- Bác trưởng làng đứng nóng vội, đúng là tôi có nói việc này liên quan đến Cao Gia.
Nhưng dục tốc bất đạt, mọi thứ cần phải được giải quyết từng chút, từng chút một.
Nếu chúng ta không gỡ được nút thắt trước mặt thì không thể đi tiếp. Bác hiểu ý tôi
chứ..?

Ông Vọng cúi đầu đáp :

-- Dạ, cảm ơn thầy…..Tôi lại suy nghĩ quá nhiều rồi.


#Miếu_Hoang - Tác Giả Trường Lê.

#Chap47 : “ Tiểu Quỷ “


Dừng lại tại một gốc cây tỏa bóng mát ven đường, thầy Lương nói :

-- Cũng gần đi vào làng rồi, chúng ta nán lại đây nghỉ ngơi một chút đã.

Ông Vọng đồng ý vì đi từ sớm đến giờ cũng đã thấm mệt, may lúc thầy Lương nói
muốn đi ra nghĩa địa, biết quãng đường cả đi cả về cũng khá xa nên ông Vọng có thủ
sẵn 2 củ khoai lang luộc cùng chai nước đun sôi đem theo uống. Dưới tán cây, ông
Vọng ngồi dựa vào gốc cây lấy đồ ăn thức uống ra đặt lên tảng đá gần đó. Thầy
Lương thì từ lúc dừng lại đến giờ, thầy hướng về phía trước nhìn nhìn điều gì đó.

Ông Vọng gọi :

-- Thầy ăn củ khoai lót dạ cho đỡ đói, có cả nước đây.

Thầy Lương quay lại gật đầu, vừa ăn, thầy Lương vừa hỏi :

-- Bác trưởng làng đã nghe đến “ Tiểu Quỷ “ bao giờ chưa..?

Ông Vọng lắc đầu :

-- Chưa thầy ạ, chuyện ma quỷ tôi không rành lắm đâu. Có đợt này được đi theo thầy
mới mở rộng tầm mắt. Phải nói những gì tôi không tin trước kia giờ phải thay đổi
toàn bộ suy nghĩ. Nhưng sao tự nhiên thầy lại nhắc đến “ Tiểu Quỷ “, đó là thứ gì vậy
ạ…?

Thầy Lương uống một ngụm nước rồi tiếp tục :

-- Trung Quốc là cái nôi của rất nhiều bùa phép, Trung Quốc cũng sản sinh ra vô số
những thầy phù thủy, pháp sư…..Xuyên suốt lịch sử Trung Hoa cổ đại là những tà
thuật độc ác bị cấm kỵ. Những thầy bùa sử dụng tà thuật đen được coi là hiểm họa
đối với tất cả mọi người. Trái ngược lại với những thầy mo tốt, những vị đạo sĩ có
tâm dùng hiểu biết, khả năng của mình sử dụng y thuật, bốc thuốc cứu người thì
những thầy phù thủy lại giết người, thu giữ hồn phách người chết để tu luyện, họ
không từ thủ đoạn…..Xin lỗi bác trưởng làng, nhưng việc Cao Côn sử dụng thuật “
giấu long mạch “ thì cũng được coi là một trong số những thầy phù thủy sử dụng tà
thuật cấm. Hậu quả rất khôn lường, trưởng làng cũng đã biết, khi thất bại không chỉ
trả giá bằng mạng sống mà còn khiến cho bao sinh linh phải rơi vào hoàn cảnh nguy
hiểm đến tận đời sau. “ Tiểu Quỷ “ cũng là một tà thuật, thậm chí vào thời xa xưa, đã
có lúc người ta rất căm phẫn những kẻ luyện thứ bùa độc địa này. Bởi muốn tạo ra “
Tiểu Quỷ “ thầy phù thủy phải giết chết một cô gái đang mang thai ở tháng thứ 7 rồi
lấy dứa con trong bụng cô ta ra. Thứ tà thuật này quá độc ác, vừa giết cả mẹ, đồng
thời cũng giết luôn cả con. Đứa bé được lấy ra từ bụng người mẹ sau khi được yểm
bùa phép, thi luyện linh hồn sẽ trở thành “ Tiểu Quỷ “ theo cách gọi của người Việt
Nam thì đó là những đứa trẻ ma quỷ.

Ông Vọng đang ăn dở củ khoai cũng phải ngừng lại, những lời thầy Lương nói chỉ
tưởng tượng thôi cũng khiến người khác nổi da gà, ông Vọng rùng mình :

-- Sao lại có thể độc ác đến như vậy cơ chứ…? Giết phụ nữ và trẻ con còn chưa kịp
chào đời chỉ để luyện bùa…..Tại sao họ lại dám làm như vậy…?

Thầy Lương tiếp :

-- Tất nhiên khi luyện được “ Tiểu Quỷ “ những thầy phù thủy đó sẽ sở hữu một sức
mạnh tâm linh cực kỳ to lớn. Mỗi “ Tiểu Quỷ “ được luyện ra với những mục đích
khác nhau, thầy phù thủy có thể bán “ Tiểu Quỷ “ cho một người khác đem về thờ để
cầu tài lộc, cầu may mắn, sức khỏe. Thầy càng cao tay thì sức mạnh của “ Tiểu Quỷ “
càng lớn, chúng còn có thể giết người theo lệnh của người sở hữu.

Ông Vọng hỏi :

-- Có phải thầy đang nhắc đến những đứa trẻ ma mà cậu Sửu đã nhìn thấy ở giếng
làng trong đêm hôm nọ…?

Thầy Lương gật đầu :

-- Đúng vậy, qua nghe cậu Sửu tả lại sơ bộ, tôi đoán những đứa trẻ đó chính là “ Tiểu
Quỷ “. Trong quyển trục có ghi chép lại một điều, Cao Gia khiến cho dân làng Văn
Thái phẫn nộ đến mức họ cam tâm giết chết toàn bộ Cao Già từ người già đến trẻ
con. Nếu như “ Tiểu Quỷ “ xuất hiện trong làng thì ắt hẳn có kẻ đã tạo ra chúng vì
một mục đích gì đó. Nhưng do 100 năm qua vượng khí của làng Văn Thái chưa cạn,
chỉ đến thời điểm này, dương khí suy yếu, âm khí bắt đầu lấn át, không chỉ âm hồn
vất vưởng mà đám “ Tiểu Quỷ “ đó cũng bắt đầu xuất hiện. Và thực sự tôi không thể
nghĩ ra được ai có thể luyện được “ Tiểu Quỷ “ ngoài Cao Côn. Đó chính là điều mà
tôi còn đang thắc mắc, rốt cuộc ngoài yểm long mạch, Cao Côn còn tạo ra Tiểu Quỷ
để làm gì….?

Ông Vọng thất thần, quả đúng như vậy, ông cũng thắc mắc tại sao Cao Gia lại khiến
cho người dân làng Văn Thái phải giết cả họ Cao. Ông đã suy nghĩ nhiều đêm về vấn
đề này, một người căm hận còn có thể hiểu được, nhưng đằng này cả làng Văn Thái
hành động như vậy chắc hẳn họ phải uất ức đến mức điên cuồng. Không chỉ thế, bí
mật giết sạch Cao Gia ấy người trong làng dù có chết cũng không ai hé răng nửa lời.

Ông Vọng toát mồ hôi :


-- Chẳng….chẳng lẽ…..họ đã...làm những chuyện….kinh khủng….Những
tội...ác...tày...trời như vậy sao….?

Thầy Lương đáp :

-- Bác trưởng làng bình tĩnh lại, tôi chỉ nói ra dựa trên suy đoán của mình. Quá khứ
không thể thay đổi, nhân quả báo ứng luôn xảy ra. Có thể Cao Gia trước kia đã gây ra
tội ác, nhưng rồi họ Cao đã phải trả giá, làng Văn Thái cũng tạo nghiệp để rồi suýt
chút nữa họ cũng phải chịu sự trừng phạt. Nếu như bác trưởng làng không phải
người độ lượng, nén đi đau thương, chôn vùi quá khứ ra tay cứu giúp há chẳng phải
toàn bộ dân làng Văn Thái sống dở, chết dở rồi hay sao. Bác trưởng làng chính là sợi
dây gắn kết quá khứ và hiện tại, là thuốc giải cho nguồn nước độc tượng trưng cho
thâm thù, đại hận giữa Cao Gia và làng Văn Thái. Vậy nên, bác đừng quá suy nghĩ,
trong họa có phúc, mọi thứ nên thuận theo ý trời. Bác trưởng làng, giọt máu của Cao
Gia vẫn còn sống, như vậy trời vẫn không muốn Cao Gia tuyệt tử, tuyệt tôn là có lý
do. Thiên kiếp giáng xuống bác vẫn qua được, tất cả là ý trời.

Ông Vọng cúi đầu cảm ơn thầy Lương, ông hỏi :

-- Vậy là việc thầy nói con bé Mị có liên quan đến chuyện của Cao Gia chính là chuyện
này sao…?

Thầy Lương đáp :

-- Cũng không hẳn, tuy nhiên cô bé đó khi còn sống có chơi đùa cùng “ Tiểu Quỷ “,
biết đâu khi chúng ta làm rõ một số chuyện trong quá khứ thì sẽ giải đáp được thắc
mắc trong lòng. Hơn nữa tôi cũng không muốn oán khí trong làng ngày một tích tụ.
Những người chết trong khoảng thời gian gần đây suy cho cùng âm hồn của họ khó
mà siêu thoát. Cần phải làm điều gì đó cho người sống thấy thoải mái, mà người chết
rồi cũng an yên. Lát nữa phiền bác trưởng làng đi cùng tôi đến nhà của 2 người này.

Ông Vọng hỏi :

-- Là nhà ai vậy, thưa thầy..?

Thầy Lương tiếp :

-- Đầu tiên là nhà vợ Mão, sau đó là nhà của người tên Bảy, mà mọi người gọi là Bảy
Dao.

Ông Vọng thắc mắc :

-- Tại sao thầy lại muốn đến nhà hai người họ..?

Thầy Lương trả lời :

-- Hôm nay khi mẹ con cô Xoan chết, tôi chú ý thấy thái độ của 2 người này là lạ nhất.
Vợ Mão thì hằn học, có chút hả hê khi thấy cô Xoan chết. Dù sao họ cũng là hàng
xóm, thể hiện thái độ như vậy chắc hẳn phải có hiềm khích. Còn về Bảy Dao, người
này không phải họ hàng của gia đình cô Xoan, mà bác trưởng làng cũng có nói anh ta
không giao du với ai trong làng, vậy mà anh ta lại chịu bỏ ra một khoản tiền để lo
đám ma cho cả hai mẹ con cô Xoan. Chẳng phải rất lạ hay sao….? Do vậy tôi muốn
bác đi cùng tôi để hỏi rõ một số chuyện. Nếu họ biết gì đó về cô Xoan, sẽ giúp ích cho
việc tại sao cô bé Mị trước khi chết lại đào mộ bố mình rồi đem xương cốt đến để
trước cổng nhà bác trưởng làng.

Ông Vọng nói :

-- Có thể con bé biết trong nhà tôi có thầy Lương đang tá túc nên muốn nhờ vả,
nhưng tại sao nó lại giết con Vàng chứ..?

Thầy Lương khẽ đáp :

-- Cũng có thể là như vậy, hoặc nó được “ Tiểu Quỷ “ chỉ dẫn đến đó là bởi vì người
của họ Cao cũng đang ở trong nhà. Còn việc con bé giết con Vàng là do chó là loài
động vật khắc tinh của ma quỷ, máu chó có thể trừ tà. Có lẽ mỗi đêm, khi con bé đi
ngang qua cổng nhà bác trưởng làng, con Vàng luôn khiến cho nó giận dữ. Có những
đêm con Vàng cào xước cả sân ngăn cản tà ma bên ngoài. Khi bán linh hồn cho quỷ,
cô bé không còn là người nữa. Do vậy nó đã giết chết con Vàng

Tiếp tục quay trở vào làng, trước khi rời khỏi bóng mát của cây, thầy Lương nhìn
ngắm lại xung quanh khu vực một lần nữa rồi nói :

-- Lát nữa khi đi qua nhà cô Xoan, phiền bác trưởng làng bảo họ khoan hãy chôn mẹ
con cô ấy vội. Để quan tài của họ trong nhà, che mưa, che nắng cẩn thận, 5 ngày nữa
mới được chôn. Còn chôn ở đâu, khi đó tôi sẽ nói với bác. Hãy tin tôi, mọi sự không
nên nóng vội.

Đi được vài bước, thầy Lương sực nhớ ra điều gì đó, ông nói tiếp :

-- À mà bác trưởng làng này, có điều này tôi cần nói thêm. Sáng nay tại nhà cô Xoan,
tôi có thấy một người, mà người này tâm tướng đều không tốt, mang lại vận hung
cho người khác. Và người này đang có ý định hại bác trưởng làng, hại cả tôi nữa. Vậy
nên lát vào nhà cô Xoan, gặp người này bác trưởng làng nên nhỏ nhẹ, tìm một lý do
thích hợp, xuôi theo ý của bà ta, làm sao để bà ta đồng ý 5 ngày sau mới được chôn
cất mẹ con cô Xoan là được.

Ông Vọng ngơ ngác hỏi :

-- Ý thầy nói là ai…?

Thầy Lương mỉm cười :

-- Chính là bà thầy cúng, sáng nay ánh mắt bà ta nhìn tôi với bác trưởng làng lén lút,
thăm dò, người này thân là thầy cúng nhưng tâm địa nhỏ nhen, xấu bụng, tư lợi cá
nhân…...Loại người này chỉ tham trước mắt mà không nghĩ đến về sau, thần sắc nhợt
nhạt, bao quanh người là điềm hung. Toan tính hại người những không cẩn thận sẽ
hại chính mình. Dù sao bao năm qua bà ta cũng là người cúng bái chuyện trong làng,
tôi và bác trưởng làng vẫn còn nhiều thứ cần giải đáp, không nên gây với bà ta làm
gì. Tốt nhất nên tránh thì hơn.
#Miếu_Hoang - Tác Giả Trường Lê.

#Chap48 : Lần Theo Manh Mối.


Quay lại nhà Xoan cũng đã đầu giờ chiều, mọi thứ tưởng chừng ngổn ngang hóa ra
lại được chuẩn bị khá chu, trong sân, người ta đã căng một tấm bạt che để tránh
mưa, tránh nắng, không chỉ vậy, phía trước hai cái quan tài là một ban thờ đầy đủ lư
hương, hoa trắng, nhang khói, tiền vàng, thỏi bạc…..Tất cả đều là do một tay Bảy Dao
bỏ tiền ra lo liệu. Bà con trong làng không giúp được tiền nên cũng góp sức, thôi thì
nghĩa tử là nghĩa tận, họ cũng cố gắng lo cho mẹ con Xoan một cái đám ma chu toàn.

Nhưng không chỉ thầy Lương, mà nhiều người cũng lấy làm lạ khi mà Bảy Dao sốt
sắng trong tất cả mọi chuyện. Một kẻ xưa nay không quan tâm đến ai khác ngoài bản
thân, nhiều lần họp làng hắn còn chẳng thèm đoái hoài, vậy mà lần này hắn đứng ra
lo liệu mọi sự, chi rất nhiều tiền cho đám ma mẹ con Xoan. Đến hai cái áo quan hắn
cũng chọn loại áo quan tốt nhất. Đồ phúng điếu, ma chay hắn mua rất đầy đủ.

Đúng như lời thầy Lương, bà Điều thầy cúng cũng đang có mặt trong đám tang. Cũng
phải thôi, xưa nay ai chết trong làng chẳng qua tay bà ấy cúng bái, khâm niệm, đội
kèn trống, khóc thuê cũng do một tay bà Điều mời về. Thầy Lương khẽ ngồi xuống
chỗ bàn uống nước, còn ông Vọng tiến lại gần nơi bà Điều và Bảy Dao đang nói
chuyện, ông Vọng cất lời :

-- Nhờ có chú Bảy mà mẹ con cô Xoan được an ủi phần nào, thay mặt mẹ con cô ấy
cùng dân làng, cảm ơn chú Bảy nhiều lắm.

Bảy Dao cười cười :

-- Trưởng làng không cần đa lễ vậy đâu, giúp được gì thì tôi giúp thôi mà. Hoàn cảnh
2 mẹ con cô ấy cũng khổ quá.

Bà Điều tỏ vẻ không mấy vui khi ông Vọng xuất hiện, không biết bà ta đang toan tính
điều gì, nhưng kể từ hôm đến nhà ông Vọng bàn chuyện xây dựng tượng mới với lập
đàn cúng tế không thành, từ đó đến nay bà ta không nói năng gì với ông Vọng cả.

Tiện có trưởng làng ở đây, Bảy Dao hỏi luôn :

-- Mà có bác Vọng ở đây, giờ cả hai mẹ con nhà Xoan đã mất, gia đình họ hàng ở làng
cũng chẳng có ai. Tôi cũng chỉ lo được cho họ cái áo quan, còn việc chôn cất ở đâu
vẫn nhờ bác trưởng làng quyết định. Vừa rồi tôi có hỏi cô Điều, cô ấy nói chờ trưởng
làng quyết định.
Ông Vọng đáp :

-- Được rồi, chuyện này tôi sẽ bàn với bà Điều đây, xong sẽ báo lại cho chú.

Bảy Dao vâng dạ rồi đi chuẩn bị tiếp một số việc, lúc này ông Vọng mới nói với bà
Điều :

-- Bà Điều này, chuyện chôn cất mẹ con nhà Xoan đúng là khiến tôi đau đầu. Đến giờ
vẫn chưa biết đem chôn ở đâu.

Bà Điều đáp :

-- Ông nói vậy là sao…? Nghĩa địa làng ta chẳng phải còn rộng lắm hay sao..?

Ông Vọng tiếp :

-- Đúng là thế, nhưng bà thấy đấy, cái chết của hai mẹ con nhà Xoan có gì đó không
ổn. Vả lại hai người chết chung, mà giờ đem ra nghĩa địa chôn con một nơi, mẹ một
nơi thực sự nó cứ làm sao ấy. Nãy tôi có đi ra nghĩa địa xem qua một chút, tôi thấy
hay là kiếm một mảnh đất nào đó trong làng rồi chôn cất hai mẹ con họ cùng một
chỗ. Ý bà thấy sao…?

Bà Điều làm bộ :

-- Tôi thì làm gì có ý kiến gì được, trưởng làng đây nói sao thì nghe thế thôi, ai dám
cãi.

Ông Vọng mỉm cười :

-- ́y chết, bà nói thế làm tôi cảm thấy mắc tội quá. Ai chẳng biết trong làng này bà là
thầy cúng cao tay. Chuyện ma chay phải tham khảo ý kiến của bà chứ. Mà nhé,
không biết bà thấy sao chứ tôi thấy cái chết của hai mẹ con nhà Xoan ghê lắm. Dân
làng đồn con bé Mị bị ma xui quỷ khiến nên mới giết mẹ. Theo bà, trước khi chôn có
nên làm một cái lễ cầu siêu cho linh hồn mẹ con họ không…? Trước mắt bà cứ làm lễ,
cúng bái, còn tôi sẽ đi xem mảnh đất nào phù hợp khi đó sẽ tiến hành chôn cất. Bà
thấy thế nào…?

Bà Điều im lặng một lúc, bà ta suy nghĩ trong đầu :

“ Thêm một ngày cúng là thêm tiền, chưa kể tiền mua đồ nọ kia, thằng Bảy Dao
chẳng hiểu sao chi tiền không tiếc tay. Bảo mua gì, làm gì nó đều đồng ý, đang muốn
kéo dài thêm một hai ngày nữa hãy chôn để moi thêm ít tiền thì lão trưởng làng lại
cho mình cơ hội, hay, hay quá. Lần này cứ nghe theo lão vậy….he he he “

Nghĩ xong, bà Điều khẽ đáp :


-- Đúng rồi, trưởng làng nói rất đúng….Cả hai mẹ con chết chung, ngay sáng nay đến
xem tôi đã thấy tà khí dày đặc, chết như này khó lòng mà siêu thoát. Phải làm lễ cầu
siêu trước khi đem chôn. Có như vậy linh hồn người chết mới thanh thản được.

Nói đoạn, bà Điều gọi ngay Bảy Dao tới, trước mặt ông Vọng, bà ta kể ra những
nguyên nhân đáng sợ, nào là âm hồn, nào là chết oan, tà khí…..khiến cho Bảy Dao
nghe thôi mà cũng sợ toát mồ hôi lạnh, thầy Lương ngồi cách đó một đoạn, ông
chăm chú quan sát từng cử chỉ, hành động, biểu hiện của cả Bảy Dao lẫn bà Điều
thầy cúng.

Nghe bà Điều nói muốn hồn ma của mẹ con nhà Xoan được yên nghỉ thì cần phải làm
lễ cầu siêu trong vài ngày, Bảy Dao lập tức đồng ý ngay, Bảy nói :

-- Được….được….được…..cô Điều cần làm gì...cô..cô cứ làm….Mọi chi phí, mua bán
hay tiền nong….tôi...tôi xin được chi trả. Chỉ mong cô Điều làm sao cho hồn ma của
hai mẹ con họ được về nơi chín suối...là...là tôi...à không...là cả làng...này biết ơn
lắm...rồi.

Ông Vọng gật đầu :

-- Vậy trong 5 ngày bà Điều làm lễ cầu siêu, tôi sẽ đi xem trong làng có đám đất nào
tốt để chôn cất họ hay không. Trăm sự nhờ bà vậy nhé, bà Điều.

Trúng mánh, bà Điều mở cờ trong bụng nhưng vẫn làm vẻ đau buồn :

-- Đành vậy chứ sao, hầy, vậy tôi sẽ cho người đi mua thêm những đồ cần thiết cho
việc làm lễ. Các vị cứ yên tâm….

Bảy Dao hiểu ý, Bảy rút ngay tiền đưa cho bà Điều rồi cầu khẩn mong bà Điều giúp
đỡ. Ông Vọng cũng rời khỏi đó, trong lúc bà Điều đang mải mê đếm số tiền mà Bảy
vừa đưa thì ông Vọng cùng thầy Lương đi mất.

Ông Vọng định đi sang bên nhà Mão nhưng thấy nhà đóng cửa, không có ai ở nhà cả.
Muốn hỏi vợ Mão một số chuyện nhưng xem ra chưa được, hai người đành quay về
nhà. Trên đường đi, ông Vọng hỏi thầy Lương :

-- Nãy tôi đã nói theo như những gì mà thầy dặn, không biết có được không..?

Thầy Lương đáp :

-- Bác trưởng làng làm tốt lắm, chỉ cần họ đồng ý để 5 ngày sau mới được chôn là ổn
rồi. Khi nãy, ngồi quan sát, tôi lại càng thấy người tên Bảy Dao kia rất đáng ngờ, hình
như người này đang che giấu chuyện gì đó có liên quan đến cô Xoan. Có vẻ như anh
ta rất sợ khi bà Điều nhắc đến việc hồn ma cô Xoan khó siêu thoát. Sau đó anh ta
không ngần ngại mà đồng ý chuyện làm lễ cầu siêu. Chỉ có hai trường hợp xảy ra,
một tay Bảy đó thực sự là người tốt, và hai người này lo sợ đang lo sợ một thứ gì mà
anh ta không thể nói. Qua lời kể của bác trưởng làng về anh ta từ xưa đến nay thì
xem ra điều thứ nhất có vẻ không đúng lắm.

Ông Vọng cũng nhận thấy như vậy, biểu hiện của Bảy Dao khi nhắc đến cái chết của
mẹ con nhà Xoan rất lúng túng, sợ hãi, điều này không giống với Bảy Dao thường
ngày. Không phải chỉ là do Bảy bán dao nên người ta gọi hắn là Bảy Dao, mà còn bởi
tính khí côn đồ, ngang ngạnh của hắn nữa. Hắn không giao du, chơi bời với ai nên
hắn cũng chẳng nể nang ai, xảy ra xích mích là hắn lăm lăm con dao trong tay đòi
chém người ta, cái tên Bảy Dao cũng bắt nguồn từ đó. ́y vậy mà lần này hắn ra tay
giúp đỡ ma chay, không ngại chi tiền mặc dù những yêu cầu của bà Điều thầy cúng rõ
ràng muốn kiếm chác trong đám ma này.

Ông Vọng nói :

-- Bảy Dao là kẻ không ngán ai, chẳng lẽ hắn lại sợ ma….?

Gần đến nhà thì ông Vọng lẫn thầy Lương nhìn thấy vợ Mão đang đi đâu đó về, thấy
ông Vọng, vợ Mão khẽ cúi đầu chào :

-- Chào bác Vọng, bác lại mới từ nhà đám về đấy à…?

Ông Vọng đáp :

-- Đúng rồi, tôi mới từ đó về đây, ban nãy muốn sang nhà cô hỏi một số chuyện
nhưng không có cô ở nhà.

Vợ Mão ngạc nhiên :

-- À vâng, em đưa cháu sang bên nhà mợ nó gửi nhờ mấy hôm, nhà mới có đám
xong, giờ bên cạnh lại cũng có người chết….Mấy hôm nay cháu nó không ngủ được,
quấy khóc suốt...Mà bác tìm em có chuyện gì ạ….?

Ông Vọng nhìn thầy Lương, thầy Lương khẽ gật đầu, ông Vọng nói :

-- Chuyện này đứng ngoài nói không tiện, là chuyện có liên quan đến cô Xoan. Nếu
được, mời cô vào nhà tôi có mấy điều muốn hỏi.

Ban đầu vợ Mão còn suy nghĩ, nhưng rồi cô ta đáp :

-- Thôi được rồi, không biết bác định hỏi chuyện gì, nhưng nếu em biết, em sẽ trả lời
hết…...Em cũng đoán là bác sẽ hỏi chuyện liên quan đến cái chết của Xoan, bởi dù
sao cái Xoan nó chết thì em cũng là hàng xóm gần nhà. Tuy em chẳng ưa gì nó nhưng
nghĩ đến lúc nó bị giết em cũng rùng mình. Còn một….một chuyện nữa em vẫn day
dứt trong lòng….không...không biết có nên nói ra hay không….
#Miếu_Hoang - Tác Giả Trường Lê.

#Chap49 : Kẻ Đồi Bại.


Đi vào trong nhà, vợ Mão ngồi xuống ghế, phía bên kia đối diện là ông Vọng và thầy
Lương. Rót nước mời vợ Mão, ông Vọng mở lời :

-- Nãy cô nói đúng rồi, đúng là tôi có chuyện muốn hỏi về cái chết của cô Xoan. Trước
lúc phát hiện xác cô Xoan, cô là hàng xóm, có thấy mẹ con cô Xoan có biểu hiện gì kỳ
lạ không..?

Vợ Mão đáp :

-- Không bác ạ, cả ngày hôm đó, mà không, trước ngày hôm đó nữa bên nhà đấy im
ắng cực kỳ. Hôm trước nữa em còn thấy cái Xoan nó ở ngoài sân, nhưng sang hôm
sau, cái hôm mà nó chết ấy thì cả ngày không thấy nó đâu. Nhưng mà có một điều lạ
lắm. Tầm tối, độ hơn 6h gì đó, em nghe thấy bên đó vang lên tiếng cười khanh
khách, em còn bực vì nghĩ bụng nhà nó trêu ngươi mình. Nhà em thì đang có tang,
vậy mà nó lại cười. Chỉ mấy phút sau em đang quét ngoài cổng thì thấy bên nhà đó
có tiếng mở cổng, em định quay lại mắng vài câu thì chẳng thấy ai cả. Cứ như có ma
ấy. Gọi là hàng xóm nhưng em chẳng ưa gì nó đâu, nói mong các bác bỏ qua chứ nó
chết rồi em vẫn còn ghét.

Ông Vọng khẽ cau mày :

-- Sao cô lại nói vậy, tôi thấy nhà cô Xoan sống cũng bình thường, có gây gổ hay nói
xấu gì ai đâu…? Sao cô lại ghét cô Xoan…?

Vợ Mão uống cạn chén nước chè, mặt quay ra ngoài cửa, đôi lông mày khẽ nhíu lại,
đan hai bàn tay vào nhau ra chừng bứt rứt, một lúc sau cô ta mới nói bằng một giọng
điệu hằn học :

-- Thôi thì đành vậy, con người tính bộp chộp, ruột để ngoài da như em có gì cũng
không giữ được, còn loại người lúc nào cũng tỏ ra vẻ đáng thương nhưng thực chất
lại là con hồ ly tinh đấy bác ạ. Người chết thì cũng chết rồi, nói thì bảo ác mồm
nhưng em ghét là vì em có lý do cả. Xấu chàng hổ ai, những lời em sắp kể hết ra đây
em cũng nhục nhã lắm. Nhưng mà em tức, em không chịu được…..Gã chồng quá cố
của em, là tay Mão, khốn khổ khốn nạn thân em, cách đây 1 năm em phát hiện gã
với con Xoan có gian díu với nhau. Mà chính mắt em nhìn thấy, trong nhà con Xoan
luôn. Lúc đó em điên lắm, nhưng tính lão chồng em cả làng này đều biết, lão hám
gái, hám của lạ. Rồi lão quỳ xuống van xin em, nhận hết tội lỗi về lão. Con Xoan thì
khóc lóc, còn xin em tha tội vì em mà làm rùm beng, mẹ con nó không còn mặt mũi
nào sống ở làng này nữa. Chồng mình thì em biết, nghĩ giờ làm lớn chuyện, mặt mũi
em cũng chui rúc vào đâu. Năm đó, lão Mão nhà em thường hay ăn trộm tiền dành
dụm trong nhà đem đi, lắm hôm lão còn đem cả gạo, thịt, hỏi thì lão bảo lão đi ăn
nhậu với bạn trên huyện, nhưng lão gian dâm với con hàng xóm ngay trước mũi em
bao nhiêu lần mà em không biết. Nếu hôm ấy không phải con bé con nhà em nó nhìn
thấy lão trốn sang nhà con Xoan rồi cứ gọi bố ơi thì em cũng không biết được. Bác
bảo con Xoan hiền lành ư, các bác đàn ông, nhìn phụ nữ yếu đuối hay mủi lòng. Còn
đàn bà tụi em nhìn người rõ lắm, thứ lăng loàn ấy thì hiền lành cái nỗi gì.
Rồi….rồi...còn nữa….đã hết đâu….
Nói đến đây vợ Mão dừng lại, hình như có điều gì khiến cô ta lo sợ, thấy vậy thầy
Lương mới hỏi :

-- Xin lỗi cô, nhưng mạn phép cho tôi hỏi một câu. Có phải chồng cô ngoài gian díu
với cô Xoan kia thì còn làm điều gì không phải với con gái cô Xoan phải không, đứa
bé tên Mị ấy..?

Ông Vọng giật mình khi nghe câu hỏi của thầy Lương, một câu hỏi quá sức tưởng
tượng của ông. Ông Vọng chưa bao giờ nghĩ đến điều này, quay về trước nhìn vợ
Mão, ông Vọng nghĩ khi nghe thầy Lương hỏi như vậy, vợ Mão sẽ lập tức chối hoặc
sẽ nổi giận. Nhưng không, mặt vợ Mão tái nhợt đi, mồ hôi hột đang lăn từ trên trán
xuống gò má, miệng cô ta há hốc cứng đơ không nói thành lời.

Mấp máy môi, khó khăn lắm vợ Mão mới cất tiếng, nhưng tiếng vấp váp :

-- Sao…..sao…..sao...bác….lại...lại...biết...biết..?

Câu hỏi của vợ Mão cũng chính là một lời khẳng định rằng cô ta biết chuyện chồng
mình đã làm, không những vậy lại còn là chuyện đồi bại với một đứa bé gái như Mị.
Ông Vọng hốt hoảng giật ngửa người ra đằng sau, cả ông Vọng và vợ Mão đều đang
rất bàng hoàng, thầy Lương nói tiếp :

-- Bởi vì cái chết của chồng cô đã được báo trước bởi con gái cô Xoan. Những bức vẽ
trên tường nhà, trên hiên nhà cô Xoan trước khi ngôi nhà bị cháy, cô bé Mị đó đã vẽ
cái chết của Mão. Không chỉ chồng cô mà còn có người khác nữa. Ban nãy tôi nghe
cô kể về chồng mình có tính trăng hoa, vậy nên tôi mới mạn phép hỏi liệu có phải
Mão đã làm gì không đúng với cô bé đó để rồi phải chết giống như cái cách mà Xoan
bị giết hay không…? Và hình như cô cũng biết chuyện gì đó, người chết đúng là đã
chết, nhưng những gì xảy ra sau cái chết của họ không phải đơn giản. Tôi mong cô
nếu biết gì hãy kể cho tôi nghe, có như vậy tôi mới giúp được cô cũng như linh hồn
của những người đã chết được an ủi phần nào. Như vậy cả cô cũng như con cô sau
này mới có thể sống yên ổn được.

Ông Vọng nói thêm vào :

-- Giờ tôi cũng đành nói, đây là thầy Lương, một người đã quá bộ đi qua làng ta.
Không giấu gì cô, làng ta thoát được nạn do nguồn nước độc gây ra cũng là nhờ thầy
Lương đây cả. Xác chồng cô hôm bữa chết nổi dưới giếng cũng là nhờ thầy Lương
bày cách đưa lên. Bản thân cô chắc hẳn trong lòng vẫn còn nhiều vướng mắc, cứ nói
hết ra biết đâu thầy lại giúp được.

Nghe trưởng làng nói xong, vợ Mão ôm mặt khóc nức nở, vừa khóc cô ta vừa mếu
máo đến nấc cả lên :

-- Hức...vâng….em xin nói….Đúng là lão chồng em đã giở trò đồi bại với con bé Mị.
Tối cái hôm mà bác trưởng làng đến nhà cô Xoan vì đàn gà chết ấy, chập tối, lão Mão
nhà em cũng đi đâu đó. Đàn bà đa nghi, em để lão đi một lúc xong mới giả bộ sang
bên nhà cái Xoan tính xin ít muối. Em thề với hai bác là em cũng không nghĩ lão
chồng em lại làm trò đó, bởi trước khi lão đi em cũng thấy cái Xoan đi ra khỏi nhà rồi.
Em rón rén sang thì bắt gặp, lão chồng khốn nạn nhà em đang sàm sỡ con bé mù, cái
Mị, con nhà Xoan. Sao lão ta lại có thể đốn mạt đến thế cơ chứ. Nhưng lúc đó không
có ai thấy, em mới cắn răng lôi lão về nhà. Đến tối, em thấy cái Xoan hét toáng lên
ầm ỹ, tưởng nó biết việc lão Mão giở trò với con nó nên nó muốn làm lớn chuyện.
Hóa ra không phải, lúc nó về phát hiện đàn gà bị chết hết, sau ấy thì nó chạy đi báo
bác trưởng làng. Phần em ở nhà cũng gặng hỏi chồng, lão cũng nói nhìn thấy gà chết
nhưng không phải do lão làm. Tính lão em biết, chỉ mê gái, trăng hoa chứ gan chuột
nhắt, không dám làm chuyện hạ độc đâu. Hu...hu...hu đời em lấy phải thằng chồng
không để đâu cho hết nhục…..Trước khi cái Xoan bị giết, em cũng chỉ nghĩ lão đi uống
rượu ở đâu đó rồi trên đường về ngã xuống giếng, nhưng đến khi cái Xoan bị giết,
mà nghi phạm là cái Mị thì em cũng đã nghĩ đến việc lão Mão chết là do cái Mị. Vì
trong làng ai cũng đồn, con bé Mị bị ma nhập, quỷ khiến…...Thế cho nên hôm nay em
vội đưa con bé con sang nhà cậu mợ nó gửi vài hôm, không biết thực hư thế nào
nhưng em cũng sợ lắm. Nay nghe hai bác nói vậy em lại càng tin vào cảm giác của
mình là đúng…..Giờ em phải làm sao đây hả bác Vọng, bác cứu em với, chuyện chồng
em thì thôi để nghiệp em gánh cũng xong, chỉ mong linh hồn hai mẹ con nó đừng ám
ảnh đến con em, nó còn bé không biết gì cả. Em cầu xin hai bác cứu giúp.

Vậy là đã rõ, lý do mà Mị giết Mão chính là vì cô bé đã bị mão giở trò đồi bại, không
biết Mão đã làm điều này bao nhiêu lần và bắt đầu từ bao giờ. Nhưng thật khốn khổ
khốn nạn cho một cô bé bị mù, bị câm. Không thể nhìn thấy cũng không thể nói
được, không dám tưởng tượng những đau đớn, tủi nhục mà nó đã trải qua.

Thầy Lương khẽ đáp :

-- Cô đừng lo, con bé không có ý hại đến mẹ con cô đâu. Nó chỉ báo oán những ai đã
gây tội nghiệt với nó mà thôi. Ngoài chuyện đó ra, cô còn biết gì về quá khứ của cô
Xoan không, khoảng thời gian chồng Xoan còn sống chẳng hạn…?

Vợ Mão trả lời :

-- Nếu không có vụ bắt được chồng gian díu với cái Xoan thì thực tình tôi cũng
thương nó lắm. Làng này ai cũng biết chú Mạnh chú ấy hiền lành, yêu vợ, thương
con. Chẳng hiểu làm sao đẻ ra đứa con lại bị mù, bị câm. Khi chú Mạnh mất, thấy cái
Xoan tôi lại càng thấy tội hơn. Nhưng một vài lần tôi thấy nó gắt gỏng với con bé, sau
này khi nó ngủ với chồng tôi, tôi còn nghe được một chuyện…..Nhưng đây chỉ là
nghe nói, sợ nói ra không đúng thì lại báng bổ người chết.

Thầy Lương hỏi :

-- Cô cứ nói đi.

Vợ Mão đáp :


-- Hình như trước khi cưới chú Mạnh…..cái Xoan….cái...Xoan nó làm….gái trên huyện.

Càng nói thì càng lúc ông Vọng lại càng đi từ hoang mang này đến bàng hoàng khác.
Ông không dám nghĩ trong làng mình lại xảy ra nhiều chuyện có thể nói là đáng khinh
bỉ như vậy. Nhất là việc Mão dâm ô với một đứa bé gái chỉ độ 12 tuổi, chưa kể đứa
bé đó còn bị khuyết tật bẩm sinh. Vậy mà xưa nay ông vẫn nghĩ mọi người dân trong
làng đều sống với nhau bằng cái tình, cái nghĩa, sự thật do chính người trong cuộc
chứng kiến kể lại khiến ông Vọng cảm thấy sốc vô cùng. Nhưng chưa hết, đó vẫn
chưa phải là tất cả, còn những sự thật phía sau đã xảy ra trong quá khứ có thể còn
kinh khủng hơn nhiều nếu ông tiếp tục cùng thầy Lương đi tìm hiểu.

Ông Vọng hỏi vợ Mão :

-- Còn lang Phan, cô có biết lang Phan có liên quan gì đến gia đình cô Xoan đó hay
không..?

Vợ Mão lắc đầu :

-- Cái này thì em không biết, lão Phan đó có mấy khi qua lại với ai ở khu này đâu. Chỉ
trừ khi nhà nào có bệnh mời lão đến khám, đến bốc thuốc…..Nhắc đến lão Phan thì
em đâu chỉ nhìn thấy lão mấy lần từ hồi mà chú Mạnh còn sống, lão có đến nhà
khám bệnh cho cái Mị, khi ấy nó còn nhỏ xíu. Nhà lão giàu thế thì giao du gì với cái
đám nghèo như nhà cái Xoan chứ.

Có vẻ như vợ Mão không biết gì hơn, thầy Lương nói :

-- Chuyện chồng cô, nếu cô tin tưởng thì tôi sẽ chỉ cho cô điều này. Hiện nay chồng
cô chỉ còn lại tro cốt, nhưng người chết đuối, lại trúng nước độc đến xác không còn
nguyên vẹn sẽ rất khó siêu sinh, cộng thêm những tội nghiệt lúc còn sống sẽ càng
khiến linh hồn của chồng cô bị đày ải. Dù sao cũng đã biết chuyện, tôi khuyên cô nên
đem tro cốt của chồng đến nương nhờ một ngôi chùa, cách đây khoảng 10 dặm về
hướng bắc, nằm ngoài địa giới của làng này, có một ngôi chùa tên là chùa Thuận
Thiên, trước khi đến đây tôi có qua đó xin nước uống. Ở đó có một vị cao tăng pháp
danh là Thích Tâm Châu, là một người tu hành có đức độ, tại đó tôi cũng có cơ duyên
được đàm đạo với vị cao tăng đó. Hãy mang tro cốt của chồng cô đến đó nói có thầy
Lương kính cẩn cúi đầu, trăm sự nhờ vả, nương nhờ vào cửa chùa, ngày ngày nương
theo tiếng kinh phật, hương khói thanh tịnh nơi chùa, sẽ giảm bớt được nghiệp lúc
còn sống. Tôi chỉ có thể giúp được đến vậy thôi.

Chùa Thuận Thiên quanh đây ai cũng từng nghe, vợ Mão nghe xong vội chắp tay cúi
đầu cảm tạ thầy Lương rồi ra về.

Sau khi vợ Mão đi khỏi, thầy Lương nói với ông Vọng :

-- Tối nay cảm phiền bác Vọng đi cùng tôi một chuyến tới nhà Bảy Dao.

Ông Vọng hỏi :


-- Sao không đi bây giờ..?

Thầy Lương trả lời :

-- Buổi tối, khi màn đêm buông xuống, khi đó con người ta sẽ để lộ ra điều mà khiến
họ ám ảnh và sợ hãi nhất. Chắc chắn Bảy Dao đang giấu kín một chuyện gì đó, nhưng
với con người này, để hắn ta chịu nói ra thì cần sử dụng một chút mánh khóe mới
được.
#Miếu_Hoang - Tác Giả Trường Lê.

#Chap50 : Nỗi Sợ Của Bảy “ Dao “.


Khoảng 6h tối, ông Vọng dẫn thầy Lương đến nhà Bảy Dao, nhà Bảy Dao nằm khuất
trong một con ngõ nhỏ xung quanh toàn là đồng ruộng. Hãy còn sớm nên trong nhà
vẫn sáng ánh đèn. Trước cổng nhà Bảy Dao có hai cây sanh khá um tùm, ông Vọng
định gọi thì thầy Lương khẽ nói :

-- Khoan đã, bác đợi tôi một chút.

Nói rồi, thầy Lương lấy ra một vài tờ giấy đã chuẩn bị từ trước, trên mỗi tờ giấy đều
có những nét vẽ bằng mực tàu loằng ngoằng, ông Vọng có nhìn nhưng chẳng hiểu gì
cả, mỗi tờ giấy đều được xỏ qua một sợi chỉ đỏ. Buộc lên hai cây xanh mỗi cây vài tờ,
xong xuôi, thầy Lương gật dầu :

-- Được rồi, giờ bác gọi Bảy Dao đi.

Ông Vọng gọi to :

-- Chú Bảy ơi, chú Bảy có nhà không..?

Ngay sau câu đầu tiên, Bảy Dao mở cửa ngó đầu ra ngoài, trời tối tuy không nhìn
thấy mặt nhưng nghe tiếng, Bảy biết đó là ông Vọng trưởng làng, vội vàng chạy ra
Bảy đáp :

-- Bác Vọng phải không..? Cổng khép, bác cứ mở mà vào.

Bước vào trong nhà, thầy Lương với ông Vọng thấy khói nhang bay nghi ngút, không
chỉ vậy trong nhà Bảy còn dán một số lá bùa ở đầu giường và trước cửa ra vào, trên
tường nữa.

Bảy ấp úng hỏi ông Vọng :

-- Bác trưởng làng đến tìm tôi chẳng hay...có...có việc gì vậy…?

Ông Vọng đáp :


-- À, cũng không có gì đâu, tôi đến để hỏi thăm xem chuyện lo ma chay cho mẹ con
cô Xoan mất bao nhiêu tiền, tại tôi vẫn còn cầm một ít tiền ủng hộ từ vài nhà trong
làng. Có gì tôi đưa cho chú lo liệu.

Bảy xua tay :

-- Ấy, không cần đâu….Chẳng đáng là bao, tôi đã nói rồi mà, nghĩa tử là nghĩa
tận….Tôi thấy hoàn cảnh mẹ con cô ấy khổ thì tôi giúp thôi, bác Vọng đừng quá suy
nghĩ.

Vội mời ông Vọng và thầy Lương ngồi xuống, Bảy rót nước nhưng dù Bảy có cố gắng
bình tĩnh thì vẫn để lộ chút gì đó hốt hoảng, sợ hãi trên khuôn mặt. Rót nước xong,
vừa ngồi xuống thì Bảy giật mình khi người đàn ông đi cùng ông Vọng, là thầy Lương
khẽ hỏi :

-- Nhà chú Bảy hình như là đang dán bùa trừ ma phải không…?

Ban đầu Bảy chối :

-- Dạ….không...không….bùa ngải gì đâu….mấy thứ đó dán cầu tài ấy mà….Sao bác lại
nói thế….Hì hì…

Thầy Lương nhấp ngụm nước rồi tiếp tục :

-- Vậy sao…? Tại tôi chưa từng thấy bùa cầu tài nào lại viết chữ “ 杀“(Sát ) ngay
chính giữa hình bát quái thế kia cả. Chữ đó có nghĩa là “ Giết “, bao quanh chữ “ Sát “
là những nét vẽ trận đồ…..Tuy nhiên bùa này vô dụng.

Bảy Dao tròn mắt, cũng đã nhìn thấy thầy Lương ở nhà Xoan, nhưng khi đó thầy
Lương đi cùng ông Vọng nên Bảy chỉ nghĩ là người quen của ông Vọng mà thôi. Nay
vừa vào nhà, nhìn qua mấy lá bùa dán trên tường người này lại có thể đọc thông
vanh vách những chữ, ký hiệu trên lá bùa, cứng họng chưa biết nói gì thì ông Vọng
nhìn Bảy nói :

-- Đây là thầy Lương, bà con xa của tôi đến chơi. Ông ấy cũng biết một chút ít về
phong thủy, bùa phép, những ngày qua chuyện trong làng là tôi cũng nhờ ông ấy
giúp đỡ đấy.

Nghe vậy, Bảy vội cúi đầu xuống rối rít xin lỗi :

-- Thầy cho tôi xin lỗi, đúng là tôi đã múa rìu qua mắt thợ rồi….Nhưng thầy nói bùa
này vô dụng là sao ạ…?

Thầy Lương đáp :

-- Bởi vì người vẽ bùa này đến chữ còn viết sai thì làm sao bùa có tác dụng được, thứ
bùa này chỉ lừa được những người không hiểu biết mà thôi. Trận pháp được vẽ trên
bùa cũng chỉ là học lỏm lại nên nét vẽ nguệch ngoạc, chỗ thừa, chỗ thiếu…..Vậy nên
mấy lá bùa kia là thứ vô dụng. Tôi không phải người làng này, nhưng tôi xin đươc
phép nói thẳng, có thể hai người tin hay không thì tùy vào hai người, ban nãy khi
đứng ngoài cổng, tôi có cảm giác ngôi nhà này có điều gì là lạ, đi từ đầu ngõ vào cả
một đoạn đường đất nhưng không thấy gì, vậy mà đứng trước cổng có ít thời gian đã
cảm nhận được không khí lạnh hẳn so với chỗ khác. Tôi e là quanh nhà này đang có
âm hồn vất vưởng. Vào trong nhà ngửi thấy mùi hương khói bay nghi ngút, chú Bảy
đây không biết thắp hương vào buổi tối là dẫn gọi vong hồn người đã chết về hay
sao…?

Bảy Dao nghe thầy Lương nói câu nào thì lạnh sống lưng câu đấy, đột nhiên Bảy nổi
cả da gà khi mà một cánh cửa sổ bất ngờ bị gió thổi bung ra. Gió từ hướng ngoài
cổng ở đâu lùa vào khiến cho Bảy cảm thấy lạnh cóng cả người.

Bất chợt thầy Lương chỉ tay về phía cửa sổ, nơi nhìn ra ngoài cổng có hai cây sanh. Cả
ông Vọng cũng nhìn theo, từ trên hai cây sanh có thứ gì đó bùng cháy lên rồi lập lòe
chớp tắt, sau đó thì ánh lửa biến mất.

Bảy Dao sợ quá hét toáng lên trong vô thức :

-- Ma….ma…..

Ngay lập tức, Bảy quỳ xuống đất dập đầu lia lịa về phía cửa sổ, miệng không ngừng
van xin :

-- Xoan ơi, đừng….đừng giết tôi….Tôi chưa bao giờ làm hại em cả…...Xin em….xin em
đừng giết tôi….Tôi hứa….tôi hứa...sẽ nhang khói…..chăm...lo mộ phần...cho em...đầy
đủ…….Tha...tha...cho...tôi…..Hu...hu….

Hành động của Bảy Dao khiến cho ông Vọng cũng phải giật mình, trong lúc Bảy Dao
còn đang quỳ lạy van xin thì thầy Lương đứng phắt dậy, ông lao thẳng đến cánh cửa
sổ, rút trong người ra một lá bùa màu đỏ, ông dán lá bùa vào song cửa sổ rồi đưa hai
ngón tay lên ngang cằm, nhắm mắt niệm chú, sau đó thầy Lương hét lớn :

-- Có ta ở đây, tà mà đừng hòng làm bậy.

Vừa dứt lời, thầy Lương đưa hai ngón tay chĩa thẳng ra phía cửa sổ rồi chém vào
khoảng không trước mặt, lập tức lá bùa bùng cháy. Ngay sau đó thì gió lặng, cánh
cửa sổ chẳng ai kéo cũng đóng sập lại như lúc ban đầu.

Chứng kiến cảnh tượng đó, đến ông Vọng cũng còn phải tròn mắt ra nhìn không dám
chớp, riêng Bảy Dao lại càng thảng thốt hơn, không, phải nói Bảy bàng hoàng mới
đúng. Vẫn giữ thế quỳ, Bảy Dao đi bằng đầu gối đến trước mặt thầy Lương, gã dập
đầu lạy sống thầy Lương, mồm mếu máo, vừa khóc vừa nói :

-- Thầy, con đội ơn thầy…..Thầy ơi, thầy đã làm phúc thì làm phúc cho trót….Thầy
cứu con với, nếu không chắc con chết mất….Ban nãy chính là mẹ con cái Xoan nó về
tìm con đấy…...Hu hu hu…..ai dây vào nó cũng đều chết cả…..Chắc con không sống
được bao lâu nữa. Thầy cứu con với, mất bao nhiêu tiền con cũng chịu.

Thầy Lương đỡ Bảy dậy rồi khẽ thở dài :

-- Vậy là chú Bảy cũng biết phải không…? Đúng là ban nãy, khi mà bên ngoài cổng
xuất hiện lửa cháy như lửa ma trơi thì lúc sau có âm hồn đứng ngay bên ngoài cửa
sổ. Tạm thời tôi đã đuổi nó đi rồi, tuy nhiên nếu không giải quyết một cách triệt để
thì âm hồn đó sẽ còn quay lại.

Bảy Dao chắp tay van lài :

-- Thầy, thầy chắc chắn là có cách, thầy cứu con với….Mất gì con cũng xin chịu.

Thầy Lương điềm tĩnh đáp ;

-- Bình tĩnh lại đã, mọi chuyện đều có cách giải quyết, nhưng trước đó tôi phải biết
nguyên nhân của sự việc, cũng như tại sao, lý do gì mà âm hồn đó lại đến đây tìm
anh. Có như vậy thì tôi mới giúp anh giải trừ khúc mắc trong lòng được. Khi nãy anh
có nói đó là hồn ma của cô Xoan, tại sao lại là cô Xoan…? Nếu anh không kể thành
thật thì e là tôi không giúp được đâu.

Ông Vọng hiểu thầy Lương đang tìm hiểu về Xoan qua Bảy Dao, nhưng quả thực khi
nãy chứng kiến toàn bộ sự việc, ông Vọng cũng phải sợ khi mắt thấy những thứ
không tưởng. Nhưng nghĩ kỹ lại thì trước thầy Lương có nói, khả năng của thầy bị kết
giới do trấn yểm của Cao Côn tạo ra phong bế. Ông Vọng chưa biết khả năng thực sự
của thầy Lương là gì, nhưng dù như vậy mọi thứ mà thầy Lương phán đoán, suy tính
đều chi tiết, tỉ mỉ một cách đáng kinh ngạc. Vốn ông Vọng đã nể phục thầy Lương
lắm rồi, mà nay nhìn thầy Lương thi triển bùa phép ông lại càng nể hơn, dù có thêm
cả một chút sợ nữa.

Chẳng cần phải nói nhiều, Bảy Dao lúc này sợ đến kinh hồn bạt vía, Bảy bắt đầu kể lại
hết tất cả những gì mình và Xoan đã làm trong khoảng thời gian gần đây và lý do vì
sao Bảy lại nói những ai liên quan đến Xoan đều chết.
#Miếu_Hoang - Tác Giả Trường Lê.

#Chap51 : Kịch Độc Giết Người.


Trước khi vào câu chuyện, Bảy xin phép được thắp nén nhang, phần là để tỏ lòng
thành, phần vì Bảy muốn thề trước ban thờ, trước linh hồn Xoan rằng mình không
làm gì có lỗi cả.

Thắp nhang xong, lấy lại được chút bình tĩnh, Bảy nói :

-- Thực ra tôi và cô Xoan đã ăn nằm với nhau nửa tháng trở lại đây. Trước khi Xoan
chết, hôm hôm trước đó Xoan có ở lại đây đến nửa đêm mới về. Nhưng có ông trời,
có hai bác ở đây chứng giám, tôi thề là tôi với Xoan chỉ có quan hệ nam nữ, tôi còn
yêu thương Xoan thật lòng, còn muốn công khai với cả làng ấy chứ. Tôi thì vợ bỏ,
Xoan thì chồng cũng đã chết 4 năm nay. Tôi đâu có làm gì sai đâu…?

Ông Vọng hỏi :

-- Vậy sao chú lại sợ đến mức phải đem bùa về nhà dán, khi nãy chú còn nói hồn ma
của cô Xoan về đây tìm mình, rồi ai liên quan đến cô Xoan cũng chết là sao…?

Bảy thành thật :

-- Dạ vâng, đó là do tôi sợ quá…..Vì Xoan bị giết chết một cách kinh khủng như vậy,
mà mới hôm trước cô ấy còn ngủ lại đây….Tôi lo hồn ma cô ấy sẽ quay về nhà mình
nên mới nhờ bà Điều vẽ cho mấy lá bùa trừ ma dán trong nhà. Còn...còn chuyện tôi
nói ai liên quan đến Xoan đều chết là...là thật đấy…...Bác Vọng còn nhớ cái chết của
lang Phan và tay Mão chứ. Hai bác không biết đâu, cả hai gã đó trước kia cũng đều
ăn nằm với Xoan cả. Chẳng hiểu tại sao trong vài ngày hai lão ấy lại chết liên tiếp.

Ông Vọng cau mày :

-- Chú nói sao…? Cả lang Phan cũng từng gian díu với cô Xoan, người ta chết rồi, chú
đừng có mà dựng chuyện.

Bảy xua tay, mặt tái nhợt, Bảy nói :

-- Tôi thề là tôi nói thật, nói sai câu nào sét đánh chết tôi giữa đường. Cái này là
chính miệng Xoan nói cho tôi biết. Chuyện này ngay cả đến vợ lão Phan cũng không
biết đâu.

Ông Vọng vẫn không tin, ông nói :

-- Không thể nào, lang Phan xưa nay bốc thuốc cứu người, nhà ông ta cũng là nhà gia
giáo, lại giàu có, làm sao có chuyện này được. Hơn nữa nếu có thì sao mà giấu nổi.

Thầy Lương vẫn im lặng, nhìn ông Vọng, thầy Lương khẽ nói :

-- Bác cứ để cho chú Bảy kể hết đi đã. Tôi đã nói rồi, trong làng này có những chuyện
mà có thể bác trưởng làng có nằm mơ cũng không tưởng tượng được đâu.

Bảy Dao kể tiếp :

-- Chuyện này do chính Xoan nói, cô ta kể với tôi mấy năm trước có ngủ với lang
Phan. Lý do cô ta kể chuyện này là bởi vì tôi nói tôi sẽ cưới cô ấy làm vợ, sẽ chăm lo
cho cô ấy….Thì cô ấy lôi chuyện với lang Phan ra bảo rằng đến người như lang Phan
còn hứa suông thì làm sao tin tôi được. Khi ấy tôi mới tò mò hỏi thêm thì biết được,
lang Phan có ăn nằm với cô ta vài lần, và lão ta cũng hứa sẽ lấy cô ta về làm bà hai.
Nhưng rồi nuốt lời không thực hiện…...Mà lúc đó chồng cô ta mới chết được đâu 1
năm. Đổi lại lang Phan cho cô ta một số tiền lớn. Mà không chỉ lang Phan, cả gã Mão
hàng xóm nữa, cũng trốn vợ cặp kè với Xoan rồi bị bắt quả tang. Trước nay tôi không
tin chuyện ma quỷ, ban đầu cô ấy còn đem cái chết của hai lão kia ra dọa tôi, bảo
rằng tôi mà đối xử với cô ấy không tốt, thì cũng sẽ chết như hai lão kia cho mà xem.
Tôi còn cười thách thức…..Vậy mà sau đó vài hôm cô ta chết, lúc phát hiện xác chết
trong nhà tôi cũng là người chạy vào xem…..Nhìn cảnh tượng đó tôi sợ suốt đêm
hôm qua không ngủ được. Sáng nay lại nghe tin cả con gái cô ấy cũng chết…..Tôi….tôi
lo rằng những ai liên quan đến Xoan đều sẽ phải chết dần dần.

Thầy Lương nhoe mày, ông suy nghĩ trong đầu :

“ Thì ra là vậy, vậy là ta đã đoán đúng, lang Phan kia cũng có quan hệ bất chính với
Xoan. Nhưng nếu chỉ như vậy thì hắn ta không đáng phải chết, cũng như tay Bảy này,
cái chết của lang Phan, của Mão, của Xoan đều được Mị báo trước qua những bức vẽ
dưới hiên nhà, trên tường….Nhưng lại không có Bảy, do vậy lý do mà cô bé Mị kia
báo oán những kẻ phải chết không phải vì những kẻ đó ngủ với mẹ cô bé. Mão chết
là do hắn đã giở trò đồi bại với cô bé, còn lang Phan…...Lý do còn kinh khủng hơn
nhiều….Bộ xương người trong bọc vải…..Xương đen, ngôi mộ bị đào bới…...Tất cả,
tất cả đã được giải thích toàn bộ nguyên nhân sau lời kể của Bảy Dao. Một hồn ma
vừa đáng thương lại vừa mang tội nghiệt vì ra tay giết chết người đẻ ra mình. Đáng
tiếc, đáng tiếc…..”

Cũng không còn gì để hỏi nữa, thầy Lương nói :

-- Chuyện của chú Bảy tôi đã nghe xong, dù sao chú Bảy đây cũng là người cuối cùng
đầu ấp tay gối với cô Xoan trước khi cô ấy chết. Vậy nên sau này, việc nhang khói cho
cô ấy mong chú lo liệu, như vậy cũng một phần giúp cho bản thân chú Bảy cảm thấy
thanh thản. Không biết chú Bảy có đồng ý không…?

Bảy Dao vội đáp :

-- Dạ được, được….Thầy cùng bác Vọng cũng biết rồi đấy, tôi không ngại bỏ tiền ra
để lo liệu ma chay cho mẹ con Xoan. Việc nhang khói, mộ phần tôi chắc chắn làm
được. Nhưng liệu như vậy có khiến cho cô ấy không ám ảnh, hay hại chết tôi
không..?

Thầy Lương khẽ nói tiếp :

-- Đừng lo, về việc giúp cho linh hồn mẹ con cô Xoan tôi đã có dự liệu, trong vài ngày
tới chỉ cần chú Bảy thực hiện theo lời tôi là được. Yên tâm đi, tất cả rồi sẽ ổn thôi, chỉ
cần sau này chú Bảy chăm làm việc thiện, giúp ích cho mọi người thì không còn phải
lo lắng gì nữa. Nay tôi đưa cho chú Bảy một đạo bùa bình an, giữ nó trong người sẽ
tránh được tà mà. Bùa này do chính tay tôi làm, không phải loại bùa dán trên tường
kia đâu.

Bảy nhận lấy bùa rồi cảm ơn thầy Lương rối rít, trước khi thầy Lương và ông Vọng ra
về, Bảy đi theo khẽ nói với ông Vọng :
-- Bác Vọng, chuyện hôm nay tôi kể, mong bác đừng nói ra cho người ngoài biết….Dù
sao Xoan cũng mất rồi, tôi không muốn dân làng dị nghị.

Ông Vọng gật đầu :

-- Tôi sẽ không nói ra đâu, có những chuyện nên giữ kín sẽ tốt hơn. Mà chuyện thầy
Lương giúp chú, chú cũng nên giữ kín. Thầy ấy làm vì thương người, tích đức chứ
không mong báo đáp. Chuyện xảy ra như nào thì chú cũng tận mắt nhìn thấy rồi đấy.
Sau cố gắng thực hiện theo như lời thầy ấy dặn. Thôi, tôi về đây.

Bảy Dao cảm kích suýt khóc, một người như gã không ngờ cũng có ngày ủy mị đến
như vậy. Nhưng nhờ thầy Lương, Bảy Dao cuối cùng cũng trút bỏ được gánh nặng
trong lòng từ hôm qua cho đến nay. Có lúc Bảy kinh sợ đến hoảng loạn, giờ nhờ thầy
Lương, mọi chuyện xem như đã ổn.

Trên đường về, ông Vọng hỏi thầy Lương :

-- Những tấm giấy thầy treo trên hai cây xanh trước cửa nhà Bảy Dao ban nãy đã
cháy phải không..?

Thầy Lương mỉm cười đáp :

-- Đúng vậy…? Trước khi đến nhà Bảy Dao tôi đã nói cần dùng chút mánh khóe mà.

Ông Vọng tiếp :

-- Nhưng tại sao gió lại thổi mở toang cánh cửa sổ, sau đó tấm bùa thầy dán trên
song cửa bốc cháy, lát sau cánh cửa lại như có người đóng lại. Thú thật tôi không
dám tin vào những gì mà mình chứng kiến.

Thầy Lương trả lời :

-- Đó cũng chỉ là một vài thủ thuật của tôi thôi, bác trưởng làng đừng quá bận tâm
đến những chuyện đó. Có những thứ không nên biết rõ thì tốt hơn. Mấu chốt của
vấn đề chính là chúng ta đã tìm hiểu được một phần quá khứ của cô Xoan. Qua đó
biết, lang Phan chết cũng là có nguyên nhân. Giờ thì tôi đã hiểu tất cả…

Ông Vọng nói :

-- Nhưng tôi thực sự không dám tin lang Phan lại là người gian díu cả với cô Xoan.
Tuy ít tiếp xúc, nhưng lang Phan xưa nay luôn tỏ ra là một người dạo mạo, có lương
tâm, sao lại làm trò đó cơ chứ….Nhất là sau khi chồng cô Xoan mất chưa đầy 1 năm.

Ven đường hai bên là bờ ruộng, tiếng ếch nhái kêu râm ran, đoạn đường đất dẫn về
nhà ông Vọng lúc này đã tối om vì người dân xung quanh hầu như nhà nào cũng tắt
đèn đi ngủ nghỉ từ sớm.
Rặng tre khẽ lao xao, rì rào, thi thoảng lại vang lên những tiếng kẽo kẹt, đã đi qua
nhà lang Phan, thầy Lương bây giờ mới trả lời câu hỏi của ông Vọng, thầy Lương nói :

-- Sự thật có lẽ lang Phan đó đã gian dâm với cô Xoan kia trước khi cậu Mạnh chết.
Nghĩa là dù chồng chưa chết, nhưng với bản tính của mình, Xoan đã qua lại với lang
Phan. Cũng từ đây mới xảy ra chuyện, lang Phan giết chết Mạnh, cũng là bố của cô
bé Mi.

“ Kẹt….kẹt...ẹt….ẹt…”

Tiếng những cây tre bị gió thổi đung đưa vang lên gai người, ông Vọng sởn gai ốc khi
nghe lời nói từ thầy Lương, trong lúc ông Vọng còn đang bàng hoàng thì thầy Lương
khẽ hỏi :

-- Bác trưởng làng, có phải bác nói, cậu Mạnh đó trước khi chết đã phát bệnh, nôn
mửa, cơ thể suy kiệt, tóc rụng, mặc dù trước đó vẫn thấy cậu ta đi làm đồng khỏe
mạnh phải không…?

Ông Vọng quả quyết :

-- Đúng như vậy, trước khi cậu ta chết tầm 3 hôm, tôi vẫn gặp ngoài đường, còn chào
tôi…Năm ngày sau thì nghe tin cậu ấy bị trúng phong hàn rồi chết, trước khi cậu ấy
chết tôi còn đến thăm, thấy triệu chứng đúng như những gì tôi kể với thầy.

Thầy Lương khẽ thở dài :

-- Đó không phải là phong hàn, cậu Mạnh, bố cô bé Mị đã bị đầu độc mà chết, bởi
vậy xương cốt đến tận 4 năm sau vẫn chuyển màu đen xì. Chất độc giết chết cậu
Mạnh nhiều khả năng chính là Thạch Tín…….
#Miếu_Hoang - Tác Giả Trường Lê.

#Chap52 : Hình Nhân Yểm Hồn.


Trở về nhà, đóng cổng, đóng cửa, ngồi xuống ghế mà ông Vọng vẫn chưa hết bàng
hoàng bởi những gì mà thầy Lương nói trên đường đi.

Ông Vọng cố gắng hỏi lại thêm một lần nữa, bởi ông không dám tin đó là sự thật :

-- Thầy...thầy Lương…...có khi nào...có khi nào thầy đoán sai rồi không…?

Thầy Lương đáp :

-- Mọi dự đoán đều có thể sai, nhưng có những tình huống, nhưng chi tiết khiến cho
tôi đưa đến kết luận này. Dù sao thì người chết cũng đã chết rồi, tuy nhiên tội ác vẫn
mãi là tội ác. Xương của Mạnh chuyển màu đen dù đã chôn 4 năm, xương này không
phải của người bị mắc bệnh xương đen, bởi có những đoạn xương vẫn ngả màu vàng
trắng. Đó là xương của người bị trúng độc, một loại kịch độc được sử dụng với liều
lượng lớn. Chất độc này khiến cho người bị hạ độc chết nhanh chóng, do vậy dù đã
chết nhưng độc chưa thể tiêu tán, sẽ ngấm vào xương tủy. Do vậy xương người bị
trúng độc mới có màu đen. Còn tại sao tôi lại nói chất độc giết chết Mạnh có thể la
Thạch Tín, bởi những triệu chứng trước khi chết của Mạnh mà bác trưởng làng nhìn
thấy hoàn toàn giống với người bị đầu độc bằng Thạch Tín. Đúng là Thạch Tín có thể
dùng để chữa sốt rét, phong hàn…..Nhưng đó là khi chỉ sử dụng một lượng rất nhỏ,
nếu sử dụng quá nhiều, dùng với liều lượng lớn, người uống phải Thạch Tín sẽ bị ngộ
độc mà chết. Căn cứ vào xương của Mạnh, vào những triệu chứng trước khi Mạnh
chết, tôi nghĩ cái chết của Mạnh là do nhiễm độc Thạch Tín. Xưa nay các thầy lang
hành nghề y vẫn dùng Thạch Tín như một vị thuốc chữa bệnh. Chính vì vậy, ngoài
lang Phan tôi thực sự không nghĩ được ra ai khác có thể dùng chất kịch độc này để
hại chết Mạnh.

Mọi phân tích của thầy Lương hoàn toàn hợp lý, ông Vọng run run giọng nói :

-- Nhưng…...chẳng lẽ lang Phan đó giết Mạnh chỉ vì cô Xoan kia…?

Thầy Lương gật đầu đáp :

-- Lý do thì chỉ có như vậy…? Theo lời Bảy Dao, chính miệng Xoan kể đã có một thời
gian ăn nằm với lang Phan. Tôi đồ rằng họ đã gian dâm ngay khi Mạnh vẫn còn sống.
Và rất có thể, sự việc này đã bị Mạnh phát hiện, sợ bị phát giác nên Xoan và lang
Phan đã lên kế hoạch giết chết Mạnh. Tất nhiên nếu giết bằng những cách thông
thường ắt hẳn sẽ sinh nghi, không may bị bại lộ, hai người bọn họ cũng khó mà sống.
Bởi vậy, giết người bằng Thạch Tín chính là cách hữu hiệu nhất, chẳng phải trong
làng ai cũng nghĩ Mạnh đã bị nhiễm phong hàn rồi chết hay sao. Triệu chứng của
phong hàn cũng giống như nhiễm độc Thạch Tín vậy, có điều nếu là phong hàn thì
xương của Mạnh không biến thành màu đen như vậy được. Một kế hoạch quá ư độc
địa, cả lang Phan và Xoan đã nghĩ ra cách giết người diệt khẩu tinh vi và vô cùng
thâm độc. Bác trưởng làng cũng nói, lang Phan là người bề ngoài rất gia giáo, đạo
mạo, gia đình lại giàu có. Những kẻ như vậy rất sợ danh dự bị hạ thấp, liêm sỉ bị bôi
nhọ. Một thầy lang được cho là đức độ lại đi gian dâm với một người phụ nữ đã có
chồng. Sẽ ra sao nếu tin này được lan truyền ra bên ngoài. Họ đã chọn cách giết
người, cậu Mạnh tội nghiệp kia có lẽ chết đi cũng không ngờ được rằng mình bị vợ
và người tình của vợ sát hại.

Ông Vọng nghe đến đâu, chân tay ông bủn rủn đến đó, toàn thân ông lạnh cóng, tóc
gáy dựng đứng bởi những điều mà thầy Lương nói ra quá ghê rợn. Nó xảy ra ngay
trong làng Văn Thái, nơi mà xưa nay ông luôn tự hào rằng người dân dù nghèo
nhưng thấm đẫm tình làng, nghĩa xóm...Vậy mà giờ đây, cái chết của Mạnh 4 năm
trước được tái hiện lại qua lời nói của thầy Lương như đang tái hiện ngay trước mắt
ông.

Thầy Lương tiếp tục :

-- Nếu không phải là lang Phan thì tại sao trên hiên nhà cô Xoan đó, cô bé Mị lại vẽ
hình một người đàn ông treo cổ trên cây trước cửa nhà. Lang Phan chết là do cô bé
Mị báo oán khi đã bán linh hồn cho ma quỷ. Cô bé bị mù, bị câm nhưng nó vẫn có thể
nghe được những gì xảy ra xung quanh. Chắc chắn việc mẹ nó và lang Phan gian dâm
đã xảy ra ngay trong nhà Mạnh, và cô bé nghe được tất cả. Nhưng nó lại không thể
nói, cũng không thể nhìn…...Cho đến khi người bố hết mực thương yêu, lo lắng, và là
người chăm sóc cho nó bị giết hại. Đứa bé đó đã sống những năm qua với lòng thù
hận, với sự uất ức, với cả nỗi đau đớn không thể lành…..Tất cả những thứ đó đã dẫn
dụ linh hồn nó tiếp xúc với ma quỷ. Khi oán niệm của cô bé đã lên đến đỉnh điểm, nó
bán linh hồn, giao kèo với ma quỷ để báo oán những kẻ gây ra đau đớn cho bản thân
nó. Kết cục ra sao chúng ta đều đã tận mắt nhìn thấy. Điều cuối cùng cô bé làm chính
là đào mộ của Mạnh, đem xương cốt của người cha tội nghiệp đến đây để chúng ta
cứu giúp.

Ông Vọng khẽ hỏi :

-- Vậy thầy sẽ giúp cô bé thực hiện điều mà nó mong muốn chứ…?

Thầy Lương nhắm mắt lại một lát rồi trả lời :

-- Những kẻ ác đều đã phải đền tội, nói vậy không phải tôi đồng tình với việc cô bé
giết cả mẹ của mình để báo thù. Dù thế nào đi nữa, việc giết cha, giết mẹ, giết người
thân sinh ra mình cũng phạm vào điều đại kỵ. Chưa kể, cô bé Mị đã chết, nhưng linh
hồn giờ có lẽ đã bị đám Tiểu Quỷ đó bắt đi. Chúng là ma quỷ tồn tại hàng trăm năm,
không phải tà ma bình thường, chúng có thể giết người. Sợ rằng cô bé đó khó mà có
thể siêu sinh. Cho dù có đem được hồn phách của cô bé quay lại, nhưng ác nghiệp
giết chết mẹ đẻ cũng khiến cho linh hồn cô bé bị đày xuống địa ngục.

Bi kịch của một gia đình, những điều trái đạo lý mà người lớn làm đã khiến cho một
đứa trẻ sinh ra vốn dĩ đã khốn khổ hơn người thường cả trăm ngàn lần, vậy mà
những năm qua đứa bé đó còn phải chịu bao ấm ức, tủi nhục, đau đớn…...Rồi dù cả
khi chết đi, linh hồn bé bỏng ấy cũng không thoát được cảnh đọa đày, giày vò. Chỉ
nghĩ thôi cũng đủ khiến ông Vọng rớt nước mắt.

Ông Vọng ôm đầu nấc lên thành tiếng :

-- Chẳng lẽ số kiếp của một con người lại khổ tạn cam lai, đến chết cũng không được
giải thoát hay sao…?

Thầy Lương nói :

-- Có lẽ đây chính là lý do mà tôi có mặt tại đây. Cuộc đời luôn có nhân quả, báo ứng,
dường như ông trời muốn tôi giúp họ phần nào hóa giải được nghiệp chướng của
bản thân. Thôi thì đành thuận theo ý trời vậy.

Ông Vọng ngước mắt nhìn thầy Lương, ông Vọng hỏi :

-- Thầy, thầy nói như vậy có phải thầy đã có cách gì đó rồi phải không…?
Thầy Lương đáp :

-- Tôi chỉ cố gắng làm hết khả năng của mình mà thôi. Còn giải nghiệp được đến đâu,
linh hồn của họ có cơ hội được siêu thoát, thậm chí là đầu thai kiếp khác hay không
cũng còn tùy vào duyên số, vào ý trời. Nhưng trời cao có đức hiếu sinh, họ vẫn còn
cơ hội. Tuy nhiên, trước tiên, tôi cần phải cứu linh hồn của cô bé Mị khỏi tay đám
Tiểu Quỷ kia đã.

Ông Vọng thảng thốt :

-- Thầy làm được cả chuyện đó sao…? Nhưng thầy định làm như thế nào…?

Bỗng ông Vọng nhớ lại, khi nãy từ nhà Bảy Dao, lúc đi qua giếng làng, thầy Lương có
ghé qua gốc cây lộc vừng, trời tối nên ông Vọng không rõ thầy Lương đến gốc cây lộc
vừng làm gì, nhưng ông nhìn thấy hình như thầy Lương có ngồi xuống rồi đặt thứ gì
đó vào trong hốc cây. Lạ nhưng khi ấy ông Vọng định hỏi thì thầy Lương đưa tay lên
làm dấu im lặng và nói :

“ Buổi tối cảnh vật thật thanh bình, có điều quá tĩnh lặng, không nên ở lại lâu. “

Nói xong thầy Lương khẽ lắc đầu ngụ ý nhắc ông Vọng không được hỏi hay nói gì cả.
Giờ nghe thấy thầy Lương nói sẽ tìm cách đưa linh hồn cô bé Mị thoát khỏi tay bọn
Tiểu Quỷ. Ông Vọng ngờ ngợ rằng hành động của thầy Lương lúc ở giếng làng chính
là để chuẩn bị cho điều thầy vừa nói.

Như hiểu ý ông Vọng, thầy Lương mỉm cười đáp :

-- Chắc bác trưởng làng đang thắc mắc tôi đã làm gì ở gốc cây lộc vừng phải không…?
Lúc đó tôi đã đặt một hình nhân bện bằng rơm vào cái hốc ngay dưới gốc cây. Hình
nhân đó được yểm một phần hồn phách của tôi, chỉ là một phần hồn nhỏ mà thôi. Hi
vọng đêm nay, khi đám Tiểu Quỷ đó xuất hiện, tôi sẽ phát hiện được điều gì đó. Tôi
cũng cần xem xem, liệu chúng có đúng thật là Tiểu Quỷ hay không…? Ngoài việc
muốn cứu lấy linh hồn của cô bé, chuyện này sẽ giải thích cho chúng ta biết được
rằng, đám ma quỷ đó liệu có liên quan đến Cao Gia không..?

Ông Vọng nuốt nước bọt khi thầy Lương nhắc đến Cao Gia, ông hỏi :

-- Vậy là thầy sẽ ra đó…? Mà sao thầy biết đám Tiểu Quỷ ấy sẽ xuất hiện ở giếng…?

Thầy Lương trả lời :

-- Không, tôi không thể ra đó…..Nếu như vậy ma quỷ sẽ phát hiện ra sự xuất hiện của
con người. Đó chính là lý do vì sao tôi yểm một phần hồn của mình vào hình nhân
rơm. Khi chúng xuất hiện, hình nhân đó sẽ như đôi mắt của tôi nhìn thấy chúng, cũng
là hồn phách, lại là phần hồn nhỏ nên chúng khó mà có thể phát hiện ra được. Còn
tại sao tôi lại nghĩ ma quỷ sẽ đến khu vực giếng, đó là vì lần trước cậu Sửu suýt nữa
chết vì nhìn thấy chúng chơi đùa, nhảy nhót ở đó. Có thể vì một lý do khó giải thích,
như giếng làng chính là long mạch nên thu hút ma quỷ, hoặc do nơi ấy là nơi Cao Côn
đặt bùa trấn yểm mà chúng tìm tới.

Ông Vọng chợt ho lên những tiếng khô khan, cũng đúng thôi, hai hôm nay ông đã
quá mệt, hôm qua còn ốm đến ngất xỉu. May có thầy Lương ra tay cứu giúp, nhưng
thể trạng của ông Vọng thực sự cần phải được nghỉ ngơi. Ông Vọng đưa tay lên trán
bóp đầu, mái tóc của ông bạc trắng, ánh mắt nheo lại đầy mệt mỏi.

Thầy Lương rót nước ra một cái cốc nhỏ, sau đó ông khẽ bỏ vào nước một thứ bột
màu xanh lá cây. Bột hòa tan, cốc nước chuyển màu xanh nõn chuối và có một mùi
thơm dịu nhẹ.

Đặt cốc nước trước mặt ông Vọng, thầy Lương nói :

-- Bác trưởng làng uống nước này đi, sẽ cảm thấy đỡ hơn nhiều đấy.

Ông Vọng cầm cốc nước uống một hơi cạn sạch, không biết thứ bột mà thầy Lương
cho vào nước là gì, nhưng uống vào có vị ngọt dịu, có mùi thơm của thảo mộc phảng
phất. Một lát sau, ông Vọng thấy người lâng lâng, mệt mỏi dần dần biến mất, nhưng
ông cũng cảm thấy mắt đang díu lại, và rồi khi vừa đặt lưng xuống giường, ông Vọng
chìm vào giấc ngủ.

Trời cũng đã chuyển dần về đêm, bên ngoài tĩnh lặng như tờ, ngọn đèn dầu trong
nhà cũng sắp tắt. Thầy Lương khẽ lấy tay nải, lấy từ trong tay nải ra nghiên mực, thầy
Lương mài mực trong bóng tối lập lòe, khi mực mài gần xong, thầy dùng kim bạc
chích máu ở đầu ngon tay rồi tiếp tục mài mực thêm chút nữa.

Tiếp tục lấy ra một chiếc lọ nhỏ màu trắng, thầy Lương rải từ trong lọ ra một loại bột
màu trắng thành hình tròn bao quanh chỗ ông đang ngồi. Ngay khi được rải ra, thứ
bột đó ánh lên màu vàng của lửa cứ thế lấp lánh trong bóng tối khi mà lửa đèn dầu
đã tắt ngúm. Trước mặt thầy Lương lúc này là nghiên mực tàu, bút lông, giấy đỏ,
hình nhân bằng rơm.

Đúng 12h đêm, thầy Lương cầm hình nhân rơm lên rồi dùng bút lông chấm mực tàu
viết lên hình nhân chữ gì đó. Ngay lập tức, bên ngoài tiếng gió rít qua khe cửa, giữa
vòng tròn lấp lánh ánh vàng, thầy Lương khẽ nhắm mắt lại, ông nói :

-- Xuất hiện đi.

#Chap53 : Nguồn Gốc Của Đám “ Tiểu Quỷ “


“ Vù…..ù…..vù….vù….ù…”

Trời đêm thanh vắng, tiếng ếch nhái đang kêu râm ran đột nhiên im bặt, gió từ đâu
thổi về khiến cho những tán lá của cây lộc rừng khẽ rung chuyển. Gió thổi qua miệng
giếng tạo ra những âm thanh gai người.
“ Hú...u….u…..u…..”

Trong màn đêm u tối đó, từ phía xa xa bắt đầu hiện ra những cái bóng mờ ảo, thoắt
ẩn, thoắt hiện đang tiến lại từ con đường đi vào trong làng. Càng đến gần giếng thì
chúng lại càng hiện rõ hơn, đó là 4 đứa trẻ con đang tung tăng, nhảy nhót, trên tay
chúng là 4 sợi dây xích cùng được trói vào 1 cô bé. Chúng vừa chạy vừa lôi theo cô
bé, trong không trung vang vọng lên tiếng cười khanh khách :

“ Hi...hi...hi….đi...nào...đi...nào…”

“ He...he...he…..giờ...mày...không….phải...về...nhà...nữa….He...he...he “

“ Hi...hi..hi….cùng...chơi...nào…..he..he..”

Người đang bị xích đó chính là Mị, hay nói đúng hơn đó là linh hồn của cô bé. Đám
trẻ ma quỷ kia kéo Mị đến khu vực giếng rồi mới thả tay giữ xích ra. Lúc này chúng
nháo nhác, nhảy nhót khắp nơi, đứa thì nhảy lên miệng giếng, đứa thì trèo lên cây
rồi vắt vẻo đu đưa đu lại…..Đúng với những gì mà Sửu kể vài ngày trước. Nhưng
chúng không hề biết rằng bên dưới gốc cây, trong cái hốc nhỏ có một con hình nhân
bằng rơm, hình nhân đó được thầy Lương gá vào một phần hồn phách của mình. Lúc
này thầy Lương vẫn đang ngồi trong nhà ông Vọng, nhưng nhờ một phần hồn phách
yểm vào hình nhân mà giờ đây ông có thể nhìn thấy toàn bộ cảnh tượng ma quái
đang diễn ra bên ngoài khu vực giếng làng.

Đám trẻ đó có 4 đứa, mang hình hài trẻ con nhưng tai, mắt , mũi, miệng của chúng
không phải của con người. Tai chúng to rộng, nhọn hoắt, ánh mắt đỏ lòm cùng cái
miệng lúc nào cũng ngoác ra cười, cả bốn đứa đều có răng nanh…...Tất cả bọn chúng
đều là quỷ. Cổ tay, cổ chân của chúng đều đeo kiềng vàng, giữa trán của từng đứa có
một dấu ấn nhỏ màu đỏ, nhìn giống như hình đốm lửa.

Chúng bắt linh hồn Mị cùng chơi trò trốn tìm với chúng như mọi khi, trong lúc Mị úp
mặt vào thân cây lộc vừng bắt đầu đếm thì đám quỷ đó cười những điệu cười đáng
sợ, lạnh sống lưng rồi cứ thế tản ra mọi phía, chúng biến mất trong bóng đêm. Chỉ
còn giọng nói vang lên mà thôi :

“ Ở...đây...nè….hi...hi..hi…”

“ Tìm...đi….tìm….đi….”

“ He...he...he….He...he...he “

Cứ như vậy. chúng chơi đùa cho tới khi gà cất lên tiếng gáy đầu tiên trong ngày. Khi
đó chúng bắt đầu biến mất, linh hồn của Mị cũng như vậy.

“ Ò...Ó….O….O…”

Trời đã sáng, thầy Lương lúc này cũng khẽ mở mắt ra, đám bột rải thành hình tròn
bao quanh chỗ ông ngồi đã biến thành màu đen như bụi than, thầy Lương đem hình
nhân rơm ra ngoài rồi châm lửa đốt. hình nhân tại nhà ông Vọng bị đốt cháy thì con
hình nhân dưới hốc cây lộc vừng cũng hóa thành tro. Dọn dẹp lại mọi thứ, sắc mặt
thầy Lương có phần nhợt đi, nhưng những gì mà đêm qua thầy Lương nhìn thấy thực
sự không uổng công chút nào.

Gà gáy thêm vài tiếng nữa thì ông Vọng cũng cựa mình tỉnh giấc, mở mắt ra ông thấy
trong người không còn mệt mỏi gì nữa, tay chân hoạt bát, tinh thần phấn chấn rõ
rệt. Bước xuống giường, ông Vọng đã thấy thầy Lương ngồi ở bàn đang hãm chè mặc
dù lúc này bên ngoài trời mới bắt đầu hửng đông.

Khẽ vươn vai, ông Vọng hỏi :

-- Thầy dậy sớm thế, mà hôm qua thầy cho tôi uống thứ thuốc gì mà bây giờ người
khỏe hẳn ra thầy ạ, bao mệt mỏi tan biến hết. Cứ như thuốc tiên ấy.

Thầy Lương khẽ mỉm cười rồi trả lời :

-- Thứ bột tôi hòa vào nước đó được nghiền từ một số loại thảo dược có tác dụng
hồi phục sức khỏe. Nhưng phải kết hợp với cả châm cứu nhằm lưu thông máu trong
cơ thể, đẩy được khí độc trong người ra sau đó uống thì mới có tác dụng.

Ông Vọng cười hềnh hệch rồi đáp :

-- Chẳng trách tối qua thầy mới cho tôi uống. Cảm ơn thầy nhiều lắm, tôi đã hoàn
toàn khỏi ốm rồi. Mà sao nhìn thầy hình như không được khỏe.

Thầy Lương rót nước rồi trả lời :

-- Tôi không sao, bác trưởng làng khỏe là tốt rồi, bởi sắp tới đây chúng ta còn phải
làm một vài chuyện vô cùng quan trọng.

Đợi ông Vọng ngồi xuống ghế, lúc này thầy Lương mới tiếp tục nói :

-- Đám trẻ ma mà cậu Sửu đã nhìn thấy tại giếng làng chính xác là Tiểu Quỷ. Nhưng
chúng không phải là dạng Tiểu Quỷ mà tôi từng nói với bác trưởng làng. Chúng là
những con quỷ được tạo ra với một mục đích khác. Hay nói một cách khác, đám Tiểu
Quỷ này là một dạng tà thuật rất hiếm người sử dụng.

Ông Vọng liền hỏi :

-- Chẳng lẽ nó còn kinh khủng hơn việc giết người mẹ đang mang thai rồi lấy đứa bé
trong bụng ra để làm bùa hay sao thầy…?

Thầy Lương đáp :

-- Nó còn đáng sợ hơn thế, để luyện ra thứ bùa ma tà đạo này, người luyện bùa sẽ
nuôi 4 người phụ nữ cùng mang thai trong khoảng thời gian giống nhau và phải là
con trai. Những người phụ nữ này không bị giết trong lúc mang thai, ngược lại còn
được chăm sóc một cách vô cùng cẩn trọng. Được ăn những thứ sơn hào hải vị, tắm
nước hoa hồng mỗi ngày, nhưng tuyệt đối, trong thời gian mang thai kể từ tháng thứ
3, họ không được tiếp xúc với đàn ông dù chỉ là nhìn. Mọi kẻ hầu, người hạ bắt buộc
phải là nữ giới. Có thể nói, những người phụ nữ này trong khoảng thời gian 6 tháng
con lại họ giống như những bà chúa, bà hoàng được cung phụng từ chân tơ kẽ tóc.
Kẻ luyện bùa bắt buộc phải làm như vậy là để thai phụ lẫn thai nhi được hạ sinh
đúng ngày, đúng tháng. Và khi đứa bé được sinh ra, mẹ của chúng lập tức bị giết
chết. Họ bị giết mà không được nhìn thấy mặt con của mình.

Ông Vọng cầm chén nước mà tay run run, ông Vọng nói :

-- Thực sự như...vậy…..sao…?

Thầy Lương đáp :

-- Phương pháp luyện bùa này còn ác hơn việc luyện Tiểu Quỷ thông thường gấp cả
trăm lần. Bởi vì việc luyện một Tiểu Quỷ như cách tôi nói với trưởng làng, thầy bùa
có thể nhặt xác hài nhi về, hoặc đào trộm mộ của hài nhi mới chết, ác độc hơn thì là
giết người mẹ mang thai để lấy con luyện bùa. Nhưng đám Tiểu Quỷ xuất hiện trong
làng này được tạo ra bằng cách vô cùng man rợ. Để chọn được 4 người phụ nữ mang
thai 4 đứa bé trai ấy. Kẻ luyện bùa chắc chắn phải sử dụng rất nhiều các cô gái, khiến
cho họ phải mang thai. Bởi xác xuất mang thai con trai hay con gái không thể tính
được chắc chắn. Do vậy, càng nhiều người mang thai cùng thời điểm thì sẽ càng dễ
chọn lựa hơn. Khi đã xác định được chính xác 4 bào thai là con trai, những người còn
lại cũng sẽ bị giết, hoặc bắt phải phá bỏ thai nhi trong bụng. Nhưng thường, họ sẽ bị
giết chết trong bí mật. Nhưng đó chưa phải là kết cục cuối cùng…..

Ông Vọng hỏi dồn :

-- Thầy nói tiếp đi…

Thầy Lương dừng lại vài giây, sau đó ông nói tiếp :

-- Bốn đứa trẻ ấy sẽ được nuôi dưỡng đến 7 tháng sau, chính tay kẻ luyện bùa sẽ
chăm sóc chúng. Tất nhiên trẻ con thì phải được nuôi bằng sữa mẹ…..Nhưng để
luyện bùa, thầy phù thủy sẽ cho chúng uống thêm một thứ nữa trong thời gian 7
tháng ấy.

Ông Vọng không dám chớp mắt, ông hỏi :

-- Là...thứ...gì...vậy…?

Thầy Lương trả lời :

-- Đó chính là máu được lấy từ chính người mẹ đã chết của chúng. Chúng được nuôi
bằng máu, nói một cách khác, ngay khi sinh ra, bọn chúng đã bị buộc biến thành quỷ.
Lý do mà thầy phù thủy phải tự tay nuôi dưỡng chúng là bởi vì sau khi bùa được
luyện thành công, những con Tiểu Quỷ kia sẽ nhất mực trung thành với kẻ luyện ra
chúng, chúng tuyệt đối tuân theo bất cứ mệnh lệnh nào của chủ. Tiểu Quỷ thông
thường sau khi chủ nhân chết, nó sẽ như một linh hồn bơ vơ, lang thang, mất
phương hướng vì sợi dây liên kết với chủ đã đứt. Nhưng với loại Tiểu Quỷ này, dù
cho chủ nhân có chết, thì lời nguyền mà chủ nhân bắt chúng thực hiện vẫn sẽ tồn tại
mãi mãi…...Trừ khi trong lời nguyền đó có lý do để hóa giải, còn không kẻ nào xâm
phạm đến giao ước của chúng với chủ nhân, kẻ đó sẽ phải chết. Cao Côn quá độc,
việc yểm long mạch đã là nghịch thiên, nhưng thật không thể ngờ ông ta còn luyện
cả loại Tiểu Quỷ ma quái, đáng ghê sợ này. Nhưng thật may mắn, có lẽ Cao Côn nghĩ
thuật giấu long mạch sẽ khiến cho không ai phát hiện ra đoạn xương sườn trấn yểm
của ông ấy nên bác trưởng làng mới còn có thể sống. Bởi cho dù có là huyết mạch
của họ Cao, bác vẫn bị Tiểu Quỷ giết chết nếu trong lời nguyền của Cao Côn không có
giao ước bỏ qua cho người mang dòng máu của Cao Gia. Thứ tà thuật này nếu không
biết được giao ước của chủ nhân với Tiểu Quỷ thì không thể hóa giải. Vì chúng là ma
quỷ nên chỉ xuất hiện vào ban đêm cho đến khi gà gáy tiếng đầu tiên. Tuy là quỷ
nhưng chúng vẫn mang hình hài và tính cách của trẻ con, đêm đến, nếu ai gặp chúng,
nhìn thấy chúng thì sẽ bị chúng giết chết. Nghe thì có vẻ chúng đáng sợ, nhưng
không gặp thì không sao. Tuy nhiên, với việc địa mạch nơi đây chưa thể phục hồi sau
khi gỡ bỏ trấn yểm thì quỷ khí của chúng sẽ ngày càng tăng. Chúng có thể hại người
bằng cách sử dụng chính tà niệm, thù hận trong con người. Giống như cách mà
chúng bắt hồn của cô bé Mị và giúp cô bé giết người. Theo như những gì tôi được
biết thì thường Tiểu Quỷ chỉ xuất hiện ở đúng vị trí của nó, nhưng nay đám Tiểu Quỷ
này có thể thoải mái dạo chơi trong làng khi đêm xuống, chứng tỏ quỷ khí của chúng
vô cùng mạnh. Trong con người luôn tồn tại tham - sân - si, cả thù hận nữa. Sẽ ra sao
nếu không chỉ có 1 cô bé Mị, mà sẽ là nhiều những cái chết đáng sợ nữa xảy ra, bởi
chỉ cần có tà niệm, kẻ đó sẽ bị Tiểu Quỷ dẫn dụ. Đêm qua tôi đã thấy, linh hồn của cô
bé Mị bị chúng dùng xích trói lại. Nếu không cứu được cô bé, thì dù đã chết, cô bé
cũng vẫn phải sống trong một thế giới linh hồn bị đọa đày.

Ông Vọng ấp úng hỏi :

-- Liệu….liệu thầy...có cách...gì không...ạ..?

Thầy Lương khẽ lắc đầu :

-- Hiện thời tôi chưa thể nghĩ được cách gì cả, những bùa chú, tà thuật mà Cao Côn
sử dụng, đối với tôi mà nói vô cùng thâm hiểm. Cao Côn này khả năng có lẽ không
thua kém gì sư phụ của tôi lúc người còn sống. Giải được thuật “ Giấu Long Mạch “ là
do may mắn tôi đã đọc được quyển sách ghi chép cấm thuật của sư phụ. Còn về Tiểu
Quỷ, tôi hay bất cứ ai biết về bủa ngải Trung Hoa đều đã đọc qua, nhưng để phá giải
còn phải dựa vào kẻ luyện ra thứ tà thuật này. Thường chỉ có người luyện ra chúng
mới sai khiến được chúng. Mà Cao Côn đã chết ngót nghét 100 năm nay rồi…...Không
muốn nói là vô vọng….

#Chap54 : “ Cái Bình “


Ông Vọng đờ đẫn sau lời nói của thầy Lương, đã xảy ra nhiều chuyện, nhưng đây là
lần đầu tiên thầy Lương tỏ vẻ bất lực đến như vậy. Chỉ vừa mới thoát được nạn nước
nhiễm độc, còn chưa vui mừng được bao lâu thì lại tiếp tục xảy ra tai họa mới. Là
cháu nội của Cao Côn, vậy mà giờ đây ông Vọng phải đấm ngực kêu trời bởi nếu thực
sự đám Tiểu Quỷ kia là do Cao Côn tạo ra thì ông ta không phải là con người nữa,
ông ta chính là một con quỷ đội lốt người. Và ông Vọng cảm thấy đau đớn khi mình
mang dòng máu của quỷ.

Lúc này thầy Lương nói :

-- Nếu muốn thực sự tìm hiểu về đám Tiểu Quỷ ấy, chỉ còn một cách duy nhất đó là
dựa vào bác trưởng làng mà thôi. Tôi có một điều thắc mắc, cha mẹ bác trưởng làng
khi giao bác cho bố mẹ nuôi, chẳng lẽ họ không để lại cho bác một tín vật gì hay
sao…?

Ông Vọng đáp :

-- Điều này tôi thực sự không biết, bởi tận đến thời điểm này tôi mới biết được sự
thật rằng tôi không phải con ruột của hai ông bà.

Thầy Lương hiểu, bố mẹ ông Vọng, có lẽ vì lo lắng cho tính mạng của ông nên họ
nhất quyết giấu kín tất cả toàn bộ sự thật. Cho dù kể cả khi họ nhắm mắt xuôi tay họ
cũng không tiết lộ cho ông Vọng bất cứ một điều gì. Nếu họ đã làm như vậy thì cho
dù cha mẹ đẻ của ông Vọng trước khi chết có giao lại tín vật, chỉ e họ cũng không nói
ra. Nhưng chẳng lẽ nuôi ông Vọng khôn lớn đến từng ấy năm, họ không có một ghi
chép hay bộc bạch gì hay sao….?

Nhưng đó là trước kia, khi ông Vọng chưa biết xuất thân, nguồn gốc của mình….Còn
bây giờ, mọi thứ đã rõ ràng, dựa vào tấm phổ truyền, dựa vào vớt bớt, và cả việc ông
Vọng có thể hóa giải được bùa yểm của Cao Côn thì mọi thứ đã khác.

Thầy Lương nói tiếp :

-- Bác Vọng này, trước nay đã bao giờ bác tìm kiếm thứ gì mà hai ông bà để lại hay
chưa…? Kiểu như ghi chép hay đồ vật gia bảo chẳng hạn.

Ông Vọng lắc đầu :

-- Nhà tôi cũng đâu phải giàu có gì, cũng lao động cực khổ lắm mới đủ ăn. Nên bố mẹ
tôi khi mất đi cũng chỉ để lại cho tôi được ngôi nhà cùng mảnh vườn kia. Đến cái bát,
cái đĩa ngày ấy còn sứt mẻ chứ nói gì của gia bảo với vật tổ truyền. Nhưng sao thầy
lại hỏi điều này..?

Thầy Lương đáp :

-- Mặc dù hai ông bà đã giấu đi toàn bộ sự thật về xuất thân của trưởng làng, nhưng
tôi không nghĩ là ông bà lại không có ghi chép hay lưu lại một thứ gì đó để ghi nhớ
chuyện này. Bởi gốc gác của một người là thứ vô cùng quan trọng, điều ông bà làm
chắc chắn vì lo cho sự an nguy của bác Vọng, bởi thời điểm đó, dân làng Văn Thái
muốn giết chết toàn bộ Cao Gia, sẽ ra sao nếu họ biết, máu mủ của Cao Gia vẫn còn
sống. Chính vì vậy cả hai ông bà đều sống để bụng, chết mang theo, tuy nhiên họ
không thể nào để mọi chuyện chôn vùi theo từng ấy năm như vậy được. Bởi vậy tôi
mới hỏi trưởng làng xem trước khi mất, hai ông bà có trăn trối hay có giao cho bác
vật gì hay không…? Biết đâu họ lưu lại một thứ bí mật ở đâu đó.

Ông Vọng đăm chiêu suy nghĩ, bố mẹ ông cũng đã mất khá lâu, mẹ ông mất trước bố
ông 2 năm. Quả thực giờ để mà nhớ lại ông Vọng không nhớ được rõ ràng, ông chỉ
biết lúc mẹ ông mất, bà không trăn trối gì cả, bà ra đi rất thanh thản và nhẹ nhàng.
Bố ông thì đau ốm nên trước khi mất, ông cụ đau đớn hơn, ông cụ nằm mê man trên
giường phải đến 1 tháng sau mới nhắm mắt xuôi tay.

Bất chợt ông Vọng giật mình, cái đêm trước khi bố ông mất. Lúc đó ông thấy bố mình
lên cơn co giật, sau đó bất thình lình ông cụ ngồi bật dậy. Lúc đó ông Vọng đang năm
ngay dưới đất để trông bố. Nhìn cảnh tượng đó ông Vọng cũng giật mình không biết
làm sao. Rồi, ông cụ đưa tay về phía ông Vọng, hướng đôi mắt nhăn nhúm, nhưng
ướt đẫm lệ nhìn ông Vọng. Nắm chặt lấy tay bố, ông Vọng thốt lên :

-- Thầy, thầy thấy trong người thế nào.

Những ngón tay của ông cụ cố siết lấy bàn tay ông Vọng, miệng ông cụ khẽ mấp máy
nhưng chỉ nói được đúng 2 từ rồi ông cụ gục xuống rồi mất.

Ông Vọng nói ra miệng :

-- Cái bình…..

Thầy Lương ngạc nhiên hỏi :

-- Bác trưởng làng nhớ được gì rồi sao…?

Ông Vọng trả lời vội vã :

-- Tôi….tôi không rõ lắm…...Nhưng….nhưng hình như trước khi chết….bố tôi có nhắc
đến “ Cái Bình “ thì phải…?

Thầy Lương không hỏi ngay mà cố đợi cho ông Vọng định thần lại thêm một chút
nữa, ông Vọng nheo mày, nhăn trán cố gắng lục lại toàn bộ ký ức từ thời xa xưa một
lần nữa, nhưng rốt cuộc, thứ mà ông được nghe trước khi bố mình qua đời chỉ vỏn
vẹn đúng hai từ “ Cái Bình “ mà thôi.

Ông Vọng đứng phắt dậy, ông đảo mắt nhìn quanh các góc nhà, nhìn cả dưới gầm tủ,
gầm giường...Trong nhà có vài cái bình, cái hũ đã cũ.
Thấy vậy thầy Lương hỏi :

— Phải chăng là họ đã để thứ gì đó trong bình.?

Ông Vọng đáp :

— Tôi cũng không biết nữa, nhưng nếu vậy thì phải tìm đã. Lúc đó ông cụ nằm trên
giường kia, mắt hướng về phía trước. Cả tháng trời bố tôi đau ốm nằm liệt giường
không nói được câu nào. Khi ấy ông cụ nói xong thì nhắm mắt, xuôi tay. Tôi quá đau
buồn nên cũng không để ý đến lời nói cuối cùng của cụ nữa. Đến tận hôm nay, khi
thầy phân tích tôi mới nhận ra, chắc hẳn bố tôi nhắc đến cái bình là có lý do.

Cả thầy Lương cũng vội phụ giúp một tay, nhưng lục tung cả 3 cái bình trong nhà
cũng chẳng phát hiện được gì. Thực ra nhắc đến cái bình thì ông Vọng cố gắng tìm
mà thôi, chứ mấy cái bình để góc nhà bao năm qua, trong đó để gì sao ông không
biết. Toàn đựng chai lọ linh tinh chứ có gì đâu.

Tìm một lúc sau không thấy gì, ông Vọng thở dài :

— Chẳng có gì cả, bố mẹ tôi lúc mất cũng chẳng có đồ đạc gì để lại. Cả đời ông bà
làm ruộng, làm gì có thứ gì quý giá hay vật tổ truyền gì đâu. Xem ra không có rồi.

Thầy Lương an ủi ông Vọng :

— Bác trưởng làng đừng vội, mọi chuyện không nên nóng vội, dục tốc bất đạt. Trong
lúc đầu óc bấn loạn, con người sẽ không suy nghĩ được sâu xa. Đúng như lời bác nói,
ông cụ khi nói đến cái bình chắc hẳn là có ý đồ gì đó. Bác trưởng làng bình tâm, suy
nghĩ thật kỹ lại xem mình có nhớ được chi tiết nào hay không. Nhà trên, nhà bếp tìm
thật kỹ một lần nữa. Biết đâu lại thấy được tâm ý của các cụ.

Lúc này đã là 7h sáng, bên ngoài trời đã sáng hẳn, hôm nay thời tiết khá mát mẻ, 7h
nhưng chưa có nắng. Thầy Lương cả đêm không ngủ, nhưng giờ thầy đeo tay nải lên,
chuẩn bị đi đâu đó.

Ông Vọng hỏi :

— Thầy định đi đâu sao..?

Thầy Lương gật đầu :

— Vâng, tôi muốn ra khu vực giếng làng một chút. Có một chuyện tôi cần phải làm
ngay.

Ông Vọng đáp :

— Thầy có cần tôi đi cùng không..? Mà thầy ra đó làm gì vậy ạ..?


Thầy Lương trả lời :

— Ban đầu tôi cũng tính nhờ bác trưởng làng đi cùng. Bởi dù sao tôi cũng không phải
người làng. Nhưng bác trưởng làng ở nhà tìm hiểu xem “ Cái Bình” mà ông cụ nói ở
đâu hay mang ý nghĩa gì thì hơn. Tôi đi một mình cũng được. Còn lý do tại sao tôi lại
ra đó thì chính là, tôi chưa thể tìm ra cách trấn áp đám Tiểu Quỷ kia, nhưng tôi cần
phải cứu lấy linh hồn của cô bé Mị. Khi một người chết đi, trong 7 ngày đầu tiên là
thời điểm quan trọng nhất của phần hồn. Hiện hồn phách của cô bé đang bị quỷ
chiếm đoạt. Muốn cô bé sau này có đường siêu thoát thì phải giải thoát được hồn
phách của cô bé khỏi đám quỷ đó. Chuyện chôn cất tôi đã có dự liệu, nhưng nếu
không cứu được hồn phách của cô bé thì mọi chuyện đổ sông, đổ bể. Hôm nay đã
bước sang ngày thứ 3 rồi. Không còn nhiều thời gian nữa. Đó chính là 1 trong 2 lý do
mà tôi muốn 5 ngày sau mới chôn cất họ. Xương cốt của cậu Mạnh tôi cũng đã rửa
sạch sẽ bằng rượu gừng và sắp xếp ngay ngắn cẩn thận trong bọc vải kim tuyến để
trong thau đồng bên dưới chân giường bác trưởng làng. Đó cũng là thứ quan
trọng….Thôi, tôi đi đây.

Ông Vọng nhớ kỹ những lời mà thầy Lương dặn dò rồi tiễn thầy Lương ra cổng. Còn
một chuyện mà thầy Lương chưa nói cho ông Vọng biết, đêm hôm qua khi đám Tiểu
Quỷ xuất hiện, chúng đi tới từ hướng Tây, là hướng vào làng, sau đó trước khi gà
gáy, chúng cũng biến mất về hướng đó.

Vừa rảo bước trên con đường đất, thầy Lương vừa nghĩ :

“ Chắc chắn ở hướng Tây phải có một thứ gì đó. Đất của làng này quá rộng, thật khó
để xác định được xem chúng đến từ địa điểm nào. “

Nhớ lại ngày đầu tiên đặt chân vào làng, lúc ấy, thầy Lương có ghé vào quán nước
chè bên dưới gốc đa để trú mưa. Cây đa đó rất lớn, nếu đình làng tồn tại cả trăm
năm nay thì cây đa ấy còn có tuổi đời lâu hơn nữa.

Đã đi đến giếng làng, nhìn làn nước trong vắt dưới giếng, soi bóng mình trong nước,
đột nhiên thầy Lương chợt nhận ra một điều cực kỳ quan trọng, thầy Lương lẩm bẩm
:

-- Thực sự như vậy sao….? Thôi đúng rồi, vậy mà ta không nhận ra. Tất cả, tất cả
những thứ này đều mang một ý nghĩa riêng biệt, nhưng chúng lại là một thể thống
nhất.

Một chiếc lá từ cây lộc vừng bị gió thổi rơi xuống giếng khiến cho mặt nước khẽ lay
động, bóng hình của thầy Lương in dưới nước dần mờ đi bởi gợn nước lăn tăn. Thầy
Lương nhắm mắt lại, ông ngẫm nghĩ điều gì đó một hồi lâu, khi thầy Lương mở mắt
ra, ông khẽ nói :

-- Nếu đúng như vậy thì….Cao Côn…..Khả năng của ông thật đáng sợ, tiếc là ông lại
quá độc đoán, ích kỷ, khiến bản thân đi vào tà đạo…..Thật tiếc thay, tiếc thay.
#Chap55 : Huyệt “ Mắt Rồng “
Dần ngỡ ra được thêm một vài việc, nhưng tạm thời, thầy Lương gác qua những
chuyện đó. Thứ mà ông cần làm bây giờ là tìm cách giải thoát cho linh hồn cô bé Mị
đang bị đám Tiểu Quỷ bắt giữ. Theo như thầy Lương biết, cứ mỗi khi đêm xuống,
bọn Tiểu Quỷ sẽ dẫn theo linh hồn cô bé rong chơi ngay khu vực giếng làng. Thực ra
việc cứu lấy linh hồn Mị không phải chuyện khó. Nhưng mọi thứ phải được chuẩn bị
thật chu toàn. Hiện tại thầy Lương không có cách gì để đối phó lại đám Tiểu Quỷ do
Cao Côn tạo ra kia. Bên cạnh đó, những sợi xích mà chúng trói vào linh hồn Mị chính
là ràng buộc khi giao kèo với quỷ. Trừ khi bọn Tiểu Quỷ ấy chịu buông, còn không
muốn cắt đứt ràng buộc là vô cùng khó. Đêm qua, quan sát bọn chúng cả đêm, thầy
Lương đã nghĩ ra một cách, nhưng để thành công thì như vậy vẫn chưa đủ.

Đó là lý do mà bây giờ thầy Lương đang đứng ở gốc cây mà hôm trước sau khi từ
nghĩa địa quay về, thầy Lương và ông Vọng có nán lại nghỉ để ăn và uống nước. Chỗ
này cách khu vực giếng làng không quá xa, phong cảnh thoáng đãng, vì đây là đường
đi ra nghĩa địa và Bãi Hoang nên khu vực này ít người qua lại nên cây cối, đất đai vẫn
còn hoang sơ. Đứng từ bên này, thầy Lương nhìn sang bên kia con lạch nhỏ. Đúng ra
là lần trước thầy Lương đã muốn đi sang bên đó rồi, nhưng còn một vài chuyện cần
giải quyết trước, hơn nữa theo như tính toán của thầy thì phải 4 hôm sau, khu đất ấy
mới thực sự phát.

Loay hoay một lúc, thầy Lương cũng tìm được một ụ đất nối liền để di sang bên kia
lạch. Con lạch này khá nhỏ, nhưng nước chảy êm, uốn lượn đúng thành một vòng
tròn bao quanh khu đất mà thầy Lương đang đứng, thế đất ở đây hơi nhô cao hơn
một chút so với mặt bằng. Cỏ cây xanh tốt, ngay chính giữa khoảng đất, thầy Lương
thấy có một bụi cây chỉ cao qua đầu gối, trên cây có những quả nhỏ màu đỏ nhìn rất
đẹp mắt. Tiến lại gần thì thầy Lương nhận ra đó chính là cây kỷ tử đỏ, cây đã ra quả,
không chỉ vậy, trên cây còn xuất hiện dây tơ hồng.

Cúi xuống áp bàn tay vào đất, lòng bàn tay của thầy Lương cảm nhận được hơi ấm từ
đất phả lên, đất không mềm, nhưng cũng không cứng. Thầy Lương mỉm cười :

-- Quả đúng là đất tốt, sinh khí nảy nở, kỷ tử ra quả…..Mình đã không nhìn nhầm, nơi
này hội tụ cả “ Đắc Thủy “ và “ Tàng Phong “. Hôm nay quả thực là một ngay may
mắn, đất không chỉ phát mà còn tìm thấy kỷ tử, quả đã chín đỏ…..Nhưng quan trọng
nhất chính là dây tơ hồng vương trên cây, trời cao quả thực bao dung. Tạ ơn trời
phật.

Thầy Lương hái quả trên cây rồi gói cẩn thận cho vào tay nải, ông cũng nhẹ nhàng gỡ
những sợi dây tơ hồng vướng trên cây ra, sau đó cũng bọc lại bằng một miếng vải
trắng. Dạo quanh khu đất một vòng, thầy Lương đưa tay ra bấm độn, bấm xong ông
gật gù :

-- Nếu vậy thì cần phải làm ngay trong ngày hôm nay. Việc này cấp bách, không thể
chậm trễ.
Nói rồi, thầy Lương quay trở về nhà ông Vọng, bước vào cổng, thầy Lương thấy hình
như trong nhà đang có khách. Thì ra đó chính là Bảy Dao, thấy thầy Lương về, Bảy
Dao vội chạy ra đón, mặt mũi hớn hở, Bảy cúi đầu chào :

-- Thầy đã về ạ, tôi đợi thầy mãi.

Ông Vọng nói :

-- Thầy vừa đi được một lúc thì chú Bảy chú ấy đến, cũng ngồi chờ được gần 2 tiếng
rồi.

Thầy Lương hỏi :

-- Chẳng hay chú tìm tôi có việc gì…?

Bảy Dao khúm núm :

-- Dạ, con chỉ muốn sang đây để cảm ơn thầy thôi ạ. Chẳng giấu gì thầy, hai hôm
trước tôi không ngủ được, cứ nằm ngủ là lại gặp ác mộng, vậy mà tối qua, nhận từ
thầy đạo bùa, thầy về được một lúc tôi thấy buồn ngủ, nằm lên giường thế mà ngủ
được luôn. Giấc ngủ ngon lành, chẳng mơ mộng gì cả. Sáng nay tôi thấy trong người
khoan khoái, nghĩ đến thầy nên tôi bắt con gà mang sang biếu thầy với bác Vọng, gọi
là chút lòng thành cảm ơn thầy đã giúp đỡ.

Thầy Lương gật đầu rồi nói Bảy Dao ngồi xuống ghế uống nước, có cả ông Vọng ngồi
đấy, thầy Lương vào việc luôn, ông nói :

-- Cũng may chú sang đây, tôi cũng đang có công chuyện muốn nói với chú Bảy.

Bảy Dao vội vàng :

-- Dạ, có gì thầy cứ nói ạ….Tôi sẽ làm ngay.

Thầy Lương tiếp :

-- Chuyện như thế này, bác Vọng ạ, tôi đã tìm thấy đất để chôn mẹ con nhà cô Xoan
rồi. Đó là miếng đất đang phát, gần long mạch, hội tụ tất cả những yếu tố cần thiết
nên sinh khí rất vượng. Bao quanh là lạch nước nhỏ, địa thế nhô cao, nằm về hướng
đông, miếng đất này nằm giữa khu vực nghia địa và giếng làng ( long mạch ). Sáng
nay tôi có đi kiểm tra và xem xét lại kỹ một lần nữa thì thấy đã có thể đào huyệt mộ
trong ngày hôm nay. Dù sao thì mẹ con cô Xoan cũng đã chết 3 ngày nay rồi, hôm
nay đào huyệt, sáng sơm mai, bắt đầu vào giờ Dần ( 3h sáng - 5h sáng ), sẽ tiến hành
chuyển cữu ra đồng chôn cất. Bắt buộc trong giờ Dần là phải đưa quan tài của 3
người họ xuống huyệt mộ.

Ông Vọng sực nhớ ra, theo như lời thầy Lương tả thì ông Vọng mường tượng khu đất
mà thầy Lương nói chính là khu đất đối diện với cái cây mà hôm trước thầy Lương
với ông dừng lại nghỉ chân. Lúc đó ông Vọng thấy thầy Lương cứ nhìn ngắm phía
trước mặt mà không hỏi ý của thầy Lương là gì, ông Vọng đáp :

-- Chính là khoảng đất phía bên kia cái lạch nhỏ mà thầy với tôi ngồi ăn khoai nhìn
sang không ạ..?

Thầy Lương gật đầu :

-- Chính là nơi đó, đó là vị trí của “ Mắt Rồng “, là miếng đất cực kỳ tốt. Hai mẹ con
cô Xoan chết đi nhưng vẫn mang nhiều oán niệm, đất tốt sẽ giúp cho mộ phần,
hương hỏa của họ sau này dựa vào sinh khí của phong thủy nơi đó mà giảm bớt
được tội nghiệt lúc còn sống. Mong là bác trưởng làng đồng ý, dù sao thì gia đình họ
cũng quá đáng thương. Coi như dân làng tạo phúc cho họ, cũng là tạo phúc cho bản
thân mình.

Ông Vọng khẽ cười rồi nói :

— Tất nhiên là được rồi, đất làng chỗ đó cũng bỏ hoang. Thầy mà không nói đất tốt,
đất phát này kia thì đâu ai biết. Nghĩa tử là nghĩa tận, nếu chôn cất họ ở đó mà được
như lời thầy nói thì chúng tôi còn cảm ơn thầy không hết ấy chứ. Vậy là phải đào
huyệt mộ trong ngày hôm nay phải không thầy…?

Bảy Dao nghĩ một lúc, bây giờ mới hỏi :

— Ơ, nhưng mà tại sao lại là đào tận 3 huyệt mộ. Thầy có nhầm không ạ..?

Thầy Lương trả lời ông Vọng trước :

— Đúng, phải đào huyệt ngay ngày hôm nay. Sáng mai giờ Dần phải chôn rồi. Còn về
câu hỏi của chú Bảy, tôi không nhầm đâu. Chính xác là đào 3 huyệt mộ. Đó là vì tôi
muốn chuyển hài cốt của cậu Mạnh, là chồng cô Xoan về khu đất đó. Hay nói cách
khác, chúng ta sẽ chôn gia đình cô Xoan tại miếng đất đó. Nhìn theo hướng Đông, sẽ
đào huyệt “ Nam tả Nữ hữu “ chính giữa hai bố mẹ là huyệt của cô con gái. Tôi làm
như vậy cũng là để linh hồn của họ phần nào đó được an yên. Hiện tại xương cốt của
cậu Mạnh đó tôi đang để ở đây. Nếu được phiền chú Bảy lo liệu thêm việc an táng
cho cậu Mạnh được không..? Giúp cho gia đình họ, chú Bảy sau này cũng không còn
lo lắng hay áy náy điều gì nữa.

Tất nhiên là Bảy Dao đồng ý luôn, Bảy đã quá khủng hoảng kể từ khi Xoan chết. Lại
thêm tối qua, chứng kiến cảnh thầy Lương “ trừ ma “, giờ kêu Bảy làm gì Bảy cũng
làm. Vì Bảy biết, chết như lang Phan, hay Mão thì tiền cũng để làm gì đâu, mạng sống
mới là quan trọng.

Bảy vâng dạ đáp :

— Chuyện này thầy cứ để tôi lo, cả việc đào huyệt nữa. Tôi sẽ thuê người làm ngay,
đúng sáng sớm ngày mai quan tài của cả ba người họ sẽ được đưa ra đồng đúng giờ
mà thầy căn dặn.

Nhìn Bảy Dao, tuy biết hắn sợ nên mới phải làm. Nhưng lo liệu cho cả gia đình Xoan
những ngày qua, Bảy tiêu tốn không ít tiền bạc. Thầy Lương xưa nay hành sự không
để ai thiệt bao giờ. Thầy Lương nói với Bảy :

— Để lát nữa tôi sẽ dắt chú ra nhìn tận mắt khu đất đó để chú dễ hình dung. Còn
một điều này, ở giữa khu đất ấy có một bụi kỷ tử. Chú Bảy hãy đào bụi cây đó về rồi
trồng trong vườn. Cây kỷ tử đó lớn lên giữa “Mắt Rồng”. Chăm sóc nó cẩn thận, nó
sẽ đem lại may mắn, thịnh vượng cho chú Bảy sau này.

Bảy Dao không dám nhận, Bảy đáp :

— Nếu đã tốt như vậy thì tôi không dám nhận đâu ạ. Hay bác Vọng đem về trồng đi…

Ông Vọng mỉm cười :

— Chú Bảy không hiểu tâm ý của thầy Lương rồi. Thầy Lương muốn chú trồng bụi cây
đó là để bù đắp cho chú Bảy đã vất vả vài ngày qua. Đừng ngại, việc ma chay cho gia
đình cô Xoan nhờ hết vào chú Bảy vậy.

Bảy Dao hiểu ra, mỗi lần gặp và nói chuyện với thầy Lương, Bảy Dao như được khai
mở tâm trí, con người của hắn trước kia cộc cằn thì nay hắn đã biết thấu hiểu hơn
nhiều. Bảy Dao cúi đầu khẽ nói :

— Được vậy thì tôi đội ơn thầy lắm. Bác trưởng làng yên tâm, tôi sẽ cố gắng hết sức.

Để cho Bảy Dao chuẩn bị mọi chuyện tốt nhất, đích thân thầy Lương dẫn Bảy đến
khu đất tốt kia rồi dặn dò kỹ lưỡng, đào sâu bao nhiêu, vị trí từng huyệt mộ cách
nhau bao nhiêu. Và khi ra về, Bảy Dao vâng lời thầy Lương đào bụi kỷ tử ấy đem về
trồng. Vẫn như lần trước, để tránh rắc rối bởi kẻ tiểu nhân, thầy Lương dặn Bảy
đừng kể chuyện này với bất cứ ai. Nhất là bà Điều thầy cúng, sau vụ mua phải bùa
trừ ma đểu từ bà Điều, Bảy không ưa mụ, nhưng Bảy nghe lời thầy và hứa chắc chắn
giờ Dần ngày mai sẽ đưa quan tài của cả ba người gia đình Xoan ra đây chôn cất.

Chuyện huyệt mộ, giờ giấc đã xong…...Thầy Lương quay trở về nhà trưởng làng. Đêm
nay, việc thầy cần làm đó chính là giải thoát cho linh hồn của cô bé Mị.

#Chap56 : Thu Hồn.


Mở cổng bước vào sân, thầy Lương thấy ông Vọng đang lịch kịch bê hết những đồ
vật cũ từ trong bếp ra ngoài, mồ hôi mồ kê nhễ nhại. Thầy Lương hỏi :

-- Bác Vọng đang làm gì vậy…?

Ông Vọng trả lời :


-- Còn làm gì nữa hả thầy, tôi đang dọn dẹp, lục tìm thật kỹ xem trong nhà có cái bình
nào mà tôi không biết hay không..? Buổi sáng lúc thầy đi tôi đã xem kỹ mọi ngóc
ngách, ngăn bàn, hộc tủ, gầm giường…..mà vẫn không thấy. Giờ còn cái bếp, biết
cũng chẳng có nhưng vẫn cố lục đống củi ra xem nhỡ may các cụ lại dúi vào đâu hay
không…?

Thầy Lương hỏi tiếp :

-- Vậy có tìm được gì không trưởng làng..?

Ông Vọng lau mồ hôi rồi lắc đầu, ông thở dài :

-- Thì đấy, tôi nghĩ là không có rồi, mà đúng là không có thật. Chỉ có cái chảo thủng
đít quẳng xó bếp chắc cũng 6-7 năm nay, chẳng có cái bình nào cả.

Thầy Lương nói :

-- Nhưng liệu trước lúc lâm chung, có thật là bác nghe thấy ông cụ nhắc đến cái bình
hay không..?

Ông Vọng quả quyết :

-- Thật mà, nhớ kỹ lại thì chính xác bố tôi chỉ nói đúng hai từ như vậy rồi nhắm mắt
xuôi tay. Trước thì tôi không để ý, nhưng từ lúc thầy nói thì tôi khẳng định, bố tôi có
nhắc đến “ cái bình “, chỉ có điều, bình gì, ở đâu thì tôi không rõ. Vậy nên mới phải
lục tìm từ sáng đến giờ đây. Chẳng có nhẽ các cụ lại chôn dưới nền nhà à…? Mà dù
có vậy thì cũng biết ở đâu mà đào.

Thầy Lương suy nghĩ một lát rồi nói :

-- Tạm thời bác trưởng làng cứ nghỉ ngơi để cho đầu óc thật thư thái, có như vậy mới
nghĩ được cách. Chuyện cái bình ta tạm gác lại sau, tôi có việc muốn nhờ bác trưởng
làng đây.

Ông Vọng đáp :

-- Có gì thầy cứ nói.

Vào trong nhà, rót nước uống, thầy Lương tiếp tục :

-- Đêm nay tôi sẽ không ở đây, nhưng có một việc quan trọng, tuy là đã dặn dò Bảy
Dao cẩn thận, tỉ mỉ, nhưng bác là trưởng làng, việc này nhờ bác vẫn tốt hơn. Huyệt
mộ của gia đình cô Xoan chắc chỉ tối nay là đào xong. Quan tài của mẹ con cô Xoan
thì không có gì đáng lo, duy chỉ có xương cốt của cậu Mạnh là có chút vấn đề. Xương
đã được rửa sạch, nhưng khi xếp vào quách phải là người biết xếp xương mới được.
Chuyện cải táng mồ mả không phải cứ muốn làm là làm, đất phát tang đã có đất tốt.
Quan trọng là giờ giấc, bởi vậy tôi muốn nhờ bác Vọng, sáng sớm ngày mai, này tôi
cũng đã nói với Bảy Dao, khi tập hợp người đưa quan tài đến nơi chôn cất. Nhất định
phải là 3h sáng ( bắt đầu giờ Dần ) mới được chuyển cữu. Hơn một chút cũng không
sao nhưng nhất quyết không được đi trước 3h. Vì sợ Bảy Dao tính bộp chộp đi sớm
mà hỏng việc nên tôi mới nhờ bác trưởng làng lưu ý giùm điều này.

Ông Vọng cố ghi nhớ trong đầu :

-- 3h sáng hoặc hơn một chút mới được đưa quan tài đi chôn…..Nhất định là phải
hơn chứ không được đi trước lúc 3h…..Tôi nhớ rồi, cái này để tôi nói với Bảy Dao,
đêm nay sẽ tập trung những người đưa quan tài ra đồng tại nhà cô Xoan, đến giờ là
xuất phát. Nhưng mà thầy nói thầy không ở nhà, vậy thầy đi đâu…?

Thầy Lương đáp :

-- Mọi người chỉ cần nhớ những lời tôi dặn là được. Còn một chuyện này nữa, nếu
như mọi người đã tập trung tại nhà cô Xoan thì lưu ý thêm, từ lúc 12h đêm trở đi,
không một ai được bước ra khỏi nhà. Bắt đầu từ tối hôm nay, không khóc, không kèn
trống, không nhang khói gì cả. Đúng giờ Dần, cứ thế lẳng lặng đưa quan tài đi mà
thôi.

Ông Vọng hỏi :

-- Vậy khi chúng tôi đến huyệt mộ, thầy sẽ có mặt ở đó chứ…?

Thầy Lương gật đầu :

-- Bác Vọng yên tâm, tôi sẽ có mặt trước khi mọi người đến. Thực ra đêm nay tôi
cũng chỉ ở đâu đó quanh khu vực ấy mà thôi. Chuyện chôn cất này càng ít người biết
càng tốt, tránh kẻ xấu dòm ngó, vậy nên mới chọn giờ Dần. Mong bác trưởng làng
nhớ kỹ những gì tôi dặn.

Ông Vọng gật đầu, thầy Lương tiếp :

-- Giờ tôi cần ngủ một giấc, bác cũng nên nghỉ ngơi một chút cho công việc sớm ngày
mai.

Ông Vọng nói :

-- Thầy định không ăn uống gì sao, cả buổi sáng tới trưa hôm nay thầy đã ăn gì đâu..?

Thầy Lương đáp :

-- Không cần, tôi không thấy đói. Bác trưởng làng đừng lo.

Nói rồi, thầy Lương đi vào trong nhà, còn ông Vọng không muốn kinh động đến thầy
nên ông đóng cổng, cũng không lục tìm gì nữa. Trên chiếc giường nhỏ mà những
ngày qua thầy Lương tá túc tại nhà ông Vọng, thầy đã ngủ từ lúc nào.
Nhìn thầy Lương ngủ say, ông Vọng lúc này mới nhận ra, những ngày qua thầy Lương
đã hao tâm tổn trí để giúp đỡ ông cũng như làng Văn Thái. Ông còn nhớ hôm đầu
tiên thầy Lương gọi cửa xin ngủ nhờ, lúc ấy khuôn mặt thầy hồng hào, ánh mắt sáng
quắc. Nhưng từ đêm hôm qua, sắc mặt của thầy Lương hình như không được khỏe,
lúc ông Vọng ngủ dậy thì thầy đã thức, ông Vọng không biết cả đêm qua thầy Lương
không ngủ. Mỗi lần sử dụng đến bùa phép, sức khỏe của thầy Lương lại bị ảnh
hưởng ít nhiều. Nhất là để tìm hiểu đám Tiểu Quỷ kia, thầy Lương phải gá hồn phách
vào hình nhân rơm. Đó cũng là lý do khiến thầy Lương mệt mỏi.

Khẽ cúi đầu cảm ơn thầy Lương, ông Vọng khép cánh cửa lại để thầy có một giấc ngủ
yên tĩnh…….Thời gian cứ thế trôi đi, thầy Lương ngủ một giấc rất dài, thầy ngủ từ
trưa cho tới 9h tối. Ông Vọng cơm nước sẵn nhưng không dám gọi thầy dậy. Lúc
chiều nay, Bảy Dao có đến gọi nhưng ông Vọng nói thầy Lương cần nghỉ ngơi nên bảo
Bảy Dao về.

Bảy đến để thông báo là đã đào xong huyệt mộ theo đúng như những gì thầy Lương
dặn. Bảy với ông Vọng có bàn với nhau chuyện sáng sớm ngày mai, cả hai đều đã
thống nhất. Bảy đã tập hợp được đội thợ đào huyệt, nói với họ sáng sớm mai, lúc 3h
sáng sẽ đưa quan tài đi chôn. Việc này chỉ có Bảy, ông Vọng và đội đào huyệt biết.
Nhớ lời thầy Lương, Bảy vẫn để bà Điều cúng vái nốt ngày hôm nay. Mọi thứ cần
chuẩn bị đều đã được Bảy lo chu toàn. Tối đến, khi tất cả đã tắt đèn, Bảy cũng
chuyển đến nhà Xoan một chiếc quan tài nữa. Mọi chuyện đã xong chỉ còn chờ đến
giờ Dần mà thôi.

Mở mắt choàng tỉnh, thầy Lương khẽ vươn vai, ông Vọng thấy thầy tỉnh lại thì mừng
lắm, bởi nhìn thầy ngủ một giấc sâu như thế, có lúc ông Vọng cũng hơi sợ.

Thầy Lương khẽ hít một hơi thật sâu rồi nói :

-- Tối rồi sao, cũng đến lúc tôi phải đi rồi.

Bước xuống giường, thầy Lương đeo tay nải rồi nói với ông Vọng :

-- Giờ tôi đi, bác cũng nên đến nhà cô Xoan đi, đến đó xong mọi người coi như không
có chuyện gì cả. Đèn điện tắt hết, khi nào sang giờ Dần thì đưa quan tài đến nơi chôn
cất. Tôi sẽ ở đó đợi.

Ông Vọng gật đầu, thầy Lương đeo tay nải rồi rời khỏi nhà. Đã hơn 9h tối, bên ngoài
đường tối om, thầy Lương đi về hướng đình làng còn ông Vọng đi hướng ngược lại
đến nhà Xoan, trên tay ông Vọng là bọc vải bên trong đựng xương cốt của Mạnh ( bố
cái Mị ). Vừa đi ông Vọng vừa run run, cũng đúng thôi, bởi ông đang đem theo một
bọc xương người.

Bảy Dao với tư cách là người lo liệu ma chay cho mẹ con Xoan nên những ngày qua
Bảy lui tới, lui lại thường xuyên nên chẳng ai ý kiến gì cả. Mà có cho tiền cũng chẳng
ai dám bén mảng đến đây, cái chết của Xoan vô cùng đáng sợ, lại thêm việc dân làng
kháo nhau cái Mị là ma quỷ thành ra chỉ có hôm viếng đầu tiên là người ta lui tới
thắp nhang xong cũng vội quay về. Ban ngày chỉ có bà Điều thầy cúng, do đã ăn tiền
làm lễ nên đến cúng bái, cầu siêu cùng đội thợ kèn, thợ trống. Mà nghe đâu hôm
trước, đang cúng bỗng nhiên bát nhang cháy rực, bà Điều cũng sợ kinh hồn bạt vía.
Hôm nay thợ kèn không đến thổi nữa, bà Điều thì cũng ậm ờ, lễ bái đâu được một
chút, trời vừa chập tối là bà ta về luôn, hẹn ngày mai sẽ làm lễ nốt ngày cuối cùng.

Biết tỏng bà Điều là thầy cúng dởm, Bảy Dao cố tình dọa cho bà ta một trận, Bảy nói
hôm bát hương cháy, Bảy cũng bị hồn ma mẹ con Xoan hiện về quở. Bảy cho rằng có
khi nào là do bà Điều làm lễ cúng không ra gì nên hồn ma mẹ con họ mới về tìm.
Nghe thế thôi, bà Điều tái xanh cả mặt. nhưng vẫn một mực nói rằng mình làm lễ cầu
siêu rất thành tâm. Cũng nhờ vậy mà dù có nghe phong thanh ông Vọng đã tìm được
chỗ chôn cất mẹ con Xoan nhưng bà Điều không dám hỏi han gì cả.

Về phần thầy Lương, ông ung dung tự tại đi đến khu vực giếng làng, vẫn đứng trước
cây lộc vừng, nhưng hôm nay thầy Lương không đặt hình nhân rơm vào đó nữa. Lấy
trong tay nải ra bốn lá bùa bằng giấy vàng, trên mỗi lá bùa có dùng mực son hoạ đạo
phù “ Bát Quái Thu Hồn Pháp “.

Dùng đinh bạc, thầy Lương ghim 4 lá bùa vào bốn hướng quanh thân cây lộc vừng.
Cuối cùng ông lấy trong túi áo ra một vật gì đó nhỏ nhỏ, ánh kim đặt vào giữa túi vải
đựng nhúm dây tơ hồng mà sáng nay thầy Lương lấy được từ cây kỷ tử.

Để túi vải ấy vào hốc cây, thầy Lương chích máu nhỏ vào gốc lộc vừng rồi khẽ lẩm
bẩm :

— Giúp ta cứu người, sau này ngươi ắt có được thành quả. Thân là một linh tinh sinh
sôi nhờ vượng khí của Long Mạch, để đám Tiểu Quỷ đó vương lên tà khí, há chẳng
phải công sức tu luyện hàng trăm năm qua uổng phí hay sao..?

Thầy Lương vừa nói xong thì cành lá từ cây lộc vừng khẽ rung rinh, xào xạc mặc dù
trời lặng không có lấy một ngọn gió. Chỉ biết sau đó, thầy Lương rời khỏi khu vực
giếng làng….Nơi ông đang đi đến chính là huyệt mộ sẽ chôn cất gia đình Xoan sáng
sớm ngày mai. Ánh trăng lấp ló sau tầng mây đen lúc này mới lộ dần.

Trời đang chuyển dần về đêm…….

#Chap57 : Trận Đồ Thất Bại.


Nơi thầy Lương đang đứng là 3 huyệt mộ đã được đào sẵn. Bảy Dao cũng đã cẩn
thận làm thêm một cây cầu tạm bằng ván gỗ để thuận tiện cho việc chuyển quan tài
đi chôn vào rạng sáng ngày mai. Kiểm tra thật kỹ lưỡng, thầy Lương rất hài lòng với
những gì mà đội thợ đào huyệt do Bảy Dao thuê làm. Tất cả đều chính xác với yêu
cầu của ông. Khẽ áp tay xuống đất, không chỉ mặt đất mà từ bên dưới huyệt mộ đã
đào cũng khẽ phả lên một hơi ấm kèm theo mùi hương đặc trưng của rễ cây dịu nhẹ.
“ Huyệt Mắt Rồng “ vẫn đang phát tốt, phong thủy nơi đây càng về đêm lại càng bộc
lộ sinh khí mạnh mẽ hơn. Chẳng trách mặc dù bốn bề là đồng ruộng, nhưng tuyệt
nhiên ở khu vực này không hề có tiếng kêu của ếch nhái, tất cả đều tĩnh lặng, thanh
bình. Không hổ danh là “ Huyệt Mắt Rồng “.

Trời cao thật biết sắp đặt, khi Long Mạch bị trấn yểm, lần đầu đi qua nơi này, thầy
Lương không hề cảm nhận được sinh khí nơi đây lại tốt đến như vậy. Cũng có thể khi
ấy, khả năng của thầy Lương vẫn đang bị kiểm tỏa từ bùa yểm của Cao Côn nên ông
không nhận ra. Chỉ đến khi bùa yểm Long Mạch bị hóa giải, vận khí bao năm bị kìm
hãm nay được giải phóng, nhờ vậy mà những thế đất đẹp nằm trong địa mạch mới
bắt đầu xuất hiện.

Long Mạch nằm ở làng Văn Thái mặc dù bị Cao Côn trấn yểm cả trăm năm nhưng chỉ
đến thời điểm này mới bắt đầu suy yếu. Điều này chứng tỏ vượng khí nơi đây cực
thịnh, đó cũng là lý do vì sao Cao Côn lại đánh đổi cả sinh mạng để mong độc chiếm
lấy Long Mạch. Tuy nhiên Cao Côn đã thất bại, thật khó tưởng tượng, nếu như Cao
Gia mà thành công thì cả trăm năm sau, không, phải là mấy trăm năm sau, chỉ cần
Cao Gia còn tồn tại, không chỉ làng Văn Thái mà sẽ là vận mệnh cả một vùng đất bị
Cao Gia thao túng. Tuy nhiên, con người dù có tài giỏi đến đâu mà muốn đi ngược lại
ý trời cũng không phải chuyện đơn giản. Nghịch thiên từ cổ trí kim triệu người chỉ có
1 người thành công. Cái già mà Cao Gia phải trả là họa diệt thân, thầy Lương vẫn
chưa rõ tại sao Cao Gia bị giết sạch, nhưng Cao Luân ( tên của ông Vọng ) lại được
cứu thoát, được chính người trong làng nuôi nấng rồi thay tên đổi họ. Chắc chắn
phải có một nguyên nhân nào đó. Với việc họ Cao cố tình đi ngược lại với đạo lý, trái
với thiên ý, họa sát thân cũng là do họ Cao tự chuốc lấy. Nhưng trời cao vẫn để lại
cho Cao Gia người sống sót, ắt hẳn phải có ý nghĩa nào đó.

Qua những gì mà Cao Côn đã làm, và qua ghi chép không rõ ràng, chỉ sơ lược của các
cụ hương thân quá cố của làng Văn Thái thì họ Cao thực sự là một nỗi khiếp sợ đối
với dân làng. Chỉ cần nghĩ đến phương pháp luyện ra đám Tiểu Quỷ kia là do Cao Côn
cũng đủ biết, lúc còn sống, Cao Côn độc ác hơn cả quỷ dữ. Ông ta là một kẻ vô nhân
tính, độc đoán, sẵn sàng làm tất cả vì lợi ích cá nhân, vì gia tộc. Có những thứ vốn dĩ
đã thuộc về bản chất, khác với Cao Côn, Cao Luân ( ông Vọng ) lại là một người giàu
lòng nhân ái, vị tha, bao dung, Cao Côn có thể giết chết rất nhiều người để đạt được
mục đích thì cháu nội của Cao Côn là Cao Luân lại có thể hi sinh mạng sống của mình
để cứu lấy những người khác.

Cứ cho là bố mẹ nuôi của Cao Luân đã nuôi dạy con theo cách hướng thiện, nhưng
nên nhớ, Cao Luân dù sao cũng mang dòng máu của họ Cao. Còn là cháu đích tôn của
Cao Côn. Người ta nói, con nhà tông không giống lông thì cũng giống cánh, đó cũng
là lý do vì sao ban đầu thầy Lương có đôi chút cảnh giác với ông Vọng, tuy nhiên, qua
nhiều sự việc đã xảy ra thì thầy Lương thấy ông Vọng thực sự là một người đức độ.

Thầy Lương khẽ mỉm cười rồi tự nhủ một mình :

-- Nhân tình thế thái, thiên biến vạn hóa…..Cũng không thể nghĩ như thế được, bởi
thiên tính là do trời ban, cũng là một phần căn quả từ kiếp trước, cũng như phúc báo
do cha mẹ để lại. Hơn nữa, nếu đúng như ta dự đoán, việc trời cao để cho Cao Luân
còn sống ắt hẳn là có nguyên nhân, thôi thì cứ thuận theo ý trời, dến đâu hay đến
đó. Trước mắt công việc của ta là giúp đỡ những linh hồn khốn khổ này có cơ hội
được siêu thoát. “ Huyệt Mắt Rồng “ đành để dành cho ba người bọn họ vậy.

Đã quá 12h đêm, khu vực giếng làng bắt đầu xuất hiện những tiếng cười khúc khích,
mỗi lúc tiếng cười lại vang hơn, lớn dần hơn…….Vẫn như đêm hôm trước, đám Tiểu
Quỷ tiếp tục xuất hiện, bốn con Tiểu Quỷ với hình dạng trẻ con, mỗi con trên tay đều
kéo theo một sợi xích sắt trói buộc linh hồn Mị. Chúng rong Mị trên con đường đất đi
từ hướng đầu làng vào. Khi đến khu vực giếng, chúng tiếp tục bày những trò chơi của
trẻ con như đuổi bắt, bịt mắt bắt dê, trốn tìm…….Chúng chơi đùa, chạy nhảy như thế
cho đến 2h sáng.

Lúc này từ hướng Đông vọng lại có tiếng động lạ phát ra :

“ Leng...keng….leng...keng….leng..keng “

“ Leng...keng...leng...keng….leng...keng. “

Lũ Tiểu Quỷ đang vui đùa, chúng đang nhe răng ra cười thì bỗng dưng im bặt. Chúng
đồng loạt quay đầu về hướng Đông, những đôi mắt đỏ loé lên trong màn đêm u tối.

Tiếng “ leng keng “ kia mỗi lúc một gần, cho đến khi đám Tiểu Quỷ nhìn thấy một
bóng người đang từ từ đi tới. Đó chính là thầy Lương, trên tay ông đang cầm một
chiếc chuông bạc, cứ ba bước ông lại rung chuông một hồi, tiếng chuông bạc vang
vọng trong màn đêm, thực sự tiếng chuông khiến cho đám Tiểu Quỷ kia phải khó
chịu.

Vừa bước, thầy Lương vừa lẩm bẩm đọc chú. Đúng như thầy Lương dự đoán, bọn
Tiểu Quỷ này không phải ma quỷ thông thường. Tiếng chuông bạc cũng chỉ khiến
chúng tức tối chứ không thể xua đuổi chúng đi. Thấy người, ngay lập tức đám Tiểu
Quỷ biến mất, chúng lúc ẩn, lúc hiện….Có lúc không nhìn thấy chúng đâu cả, chỉ nghe
thấy tiếng cười vang trong không trung mà thôi…

“ He...he...he...bắt...được...rồi…”

“ Chết….đi...Hi...hi….hi…”

Đúng với những gì mà Sửu từng kể, khi đám Tiểu Quỷ biến mất, chúng như đang trêu
đùa người sống trước khi giết chết người đó. Khác với Sửu, thầy Lương không chạy,
ông vẫn cứ thế tiến về gần với giếng làng hơn. Để bắt được đám Tiểu Quỷ này thực
sự thầy Lương chưa tìm được cách, nhưng thầy Lương cũng không phải người bình
thường để đám yêu ma có thể hãm hại. Khi chỉ còn cách giếng làng một đoạn ngắn,
bất ngờ dưới đất trồi lên những bàn tay trẻ con, nhợt nhạt, chúng túm lấy giày của
thầy Lương. Nhưng cũng ngay lập tức, bàn tay của bọn tiểu yêu như bị đốt cháy,
đám yêu ma không thể chạm vào được người của thầy Lương.

Thầy Lương đứng nhìn về phía cây lộc vừng, linh hồn cô bé Mị đang đứng úp mặt vào
thân cây, cô bé đang đếm :

“ Một….hai….ba…..trốn….đi…..trốn….đi…”

Bao vây bốn phía thầy Lương là bốn con Tiểu Quỷ, đôi mắt đỏ như máu của chúng
đang cau lại, cái miệng rộng ngoác đang thè ra chiếc lưỡi đỏ lòm, chúng cứ thế lăn
qua lăn lại xung quanh thầy Lương. Tiếng cười của chúng mỗi lúc một ghê rợn hơn,
mặc dù đã có chuẩn bị từ trước, nhưng thầy Lương cũng bắt đầu cảm thấy ù tai,
trong tâm trí ông dần dần xuất hiện những hình tượng ám ảnh về hình dạng của đám
Tiểu Quỷ.

Thầy Lương lẩm bẩm đọc một câu chú, đúng lúc này, phía hốc cây ngay bên dưới
chân của cô bé mị, có một thứ gì đó đang ánh lên một màu sáng ánh kim. Linh hồn
của Mị dừng đếm, cô bé nhìn xuống chân dõi theo ánh sáng vừa phát ra. Mị ngồi
xuống, đưa tay vào hốc cây, thứ đang phát sáng chính là cái lắc bằng bạc mà Mị vẫn
đeo lúc còn sống, đó cũng là cái lắc bạc mà bố cô bé mua, cũng là món quà duy nhất
mà Mạnh tặng được cho con gái mình.

Linh hồn Mị vừa khẽ chạm vào cái lắc bạc thì lập tức bụi dây tơ hồng mà thầy Lương
đặt chung với cái lắc lập tức vươn dài ra rồi quấn chặt lấy linh hồn cô bé vào gốc cây
lộc vừng. Những sợi dây tơ hồng lúc này phát ra ánh màu vàng, chúng như những sợi
dây trói được dát vàng đang giữ chặt lấy hồn phách của Mị nơi cây lộc vừng.

Điều này khiến cho đám Tiểu Quỷ cũng nhận ra ý đồ của thầy Lương. Chúng bỏ qua
thầy Lương, chúng ẩn hiện đến gốc cây rồi cứ thế lao vào cắn xé những sợi dây tơ
hồng đang trói buộc linh hồn của Mị. Những sợi tơ hồng bị đám Tiểu Quỷ bứt đứt,
khi vứt xuống mặt đất lập tức cháy thành tro.

Thầy Lương cau mày, ông chụm hai ngón tay lên trước mặt rồi hét lớn :

-- KHAI MỞ TRẬN PHÁP THU HỒN . ÂM BINH, MA QUỶ CHỚ LÀM CÀN.

“ Phừng...Phừng….Phừng “

Lúc này, bốn đạo bùa trên bốn mặt thân của cây lộc vừng đột nhiên sáng lên ánh
mực son được vẽ trên bùa, ánh đỏ vàng phát ra từ bốn lá bùa khiến cho đám Tiểu
Quỷ phải thoát ra khỏi thân cây khi mà chúng sắp bứt đứt được chỗ dây tơ hồng còn
sót lại.

“ Ngừ….Ngừ…..Ngừ…”

“ Kéc….Kéc...Kéc….”

Tiếng cười man rợ khi nãy giờ đây được thay bằng những âm thanh gai người từ
tiếng nghiến răng giận dữ của đám tiểu yêu. Những đạo bùa thu hồn đại pháp kia
vẫn đang tạo ra được một kết giới bao quanh linh hồn cô bé Mị. Nhưng như vậy cũng
chưa đủ để khiến đám Tiểu Quỷ bỏ cuộc.
Chúng đứng tụ lại phía trước gốc cây, từ tay chúng hiện ra bốn sợi dây xích trói buộc
linh hồn cô bé tội nghiệp. Đám Tiểu Quỷ dùng sức kéo mạnh bốn sợi dây xích về phía
chúng để mong cướp đoạt lại linh hồn cô bé. Thầy Lương vẫn nhắm mắt, cố gắng
niệm chú để giữ cho phong ấn có thể kéo dài càng lâu càng tốt, bởi đến giờ vẫn chưa
phải thời điểm thích hợp.

Trận chiến giữa thầy Lương và đám tiểu yêu diễn ra vô cùng khốc liệt, hai bên đều
nhắm tới một mục đích đó là chiếm lấy linh hồn cô bé Mị đang bị dây tơ hồng trói
vào thân cây lộc vừng. Nhưng đám Tiểu Quỷ kia có yêu khí quá mạnh, hơn nữa sợi
xích liên kết giữa chúng với linh hồn Mị chính là một bản giao kèo lúc Mị còn sống,
liên kết đó không phải muốn phá vỡ là có thể phá vỡ được ngay.

Vài sợi dây tơ hồng đang trói lấy linh hồn Mị cũng đang sắp đứt gần hết. Nếu như
dây tơ hồng mà đứt hết, linh hồn của cô bé sẽ bị đám Tiểu Quỷ cướp lại, và rất có
thể, sau này không còn cách nào có thể cứu lấy hồn phách của cô bé được nữa.

“ Phựt….Phựt “

Dây tơ hồng đứt đoạn cháy thành tro, tiếng cười của đám Tiểu Quỷ lại vang lên :

“ He he he….He he he…..”

“ Bắt...được….rồi….He...he...he…”

Thầy Lương đổ mồ hôi hột, những nếp nhăn trên khuôn mặt ông khẽ ép lại, hai bàn
tay đang chụm lại làm phép của ông đang run lên từng chập. Yêu khí của bọn Tiểu
Quỷ quá mạnh, chúng thực sự không phải thứ tà ma dễ khắc chế. Dù đã tính toán đủ
các chước, sử dụng đến thuật thu hồn trận nhưng ông vẫn không thể cứu được Mị.

“ Phựt “

Sợi dây tơ hồng cuối cùng cũng đã đứt đoạn…….Thầy Lương ho ra máu khi ông đã
gắng gượng để duy trì trận pháp một cách quá sức :

-- Khục…..Khục….Ta...thua….rồi…..

#Chap58 : Tiếng Động Lúc 2h Sáng.


“ He...He...He…”

“ Hi….Hi...Hi..”

“ Bắt….được...rồi….nhé…”

Thầy Lương không còn đủ sức để duy trì được trận pháp nữa, lũ Tiểu Quỷ ấy tưởng
chừng như đã kéo được linh hồn của cô bé Mị ra khỏi trói buộc của dây tơ hồng thì
đúng lúc này bao quanh linh hồn mị xuất hiện một quầng sáng, trên những tán lá của
cây lộc vừng cũng hiện ra những đốm lấp lánh như đom đóm. Những dây hoa rủ
xuống từ cành cây lộc vừng đang quấn chặt lấy linh hồn của Mị. Điều này khiến cho
đám Tiểu Quỷ ngừng cười, chúng trở nên giận giữ, chúng kêu gào…..chúng cố gắng
kéo mạnh những sợi xích trói buộc Mị về phía chúng nhưng không được.

Lập tức, hai con Tiểu Quỷ lao vào cây lộc vừng rồi cũng cắn xé dây hoa lộc vừng như
cái cách mà chúng vừa bứt đứt dây tơ hồng khi nãy. Những dây hoa bị bọn Tiểu Quỷ
giật đứt, chúng bứt đến đâu thầy Lương như nhìn thấy máu từ những dây hoa rỉ ra
đến đấy. Nhưng cứ lớp này bị đứt, lại có lớp khác quấn vào linh hồn cô bé Mị. Càng
lúc bọn Tiểu Quỷ càng trở nên kinh dị, chúng không chỉ bứt dây nữa mà chúng leo lên
bẻ gãy luôn những cành cây có dây hoa đang rủ xuống.

“ Khục….Khục…”

Thầy Lương ho ra máu, ông biết cây lộc vừng kia đã nghe theo lời cầu khẩn của mình
mà giúp đỡ ông cứu lấy linh hồn cô bé Mị. Nhưng suy cho cùng, cây lộc vừng cũng
chỉ là một linh tinh nhỏ, nhờ vượng khí của long mạch mà trải qua gần 100 năm,
trong cây lộc vừng xuất hiện linh hồn ngự. Cái cây đang dùng chính hồn phách tu
luyện của mình để bảo bọc cho linh hồn cô bé Mị. Mỗi lần bị đám Tiểu Quỷ bẻ gãy
một cành cây, nó như bị tiêu tán một phần hồn phách.

Thầy Lương nhắm mắt, ông đưa tay ra bấm độn rồi khẽ nói :

-- Cố lên, chỉ một chút nữa thôi…..Sắp tới giờ rồi.

Và rồi, điều mà thầy Lương mong đợi cũng đã đến…...Trong màn đêm tĩnh lặng,
trong khoảng không gian vẫn còn đang tối om, đen kịt ấy, một tiếng gà gáy to, rõ,
vang từ trong làng vọng ra :

“ Ò...Ó….Ó…..O…..O “

Ngay khi tiếng gà cất lên, cả đám 4 con Tiểu Quỷ lập tức dừng hết lại mọi hành động.
Chúng hướng đôi mắt đỏ au về phía thầy Lương nhìn đầy căm thù, tiếp đó chúng
nhìn linh hồn của Mị.

“ Ngéc….Ngừ….Ngừ….”

“ Kéc….Kéc...Kéc…”

Những âm thanh gai người phát ra từ bọn Tiểu Quỷ vang vào không trung. Chúng
dần dần biến mất, sau khi đám Tiểu Quỷ đi khỏi, trên thân cây lộc vừng, quầng sáng
phát ra từ cây cũng tan dần đi, linh hồn của cô bé cũng không còn nhìn thấy nữa.
Mọi thứ như đã trở lại bình thường, thầy Lương cố gắng bước về phía gốc cây. Ông
cúi xuống nơi hốc cây lộc vừng rồi đưa tay vào trong nhặt lấy cái lắc bạc của cô bé
Mị.
Lúc này đã là gần 3h sáng, thật may mắn khi tiếng gà đã cất lên kịp thời. Tất nhiên
điều này cũng nằm trong tính toán của thầy Lương. Chỉ có điều, thầy Lương không
thể lường được đám Tiểu Quỷ kia lại ghê gớm đến như vậy. Thực sự ban đầu, thầy
Lương nghĩ chuyện này không mấy khó khăn. Bởi dù lũ Tiểu Quỷ có mạnh đến đâu,
nhưng chỉ cần khi gà gáy tiếng đầu tiên báo hiệu một ngày mới, chúng sẽ biến mất.
Do vậy thầy Lương nghĩ chỉ cần tìm cách giữ chặt linh hồn cô bé trong trận pháp thu
hồn cho đến khi gà gáy, lúc đó đám Tiểu Quỷ sẽ bắt buộc phải buông tha cho linh
hồn Mị. Nghĩ là vậy, nhưng khi trực tiếp chạm mặt với đám Tiểu Quỷ, sự thật khó
khăn hơn rất nhiều. Chúng có thể chống lại được thu hồn trận cũng là do giao ước
của Mị trước khi chết với chúng. Điều này chứng tỏ, không tìm ra cách diệt trừ bọn
tiểu yêu kia, càng để lâu chúng sẽ càng mạnh, càng quấy phá dân làng dữ dội hơn.

Suýt chút nữa thầy Lương đã thất bại trong việc cứu lấy linh hồn Mị khỏi tay đám
Tiểu Quỷ nếu không nhờ có cây lộc vừng. Hồn phách ngự trong cây lộc vừng đã tổn
hại gần như tiêu tán. Coi như tu luyện trăm năm qua đã mất, thầy Lương thực sự
cảm kích trước cây lộc vừng. Nhưng trước mắt ông còn có việc quan trọng phải làm,
thu được hồn phách của Mị bằng cách để hồn phách đó gá vào đồ vật mà khi còn
sống cô bé yêu thích nhất, trân trọng nhất chính là cái lắc bạc. Cầm cái lắc trên tay,
thầy Lương nhẹ nhàng đặt vào một tấm vải đỏ nhỏ bằng lòng bàn tay. Tiếp theo thầy
Lương dùng kim có xâu chỉ ngũ sắc khâu kín miếng vải bọc cái lắc bạc lại, dán lên đó
một lá bùa thầy Lương đem lắc bạc đến nơi chuẩn bị chôn cất cả gia đình Mị ( huyệt
mắt rồng ).

Tại huyệt mộ của Mị nằm ngay chính giữa hai huyệt của Mạnh và Xoan, thầy Lương
sử dụng khả năng của mình để trấn lại toàn bộ khu vực huyệt mắt rồng. Lý do thầy
Lương phải trấn trước khi chôn là bởi cả gia đình Mị mỗi người chết đi, linh hồn đều
còn mang oán nghiệp, cho dù có được chôn ở huyệt mộ tốt, nếu không trấn sau này
sẽ phát sinh những điều không hay. Mặt khác, với trấn của thầy Lương, ma quỷ, tiểu
yêu về sau không thể xâm phạm đến khu vực huyệt mộ. Mọi thứ đã xong, việc trấn
cũng được thực hiện một cách bí mật, đó là lý do vì sao thầy Lương lại đến đây một
mình lúc nửa đêm, bởi cách thức trấn rất quan trọng, nếu để kẻ khác biết, người có
tâm tốt không sao, gặp người có tâm địa xấu, nếu biết các vị trí đặt trấn hắn sẽ phá
hoại công sức mà thầy Lương tận tâm thực hiện, khiến cho linh hồn người chết
không thể siêu sinh.

[.....]

Tại nhà Xoan, giờ Dần đã điểm, ông Vọng giục mọi người dậy chuẩn bị xuất phát.
Ngay khi đồng hồ chỉ qua 3h sáng, ông Vọng nhìn Bảy Dao rồi cả hai cùng gật dầu :

-- Tới giờ rồi, chúng ta đưa quan tài ra đồng thôi.

Đội chuyển cữu đưa cả ba chiếc quan tài lên lên ba chiếc xe rồng phượng đã được
chuẩn bị từ trước để đưa người chết ra vị trí huyệt mộ. Bảy Dao không ngại chi tiền,
Bảy thuê về 8 người đào huyệt rất khỏe mạnh, công việc chuyển cữu ra huyệt cũng
nhờ đến họ. Hơn 3h sáng, tiếng xe kéo đưa tang lục cục lăn bánh trên con đường đất
của làng Văn Thái, lúc này dân làng còn đang say ngủ, không ai biết về việc chôn cất
cả gia đình Xoan cả. 3 chiếc quan tài được đưa đến khu vực chôn cất, những người
thợ đào huyệt mộ phải rất vất vả mới chuyển được quan tài đến trước ba huyệt mộ.

Khi đến nơi, ông Vọng thở phào bởi thực sự thầy Lương đang đứng đợi mọi người ở
đó từ trước. Công việc khó khăn nhất thầy Lương đã làm xong, trước khi chôn, thầy
Lương cẩn thận xếp xương cốt của Mạnh vào trong tiểu quách, trong số 8 người đào
huyệt kia, có người cũng biết về chuyện bốc mả. Nhưng khi nhìn thầy Lương xếp
xương cốt vào trong quách, người này phải thốt lên trầm trồ :

-- Không giấu gì các vị, tôi cũng chuyên đi cải táng mồ mả, nhưng chưa bao giờ gặp ai
xếp xương cốt người chết nhanh, hợp lý nhưng lại vô cùng chi tiết, tỉ mỉ đến vậy.
Thực sự phải thán phục….

Thầy Lương mỉm cười, ông từ tốn đáp :

-- Bởi công việc của tôi là bốc mồ, bốc mả cho người đã khuất mà.

[......]

5h sáng, khi trời bắt đầu tờ mờ sáng, công việc chôn cất cho cả 3 người gia đình Xoan
đã xong. Mồ hôi mồ kê nhễ nhại, nhưng khuôn mặt ai nấy đều ánh lên vẻ vui mừng,
rạng rỡ, bởi cuối cùng thì họ cũng có thể giúp cho những người đã khuất được mồ
yên, mả đẹp. Làm lễ, thắp hương, cầu khấn xong, thầy Lương nói với ông Vọng :

-- Chuyện chôn cất coi như đã ổn thỏa, cả ba người bọn họ không còn ai thân thích
trong làng này. Sau, việc nhang khói đành phải nhờ vào bác trưởng làng cũng như
dân làng vậy. Nếu được, hãy giúp họ lập một ban thờ nhỏ trong khuôn viên của đình,
dân làng tiện bề nhang khói, giúp cho họ có cơ hội được đầu thai, chuyển kiếp, cũng
là tích đức cho mọi người.

Bảy Dao cúi đầu đáp :

-- Thầy yên tâm, tôi hứa sẽ chăm sóc cho mộ phần của ba người họ chu toàn. Cảm
ơn thầy, nhờ có thầy mà tôi như được mở mang đầu óc. Có mặt bác Vọng ở đây, tôi
hứa sẽ làm đúng như những gì mình từng nói.

Thầy Lương khẽ gật đầu, ông nói với Bảy Dao :

-- Được như vậy thì phúc đức quá, cảm ơn chú Bảy, việc lần này suôn sẻ đều là nhờ
chú Bảy giúp đỡ rất nhiều. Sau này đành nhờ đến chú Bảy vậy, còn về chú Bảy tôi
cũng có vài lời, đối với con người, sức khỏe là quan trọng nhất, tiền bạc có nhiều đến
đâu cũng không mua được sức khỏe. Vậy nên cây kỷ tử đỏ mà tôi nói chú Bảy đánh
về nhà trồng, ngoài việc cây mang sinh khí của địa mạch tốt, có thể khiến cho tà mà
tránh xa ra thì quả của cây kỷ tử đỏ ấy rất có lợi cho sức khỏe. Mỗi khi cây ra quả,
chú Bảy sử dụng quả đó thì sức khỏe sẽ tốt hơn.

Bảy Dao vâng lời thầy Lương rồi cảm ơn thành kính, tất cả rời khỏi nơi chôn cất gia
đình Xoan. Đến chỗ giếng làng, Bảy Dao chào ông Vọng và thầy Lương rồi trở về nhà,
còn thầy Lương dẫn ông Vọng đến trước cây lộc vừng, đến lúc này, khi trời đã sáng,
ông Vọng mới nhìn thấy, trên thân cây có những vết xước sâu như có ai dùng dao
chém vào, dây hoa rủ xuống từ trên cành cây bị bứt đứt rơi lả tả, chưa hết, một vài
cành to trên cây còn bị bẻ như sắp gãy lìa.

Ông Vọng ấp úng, nhìn thầy Lương ông khẽ hỏi :

-- Nơi này đã xảy ra chuyện gì vậy…?

Nhưng khi ông Vọng quay lại thì thầy Lương đã ho khù khụ, tuy thầy Lương đã lấy tay
che miệng lại nhưng ông Vọng vẫn nhìn thấy có vết máu vừa khẽ rỉ qua kẽ tay của
thầy Lương, vội vã, ông Vọng đỡ thầy Lương rồi lo lắng :

-- Thầy….thầy sao vậy…..?

Thầy Lương xua tay, ông nói :

-- Bác trưởng làng đừng lo, tôi không sao…..Giờ chỉ còn một chuyện cuối cần phải
làm trước khi tôi rời khỏi làng này….Đó là….đám Tiểu Quỷ kia…..Tôi ngờ rằng...Cao
Côn tạo ra….chúng…..là….để…..Hụ….khụ...khụ….

Thầy Lương càng nói thì lại càng ho nhiều hơn, đã gần 6h sáng, đường làng vắng vẻ
chưa có ai qua lại…..Ông Vọng vội dìu thầy Lương quay về nhà, ông Vọng nói :

-- Chuyện gì cũng để sau…..Giờ tôi đưa thầy về nghỉ ngơi.

Trong đầu ông Vọng đã có câu trả lời cho câu hỏi khi nãy, nhìn cảnh tượng hoang tàn
của cây lộc vừng sau một đêm, thầy Lương ho ra máu, khi nãy thầy có nhắc đến đám
Tiểu Quỷ, dù khó tin nhưng ông Vọng chắc chắn, đêm qua thầy Lương đã phải hao
tâm, tổn rất nhiều sức trước khi chôn cất được cho gia đình Xoan. Chỉ là một người
lạ đi ngang qua làng, nhưng những gì mà thầy Lương đã làm cho làng suốt thời gian
ông ở lại đây thực sự không có gì có thể báo đáp nổi.

[......]

Tại nhà ông Vọng, lúc này đã là 2h sáng, thầy Lương vẫn đang ngủ sau khi đã dồn hết
tâm sức vào việc chôn cất cho 3 người gia đình Xoan. Ông Vọng cũng đang ngủ, bỗng
dưng ông Vọng mở mắt, ông nghe thấy bên ngoài cửa chính, hình như đang có tiếng
gì đó cào vào mặt gỗ :

“ Kít….két…..két….két…”

“ Xoạt….xoạt…..roạt….”

Ngồi dậy, bước xuống giường, ông Vọng khẽ hỏi :


-- Ai…..đấy….? Ai cào….cửa đấy…?

Không có ai đáp lại lời ông Vọng cả, chỉ có tiếng cào cửa đang phát ra mỗi lúc một
lớn hơn mà thôi……..

“ Két….két…..kít…..kít…”

#Chap59 : Con “ Vàng “


“ Xoạt….xoạt….xoạt…”

Thứ gì đó vẫn đang cố cào vào cửa trước, ông Vọng hỏi lại một lần nữa :

-- Ai đấy….?

Lúc này bên ngoài chợt vang lên tiếng chó sủa :

“ Gâu...Gâu….Gâu…”

Nghe thấy tiếng chó sủa, ông Vọng vội vã bước nhanh đến cánh cửa gỗ, bởi tiếng chó
vừa sủa khiến cho ông nhớ tới con Vàng.

“ Két….Cạch...Cạch..”

Cánh cửa được mở then cài, ông Vọng mở bung cửa ra rồi khẽ gọi :

-- Vàng….Vàng, là mày phải không…?

Bên ngoài trời đêm, ánh trăng, ánh sao hôm nay sáng vằng vặc, giữa khoảng sân
gạch, đúng là con Vàng đang đứng đó. Nó nhìn thấy ông Vọng thì lập tức vẫy đuôi,
quay đầu hướng về ông Vọng, con Vàng nhìn ông Vọng xong chạy thẳng ra vườn.
Ông Vọng loạng choạng đi theo nó, vừa đi ông vừa gọi :

-- Vàng, Vàng….Mày chạy đâu vậy…? Quay lại đây, Vàng ơi….

Nhưng con Vàng chỉ ngoái đầu rồi lại chạy xộc ra khoảng vườn nằm kề cái ao nhỏ
ngay trong sân, hình như nó muốn ông Vọng đi theo nó thì phải. Ông Vọng cũng chạy
ra đến vườn, lúc này con Vàng cũng đã dừng lại, nó dừng lại ngay dưới gốc cây xoài
rồi cứ thế cào 2 chân trước xuống mặt đất. Vừa cào nó vừa sủa lên mấy tiếng :

“ Gâu….Gâu….Gâu….”

“ Gâu….Gâu….Gâu…”

[........]

-- Vàng…..Vàng ơi…...Vàng……
Ông Vọng ú ớ nói mơ…...Lúc này thầy Lương khẽ day nhẹ vào người ông Vọng rồi
gọi :

-- Bác Vọng, bác Vọng…..Tỉnh dậy đi, bác Vọng….

Lập tức ông Vọng mở mắt, ngồi bật dậy, ông Vọng dáo dác nhìn xung quanh nhà,
thấy mình vẫn còn đang nằm trên giường. Nhìn thấy thầy Lương đang đứng cạnh,
ông Vọng hốt hoảng :

-- Con Vàng, thầy ơi…..Con Vàng đâu…?

Thầy Lương đáp :

-- Con Vàng…? Bác trưởng làng nằm mơ thấy nó phải không…? Chắc tại bác nhớ nó
quá, con Vàng chết rồi mà bác Vọng.

Ông Vọng lắc đầu :

-- Không, tôi biết….tôi biết con Vàng chết rồi, nhưng khi nãy tôi đã nhìn thấy
nó….Không phải mơ đâu, nó còn sủa rồi vẫy đuôi với tôi mà.

Thầy Lương chưa kịp nói gì thêm thì ông Vọng bước xuống giường, không kịp xỏ cả
dép, ông Vọng hỏi thầy Lương :

-- Bây giờ là mấy giờ rồi thầy..?

Thầy Lương trả lời :

-- Chưa tới 5h sáng, xin lỗi đã làm phiền bác trưởng làng, tôi chắc có lẽ đã ngủ
nguyên một ngày….

Ông Vọng kéo tay thầy Lương, mở cửa nhà, bên ngoài trời đang tờ mờ sáng. Bước ra
hiên, ông Vọng cúi xuống nhìn vào cánh cửa gỗ, rồi ông hét lên :

-- Đúng là nó mà…..Thầy, thầy nhìn mà xem, trên cánh cửa vẫn còn vết cào
này…..Con Vàng, con Vàng nó đã cào vào cửa để gọi tôi. Không phải mơ đâu thầy
ạ…..Là nó thật đấy.

Thầy Lương cúi xuống nhìn, đúng thật, cánh cửa gỗ có những vết cào xước còn rất
mới, không chỉ vậy, dưới nền hiên thực sự có vết chân chó.

Còn đang suy nghĩ thì ông Vọng kéo tiếp thầy Lương đi ra sân, tiếp đó, ông Vọng chỉ
tay ra ngoài vườn rồi vội vàng nói :

-- Chưa hết đâu thầy ạ…..Con Vàng nó cào cửa gọi tôi, rồi nó dẫn tôi ra ngoài
vườn….Tôi hãy còn nhớ như in, nó đào bới gì đó dưới gốc cây xoài kia. Như
vậy…..như vậy là sao hả thầy…?

Thầy Lương nói ông Vọng đi vào trong nhà, bên ngoài trời vẫn còn sương. Ngồi
xuống ghế, thầy Lương nói :

-- Nếu bác trưởng làng đã nhìn thấy con Vàng thì tôi tin thực sự con Vàng muốn báo
mộng cho bác trưởng làng điều gì đó. Dù sao nó cũng coi như một thành viên thân
thiết trong gia đình bác trưởng làng. Từ qua đến giờ bác trưởng làng đang nghĩ đến
việc gì nhiều nhất…?

Ông Vọng trả lời :

-- Không giấu gì thầy, suốt cả ngày hôm qua, trong lúc thầy ngủ, tôi lại tiếp tục tìm
kiếm khắp nơi từ hốc bếp. xó nhà xem có thấy cái bình nào không…? Từ lúc nhớ đến
lời nói cuối cùng của bố tôi, tôi thực sự muốn tìm xem “ cái bình “ mà ông cụ nói nó
ra làm sao. Tối qua trước khi đi ngủ, tôi có thắp hương cho hai cụ, lúc lên giường
nằm, nghe tiếng cho sủa từ nhà khác vọng lại, nhớ con Vàng tôi chảy cả nước mắt.

Thầy Lương mỉm cười :

-- Bác nói con Vàng dẫn bác đến gốc cây xoài rồi cứ thế đào bới ở đó phải không..?

Ông Vọng gật đầu :

-- Dạ đúng rồi, nó vừa đào hai chân trước xuống mặt đất, vừa quay đầu lại nhìn tôi
rồi cứ thế sủa vang.

Thầy Lương nói :

-- Trong nhà còn gì ăn không bác trưởng làng…?

Đang nói chuyện về con chó, bỗng dưng thầy Lương lại hỏi đồ ăn khiến ông Vọng
ngơ ngác, nhưng ông Vọng vẫn trả lời :

-- Còn thầy ạ, hôm qua tuy thầy ngủ mê mệt, nhưng tôi vẫn cơm nước chờ thầy.
Thấy thầy ngủ say quá không dám gọi, mâm bát tôi vẫn đậy cẩn thận dưới bếp.

Thầy Lương gật đầu :

-- Bác dọn cơm lên đi, hai chúng ta cùng ăn.

Đang nói chuyện nọ thì thầy Lương lại chuyển sang chuyện ăn uống, nhìn ông Vọng
thầy Lương khẽ cười rồi tiếp tục :

-- Phải ăn chứ, ăn để mà lấy sức chuẩn bị đào xem dưới gốc cây xoài đó thực sự có
thứ gì…? Rất có thể điều mà bác trưởng làng mong mỏi, thắc mắc đang nằm dưới
gốc cây xoài đó.
Giờ mới hiểu ra, ông Vọng vâng dạ rồi lục tục xuống bếp hâm nóng lại đồ ăn. Chưa
bao giờ ông thấy hồi hộp như lúc này. Nếu đúng như lời thầy Lương nói, con Vàng
đang muốn chỉ cho ông thứ gì đó nằm dưới lòng đất, bên dưới gốc cây xoài. Nhớ lại,
cây xoài này được chính tay bố mẹ ông Vọng trồng năm ông Vọng chỉ mới 10 tuổi.
Đó là giống xoài tượng, không biết bố ông Vọng đánh được từ đâu về, lúc ấy cây xoài
chỉ cao chừng 50 phân và to hơn ngón tay cái một chút.

Khi ấy, ông Vọng thích lắm, lúc bố mẹ ra vườn tìm chỗ trồng, ông Vọng cũng lăng
xăng chạy theo. Đang chạy thì vấp ngã cái uỵch, cú ngã khá đau, vườn lại có đá dăm
nên tay chân Vọng xước hết cả. Vọng ngồi đó khóc tu tu, để dỗ con, bố mẹ Vọng
chọn luôn chỗ Vọng ngã để trồng cây xoài. Và chính tay Vọng là người cầm cái bay
xúc lớp đất đầu tiên để đưa cây xoài về với mảnh vườn của gia đình. Sau này khi lớn
lên, bố mẹ Vọng mỗi lần nhìn cây xoài đều kể cho Vọng nghe về chuyện trồng xoài
khi Vọng còn nhỏ.

Sau này, khi mẹ ông Vọng tuổi cao sức yếu, những ngày trước khi mất, năm bà mất
vào đúng mùa xoài, cây xoài tượng ra những trái rất to. Bà cụ trước khi ra đi vẫn
muốn nhìn cây xoài lần cuối, bà nói với hai cha con ông Vọng :

-- Cây xoài đó là do cả nhà ta chung tay trồng, bao năm qua, nó chứng kiến tất cả
những gì mà chúng ta làm….Nó, nó…..hức….

Nói đến đây bà cụ bật khóc, bố ông Vọng nhìn vợ gật đầu :

-- Bà nó đang mệt, đứng ngoài này không tốt, để tôi đưa bà vào trong.

2 ngày sau, mẹ ông Vọng qua đời, chôn cất cho mẹ xong, trên cây xoài khi ấy chín
đúng 3 quả, ông Vọng hái vào để thắp hương cho mẹ. Giờ nhớ lại những chuyện đã
xảy ra, ông Vọng mới thấy nếu bên dưới gốc xoài có chôn thứ gì đó có liên quan đến
ông Vọng thì cũng hợp lý. Chỉ có điều, tại sao cho đến tận khi qua đời, cả hai ông bà
đều không nói cho ông Vọng biết về thân thế, cũng như quá khứ của mình.

Ăn cơm xong, ông Vọng đi chuẩn bị cuốc, xẻng để đào đất thì bên ngoài cổng có
tiếng người hớt hải gọi :

-- Bác Vọng ơi, bác Vọng ơi…..Bác có nhà không…?

Đang tay cuốc, tay xẻng, ông Vọng ngó ra thì thấy Sửu.

Sửu chào :

— Bác Vọng, mở cổng cho em vào với. Thầy Lương khoẻ chưa ạ..?

Ông Vọng nhìn vào trong nhà xem ý thầy Lương ra sao. thầy Lương gật đầu, ông
Vọng mở cổng cho Sửu. Hãy còn sớm, lúc này mới chỉ 6h sáng. Ông Vọng hỏi :
— Nhà Sửu đi đâu sớm vậy..?

Sửu cười rồi giơ lên hai con chim cu gáy đang cầm trên tay, Sửu đáp :

— Cũng không có gì, hôm qua em đặt bẫy sau vườn, thế nào lại bẫy được hai con
chim cu. Biết thầy Lương đang ốm, em mang sang biếu bác với thầy nấu cháo ăn cho
nó bổ. Bắt được cái em mang sang ngay đấy.

Đặt hai con chim bên ngoài đậy cẩn thận, Sửu bước vào nhà thấy thầy Lương đang
ngồi, Sửu vội chào rồi hỏi thăm. Tính Sửu rất tốt, cũng là người góp công sức trong
việc làng mấy ngày qua nên thầy Lương cũng có cảm tình. Bước lên hiên thấy cuốc
xẻng đặt ở đó, Sửu hỏi :

— Ủa, bác Vọng định làm gì à..? Sẵn em ở đây có gì cần đến dùng sức, cứ để em làm
cho. Đồng áng chưa vào vụ mới nên buồn tay buồn chân lắm.

Thầy Lương nhìn ông Vọng khẽ mỉm cười rồi trả lời Sửu :

— Nếu được vậy thì nhờ cậu Sửu đây vậy.

Ông Vọng nhìn thầy Lương có chút e ngại, thầy Lương nói với ông Vọng khi mà Sửu
đang cầm cuốc xẻng ra ngoài vườn :

— Bác Vọng đừng lo, người này chất phác, thật thà, có tâm tính tốt….Có thể nhờ cậy
được, hơn nữa mệnh cách của cậu ta mà tôi nhìn thấy sẽ bảo vệ được cho bác Vọng
tai ương về sau. Duyên đến thì cứ để nó thuận theo tự nhiên. Cậu ta đến tìm chúng
ta lúc chúng ta cần chính là duyên rồi.

#Chap60 : Bí Mật Chôn Dưới Gốc Xoài.


Ra đến ngoài vườn, đứng trước gốc xoài, ông Vọng chỉ xuống đất, chỗ con Vàng đêm
qua đào bới mà ông đã thấy trong mơ rồi nói :

-- Là...là chỗ này thầy ạ….?

Thầy Lương gật đầu, Sửu hỏi :

-- Vậy là đào chỗ bác Vọng vừa chỉ phải không ạ, chuyện đào bới bác Vọng với thầy
Lương cứ để cho em.

Nói đoạn Sửu toan dùng cuốc bổ thẳng xuống đất, thầy Lương ngăn Sửu lại rồi khẽ
nói :

-- Khoan đã, đồ vật chôn dưới gốc xoài có thể là đồ dễ vỡ, cần phải đào nhẹ nhàng.
Trước mắt cứ dùng xẻng đào nhẹ lớp đất mặt đi đã. Rồi xuống đến đâu, dùng bay
đào tiếp tới đấy.
Sửu vâng dạ rồi từ từ đào, vừa đào Sửu vừa hỏi :

-- Ủa mà dưới này có chôn cái gì vậy bác Vọng…? Đừng nói với em là các cụ nhà bác
để lại của đấy nhé….Hì hì.

Ông Vọng đáp :

-- Của cải gì đâu, thực ra thì tôi cũng đâu biết dưới này chôn thứ gì. Nằm mơ nằm
mộng nên đào thử xem giấc mơ có ứng nghiệm hay không thôi. Chứ mà có của thì
các cụ nói từ lâu rồi.

Đất trong vườn đều là đất thịt nên khá dễ đào, vừa nhìn Sửu hất lên từng mảng đất,
ông Vọng lại càng hồi hộp, ông cũng lo lắng không biết liệu thực sự dưới gốc xoài có
chôn thứ gì hay không…? Cái hố có bán kính khoảng 60cm đã được Sửu đào sâu
xuống độ 30cm nhưng vẫn chưa thấy gì cả. Thầy Lương bảo Sửu dùng xẻng đào nhẹ
thôi, nếu như chạm phải vật gì cứng thì lập tức dừng lại.

Đào sâu thêm 50cm nữa là độ sâu của cái hố cũng đã gần 1m, ông Vọng thở dài khẽ
nói :

-- Chẳng lẽ không có gì thật sao…?

Sửu hỏi :

-- Sắp được 1m rồi đấy bác ạ…? Có cần đào sâu xuống nữa không…? Bập cả vào rễ
cây rồi đây này.

Chưa thấy ai trả lời, Sửu tặc lưỡi rồi ấn cái xẻng xuống định đào thêm một lớp nữa
thì……

“ Cục “

Lưỡi xẻng mới chỉ được ấn xuống thêm tầm 10cm thì chạm trúng thứ gì đó cứng như
đá. Sửu cười lớn :

-- Ha ha ha….Hình….hình như là….thấy rồi thì phải…..Bác Vọng ơi…

Nói rồi Sửu rút xẻng lên, xong lại từ từ ấn xuống….

“ Cục “

Thêm một lần nữa, khi lưỡi xẻng chạm vào vật cứng thì phát ra âm thanh va đập.
Sửu không dùng xẻng nữa mà lấy bay tiếp tục đào bới. Ông Vọng và thầy Lương
đứng chờ đợi bởi cái hố không quá to, một mình Sửu ngồi xuống đào bới là kín rồi.
Một lúc sau, khi đất được đào bớt đi, dưới hố từ từ hiện ra thứ cứng cứng mà lưỡi
xẻng chạm vào khi nãy. Nó không phải đá, thứ này có bề mặt nhẵn, càng đào rộng ra
xung quanh thì càng lộ ra đó chính là một cái bình bằng gốm nằm hơi nghiêng, rễ của
cây xoài lan rộng ra xung quanh nhưng tuyệt nhiên không có cái rễ nào làm tổn hại
đến cái bình cả.

Ông Vọng vừa mừng vừa hồi hộp, vậy là cái bình mà bố ông nói trước khi mất đã
được tìm thấy. Nhưng ông hồi hộp bởi không biết trong bình có chứa thứ gì. Để cho
cẩn thận, thầy Lương kêu ông Vọng đi lấy một thùng nước, Sửu vừa dùng tay hớt đất
vừa khẽ tưới nước vào cho dễ đào. Chỉ một lúc sau nữa, dưới hố hiện rõ ra đó là một
cái bình bằng gốm đỏ, dài độ 40cm, cổ rộng, miệng bình đã bị đất vườn bịt kín bởi
đây là loại bình không có nắp.

Đào được cái bình khá nguyên vẹn nhưng trải qua một khoảng thời gian quá lâu nên
thân bình cũng đã xuất hiện một vài vết nứt, có chỗ còn bị sứt mẻ, Sửu ôm chặt rồi
bê cái bình lên cười lớn :

-- Ui...ui...khá là nặng đấy bác Vọng ạ.

Thầy Lương cười rồi đáp :

-- Nặng vậy sao…? Nhưng chắc có lẽ là do đất nén chặt hết vào trong bình thôi. Nhìn
miệng bình bị đất bít kín rồi kìa.

Nhìn sang ông Vọng thầy Lương nói tiếp :

-- Cuối cùng thì cũng đã tìm thấy cái bình, nhưng không biết đồ vật trong bình liệu có
nguyên vẹn như cái bình hay không…? Bình này không có nắp đậy, bao năm qua đất
đã lấp kín miệng bình. Nếu không phải kim loại thì e là đã mục nát hết.

Thầy Lương nói làm cho ông Vọng cũng lo, bởi nếu bố mẹ ông chôn bình thì chắc
chắn là khoảng thời gian sau này. Bởi năm ông 10 tuổi cây xoài mới được trồng, giả
dụ khi cây xoài trồng được 5-10 năm sau, lúc đó bố mẹ ông Vọng mới chôn cái bình
này xuống thì tính đến nay ít nhất cũng phải 30 năm rồi. Nhưng mấy chục năm trôi
qua, cái bình vẫn nguyên vẹn, ông Vọng cầu mong thứ gì đó được đặt trong bình
cũng như vậy.

Đất đã lấp kín cả miệng bình, chắc chắn bên trong bình cũng bị đất phủ đầy. Giờ
muốn lấy được đồ vật ra không phải đơn giản. Thầy Lương dùng nước rửa sạch bề
ngoài thân bình. Ông xem xét thật kỹ lưỡng rồi nói :

-- Đây chỉ là loại gốm đỏ bình thường. Cái bình này không phải bình quý, chỉ là loại
bình thường mà thôi. Giờ muốn lấy đồ trong bình ra thì bắt buộc phải dùng nước rửa
trôi hết đất bùn lẫn bên trong bình ra. Như vậy chỉ sợ càng làm hư hại đến đồ bên
trong nếu có.

Ông Vọng hỏi :

-- Vậy phải làm cách nào hả thầy..?


Sửu nhanh nhảu :

-- Nếu như cái bình này chỉ là bình bình thường, chi bằng ta đập vỡ nó ra, như vậy
không phải dùng nước mà nếu có đồ bên trong lấy nó cũng dễ.

Thầy Lương khẽ gật đầu :

-- Đúng là tôi cũng đang nghĩ giống như cậu Sửu, nhưng dù sao đây cũng là đồ vật
được hai cụ chôn cất, bác trưởng làng tính thế nào…?

Ông Vọng có chút tiếc nuối, đúng là cái bình sau khi được rửa sạch thì nó cũng giống
như loại bình mà ông Vọng có trong nhà. Ông Vọng không mơ tưởng gì sẽ đào được
vật quý giá, nhưng đúng như thầy Lương nói, cái bình là thứ mà bố mẹ ông chôn
giấu. Ông cũng hiểu, muốn giữ cả cái bình, mà lại muốn lấy đồ bên trong không hư
hại là điều không dễ. Hơn nữa cái bình cũng đã nứt vỡ ít nhiều.

Ông Vọng nói :

-- Vậy thì hãy để tôi đập vỡ cái bình.

Bê cái bình vào trong nhà, trải lớp bạt bên dưới nền, cả thầy Lương, Sửu, ông Vọng
đều hồi hộp chờ xem bên trong bình có chứa thứ gì.

“ Cốp….Cốp….Cốp “

Ông Vọng dùng búa đập lực vừa đủ vào thân bình, sau vài nhát đập, vỏ bình vỡ ra
từng mảng. Đúng như lời thầy Lương, mặc dù đã đập vỡ bình, vậy mà kể cả khi
những mảng gốm đỏ bị vỡ ra, đất trong bình vẫn giữ nguyên hình dạng của cái bình.
Do bình được chôn dưới đất mấy chục năm, lại không có nắp đậy nên đất két cứng
cả bình cũng không phải chuyện lạ.

Lúc này thầy Lương nói :

-- Được rồi, giờ để tôi.

Nói rồi, thầy Lương lấy một con dao nhỏ, ông tỉ mỉ, nhẹ nhàng tách từng mảng đất
cho đến khi phía sau lớp đất ấy lộ ra một thứ gì đó. Khẽ chạm vào, thầy Lương mỉm
cười :

-- Ra là giấy dầu, nếu được bọc giấy dầu thì đồ vật bên trong này không lo bị phân
hủy nữa rồi.

Dựa theo lớp giấy dầu, thầy Lương dần dần loại bỏ lớp đất phủ kín bí mật mà bố mẹ
ông Vọng đã giấu kín suốt mấy chục năm qua. Rốt cuộc thì họ đã che giấu bí mật gì
mà dù kể cả khi gần đất xa trời, họ vẫn nhất mực không nói.

Ông Vọng, Sửu hồi hộp nhìn theo tay thầy Lương mà không dám thở mạnh, bởi họ sợ
chỉ một làn hơi thổi qua thôi cũng khiến cho mọi thứ biến mất.

Khẽ đặt bọc giấy dầu lên trên bàn, thầy Lương nhìn ông Vọng nói :

-- Có lẽ trong này chứa đựng tất cả những gì mà hai cụ suốt mấy chục năm qua
không thể nói. Hoặc họ đã từng muốn nói nhưng rồi lại thôi. Tôi không biết liệu rằng
chúng ta, những người ở đây khi đào thứ này lên là phúc hay họa. Nhưng đối với bác
trưởng làng chắc chắn sẽ là một sự thay đổi lớn cả về vận mệnh lẫn cuộc sống về
sau.

Ông Vọng run run giọng :

-- Thầy….thầy…..mở….nó ra đi…..

Trong khoảng khắc hồi hộp đến tột cùng ấy, Sửu nghe nãy giờ cũng chưa hiểu ý của
thầy Lương là gì bởi chuyện ông Vọng là máu mủ của họ Cao cho đến nay chỉ có thầy
Lương biết. Nhưng nghe qua thì Sửu thấy chắc chắn thứ được bọc sau lớp giấy dầu
này cực kỳ quan trọng. Nó khiến Sửu nhớ tới tấm phổ truyền đào được ngoài Bãi
Hoang. Tất cả đang hồi hộp nhìn thầy Lương tách bỏ từng lớp giấy dầu thì bên ngoài
cổng nhà ông Vọng có tiếng phụ nữ gọi ầm ỹ :

-- Bớ anh Sửu ơi…..Sửu ơi, anh có ở trong đó không đấy…...Sửu ơi.

Sửu nhìn thầy Lương với ông Vọng bằng vẻ mặt tiu ngỉu :

-- Thôi chết rồi, con vợ em nó gọi…..Em bảo nó sang biếu thầy với bác hai con chim
cu xong về ngay mà quên béng mất. Giờ nó đi tìm đấy…...Thôi, thôi….em về
đây….Kẻo để nó đứng ngoài gọi lại ảnh hưởng đến thầy với bác Vọng.

Nói rồi Sửu vội đứng dậy, nhưng vẫn ra chiều tiếc nuối bởi chưa được nhìn thấy bên
trong đó có thứ gì. Nhưng tính Sửu là vậy, không tham lam, sân si…...Sửu chạy ra sân
rồi cười hềnh hệch :

-- Đây, tôi đây…..Bu nó đợi tí tôi về ngay ấy mà….Hề hề hề….

Bầu không khí nặng trĩu, hồi hộp đột nhiên bị phá vỡ bởi hai vợ chồng Sửu…..Cả thầy
Lương cùng ông Vọng khẽ lắc đầu rồi khẽ cười. Như vậy cũng khiến cho ông Vọng
thấy thoải mái hơn…...Trong nhà chỉ còn 2 người, thầy Lương bóc lớp giấy dầu, khi
đồ vật bên trong lộ ra, thầy Lương khẽ nói :

-- Tất cả những thứ này là dành cho bác trưởng làng.

#Chap61 : Quá Khứ Bi Thương.


Run run đôi bàn tay, ông Vọng đưa lên trên mặt bàn, sau khi thầy Lương bóc tách
hết những lớp giấy dầu được bọc rất kỹ lưỡng. Trải ra mặt bàn lúc này là những đồ
vật được chôn giấu : một tấm lụa màu vàng, một bộ quần áo trẻ nhỏ màu đỏ , một
sợi dây chuyền bằng vàng ròng với mặt đá hồng ngọc hình vuông quanh viền cũng
được bọc vàng…..và một bức thư viết tay, bên ngoài phong thư ghi rõ “ Gửi Vọng,
con trai của bố mẹ “.

Ông Vọng khẽ chạm vào tấm lụa vàng, tấm lụa rất mịn, mềm mại, sờ vào có cảm giác
ấm áp, nhẹ nhàng, bay bay. Tiếp đó ông Vọng cầm bộ quần áo trẻ nhỏ lên, chất liệu
của bộ quần áo cũng tương tự như tấm lụa vàng, có điều hơi dày hơn một chút xíu,
từ đường may, mũi chỉ, họa tiết, tất cả đều được thêu thùa bằng tay. Trên ngực trái
của áo có hai chữ Trung Quốc.

Ông Vọng chưa kịp hỏi thì thầy Lương đã nói :

-- Hai chữ đó là ”高轮” chính là Cao Luân, tên của bác trưởng làng. Loại lụa mà bác
đang cầm trên tay chính là lụa Hàng Châu, lụa được dệt bằng tơ “ tự nhiên “ loại tơ
này được tạo ra bởi một loại sâu bướm, sống trong tự nhiên chứ không phải được
nuôi như dâu tằm. Nói cách khác, đó là một loại lụa quý hiếm, là một thứ đồ xa xỉ chỉ
dành cho vua chúa, những người cực kỳ giàu và có địa vị xã hội từ thời xa xưa. Chỉ
nhìn vào tấm lụa và bộ quần áo đó thôi, đủ biết Cao Gia lúc còn tồn tại có cuộc sống
không khác gì những thân thích, hoàng tộc, họ có một cuộc sống phú quý, giàu sang.

Tiếp đến là sợi dây chuyền bằng vàng, thầy Lương tiếp :

-- Sợi dây chuyền này từ kiểu cách cho đến hình dáng, mặt ngọc thì đây là trang sức
dành cho người đàn ông. Có lẽ đây chính là kỉ vật mà Cao Lãm, cha của bác trưởng
làng đã để lại.

Còn lại thứ cuối cùng là bức thư, trong số những đồ vật này, bức thư chính là vật
quan trọng nhất. Nét chữ viết bên ngoài ông Vọng nhìn thấy rất quen, chính là nét
chữ của mẹ ông. Ngày còn nhỏ, ông được mẹ dạy viết, dạy đọc, ông nhớ mẹ ông là
người viết chữ rất đẹp, đó cũng là điều mà ông được thừa hưởng từ mẹ, và là điều
ông tự hào mãi cho đến tận sau này, khi ông đi học, rồi cả khi đi lính nữa. Mỗi khi có
ai đó muốn viết gì họ đều tìm đến ông Vọng, những năm chiến tranh, không phải ai
cũng có điều kiện được đi học, nhưng bố mẹ ông Vọng thì cố gắng lo cho ông Vọng
đến từng con chữ. Chính xác đây là nét chữ của mẹ ông.

Ông Vọng khẽ cầm bức thư lên rồi hỏi :

-- Tôi….tôi mở nó...ra để….đọc được chứ….?

Thầy Lương gật đầu :

-- Tất nhiên là được rồi…..Bức thư được viết, nhưng hai ông bà lại đem chôn, chắc
hẳn quãng thời gian mấy chục năm qua họ đã phải khổ tâm, dằn vặt lắm. Dù sao đây
cũng là duyên số, cũng là ý trời. Vật đã đào lên, bác trưởng làng nên đọc.

Nhờ những lớp giấy dầu bọc kín kẽ, lại thêm việc chôn bình không quá sâu nên mọi
thứ đều gần như được bảo quản nguyên vẹn. Mở phong thư, ông Vọng cẩn thận lấy
bức thư viết tay bên trong ra rồi khẽ đọc :

“ Vọng, con trai của bố mẹ, hôm nay là ngày con nhập ngũ, cũng chính là ngày bố mẹ
nhận con từ tay ân nhân, chính là mẹ ruột của con. Mới đó mà đã thấm thoát 18
năm rồi. Khi ấy con chỉ là một đứa trẻ đỏ hỏn còn đang khóc đói đòi sữa. n nhân của
chúng ta khi ấy ôm con trong một tấm vải màu trắng, cuộn tròn lại chỉ để hở ra một
chút phần đầu, tấm vải trắng đó nhuốm đầy máu của ân nhân. Ngày hôm đó là ngày
đen tối, độc ác nhất của những người dân làng Văn Thái, nhưng cũng là ngày mà
chúng ta được gặp con, được trả ơn ân nhân bằng một cách đau đớn nhất, nhìn ân
nhân liều mình bảo vệ con cho đến khi trút hơi thở cuối cùng, hình ảnh đó bao năm
qua vẫn luôn hiện rõ trong tâm trí chúng ta. Khi ấy con khóc nhiều lắm, ân nhân sợ
rằng nếu nghe thấy tiếng khóc họ sẽ giết cả con, vậy mà khi mẹ bế con trên tay, may
mắn làm sao con đã ngừng khóc. Tình hình quá cấp bách, cả hai bố mẹ đều muốn
chôn cất ân nhân sao cho thật tử tế, muốn đưa thi thể ân nhân đi nhưng không
được. Dưới bão lửa, dưới cái hung bạo, dưới sự uất hận dồn nén bao năm qua của
dân làng Văn Thái đối với Cao Gia, bố mẹ chỉ có thể đưa một mình con đi. Đó cũng là
một ký ức ám ảnh, dằn vặt với bố mẹ cũng như người dân làng Văn Thái. Vọng, 18
năm qua, nuôi con khôn lớn, nhìn thấy con trưởng thành từng ngày, nhiều lúc mẹ
không cầm lòng nổi, mẹ muốn kể cho con nghe về quá khứ, xuất thân của con.
Nhưng lý trí của cả hai bố mẹ không thể làm như vậy, bởi con là tài sản quý giá, là
báu vật của bố mẹ, là máu mủ của ân nhân giao cho bố mẹ. Bố mẹ không muốn con
gặp nguy hiểm, điều quan trọng nhất của một con người là được sống. Sẽ ra sao nếu
như dân làng biết giọt máu của Cao Gia vẫn còn, và bố mẹ là người giấu diếm bí mật
này. Lòng thù hận của dân làng Văn Thái đối với Cao Gia sâu như biển lớn, đen tựa
trời đêm. Quá khứ kinh hoàng ấy cũng là do Cao Gia tự chuốc lấy, người họ Cao coi
dân làng Văn Thái như loài chó lợn, coi sinh mạng của người dân như con sâu, cái
kiến…..Họ đã giết không biết bao nhiêu phụ nữ, rất nhiều trẻ em, những cô gái được
Cao Gia tuyển chọn đều mất tích. Suốt nhiều năm, cuối cùng bộ mặt thật của Cao Gia
đã bị phanh phui. Cao Gia đã tắm máu của người dân làng Văn Thái suốt bấy lâu. Phụ
nữ, trẻ em đều chết dưới tay của Cao Gia, mẹ không biết tại sao Cao Gia lại làm
những chuyện trời không dung, đất không tha như vậy. Và cuối cùng, nợ máu phải
trả bằng máu, điều gì đến đã đến, sự uất hận trong lòng người dân làng Văn Thái,
trong lòng những người có người thân bị Cao Gia giết bùng phát. Toàn bộ dân làng
Văn Thái khi ấy đều một lòng muốn giết sạch Cao Gia. Sự điên cuồng, độc ác đến
mức họ muốn xóa sổ toàn bộ người họ Cao, kể cả những người làm sống trong phủ
Cao Gia. Diệt cỏ phải diệt tận gốc, trẻ con sống trong phủ cũng không ngoại lệ. Có lẽ
thù hận đã che mờ lý trí của dân làng bởi Cao Gia cũng giết trẻ con. Nhưng không
phải người nào sống trong Cao phủ cũng đều là người xấu. Vẫn có người tốt, thậm
chí là rất tốt. Đó chính là mẹ ruột của con, Lâm Thư phu nhân, phu nhân chính là ân
nhân của cha con. Trước đó 3 năm, bố con bị mắc bạo bệnh, gia cảnh nhà chúng ta
không còn gì cả, dù đã vái tứ phương nhưng bệnh của bố con không hề thuyên giảm.
Chắc có lẽ mạng số bố con chưa tận, bố con nằm trên chiếc xe bò, còn mẹ thì vừa
khóc, vừa đẩy khi thầy lang nói bố con không sống được bao lâu nữa. Lúc đó, mẹ đã
gặp Lâm Thư phu nhân, một người phụ nữ tôn quý, xinh đẹp, là vợ của Cao Lãm đại
thiếu gia, là con dâu của Cao lão gia danh tiếng bậc nhất vùng này. Một người tôn
quý như vậy mà khi nhìn thấy bố mẹ, phu nhân không những không khinh miệt mà
còn dừng lại hỏi han. Mẹ òa khóc như một đứa trẻ bởi đau thương dồn nén suốt
quãng đường dài. Mẹ hoảng sợ khi Lâm Thư phu nhân đưa tay bắt mạch cho bố con
dù cho thị tỳ đi cùng cố gắng ngăn lại. Sinh mạng của bố con đã được mở ra một lần
nữa, Lâm Thư phu nhân vốn là con của một đại phu nổi tiếng, căn bệnh quái ác của
bố con được phu nhân chữa trị, nhưng căn bệnh đó cũng khiến cho bố con không
thể sinh con được nữa. Nhưng như mẹ đã nói, được sống mới là điều quan trọng
nhất. Lâm Thư phu nhân như ban cho bố con một mạng sống mới. Sau đó vì thương
xót cho hoàn cảnh của chúng ta, phu nhân còn giúp đỡ tiền bạc, giúp cho chúng ta có
kế sinh nhai. Thật đau đớn khi ba năm sau, chúng ta lại phải nhìn thấy cảnh tượng
đau lòng ấy. Phu nhân đã liều mình để đưa con thoát khỏi sự giết chóc tàn bạo của
những con người đang chất đầy lửa thù hận. Bản thân phu nhân cũng không qua
khỏi. Lúc trao con cho chúng ta, mẹ còn nhớ, phu nhân đã mỉm cười rồi khẽ nói lời
sau cuối :

“ Đúng là ý trời, hãy thay ta chăm sóc, nuôi nấng thằng bé. Từ hôm nay nó là con của
hai người. “

Vọng, con không chỉ là con của phu nhân, con còn là con của bố mẹ nữa. Cả đời bố
mẹ, thứ quý giá nhất chính là con. Vậy nên, chỉ cần con được sống, bí mật về thân
thế của con dù có chết, bố mẹ cũng không nói với ai. Nhưng mẹ thương con rất
nhiều, ai cũng có quyền biết về thân phận thật sự của mình. Con cũng vậy, con cũng
cần biết gốc gác, cha mẹ đẻ của mình là ai…...Chính vì vậy, mẹ dằn vặt mỗi đêm, mỗi
ngày nhìn con một lớn khôn, sự dằn vặt ấy lại càng khiến mẹ muốn nói ra tất cả.
Nhưng mẹ chỉ dám viết tất cả vào đây mà thôi, đây là lần đầu tiên, cũng là lần cuối
cùng mẹ bộc bạch hết những vương vấn trong lòng suốt 18 năm qua. Mẹ và bố sẽ
chôn chặt sự thật này dưới lòng đất, sẽ không ai có thể biết về xuất thân của con,
hãy tha thứ cho bố mẹ. Bố mẹ làm tất cả cũng chỉ vì muốn cho con có được một cuộc
sống trọn vẹn nhất. Dù con có là ai, xuất thân như thế nào, con vẫn mãi mãi là con
trai của bố mẹ…….Mẹ tin, đây cũng là điều mà Lâm Thư phu nhân mong muốn, bố
mẹ yêu con. “

“ Tách....Tách “

Những giọt nước mắt của ông Vọng rơi xuống thấm vào lá thư, ông Vọng không cầm
được nước mắt sau khi đọc những dòng thư viết tay mà mẹ ông để lại. Thầy Lương
cũng khẽ nhắm mắt, ông cúi đầu như một hành động thương cảm gửi đến những
người đã khuất. Quả đúng như thầy Lương dự đoán, bố mẹ ông Vọng cố gắng che
giấu sự thật về thân thế của ông Vọng là vì muốn bảo vệ cho ông Vọng. Thời điểm
hai ông bà còn sống là khoảng thời gian những hương thân phụ lão, những con
người tham gia vào sự việc giết chết toàn bộ Cao Gia vẫn đang tại vị. Bí mật giết sạch
Cao Gia được giữ kín đến mức tuyệt đối. Cao Gia tàn ác, nhưng việc giết toàn bộ họ
Cao, không, phải là toàn bộ những người sống trong Cao phủ là một vết nhơ có dùng
nước sông Hoàng Hà gột rửa cũng không thể hết tội đối với người dân làng Văn Thái
thời bấy giờ. Do đó, nếu để lộ ra máu mủ Cao Gia vẫn còn thì chắc chắn ông Vọng
cũng như bố mẹ ông Vọng sẽ bị giết chết.

Ông Vọng khẽ gấp bức thư ngay ngắn lại rồi cho vào phong thư, ông Vọng lau nước
mắt nói :
-- Giờ thì tôi đã rõ tất cả, tôi đã biết về mẹ ruột của mình. Chỉ tiếc rằng, bà chết mà
không được chôn cất tử tế. Thầy nói đúng, chuyện này dường như đã thay đổi cuộc
sống của một lão già như tôi.

Thầy Lương khẽ đáp :

-- Như mẹ bác trưởng làng đã viết trong thư, ai cũng có quyền được biết về thân
phận cũng như gốc gác của mình. Về một điểm nào đó thì cả tôi và bác Vọng có chút
giống nhau. Chúng ta sinh ra là người gốc Hoa, nhưng lại dành gần như cả đời sống
trên đất nước này. Cao Gia dù đã gây ra những tội lỗi gì thì giờ đây, bác chính là
người tháo gỡ những khúc mắc, những hận thù trong quá khứ ấy. Oan oan tương
báo bao giờ mới kết thúc nếu như con người vẫn nuôi dưỡng lòng thù hận. Như tôi
từng nói, ông trời để cho bác Vọng sống ắt phải có nguyên do. Giờ sự thật đã được
giải đáp, tôi nhận thấy, bác trưởng không chỉ sống cho mình, mà còn cho rất rất
nhiều người khác nữa. Đến thời điểm này, bác trưởng làng đã sống đúng với một
cuộc sống đầy ý nghĩa. Chắc chắn Lâm Thư phu nhân hay bố mẹ nuôi của bác ở trên
trời cao đang cảm thấy ấm áp lắm.

Ông Vọng cúi đầu cảm tạ thầy Lương, giờ chỉ còn sợi dây chuyền là ông Vọng vẫn
chưa động vào. Theo lời thầy Lương thì đây có thể là di vật của cha ông, Cao Lãm.
Tất cả những thứ này đã được trao cho bố mẹ ông Vọng trước khi Lâm Thư phu
nhân qua đời. Trong lúc ông Vọng cầm sợi dây chuyền mặt hồng ngọc lên nhìn ngắm
thì thầy Lương suy nghĩ :

“ Sự giàu có của Cao Gia là điều không cần bàn cãi, nhưng nếu so với những thứ quý
giá khác thì sợi dây chuyền này quá nhỏ bé. Giả dụ muốn đem theo vàng bạc, châu
báu thì Lâm Thư phu nhân có thể lấy những thứ giá trị hơn, lớn hơn. Đằng này bà ấy
chỉ đem theo cậu con trai cùng sợi dây chuyền. Bố mẹ ông Vọng không phải người
hám vật chất, họ sống có đức, coi nguời từng cứu mình là ân nhân, từng lời trong
bức thư đều toát lên sự kính trọng. Nếu họ có lòng tham thì đã bán sợi dây chuyền
này đi rồi, tuy nói giá trị không lớn, nhưng đó là so với tài sản của Cao Gia mà thôi.
Còn với người nghèo như bố mẹ ông Vọng đây thì đó là cả một gia tài. Liệu rằng sợi
dây chuyền này còn có ý nghĩa nào khác…? “

Nghĩ rồi thầy Lương nhìn về phía ông Vọng, nhìn vào sợi dây chuyền, thầy Lương
nói :

-- Bác trưởng làng, có thể cho tôi xem qua sợi dây chuyền đó một chút được
không..?

#Chap62 : Siêu Thoát - Diệt Trừ - Phong Ấn


Ông Vọng đưa sợi dây chuyền sang cho thầy Lương. Cầm sợi dây chuyền trên tay,
thầy Lương chỉ chú ý đến mặt đá hồng ngọc, viên đá hình vuông nhỏ được bọc viền
bằng vàng ròng. Nhưng so với kích viên đá thì thầy Lương cảm nhận thấy có vẻ trọng
lượng của nó hơi nhẹ một chút.
Thầy Lương lấy một cây kim rồi khẽ gõ nhẹ vào mặt trước, mặt sau của đá, phần mặt
sau đá vang lên tiếng động khác, mà mặt trước tiếng động cũng khác. Cứ như vậy
thầy Lương nghe đi nghe lại nhiều lần rồi ông nói :

-- Kết cấu của viên đá quý này có gì đó hơi lạ lạ. Nếu tôi không nhầm thì bên trong
viên đá này có chỗ bị rỗng. Do vậy mà so với kích cỡ thì nó có phần hơi nhẹ. Âm
thanh phát ra khi kim gõ vào cũng có chút khác biệt.

Ông Vọng hốt hoảng :

-- Ấy chết, đây….đây là đồ vật mà cha mẹ đẻ tôi để lại…..Thầy….thầy đừng đập...vỡ
nó nhé.

Thầy Lương mỉm cười :

-- Bác đừng lo, tôi không có ý đó….Sao có thể đập vỡ được, đây là đá hồng ngọc, mà
viên đá to như thế này là cực phẩm hiếm có, Tôi đâu có điên đến độ đập nát nó ra, ý
tôi đang nói ở đây là tôi nghi ngờ bên trong viên đá có ẩn giấu một thứ gì đó. Đây
cũng là một cách làm của người xưa, muốn cất giấu một thứ gì đó quan trọng nhưng
lại sợ kẻ gian lấy mất, người xưa thường hay đặt thứ quan trọng đó vào mặt dây
chuyền để lúc nào cũng đem theo bên mình. Tuy nhiên nếu như vậy thì ít nhất cũng
phải có một dấu hiệu nào đó để có thể mở. Đằng này xem xét rất kỹ lưỡng từ nãy
đến giờ mà tôi vẫn chưa thể tìm ra được thứ gì tương tự như vậy.

Trả lại sợi dây chuyền cho ông Vọng, thầy Lương nói tiếp :

-- Trước mắt bác trưởng làng nên giữ gìn thứ này cẩn thận. Tốt nhất bác nên đem
theo bên mình, ngoài việc sợi dây chuyền là vật gia bảo mà cha mẹ ruột của bác để
lại và nó cực kỳ có giá trị ra thì tôi vẫn nghĩ sợi dây chuyền này còn mang một ý nghĩa
to lớn khác. Giờ đây thân phận của bác trưởng làng đã rõ, bác cũng đã biết về mẹ
ruột của mình, biết hết tâm tư mấy chục năm qua của cha mẹ nuôi. Tôi cho rằng bác
nên đốt bỏ lá thư đó đi. Có thể giờ đây thế hệ trước, những người ra tay giết chết
toàn bộ Cao Gia cũng đã về với tổ tiên nhưng không thể chắc chắn được điều gì cả.
Bố mẹ bác trưởng làng cũng chính vì điều này mà quyết định giữ bí mật cho đến khi
qua đời. Tội lỗi của Cao Gia đã phải trả giá bằng chính mạng sống của họ, cũng là
người họ Cao nhưng bác lại có một tấm lòng lương thiện giống như Lâm Thư phu
nhân, chắc hẳn lúc còn sống, Lâm Thư phu nhân là người có lòng bồ tát từ bi, số
phận của mỗi con người ngay từ khi sinh ra đã được sắp đặt. Cao Gia mạt vận nhưng
may mắn cho họ Cao vẫn còn có người giữ lại cho họ Cao giọt máu cuối cùng, đó
chính là mẹ ruột của bác trưởng làng, Lâm Thư phu nhân. Nghe bác trưởng làng đọc
xong bức thư tôi thấy nhân duyên trong kiếp con người thực hữu hạn. Quả thực
nhân quả báo ứng luôn diễn ra trong kiếp này, thậm chí là cả tiền kiếp cho tới kiếp
sau. Việc Lâm Thư phu nhân cứu sống cha nuôi bác trưởng làng lại chính là mở ra
cho dòng họ Cao con đường tránh khỏi tuyệt hậu. Rồi tiếp đến việc cha mẹ nuôi bác
trưởng làng nuôi nấng, chăm sóc bác cho tới khôn lớn, mặc dù đó là trái lại với toàn
bộ dân làng Văn Thái cũng lại mở ra cho hậu thế của làng Văn Thái tránh khỏi tai kiếp
về sau. Mọi thứ diễn ra đều có nhân, có quả…..Trời xanh thực có đức hiếu sinh.

Đưa tay ra bấm bấm, miệng lẩm nhẩm, thầy Lương gật đầu rồi nói :

-- Tính ra thì tôi cũng đã nán lại đây cũng khá lâu rồi nhỉ, mới đó mà đã qua rằm
tháng 7. Nay dương đang là tháng 9, vậy là cũng gần đến Trung Thu rồi.

Ông Vọng vội hỏi :

-- Không phải thầy tính rời khỏi đây đấy chứ..? Những ngày qua thầy đã giúp đỡ dân
làng chúng tôi rất nhiều. Có thể mọi người không biết thì không sao, nhưng bản thân
tôi được chứng kiến những gì mà thầy đã làm cho làng Văn Thái, giờ mà thầy bỏ đi
đột ngột như vậy sao được. Mới hôm qua thầy còn ốm ngủ li bì suốt một ngày, thầy
phải ở lại đây đến khi nào sức khỏe bình phục mới được đi. Tôi là tôi không cho thầy
đi đâu.

Thầy Lương khẽ mỉm cười :

-- Tạm thời tôi chưa rời khỏi làng ngay đâu, chuyện đại sự quan trọng nhất là vấn đề
hóa giải trấn yểm của Cao Côn đối với long mạch đã xong, qua những gì đã diễn ra vô
tình lại giúp cho bác trưởng làng biết về thân phận thật sự của mình. Tai kiếp của
làng Văn Thái tạm thời đã qua đi nhưng chưa hết. Tôi trước nay làm việc gì là phải
làm cho xong thì mới yên tâm mà rời đi được. Vẫn còn đó đám Tiểu Quỷ chưa rõ lý
do mà chúng tồn tại là gì….? Tuy có thể đám tiểu yêu đó không phải là họa sát thân
với dân làng nhưng ma quỷ mà tồn tại trong dương gian ắt hẳn không phải điều tốt.
Để tránh sau này chúng gây họa, nếu không thể khiến cho chúng chấp nhận siêu
sinh, đầu thai, chuyển kiếp thì buộc phải diệt trừ hoặc ít nhất phải phong bế chúng
lại. Nếu muốn giúp chúng siêu thoát thì phải tìm được nguyên nhân và mục đích tại
sao Cao Côn lại tạo ra đám Tiểu Quỷ này. Từ đó tháo gỡ uẩn khúc, để cho chúng từ
bỏ ngã quỷ, tiễu trừ tâm ma, quay đầu hướng thiện thì mới có cơ hội để đầu thai.
Cách này muốn thực hiện vô cùng khó, bởi dù chúng ta muốn tốt cho chúng nhưng
bản chất của chúng vẫn là quỷ, chưa kể đến chúng được tạo ra bởi giao kèo của chủ
nhân, chính là Cao Côn, Cao Côn đã chết gần 100 năm mà chúng vẫn tồn tại, điều này
chứng tỏ giao ước ấy vẫn tồn tại mặc dù chủ nhân của chúng đã chết. Còn nếu để
tiêu diệt bọn chúng tôi e bản thân tôi không đủ khả năng, Cao Côn kia tài phép phải
sánh ngang, thậm chí là vượt trội hơn cả sư phụ của tôi lúc người còn sống. Bởi
những thầy bùa sử dụng tà thuật cấm đều rất đáng sợ. Nếu không phải có bác
trưởng làng là cháu nội của Cao Côn giúp sức thì đừng nói hóa giải long mạch, để
nhìn thấy được bùa yểm của Cao Côn với tôi cũng là quá sức mình rồi. Tôi đã từng
giao chiến với lũ quỷ khi cố gắng cứu lấy linh hồn cô bé Mị. Đêm hôm đó, nếu không
nhờ sự giúp đỡ từ cây lộc vừng, có lẽ mạng tôi cũng khó mà giữ được.

Ông Vọng nuốt nước bọt, chẳng trách lúc đưa thầy Lương từ nơi chôn cất gia đình
Xoan về, ông Vọng thấy thầy Lương gần như là đã kiệt sức. Đêm hôm đó ông luôn
thắc mắc thầy Lương đi đâu, giờ thì ông đã biết, thầy Lương đi cứu lấy hồn phách
của con bé Mị. Càng biết thêm về những việc thầy Lương làm, ông Vọng lại càng kính
phục thầy Lương hơn. Thực sự cho tới bây giờ, ông cũng như dân làng Văn Thái chưa
đền ơn cho thầy được điều gì, thậm chí người trong làng ngoài Sửu ra có lẽ cũng
chẳng ai biết những gì mà thầy Lương mạo hiểm cả mạnh sống để đem lại sự yên
bình cho họ.

Ông Vọng khẽ hỏi :

-- Vậy là chỉ còn cách thứ 3 phải không thầy…? Liệu cách này có thực hiện được
không…?

Thầy Lương đáp :

-- Cách này có thể làm được, Tiểu Quỷ xuất hiện trong làng là sự thật, nhưng chúng
từ đâu đến thì tôi vẫn chưa biết. Muốn phong bế chúng lại thì cần phải biết vị trí mà
chúng xuất hiện. Cũng gần tương tự như Cao Côn trấn yểm long mạch, cần phải xác
định được long mạch nằm ở đâu thì mới có thể trấn yểm. Do vậy việc tìm ra được
xuất xứ của đám tiểu yêu ấy rất quan trọng. Khi xác định được nơi yêu ma cư ngụ,
khi đó tôi sẽ tìm cách phong bế chúng. Nhưng đây là hạ sách sau cùng, bởi có giữ
được chúng lại trong kết giới đi chăng nữa thì sự thật là chúng vẫn tồn tại. 50 năm
hay 100 năm sau, khi kết giới hết hiệu lực ma quỷ sẽ tiếp tục hoành hành, thậm chí
còn trở nên hung ác, quỷ tính bộc phát còn cao hơn khoảng thời gian bị phong bế
trước đó. Cách này chỉ tránh được trong một thời gian nhất định chứ không triệt để.
Tôi lại lấy ví dụ cho trưởng làng dễ hiểu, vẫn là long mạch, như tôi đã nói trước đây,
vượng khí của vùng đất này là cực thịnh, địa mạch vượng phát, chính vì thế Cao Côn
mới nảy sinh lòng tham muốn độc chiếm để dòng họ Cao mãi mãi phồn thịnh đến
tận đời đời sau. Nhưng Cao Côn đã thất bại, mặc dù trấn được long mạch tuy nhiên
sức của Cao Côn không thể áp đảo được vượng khí của địa mạch nơi đây lúc bấy giờ.
Kết quả họ Cao suýt chút nữa tuyệt hậu, dẫu vậy cũng không thể nói là Cao Côn thất
bại hoàn toàn, dù ông ta chết nhưng trấn yểm của ông ta thực sự khiến cho địa mạch
nơi đây bị tổn hại. Nói nôm na, Cao Côn muốn thu phục rồng nhưng không đủ sức,
tuy nhiên vết thương mà Cao Côn gây ra cho rồng cũng là vết thương chí mạng. Vết
thương đó từ từ giết chết rồng trong nhiều năm sau, nếu không có người cứu chữa,
con rồng đó sẽ chết. Trong khoảng thời gian long mạch bị trấn yểm đó, vượng khí
của rồng vẫn còn, và điều này vẫn giúp cho người dân làng Văn Thái được sống yên
bình suốt gần 100 năm. Đó là lý do vì sao chỉ tới tận bây giờ tai ương mới xảy ra, đó
là vì rồng đã không còn sức để bảo vệ cho vùng đất này nữa. Linh khí từ địa mạch
cạn kiệt, chướng khí tích tụ bao năm qua bộc phát, sinh sôi, ma quỷ hiện hữu ngay
trong cuộc sống của con người….Tất cả, tất cả những thứ đó sẽ còn khủng khiếp hơn
nếu như trấn yểm của long mạch không được hóa giải. Bác trưởng làng hãy tưởng
tượng, đoạn xương sườn của Cao Côn chính là chất kịch độc găm sâu vào cơ thể
rồng. May mắn thay cho làng Văn Thái, bác trưởng làng lại chính là liều thuốc giải
độc duy nhất cứu giúp cho long mạch nơi đây. Việc phong bế kia cũng tương tự như
vậy, cho dù trận đồ, pháp tắc của tôi có giữ được chúng lâu nhất có thể thì chúng vẫn
sẽ thoát ra khi kết giới phong ấn bị phá vỡ. Thường thì khi phong ấn những loại ma
quỷ có thể gây hại cho dương gian, các đạo sĩ, các thầy bùa, thầy pháp cần phải nhờ
đến hậu thế của mình để tiếp tục duy trì kết giới. Bởi vậy mới xuất hiện những dòng
họ cả đời chỉ ẩn cư để giữ cho phong ấn không bị phá bỏ. Về điều này thì tôi không
làm được, bởi tôi lại không có con cái hay đệ tử nào cả. Nhưng nếu thực sự hết cách
thì đành phải làm như vậy thôi, tôi sẽ cố gắng hết sức mình, dù có thể là đánh đổi cả
mạng sống này để phong ấn chúng lâu nhất có thể.

Ông Vọng lắc đầu, ông Vọng vội đáp :

-- Không….thầy không thể làm như vậy được…..Chắc chắn là sẽ có cách, nếu phải
đánh đổi mạng sống để phong ấn đám Tiểu Quỷ đó, hãy để tôi làm….Dù sao người
tạo ra chúng cũng là Cao Côn, ông nội của tôi…..Chắc chắn nếu phải chết thì tôi chết
sẽ có ích hơn.

Thầy Lương cười rồi nhẹ nhàng nói :

-- Tôi biết đức độ cũng như tấm lòng của bác trưởng làng. Bác là người mà tôi rất nể
phục, bác từng xả thân hi sinh để hóa giải trấn yểm cứu lấy dân làng một lần rồi.
Mạng sống của bác quan trọng hơn tôi rất nhiều, bác vẫn còn người thân, vẫn còn
những người dân cần đến bác…….Hơn nữa phải là người có khả năng mới có thể
phong ấn được ma quỷ. Bác trưởng làng tuy là cháu nội của Cao Côn, nhưng bác
cũng chỉ là một con người bình thường mà thôi. Còn tôi, dẫu sao cũng chỉ là một
người bốc mộ lang thang nay đây, mai đó. Tôi không có gia đình, cũng chẳng vợ con,
tôi là trẻ mồ côi từ nhỏ, bị vứt bỏ nơi đầu đường xó chợ, phải ngồi bên cầu, bên vệ
đường xin ăn qua ngày. May mắn sao tôi lại được sư phụ thương xót đem về nuôi
nấng, truyền lại tất cả những tinh hoa mà sư phụ biết với hi vọng khi trưởng thành,
tôi sẽ đem những gì mà mình học được cứu đời, hoặc chí ít cũng trở thành một thầy
lang tốt…..Nhưng rồi, tôi cũng phụ lại sự niềm tin của sư phụ, tôi không nghe lời sư
phụ để rồi gây ra nghiệp chướng cho bản thân……...Sẽ tốt hơn nếu như mạng sống
của tôi mất đi mà có thể đánh đổi được sự bình yên cho nhiều người khác. Khi ấy,
chẳng phải bản thân tôi cũng phần nào được an ủi hay sao…...Ha ha ha, ha ha
ha….Bỗng nhiên tôi lại cảm thấy có vẻ như vùng đất này đang cho tôi một cơ hội lớn.
Tôi phải cảm ơn bác trưởng làng và mọi người mới đúng.

Nụ cười của thầy Lương rất hào sảng, ông Vọng không biết ý nghĩa trong những câu
nói của thầy Lương là gì, nhưng thực lòng ông Vọng mong, nếu phải đánh đổi mạng
sống của ai đó thì sẽ chính là ông.

Thầy Lương nhìn ông Vọng, thầy nói :

-- Khoan hãy nói đến chuyện sống chết, trước mắt cần phải xác định xem nơi mà bọn
tiểu yêu đó cư ngụ đã. Về chuyện này trong đầu tôi cũng đã có một vài suy đoán.
Nhưng vẫn là tự mình đi tìm hiểu thì hay hơn. Giờ tôi phải đi đến nơi này một chút,
bác trưởng làng đừng lo cho tôi. Nhân ngày hôm nay tìm được những di vật của cha
mẹ ruột cũng như cha mẹ nuôi của bác Vọng, chúng ta phải ăn mừng chứ. Bác ở nhà
lo cơm nước, tôi đi đến chiều sẽ về…..Hi vọng chuyến đi này sẽ đúng với những gì mà
tôi dự đoán. Nếu thật sự là thế thì năm nay tôi sẽ ở lại đây đón tết Trung Thu với mọi
người…..Ha ha ha….Ha ha ha.

#Chap63 : Miếu Hoang...


Thầy Lương rời khỏi nhà ông Vọng, làng Văn Thái sau sự việc nước giếng bị nhiễm
độc đã phần nào yên bình trở lại, mấy ngày trước cả làng còn xôn xao về cái chết của
hai mẹ con Xoan thì nay, sau khi mẹ con họ được chôn cất tử tế họ cũng an tâm hơn.
Khác hẳn với thời điểm nước giếng có độc, gia súc, gia cầm trúng độc chết, rồi khủng
khiếp hơn việc Mão ngã giếng chết một cách đáng sợ, khi ấy bà con ai cũng sợ, họ
hạn chế ra ngoài dù ban ngày hay ban đêm. Có người còn sợ đến nỗi bỏ làng mà ra
đi. Tuy nhiên hôm nay, thầy Lương đã gặp một vài bà con đi ra đồng làm việc. Đường
làng bớt vắng vẻ, hiu quạnh đi bao nhiêu.

Có người thấy thầy Lương thì cúi đầu chào :

-- Chào bác, bác là người nhà của bác Vọng phải không ạ…? Bác đi đâu thế..?

Họ chào vậy là bởi mấy lần thầy Lương đi cùng ông Vọng, khi ấy ông Vọng cũng nói
với người trong làng thầy Lương là bà con xa của mình. Việc thầy Lương làm nghề
bốc mộ, biết xem phong thủy thì hình như chỉ có ông Vọng, Sửu và Lực là biết.

Thầy Lương khẽ mỉm cười rồi cúi đầu đáp :

-- Dạ đúng rồi, chào cô…..Hôm nay nhà ta ra đồng làm việc rồi đấy ạ…?

Người phụ nữ trả lời :

-- Vâng thưa bác, dù sao cũng phải làm thì mới có ăn, mới sống được chứ. Vụ mùa
vừa rồi tan nát hết cả, nhưng không thể buồn mãi được. Hôm nay tôi ra đồng dọn
cỏ, sắp tới còn gieo trồng. Mà bác đi đâu vậy ạ…? Có cần tôi chỉ đường cho không..?

Thầy Lương nói :

-- À, tôi định đi ra đầu làng, chỗ gốc đa có bà bán hàng nước ấy….Tôi muốn cảm ơn
bà ấy một câu.

Người phụ nữ chỉ tay về hướng đằng sau lưng rồi cười :

-- Nếu vậy thì bác cứ đi thẳng là tới, thế bác đi nhé, tôi đi làm đây….Chào bác ạ.

Thầy Lương cũng cúi đầu chào đáp lại, lúc này thầy Lương đi gần tới gốc cây lộc
vừng, ở đó cũng đang có hai người đàn ông là dân trong làng đứng nhìn rồi lắc đầu
ra chiều tiếc nuối :

-- Hầy, không biết con cái nhà nào nghịch ngợm lại dám trèo lên cây lộc vừng bẻ
cành, bẻ lá gãy rụng hết thế này. Bắt được cứ lọc ra đánh bỏ mẹ chúng nó đi.

Hai người đàn ông nhìn cây lộc vừng thở dài thêm lần nữa rồi bỏ đi, thầy Lương
bước tới gốc cây, đêm hôm trước nếu không nhờ có linh tinh ngụ trong cây lộc vừng
cũng coi như hồn phách của cây lu luyện gần 100 năm mới có được giúp đỡ thì chỉ e
là mọi chuyện có thể sẽ tồi tệ hơn rất nhiều. Đối với người thường thì cây lộc vừng
chỉ là một cái cây vô tri vô giác, nhưng với thầy Lương cây còn có linh hồn. Nhờ vào
vượng khí khi được mọc lên ngay trên long mạch nên hồn cây qua đó cũng tu luyện
trở thành tinh linh. Nhìn những cành cây bị đám Tiểu Quỷ bẻ gãy đêm hôm trước,
thầy Lương khẽ chạm tay vào gốc cây, ông cúi đầu cảm ơn cây lộc vừng vì đã giúp
mình, giúp cho linh hồn cô bé Mị được giải thoát. So với đám Tiểu Quỷ đó thì cây lộc
vừng chỉ là một tinh linh nhỏ bé, để cứu lấy hồn phách của Mị, cây lộc vừng đã dùng
chính linh hồn tu luyện gần 100 năm của mình để ngăn cản đám Tiểu Quỷ. Nhờ vậy
thời gian mới được kéo dài thêm một chút, và khi tiếng gà gáy đầu tiên trong ngày
cất lên, đám Tiểu Quỷ mới bị xua đuổi. Nhưng những cành cây bị bẻ gãy, những dây
hoa bị giật đứt cũng như linh hồn nhỏ bé của cây bị xé tan thành nhiều phần.

Thầy Lương nhắm mắt khẽ nói :

-- Cảm ơn ngươi nhiều lắm, ơn cứu mạng này của ngươi ta biết phải đền đáp sao
đây….?

Thầy Lương vừa nói xong thì có một cơn gió nhẹ khẽ thổi qua khiến cho lá cây rung
rinh. Chưa hết, bàn tay thầy Lương đang áp vào cây bỗng thấy ấm áp lạ thường. Lúc
này thầy Lương nhìn xuống dưới gốc cây lộc vừng nơi hốc khô, thật lạ lùng thay, từ
hốc cây khô vừa xuất hiện một chồi xanh nhỏ xíu.

Thầy Lương mỉm cười, đuôi mắt ông có chút ngấn lệ, thầy Lương nói tiếp :

-- Vậy sao….? Thật là may mắn quá, hồn phách của ngươi vẫn chưa tan biến. Nhưng
chắc có lẽ sẽ phải rất rất lâu nữa ngươi mới lại có thể trở lại được con đường tu
luyện. Nếu mai sau có thể tu thành chánh quả, hi vọng ngươi sẽ tiếp tục bảo vệ, che
chở cho người dân làng Văn Thái.

Một chiếc lá từ trên cây khẽ rơi xuống, thầy Lương bất giác đưa bàn tay ra, chiếc lá
hạ đúng giữ lòng bàn tay của thầy Lương. Ông gật đầu mỉm cười rồi lấy từ trong tay
nải ra một vật gì đó nhìn giống giống ngọc trai, nhưng nó có màu xanh lục. Chôn viên
ngọc xuống đất bên trong hốc cây. Chôn xong, thầy Lương đứng dậy rồi tiếp tục đi
tiếp. Ông đi đến cây đa đầu làng, dân làng bắt đầu làm việc trở lại thì bà hàng nước
cũng tiếp tục công việc quen thuộc của mình, lần đầu tiên đến nhà ông Vọng, thầy
Lương có nhắc tới người phụ nữ bán nước ở gốc đa đã chỉ mình tìm nhà trưởng làng,
khi ấy ông Vọng có nói người phụ nữ bán nước ấy tên là Miên nên giờ thầy Lương
vẫn nhớ.

Khác với ngày đầu tiên đặt chân vào làng, hôm ấy trời mưa lớn, sấm chớp bão bùng,
cơn mưa to đến nỗi cảm tưởng như gió sắp giật bay cả cái quán lá dựng bằng tre tạm
bợ. Hôm nay trời quang, mây cao xanh vời vợi, có nắng nhưng không gay gắt. Ngồi
trong quán lá, bà Miên đang cầm cái quạt phẩy phẩy đuổi mấy con ruồi đang vo ve,
với tay xếp lai mấy cái chén mà chắc khi nãy khách vừa uống nước, đang làm thì bà
Miên nghe thấy tiếng nói :

-- Bà chủ cho tôi xin chén nước chè với cái bánh gai.
Bà Miên lau lau vội cái bàn rồi đáp :

-- Bác, bác ngồi đi….

Nói xong mà Miên mới nhìn thầy Lương rồi nhận ra chính là người đã hỏi đường vào
làng tìm nhà trọ dạo trước. Bà Miên cười rồi hỏi :

-- Ơ, là bác à….? Từ hổm đến giờ cũng phải mươi mười mấy ngày rồi đấy nhỉ….?
Không ngờ bác còn ở đây….

Thầy Lương mỉm cười đáp :

-- Chào bà chủ quán, tôi vẫn ở trong làng từ hôm đó. Cũng nhờ bà chủ quán chỉ
đường tìm đến nhà bác Vọng trưởng làng nên mới có chỗ ăn ở tránh được cơn mưa
lớn dài ngày. Cũng muốn đến cảm ơn bà chủ quán từ lâu mà hôm nay mới có dịp.

Thấy bà Miên hỏi như vậy, thầy Lương cũng đoán chắc bà Miên dạo gần đây không
tham gia vào việc làng, bởi nếu có thì bà Miên sẽ nhìn thấy thầy Lương đi với ông
Vọng vài ba lần. Quả nhiên không sai, thầy Lương vừa nói xong thì bà Miên thở dài,
đặt chén nước lên trên bàn, bà Miên nói :

-- Ôi dào ơi, sau ngày hôm đó, chẳng hiểu mưa gió cảm lạnh hay thế nào mà tôi ốm
một trận nặng nhất từ trước đến nay. Ốm mà ốm liệt giường luôn mới chết chứ,
cũng chỉ mới khỏe lại cách đây 2 hôm thôi. Nghe con cái nó cũng kể đợt rồi làng xảy
ra nhiều chuyện đáng sợ lắm mà tôi nào có biết gì đâu. Khỏe khỏe người là lại bày
hàng ra quán bán đây này.

Lấy cho thầy Lương cái bánh gai, bà Miên như sực nhớ ra điều gì, bà Miên tiếp :

-- À mà này, tôi là tôi phải cảm ơn bác mới đúng.

Thầy Lương ngạc nhiên hỏi :

-- Sao lại như vậy..?

Bà Miên trả lời :

-- Thì đó, bác nhớ cái hôm mà bác chạy vào đây trú mưa không…? Lúc đó bác có nói
trời sẽ mưa 5 ngày mới dứt, mà còn là mưa lớn. Khi đó bác còn khuyên tôi nếu nhà
có đồng ruộng, hoa màu gì thì cần tháo nước sớm đấy thôi. Mà tài, lúc bác nói xong
thì trời tạnh mưa, lại còn hửng nắng, thề nói điêu sét đánh tôi chết, tôi còn nghĩ
bụng bảo bác phán vớ va vớ vẩn. ́y nhưng mà buổi chiều trở về nhà, trong lòng cứ
thấy bất an, đúng là trời thì nắng, nhưng tự nhiên tôi lại nhìn thấy cả một đàn kiến
nối đuôi nhau tha mồi về tổ. Nhớ đến lời khuyên của bác, tôi mới bảo đứa con mở
hết các đường thoát nước ở ruộng, còn chỗ trồng rau củ thì tôi lấy bạt phủ hết các
luống rau lại. Loại nào thu hoạch được thì thu hoạch luôn chứ không đợi nữa. Ôi,
phúc đức cho nhà tôi, đến nửa đêm hôm đó thì trời mưa to, mưa to thông 3 hôm
liền. Đứa con tôi lúc tôi bảo phủ bạt, tháo nước, thu hoạch sớm nó còn bảo tôi bị
điên. Sau hôm đó mới trắng mắt ra, cũng có thiệt hại nhưng so với những nhà khác
thì tôi may mắn hơn nhiều. Thế thì tôi chẳng phải cảm ơn bác là gì.

Ra là vậy, nhắc đến chuyện này thầy Lương lại thấy buồn. Hôm đó thầy cũng đã cảnh
báo cho ông Vọng ngay khi gặp mặt, nhưng ông Vọng ban đầu cũng nghĩ như bà
hàng nước, thấy trời nắng nên chủ quan, lại nghĩ ruộng nắng hạn lâu ngày, nay mong
mưa không được ai lại đi tháo nước tưới tiêu. Nếu lúc đó ông Vọng tin lời thầy
Lương thì giờ đây dân làng cũng đỡ khó khăn đi rất nhiều. Nhưng ý trời đã vậy thì có
tránh cũng không được.

Bà Miên cười nói tiếp :

-- Bây giờ hạt giống với rau củ trong làng không có mà bán, may gặp lại bác ở đây để
tôi nói lời cảm ơn. Bác đúng là quý nhân phù trợ gia đình tôi. Mà bác ơi, tôi có
chuyện này muốn hỏi thăm ý kiến của bác có được không…?

Thầy Lương gật đầu :

-- Có gì bà chủ quán cứ hỏi, nếu tôi trả lời được, tôi sẽ nói.

Nhìn trước ngó sau xem có ai không, dáo dác một lúc, bà Miên mới khẽ nói thì thầm :

-- Lần trước nghe bác nói, chắc chắn ít nhiều bác cũng phải biết về phong thủy, ma
quỷ hay tâm linh. Chuyện này thực ra cũng chẳng có gì, nhưng bao năm qua chưa
bao giờ chỗ đó lại như vậy cả. Nay thấy nó thay đổi tôi cũng hơi lo lo, nếu được thì
nhờ bác xem xem có gì đáng ngại hay không….?

Nhấp ngụm nước, thầy Lương chờ đợi bà Miên kể tiếp. Rót thêm nước chè cho thầy
Lương, bà Miên tiếp tục :

-- Nhà tôi tuy cũng thuộc làng Văn Thái nhưng lại cũng như tách biệt, như bác thấy
đấy, từ đây mà đi vào làng cũng phải một quãng đường xa nữa mới tới khu dân cư
sinh sống. Từ kia hắt vào đây rồi cho tới trước mặt bác thấy toàn là đồng với ruộng.
Nhà tôi nằm ở hướng kia, đấy bác nhìn thấy con đường đất nhỏ kia không..?

Thầy Lương nhìn theo hướng tay bà hàng nước rồi khẽ gật đầu, nhưng vẫn chưa hiểu
bà ấy muốn nói gì. Bà Miên tiếp tục :

-- Đấy bình thường là dọn hàng ra đây là tôi đi con đường ấy. Nhưng đợt rồi đường
nó bị sụt lún, thanh niên nó chân khỏe nhảy qua còn được chứ tôi già cả, lại còn đồ
nọ đồ kia nên chịu phải đi đường vòng. Bình thường con đường ấy có ai đi đâu, vắng
tanh, vắng hoe vì nó xa, mà xa cũng không phải là vấn đề. Mà người ta sợ…….

Thầy Lương hỏi :

-- Sao lại sợ, bộ ở đó có gì hay sao…?


Bà Miên mặt hơi tái, bà ta gật đầu lia lịa rồi trả lời :

-- Sợ chứ, chỗ đó cũng là đồng không mông quạnh thôi, ngày xưa á, chỗ ấy là nơi đẹp
nhất làng đấy. Chẳng ai trồng hoa ở đó mà tài hoa cứ nở quanh năm, tất cả đều là
hoa dại nhưng đủ màu sắc. Tầm tuổi tôi ngày còn trẻ rất thích ra đó chơi đùa. Nhưng
kể từ ngày có người chết ở đấy thì khu đất ấy như bị ma ám. Hoa hoét chết dần chết
mòn theo năm tháng, giờ chỉ còn có cỏ là mọc được. Vậy mà sáng nay tôi đi qua thì
thấy trên mặt đất mọc lên những cây hoa màu vàng ươm, mà nhiều lắm, hoa vàng
mọc xen lẫn cỏ xung quanh miếu luôn….? Phải đến mấy chục năm nay tôi mới lại
thấy hoa mọc ở chỗ đó…...Liệu chuyện này là tốt hay xấu hả bác…?

Thầy Lương khẽ nheo mày :

-- Nơi bà chủ quán đang nói là nơi nào vậy…?

Bà Miên trả lời :

-- À, quên không nói…...Chỗ tôi vừa nói chính là cái miếu hoang đã bỏ không tính ra
đến nay cũng phải chục năm nay rồi. Miếu thì đã xây từ 20 năm trước, nhưng
khoảng chục năm qua, chỗ đó xuất hiện nhiều thứ đáng sợ nên dần dần người ta
chẳng dám bén mảng ra đấy nữa, rồi thành miếu hoang luôn.

Thầy Lương khẽ đặt chén nước xuống bàn, thầy nói :

-- Miếu hoang sao……?

#Chap64 : 20 Năm Trước - Người Chết Bị Lột Da Mặt.


Nghe thấy chuyện lạ, một khu đất vuông vắn, ngày xưa từng là nơi hoa nở quanh
năm, nhưng sau khi có người chết thì lại trở nên hoang tàn, u ám. Đã 20 năm trôi
qua giờ đây bỗng dưng hoa vàng mọc lên, phủ kín quanh miếu. Rõ ràng chuyện này
xảy ra ngay trong thời điểm làng Văn Thái đang gặp nhiều biến chuyển, ắt phải mang
một ý nghĩa hay điềm báo gì đó.

Nhận thấy trong câu chuyện của bà Miên hãy còn nhiều vấn đề, thầy Lương hỏi :

-- Khoan, khoan đã….Bà chủ có thể nói từ từ cho tôi nghe từng chi tiết được không..?
Bắt đầu từ đoạn bà chủ nói sau khi có người chết ở đó thì hoa không mọc được nữa.
Ai..? Ai đã chết ở đó vậy…?

Bà Miên tiếp tục nhìn trước ngó sau rồi khẽ đáp :

-- Không phải chỉ 1 người chết đâu, mà tận 2 người lận…..1 nam, 1 nữ, kể ra thì dài
dòng lắm. Nhưng tôi sẽ tóm tắt cho bác nghe, cách đây 20 năm về trước, trước hôm
đó trời cũng nắng to, nhưng chẳng hiểu sao đến nửa đêm thì đổ mưa lớn, sấm chớp
đùng đùng, chỉ có điều không to bằng trận mưa đợt vừa rồi thôi. Sáng hôm sau, trên
đường ra đồng, đi ngang qua khu đất đó, người ta phát hiện ra có người chết. Hai
người đó cũng…..phải…..

Đang nói thì Miên dừng lại bởi giọng nói của hai người đàn ông vừa đi đến :

-- Bà chủ, cho xin hai chén nước.

Bà Miên cười chào khách rồi đáp :

-- Vâng, 2 chú ngồi đi…..Mà nhìn 2 chú không phải người làng này thì phải…?

Một trong hai người gật đầu đáp :

-- Bà chủ quán tinh ý nhỉ..? Đúng rồi, chúng tôi là người trên huyện trên, đến đây tìm
nhà lang Phan có chút chuyện.

Bà Miên nói :

-- Bảo sao, nghe giọng lạ tôi nhận ra ngay, mà hơn nữa làng này ai ra ai vào mà tôi
chẳng nhớ mặt.

Quay sang phía thầy Lương, bà Miện cười cười :

-- Đúng không bác nhỉ...Hề hề…

Có người lạ đến nên thầy Lương cũng không tiện hỏi chuyện nữa, lúc bà Miên quay
sang nhìn thì thầy Lương đã đứng dậy, ông đặt tiền nước và tiền cái bánh gai xuống
mặt bàn rồi bỏ đi được vài bước.

Thấy vậy bà Miên vội vàng nhặt lấy tiền rồi chạy theo gọi với :

-- Ơ kìa bác, bác gì ơi….Đợi tôi một chút.

Túm lấy áo thầy Lương, bà Miên đặt tiền vào tay thầy Lương rồi nói :

-- Kìa bác, tôi đã nói là mời bác mà…..Nhờ ơn của bác tôi cảm ơn còn không hết, sao
dám lấy tiền của bác có chén nước với cái bánh. Bác làm thế phải tội tôi chết.

Thầy Lương mỉm cười :

-- Cũng đâu có nhiều nhặn gì, bà chủ quán cứ cầm lấy, không sao đâu.

Bà Miên lắc đầu :

-- Không được, không được….Chậc, đang tính kể tiếp cho bác nghe thì lại có khách,
chuyện trong làng nói ra cho người ngoài biết không hay, mất công họ đàm tếu. Thấy
bác phúc hậu, lại có lòng tốt giúp người nên tôi mới bạo gan kể cho bác nghe. Nhưng
thật sự khu đất đó nó có gì khiến tôi không được yên tâm cho lắm.

Đang nói thì bà Miên sực nhớ ra điều gì, bà Miên cười rồi vội tiếp :

-- À mà bác đang ở nhà ông Vọng trưởng làng phải không..? Đúng rồi, thế mà tôi
quên mất…..Giờ nếu bác muốn hỏi gì bác cứ về hỏi ông Vọng là rõ nhất, gì chứ
chuyện năm đó tôi còn không rõ bằng ông Vọng đâu, bởi chính ông Vọng là người
dẫn đầu đám thanh niên trong làng khi ấy chôn cất 2 người chết đó mà. Thôi, tôi
quay lại bán hàng đây, nếu bác còn ở đây thì hôm nào mời bác đến nhà tôi dùng bữa
cơm, cho gia đình tôi được khoản đãi bác chu đáo.

Phía hàng nước, hai người đàn ông kia đang gọi ầm ỹ :

-- Này bà chủ, bánh này bán như nào đấy….?

Bà Miên cúi đầu chào thầy Lương rồi vội chạy về bán hàng, thầy Lương nghe bà Miên
nói xong cũng không lấy gì làm lạ, bởi ông Vọng là trưởng làng, chắc chắn chuyện về
ngôi miếu hoang đó, ông Vọng cũng biết. Khi nãy qua lời kể của bà Miên thì ngôi
miếu ấy nằm chếch về hướng Nam. Thầy Lương tính sẽ đi đến đó xem rốt cuộc thì
ngôi miếu cùng khu đất ấy có hình thù như thế nào. Nhưng rồi, thầy Lương nghĩ lại,
trước khi đến đó, ông cần biết được nguyên nhân dân làng Văn Thái lại xây miếu thờ,
và hai người chết ở đó là ai…? Tại sao họ lại chết…?

Tất cả những điều này có thể trưởng làng Văn Thái sẽ nói cho thầy Lương biết. Thầy
Lương quyết định quay về nhà ông Vọng.

Lúc này ông Vọng đang ngồi trong nhà, ông bỏ sợi dây chuyền ra rồi ngắm nhìn viên
hồng ngọc. Qua bức di thư của mẹ ông để lại thì ông đã biết mẹ ruột của mình, Lâm
Thư phu nhân là người đức độ, có tấm lòng nhân hậu, nhưng còn về bố ruột của ông,
Cao Lãm thì ông lại không biết một chút gì cả. Khi nãy thầy Lương có nói đây là sợi
dây chuyền của đàn ông, nên ông Vọng tin rằng sợi dây chuyền chính là tìn vật cuối
cùng mà bố ông để lại. Sống quá nửa đời người, đến tận bây giờ ông Vọng mới thực
sự tìm hiểu được về gốc gác, nguồn cội của mình. Đang suy nghĩ mông lung, ông
Vọng giật mình bởi ông vừa nghe thấy có tiếng mở cổng.

Vội cất sợi dây chuyền vào trong túi, ông Vọng đi ra hiên nhà rồi ngó đầu ra ngoài
nhìn, ông khẽ thở phào vì người đang mở cổng chính là thầy Lương. Bước ra sân, ông
Vọng đón thầy Lương rồi hỏi :

-- Thầy đã về rồi ạ, tôi cứ tưởng thầy nói phải đi đến đầu giờ chiều chứ…?

Thầy Lương đáp :

-- Đúng là vậy, nhưng trên đường đi, tôi tình cờ nghe được một chuyện lạ nên lập
tức quay về. Bác trưởng làng vào nhà đi, tôi có vài điều muốn hỏi.

Thấy thầy Lương có chút gấp gáp, ông Vọng nghĩ chắc hẳn chuyện thầy Lương định
hỏi phải rất quan trọng. Ngồi xuống ghế, trong lúc ông Vọng rót nước thì thầy Lương
hỏi luôn :

-- Bác trưởng làng này, trong làng mình có tồn tại một ngôi miếu đã bỏ hoang lâu nay
có phải không…?

Ông Vọng rót nước xong thì chợt dừng lại, ông Vọng đáp :

-- Đúng rồi thầy, mà sao thầy lại biết…?

Thầy Lương tiếp :

-- Là bà Miên hàng nước tình cờ kể cho tôi nghe. Bà ấy nói ngôi miếu ấy gần đây có
sự thay đổi. Bao năm qua cỏ cây xác xơ, hoang tàn, thế mà hôm trước bà ấy đi qua
thì thấy hoa vàng mọc lên phủ kín quanh miếu. Chẳng là lần trước khi đến đây, trước
khi vào làng tôi có cảnh báo cho bà ấy về trận mưa lớn, may mắn sao bà ấy lại nghe
lời tôi mà làm theo nên giữ lại được chút ít hoa màu. Nên hôm nay gặp, bà ấy kể tôi
nghe chuyện này để xem xem tôi có giải thích được điềm lành, điềm dữ gì không..?

Ông Vọng đáp :

-- Ra là vậy, cái miếu đó cũng phải bỏ hoang cả chục năm nay rồi. Hôm nay thầy mà
không nhắc thì tôi cũng chẳng nhớ đến nó đâu. Cũng bởi chỗ đó nằm ở khu vực ít
dân cư sinh sống, đâu đó chỉ có 2-3 hộ gia đình mà thôi. Còn lại toàn đất ruộng nên
tôi cũng ít khi đến đó. Mà nhiều năm trước dân làng cũng đồn thổi chuyện ma quỷ
quanh cái miếu ấy suốt, sau này bẵng đi cũng chẳng ai nhắc đến nữa. Hiện tại thì tôi
không rõ, chứ ngày tôi còn là thanh niên, khu vực đó phải nói là đẹp vô cùng. Cây cối
xanh tốt, mà hoa nở quanh năm, mùa nào cũng có hoa. Nhưng phải đến 10 năm nay
thì đến cỏ còn chẳng mọc được.

Thầy Lương tiếp ;

-- Có phải mọi thứ ở đó thay đổi từ khi dân làng phát hiện ra hai người chết ở đó
phải không…?

Ông Vọng giật mình, nghĩ bà Miên đã kể hết cho thầy Lương nghe nên ông Vọng chỉ
gật đầu rồi trả lời :

-- Đúng….đúng là như thế…..Nhưng cũng không hẳn là từ khi hai người đó chết đâu.
Miếu xây xong, mấy năm sau đó hoa vẫn nở rộ, mà còn có lúc dân làng đến đó thờ
cúng rất đông là đằng khác….Chỉ...chỉ khoảng 10 năm nay trở lại đây thì không hiểu
sao đất đai khô cằn, hoa cỏ không mọc được nữa. Và rồi người ta đồn người chết ở
đó đã hóa ma quỷ nguyền rủa khu đất đó. Từ đó đến nay, không ai dám bén mảng
đến cái miếu đó nữa. Nó trở thành miếu hoang, hay có khi nào nơi ấy cũng có liên
quan đến long mạch của làng không hả thầy…? Giống như việc trấn yểm được hóa
giải nên hoa cỏ bắt đầu sinh sôi trở lại..?
Thầy Lương cũng đã nghĩ đến điều này, sinh khí của làng cũng có thể nói như đang
dần hồi phục từ sau khi trấn yểm của Cao Côn được chính cháu nội của mình là ông
Vọng gỡ bỏ. Nhưng trước mắt thầy Lương muốn tìm hiểu về nguyên nhân cái chết
của hai người tại khu đất hoa cỏ nở quanh năm ấy là gì…?

Thầy Lương hỏi :

-- Tôi nghe nói hai người chết ở đó là 1 nam, 1 nữ…...Bà Miên cũng có nói ngày đó
khu đất ấy là nơi thanh niên, trai gái trong làng hẹn hò….Nãy đang kể thì bà ấy có
khách nên tôi không dám hỏi nhiều, nay bác trưởng làng cho tôi hỏi, 1 nam, 1 nữ
chết đó là thanh niên trong làng phải không…?

Ông Vọng lắc đầu, ông Vọng nói :

-- Không phải, hai người họ không phải người làng…...Và cũng không phải thanh niên.
Tự nhiên hôm nay nhắc tới cái chết của họ tôi lại thấy rùng mình. Đây cũng chính là
lý do mà tại sao dân làng trước kia đã nói họ hóa thành quỷ, đó là bởi vì lúc người ta
phát hiện ra xác của hai người họ thì khuôn mặt của cả hai đều đã bị lột sạch da. Căn
cứ vào mái tóc đã bạc thì khi ấy dân làng nói họ khoảng độ từ 45-50 tuổi. Nhưng
chắc chắn không phải người trong làng. Ngày trước người ta gọi nơi đó là Miếu “ Ông
Bà “.

#Chap65 : Người Hoa…..?


Thầy Lương ngạc nhiên hỏi tiếp :

-- Bác trưởng làng có thể kể rõ cho tôi nguyên nhân cái chết của hai người họ được
không..? Tôi đồ rằng, cái chết của hai người này chắc chắn còn ẩn chứa bí mật gì đó.
Nếu không phải người làng thì tại sao họ lại đến đó để rồi phải chết, chưa kể đến
việc da mặt bị lột sạch. Tôi nghe bà Miên nói lại rằng, chính bác trưởng làng khi ấy là
một trong những thanh niên làng chôn cất hai người họ…?

Ông Vọng gật đầu :

-- Đúng rồi thầy, năm đó tôi 31 tuổi, quả thực vụ việc đó khiến dân làng xôn xao suốt
một thời gian dài. Không phải người làng, nhưng cũng không xác định được họ là
người ở đâu. Tôi nhớ đợt đó, cán bộ với dân quân còn đi khắp các làng xã lân cận để
hỏi thăm tung tích cũng như tìm người thân của họ nhưng không thấy. Chẳng biết
phải đưa về đâu nên cuối cùng dân làng quyết định chôn họ ngay tại nơi họ chết.
Thanh niên trai tráng trong làng chung tay đào huyệt, các cụ trong làng đưa ra ý kiến
lập miếu thờ. Cũng bởi vì lúc phát hiện ra xác của hai người họ, ai cũng kinh sợ. Nếu
tính đến nay thì cái miếu đó cũng phải ở đó được 20 năm rồi. Chỉ có điều khoảng
chục, hơn chục năm nay thì chẳng ai lai vãng nữa.

Thầy Lương tiếp :

-- Nói như vậy trước đó dân làng vẫn qua lại thờ cúng có đúng không..?
Ông Vọng đáp :

-- Đúng vậy, tôi còn nhớ trong khoảng 5-7 năm đầu lúc miếu được lập lên. Phong
cảnh nơi đó vẫn rất đẹp, trước đó hoa cỏ đua sắc mọc quanh năm. Sau có thêm cái
miếu, nói là sợ nhưng dần dà bà con cũng quen. Nhất là đám thanh niên trai gái
trong làng khi ấy, chúng nó ra đó hẹn hò, tình cảm rồi cầu duyên trước miếu Ông Bà.
Nghe nói miếu thiêng nên cầu được lắm, không chỉ người làng mà cả người làng khác
cũng tìm đến. Thời đó ngoài cái tên miếu Ông Bà, thiên hạ còn gọi vui là miếu Tình
Duyên. Họ kháo nhau do hai người chết ở đó là cặp vợ chồng nên sau khi chết đi phù
hộ độ trì cho những ai yêu nhau, đến được với nhau. Chậc, thời đó tôi nghe cũng
thấy buồn cười, nghĩ bụng bảo đôi trẻ đã đành, đây hai người đã tuổi trung niên, gì
mà tình với duyên. Nhưng cũng kệ, dân ta tín mà, cũng chẳng ảnh hưởng gì, ngôi
miếu cũng được nhang khói đầy đủ âu cũng hợp tình, hợp lý. Nhưng rồi, trong vài
năm tiếp theo, chẳng hiểu tại sao khu đất đó dần trở nên khô cằn. Hoa lụi tàn theo
năm tháng, thời gian trôi qua, hoa mọc ít dần đi rồi cũng đến lúc nơi ấy không còn
mọc được hoa nữa. Những câu chuyện ma mị xung quanh ngôi miếu ấy bắt đầu xuất
hiện. Có người kể lại rằng buổi tối cho tới tầm đêm, khi đi ngang qua khu vực ấy họ
nghe thấy tiếng cười khúc khích, nhưng tuyệt nhiên nhìn quanh, soi đèn thì chẳng
thấy ai cả. Rồi thì là chẳng biết thật giả mà họ thêu dệt lên, cứ mỗi khi trăng tròn,
dưới ánh trăng lại pha xuống bóng hai người 1 nam, 1 nữ ngồi trên miếu dựa vào
nhau tình cảm. Nếu lỡ như có ai nhìn thấy thì hai cái bóng đó sẽ quay lại nhìn thẳng
vào mắt họ rồi cười man dại, người nhìn thấy sẽ bị ma ám, trở về nhà ốm nặng liệt
giường, nhưng hễ mở mắt là lại cười, cứ như vậy cho tới khi rụng tóc mà chết. Thiên
hạ cứ thế đồn thổi, cộng thêm việc đất đai khô cằn, thực vật chết dần, chết mòn,
thành thử ra mấy câu chuyện ma quỷ kia lại càng khiến người ta tin là có cơ sở. Thế
là đang từ một ngôi miếu cầu duyên trở thành miếu hoang. Những lớp người như tôi
thì cũng quên bẵng đi vì thời gian quá lâu, còn lớp trẻ bây giờ cũng chẳng ai hỏi hay
biết gì về ngôi miếu đó nữa. Kỳ thực tôi cũng không còn nhớ đến nơi đó, chứ không
đợt vừa rồi, lúc thầy nói trong làng có nơi nào bị động không tôi đã nói. Cũng bởi lời
đồn là thế nhưng suốt bao năm qua có xảy ra chuyện gì đâu.

Thầy Lương trầm ngâm suy nghĩ, cũng có thể do địa mạch nơi đây chuyển mình, long
mạch phá bỏ được trấn yểm cho nên cây cỏ sinh sôi, tiếp tục phát triển, trả lại cảnh
quan như trước đây. Cũng giống như huyệt mắt rồng, sau khi gỡ bỏ được bùa yểm
của Cao Côn, đất nơi đó đã phát, chuyển thành huyệt tốt. Khu vực miếu hoang đó rất
có thể cũng là trường hợp tương tự. Ngay từ khi bước chân vào làng, thầy Lương đã
cảm nhận được vượng khí nơi đây rất thịnh, trong làng xuất hiện long mạch, tất
nhiên đi cùng với long mạch sẽ là những thế đất đặc trưng, những nơi tiềm tàng
phong thủy. Chẳng vậy mà Cao Côn sống chết muốn độc giữ nơi này cho dòng họ.
Một người như Cao Côn, chắc hẳn ông ta đã nhìn thấu đáo toàn bộ địa thế nơi đây.
Nhưng qua lời kể của cả bà Miên lẫn ông Vọng thì dường như cái chết của hai người
kia vẫn không rõ nguyên nhân là vì đâu. Không thể nào tự nhiên hai người họ lại ra
đó để rồi chết cả.

Thầy Lương hỏi tiếp :


-- Bác trưởng làng hãy cố nhớ lại xem lúc phát hiện ra xác của họ còn có gì khác hay
không…? Ví dụ như quần áo, hay họ có làm gì tại khu vực đó không…? Bởi trước đêm
đó trời mưa to, chẳng lẽ họ hẹn hò nhau vào giữa đêm trời mưa hay sao..? Còn chi
tiết da mặt họ bị lột sạch nữa….Có quá nhiều những chi tiết bí ẩn.

Ông Vọng trả lời :

-- Thì chính vì vậy nên mọi người mới sợ hãi bàn tán xôn xao, ban đầu chúng tôi đều
cho rằng họ bị giết rồi đem xác quăng ở đó, nhưng tuyệt nhiên không thể tìm được
dấu vết của hung thủ. Trong khi đó thân thế của hai người họ cũng không rõ rằng,
không muốn nói là chẳng ai biết gì về họ cả, ngày ấy chưa như bây giờ, lo ăn từng
bữa còn khó khăn. Chiến tranh, bom đạn, người chết ngày nào cũng có, chỉ đáng sợ
ở chỗ da mặt của họ bị lột mà thôi.

Vừa nói, vừa nghĩ, đột nhiên ông Vọng nhìn thầy Lương nói :

-- À, tôi nhớ rồi, còn một lý do mà khi đó chúng tôi nói họ không phải người làng đó
là bộ quần áo hai người họ mặc có chút khác biệt, không giống với quần áo của
người dân ở đây lắm, họ mặc đồ gì mà như áo dài, có hoa văn họa tiết. Lúc đó có
người nói họ mặc đồ của người Hoa. Mà hình như trước khi chết họ đang đào bới gì
đó thì phải, bởi ngay cạnh xác họ có xẻng, nhưng dấu vết đào bới thì không mấy rõ
ràng. Ở đó thì có gì mà đào cơ chứ…?

Thầy Lương khẽ nhăn mặt, có thể ông Vọng không nhận ra, nhưng nếu đúng những
gì ông Vọng nhớ là thật thì điều mà thầy Lương suy nghĩ 2 ngày hôm nay thực sự có
cơ sở. Cao Côn chắc chắn còn giấu một thứ gì đó, và thứ này có liên quan đến bọn
Tiểu Quỷ. Có thể với khả năng của mình, Cao Côn đã biết trước một chút kết cục của
Cao Gia và trước khi chết, Cao Côn đã tạo ra đám Tiểu Quỷ ấy. Vẫn chưa thể khẳng
định việc Cao Côn để bọn Tiểu Quỷ trong làng để làm gì nhưng rõ ràng, nếu một ai
đó thuộc dòng dõi Cao Côn có thể điều khiển bọn Tiểu Quỷ, làm chủ nhân của chúng
thì thực sự là điều khủng khiếp. Hiện nay, theo như thầy Lương dự đoán, đám Tiểu
Quỷ đó vẫn đang vô chủ, chúng tồn tại cho tới thời điểm bây giờ là do ràng buộc khế
ước với Cao Côn. Cao Côn chết đi mà chúng vẫn còn thì chắc chắn khế ước đó vẫn
chưa hoàn thành. Đám Tiểu Quỷ đó là một loại bùa ngải ma quỷ cực kỳ tàn độc, bản
thân thầy Lương hiểu rõ điều này hơn ai hết, suýt chút nữa ông đã phải bỏ mạng khi
đối đầu với chúng. Thầy Lương không dám tưởng tượng được sẽ ra sao nếu có người
điều khiển được chúng. Liệu rằng, bí mật kinh khủng này chính là thứ cuối cùng Cao
Côn còn chôn giấu.

Đáng sợ, tuy nhiên nếu đúng như thầy Lương dự đoán thì việc diệt trừ bọn Tiểu Quỷ
ấy lại lại mở ra một cơ hội. Bởi nếu có người điều khiển được chúng thì người đó
cũng sẽ siêu độ được cho chúng, giải thoát được cho chúng. Nhưng đó vẫn chỉ là suy
nghĩ dựa trên giả thuyết mà thôi. Nếu không đúng như vậy, cái chết cho nhưng kẻ
dám xâm phạm lời nguyền đang hiển hiện trước mắt.

Tạm thời gác qua những chuyện xảy ra trong quá khứ, lúc này đã gần giữa trưa, thầy
Lương nói với ông Vọng :
-- Bác Vọng có thể dẫn tôi ra chỗ ngôi miếu được không..? Tôi muốn xem địa thế khu
vực đó, cũng như muốn nhìn qua xem ngôi miếu đó có gì đặc biệt.

Ông Vọng gật đầu rồi đứng dậy đi luôn, đúng như lời bà Miên nói, con đường dẫn
đến ngôi miếu gần như không có ai qua lại, bao quanh là đồng không mông quạnh.
Chỗ này lại nằm ngoài khu dân cư sinh sống nên chẳng trách chục năm qua không ai
thăm viếng. Nhưng ngay khi đến nơi, đập vào mắt ông Vọng và thầy Lương quả đúng
như lời bà Miên nói, hoa vàng mọc lên trên nền đất vốn dĩ đã khô cằn, hoang tàn bấy
lâu nay. Ngôi miếu vẫn ở đó tiêu điều, bước đến trước miếu, thầy Lương xem xét kỹ
lưỡng, ngôi miếu không có gì đặc biệt, bát hương đã vỡ sau nhiều năm, cảnh tượng
rất điêu tàn nếu không có lớp hoa vàng mới mọc gần đây thì thực sự nhìn thôi cũng
khiến người ta cũng phải lắc đầu.

Ông Vọng định đưa tay nhổ đi một vài bụi cỏ mọc quanh miếu, nhưng thầy Lương
ngăn lại :

-- Đừng động chạm vào bất cứ thứ gì ở đây cả. Tạm thời nơi này có chút gì đó bí
hiểm, tốt nhất trước khi biết rõ nguyên do, chúng ta không nên làm gì kinh động.
Thật không ngờ đất nơi đây lại vuông vắn đến vậy, cứ như thể người ta dùng một
con dao khổng lồ xắn đến mức vuông thành, sắc cạnh. Tuy nhiên…….

Dạo quanh một lượt khu đất bao quanh miếu, đang định nói gì đó thì thầy Lương
dừng lại. Thầy Lương nhìn ông Vọng khẽ gật đầu :

-- Thôi được rồi, chúng ta về thôi.

[......]

Quay trở về nhà, ông Vọng hỏi thầy Lương :

-- Khi nãy ở miếu, thầy có nói đến gì đó nhưng lại thôi…..Rốt cuộc thầy có phát hiện
được gì không ạ…?

Thầy Lương gật đầu trả lời :

-- Có chứ, lại thêm một mảnh đất tốt. Làng này quả thực khiến tôi phải bất ngờ, bình
thường trong một vùng đất chỉ tồn tại 1 thế đất đẹp mà thôi. Vậy mà từ khi đến đây,
ngoài long mạch ra còn phát huyệt mắt rồng, rồi giờ đây cả mảnh đất vuông có ngôi
miếu ngự trên ấy cũng là đất tốt. Không chỉ vậy, căn cứ vào những gì bác trưởng làng
kể lại, 20 năm trước hoa cỏ nở bốn mùa, có thể nói khu đất ấy là nơi linh khí tụ hội.
Chỉ có điều…….ở đó có mùi tử khí, không chỉ vậy, chướng khí cũng dày đặc. Bác
trưởng làng, tôi đã tìm ra nơi Cao Côn chôn bọn Tiểu Quỷ. Không còn nghi ngờ gì
nữa, đám Tiểu Quỷ ấy chắc chắn đang cư ngụ ở nơi linh khí tích tụ. Điều này không
có gì lạ, bởi Cao Côn là một bậc thầy tinh thông phong thủy. Việc ông ta để đám Tiểu
Quỷ ở mảnh đất sinh linh khí ấy chắc chắn có lý do.
#Chap66 : Tiếng Gọi Lúc Trời Tối.
Chiều hôm đó, trong lúc thầy Lương ngồi trong nhà đọc sách thì ông Vọng ở dưới
bếp chuẩn bị thịt con gà. Dù sao thì theo như dự tính, bữa cơm chiều nay ông Vọng
sẽ mời Sửu sang nhà làm vài chén rượu, vừa là để ăn mừng việc ông Vọng tìm được
“cái bình“. Đang nhổ lông gà thì có tiếng Sửu gọi bên ngoài :

-- Bác Vọng ơi, bác có nhà không đấy..?

Ông Vọng nói với ra :

-- Có đây, có đây….Đẩy cổng mà vào, tôi đang dở tay một chút.

Sửu bước vào trong, đi ngang qua nhà trên, Sửu cúi đầu chào thầy Lương rồi xắn tay
áo lao xuống bếp phụ ông Vọng làm cơm luôn. Sửu cười hềnh hệch, Sửu hỏi :

-- À mà cuối cùng thì sáng nay trong cái bình đó có gì vậy bác Vọng..? Em đang tính
xem nốt thì còn sư tử nhà em nó gọi, bực thế không biết.

Ông Vọng trả lời :

-- À, cũng không có gì, một vài đồ vật của tôi lúc nhỏ hai cụ đem chôn, cùng với 1-2
món trang sức ấy mà. Tôi để trên nhà, lát nữa lấy cho cậu xem.

Điều này ông Vọng cũng nói theo sự sắp xếp của thầy Lương, bởi danh tính của ông
Vọng tuyệt nhiên không được để cho người khác biết, sợi dây chuyền bằng vàng
ròng có mặt đá hồng ngọc kia lại càng phải giấu kín. Do vậy biết Sửu khi đến sẽ hỏi
nên thầy Lương kêu ông Vọng trả lời như vậy. Để cho hợp lý, thầy Lương đã bỏ ra 2
món đồ trang sức trong tay nải của ông đưa cho ông Vọng có gì lát nữa dễ bề nói
chuyện.

Sửu cười chúc mừng :

-- Ôi vậy cũng là tốt rồi, ít nhất là còn có đồ của các cụ để lại. Nói mới nhớ các cụ
ngày xưa hay chôn đồ thật, như nhà em, em nhớ hồi ông nội em còn sống cũng chôn
một cái hũ gì đó, sau ông mất, bố em mới đào lên thì là hũ rượu. Cơ mà phải nói
rượu hạ thổ lâu năm uống nó sướng lắm bác ạ. Hồi sáng em còn tưởng có khi là bình
rượu thì lại mất uống vì bình nó bị nứt rồi. Hề hề hề, may không phải rượu.

Đến khoảng chập tối thì cơm nước được dọn xong xuôi, trước khi vào mâm uống
rượu. Như đã hứa, ông Vọng lấy đồ ra cho Sửu xem. Đặt trên bàn là một tấm vải
nhung mềm, khẽ mở lớp vải ra, Sửu háo hức chờ đợi. Bên trong tấm vải là hai chiếc
vòng đeo tay bằng đá cẩm thạch, có bọc một lớp vàng mỏng. Đôi vòng này thực chất
là của thầy Lương.

Sửu nhìn ngắm rồi trầm trồ :


-- Em thì không biết giá trị của đồ trang sức, nhưng của bà các cụ để lại thì chắc chắn
là quý rồi. Chúc mừng bác Vọng nhé, nhìn hai cái vòng đẹp thật đấy.

Thầy Lương nói :

-- Đôi vòng này được làm bằng đá cẩm thạch xanh, độ trong cũng chưa đạt đến mức
hoàn hảo, nhưng người xưa có câu : vàng thời có giá, ngọc thời vô giá. Câu này mang
ý nghĩa nếu định giá của ngọc thì nó rất vô vàn, bởi ngọc còn mang lại nhiều giá trị về
mặt phong thủy. Ví như đôi vòng cẩm thạch này, nếu đeo lên tay sẽ giúp người đeo
điều hòa khí huyết, giảm được đau đầu, tránh được đột quỵ….Ngoài ra đá cẩm thạch
theo quan niệm dân gian còn có thể bài trừ những năng lượng tiêu cực tích tụ bên
trong cơ thể con người. Nói tóm lại với thời các cụ thì đôi vòng cẩm thạch này cũng
là một tài sản lớn rồi.

Nghe thầy Lương giải thích, Sửu như được mở mang thêm kiến thức, nhưng khổ cái
Sửu xưa nay là người đơn giản, tuềnh toàng, đôi vòng ngọc đó đẹp thì đẹp thật
nhưng cũng không hấp dẫn bằng 3 quả bầu hồ lô đựng rượu bên dưới mâm cơm.

Sửu nói :

-- Thôi, xem thế đủ rồi….Giờ mời thầy, mời bác Vọng ngồi xuống mâm mình cùng
nâng chén. Lúc dưới bếp nghe bác Vọng giới thiệu 3 bình rượu này là được người ta
tặng năm ngoái mà chưa uống, em có mở ra ngửi thử thì công nhận thơm. Thầy với
bác ngồi xuống đi không đồ ăn nguội hết cả.

Thầy Lương và ông Vọng nhìn nhau khẽ lắc đầu rồi mỉm cười, bao ngày qua vất vả,
tốn bao công sức, hao tâm tổn trí, có lúc còn phải đối mặt với nguy hiểm tính mạng.
Lâu lắm rồi những người này mới có cơ hội để ngồi uống chén rượu. Tạm thời bỏ
qua những bí ẩn chưa được giải đáp lại phía sau, thầy Lương, ông Vọng nâng chén
chúc mừng, cả Sửu cũng vậy. Không biết rượu trong hồ lô là rượu gì mà mới chỉ uống
được 2 bầu, cả ba ai cũng ngà ngà. Trong đó thì Sửu với ông Vọng là say hơn cả, thầy
Lương tuy chưa say nhưng cũng bắt đầu thấy ngâm ngấm.

Rượu vào lời ra, ông Vọng lúc này mới hỏi :

-- Thưa….thưa….thầy….Câu chuyện mà….mà thầy nói lúc trưa ấy….Tôi cứ...cứ


thắc...mắc suốt….không biết là Cao Côn...để bọn ma quỷ đó...ở chỗ miếu hoang
làm...cái giề….nhỉ…? Hức….hức.

Sửu hóng hớt :

-- Bác Vọng nói sao…? Sao lại có cái gì mà miếu hoang ở đây..?

Ông Vọng trả lời Sửu :

-- Thì đó….là cái miếu hoang ở làng ta….bao năm nay không ai dám đến gần đó…. ́y
mà nhé, trưa nay...tôi theo thầy Lương ra ngoài đó xem…..Cậu biết gì không…?
Hoa...hoa….hoa đã mọc trở lại trên khu đất...hức….đó rồi…..Toàn hoa…..vàng...ơi...là
vàng. Mà năm đó cậu….hãy còn nhỏ, đâu mới có mười mấy tuổi thì chắc không nhớ
gì rồi….

Sửu đáp lại :

-- Bác cứ đùa….Sao em...không nhớ…..Chỗ đó...là chỗ mà em với….con sư tử nhà em
ra đó…..cầu duyên mà lại. Mà sau này người ta đồn ở đó có ma…..thế là em không
dám ra nữa. Mọc hoa...thật...thật hả bác.

Ông Vọng chỉ về phía thầy Lương nói :

-- Thật mà….không tin cậu cứ hỏi….thầy Lương thì là biết. Thầy Lương nhỉ…? Mà thầy
còn bảo, chỗ ấy là chỗ mà cái bọn Tiểu Quỷ gì đó cư ngụ…..Nhưng tại sao lại chôn
đám ma quỷ ở đó thì thầy Lương lại không nói.

Đúng là khi say con người thường mất kiểm soát, hai người họ cứ thế hỏi dồn thầy
Lương. Cũng có chút men trong người, hơn nữa để nói cho họ yên lòng mà ngừng
làm loạn, thầy Lương khẽ đáp :

-- Chậc, thôi được rồi….Nếu như hai người đã có thắc mắc thì tôi cũng không muốn
giấu. Nhưng tôi nói trước, chuyện này mọi người nghe thì để trong bụng thôi, chưa
chắc chắn được gì cả. Cũng đừng làm gì mà không suy nghĩ, thực ra thì trong suy nghĩ
của tôi, đám Tiểu Quỷ được chôn trên khu đất ấy là để canh giữ…..

Sửu vội hỏi :

-- Canh giữ cái gì vậy hả thầy…?

Cả ông Vọng lẫn Sửu đều tập trung chờ đợi câu trả lời của thầy Lương. Nhấp một
ngụm rượu, đặt chén xuống, thầy Lương nhìn hai người họ mỉm cười rồi đáp :

-- Canh giữ của cải…..Ha ha ha….Ha ha ha.

Nói xong thầy Lương ngẩng mặt lên trần nhà cười lớn. Ông Vọng với Sửu quay sang
nhìn nhau rồi cũng phá lên cười, ông Vọng vừa cười vừa nói :

-- Thầy cứ đùa…..Nếu như mà chỗ đó có của cải…..Thế lúc tôi cùng mọi người đào
huyệt chôn cất hai người đó chẳng phải cũng tìm thấy rồi sao. Ha ha ha.

Thầy Lương định nói thêm điều gì nhưng thấy cả hai đều đã say nên thầy chỉ mỉm
cười nhẹ nhàng. Ông Vọng và Sửu tiếp tục rót rượu mời nhau, sau câu trả lời của
thầy Lương thì cũng chẳng ai hỏi thêm gì về chuyện ma quỷ nữa.

8h tối, sau khi uống hết cả 3 bầu rượu thì ông Vọng chính thức say không biết trời
đất đâu. Sửu khá hơn một chút vì có sức khỏe, nhưng để bước đi thì Sửu cũng xiêu
vẹo lắm rồi. Rượu ngon nhưng phải nói là cực kỳ nặng, uống thì mềm môi mà say lúc
nào không hay. Thầy Lương cũng say chứ không phải không, nhưng do ông Vọng đã
say bất tỉnh nhân sự nên thầy đứng dậy tiễn Sửu ra về còn đóng cổng.

Sửu chân nọ đá chân kia ra đến cổng, Sửu vừa cười vừa nói :

-- Thôi…..thầy vào nhà đi….kẻo lạnh…..Tôi về đây….Hức….cảm ơn...ơn thầy...và


bác….Vọng….hức…..hề hề.

Một mực khuyên Sửu ở lại nhưng Sửu không nghe, Sửu nói đi uống rượu mà không
về thì con vợ nó nhiếc cho điếc lỗ tai. Thôi thì cũng đành chịu, cũng mới chỉ 8h tối
nên không có gì đáng lo.

Thầy Lương quay trở lại trong nhà, Sửu thì cố gắng giữ tỉnh táo để đi về. Cũng may
nhà Sửu cách nhà ông Vọng không mấy xa nên dù say nhưng Sửu vẫn về được đến
cổng nhà, đứng bên ngoài Sửu gọi lớn :

-- Bu nó ơi, bu nó….Mở cửa cho tôi.

Vợ Sửu cũng đang đợi chồng, biết hôm nay chồng đi nhậu bên nhà trưởng làng nên
không dám ý kiến. Đi ra thấy chồng say khướt khượt, mở cổng, dìu chồng vào trong
giường, đang lấy khăn lau mặt mũi, tay chân cho chồng thì vợ Sửu nghe bên ngoài có
tiếng người gọi :

-- Anh chị Sửu có nhà không đấy…?

Đã hơn 8h tối, nhưng nghe giọng quen quen nên vợ Sửu tặc lưỡi lại mở cửa đi ra,
miệng lẩm bẩm :

-- Tối muộn rồi còn gọi gặm cái gì không biết…..Mệt hết cả người.

Nhưng khi đi ra đến ngoài cổng thì vợ Sửu lại không thấy ai cả. Bên ngoài gió lạnh
thổi hiu hiu, rõ ràng vừa có tiếng người gọi mà giờ chẳng thấy bóng ai. Chỉ có tiếng
ếch nhái đang kêu râm ran, toan mở cổng ngó ra ngoài xem thì vợ Sửu giật mình hét
toáng lên :

-- Ối giời ôi…...Ma….Ma…...

#Chap67 : 10 Lượng Vàng…?


Từ phía mép tường cổng, một bóng đen nhảy xồ ra :

-- HÙ….Ú….ÒA…

-- Ma...Ma….Cứu….Cứu...với…- Vợ Sửu hoảng hồn ngồi bệt luôn xuống sân, mắt
nhắm tịt, miệng gào lên kêu cứu.

Nhưng đáp lại vợ Sửu, “ con ma “ ngoài cổng lại cười phá lên :
-- Ha ha ha….Em đây, là em đây mà.

Nói rồi “ con ma “ tháo cái mặt nạ quỷ ra rồi cứ thế cười khoái trí, vợ Sửu he hé mắt
thì lúc này mới phát hiện, chẳng có con ma nào cả, chỉ có thằng em trai của mình giả
ma dọa người mà thôi. Đó chính là Lực, em vợ của Sửu.

Lực nói :

-- Có thế thôi mà cũng sợ, thường ngày em thấy chị quát ông Sửu ghê lắm cơ mà. Hề
hề hề.

Định thần lại, vợ Sửu chỉ mặt em chửi bới :

-- Thằng chó chết, mày dọa chết tao rồi….Thằng trời đánh thánh đâm, tối đêm mày
không có việc gì làm mò sang nhà tao làm gì thế hả…..?

Lực gãi đầu gãi tai :

-- Em xin lỗi, mở cổng cho em vào với. Anh Sửu vẫn thức chứ chị…? Em sang có
chuyện này muốn thưa với anh chị. Nhanh lên, ngoài này lắm muỗi lắm.

Vợ Sửu mở cổng cho em, nhưng vẫn làu bàu chửi, cũng phải thôi, vừa nãy thị chỉ
thiếu nước là đái ra quần. Lực bước vào nhà, thấy Sửu đang nằm thở phì phò, trong
nhà nồng nặc mùi rượu, nhưng Sửu cũng đang cố cựa mình dậy, Sửu nói :

-- Nước, cho xin cốc nước.

Vợ Sửu chỉ tay về phía chồng rồi nói với Lực :

-- Đấy, anh mày tối nay sang bên nhà ông Vọng ăn cơm, chẳng hiểu uống bao nhiêu
mà về nằm vật ra. Khổ cái thân tao, mà mày sang đây có chuyện gì, để mai không
được à…?

Lực thở dài :

-- Mai thì cũng được, nhưng tính em chị biết rồi, muốn làm gì mà cứ phải chờ đợi em
khó chịu lắm. Mà anh như này không biết nói ra có giải quyết được gì không…?

Vợ Sửu đưa nước cho chồng, Sửu tu ừng ực một hơi cạn cả cốc nước to, lấy tay quệt
ngang miệng, Sửu lờ đờ mở mắt rồi khẽ lắc lắc đầu cho tỉnh táo bởi ngoài vợ mình
ra, Sửu còn thấy ai đó. Nhìn một lúc rõ ràng, Sửu cười rồi nói :

-- Ơ, Lực đấy à…? Đến lâu chưa…?

Lực vội đáp :


-- Vâng, em Lực đây….Anh có tỉnh táo không đấy, em vừa mới đến. Khiếp, bình
thường anh uống rượu khỏe lắm mà sao hôm nay lại say thế…?

Sửu cười cười :

-- Ăn….thua...thua gì….Anh mày còn đi về...được….Chứ….như bác Vọng...nằm bết


luôn….Hê hê hê…..Đúng rượu ông ấy thửa, uống đã thật chớ. Mà có chuyện gì cứ
nói, anh….vẫn còn….tỉnh lắm.

Vợ Sửu đế thêm vào :

-- Ừ đấy, mà mày có chuyện gì thì nói đi. Nhanh tao còn đi ngủ, cũng muộn lắm rồi.

Sửu cũng cố bước ra đến bàn uống nước, Lực đợi cho hai anh chị ngồi xuống rồi bắt
đầu thưa chuyện :

-- Là như này...Anh chị cũng biết em thích con Út nhà bà Điều lâu rồi phải không..?

Vợ Sửu ậm ờ :

-- Thì biết, nhưng mà sao…? Nhà đấy nó có ưa mày đâu.

Lực cãi :

-- Chị nói thế là sai….Chỉ có bà Điều bà ấy cấm thôi, chứ Út nó cũng thương em lắm.

Vợ Sửu tiếp :

-- Thì đấy, mẹ nó không đồng ý thì nó cũng chẳng làm gì được. Mà tự nhiên mày nói
chuyện đó làm gì…?

Lực cười khúc khích :

-- Hí hí, thì phải có gì em mới nói được chứ….Đúng là trước đây bà ấy không ưa em,
nhưng đợt rồi bà ấy chịu rồi chị ạ. Nhân cơ hội này em mới đánh tiếng hỏi cưới luôn
cái Út…..Nhưng...nhưng mà….

Thấy Lực ấp úng, Sửu hỏi :

-- Nhưng sao…? Bà ấy lại không chịu phải không..? Nói gì nói nhà con mụ Điều ấy
cũng thuộc dạng giàu có trong cái làng này, nhà mình thì nghèo….sao mụ ta chịu.

Lực đáp :

-- Không, bà ấy chịu….Chỉ có điều, bà ấy thách cưới 10 lượng vàng, với sính lễ phải
đầy đủ, em phải có đất riêng..
“ Phụt “

Nghe đến đây thì vợ Sửu đang uống nước cũng phải phun ra, vợ Sửu giật mình, run
run giọng, thị hỏi lại :

-- Cái...cái gì...cơ...cơ….? Mày nói...lại tao...nghe…..Bao nhiêu vàng...cơ….?

Lực nhắc lại :

-- Dạ, 10 lượng.

Đến lúc này không chỉ vợ Sửu mà cả Sửu cũng nuốt nước bọt ừng ực, vợ Sửu rồ lên :

-- Lực ơi là Lực, mày ngu thì cũng phải chừa cái ngu cho người khác với chứ…? Gia
đình mình, bố mẹ mình là nông dân, năm được mùa thì cũng có chút đỉnh, nhưng cả
họ nhà mình đào đâu ra được 2 lượng bây giờ, chứ đừng nói là 10 lượng. Ừ thì sính
lễ đầy đủ cũng có thể lo được, rồi nhà đất cho mày ở riêng bố mẹ cũng có thể cắt đất
ruộng ra cho mày được...Nhưng đấy là tất cả những gì nhà ta có, còn 10 lượng
vàng…..Lấy đâu ra hả Lực…..Con mụ ấy nó thách cưới như vậy là ngầm ý không cho
mày cưới con bé Út rồi. Hiểu chưa hả…?

Sửu cũng đồng tình với vợ, 10 lượng vàng là quá lớn, không muốn nói là không
tưởng so với gia cảnh của nhà vợ Sửu. Mà cả cái làng này trước nay cũng chẳng ai
thách cưới một sính lễ lớn như vậy cả. Mục đích của mụ Điều chính là không muốn
gả con gái cho Lực.

Nhưng Lực vẫn ngoan cố :

-- Thì con gái người ta xinh đẹp nhất cái làng này, thách vậy cũng đâu có sao…?

Vợ Sửu lắc đầu, thị đứng lên bỏ ra ngoài sân do quá bực bội, thị nói :

-- Mày đừng điên nữa, không cưới đứa này thì cưới đứa khác….Mày u mê quá rồi.

Thấy vợ bỏ đi, Sửu tặc lưỡi, câu chuyện của Lực khiến Sửu nghe xong cũng phải
choáng váng mà tỉnh rượu, chẳng biết do buột miệng hay do ma xui quỷ khiến thế
nào mà Sửu lại nói :

-- Muốn có 10 lượng vàng thì giờ may ra chỉ có đi đào cái miếu ấy lên thì có.

Ai dè Lực lại gặng hỏi :

-- Là sao ạ…? Đào miếu, anh nói rõ hơn được không..? Miếu nào…? Ờ đâu…?

Sửu thoáng giật mình, Sửu cười cười :

-- Chậc, anh cũng chỉ nói vui vậy thôi, chứ lấy đâu ra…...Chắc lúc ấy thầy Lương cũng
nói đùa mà thôi.

Nhắc tới thầy Lương thì Lực cũng biết, chính Lực đã từng đi với Sửu đào bới ngoài
Bãi Hoang. Tận mắt chứng kiến những gì mà thầy Lương phán đoán chính xác. Khác
với Sửu, Lực lại suy nghĩ sâu xa hơn, Lực nghĩ rất khó để thầy Lương đùa, mỗi câu
nói, mỗi việc làm của thầy Lương đều có nguyên nhân, lý do.

Lực cố hỏi anh rể :

-- Đùa cũng dược, anh cứ nói cho em nghe xem nào. Vui thì em cũng nghe vui vậy
thôi.

Hơi men vẫn còn, mà tính Sửu không phải kẻ biết giấu diếm chuyện gì, Sửu nói :

-- À thì hôm nay anh sang bên nhà bác Vọng uống rượu, lúc đó có loáng thoáng nghe
thầy Lương nói khu đất có cái miếu hoang ở làng ta. Chỗ mà ngày xưa hoa cỏ mọc
quanh năm ấy…...Sau này có người chết nên đất đai khô cằn, thầy Lương nói ở đó có
của. Mà mới sáng nay, bác Vọng cũng đào được đồ gia bảo bố mẹ để lại….Đào ngoài
vườn, chắc cũng nhờ thầy Lương mách nước….Nhưng chuyện ngoài miếu thì chắc chỉ
là….đùa….thôi…..Ơ kìa….đi đâu đấy…

Sửu vừa nói hết câu thì Lực đứng dậy, Lực đi vội lắm…..Ra đến sân, thấy chị đang
đứng đó tức tối, Lực cũng chỉ chào nhanh 1 câu rồi mở cổng ra về.

Vợ Sửu bước vào nhà, chắc ngồi uống nước, gió lạnh lùa vào nên Sửu tự nhiên thấy
buồn nôn. Chẳng nói chẳng rằng, Sửu nôn thốc nôn tháo luôn tại bàn uống nước. Vợ
Sửu thì bù lu bù loa, vất vả lắm vợ Sửu mới dìu được chồng lên giường, bôi vôi vào
lòng bàn tay, lòng bàn chân, lấy cao day hai thái dương…….Thị vừa than đất kêu trời,
đang đau đầu với chuyện của thằng em trai lụy tình thì lại đến chồng nôn mửa.

Đến khoảng 9h hơn thì vợ Sửu dọn dẹp xong, Sửu lúc này cũng đã ngủ say, tắt đèn,
cả nhà Sửu chìm trong giấc ngủ…….Cho đến sáng ngày hôm sau, một lần nữa, bên
ngoài cổng lại có tiếng người gọi thất thanh….Vẫn là giọng quen thuộc, chỉ có điều
lần này là Sửu ra mở cổng chứ không phải vợ Sửu…….Nhưng người gọi cũng không
phải là Lực.
Nãy đăng chơi thôi, giờ mới đăng thật..!! Nhiều like nhiều share thì đăng tiếp.

#Chap68 : Người Chết Ngoài Miếu.


-- Nhàn ơi, Sửu ơi…...Đi đâu cả rồi….?

Sửu chạy vội ra sân, lúc này mới chỉ hơn 6h sáng. Vừa ngáp vừa dụi mắt, Sửu nói
vọng về phía cổng :

-- Dạ đây ạ.


Từ trong nhà là Sửu đã nhận ra giọng người đang gọi bên ngoài chính là giọng của
mẹ vợ ( bà Nhâm ). Mở cổng, Sửu chào mẹ rồi mời bà vào trong :

-- Mẹ đấy ạ, sao có chuyện gì mà mẹ sang gọi chúng con sớm thế. Vợ con nó hãy còn
ngủ, khổ chắc tại hôm qua con say rượu nên thức đến quá đêm dọn dẹp. Mẹ vào nhà
đi ạ.

Bà Nhâm tháo cái nón rồi hối hả bước vào trong, vừa đi bà vừa nhìn xung quanh,
xong bà quay lại hỏi Sửu :

-- Thế tối qua thằng Lực nó có ở đây uống rượu với anh không…?

Sửu lắc đầu :

-- Dạ không ạ, hôm qua con uống rượu bên nhà bác Vọng. À mà mẹ hỏi thằng Lực
hả…? Đúng là tối qua lúc con say rượu về nó có sang đây.

Đi vào trong nhà, lúc này vợ Sửu cũng đã tỉnh giấc, nhìn thấy mẹ, Nhàn chào rồi hỏi :

-- Con chào mẹ, mẹ đi đâu mà sang sớm vậy…?

Bà Nhâm đáp :

-- Mẹ chạy qua đây tìm thằng Lực, hôm qua đã dặn nó là sáng nay dậy sớm xới cho
mẹ mảnh vườn mà nó đi từ đêm qua không về. Lúc tối nó bảo đi sang nhà anh chị
nên mẹ tạt qua đây xem có nó ở đây không gọi về. Thế nó không ở đây hả Nhàn…?

Nhàn nhìn chồng rồi nói :

-- Tối qua nói chuyện xong nó đi về luôn anh nhỉ..?

Sửu gật đầu :

-- Đúng rồi, xong cái nó về luôn. Lúc đó cũng muộn rồi còn gì. Mà hôm qua nó sang
đây nói chuyện gì thế nhỉ..? Anh cứ nhớ nhớ quên quên, lúc đó say quá, ngủ dậy còn
đau hết cả đầu.

Nhàn thở dài, nghĩ vừa mệt vì cả đêm qua dọn dẹp bãi nôn mửa cho chồng, xong giờ
lại nhớ đến chuyện thằng em trai tối qua sang bàn việc sính lễ cưới vợ mà Nhàn nhão
hết cả ruột, Nhàn đáp :

-- Vầng, ông thì có nhớ cái gì, thế mà lúc ấy cũng nói như thật. Nó sang bàn chuyện
cưới vợ, nhưng nhà gái người ta thách tận 10 lượng vàng thì lấy đâu ra. Có giết hết
cả nhà cũng chẳng đào đâu được từng đó vàng.

Đoạn quay sang Nhàn trách mẹ :


-- Mà cả bố mẹ nữa, kiểu gì nó chẳng nói với bố mẹ. Vậy mà bố mẹ không khuyên
nhủ nó một câu. Thằng này nó điên rồi.

Bà Nhâm sượng sùng đáp :

-- Ừ thì bố mẹ cũng biết, cũng có nói, nhưng nó không nghe….Mày cũng biết tính nó
còn gì. Cơ mà sao cái nhà bà Điều thách gì mà thách giữ vậy, sính lễ đất đai thôi thì
cố cũng còn được, đằng này tận 10 lượng vàng. Nhưng khổ tội, cái thằng Lực nó lại
chỉ yêu con Út nhà đó. Nó đòi sống đòi chết nên bố mẹ cũng không dám cản.

Nhàn chép miệng :

-- Con lạ gì hai ông bà, lúc nào cũng bài ca chỉ có mình nó là con trai. Chỉ sợ không
đúng ý nó rồi nó bỏ làng đi, nhưng việc này phía nhà mụ Điều rõ ràng là không muốn
gả. Sao thằng này nó ngu thế nhỉ, mà nó không có ở đây đâu ạ, tối qua nó về rồi. Đi
qua con nó còn chỉ chào lí nhí vì sợ con chửi. Nếu vườn tược gì hay là mẹ cứ về
trước, lát chồng con rửa mặt mũi xong sẽ sang đó giúp hai ông bà.

Tối qua đi nhậu say, về nhà nôn mửa hành vợ, Sửu biết thân biết phận nên không
dám ý kiến, Sửu nói với mẹ vợ :

-- Vậy mẹ đợi con chút, con rửa ù cái mặt rồi đi sang đó giúp bố mẹ luôn.

Bà Nhâm có phần hơi ngại :

-- Thế….liệu có...được không..?

Nhàn đáp luôn :

-- Có gì mà không được, ăn nhậu chán chê rồi thì phải làm việc đi chứ. Mẹ cứ để anh
ấy sang làm, còn thằng Lực nó cứ về nhà đi rồi con sang nói chuyện với cả nó lẫn bố
mẹ, phải chửi cho thằng này nó tỉnh ra, bằng đấy tuổi đầu rồi mà càng ngày càng
ngu.

Bà Nhâm cũng phải hãi với độ đanh đá của con gái, bà vội tảng lờ đi :

-- Thế anh Sửu rửa mặt đi, tôi đợi ngoài này. Sang đó tôi có nồi khoai luộc, anh ăn
cùng rồi giúp bố mẹ một tay.

Sửu vâng dạ rồi đi cùng mẹ vợ ra ngoài sân, vừa đi, bà Nhâm vừa khẽ ngoái lại đằng
sau nhìn rồi thì thầm với con rể :

-- Cái con này nó gớm nhỉ…? May có mày chịu được nó.

Sửu gãi đầu, gãi tai cười trừ :

-- Vầng, mồm nói ác thế thôi chứ bụng dạ tốt lắm. Vợ con con biết chứ.
Xong xuôi, Sửu đi cùng bà Nhâm sang bên nhà để phụ giúp công việc. Vậy mà cũng
đã 7h sáng. Lúc đi qua nhà ông Vọng, Sửu có ngó ngó vào trong xem cả thầy Lương
với ông Vọng đã dậy chưa, nhác thấy ông Vọng loay hoay rửa rửa cái gì ở cầu ao, Sửu
định vào chào một câu nhưng đang đi cùng mẹ vợ nên lại thôi.

Đi được thêm một đoạn đường thì Sửu thấy từ hướng ngược lại có người đang chạy
hối hả, gần thêm chút nữa thì Sửu nhận ra đó chính là bà Miên, bà bán hàng nước
dưới gốc đa đầu làng. Nhìn bà Miên mặt mũi tái nhợt,tóc tai thì rũ rượi, bê bết mồ
hôi, vừa chạy bà Miên vừa thở hồng hộc, thi thoảng lại ngó về sau nhìn nhìn giống
như đang sợ hãi thứ gì đó.

Bà Miên với bà Nhâm cũng tầm tầm tuổi nhau, chẳng biết có chuyện gì nhưng bà
Nhâm vẫn gọi khi bà Miên chạy qua :

-- Ơ này, chạy đi đâu mà như ma đuổi thế…..Bình tĩnh xem nào.

Chắc có lẽ bà Miên đã phải chạy cả một quãng đường xa, nay thấy có người gọi tên,
bà Miên mới chú ý nhìn sang, mặt cắt không còn một giọt máu, bà Miên nói như sắp
đứt hơi :

-- Bà Nhâm….đấy...đấy...à….? Còn….hơn...hơn...ma


đuổi…..Chết...rồi…..Kinh...lắm…..Sợ...lắm.

Sửu nói :

-- Có chuyện gì bác cứ bình tĩnh nói xem nào, nói thế ai mà hiểu cho được. Mà bác
chạy đi đâu đây…?

Bà Miên vừa thở vừa tiếp tục nói :

-- Tôi….tôi chạy...đi tìm….ông Vọng trưởng….làng. Có….có người chết….ở


ngoài...ngoài miếu ấy.

Nghe đến Miếu đột nhiên Sửu giật mình nổi da gà, Sửu hỏi lại :

-- Có người chết ở miếu, bác nói thật chứ…? Mà ai chết…?

Lúc này bà Miên đã bình tĩnh lại được một chút, bà Miên trả lời :

-- Thật, tôi đùa với nhà cậu làm gì…..Chết thật rồi, còn ai thì không biết….Vì….vì…..mà
thôi, tôi phải báo cho trưởng làng ngay. Đứng đây với hai người từ nãy mất thời gian
quá.

Nói xong bà Miên lại chạy thục mạng, nhà ông Vọng cũng cách đó có một đoạn. Sửu
cùng bà Nhâm đứng đó nhìn theo, Sửu thấy bà Miên bám tay vào cổng gọi tên ông
Vọng rất to. Đột nhiên Sửu có linh cảm không lành, mà không chỉ Sửu, cả bà Nhâm
cũng thấy thế. Lý do là bởi vì cả đêm qua Lực không về nhà, bây giờ lại nghe tin ngoài
Miếu có người chết.

Bà Nhâm thì còn mông lung, bán tín, bán nghi chứ Sửu thì thực sự đang rùng mình
lạnh hết sống lưng. Bởi dù say, nhưng tối qua trong lúc nói chuyện với Lực, Sửu nhớ
mang máng hình như khi đó Sửu cũng có nhắc đến cái miếu.

Sửu nói với mẹ vợ :

-- Mẹ….mẹ….hay là giờ mẹ...cứ về nhà trước đi….Con đi xem sao rồi con sang ngay
mẹ nhé.

Bà Nhâm vội vàng gật đầu :

-- Ừ...ừ…..con đi đi rồi có gì sang nhà sau. Mà này Sửu ơi, sao tự nhiên mẹ thấy bất
an lắm. Có khi nào….có khi nào….là….thằng Lực...không hả con…….Chưa biết là thật
hay giả, hay là ai chết nhưng…..sao nước mắt mẹ cứ trực chảy thế này.

Bà Nhâm không nói điêu, chẳng hiểu vì sao đang nói chuyện với Sửu mà bà Nhâm cứ
chảy nước mắt.

Sửu trấn an mẹ :

-- Không….không thể nào đâu mẹ…..Thằng Lực nó đi đâu thôi, chứ nó ra miếu đó làm
gì.

Bà Nhâm cũng mong là như vậy, tuy nhiên con bà bà biết, như khi nãy vợ Sửu có nói,
vợ chồng bà rất cưng chiều con trai, mặc dù nhà nghèo nhưng có gì hai ông bà cũng
dành cho con cả, tính khí Lực thế nào bà Nhâm là người rõ nhất. Năm nay Lực cũng
đã 27-28 tuổi, chưa bao giờ Lực đi qua đêm mà không về nhà.

Sửu chạy vội về phía nhà ông Vọng, lúc này bà Miên cũng đã đi vào bên trong. Chạy
đến cổng thì Sửu nghe thấy bà Miên nói với ông Vọng bằng một giọng đầy hoảng sợ :

-- Trưởng làng, trưởng làng ơi…….Ngoài miếu hoang có người chết…..Chết….rồi….mà
cũng...bị lột sạch da mặt….Mà mà……

Sửu chạy vào trong sân, lúc này cả thầy Lương cũng đi ra, ông Vọng thì đang bàng
hoàng trước tin dữ mà bà Miên đem tới, nhìn thấy thầy Lương, bà Miên vội nói tiếp :

-- Bác vẫn ở đây à….? Bác ơi, cái miếu, cái miếu mà hôm qua tôi kể với bác…..Ở đó lại
có người chết rồi…..Sợ….sợ lắm…..Mà…..mà…..

Cứ đến đoạn “ mà “ thì bà Miên lại lắp không nói tiếp được. Chắc bà ta đã nhìn thấy
thứ gì đó cực kỳ kinh khủng nên mới hoảng hốt đến vậy.

Thầy Lương khẽ nói :


-- Bình tĩnh lại, thở đều, thở đều rồi nói lại chậm rãi sự việc cho tôi nghe.

#Chap69 : Danh Tính Của Người Chết.


“ Phù….Phù….Phù “

Bà Miên đặt tay lên ngực cố gắng điều hòa lại hơi thở, sau khi đã thực sự bình tĩnh,
mà Miên nhìn ông Vọng và thầy Lương nói, lần này không một chút vấp váp :

-- Ngoài miếu có người chết….Mà không phải 1 người, là hai người….Vẫn là 1 nam, 1
nữ. Cả hai đều...đều bị lột da mặt. Đáng….đáng sợ lắm.

Sửu không giữ được bình tĩnh nữa, Sửu kéo tay bà Miên lại hỏi dồn dập :

-- Hai người, có thật không…? Hai người đó là ai…? Bà có biết không..? Hả...Hả…?

Bà Miên lắc đầu lia lịa :

-- Làm sao tôi biết được là ai…..Không nghe thấy tôi nói họ bị lột hết da mặt à…? Trên
mặt toàn máu là máu, mắt mũi trợn lòi ra, lưỡi lè vắt sang một bên. Nhìn qua thôi
cũng đủ thất kinh hồn vía, chính vì không biết là ai nên tôi mới chạy hộc tốc đến đây
để báo với trưởng làng đây này.

Ông Vọng nhìn thầy Lương như chờ đợi ý kiến cũng như lời nói của thầy, lúc này thầy
Lương đang suy nghĩ, lại xảy ra chết người, không chỉ vậy, theo như những gì mà bà
Miên vừa nói thì sự việc này giống y như những gì đã xảy ra cách đây 20 năm trước.
Nhưng muốn chắc chắn thì phải đến tận nơi để xem, bà Miên đã phát hiện ra 2
người chết ở đó, chắc chắn phải đến gần thì bà Miên mới biết họ bị lột da mặt. Từ
miếu hoang bà Miên chạy đến đây vẫn bình an vô sự, hơn nữa, mới hôm qua thầy
Lương và ông Vọng đã đặt chân lên khu đấy ấy cũng đâu có chuyện gì xảy ra. Điều
mà thầy Lương đang nghi ngơ, nguyên nhân xảy đến cho cả 4 người chết có thể là từ
đêm ngày hôm trước. Khu đất ấy cũng chính là nơi đám Tiểu Quỷ do Cao Côn tạo ra
cư ngụ. Thầy Lương biết bọn Tiểu Quỷ chỉ xuất hiện vào lúc 12h đêm trở đi cho tới
khi tiếng gà gáy đầu tiên của ngày mới cất lên. .Phải chăng những người đã chết kia
là do xâm phạm vào lãnh địa của ma quỷ giữa đêm nên phải chịu hậu quả rợn người.

20 năm trước cặp đôi được cho là người Hoa kia đã chết ở đó không rõ nguyên
nhân. Vậy 20 năm sau, lý do gì khu vực ấy lại tiếp tục có thêm 2 người chết, vẫn là 1
nam, 1 nữ. Nhiều năm trước người ta còn ra đó vì cảnh đẹp, nhưng như trưởng làng
nói, đã chục năm nay nơi đó không có ai dám bén mảng qua lại nữa. Ngay cả như bà
Miên, nếu con đường bà hay đi không bị sụt lở thì cũng chẳng dại gì mà bà Miên đi
con đường vòng ngang qua cái miếu ấy. Chuyện bất thường ở miếu như hoa mọc
tươi tốt chỉ có vài con người ở đây là biết. Nếu nói tò mò thì phải là bốn con người
đang đứng đây tò mò ra đó tìm hiểu mới đúng. Vậy hai người chết ngoài miếu hoang
kia rốt cuộc là ai…?
Thầy Lương nói :

-- Mọi người bình tĩnh lại đã, trước mắt cần phải ra khu đất ấy xem xét ra sao…? Xác
định xem ai là người chết, người chết có phải người trong làng hay không..? Và lý do,
tại sao họ lại ra ngoài miếu hoang để làm gì…? Thời gian vừa qua trong làng đã xảy ra
nhiều chuyện khiến người dân hoang mang, lo sợ. Trước khi xác định được sự thật,
đừng làm kinh động đến bà con.

Nhìn bà Miên, thầy Lương hỏi :

-- Thế lúc chạy đến đây, không biết bà chủ quán đã nói tin này cho ai nghe hay
chưa…?

Bà Miên chỉ tay vào Sửu rồi đáp :

-- Dạ dạ…..Lúc chạy đến gần nhà trưởng làng, tôi có gặp bà Nhâm với cậu Sửu đây,
họ kéo giật tôi lại hỏi han nên tôi có lỡ mồm nói ngoài miếu có người chết….Còn
ngoài ra trên đường tôi chỉ cắm đầu, cắm cổ chạy, không nói gì với ai cả…..Hơn nữa
đường làng hôm nay cũng vắng, có thấy ai qua lại đâu.

Thầy Lương nói :

-- Vậy giờ tôi sẽ đi cùng bác trưởng làng ra ngoài miếu.

Sửu vội thưa :

-- Thầy, cho tôi đi với…..Tôi….tôi cũng….muốn xem xem….người chết ngoài đó là ai…?

Thấy sắc mặt của Sửu có gì đó không được ổn, nhưng cũng không muốn chần chừ
mãi ở đây nên thầy Lương cũng đồng ý luôn. Dẫu sao trước giờ nhiều công việc cũng
nhờ Sửu mới xong xuôi, có Sửu đi cùng có gì cũng dễ bề liệu sự.

Cả 4 người bước ra khỏi nhà ông Vọng, trên đường đi ai cũng có một nỗi lo riêng
biệt. Bà Miên thì vẫn còn hoang mang, không biết hai người chết mà bà nhìn thấy là
ai, ông Vọng thì bàng hoàng bởi chỉ mới qua được vài ngày sau khi chôn cất 2 mẹ con
Xoan thì nay trong làng lại tiếp tục có tin người chết, không chỉ 1 mà tận 2 người.
Thầy Lương thì bộn bề bao ngổn ngang, vấn đề cũ chưa có cách giải quyết đã xảy ra
chuyện mới, không chỉ vậy nếu có người chết thật thì điều này là vô cùng nguy hiểm.
Nhưng người thực sự sợ hãi mặc dù chưa ra đến miếu chính là Sửu, mặc dù bà Miên
chưa đặc tả được gì về ngoại hình của cả hai người chết kia, nhưng cuộc nói chuyện
tối ngày hôm qua của Sửu với Lực, cộng thêm việc cả đêm Lực không về nhà, tất cả
những điều này khiến Sửu sợ, Sửu sợ rằng, một trong hai người chết ngoài miếu kia
chính là em trai vợ của Sửu, là Lực.

Tất cả dừng lại trước khu đất có ngôi miếu hoang, bà Miên run run ngón tay chỉ về
trước mặt :
-- Đi...đi vào thêm...một...một chút nữa...là...là thấy…..Sáng tôi đi ngang...qua
đây….họ...nằm….kia...kìa.

Bước thêm một đoạn, bà Miên không hề nói sai, nằm ngay trên mặt hoa vàng là hai
cái xác người. Chỉ cần đi qua đường cũng thấy, bởi hàng chục năm nay đất đai ở đây
khô cằn, cỏ mọc còn không nổi nên xung quanh trơ trọi, loài hoa dại màu vàng thân
thảo kia chỉ vừa mới mọc lên được 2 ngày hôm nay, trên thảm hoa màu vàng ấy,
chính xác là có hai thi thể đang nằm bất động.

Bà Miên không dám đi vào tận nơi nữa, bà đứng ngoài nhìn thầy Lương, nhìn ông
Vọng và Sửu đang bước sang bên ngôi miếu. Vẫn như hôm qua, ban ngày tới đây,
thầy Lương không hề cảm nhận được sự nguy hiểm, duy chỉ có mùi tử khí đã nồng
nặc hơn, bởi trên khu đất này đã có thêm 2 người chết.

Ông Vọng đứng chôn chân một chỗ ngay khi nhìn thấy cận mặt hai cái xác, giờ thì
ông đã hiểu tại sao bà Miên lại chạy bán sống, bán chết, tại sao bà Miên lại sợ đến
mức nói không thành lời như vậy. Đó là vì, bản thân ông lúc này cũng gần như cấm
khẩu, trước mắt ông, hai cái xác nằm ngửa cạnh nhau, cơ thể nguyên vẹn, quần áo
đầy đủ, duy chỉ có khuôn mặt là kinh dị nhất. Từ cổ trở lên, da của họ bị lột sạch,
máu trên mặt họ đã khô, nhưng khi bộ da bị lột ra, ông Vọng có thể nhìn rõ từng thớ
thịt đỏ au, trên từng góc cạnh của gương mặt, bốn con mắt trắng ởn lồi sâu ra ngoài
hốc mắt vẫn đang trợn trừng nhìn thẳng lên trời cùng hàm răng đang nhe ra với cái
lưỡi lè vắt sang một bên.

“ Ụa….Ụa….”

Ông Vọng không chịu nổi nữa, ông nôn thốc nôn tháo ngay tại vị trí. Với thầy Lương,
bao năm qua làm công việc bốc mộ, còn chứng kiến những cảnh tượng ghê rợn hơn
như thế này nhiều nên thầy Lương khá bình thản, nói vậy không có nghĩa là thầy
Lương bình thản trước cái chết của hai người đang nằm dưới đất. Câu chuyện xảy ra
ngay tại ngôi miếu này đã bắt đầu đi quá sự tưởng tượng của con người. Nếu như 20
năm trước, dân làng cho rằng cặp nam nữ trung niên người Hoa kia bị giết, kẻ sát
nhân sau khi giết họ đã lột da mặt rồi bỏ trốn thì 20 năm sau, lại có hai người chết,
vẫn là 1 nam, 1 nữ, vẫn là hai bộ da mặt bị lột sạch. Chỉ có điều, với thầy Lương,
không phải tên sát nhân man rợ nào làm ra chuyện này cả. Chỉ có ma quỷ, hay nói
chính xác, hai người này đã bị đám Tiểu Quỷ giết chết, và 20 năm trước, tại khu đất
này, chính chúng cũng đã làm điều tương tự với cặp đôi người Hoa kia.

Đột nhiên, trong lúc ông Vọng đang nôn mửa thì Sửu quỵ hai chân xuống đất, Sửu
ôm đầu hét lớn, tiếng hét của Sửu thảm thiết, kèm theo đó là những giọt nước mắt
rơi không ngừng :

-- KHÔNG….KHÔNG THỂ NÀO…..LỰC ƠI…..LỰC.

Thầy Lương, ông Vọng đều ngỡ ngàng khi không bỗng nhiên Sửu gọi tên Lực ở đây.
Cả bà Miên đứng cách đó một khoảng cũng phải giật mình. Sửu lồm cồm bò tới bên
thi thể người nam, Sửu khóc nấc lên :
-- Hức…..Lỗi tại anh…...Lực ơi….Sao em lại….chết tức tưởi….thế này…..Anh xin lỗi….

Cả ông Vọng lẫn thầy Lương chưa thực sự hiểu chuyện gì thì quanh đó vang lên tiếng
người bàn tán :

-- Kìa….kìa….là chỗ kia…

-- Ừ, thấy bảo ngoài miếu có người chết…

-- Hình như có ai ở đó rồi thì phải.

Là tiếng người dân đang xôn xao, câu chuyện có người chết bên ngoài miếu hoang
bằng một cách nào đó đã đồn đến tai nhiều người, và bây giờ, với bản tính hiếu kỳ,
tò mò, dân làng đang kéo nhau đến miếu để xem xét thực hư ra sao.

Trong số những người đang đi tới, có hai người chạy hối hả nhất, đó chính là bố mẹ
vợ của Sửu. Bà Nhâm, bà Nhâm nhìn thấy bà Miên thì vội hỏi bằng giọng run run :

-- Bà Miên…..Ai….ai chết...ở đây vậy…?

Bà Miên lắc lắc đầu, nhưng rồi bà ta chỉ tay về phía miếu, chỉ tay về phía Sửu đang
quỳ phủ phục bên cạnh hai thi thể người chết khóc lóc, bà Miên nói :

-- Tôi cũng không dám chắc…...Nhưng…..nhưng vừa thấy thằng Sửu...nó….kêu


tên…..thằng Lực…...Mà….mà con trai chị tên Lực….phải không…?

Nghe đến đây bà Nhâm xịu người đi, bà lảo đảo rồi ngã nhoài ra đất, chồng bà Nhâm
vội đỡ lấy vợ, hướng mắt về phía trước ngôi miếu, cả hai ông bà đều nghe rõ giọng
cậu con rể đang gào khóc :

-- Lực ơi…...Lực ơi….Sao em lại chết…...Lực ơi…..Cho anh xin lỗi.

Như vậy, một trong hai người chết đã được xác nhận là người trong làng, căn cứ vào
bộ quần áo tối hôm qua Lực mặc, và lúc này thầy Lương mới biết, tại sao Sửu lại
nhận ra ngay đó chính là Lực, bởi vì, lúc Sửu quỵ xuống đất cùng là lúc Sửu nhặt
được sợi dây chỉ đỏ xuyên qua hạt tràng nằm trong thảm hoa vàng. Đó là một trong
hai sợi dây mà thầy Lương đã đưa cho hai anh em Sửu trong lần đào bới ngoài bãi
Hoang dạo trước.

Vậy thi thể người nữ còn lại là ai….? Có vẻ như thầy Lương và ông Vọng cũng đã biết
được người chết bên cạnh Lực là ai. Nhưng để rõ ràng hơn thì cần phải xác nhận lại
thật kỹ.

[........]

Tại giếng làng, cách đó một đoạn hướng về phía con đường dẫn ra gốc đa. Nhàn
cũng đang hối hả bước vội thì thấy phía trước có bóng dáng ai đó quen quen. Rảo
chân nhanh hơn để đuổi kịp, Nhàn gọi :

-- Này...này…..đợi chị với.

Người đang đi trước nhàn vài bước chính là bé Út, con gái của bà Điều, Út quay lại
mặt thất thần vội chào Nhàn :

-- Em...em chào chị….

Nhàn hỏi :

-- Em đi đâu mà vội thế…? Có phải đang tính ra ngoài miếu không..? Chị nghe loáng
thoáng người ta kháo nhau ngoài đó có người chết. Vừa dắt cháu sang bên ông bà
ngoại xem xem bố nó làm gì mà nhà chẳng thấy ai, nghe hàng xóm bảo vậy nên chị
gửi cháu rồi đi vội ra đó xem sao.

Út gật đầu lia lịa, mắt Út ướt nhòe, Út nói :

-- Vâng…..vâng….em cũng nghe nói vậy…..Hu hu hu….Chị ơi, có khi nào là u em không
hả chị…?

Thực ra lúc này Nhàn đang cố gắng che giấu nỗi lo, bởi khi nghe tin, ngay lập tức
Nhàn đã nghĩ đến trường hợp xấu nhất, bởi theo như bà Nhâm nói thì cả đêm qua
Lực không về. Đó là lý do Nhàn vội gửi con rồi chạy đi ngay. Giờ thấy bé Út nói vậy,
Nhàn ấp úng hỏi lại :

-- Sao...sao em lại….nói thế….?

Bé Út trả lời một câu mà khiến Nhàn gần như chết đứng :

-- Hu hu hu….Chị ơi…..Tối...tối qua anh Lực có đến gọi cửa nhà em…..Không biết anh
ấy và u em đã nói chuyện gì…..Nhưng đến gần lửa đêm thì cả hai bỏ đi đâu đó….U
em đi đến sáng nay vẫn chưa thấy về…...Em….em sợ lắm...

#Chap70 : “ Quỷ “ Giữ Của.


Miếu hoang, lúc này đang là 8h sáng…….Tiếng khóc than thảm thiết vẫn tiếp tục vang
lên, lúc này không chỉ có mình Sửu, bố mẹ vợ của Sửu cũng đang khóc nấc lên từng
hồi. Nhàn và Út sau khi ra tận nơi, chưa kịp nhìn cận mặt hai thi thể, mới chỉ nhìn
thấy bà Nhâm ngất lên, ngất xuống, Nhàn biết, mọi lo lắng, linh tính của cô trên
đường đến đây đã trở thành sự thật. Còn với bé Út, sau khi nhìn thấy xác mẹ, nhìn
thấy khuôn mặt bị lột sạch da của mẹ mình, quá hoảng loạn, quá đau buồn, Út đã
ngất ngay tại chỗ.

Danh tính của 2 thi thể đã được xác nhận, xác người nam là Lực, xác người phụ nữ
còn lại chính là bà Điều, thầy cúng hành nghề trong làng Văn Thái. Đám đông hiếu kỳ,
nhiều kẻ tò mò đi sát lại gần để xem thực hư cái chết của hai người họ ra sao, kẻ yếu
bóng vía thì bỏ chạy trối chết, kẻ nào can đảm hơn cũng không dám ở lại lâu. Chỉ một
lúc sau, chẳng ai dám ở lại đó nữa, ngoại trừ người thân của các nạn nhân. Sau khi
nhận được tin báo, trên xã cũng cử người xuống xem xét, điều tra. Nhưng hiện
trường lúc này ít nhiều đã bị xáo trộn do người dân hiếu kỳ kéo đến xem lúc mới
phát hiện ra xác chết khá đông.

Cuối cùng, xác của Lực và bà Điều được đưa về nhà để lo hậu sự. Trong ngày hôm đó
những tin đồn về ma quỷ bắt nguồn từ ngôi miếu, một lần nữa được truyền tai nhau.
Chỉ khác với hàng chục năm về trước, lần này mức độ khủng khiếp, đáng sợ trong lời
kể của mọi người càng tăng lên gấp bội. Bởi vì, hai cái chết ngay tại miếu mới đây
cũng giống y như hai cái chết của cặp đôi người Hoa 20 năm về trước. Ngay đến cả
những người không bao giờ tin vào ma quỷ cũng phải chột dạ, bởi nếu như lần trước
nhiều thứ vẫn còn mơ hồ, nghi vấn thì lần này, người chết đã là người trong làng, lại
còn là bà thầy cúng mà mọi người trong làng luôn cho rằng có thể sai khiến âm binh,
biết về bùa chú, diệt ma, trừ yêu thì nay bà Điều lại chết phơi xác, không chỉ vậy,
khuôn mặt còn bị lột sạch da. Bởi thế, người ta càng tin rằng khu đất đó tồn tại ma
quỷ là sự thật.

Thêm một lần nữa, dân làng Văn Thái tiếp tục sống trong nỗi hoang mang, hoảng
loạn và sự sợ hãi tột cùng. Chỉ trong khoảng nửa tháng hơn trở lại đây, làng Văn Thái
đã liên tiếp xảy ra những cái chết cực kỳ khó hiểu, đáng khiếp sợ. Mới tuần trước
thôi, cả làng rúng động về việc Xoan bị giết chết, cái chết của Xoan cũng kinh dị
không kém hai người chết ở miếu. Gương mặt Xoan bị đâm nát bét, hung thủ được
cho rằng chính là con bé mù, con gái ruột của Xoan. Nhưng khi mọi chuyện vẫn còn
chưa rõ ràng thì sáng hôm sau nhà Xoan bị cháy, sau khi đám cháy tàn, ngoài thi thể
Xoan, người ta phát hiện ra cả con bé Mị cũng chết trong đám cháy đó, mặc dù trước
ấy không ai tìm thấy nó ở đâu cả.

Chưa hết, dân làng Văn Thái cũng vẫn còn nhớ như in cái chết của Mão, tuy hầu như
tất cả người dân không được chứng kiến cảnh tượng thi thể Mão sau khi được vớt
lên trương phềnh rồi bất ngờ nổ tung, lục phủ, ngũ tạng bên trong đã biến thành
bùn đen nhão nhoét, nhưng việc Mão chết đuối dưới giếng vẫn mang một màu sắc
ma quái, kinh dị…….Rồi trước đó là việc lang Phan treo cổ tự tử trên cành cây nhãn
trước sân nhà, mặc dù theo lời vợ của lang Phan thì tối ngày trước đó, ông ta vẫn ăn
nhậu, thậm chí mây mưa với vợ cho tới tận nửa đêm. Cái chết của lang Phan bắt đầu
cho hàng loạt những cái chết đáng sợ, gieo rắc nỗi bàng hoàng đến cho người dân
làng Văn Thái sau này.

Trong thâm tâm người dân, xuyên suốt chiều dài lịch sử trăm năm của làng, chưa
bao giờ xảy ra nhiều chuyện khủng khiếp liên tiếp đến như vậy. Thực ra đó là suy
nghĩ của những người còn sống, còn trên thực tế, làng Văn Thái từng tạo nên một
cuộc thảm sát, chỉ có điều người chết không phải người dân trong làng, mà là một
dòng họ gốc Hoa, Cao gia. Sự việc này chỉ có ông Vọng, cháu đích tôn của Cao Côn và
thầy Lương được biết. Còn những người chứng kiến, hay tham gia trực tiếp vào vụ
thảm sát đó đã chết hết. Nếu như họ còn sống, liệu rằng họ có nghĩ rằng, đây chính
là sự trả thù của Cao gia.
[.......]

Đầu giờ chiều, tại nhà ông Vọng…….Cả buổi sáng nay, với tư cách là trưởng làng Văn
Thái, ông Vọng phải đi theo hỗ trợ cho cán bộ xã về việc điều tra nguyên nhân cái
chết của Lực và bà Điều. Nhưng xem ra, mọi thứ cũng giống như 20 năm về trước,
ngoài hai cái xác, không phát hiện được gì khả nghi. Những điểm trùng hợp đó là, số
lượng thi thể, đều là 1 nam, 1 nữ, thời điểm các nạn nhân được cho là đã chết vào
khoảng đêm ngày hôm trước. Qua lời xác nhận của bé Út, con gái bà Điều, hôm qua,
vào khoảng 9h tối, Lực có sang nhà bà Điều gọi cửa ầm ỹ. Sau khi vào nhà, không biết
Lực đã nói chuyện gì với bà Điều, chỉ biết tầm hơn 11h thì hai người họ rời đi. Trước
khi đi, bà Điều còn dặn con gái khóa trái cửa nẻo cẩn thận. Khi đi, họ mang theo 1
cuốc, 1 xẻng. Hai dụng cụ này cũng đã được tìm thấy ngay tại hiện trường phát hiện
thi thể nạn nhân. Điều đáng nói, khu đất quanh miếu chỉ có đúng một dấu vết đào
bới, hay nói cách khác, dường như hai người họ chỉ mới xúc lên được 1 xẻng đất đầu
tiên. Đất bám trên xẻng cũng hoàn toàn trùng khớp với điều này.

Qua lời kể của ông Vọng, hai công an viên cũng bắt đầu cảm thấy lạnh người. Sau
một hồi bàn bạc, họ biện lý do cần quay về để tổng hợp lại toàn bộ những chi tiết, lời
khai để tiến hành điều tra tiếp. Nhìn sắc mặt của họ, ông Vọng hiểu, họ cũng như đa
phần những người dân ở đây, đang sợ hãi một thứ gì đó không thể lý giải nổi.

Trong lúc công an làm việc thì thầy Lương không nói gì cả, bởi thầy biết nếu nói điều
gì đó vào lúc này sẽ gây hoang mang. Cái chết của Lực và bà Điều nhuốm màu rùng
rợn, ai cũng nghĩ là do ma quỷ, lời nguyền gây ra….Nhưng lại chẳng ai có thể khẳng
định được điều này. Bản thân ông Vọng đang có rất nhiều nỗi hoài nghi cần được
giải đáp, hai công an viên vừa đi thì một lúc sau Sửu đến.

Khuôn mặt thất thần toát lên vẻ sợ hãi, kèm theo đó là ánh mắt đau buồn, Sửu đến
nhà ông Vọng để thú nhận tội lỗi của mình, điều mà Sửu không dám nói cho vợ cũng
như bố mẹ vợ biết. Chính Sửu đã gián tiếp đưa Lực vào con đường chết.

Nhìn thấy Sửu, ông Vọng buồn rầu nói :

-- Chia buồn với gia đình cậu, nếu cần giúp đỡ gì, tôi sẽ giúp.

Sửu bước vào trong nhà, nhìn thấy thầy Lương ngồi đó, Sửu quỳ xuống rồi bật khóc :

-- Là do tôi…..Chính tôi đã hại chết thằng Lực.

Ông Vọng có phần bất ngờ trước lời nói của Sửu, từ sáng đến giờ mọi chuyện rối ren,
ông cũng chưa nói chuyện với Sửu được câu nào, nay bỗng dưng Sửu nói do mình
hại chết Lực…..Mất vài giây, ông Vọng mới ngỡ ngàng, lúc này thầy Lương cũng mới
mở lời, thầy Lương nói :

-- Vậy ra đúng là do cậu, tôi đoán không sai.


Ông Vọng ấp úng nói tiếp :

-- Vậy…..vậy là…..chính cậu….đã nói gì...đó với Lực….khiến cho Lực…..Trời đất ơi….Tại
sao lại...như vậy.

Sửu mếu máo kể lại tất cả những gì xảy ra vào tối ngày hôm qua :

-- Là tôi, do tôi…..Tối qua sau khi uống rượu ở đây về, tôi say quá, lúc thằng Lực sang
đề bạt chuyện cưới vợ, nó nói bà Điều thách cưới tận 10 lượng vàng. Nó sang xem vợ
chồng tôi có giúp được nó hay không…..Mà bác biết đấy, nhà tôi cũng đâu dư giả gì.
Vợ tôi hết lời khuyên can, nhưng nó không nghe….Thằng Lực nó yêu con Út thật
lòng, nhưng 10 lượng vàng là điều không tưởng. Lúc ấy quá say, chẳng hiểu sao tôi
lại buột ra câu “ giờ muốn có 10 lượng thì chỉ có ra miếu mà đào “. Câu nói của tôi
chỉ mang tính bông đùa thôi, bởi trong bữa rượu khi nghe thầy Lương nói ở đó có
của, tôi cho đó là lời nói đùa…….Thằng Lực hỏi ai bảo vậy, tôi cũng chẳng suy nghĩ gì
nói luôn thầy Lương bảo. Nghe xong nó chào tôi đi về, sáng nay tỉnh rượu tôi cũng
chẳng còn nhớ chính xác tối qua mình đã nói gì với nó. Chỉ khi nghe tin bên ngoài
miếu có người chết tôi mới hoảng sợ, ra đến nơi, nhìn bộ quần áo của xác người
nam, bộ quần áo đó là do tôi mua cho thằng Lực….Hu hu hu, chính tôi….chính tôi đã
là người giết chết nó. Nếu như tôi không nói mấy lời đó thì nó đâu phải chết. Thầy ơi,
bác trưởng làng ơi, tôi phải làm sao đây…..Tôi không dám nhìn mặt vợ, không dám
nhìn mặt bố mẹ vợ, không dám thú nhận tội lỗi của mình. Tôi muốn chết quách đi
cho xong.

Ông Vọng cũng thẫn thờ, nếu nói như vậy thì nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ bữa
rượu tối qua và ông cũng có lỗi.

Thầy Lương khẽ lắc đầu, thầy đi lại gần đỡ Sửu dậy rồi khẽ nói :

-- Chuyện này cũng không phải là lỗi của cậu. Là do tôi, thiên cơ bất khả lộ, nhưng
chính tôi lại nói ra những lời đó dẫn đến cái chết oan uổng cho hai con người. Nếu
trách thì hãy trách tôi, đừng tự dằn vặt bản thân. Thử nghĩ xem, giờ đây cậu là người
cần phải mạnh mẽ nhất, nếu như cậu có những suy nghĩ buông xuôi, vậy những
người ở lại cần cậu chăm sóc sẽ ra sao. Nên nhớ, khi Lực chết đi, đồng nghĩa gánh
nặng của cậu sẽ tăng lên gấp mấy lần. Bình tĩnh nghe tôi nói, người đã chết không
thể sống lại, nhưng qua cái chết của hai người họ, bí ẩn về khu đất ấy, về ngôi miếu
hoang ấy, tôi đã có lời giải đáp. Cả về đám Tiểu Quỷ mà Cao Côn đã tạo ra, lý do
chúng tồn tại đến tận bây giờ là gì…? Tôi đã luận ra được rồi.

Ông Vọng run giọng hỏi :

-- Thật….Thật vậy sao thầy…..? Rốt cuộc thì ở miếu hoang ẩn chứa bí mật gì…?

Trước khi trả lời câu hỏi của ông Vọng, thầy Lương nói với Sửu :

-- Đối với một người không có lòng tham như cậu và bác trưởng làng, khi nghe tôi nói
ngoài đó có của thì cậu và bác trưởng làng đều cho rằng đó là lời nói đùa. Nhưng sự
thật, ở đó không những có của, mà còn là rất rất nhiều của…..Hay nói một cách khác,
nơi đó chôn giấu tài sản của Cao Côn. Chỉ có điều, xâm phạm vào nơi đó sẽ bị Thần
Giữ Của giết chết nếu như không giải được lời nguyền.

Ông Vọng tròn mắt :

-- Thần Giữ Của…..Có thật sao…?

Thầy Lương trả lời :

-- Cậu Sửu và tôi đã nhìn thấy chúng…..Thần Giữ Của ở đây chính là đám Tiểu Quỷ,
những con quỷ nhi được tạo ra để canh giữ, không cho ai xâm phạm vào của cải của
chủ nhân. Mà không, phải gọi chúng là Quỷ Giữ Của thì mới đúng.

Thầy Lương lấy trong tay nải của mình ra giấy bút, nghiên mực, nhìn ông Vọng và
Sửu thầy Lương hỏi :

-- Trong hai người có ai biết mài mực không…? Những gì tôi sắp nói sau đây, là phúc
hay họa còn phụ thuộc vào ý trời. Nhưng đã đến nước này thì chúng ta đành phải
liều một phen vậy……..

#Chap71 : Bản Đồ “ Sao “.


Ông Vọng mài xong mực, Sửu thì dọn dẹp cái bàn uống nước. Xong xuôi, cả hai lại
tiếp tục hồi hộp chờ đợi xem thầy Lương sẽ làm gì tiếp theo. Thầy Lương đặt tay nải
của mình lên bàn, tiếp đó ông lấy ra tấm bản đồ vẽ địa hình làng Văn Thái, đó chính
là tấm bản đồ được cụ Cẩn giao cho con trai là ông Cung đưa cho ông Vọng cùng với
quyển trục ghi chép lại một phần quá khứ thảm khốc của ngôi làng từ lúc Cao gia vẫn
còn tồn tại.

Ông Vọng đã biết về tấm bản đồ, cũng chính nhờ tấm bản đồ này mà thầy Lương
mới có thể xác định được vị trí long mạch trong làng, qua đó giúp dân làng thoát
được tai kiếp, thanh tẩy được chất độc nơi mạch nước ngầm, phá bỏ được trấn yểm
của Cao Côn.

Sửu thì có phần lạ lẫm, bởi Sửu chưa từng được thấy tấm bản đồ này bao giờ, Sửu
ấp úng :

-- Đây là…?

Thầy Lương đáp :

-- Là bản vẽ rất chi tiết địa hình, cùng các vị trí trọng yếu trong làng này. Nhờ tấm
bản đồ này mà chuyện nước giếng bị nhiễm độc mới được giải quyết.

Ông Vọng cũng hỏi :


-- Thầy không lấy ra tôi cũng quên bẵng đi mất.

Thầy Lương mỉm cười :

-- Trưởng làng yên tâm, sau khi dùng xong tôi sẽ trả lại tất cả mọi thứ cho làng.
Không giấu gì hai người, mấy ngày nay tôi đã ngờ ngợ về chuyện đâu đó trong làng
này vẫn còn ẩn giấu một bí mật của Cao Côn. Nhưng vì chưa chắc chắn nên tôi chưa
dám nói ra. Cả đêm hôm qua tôi đã xem xét tấm bản đồ này rất kỹ, cuối cùng tôi
cũng phát hiện một điều, một điều cực kỳ quan trọng. Đang định sáng nay sẽ đi xem
lại tất cả các địa điểm một lần nữa thì làng bất ngờ xảy ra chuyện đáng tiếc. Nói có gì
không phải mong hai người bỏ quá, nhưng cũng chính nhờ vào việc cậu Lực cùng bà
thầy cúng chết ngoài miếu mà tôi càng chắc chắn rằng, khu đất nơi có ngôi miếu
hoang đó có của, và đó là gia tài mà Cao Côn bí mật chôn giấu.

Ông Vọng và Sửu vẫn đang chăm chú lắng nghe, trải tấm bản đồ lên mặt bàn, thầy
Lương đặt lên trên đó 1 tờ giấy trắng, dùng bút lông chấm mực Tàu, thầy Lương bắt
đầu chấm lên tờ giấy trắng đó những nốt mực đầu tiên. Vừa chấm, thầy Lương vừa
nói :

-- Cây đa, giếng nước, sân đình, cây lộc vừng, huyệt mắt rồng, bãi hoang…...và đây
chính là vị trí của miếu hoang.

Sau khi đã chấm lên tờ giấy trắng 7 điểm mực Tàu, Sửu đứng một bên, ông Vọng
đứng một bên nhìn vào tờ giấy với những chấm mực ấy vẫn không hiểu gì cả. Ông
Vọng thắc mắc :

-- Cái này là gì vậy thầy….?

Thầy Lương trả lời :

-- Đây là 7 vị trí được cho là quan trọng nhất trong ngôi làng này, 7 điểm liên kết địa
mạch của làng Văn Thái…...Không phải tự nhiên mà tấm bản đồ này lại lưu ý cặn kẽ,
thậm chí là vẽ chi tiết từng chút về 7 thứ này. Vì không thể làm tổn hại đến tấm bản
đồ, cũng như muốn hai người hình dung rõ hơn nên tôi chấm những điểm chấm
tương tự với những ghi chú quan trọng trong bản đồ ra tờ giấy này cho hai người
nhìn.

Sửu nhăn trán suy nghĩ, nhưng quả thực, nhìn vào tờ giấy với 7 cái chấm đen này,
Sửu chẳng thể luận ra được điều gì cả. Càng nhìn lại càng không hiểu, phía bên này
của thầy Lương, ông Vọng cũng không khá hơn là mấy, ông Vọng còn cúi sát xuống
để nhìn tờ giấy cho kỹ hơn, nhưng kết quả cũng chỉ là cái lắc đầu ngao ngán.

Cả hai người đồng thanh hỏi :

-- Rốt cuộc thì mấy cái chấm này có ý nghĩa gì vậy thầy….?

Lúc này thầy Lương mới tiếp tục dùng bút lông, thầy Lương nối những điểm chấm đó
lại với nhau, đột nhiên ông Vọng như nhận ra được điều gì đó, ông Vọng nói :

-- Nhìn rất quen, nhưng có gì đó không đúng lắm…..Sao lại thế được nhỉ..?

Sửu hỏi ông Vọng :

-- Bác thấy quen ở chỗ nào vậy….? Sao em nhìn đi nhìn lại vẫn không hiểu rốt cuộc
thì đây là cái gì…?

Thầy Lương nói với ông Vọng :

-- Trưởng làng nhìn thấy quen thật sao…?

Ông Vọng không dám chắc chắn, nhưng ông đáp :

-- Tôi cũng không rõ, cứ mang máng nó là hình gì đó nhưng nhìn kỹ lại thì không phải.

Thầy Lương cười :

-- Vậy bác trưởng làng hãy thử đi sang đối diện bên kia bàn rồi nhìn lại một lần nữa
xem sao.

Ông Vọng nghe theo lời thầy Lương, ông đi qua bên kia bàn, đứng đối diện với thầy
Lương và Sửu, mặt Sửu lúc này vẫn ngơ ngác không hiểu điều gì, thầy Lương nói :

-- Đứng đó được rồi, giờ bác trưởng làng nhìn vào tờ giấy này xem bác thấy gì…?

Ông Vọng nuốt nước bọt, ông nhìn xuống tờ giấy trên bàn, trong đầu còn đang nghĩ
không hiểu nếu đứng sang bên phía này nhìn thì liệu có gì khác hay không, bởi cơ
bản trên tờ giấy đó vẫn là 7 điểm chấm được nối liền lại với nhau mà thôi, đâu có
thêm thứ gì khác…...Nhưng không, khác với đứng bên kia, sau khi đi sang phía đối
diện, lúc này nhìn xuống, hình vẽ thực sự đã khác. Điều mà ông Vọng cảm thấy quen
quen khi nãy giờ đây không chỉ là mang máng nữa, ông Vọng thốt lên :

-- Là….là….sao….Bắc Đẩu…...Chính là sao Bắc Đẩu.

Thầy Lương cười lớn :

-- Ha ha ha….Ha ha ha….Đúng vậy, đúng vậy…..Vậy là bác trưởng làng cũng đã nhìn
ra. Chính xác, khi 7 điểm được liên kết lại với nhau, ta sẽ có hình dạng của Bắc Đẩu
Thất Tinh. Chỉ có điều phải nhìn từ hướng ngược lại mới nhận ra điều này. Đó là lý do
vì sao khi đứng bên này, bác thấy nó quen nhưng không đúng, bởi vì trưởng làng đã
nhìn ngược.

Ông Vọng có phần ngỡ ngàng, quả đúng là như vậy, chẳng trách tại sao ông Vọng đã
ngờ ngợ khi 7 điểm trên giấy được nối lại với nhau. Sao Bắc Đẩu, chòm sao luôn nằm
ở phía Bắc. Nhắc đến sao Bắc Đẩu, ông Vọng lại nhớ đến bố ( nuôi ) của mình. Ngày
ông còn bé, những buổi tối trời cao thanh mát, ông hay ngồi vào lòng bố, trong lúc
chờ đợi mẹ nướng vài củ khoai, ông Vọng hay nhìn lên bầu trời rồi chỉ tay về phía
những vì sao đang lấp lánh. Như bao đứa trẻ khác, ông Vọng hỏi bố những câu hỏi
ngô nghê như tại sao chỉ nhìn thấy sao vào ban đêm, tại sao những ngôi sao đó lại
sáng…...Ông nhớ lúc ấy bố ông nói, mỗi ngôi sao trên trời tượng trưng cho 1 người
đã mất, khi con người ta chết đi, linh hồn của họ sẽ biến thành những vì sao lấp lánh,
những vì sao đó sẽ dõi theo những người thân đang sống và phù hộ cho họ. Buổi tối
sao mới sáng là bởi vì những người thân đã khuất của chúng ta sẽ bảo vệ ta trong cả
từng giấc ngủ. Và rồi theo ngón tay của bố, ông Vọng được bố chỉ cho vị trí của sao
Bắc Đẩu, 7 ngôi sao nhỏ nối lại với nhau sẽ ra hình dáng của một cái đấu, và nó luôn
luôn nằm ở hướng Bắc. Ký ức tuổi thơ về sao Bắc Đẩu vẫn theo ông Vọng cho tới tận
bây giờ, nhiều năm qua, mỗi khi nhớ đến bố mẹ, ngoài cây xoài bên ngoài vườn thì
thi thoảng, ông Vọng vẫn nhìn lên bầu trời đêm để tìm sao Bắc Đẩu, như một lời
tưởng tớ đến bậc sinh thành. Ông vẫn tin như ngày còn nhỏ, bố mẹ ông là hai ngôi
sao đang lấp lánh ở đâu đó trong số muôn vạn vì sao trên bầu trời đêm lung linh,
huyền ảo.

Nhìn ra những chấm vẽ trên giấy là sao Bắc Đẩu nhưng ông Vọng vẫn chưa hiểu, cuối
cùng thì sao Bắc Đẩu có ý nghĩa gì…? Và thầy Lương đang muốn nói đến điều gì…?

Không để ông Vọng với Sửu phải chờ đợi thêm, thầy Lương dùng bút lông bắt đầu
viết lên giấy, ngay bên dưới từng điểm chấm mực Tàu, vừa viết thầy Lương vừa nói :

-- Bắc Đẩu Thất Tinh là nhóm sao bao gồm 7 ngôi sao với những cái tên riêng biệt.
Hai người hãy nghe kỹ những gì tôi sắp nói sau đây. Theo như từng vị trí thì từng
điểm sẽ tương ứng với tên của một ngôi sao trong Bắc Đẩu Thất Tinh. Bãi Hoang sẽ
là Phá Quân, Huyệt Mắt Rồng sẽ là Vũ Khúc, Cây Lộc Vừng tương ứng với Liêm Trinh,
Giếng Làng chính là sao Văn Khúc, cứ như vậy tiếp theo chếch xuống dưới, Đình Làng
sẽ là Lộc Tồn, kế đến Miếu Hoang chính là Cự Môn, và cuối cùng Cây Đa đầu làng
tượng trưng cho sao Tham Lang. Từng vị trí, từng địa điểm được đánh dấu trên bản
đồ, khi nối chúng lại với nhau…….Chính là Bắc Đẩu Thất Tinh. Tấm bản đồ này không
chỉ xác định Long Mạch của làng, mà nó còn liên kết toàn bộ các vị trí trọng yếu, liên
kết địa mạch của làng lại thành một tấm bản đồ nhỏ khác. Quả thực càng biết về Cao
Côn, tôi càng cảm thấy con người này là một thầy phong thủy đại tài, khả năng của
ông ta vô cùng đáng sợ, chẳng trách tham vọng của ông ấy chính là độc giữ Long
Mạch cho gia tộc họ Cao. Chỉ tiếc rằng, con người dù có bản lãnh lớn đến đâu, để có
thể nghịch thiên vẫn là điều mộng tưởng. Bắc Đẩu Thất Tinh chính là bản đồ cất giấu
kho báu của Cao Côn. ̉n ngay bên trong tấm bản đồ lớn, không thể ngờ được còn có
một tấm bản đồ nhỏ. Như tôi đã nói với bác trưởng làng trước đây, tấm bản đồ này
chắc chắn phải được một người cực kỳ tinh thông về địa lý, phong thủy vẽ ra. Nếu
xét toàn bộ quá khứ của làng Văn Thái, không ai có thể vẽ được thứ này ngoài Cao
Côn. Tôi đồ rằng, các cụ thời xưa, những người cùng thời với Cao Côn hẳn cũng đã
nhận ra được điều gì đó cho nên họ mới truyền đời giữ tấm bản đồ, coi nó như một
vật báu. Nhưng xem ra chưa có ai giải được bí mật giấu trong bản đồ. Dù đó không
phải là của cải, kho báu thì di vật mà Cao Côn hao tâm tổn trí cất giữ cũng sẽ là kho
tàng vô cùng quan trọng dành cho hậu thế, dành cho dòng máu của Cao gia.
Nói đến đây, thầy Lương khẽ nhìn sang phía ông Vọng, ông Vọng lúc này cũng đang
đổ mồ hôi lạnh. Thầy Lương nói đến đâu, ông Vọng bất giác rùng mình đến đó. Sửu
cũng đã dần hiểu ra được một chút vấn đề.

“ Uỳnh “

Bên ngoài trời đã nổi giông, mây đen kéo đến, một tiếng sấm khan nổ lớn vang động,
rung chuyển cả đất trời. Nhưng tiếng sấm động cũng không khiến cho những con
người đang có mặt trong ngôi nhà này thấy bàng hoàng bằng những phân tích, lý giải
của thầy Lương.

Ông Vọng đưa tay lau mồ hôi đang chảy trên trán, ông Vọng run run nói :

-- Là….kho….báu….thật sao….?

#Chap72 : Quyết Định Của Thầy Lương.


“ Rào….Rào….Rào “

Trời đã bắt đầu đổ mưa, bên trong nhà, ông Vọng cùng Sửu vẫn đang chờ đợi thầy
Lương trả lời câu hỏi. Chỉ tay lên tấm bản đồ, thầy Lương nói :

-- Là của cải hay là một thứ gì đó thì chỉ khi đào được lên chúng ta mới biết chắc
chắn được. Lý do tôi đoán rằng ở đó có chôn của là bởi vì những nguyên nhân sau.
Thứ nhất, Cao Côn là người gốc Hoa, không chỉ là một bậc thầy về phong thủy, Cao
Côn còn là một người cực kỳ giàu có. Chúng ta sau khi đào bới tại Bãi Hoang, phát
hiện được nền móng xây dựng bằng những phiến đá vân mây, thử nghĩ mà xem,
cách đây gần trăm năm trước, muốn xây dựng được một công trình như vậy chỉ có
thể là vua chúa, dòng dõi hoàng tộc. Qua những ghi chép trong quyển trục mà cụ
Cẩn để lại, điều này cũng đã được khẳng định. Cao gia khi còn tồn tại, có thể nói là
một thế gia vương giả. Tuy nhiên trong quyển trục lại không hề nhắc đến gia tài,
cũng như của cải của Cao Côn. Có thể họ không muốn ghi chép về điều này, hoặc
cũng có thể, họ không lấy được gì của Cao gia cả. Tôi nói vậy là bởi vì, chỉ cần sở hữu
dù là phân nửa gia tài của Cao Côn thôi cũng đủ cho làng Văn Thái trở nên giàu có.
Tuy nhiên làng này suốt gần 100 năm qua, đa số người dân vẫn nghèo, vẫn phải lao
động lam lũ. Trên bia công đức của làng cũng không có dòng họ nào nổi bật về độ
giàu có. Khoảng tầm 40 năm trở lại đây mới xuất hiện một vài gia đình tạm gọi là khá
giả mà thôi. Ta sẽ đặt ngược lại 1 câu hỏi, vậy gia tài, vàng bạc, châu báu của Cao Gia
đã biến đi đâu…? Nguyên nhân thứ 2 sẽ giải đáp cho câu hỏi vừa rồi, Cao gia cực kỳ
thịnh vượng, nhưng bên cạnh đó, chúng ta đừng quên, Cao Côn là một bậc thầy về
phong thủy, bùa phép. Từ xa xưa, việc chôn giấu của cải cũng được coi như là một
đặc thù của những gia tộc, thế gia giàu sang. Họ luôn cẩn thận, lo xa, hoặc cũng có
thể họ có quá nhiều của cải không dùng đến, và họ chọn cách chôn dưới đất để giấu
đi. Ngay như trên đất nước này, có rất nhiều nơi vàng bạc được giấu dưới đất, nhiều
người vô tình đi làm ruộng cũng đào được hũ vàng, hũ bạc. Kết cục của những người
đó đa phần đều là vong mạng, thậm chí đào được của nhưng tán gia bại sản, không
thể dùng được. Bởi vì những của cải đó khi chôn luôn đi kèm lời nguyền, thậm chí là
có thần canh giữ. Tôi đồ rằng, người như Cao Côn cũng không phải trường hợp ngoại
lệ, dường như ông ta tiên đoán được một phần vận số của gia tộc trước khi qua đời,
hoặc cũng có thể Cao Côn lo xa nên đem của cải giấu đi phòng cho con cháu đời sau,
hoặc cũng có thể, ông ta không muốn bất cứ ai, kể cả là người mang dòng máu của
mình được phép động chạm đến của cải của ông ấy. Thêm nữa, nguyên nhân cuối
cùng chính là, nếu như Cao Côn muốn trấn yểm địa mạch của làng thì hoa cỏ nơi đó
không thể nào nở rộ quanh năm được.

Ông Vọng hỏi :

-- Nhưng chẳng phải đã chục năm nay đất đai nơi đó khô cằn, cỏ không mọc nổi, hoa
cũng chẳng dám nở hay sao….?

Thầy Lương đáp :

-- Điều đó chỉ xảy ra khi bắt đầu có người chết ở đó mà thôi. Hãy nhớ lại xem, theo
như tấm phổ truyền thì Cao Côn đã chết cách đây 80 năm. Nhưng 20 năm trước khu
đất ấy vẫn là nơi đẹp nhất của làng, hoa nở bốn mùa, cỏ cây xanh tốt. Như vậy có
nghĩa trước khoảng thời gian có người chết tại chỗ ấy, mọi thứ vẫn diễn ra bình
thường, không có gì xảy ra cả.

Sửu hỏi :

-- Nhưng tại sao lại như vậy….thưa thầy…?

Thầy Lương trả lời :

-- Nhiều khả năng, sau khi hai người được cho là người Hoa kia đào bới chỗ đó lên đã
vô tình kinh động đến lời nguyền do Cao Côn để lại, cái chết của hai người bọn họ
như một hệ quả của việc xâm phạm vào vùng đất cấm.

Ông Vọng thấy thầy Lương giải thích như vậy là không hợp lý, bởi việc chôn cất 2
người Hoa ấy, rồi việc xây miếu cũng là chính tay ông Vọng cùng người trong làng
chung tay làm. Ông Vọng nói :

-- Nếu nói như thầy, ai đào bới khu đất ấy cũng chết thì chẳng phải tôi cũng đã chết
rồi sao. Bởi vì tôi cũng góp sức đào huyệt để chôn cả hai người bọn họ.

Sửu gật gù đồng ý với điều mà ông Vọng vừa nói, nhưng thầy Lương chỉ khẽ mỉm
cười rồi lắc đầu đáp :

-- Nhưng khi bác đào huyệt chôn cất hai người họ, trong đầu bác có nghĩ đến việc tìm
thấy của, hay nghĩ mình đang đi đào của cải hay không…?

Ông Vọng trả lời :

-- Không...Tất nhiên là tôi không nghĩ thế rồi…?


Thầy Lương nói tiếp :

-- Đó chính là lý do mà bác và những người đào huyệt đó vẫn còn sống.

Sửu ấp úng :

-- Ý….ý thầy là…..?

Thầy Lương mỉm cười :

-- Đúng vậy, đó là khu đất được Quỷ canh giữ, nhưng bọn quỷ chỉ ám thị lời nguyền,
ra tay giết chết những ai có ý định đào bới của cải ở đó mà thôi. Nói cách khác, nếu
như đến mảnh đất ấy chỉ để ngắm hoa, vãn cảnh, thậm chí là đào huyệt mộ nhưng
không có suy nghĩ đào của, tham lợi thì sẽ không sao. Nhưng nếu người có lòng
tham, đến đó đào bới để tìm vàng, tìm bạc thì sẽ bị quỷ giữ của giết chết.

Ông Vọng nuốt nước bọt, ông Vọng nói :

-- Nhưng sao thầy lại chắc chắn như vậy được…?

Thầy Lương trả lời :

-- Tại vì xưa nay khi yểm chôn giấu của cải, để tránh xảy ra những điều bất thường,
hạn chế sự dòm ngó của người đời. Các thầy phù thủy đa phần đều lựa chọn những
mảnh đất đẹp, tuy họ để thần giữ của ở đó nhưng không phải ai đặt chân vào mảnh
đất chôn của đều phải chết. Bởi nếu để lộ ra khu đất đó có vấn đề, khi con người ta
tò mò thì bí mật sớm muộn cũng sẽ bị phanh phui. Nhiều khả năng lời nguyền sẽ bị
phá giải. Hai người có thể không biết, có người trấn yểm, thì cũng sẽ có những người
giải yểm. Không phải cứ chôn thần giữ của là sẽ giữ được của. Đối với dân thường,
người thường lời nguyền có tác dụng, tuy nhiên nếu gặp phải những thầy phù thủy,
thầy bùa cao tay hơn, họ sẽ phá giải được lời nguyền, như vậy đồng nghĩa với việc,
của cải chôn cất đó sẽ mất vào tay người khác. Trên đời này không thiếu những thầy
địa lý, thầy phong thủy dành tâm huyết cả đời chỉ để đi tìm của cải được chôn dưới
lòng đất. Do vậy, để tránh sự dòm ngó, thần giữ của chỉ giết chết những ai có ý định
xâm phạm mà thôi. Nếu không có ý định chiếm của thì dù có đào sâu đến đâu, cũng
chẳng thể thấy được gì.

Ông Vọng sửng sốt :

-- Thật không thể ngờ, trên đời này lại có nhiều chuyện lạ lùng, đáng sợ đến như vậy.
Nhưng thực sự, nghe thầy nói tôi mới được mở mang tầm hiểu biết.

Thầy Lương lắc đầu :

-- Chưa đâu, bản thân tôi cũng có thể giải được lời nguyền từ thần giữ của. Nhưng
đó là khi ta đang nói đến “ thần “ còn ở ngôi miếu hoang kia, chúng không phải thần
giữ của, chúng là quỷ giữ của……..Một loại bùa chú đáng sợ hơn rất nhiều, thường thì
lời nguyền ám lên nhưng kẻ có lòng tham sẽ không giết được họ ngay, có kẻ còn đào
được của sau đó mới phải chết. Đằng này, chỉ với 1 xẻng đất được xúc lên, Lực và bà
Điều lập tức bị giết chết. Đó là sự kinh khủng của thứ được gọi là “ Quỷ Giữ Của “.
Thần giữ của chỉ được phép xuất hiện trong địa giới khu vực chôn của, còn đám Tiểu
Quỷ kia vẫn có thể rong chơi trong một khoảng thời gian nhất định. Bởi chúng ngay
khi sinh ra đã được nuôi bằng máu nên quỷ tính của chúng vô cùng lớn. Thêm vào đó
là lời nguyền của chủ nhân ếm lên chúng, ngoài việc canh giữ của cải, chúng còn có
thể hại người. Khả năng của tôi so với Cao Côn còn kém xa, cho tới bây giờ, tôi cũng
chỉ nghĩ được một cách đó là phong ấn chúng lại trong một khoảng thời gian nhất
định mà thôi, tôi không thể tiêu diệt được bọn chúng.

Sửu thất thần ngồi xuống ghế, bản thân Sửu cũng đã suýt chút nữa bị bọn Tiểu Quỷ
giết chết. Nghĩ lại thôi mà cảm giác cái chết như đang một lần nữa đến gần, Sửu lạnh
người, rùng mình, ôm đầu Sửu nói trong sợ hãi :

-- Nếu...nếu vậy chẳng phải sau này dân làng sẽ phải sống trong sự sợ hãi hay sao….?
Đến cuối cùng thì làng Văn Thái vẫn không thể thoát khỏi tai kiếp.

Ông Vọng đã nghe thầy Lương nói điều này từ trước, bản thân ông cũng từng muốn
đánh đổi mạng sống của mình để phong ấn lũ Tiểu Quỷ nhưng thầy Lương nói ông
không phù hợp. Giờ trong làng đã có thêm 2 người chết vì chúng, đúng như Sửu nói,
tai kiếp của làng Văn Thái vẫn chưa dừng lại. Thân là cháu nội của Cao Côn, cũng là
một người được dân làng Văn Thái nuôi nấng, vậy mà giờ đây ông Vọng gần như bất
lực trước những cái chết liên tiếp xảy ra.

Nhưng một lần nữa, thầy Lương lại gieo đến cho hai người họ một tia hi vọng, thầy
Lương khẽ nói :

-- Khi bắt đầu nói điều này cho 2 người, tôi đã bảo chúng ta phải liều một phen phải
không….?

Ông Vọng cùng Sửu gật đầu vâng dạ, thầy Lương tiếp :

-- Đó là vì vẫn còn một cách, nhưng có thể, da mặt chúng ta cũng sẽ bị lột sạch như
những người đã chết tại miếu trước đây.

Sửu run giọng nói không thành lời :

-- Chẳng….chẳng lẽ thầy…..muốn….muốn….đến đó...đào bới….?

Ánh mắt thầy Lương khẽ cau lại, thầy Lương nhìn thẳng vào mắt Sửu cũng như ông
Vọng, giọng thầy Lương trầm xuống, thầy nói :

-- Đúng vậy…..Tôi sẽ đào bí mật mà Cao Côn đã chôn ở đó lên…..Nhưng tôi không thể
làm được việc này 1 mình, tôi cần 1 người nữa….Đó là…..
#Chap73 : Huyết Thống Cao Gia - Sự Thật Động Trời.
Sửu vội vàng cướp lời thầy Lương :

-- Tôi…..Thầy hãy để tôi đi cùng thầy đến đó…..Xin thầy….

Nghe thầy Lương nói vậy, ông Vọng cũng đã hiểu người đó là ai, ông Vọng nói với
Sửu :

-- Thầy Lương và tôi đã bàn đến chuyện này rồi, tôi là người sẽ đi cùng thầy Lương
đến khu đất ngoài miếu hoang. Khi nãy thầy Lương cũng đã nói, cậu còn rất nhiều
gánh nặng trên vai. Cậu còn vợ con, rồi cả bố mẹ Lực nữa, Lực chết đi thì cậu phải
thay nó gánh vác trách nhiệm này. Còn tôi, tôi cũng đã sống quá nửa đời người rồi,
tôi lại còn là trưởng làng, được mọi người tin tưởng, giao trọng trách nhiều năm qua,
há chẳng phải đây chính là trách nhiệm mà tôi phải làm hay sao…? Có như vậy mới
xứng đáng với hai từ “ trưởng làng “ mà mọi người gọi tôi chứ. Đừng lo, có thầy
Lương dự liệu, rồi mọi chuyện sẽ ổn thôi.

Thầy Lương nhìn Sửu khẽ gật đầu :

-- Trưởng làng nói đúng đấy, dù rất muốn chọn cậu, nhưng cậu lại không hợp để làm
việc này. Những vấn đề liên quan đến tâm linh, ma quỷ không phải chọn ai cũng
được. Còn phải phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như hợp mệnh hay xung khắc. Bác
trưởng làng sẽ đi cùng tôi. Nói vậy không phải không cần nhờ đến cậu, tôi vẫn sẽ
phải nhờ cậu sau này, nhưng là trong trường hợp chúng tôi bình an vô sự. Yên tâm
đi, mọi sự muốn làm đều phải suy tính cặn kẽ, tạm thời tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu
tấm bản đồ, biết đâu sẽ phát hiện được bí mật gì đó tiếp theo. Còn cậu, cậu cũng có
việc cần phải làm. Hiện nay gia đình cậu đang có tang, người thân trong gia đình rất
cần cậu ở bên cạnh. Những gì cần nói tôi cũng đã nói cho cậu nghe hết rồi, giờ cậu
hãy quay về lo ma chay cho Lực. Với Lực, tôi cũng từng có duyên gặp mặt, nếu mọi
chuyện êm xuôi, tôi hứa sẽ làm lễ cầu siêu cho linh hồn Lực sớm được thanh thản
nơi hoàng tuyền.

Lời của thầy Lương giúp Sửu hiểu ra vấn đề, đúng vậy, nếu bây giờ Sửu còn suy sụp
tinh thần thì chẳng phải tất cả người thân của Sửu càng không có nơi bấu víu, nương
tựa hay sao. Lực ra đi đột ngột đã là một nỗi mất mát lớn đối với gia đình, càng trong
những lúc như thế này, Sửu càng phải mạnh mẽ hơn.

Sửu lau vội đi hai hàng nươc mắt, Sửu cúi đầu khẽ nói :

-- Tôi hiểu rồi, cảm ơn thầy Lương, cảm ơn trưởng làng, cảm ơn hai người đã khuyên
nhủ. Có thể đúng như lời thầy Lương nói, tôi hiện giờ chưa thể giúp được gì nhưng
chỉ cần thầy và trưởng làng gọi, tôi nhất định không ngại khó khăn. Hiện tại gia đình
đang có tang, tôi cũng đã ở đây khá lâu, tôi xin phép được ra về. Chỉ mong thầy và
trưởng làng luôn được bình an vô sự. Cảm tạ ân đức của thầy.

Sửu kính cẩn cúi đầu chào thầy Lương và ông Vọng rồi bước ra khỏi nhà, nhìn theo
bóng Sửu đang chạy dưới cơn mưa, ông Vọng lắc đầu buồn bã :

-- Chắc cậu ta phải chịu dằn vặt lớn lắm, trông thế thôi nhưng Sửu là người sống tình
cảm, xưa nay trong làng cậu ta luôn giúp đỡ mọi người, tâm tính rất tốt…..Vậy mà
không may buột miệng dẫn đến cái chết của người em vợ. Mong cậu ấy sớm vượt
qua được nỗi đau này.

Chỉ còn 2 người, thầy Lương bây giờ mới nói :

-- Bác trưởng làng có tin vào nhân quả, báo ứng không….? Mỗi con người chúng ta
đều mang một số mệnh được ông trời sắp đặt. Về bà Điều, tôi cũng từng nói với bác
trưởng làng rằng xung quanh bà ấy xuất hiện một vầng khói đen báo hiệu điềm
hung. Thậm chí vì bà ta còn có ý định hại tôi và trưởng làng, bao năm qua bà Điều lợi
dụng thần thánh, lừa dối dân làng, thu lợi cá nhân đã tích nghiệp không ít. Nhưng
bên cạnh đó bà ta không biết tu tâm dưỡng tính, càng ngày lại càng tham lam đến
mờ mắt. Trục lợi ngay trên cả nỗi thống khổ của bà con trong làng, lẽ ra trong lúc
làng Văn Thái gặp chuyện, là người có tiếng nói, được tin tưởng, lại khá giả, thay vì
góp phần làm yên lòng bà con thì bà ta lại dựng chuyện bịa đặt về thần thánh, muốn
nhân cơ hội thu lợi bất chính từ việc xây dựng, cúng kiếng, lập đàn. Long mạch cạn
kiệt linh khí, địa mạch theo đó cũng suy yếu dần, tạo cơ hội cho chướng khí, ác linh
xuất hiện. Những người có tâm địa xấu, có lòng tham như bà Điều lại càng lấn sâu
vào bùn hơn. Chỉ tiếc rằng, bà ấy không gánh họa một mình mà còn liên lụy đến cậu
Lực. Nhưng suy cho cùng cũng vì tham lam, vì dục vọng, nếu trong làng này ai cũng
như bác trưởng làng, như cậu Sửu, thì ma quỷ có đáng sợ đến đâu cũng khó lòng có
thể làm hại được, tâm sáng thì sợ chi ma quỷ, tà vong. Thật đáng tiếc thay.

Ông Vọng ngẫm lại những gì mà thầy Lương vừa nói, quả đúng như vậy, chính vì biết
bà Điều có tâm địa xấu, không ưa thầy Lương cũng như ông Vọng bởi những gì mà
bà ta yêu cầu, ông Vọng đều gạt đi bởi làng Văn Thái thời gian qua đã chịu nhiều bi
thương lắm rồi.

Thầy Lương nói ông Vọng đóng cửa nhà lại, xong xuôi, đợi ông Vọng ngồi xuống, thầy
Lương nhìn ông Vọng khẽ gật đầu :

-- Bác trưởng làng ngồi đó đi, thực ra tôi còn điều cực kỳ quan trọng muốn nói riêng
với bác. Do vậy khi nãy tôi mới có ý nói cậu Sửu ra về. Có thể không hoàn toàn chính
xác, nhưng suốt đêm hôm qua, khi ngồi xem tấm bản đồ, tôi đã nghĩ đến một khả
năng, mà kỳ thực ngoài khả năng này ra, không còn gì có thể giải thích hợp lý hơn.

Ông Vọng hồi hộp hỏi :

-- Là chuyện...gì vậy thưa thầy….?

Thầy Lương tiếp :

-- Trước tiên tôi phải nói thật cho bác biết, nếu bác và tôi đến đó đào bới. Cho dù bác
có là cháu nội của Cao Côn đi nữa, rất có thể bác vẫn bị đám Tiểu Quỷ đó giết hại.
Mặc dù tôi đoán, Cao Côn chôn gia tài hoặc thứ gì đó quan trọng bên dưới lòng đất
là để dành cho hậu thế về sau, nhưng rốt cuộc đó vẫn chỉ là suy đoán. Cũng còn khả
năng ‘ kho tàng “ ấy không dành cho ai cả……..Hoặc cũng có thể, “ kho tàng “ ấy có
thời hạn nhất định, kèm theo người lấy được cũng phải là người được chỉ định.

Ông Vọng nghe nhưng có phần hơi rối, ông Vọng nói :

-- Thầy có thể nói rõ hơn một chút được không…?

Thầy Lương gật đầu giải thích :

-- Thứ nhất, nếu của cải được để dành cho hậu thế đời sau thì đến đời Cao Lãm, Cao
Kiệt, hai người con trai của Cao Côn sẽ lấy được, chỉ cần biết cách giải lời nguyền.
Thứ hai, Cao Côn là người độc đoán, ông ta dù chết đi cũng không muốn để lại gia tài
cho ai nên cho dù có là con cháu của Cao Côn cũng không thể nào xâm phạm.
Trường hợp tiếp theo, Cao Côn chôn của cải, nhưng đi kèm với đó là một giao kèo
gắn liền với lời nguyền, thường cách này cũng được các thầy bùa sử dụng. Có nghĩa
là của chôn dưới đất muốn đào lên phải đợi đủ thời hạn, nếu Cao Côn giao ước 100
năm sau mới được đào thì chưa đủ 100 năm, có đào cũng không thấy. Và cuối cùng,
người được chỉ định, người được chỉ định chính là người duy nhất có thể đào được
của. Ví dụ Cao Côn muốn để lại của cải cho cha của trưởng làng là Cao Lãm, thì chỉ có
Cao Lãm mới có thể phá giải lời nguyền, mới có thể chạm vào thứ mà Cao Côn chôn
dưới đất.

Nói đến đây thầy Lương chợt dừng lại, thầy nhìn thẳng vào mắt ông Vọng rồi thốt ra
một lời có thể nói như khiến ông Vọng phải bàng hoàng :

-- Hai người Hoa bị lột da mặt rồi chết tại khu đất ấy 20 năm trước rất có thể chính là
người thân của bác trưởng làng, hay nói cách khác, chính là dòng dõi của Cao gia.

“ Ầm...Ầm “

Sấm bên ngoài nổ rền trời, cảm tưởng như tiếng sấm làm cho ngôi nhà bị chao đảo.
Ông Vọng choáng váng đến mức mồ hôi lạnh túa ra như tắm. Ông tròn mắt, tay chân
run rẩy, miệng lắp bắp, ông Vọng nói :

-- Chuyện...này….chuyện...này là….thật sao…..Nhưng….nhưng chẳng phải toàn bộ


Cao gia đã bị giết sạch rồi hay sao….? Nói...nói như vậy…..hai người họ...là ai….?

Thầy Lương đáp :

-- Đúng, trong ghi chép của các cụ thời xưa thì Cao gia đã bị giết sạch, nhưng chẳng
phải giọt máu của Cao gia vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay hay sao…? Bác trưởng
làng còn sống cũng có nghĩa, Cao gia có thể cũng có người khác sống sót. Bởi lẽ biết
được vị trí của “ Cự Môn “, biết ở đó có chôn giấu của cải, thực tình ngoài dòng dõi
Cao gia ra tôi không nghĩ được ai có thể biết được chuẩn xác vị trí đó đến như vậy.
Ông Vọng ấp úng :

-- Liệu…..liệu...đó có phải….là...là cha….tôi…...không…?

Thầy Lương khẽ lắc đầu :

-- Quả thực nếu nghĩ thì chỉ có thể nghĩ đến hai người con trai của Cao Côn là Cao
Lãm, cha của bác trưởng làng và người còn lại chính là Cao Kiệt. Tuy nhiên, cả đêm
qua khi nghiên cứu kỹ tấm phổ truyền, căn cứ vào độ tuổi mà dân làng xác nhận về
hai người Hoa đã chết kia, tôi cho rằng nhiều khả năng người còn sống ngoài bác
trưởng làng trong vụ thảm sát ấy chính là Cao Kiệt, gọi theo cách gọi của người Việt
Nam thì đó là chú của bác trưởng làng. Hơn nữa, trong bức di thư, Lâm Thư phu
nhân có nói, cha trưởng làng đã dùng tính mạng để Lâm Thư phu nhân bế trưởng
làng chạy thoát, di vật cuối cùng mà ông ta để lại chính là sợi dây chuyền mặt đá
hồng ngọc. Chắc chắn Cao Lãm biết bí mật về sợi dây chuyền, do vậy không quản
mạng sống, ông ta dặn vợ giữ sợi dây chuyền cho cẩn thận, cũng ngụ ý truyền lại cho
con trai của mình, chính là bác đó, bác trưởng làng. Vậy cho nên, nếu là Cao Lãm,
ông ấy sẽ không phạm vào lời nguyền để rồi bị chết tức tưởi như vậy đâu. Tôi không
biết lối sống của Cao gia ra sao, nhưng từ đời Cao Côn cho đến đời hai người con
trai, tất cả đàn ông mang họ Cao, chỉ lấy 1 vợ. Có thể không hoàn toàn đúng, tuy
nhiên tổng hợp lại thì không thể nào là Cao Lãm, cha của bác trưởng làng được. Do
vậy, người còn lại khả năng cao chính là Cao Kiệt và người phụ nữ chết cùng ông ta
cũng chính là vợ của ông ấy. Tóm lại, trong vụ thảm sát ấy, bằng một cách nào đó mà
Cao Kiệt cùng phu nhân của mình đã thoát chết. Bởi là con của Cao Côn nên ít nhiều
Cao Kiệt cũng sẽ manh nha tìm hiểu về của cải, gia tài của người cha quyền lực.
Nhưng Cao Côn lại chỉ giao bí mật cho người con cả, là Cao Lãm, đây cũng là điều
khiến tôi thắc mắc. Nhưng người như Cao Côn làm như vậy ắt hẳn phải có lý do. Sau
khi rời khỏi làng tránh họa sát thân, vợ chồng Cao Kiệt có lẽ đã phải sống rất cực khổ
và vất vả. Và rồi Cao Kiệt do biết đến vị trí của “ Cự Môn “ nên đã quay lại đây đào
bới. Chỉ tiếc rằng, việc đào của không đơn giản như vậy. Vô hình chung vợ chồng Cao
Kiệt đã bị chính lời nguyền, bị chính đám Tiểu Quỷ mà cha mình phong ấn giữ của
giết chết. Đó là lý do vì sao khi nãy tôi mới nói, chưa chắc mang trong mình huyết
thống Cao gia mà đã an toàn. Chỉ cần giải sai một vấn đề, chúng ta sẽ chết.

Ông Vọng nuốt nước bọt, từ bàng hoàng về khả năng người của Cao gia vẫn còn sống
thì giờ đây ông Vọng chuyển sang thán phục, ông ngỡ ngàng về khả năng suy luận
của thầy Lương. Mọi chi tiết, mọi điều mà thầy Lương vừa nói đều cực kỳ hợp lý. Còn
chưa biết phải nói gì thì thầy Lương tiếp :

-- Vậy cho nên, để giải được lời nguyền của Cao Côn, chúng ta phải biết được một bí
mật trước đã.

Ông Vọng khẽ hỏi :

-- Là bí mật gì thưa thầy….?

Thầy Lương đáp :


-- Chính là sợi dây chuyền mà trưởng làng đang giữ. Tôi chắc chắn rằng sợi dây
chuyền phải mang một ý nghĩa nhất định, có khi nó còn đóng một vai trò cực kỳ quan
trọng như chiếc chìa khóa để mở ra kho tàng Cao Côn chôn cất…..Nhưng khả năng
của tôi không thể sánh với ông ấy, nên đến giờ vẫn đành phải chịu…...

#Chap74 : Bí Ẩn Hiển Hiện Trước Mắt.


Trời mưa đến chập tối thì tạnh, không khí thoáng đãng, dễ chịu, cơn mưa rào bất
chợt đến nhanh mà đi cũng vội. Mới lúc trước sấm chớp còn nổ động trời, vậy mà
nay tạnh mưa, cảnh vật tĩnh lặng, ếch nhái cũng chẳng buồn kêu. Thầy Lương và ông
Vọng cũng vừa dùng bữa xong. Có lẽ bao nhiêu giông gió đã bị trận mưa vừa rồi đem
hết đi nên không gian hơi ngột ngạt. Bắc hai chiếc ghế ra bên ngoài hiên, ông Vọng
khẽ đưa cho thầy Lương cái quạt nan rồi nói :

-- Mới mưa xong mà oi quá thầy nhỉ, thầy cầm tạm cái quạt, quạt cho mát. Tôi vào kê
thêm cái bàn nữa rồi đem ấm trà ra đây ta cùng uống.

Thầy Lương gật đầu đồng ý, kê bàn, bưng trà ra hiên, ông Vọng còn đặt thêm một bộ
xe điếu cùng cái hộp nhỏ đựng thuốc lào xuống bàn rồi nhìn thầy Lương hỏi :

-- Không biết thầy có rít được món này không….?

Thầy Lương mỉm cười :

-- Bác trưởng làng coi thường tôi rồi, tuy tôi cũng là người Hoa, nhưng tính tới nay đã
hơn phân nửa cuộc đời, tôi sống tại Việt Nam. In dấu chân lên không biết bao con
đường từ miền xuôi lên miền ngược. Món này tôi thích…..Ha ha ha….Ha ha ha. Bác
trưởng làng cứ dùng trước đi.

Nghe thầy Lương nói, ông Vọng cũng cười phá lên, khẽ vê vê một bi thuốc lào, cắm
ống điếu, châm đóm, ông Vọng kéo một hơi khá là dài, hút xong, ông khẽ ngửa mặt
lên trời rồi nhả khói. Sau cơn mưa, trời quang, lúc này đang là 7h tối, trên bầu trời
lấp lánh muôn vàn vì sao. Ngắm bầu trời sao lúc này, khóe mắt ông Vọng khẽ cay cay
nhớ lại quãng thời gian ông còn nhỏ, lúc ấy còn cha, còn mẹ, thật hạnh phúc và ấm
áp biết bao.

Tiếng xe điếu khiến ông Vọng quay sang bên thầy Lương nhìn, thầy Lương cũng vừa
làm một mồi thuốc lào, thầy đang nhả khói, nhấp ngụm nước chè, thở nhẹ vài hơi,
thầy Lương tấm tắc :

-- Thuốc lào ngon, mà bình thường bác hút bằng điếu cày, sao hôm nay lại có cái xe
điếu cầu kỳ thế….?

Ông Vọng mỉm cười rồi đáp :

-- Chẳng giấu gì thầy, xe điếu này là của bố tôi. Mấy hôm trước trong lúc tìm cái bình,
tôi tìm thấy nó, nhìn xe điếu lại nhớ ngày xưa, cứ ăn cơm tối xong, ông lại kê ghế ra
hiên ngồi như thế này rồi hút thuốc lào. Ngày ấy tôi còn nhỏ, vậy mà giờ đây đầu
cũng đã bạc trắng cả rồi. Thời gian trôi qua nhanh thật, không biết như ông cụ nói thì
giờ ông cụ đang ở đâu đó trong vô vàn những vì sao kia để nhìn tôi, ông có cười tôi
không nhỉ…? Ha ha ha.

Thầy Lương hiểu, chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, ông Vọng đã phải tiếp nhận
quá nhiều những sự thật không thể tưởng tượng được. Ngoài việc biết bố mẹ chăm
sóc ông từ nhỏ không phải bố mẹ ruột, ông Vọng còn phải chịu đựng nỗi đau khi Cao
gia bị thảm sát. Kèm theo đó là hàng loạt những tai ương, kiếp nạn giáng xuống đầu
ngôi làng của ông, khiến cho những người dân phải khốn đốn. Ông Vọng là người có
tâm sáng, hết lòng vì mọi người. Thân mang danh trưởng làng, chứng kiến người dân
trong làng cho dù họ chết vì lý do gì đi nữa, lương tâm ông cũng thấy đau xót, cảm
thương vô cùng. Cao gia đã gây ra những tội ác tày trời, cũng chính vì vậy mà người
của Cao gia mới bị dân làng Văn Thái tận diệt. Thân là cháu đích tôn của Cao Côn,
nhưng cũng lại là người may mắn sống sót và được chính người dân làng Văn Thái
nuôi dưỡng. Người đàn ông với mái tóc bạc trắng vì phải đánh đổi mạng sống để cứu
cho ngôi làng thoát khỏi tai ương kia mới chính là người đáng thương nhất.

Thầy Lương đáp :

-- Có chứ, chắc chắn họ sẽ cười mừng rỡ vì họ rất tự hào về bác trưởng làng. Có lúc
tôi nghĩ, khi tôi nói cho bác trưởng làng biết về thân phận thật sự của mình, liệu tôi
đúng hay sai…? Nhưng trên đời này, tất cả mọi chuyện xảy ra đều có nguyên nhân
của nó. Quá khứ là thứ đã qua, hiện tại và tương lai mới là điều quan trọng nhất. Bác
trưởng làng chớ nên tự dằn vặt, tự đau khổ. Cao gia mắc tội lớn, nhưng dân làng Văn
Thái ngày ấy cũng phạm phải tội tày trời. Chính vì vậy mà cả Cao gia cũng như người
dân làng này, thế hệ sau này phải gánh chịu nghiệp báo, hậu quả do chính họ gây ra.
Nếu như không có bác trưởng làng, há chẳng phải hậu quả sẽ càng khôn lường hay
sao…? Giọt máu cuối cùng của Cao gia lại được chính người dân làng Văn Thái nuôi
nấng. Nói cách khác, ân oán, hận thù của ngôi làng này, ngoài bác trưởng làng không
ai có thể hóa giải. Theo tôi, đó chính là ý trời, mà đã là ý trời thì hãy cứ để thuận
theo ông trời sắp đặt. Trách cứ bản thân, dằn vặt quá khứ chỉ khiến bác trưởng làng
thêm bận lòng mà thôi. Đời người, đâu phải ai cũng có được những khoảnh khắc thư
thái bên xe điếu thuốc lào, ngắm bầu trời sao, nhâm nhi chén trà nóng như thế này
chứ. Cảm ơn trưởng làng đã cho tôi khoảng thời gian quý báu này.

Ông Vọng vội xua tay :

-- ́y chết, thầy đừng nói như vậy. Tôi và người dân làng này lẽ ra phải dập đầu cảm
ơn thầy mới đúng. Những gì mà thầy làm cho làng này có trả ơn cả đời cũng không
hết. Còn việc thân thế của tôi, nhờ có thầy tôi mới biết gốc gác của mình, biết về cha
mẹ ruột của mình. Đội ơn thầy lắm lắm…..

Thầy Lương nhấp thêm ngụm trà rồi mỉm cười nói :

-- Do duyên số mà thôi, duyên dẫn tôi đến đây, rồi duyên lại cho tôi gặp bác trưởng
làng. Dẫu sao cả hai chúng ta cũng như đồng niên, bản thân tôi cũng rất cảm phục
tấm lòng độ lượng của trưởng làng. Tôi đi rất nhiều nơi, gặp vô số người, nhưng
những người như bác trưởng làng chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Người sống tốt
ắt có phúc phần, trưởng làng hãy coi như những gì tôi làm là để báo đáp phúc đức
của trưởng làng mà thôi. Đừng khách sáo, hơn nữa, giúp người cũng chính là tôi
đang tự giúp bản thân mình.

Ánh mắt thầy Lương đượm buồn, ông chợt ngước lên bầu trời, trăng đã lên. Gió đã
bắt đầu hiu hiu thổi, nhìn trăng, thầy nói :

-- Trăng sáng quá, vậy là chỉ còn 2 ngày nữa đến rằm trung thu rồi.

Ông Vọng thoáng giật mình, như sực nhớ ra chuyện gì đó, ông Vọng hỏi lại :

-- 2 ngày nữa là trung thu rồi sao thầy…? Chết thật, nhiều chuyện xảy ra quá nên tôi
quên bẵng đi mất.

Thầy Lương hỏi :

-- Chẳng hay trưởng làng quên điều gì..?

Ông Vọng đáp :

-- Thường thì cứ mỗi năm, đến rằm trung thu, dân làng sẽ tổ chức đón trung thu cho
toàn bộ trẻ con trong làng. Chúng tôi sẽ mua bánh kẹo rồi đưa bọn trẻ ra sân đình
rước đèn, ngắm trăng. Năm nào tôi cũng đứng ra tổ chức cho bà con, vậy mà tôi lại
quên có chết không chứ.

Nói xong, gương mặt ông Vọng bỗng xịu xuống, ông thở dài :

-- Nhưng cũng không được, vừa qua làng xảy ra biết bao nhiêu chuyện, ngoài đình,
tượng thờ thần Thành Hoàng đã đổ nát, sân đình sau lần xây bể hút nước giếng độc
cũng hoang tàn, mùa màng mất sạch, chưa kể đến liên tiếp là những cái chết của
người dân trong làng…….Liệu ai còn tâm trạng nào mà đón trung thu cơ chứ. Chắc
năm nay đành phải hoãn lại tất cả mà thôi.

Ông Vọng nói đúng, liên tiếp trong làng xảy ra nhiều việc đáng sợ, giờ đi ra đường ai
cũng nơm nớp lo lắng chứ đừng nói nghĩ gì đến trung thu. Trăng càng lúc càng lên
cao, ánh trăng sáng vằng vặc soi sáng cả khoảng sân gạch trước hiên nhà.

Rót thêm nước trà vào chén cho thầy Lương, ông Vọng buột miệng hỏi :

-- Mà chiều nay thầy nói cần phải tìm hiểu về bí mật gì đó ở sợi dây chuyền. Nhưng
chỉ xem một lúc thầy đã trả lại tôi. Không biết thầy có luận ra đươc thêm điều gì hay
không…?

Thầy Lương khẽ lắc đầu :


-- Vẫn chưa, nhìn kiểu gì cũng không ra. Tuy nhiên tôi có dự cảm, chắc chắn sợi dây
chuyền này phải có liên quan đến bí mật mà đám Tiểu Quỷ kia canh giữ. Có thể nó
như một lá bùa hộ thân giúp cho người đeo có thê đào được của mà không bị ma
quỷ ám lời nguyền…..Nhưng điều này tôi cũng không chắc chắn, nếu không suy tính
kỹ lưỡng, chỉ e làm bừa sẽ phải trả giá bằng mạng sống.

Ông Vọng lấy trong túi ra sợi dây duyền mặt đá hồng ngọc, ngắm nghía sợi dây
chuyền, ông Vọng nói :

-- Đến thầy Lương còn không luận ra được thì xem ra họa lần này không tránh khỏi
rồi.

Thầy Lương đáp :

-- Tài của Cao Côn cao tựa núi, còn tôi chỉ như một ngọn cỏ ven đường mà thôi. Tôi
không thể nào sánh được với ông ta. Chỉ tiếc rằng, ông ấy lại sử dụng khả năng của
mình làm chuyện ác. Mà trưởng làng luôn giữ sợi dây chuyền bên người à…?

Ông Vọng khẽ cười :

-- Dạ đúng thưa thầy, không tìm thấy không sao. Giờ biết đây là di vật của bố mẹ để
lại, tôi không dám để lung tung. Cũng chẳng biết giấu đâu, nên thôi giữ trong người
cho nó cẩn thận.

Vừa nói, ông Vọng vừa giơ sợi dây chuyền lên cao ngang tầm mắt. Trên bầu trời đầy
sao, ánh trăng vừa bị che khuất bởi một đám mây, lúc này mây đã rời đi để lộ vầng
trăng sáng tiếp tục soi xuống khoảng sân, ánh trăng hắt cả vào trong hiên nhà nơi
thầy Lương và ông Vọng vẫn đang đàm đạo.

Đột nhiên ông Vọng ấp úng, tay vẫn cầm sợi dây chuyền, mắt nhìn thẳng vào mặt đá
hồng ngọc, ông Vọng nói :

-- Thầy….thầy Lương ơi…...Tôi…..tôi nhìn thấy….gì thế….này….?

#Chap75 : Chong Đèn Dưới Ánh Trăng.


Thầy Lương ngạc nhiên quay sang nhìn ông Vọng :

-- Hửm, có chuyện gì sao…? Tuy chưa biết ý nghĩa của sợi dây chuyền là gì, nhưng
hiện tại nó là cả một gia tài đó. Bac trưởng làng giữ cẩn thận vào nhé. Để kẻ gian
nhìn thấy sẽ nảy sinh lòng tham.

Bên này, ông Vọng vẫn đang chăm chú nhìn vào mặt đá hồng ngọc, ấp úng nhắc lại
một lần nữa, lần này ông Vọng nói rõ hơn :

-- Không, không phải chuyện đó…..Thầy Lương, tôi nhìn thấy trong mặt đá này có
những chữ đang hiện ra, lạ lắm. Sao…..sao lại thế này…?

Thầy Lương giật mình, đứng vội dậy, đi sang bên phía ông Vọng, thầy Lương hỏi :

-- Có thật không…? Chữ sao…? Chữ hiện ở đâu..? Mà là chữ gì…?

Ông Vọng lắc đầu, đặt sợi dây chuyền xuống bàn, ông Vọng chỉ tay vào mặt đá rồi
đáp :

-- Chữ xuất hiện bên trong mặt đá này, nó phát ra ánh màu vàng, là chữ Trung Quốc
giống như trong quyển trục thì phải. Ơ nhưng giờ lại không thấy nữa.

Thầy Lương nhìn ông Vọng bằng ánh mắt nghi hoặc rồi cầm sợi dây chuyền lên nhìn
kỹ lại một lần nữa, mặc dù trước đó và cả chiều nay, thầy Lương đã xem kỹ mặt đá
hồng ngọc đến từng chi tiết nhỏ. Đâu có một chữ hay một ký tự nào đâu, thầy Lương
cầm sợi dây chuyền rồi đưa ra ngoài sân để nhờ ánh trăng soi mà nhìn rõ hơn.
Nhưng vẫn như trước đây, chẳng có chữ nào giống như lời ông Vọng vừa nói cả.

Khi thầy Lương đang cầm sợi dây chuyền thì ông Vọng một lần nữa lên tiếng :

-- Kìa….chữ bên trong mặt đá lại hiện lên rồi…..Chữ màu vàng, thầy Lương, thầy nhìn
mà xem.

Ngó lên, nhìn xuống, thầy Lương thực sự vẫn không nhìn thấy gì. Trong mặt đá có
chữ…? Sao thầy Lương lại không thể nhìn ra, trước mắt thầy Lương, mặt đá hồng
ngọc tuyệt nhiên không hề có gì thay đổi.

Bất giác thầy Lương nghĩ trong đầu :

“ Chẳng lẽ thuốc lào hút bằng xe điếu lại ghê gớm vậy sao…? “

Lúc này ông Vọng cũng đứng dậy bước ra sân, chắc có lẽ ông Vọng biết thầy Lương
có vẻ không tin những gì mà ông nói. Ánh mắt thầy Lương nhìn ông có chút ngờ vực.

Cầm sợi dây chuyền, đưa lên cao ngang tầm mắt, ông Vọng nói :

-- Thầy phải tin tôi, đây này….Bên trong mặt đá này có những chữ màu vàng hiện lên,
nhưng tôi không đọc được loại chữ này….Cứ 2 chữ 1 cột, có tổng cộng 7 cột, phía
dưới là một hàng chữ viết liền.

Thầy Lương như hiểu ra điều gì đó, cầm sợi dây chuyền đi vào trong hiên, thầy
Lương hỏi :

-- Giờ trưởng làng còn nhìn thấy chữ trong mặt đá nữa không..?

Bên trong hiên nhà ngay cửa ra vào, ông Vọng nheo mắt, ông nhìn kỹ mặt đá thì lạ
thay lúc này những chữ kia đã biến đi đằng nào.
Ông Vọng ấp úng :

-- Sao lại thế này…? Giờ tôi không thấy gì nữa….Rõ ràng mới đây còn thấy mà…?

Thầy Lương không trả lời, đi ra mép hiên, cầm sợi dây chuyền đưa ra nơi có ánh
trăng chiếu vào, thầy Lương hỏi lại :

-- Giờ thì sao…? Bác có nhìn thấy chữ gì không…?

Không mất thời gian suy nghĩ quá lâu, ông Vọng gật đầu lia lịa :

-- Có...có…..Chữ nó lại hiện ra rồi….Lấp lánh vàng óng bên trong mặt đá luôn.

Thầy Lương mừng rỡ hỏi :

-- Những chữ đó vẫn ở vị trí cũ, vẫn sắp xếp theo như trưởng làng nhìn thấy trước đó
chứ..?

Ông Vọng đáp :

-- Đúng rồi thầy, vẫn như vậy…...Nhưng sao tôi lúc nhìn thấy, lúc lại không nhìn thấy
là sao nhỉ…? Hay là do tôi hoa mắt…?

Thầy Lương thu sợi dây chuyền lại rồi nói với ông Vọng :

-- Không, bác không hoa mắt, tôi cũng không hoa mắt…..Mà là do sợi dây chuyền này
ẩn chứa điều bí ẩn. Chẳng trách có tìm đủ mọi cách, có luận đủ các quẻ….tôi cũng
không thể hiểu được ý nghĩa của nó. Cao Côn một lần nữa lại khiến cho tôi phải
nghiêng người kính trọng. Bác trưởng làng, sợi dây chuyền này chỉ dành cho người
mang dòng máu của Cao gia mà thôi. Đó là lý do tại sao bác có thể nhìn thấy chữ ẩn
hiện bên trong mặt đá, còn tôi thì không. Đối với người thường, sở hữu sợi dây
chuyền này, bất quá cũng chỉ là một món đồ đắt tiền. Còn đối với dòng dõi của Cao
Côn, sợi dây chuyền mang một ý nghĩa đặc biệt và lớn lao hơn thế gấp nhiều lần.

Ông Vọng khẽ hỏi :

-- Nhưng….nhưng bản thân tôi lúc nhìn thấy, lúc cũng không nhìn thấy…? Như vậy là
sao thưa thầy... ?

Bước xuống sân, thầy Lương chỉ tay về phía mặt trăng, thầy Lương mỉm cười giải
thích :

-- Đó là bởi vì, chỉ khi nào có ánh trăng chiếu vào, mặt đá hồng ngọc này mới hiện
chữ. Nói nôm na, ta hãy tưởng tượng viên hồng ngọc này là một tờ giấy, còn ánh
sáng của trăng như một cây bút. Khi cả hai kết hợp lại với nhau, chữ mới hiện ra. Đó
chính là lý do tại sao ban ngày, hoặc nơi không có ánh trăng, trưởng làng cũng không
thể nhìn thấy chữ ở bên trong viên hồng ngọc này. Nhưng chữ trong này trưởng làng
nhìn thấy rõ thật chứ…?

Ông Vọng đưa sợi dây chuyền lên phía mặt trăng, ông Vọng đáp :

-- Rất rõ là đằng khác thầy ạ…..Những chữ này cứ như đang hiện ra ngay trước mắt
tôi vậy. Thật là kỳ lạ, sao lại có thể như vậy được chứ….? Đẹp quá, thầy nói đúng, ánh
trăng càng sáng thì chữ trong này lại càng lung linh hơn, càng rõ hơn. Tôi thực sự
không nghĩ trên đời lại có những chuyện lạ lùng đến thế.

Thầy Lương cười rồi nói :

-- Ha ha ha, quả thực rất kỳ lạ, nhưng nghĩ lại, đối với Cao Côn, một người biết sử
dụng thuật “ Giấu Long Mạch “ thì điều này không là gì so với khả năng của ông ta cả.
Chỉ có điều, như trưởng làng nói, chữ trong mặt đá đó là chữ Trung Quốc, nhưng nay
chỉ có một mình trưởng làng là nhìn thấy. Tôi không thấy thì cũng không thể biết
được ý nghĩa của những chữ đó là gì…? Bây giờ phải làm sao đây…?

Ông Vọng nghe xong mặt buồn thiu, đúng như thầy Lương nói. Nhìn được chữ
nhưng lại không đọc được, không hiểu được thì cũng bằng không…? Ông Vọng than
thở :

-- Thật trớ trêu, người đọc được thì lại không nhìn thấy đươc, người không hiểu gì thì
lại thấy rõ. Ông trời quả thực biết cách đùa giỡn con người ta mà.

Suy nghĩ một hồi, thầy Lương nảy ra một ý, thầy Lương nói :

-- Giờ tôi có cách này, hi vọng sẽ thành công. Tuy nhiên để làm được việc này thì
người đóng vai trò quan trọng nhất vẫn phải là trưởng làng. Bởi chỉ cần sai đi một
chút thôi, rất có thể ý nghĩa truyền đạt lại sẽ thay đổi. Để làm được điều này nhất
định trưởng làng phải tỉ mỉ và tập trung cao độ.

Ông Vọng vội đáp :

-- Thầy cứ nói, tôi sẽ cố gắng. Bây giờ tôi phải làm gì…?

Thầy Lương gật đầu, thầy đi vào trong nhà lấy ra giấy trắng, một cây bút chì nhỏ. Kêu
ông Vọng bỏ bộ ấm chén cùng xe điếu trên bàn xuống, thầy Lương ra dấu cho ông
Vọng bê cái bàn ra giữa sân, đặt giấy với bút xuống mặt bàn, thầy Lương nói với ông
Vọng :

-- Giờ như thế này, trưởng làng nhìn vào trong viên đá hồng ngọc, sau đó trưởng
làng cẩn thận, tỉ mỉ viết lại từng chữ, từng nét mà trưởng làng nhìn thấy trong đó vào
tờ giấy này. Tôi sẽ ngồi kế bên, mỗi khi trưởng làng viết xong 1 chữ, tôi sẽ dựa vào
đó mà viết lại những chữ giống nhất, có nghĩa nhất để trưởng làng so lại xem có
giống với chữ trong viên hồng ngọc hay không. Cứ như thế, chúng ta sẽ chép lại
được toàn bộ chữ bên trong viên đá. Sau khi chép xong, tôi sẽ luận xem, rốt cuộc ý
nghĩa bên trong viên hồng ngọc này là gì. Trưởng làng làm được chứ…?

Ông Vọng trả lời :

-- Được thưa thầy…..Tôi sẽ cố gắng, nếu chỉ là “ vẽ “ lại những chữ trong đây, tôi nghĩ
là tôi làm được.

Nói đoạn, ông Vọng toan vẽ luôn, dưới ánh trăng, khi nhìn vào viên đá hồng ngọc,
những chữ Trung Quốc kia hiện lên rõ hơn bao giờ hết. Thấy ông Vọng hơi nóng vội,
thầy Lương nói :

-- Khoan đã, nãy tôi đã nói, việc này cần sự tỉ mỉ, chi tiết…..Chữ Trung Quốc có rất
nhiều nét, cách viết có quy định, quy tắc riêng. Chỉ cần sai nét, thiếu nét, hoặc sai vị
trí các nét thôi nghĩa của chữ đó sẽ thay đổi. Điều này cực kỳ nguy hiểm, bởi chỉ cần
sai một chữ thôi, chúng ta sẽ phải trả giá. Chậm mà chắc, nét nào ra nét đấy, vị trí
từng chữ cũng phải được bảo đảm đúng với cách sắp xếp mà trưởng làng nhìn thấy
bên trong viên hồng ngọc. Đèn điện không chiếu sáng được ra tới sân, để tôi vào
thắp cây đèn dầu để cạnh đây để trưởng làng nhìn cho rõ. Do chữ chỉ hiện ra dưới
ánh trăng nên chúng ta phải tận dụng khoảng thời gian này. Trưởng làng uống ngụm
nước rồi thở đều, nhớ lời tôi dặn, chậm rãi, chắc chắn và chính xác, tỉ mỉ.

Trời đang chuyển dần về đêm, càng lúc không gian lại càng thanh vắng, tĩnh lặng.
Ngồi giữa sân nhà, hai người đàn ông tuổi ngoài ngũ tuần vẫn đang chong đèn dầu
viết lại tỉ mỉ từng con chữ bên trong viên đá hồng ngọc.

Hai chữ đầu tiên đã được ông Vọng “ vẽ “ lại xong…….Ngồi ngay bên cạnh, thầy
Lương cũng đang nhìn lại thật kỹ hai chữ mà ông Vọng vừa viết ra giấy. Khẽ gật đầu,
thầy Lương dùng bút lông viết lại hai chữ kia theo đúng với nguyên bản, cũng như
đúng với quy tắc các nét của Hán tự.

Viết xong, thầy Lương đưa lại cho ông Vọng nhìn rồi hỏi :

-- Giờ trưởng làng nhìn chữ tôi vừa viết và so với chữ trong viên hồng ngọc xem có
giống nhau không…?

Ông Vọng nhìn đi nhìn lại cho thật chắc chắn, ông Vọng mừng rỡ nói vội vàng :

-- Đúng….đúng rồi thầy ơi…..Giống y hệt luôn…..Vậy để tôi viết tiếp nhé…..Mà hai
chữ này là chữ gì vậy thầy…….?

#Chap76 : Văn Tự Trong Viên Hồng Ngọc.


Thầy Lương nhìn vào hai chữ mình vừa viết trên tờ giấy rồi trả lời ông Vọng :

-- Đây là “天枢” đọc là “ Thiên Xu “ là tên gọi theo tiếng Trung của tinh quân Tham
Lang. Một ngôi sao trong Thất Tinh Bắc Đẩu.
Ông Vọng đang tịnh tiếp tục viết thì thầy Lương ngăn lại, ông Vọng thắc mắc :

-- Sao vậy thầy…? Sao không để tôi tiếp tục…?

Thầy Lương suy nghĩ vài giây, nhìn ông Vọng thầy Lương nói :

-- Khoan đã, tôi có ý này…..Trưởng làng khoan hãy viết tiếp, đợi tôi một chút.

Ông Vọng dừng tay đặt bút xuống, thầy Lương hỏi :

-- Có phải trưởng làng nói chữ bên trong viên hồng ngọc có tất cả 7 cột, mỗi cột là
hai chữ như thế này phải không…?

Ông Vọng gật đầu đáp :

-- Dạ đúng rồi thầy, cứ 2 chữ trên dưới xong cách 1 khoảng lại là 2 chữ khác. Cứ như
vậy có tổng cộng 7 cột. Cuối cùng bên dưới là một hàng chữ viết liền nhau.

Thầy Lương lấy bút, lấy giấy, thầy tiếp tục viết tiếp mà không cần ông Vọng vẽ lại
nữa.

天 天 天 天 玉 開 摇.
枢 璇 玑 权 衡 陽 光.

Viết xong, thầy Lương đặt tờ giấy trước mặt ông Vọng rồi khẽ nói :

-- Trưởng làng nhìn xem, có phải những chữ hiện ra trong viên hồng ngọc được sắp
xếp như này, và các chữ trong đó đều giống như tôi vừa viết hay không…?

Ông Vọng tuy không biết chữ Trung Quốc, nhưng nhìn đi nhìn lại để viết ra giấy từ
nãy đến giờ, ít nhiều ông Vọng cũng dần quen thuộc với những chữ đang hiện ra
trong viên hồng ngọc mà chỉ có mình ông nhìn thấy. Nhưng để cho chắc ăn, ông
Vọng cầm viên hồng ngọc đưa lên phía mặt trăng, ông cẩn thận nhìn thật kỹ từng
chữ, từng chữ một…...Nhìn xuống tờ giấy mà thầy Lương vừa viết, ông Vọng há hốc
mồm ngạc nhiên, bởi những gì mà thầy Lương mới viết ra kia hoàn toàn trùng khớp
với những chữ mà ông nhìn thấy bên trong viên hồng ngọc.

Ông Vọng thảng thốt :

-- Không sai một chữ…..Cách viết, cách sắp xếp đúng y như những gì mà tôi nhìn
thấy…Nhưng….nhưng tại sao thầy lại viết được thế này…? Chẳng phải thầy nói thầy
không nhìn thấy chữ bên trong viên hồng ngọc hay sao…?

Thầy Lương giải thích :

-- Đúng là tôi không thể nhìn thấy những gì đang hiện ra bên trong nhưng qua hai
chữ đầu tiên cùng với những mô tả của trưởng làng, tôi mới thử viết ra xem có đúng
hay không…? Thật không ngờ lại chính xác….Ha ha ha...Ha ha ha.

Nhìn ông Vọng vẫn còn đang ngơ ngác chưa hiểu hết ngụ ý của mình, thầy Lương
tiếp :

-- Hai chữ đầu tiên mà trưởng làng vẽ lại là tên Trung Quốc của một trong Thất Tinh
Bắc Đẩu. Trước đó trưởng làng có nói, trong viên hồng ngọc hiện lên 7 cột chữ, mỗi
cột là hai chữ.

Chỉ tay vào tờ giấy trên mặt bàn, thầy Lương mỉm cười :

“ Thiên Thiên Thiên Thiên Ngọc Khai Dao.


Xu Tuyền Cơ Quyền Hành Dương Quang. “

-- Đứng đầu là Thiên Xu, tiếp đến là Thiên Tuyền, Thiên Cơ, Thiên Quyền, Ngọc Hành,
Khai Dương, Dao Quang…...Đây là tên gọi Hán Việt của 7 ngôi sao trong Thất Tinh Bắc
Đẩu. Còn theo cách gọi của mỗi tinh quân thì lần lượt Thiên Xu chính là Tham Lang,
Thiên Tuyền (Cự Môn), Thiên Cơ (Lộc Tồn ), Thiên Quyền (Văn Khúc ), Ngọc Hành
(Liêm Trinh), Khai Dương (Vũ Khúc), Dao Quang (Phá Quân). Khi hai chữ đầu tiên viết
ra là tên của tinh quân Tham Lang, cộng với việc trên tấm bản đồ của Cao gia có
đánh dấu những vị trí liên kết địa mạch làng Văn Thái, hình thành lên Thất Tinh Bắc
Đẩu, tôi nghĩ ngay đến việc, 7 cột chữ mà trưởng làng nhìn thấy bên trong viên hồng
ngọc chính là tên Trung Quốc của 7 ngôi sao trong Thất Tinh Bắc Đẩu.

Ông Vọng tròn mắt thán phục, chỉ với hai chữ đầu tiên mà thầy Lương lai có thể luận
ra được nhiều điều đến như vậy, ông Vọng nói :

-- Thầy quả thực khiến người khác phải kinh ngạc. Chỉ với gợi ý nhỏ như vậy mà thầy
nắm bắt được gần như toàn bộ những gì hiện ra bên trong viên hồng ngọc. Mặc dù
thầy không nhìn thấy trong đó có gì, đáng khâm phục.

Thầy Lương xua tay đáp :

-- Không dám, không dám….Nói như vậy là trưởng làng coi trọng tôi quá rồi. Nếu
không có gợi ý của trưởng làng thì cho dù có đến 10 tôi đi chăng nữa cũng chịu bó
tay. Gợi ý nhỏ nhưng lại vô cùng quan trọng. Vậy là hai chúng ta đã giải được một
nửa bài toán của Cao Côn. Việc tiếp theo mà tôi và trưởng làng phải làm chính là giải
mã dòng chữ cuối cùng phía dưới tên của Thất Tinh Bắc Đẩu.

Ông Vọng gật đầu, nhưng có chút tò mò, ông Vọng hỏi :

-- Thầy cho tôi hỏi, tên của 7 ngôi sao trong viên đá hồng ngọc có ý nghĩa gì…?

Thầy Lương nói :

-- Đừng vội, vẫn còn thứ chúng ta chưa biết. Để sau khi hoàn chỉnh những gì Cao Côn
để lại trong viên đá, khi ấy tôi sẽ nói cho trưởng làng biết. Dục tốc bất đạt, nóng vội
sẽ dẫn đến hỏng chuyện. Mọi thứ chắc chắn phải có nguyên nhân của nó. Tranh thủ
khi ánh trăng vẫn còn sáng chúng ta nên tập trung vào việc ghi chép thì hơn.

Trời đã chuyển dần về đêm, ánh trăng càng lúc lại càng sáng rõ. Ông Vọng tỉ mỉ vẽ lại
từng nét chữ mà ông nhìn thấy bên trong mặt đá hồng ngọc. Chữ nào ông Vọng vẽ
xong, thầy Lương lại viết lại chữ đó để ông Vọng so sánh xem có đúng hay không. Cứ
như vậy, họ tập trung cao độ, trời đêm hơi lạnh, nhưng trên trán ông Vọng đang lấm
tấm mồ hôi. Cũng bởi ông đang cố gắng hết khả năng của mình, ánh đèn dầu leo lắt,
không gian ban đêm tĩnh lặng, thi thoảng mặt trăng lại bị mây đen che khuất khiến
cho công việc bị gián đoạn…...Nhưng cuối cùng thì họ cũng đã làm xong.

2h sáng, ông Vọng buông cây bút xuống, ông ngồi dựa vào ghế, thả lỏng cơ thể, khẽ
nhắm mắt lại thở hắt ra, ông Vọng nói :

-- Cuối cùng thì cũng viết hết….Thực sự giờ tôi mới thấy cầm bút còn vất vả hơn cả
làm ruộng.

Nhìn sang bên thầy Lương, ông Vọng thấy thầy Lương cũng đã viết xong bản hoàn
chỉnh. Thầy Lương nói :

-- Giờ trưởng làng hãy so lại một lần nữa cho thật kỹ, những gì tôi viết ra đây có
giống với chữ bên trong viên hồng ngọc hay không nhé. Nhưng tôi nghĩ, chúng ta đã
đi đúng hướng rồi…..Bởi đây thực sự chính là văn tự Cao Côn để lại cho hậu thế của
mình. Chỉ có điều…..

Thầy Lương dừng lại, ông Vọng sau khi xem xét kỹ lưỡng một lần cuối, ông Vọng nói :

-- Hoàn toàn trùng khớp, những chữ này có nghĩa là gì vậy thầy…?

Thầy Lương trả lời :

-- “高家的血统,北斗七星, 我放在天璇,中秋节午夜, 全部给王 ” - Cao Gia


Huyết Thống - Bắc Đẩu Thất Tinh - Để Ở Thiên Tuyền (Cự Môn) - Trung Thu Nửa Đêm
- Cho Vương Tất Cả.

Để cho ông Vọng hiểu được cặn kẽ hơn, thầy Lương tiếp tục giải thích :

-- Dòng chữ Trung Quốc cuối cùng chính là văn tự Cao Côn truyền lại cho con cháu
mình. Đại nghĩa, chỉ có người mang dòng máu của Cao gia mới có thể nhìn thấy bí ẩn
bên trong viên hồng ngọc. Đúng như tôi nghĩ, Thất Tinh Bắc Đẩu đóng một vai trò
quan trọng. Theo như những gì chúng ta viết ra thì Cao Côn để thứ gì đó ở vị trí của
Thiên Tuyền hay còn gọi là Cự Môn, cũng chính là khu đất có ngôi miếu hoang. Cuối
cùng ông ta viết, vào nửa đêm ngày rằm trung thu, cho Vương tất cả. Tôi tạm hiểu,
Cao Côn muốn để lại thứ gì đó cho “ Vương “. Những gì hiện ra trong viên hồng ngọc
chính là lời chỉ dẫn để tìm thấy thứ này.

“ Vù….ù...ù…”
Trời đang tĩnh lặng, bỗng đâu một cơn gió lạnh thổi qua khiến cây đèn dầu tắt ngúm,
trên bầu trời, mặt trăng cũng đã bị che khuất bởi một đám mây đen.

“ Vù….ù...ù…”

“ Lạch...cạch….lạch….cạch…”

Gió thổi mỗi lúc một lớn hơn khiến cho cánh cửa nhà của ông Vọng va đập vào nhau
tạo nên những âm thanh gai người. Giấy bút trên bàn bị gió thổi bay tung tóe, trong
lúc thầy Lương đang cố nhặt lại những giấy tờ ghi chép thì ông Vọng đứng sững như
trời trồng, mồ hôi lạnh túa ra như tắm, sắc mặt của ông Vọng nhợt nhạt một cách
bất thường.

“ Vù….vù….vù…”

Gió vẫn thổi. thầy Lương kéo tay ông Vọng gọi lớn :

-- Trưởng làng, thu dọn đồ vào trong nhà thôi….Gió lớn quá…..

Nhưng ông Vọng cứ như người mất hồn, chắc có lẽ ông Vọng đã vị trúng gió. Mặt
mũi hoang mang, ông Vọng loạng choạng bước những bước chân nặng nhọc vào
trong nhà.

Đóng cửa lại, đỡ ông Vọng ngồi xuống ghế, thầy Lương khẽ hỏi :

-- Kìa, bác trưởng làng….Bác không sao chứ….? Hình như bác bị cảm lạnh rồi, cơn gió
vừa rồi mang theo phong hàn bất thường. Sức khỏe của trưởng làng gần đây không
được tốt. Đợi tôi một chút, tôi lấy thuốc cho trưởng làng uống.

Nhưng khi thầy Lương đem thuốc quay lại cho ông Vọng uống thì ông Vọng đã ngất
xỉu. Đưa tay vội bắt mạch cho ông Vọng, thầy Lương vừa lắc đầu vừa nói :

-- Không ổn rồi…….Mạch của trường làng đang yếu dần đi.

#Chap77 : “ Vương “
[.....]

“ Ò….ó…..o…..o….”

Ông Vọng từ từ mở mắt, bên trong nhà vẫn sáng ánh đèn dầu, nhìn về phía cửa
chính, qua khe cửa, ông Vọng nhận thấy trời mới chỉ tờ mờ sáng.

Khẽ gượng dậy, toàn thân nhức mỏi, ông Vọng nói :

-- Đau đầu quá…..Không biết mấy giờ rồi.


Ngồi ở ghế nơi bàn uống nước, thầy Lương trả lời :

-- Trưởng làng tỉnh rồi à…? Đừng vội dậy, hãy còn sớm, vẫn chưa tới 6h sáng đâu.
Trưởng làng cứ nằm nghỉ ngơi thêm chút nữa.

Nghe giọng thầy Lương, lúc này ông Vọng mới nhìn về phía bàn uống nước chè, thầy
Lương đang ngồi ở ghế quay lưng lại với hướng giường ông Vọng nằm, dưới ánh đèn
dầu đặt ngay bên cạnh, hình như thầy Lương đang lật mở, xem xét thứ gì đó.

Ông Vọng nói :

-- Tôi đã ngủ thiếp đi phải không thầy….?

Thầy Lương đáp :

-- Không, bác bị trúng phong hàn, cơn gió lạnh đêm qua là gió độc. Tưởng chừng
không có gì xảy ra nhưng thực tế, suýt chút nữa khiến trưởng làng rơi vào tình trạng
nguy hiểm. Cho tôi xin lỗi, tôi đã quên đi rằng tuổi thọ của trưởng làng đã bị rút ngắn
trong lần phá giải trấn yểm của Cao Côn. Đêm hôm bắt trưởng làng ngồi giữa trời
khuya thực sự là điều không nên. Cũng may sau khi uống thuốc, châm cứu, chích
máu độc do phong hàn gây ra, tình trạng sức khỏe của trưởng làng đã ổn định. Chỉ
cần tịnh dưỡng 2 ngày là khỏe lại. Nhưng từ nay về sau, trưởng làng hãy nhớ, bây giờ
trưởng làng không còn ở tuổi 50 nữa, làm gì cũng không nên quá sức.

Vẫn cố gượng bước xuống giường, ông Vọng tiến lại gần chỗ thầy Lương đang ngồi.
Quả thực, thầy Lương đang xem lại tấm phổ truyền đào được tại Bãi Hoang, bên
cạnh đó còn có cả tấm bản đồ và quyển trục ghi chép từ các hương thân, phụ lão đã
qua đời của làng Văn Thái.

Ông Vọng hỏi :

-- Cả đêm hôm qua thầy không ngủ sao…?

Thầy Lương gật đầu :

-- Ngủ sao được chứ…? Tuy đã tìm ra bí mật trong sợi dây chuyền, nhưng vẫn còn đó
những khúc mắc chưa được giải đáp. Hơn nữa, đêm mai chính là đêm rằm trung thu
rồi, nếu không nhanh chóng luận được ý nghĩa trong câu nói của Cao Côn, tôi e sẽ
không còn cơ hội. Bởi vì tôi không thể ở lại đây đến thời điểm trung thu năm sau
được.

Ông Vọng đáp :

-- Nếu chỉ là chỗ ăn chỗ ở thì thầy đừng lo. Thầy cứ ở đây đến khi nào thầy không
muốn ở nữa cũng được.
Thầy Lương mỉm cười :

-- Tấm lòng của bác trưởng làng tôi rất trân trọng và kính phục. Nhưng tôi vẫn còn
công việc riêng của mình. Tôi vẫn còn những nơi cần phải đến, hơn nữa hôm nay tôi
ở đây, nhưng có thể ngày mai tôi rời đi, sau đó tôi sẽ không còn trên cõi đời này nữa.
Thế cho nên tôi không dám hứa 1 năm sau có thể quay lại đây được hay không.
Nhưng trưởng làng đừng lo, tôi vẫn sẽ giữ đúng lời hứa của mình. Nếu thực sự
không còn cách nào để hóa giải bùa yểm mà Cao Côn để lại, tôi sẽ dùng toàn bộ khả
năng của mình, tuy không tiêu diệt được đám Tiểu Quỷ. Nhưng tôi đảm bảo sẽ có
thể phong ấn chúng tại mảnh đất đó trong vòng 50 năm tới. Chuyện của sau này thì
đành chờ đợi người hữu duyên xuất hiện ra tay cứu giúp dân làng vậy. Đằng nào
trưởng làng cũng dậy rồi thì ngồi xuống đây, tôi sẽ nói rõ tất cả những gì mà chúng ta
trong thời gian qua đã tìm hiểu được.

Ông Vọng ngồi xuống ghế bên cạnh, thầy Lương trải tấm bản đồ, mở tấm phổ truyền
của dòng họ Cao ra rồi bắt đầu :

-- Cao Côn, một thầy phong thủy người Trung Quốc đã đến mảnh đất này, tại đây
ông ta phát hiện ra địa mạch nơi đây vô cùng vượng phát, long mạch sinh linh khí,
bao quanh long mạch là những thế đất vô cùng đẹp. Và từ đó Cao Côn muốn độc
chiếm lấy long mạch riêng cho bản thân mình. Có thể nói sự tồn tại của Cao gia cũng
chính là một phần lịch sử của làng Văn Thái. Chỉ có điều, Cao Côn có tài nhưng lại quá
độc ác. Không chỉ muốn độc chiếm long mạch, ông ta còn gây ra những tội ác tày
trời, áp bức người dân. Nhưng cũng vì quá tham lam, ích kỷ, độc đoán….Chính bản
thân Cao Côn đã phải trả giá khi bị chính tà thuật của mình rút ngắn tuổi thọ. Một
mình Cao Côn không thể nghịch thiên, không thể khiến trời đất đảo lộn, càn khôn
rung chuyển. Việc “ Giấu Long Mạch “ đối với Cao Côn mà nói đã thất bại. Cao Côn
chết, Cao gia lúc đó như rắn mất đầu. Người dân làng Văn Thái bị chèn ép, đè nén,
sau quá nhiều nỗi đau mất mát, họ quyết định giết chết toàn bộ người của Cao gia.
Điều này trong quyển trục đã được người xưa ghi lại rõ ràng. May mắn thay, tưởng
chừng như Cao gia đã bị giết sạch thì Lâm Thư phu nhân, là mẹ của trưởng làng đã
liều mạng sống cứu trưởng làng ra khỏi biển máu, nhờ có ơn cứu mạng bố mẹ nuôi
của trưởng làng, như một sự sắp đặt của ông trời, bố mẹ nuôi của trưởng làng đã
gặp lại ân nhân trước khi bà hấp hối. Giây phút cuối đời, Lâm Thư phu nhân đã giao
con trai mình tức Cao Luân cũng là trưởng làng sau này cho họ với tâm nguyện cuối
cùng, mong sao họ cứu lấy trưởng làng, cũng chính là giọt máu cuối cùng của Cao
gia. Cao gia bị diệt vong, mọi thứ về Cao gia bị đốt sạch, phá sạch, những con người
của làng Văn Thái tham gia vào vụ thảm sát ấy đều thống nhất với nhau đi đến một
quyết định. Dù có chết cũng không ai được nhắc đến bất cứ điều gì có liên quan đến
dòng họ Cao nữa. Và sau này họ đã thực hiện đúng với lời thề, sống để bụng, chết
mang theo. Đó cũng là vết nhơ không thể gột rửa của làng Văn Thái. n oán trăm năm
qua tưởng chừng như đã đi vào quên lãng, bởi đời sau của người làng Văn Thái
không ai còn biết gì về một Cao gia từng hưng thịnh như bậc vua chúa tại ngôi làng
này cả. Ngôi làng này nhìn thì yên bình, cảnh vật hữu tình nên thơ…..nhưng ít ai biết,
trong quá khứ, nơi đây máu đã đổ nhuộm đỏ đất ruộng, chướng khi cũng như ân
oán sâu tựa sông, cao tựa núi.
Khẽ dừng lại, thầy Lương chỉ tay vào vị trí của giếng làng rồi nói tiếp :

-- Cao Côn chết, trải qua khoảng mấy chục năm sau, mọi thứ tưởng sẽ êm đềm,
nhưng không….? Những gì mà Cao Côn gây ra lúc ông ta còn sống bây giờ mới bắt
đầu đem lại tai họa cho toàn bộ dân làng Văn Thái. Giống như đó là một sự trả thù
của người chết. Trấn yểm nơi Long Mạch đã giết dần “ Con Rồng “ ngự tại làng Văn
Thái, khiến cho linh khí sau gần 100 năm cạn kiệt, Long Mạch chết dần, thần bảo hộ
cho làng cũng tan biến, nguồn nước ngầm bị nhiễm độc, suýt chút nữa đã biến mảnh
đất này thành một vùng đất chết nếu như không có trưởng làng, người mang dòng
máu của Cao gia ra tay cứu giúp. Đó là vấn đề thứ nhất, tuy Long Mạch đã được giải
phóng khỏi trấn yểm, nhưng cũng như sức sống của một con người, khi đã bị tổn
thương thì cần phải có thời gian phục hồi. Hiện tại linh khí của làng đã cạn, nhưng rất
có thể, 100 năm sau hoặc lâu hơn, khi Long Mạch ổn định lại, vượng khí sẽ tiếp tục
sinh sôi, làng Văn Thái sẽ được hưởng yên bình. Có thể nói, trưởng làng lần này
không chỉ cứu lấy toàn bộ dân làng mà còn là cứu cả những khu vực lân cận. Chính vì
điều này, công đức, tâm sáng của trưởng làng đã thấu động trời xanh, do vậy thiên
kiếp giáng xuống đã không giết chết trưởng làng. Tuy nhiên, sau vấn đề Long Mạch,
chúng ta lại gặp phải kiếp nạn thứ 2, gọi là kiếp nạn cũng chưa đúng lắm, bởi trên
thực tế, đám Tiểu Quỷ ấy chỉ giết những người có ý định xâm phạm vào nơi chúng cư
ngụ. Nhưng qua sự việc cô bé Mị đã bán linh hồn, lập giao kèo với đám Tiểu Quỷ, qua
đó mượn sức mạnh tà ác của chúng để giết người, báo oán…..Tôi e rằng, nếu không
có cách ngăn chúng lại, qua thời gian, quỷ tính của chúng càng lúc càng mạnh và rồi
chúng cũng sẽ trở thành một mối họa cho dân làng về sau. Bởi trong thời điểm này,
Long Mạch bị tổn hại, thần bảo hộ của làng cũng không còn, âm thịnh, dương
suy….Linh khí chưa thể khôi phục cũng đồng nghĩa với việc tà khí dễ dàng xâm lấn.
Đám Tiểu Quỷ kia nếu chúng được hấp thụ tà khí qua mỗi ngày, chúng không chỉ còn
là đám quỷ canh của nữa. Bằng chứng đó là sau khi Long Mạch nơi đây suy yếu, bọn
Tiểu Quỷ đã có thể rời khỏi khu đất chúng bị yểm lời nguyền. Mặc dù thời gian hiện
tại của chúng chỉ từ 12h đêm cho tới khi tiếng gà gáy đầu tiên vang lên. Nhưng không
ai có thể đảm bảo sau này chúng sẽ hoành hành bất kể ngày đêm. Trớ trêu thay,
người “ giấu long mạch “ chính là Cao Côn, và người tạo ra đám “ quỷ giữ của “ ấy
cũng lại chính là Cao Côn. Với việc tạo ra “ quỷ giữ của “ bằng chứng ghi chép trong
quyển trục nói về tội ác của Cao gia lại càng thêm phần chắc chắn. Bởi muốn tạo ra “
quỷ giữ của “, Cao Côn ắt hẳn phải giết rất nhiều phụ nữ và trẻ em trong quá trình
chọn lọc. Đổi lại, ông ta dù đã chết nhưng vẫn để lại cho ngôi làng này 4 con quỷ
đáng sợ.

Ông Vọng chăm chú lắng nghe không sót một chữ, nghe đến đâu, ông toát mồ hôi,
nuốt nước bọt đến đó. Hôm nay, ông đã thấu hiểu toàn bộ sự việc xuyên suốt 100
năm của làng Văn Thái qua những đúc kết sâu sắc, tỉ mỉ, chi tiết của thầy Lương.

Thầy Lương để tờ giấy họa Thất Tinh Bắc Đẩu lên mặt bàn rồi nói tiếp :

-- Qua nhiều sự việc xảy ra trong hiện tại cũng như quá khứ, tôi không nghĩ Cao Côn
yểm đám Tiểu Quỷ ở đó để hãm hại dân làng. Bởi vì, trước khi xảy ra việc hai người
Hoa, một nam, một nữ bị lột da mặt rồi chết tại khu đất ấy, trong làng chưa từng xảy
ra việc tương tự. Ngược lại khu đất ấy trong quá khứ vẫn là nơi cảnh sắc đẹp nhất
làng. Chỉ khi có người chết, phong thủy nơi đó mới bắt đầu thay đổi. Dựa vào việc
địa mạch được liên kết thành hình của Thất Tinh Bắc Đẩu, vị trí của Cự Môn nơi đám
Tiểu Quỷ được trấn yểm, cộng thêm tới nay tổng cộng đã có 4 người chết khi đào bới
tại miếu hoang. Tôi đồ rằng, Cao Côn đã chôn giấu một thứ gì đó rất có thể là của cải,
vàng bạc châu báu, gia tài của Cao gia ngay tại nơi ấy. Và may mắn, suy nghĩ của tôi
đã đúng, nhờ vào sợi dây chuyền di vật của cha mẹ ruột trưởng làng để lại. Chúng ta
đã tìm được văn tự Cao Côn truyền đời cho hậu thế sau này.

“ Cao Gia Huyết Thống - Bắc Đẩu Thất Tinh - Để Ở Cự Môn - Nửa Đêm Trung Thu -
Cho Vương Tất Cả. “

Chỉ tay vào vị trí Cự Môn, cũng chính là nơi mà ngôi miếu hoang đang ngự, thầy
Lương khẽ cau mày lại, ông nói :

-- Ở 4 câu đầu, có thể luận ra được rằng, Cao Côn đã để lại thứ gì đó ngay tại khu đất
này. Và để tránh người đời dòm ngó, tránh bị kẻ gian lấy mất, ông ta đã yểm đám
Tiểu Q ủy chính tại nơi ấy. Chúng ta gọi chúng là “ quỷ giữ của “, chỉ cần ai có lòng tư
lợi, tham lam, mục đích đến Cự Môn đào của…..Đều sẽ bị quỷ nhi canh của giết chết,
lột da mặt như một lời nguyền cho những kẻ xâm phạm. Do đó, mặc dù chúng ta gần
như đã giải được hết bài toán của Cao Côn. Nhưng nếu chúng ta vẫn cố chấp đến đó
đào bới thì chỉ có một kết cục dành cho chúng ta, đó là cái chết.

Ông Vọng ấp úng hỏi :

-- Tại….tại...sao lại vậy…..?

Thầy Lương khẽ thở dài :

-- Bởi “ Tất Cả Cho Vương “, Cao Côn đã nói rõ ràng như vậy. “ Vương “, chỉ có “
Vương “ mới có thể lấy được……..Nhưng xem đi xem lại không biết bao nhiêu lần
tấm phổ truyền, tôi vẫn không tài nào tìm ra “ Vương “ rốt cuộc là ai và có liên quan
gì đến huyết thống Cao gia hay không…? Hoàn toàn không có, thực sự bế tắc.

Ông Vọng chợt tái mặt đi, mồ hôi chảy xuống ướt đẫm khuôn mặt, đây cũng chính là
biểu hiện gần sáng nay ông Vọng bị trúng gió. Lúc đó, khi nghe lời sấm của Cao Côn
ông Vọng chợt lạnh sống lưng, và bây giờ cũng vậy…...Ông Vọng run run nói :

-- Thầy….thầy không tìm được….trong...trong đó đâu….Bởi….bởi vì...nó không ở đó…

Thầy Lương nhìn ông Vọng hoang mang, trong cách nói của ông Vọng thì hình như
ông Vọng biết gì đó về “ Vương “, thầy Lương hỏi :

-- Trưởng làng….? Trưởng làng biết gì về “ Vương “ sao…?

Ông Vọng nuốt nước bọt rồi gật đầu :

-- Vương…...là…..là….tên…..con trai tôi….


#Chap78 : Ý Trời Đã Định.
Nghe ông Vọng nói xong, đến lượt thầy Lương ấp úng, thầy Lương hỏi lại :

-- Trưởng….trưởng làng...nói thật...chứ…?

Ông Vọng gật đầu quả quyết :

-- Tôi sao dám nói dối thầy….Hơn nữa tên con trai tôi, chẳng lẽ tôi lại không nhớ hay
sao. Tôi tên Vọng, gọi cho nó vần nên đặt tên con là Vương. Mà cái tên này là do mẹ
nó đặt, bà ấy bảo Vương trong “ Vương Gia “ rồi Vương còn có nghĩa là “ Vua “, ngụ
ý mong muốn con mình sau này sẽ có cuộc sống sung sướng. Tôi thì không nghĩ
nhiều như vậy, đọc thấy cái tên Vương cũng hay, bố tên Vọng, con tên Vương, nó cứ
vần vần nên đồng ý luôn. Nhưng có khi nào chỉ là sự trùng hợp thôi không hả thầy..?
Cao Côn, ông nội tôi sau khi chết thì Cao gia mới diệt vong, đến tôi ông ấy còn chưa
nhìn thấy mặt thì làm sao có thể biết được con tôi tên gì mà lưu lại văn tự nhắc
nhở…?

Thầy Lương cười lớn, có vẻ như thầy Lương đang rất khoái chí :

-- Ha ha ha…..Về điều này thì tôi cũng có thể giải thích. Không nhầm đâu, Cao Côn
không hề nhầm, đích thị văn tự truyền lại bên trong viên hồng ngọc là dành cho
Vương, nói cách khác, thứ mà Cao Côn chôn cất cho tới tận bây giờ là dành cho con
trai của trưởng làng, cũng chính là chắt nội của Cao Côn. Còn tại sao Cao Côn lại nói
là “ dành cho Vương “ trong khi vào thời điểm đó, đến trưởng làng còn chưa chào
đời chứ đừng nói tới con trai trưởng làng. Nhưng, chuyện này không phải chuyện gì
quá lạ lẫm. Trên thực tế đã có những lời sấm truyền của các bậc thầy phong thủy đại
tài, những lời tiên tri cho tới hàng trăm năm, thậm chí là vài trăm năm sau. Nói vu vơ
thì hơi trừu tượng, để tôi lấy cho trưởng làng một ví dụ về lời sấm tiên đoán, đó
cũng chính là một nhân vật lịch sử của Việt Nam, Trạng Trình - Nguyễn Bình Khiêm.
Người đời gọi những lời tiên tri của ông ấy là Sấm Trạng Trình. Và trên thực tế, trong
suốt khoảng hơn 450 năm, khá nhiều điều xảy ra sau này tương ứng với lời Sấm của
Trạng Trình. Ông ta từng tiên đoán về quốc hiệu của Việt Nam, tức tên gọi bây giờ
của đất nước này vào cái thời mà ông ta sống, quốc hiệu đất nước vẫn là Đại Việt. Có
thể có nhiều người không tin và cho rằng đó chỉ là sự trùng hợp, nhưng trên đời này
luôn luôn xuất hiện những bậc hiền nhân, kỳ tài, mang trong mình thiên phú trời
ban, có thể nắm được vận mệnh không chỉ của bản thân mà còn là của người khác,
thậm chí họ còn nhìn thấu được quá khứ vị lai trong một mức độ nhất định. Những
điều mà họ nói ra không ứng nghiệm ngay nhưng qua hàng trăm năm, khi ngẫm lại
người đời phải cúi đầu cảm phục. Nói thế để trưởng làng hiểu, việc Cao Côn có thể
biết được tên chắt của mình hoàn toàn nằm trong khả năng của ông ta. Đừng quên,
Cao Côn là người dám nghịch thiên, dám chống lại ý trời, có ý định độc giữ Long
Mạch. Với những di sản mà ông ta để lại, chỉ riêng tấm bản đồ này thôi tôi đã chắc
chắn khẳng định rằng, khả năng của Cao Côn về phong thủy, tâm linh cực kỳ bác đại
tinh thông. Nếu chỉ trong khoảng 100 năm thì không ngạc nhiên khả năng ông ta
trước khi chết đã biết trước kết cục của Cao gia, và tất nhiên việc ông ta biết tên chắt
của mình hoàn toàn có thể hiểu được. Trưởng làng nghĩ xem, không tự nhiên mộ của
Cao Côn lại được đặt tận bên Trung Quốc. Có lẽ trước khi chết, ông ta đã tiên đoán
được kết cục của Cao gia, nhưng không thể xoay chuyển vận mệnh, ông ta biết vị trí
huyệt mắt rồng nhưng lại không chôn mình ở đó. Vì, ông ta biết, Cao gia bị diệt vong
thì mộ phần của ông ta cũng sẽ bị đào bới. Mộ phần của Cao Côn còn, cũng có nghĩa,
vận số Cao gia chưa tận. Bằng chứng rõ ràng nhất chính là trưởng làng vẫn còn sống.

Ông Vọng nghe đến đâu rùng mình đến đó, dẫn chứng sắc bén, lập luận chi tiết,
chính xác đến từng vấn đề nhỏ. Nhưng ông Vọng vẫn còn thắc mắc, ông Vọng nói :

-- Nếu nói như thầy thì Cao Côn biết trước kết cục của Cao gia, vậy tại sao ông ấy
không cảnh báo cho mọi người, như vậy sẽ không ai phải chết...và...cha mẹ
tôi...cũng….

Thầy Lương lắc đầu trả lời :

-- Có những thứ biết nhưng không thể tránh khỏi, cứ cho rằng Cao Côn dự được số
phận của Cao gia. Nhưng việc mà Cao Côn đã làm là nghịch đạo, là chống lại thiên ý,
giết người vô số, nghiệp chướng tích tụ dài cả mấy kiếp. Như ngay từ đầu tôi đã nói,
khi Cao Côn “ giấu long mạch “, thành công, họ Cao sau này xưng nghiệp, xưng bá,
sống vương giả phú quý tận đời đời sau. Nhưng thất bại, không chỉ Cao Côn mà cả
con cháu ông ta cũng sẽ phải trả giá. Nói cách khác, kết cục của Cao gia là không thể
tránh khỏi. Cho dù có tránh được dân làng Văn Thái thì những người có liên quan
đến Cao Côn cũng vẫn sẽ phải chết mà thôi. Có thể Cao Côn chấp nhận kết quả này là
bởi vì chết ở nơi đây, máu mủ Cao gia không bị tận diệt. Chuyện này hợp lý, Lâm Thư
phu nhân đã cứu mạng bố nuôi của trưởng làng, qua đó cũng đã tích đức giúp cho
trưởng làng sống sót. Vậy tôi hỏi thử trưởng làng, trốn đi để rồi lãnh chịu nghiệp
báo, gia tộc vẫn phải chết, thậm chí là chết sạch và ở lại đền nghiệp, nhưng dòng dõi
Cao gia vẫn còn…….Trưởng làng sẽ chọn cách nào…..? Đối với Cao Côn, ông ta đã
chấp nhận kết cục của Cao gia, chỉ cần dòng dõi của ông ta được sống. Tôi cho rằng
đây là một sự lựa chọn đúng.

Ông Vọng buồn rầu nói tiếp :

-- Cho dù có là như thế thì tôi cũng không thể nào tha thứ được cho ông ta vì những
điều ông ta đã làm, giết phụ nữ, giết trẻ con chỉ để tạo ra thứ bùa ngải ma quỷ, làm
hại dân lành. Rồi thì giờ ông ta để lại thứ gì mà chỉ dành cho con trai của tôi chứ…?
Cho tới nay, những thứ ông ta làm ra đều khiến sinh linh lầm than, cho tới tận lúc
chết, ông ấy vẫn vô cùng đáng sợ. Có chắc chắn thứ để lại cho thằng Vương không
phải là một thứ gì đó khủng khiếp. Tôi chợt nghĩ, liệu rằng tôi với con trai tôi có phải
là quân cờ trong tay Cao Côn hay không..? Tôi sợ rằng, nếu con trai tôi đào thứ đó
lên, tai họa sẽ ập xuống, mọi chuyện sẽ tồi tệ hơn bao giờ hết.

Lời của ông Vọng không sai, thực chất, hiện tại thầy Lương cũng chỉ dự đoán Cao Côn
chôn giấu của cải. Nhưng không hoàn toàn chắc chắn, phải chi thứ được chôn cất ấy
chỉ dành cho người mang huyết thông Cao gia thì lại khác, khả năng cao chính là của
cải. Nhưng đằng này, thứ mà Cao Côn chôn giấu, đặt cả đám Quỷ Giữ Của ở đó canh
chừng lại chỉ đích danh “ Cho Vương Tất Cả “. Nếu đó không phải của cải mà là một
thứ gì khác, một thứ bùa phép tà thuật thì thực sự là một mối họa. Không phải ngẫu
nhiên Cao Côn để lại cho Vương, con trai ông Vọng….Hẳn ông ta có lý do, giống như
việc Cao Côn chỉ truyền lại sợi dây chuyền gia bảo cho Cao Lãm mà không phải Cao
Kiệt, cho dù cả hai đều là con trai Cao Côn.

Thâm ý của Cao Côn, thầy Lương không tài nào đoán được. Nói thẳng ra, cho tới lúc
này, nếu không nhờ ông Vọng, cháu nội Cao Côn giúp đỡ, thầy Lương không thể nào
hóa giải được những bùa phép, trấn yểm mà Cao Côn để lại. Câu nói của thầy Lương
ví von khả năng của Cao Côn cao tựa núi hoàn toàn là sự thật. Nó còn đáng sợ hơn
bởi Cao Côn đi theo con đường tà đạo, tu luyện những tà thuật đã thất truyền và bị
cấm.

Miễn cưỡng đào thứ bị chôn dưới lòng đất lên sợ rằng lại vô tình mở ra một con
đường dẫn tới địa ngục. Đối với Cao Côn, đừng bao giờ coi thường bất cứ một suy
nghĩ nào của ông ta. Hậu quả để lại cho dân làng Văn Thái về sau chính là bài học
đáng sợ mà Cao Côn muốn nhắn gửi người đời. Dù ông ta đã chết, nhưng ác mộng,
ám ảnh về ông ta sẽ vẫn còn đeo đẳng, dai dẳng tới tận về sau.

Thầy Lương nói :

-- Nhưng cũng chỉ có con trai trưởng làng mới là người nắm giữ chìa khóa để có thể
xử lý đám Tiểu Quỷ kia mà thôi. Cao Côn để lại tất cả cho Vương, có nghĩa là đám
tiểu quỷ đó tồn tại cho tới bây giờ mặc dù Cao Côn đã chết bởi vì chúng đang đợi
người được chỉ định đến nhận đồ vật mà chủ nhân giao phó. Và khi khế ước được
hoàn thành, rất có thể bọn Tiểu Quỷ sẽ biến mất. Như vậy, làng Văn Thái sau này
không còn bị chúng quấy nhiễu nữa. Nhưng tôi cũng cần phải nói rõ cho trưởng làng
điều này, đó là trường hợp thứ nhất, ngoài ra vẫn còn 1 khả năng nữa. Trong văn tự
của Cao Côn có nói “ Cho Vương Tất Cả “, tôi e không chỉ là đồ vật được chôn bên
dưới Cự Môn, mà ngay cả đám Tiểu Quỷ kia cũng sẽ nghe theo lời của Vương, con
trai trưởng làng. Chưa biết Cao Côn chôn gì dưới lòng đất, nhưng thực sự chỉ cần
một ai đó điều khiển được bọn Tiểu Quỷ đối với chúng ta mà nói đã là một mối hiểm
họa. Hiện tại, bọn Tiểu Quỷ ấy ít nhiều vẫn chịu lời nguyền từ Cao Côn, chúng không
được tự do hoành hành, chúng phải ở đó để trông chừng di vật Cao Côn chôn giữ.
Nhưng sẽ ra sao nếu có người đến lấy đồ, đồng nghĩa phong ấn của chúng được hóa
giải. Chúng tan biến thì đó là chuyện tốt, còn nếu chúng không biến mất, hay vì một
lý do nào đó chúng chịu sự sai khiến của chủ nhân mới, khi ấy chúng sẽ là những con
quỷ thực sự. Tôi từng đối mặt với chúng khi cứu linh hồn cô bé Mị, lần đó may mắn
và nhờ vào sự giúp đỡ của linh tinh ngụ trong cây lộc vừng tôi mới có thể thành
công. Tuy nhiên, đó không phải đất của chúng, cũng như chúng đang bị phong ấn bởi
lời nguyền. Còn một khi xâm phạm vào Cự Môn, mọi thứ hoàn toàn thay đổi. Hãy
nhớ lại cái chết của Lực và bà thầy cúng là biết, bọn Tiểu Quỷ đáng sợ đến mức nào.
Nói tóm lại, phúc hay họa đều dựa hết tất cả vào Vương, con trai trưởng làng.

Ông Vọng mặt tái nhợt đi, khi nãy khi nhắc tới tên con trai ông, ông sợ con mình sẽ
gặp nguy hiểm. Nhưng giờ, nghe thầy Lương lý giải ông Vọng lại càng hoang mang
hơn. Thầy Lương nói đúng, phúc hay họa đều nằm trong tay con trai ông. Nếu không
tới đó hóa giải bùa phép của Cao Côn, làng Văn Thái sau này sẽ còn đối mặt với tà ma
quỷ quái. Nhưng sợ tới đó rồi, phúc chưa tới, họa đã vội ập xuống. Đào hay không
đào, trong đời mình, chưa bao giờ ông Vọng phải đưa ra lựa chọn khó khăn đến như
vậy.

Nhìn ông Vọng thầy Lương nói :

-- Tôi nghĩ như này, dẫu sao đây cũng chính là chuyện riêng của Cao gia. Hai chúng ta
làm tới đây coi như là đã tận tâm hết sức mình. Vấn đề còn lại đành để cho lớp trẻ
quyết định. Cao Côn để lại cho Vương, lấy hay không lấy, hãy để cho Vương tự làm
chủ. Trưởng làng nên gọi cậu nhà về, xong kể hết tường tận tất cả mọi chuyện. Cậu
ta cũng như trưởng làng, cần phải biết về gốc gác cha ông, tiên tổ của mình. Rồi việc
lấy hay không lấy, đào hay không đào sẽ do cậu ta quyết định. Như vậy trưởng làng
thấy ổn chứ….? Tuy nhiên tôi chỉ sợ, ngày mai là đến rằm Trung Thu, giờ mới đi đánh
điện e không kịp.

Ông Vọng trả lời :

-- Không….không cần đánh điện đâu…...Bởi sớm thì trong ngày hôm nay, muộn thì
ngày mai….Nó sẽ về..

Thầy Lương ngạc nhiên, thầy khẽ hỏi :

-- Sao trưởng làng lại chắc chắn như vậy….? Không lẽ trưởng làng cũng có thể dự
đoán được tương lai sắp xảy ra…?

Ông Vọng đáp :

-- Bởi vì, rằm Trung Thu cũng chính là ngày sinh nhật của nó…..Mấy năm nay nó đi
làm xa, chỉ về nhà vào đúng 2 dịp, đó là Tết….Dịp còn lại là rằm Trung Thu, người
khác thì tính lịch dương, nhưng thằng Vương nó lại muốn nó sinh nhật vào đúng rằm
Trung Thu….Nó nói như vậy vừa ý nghĩa mà lại vui, bởi từ nhỏ, mẹ nó đã nói tết
Trung Thu cũng chính là ngày mọi người vui vẻ chúc mừng sinh nhật của con. Chẳng
lẽ đây chính là ý trời……?

#Chap79 : Hồi Ức Đau Thương.


Thầy Lương vô cùng kinh ngạc trước điều này, mọi thứ diễn ra thực sự cứ như đang
được sắp xếp một cách trình tự. Thầy Lương nói :

-- Mai là sinh thần của cậu nhà, đúng là ý trời….Ha ha ha...Đã là ý trời thì hãy cứ để
thuận theo.

Ông Vọng tiếp :

-- Tôi vẫn còn nhớ như in, sang canh đúng hôm rằm thì vợ tôi hạ sinh nó. Trước đó
trời mưa tầm tã, sinh nó ra hôm sau trời quang mây tạnh, trăng tròn sáng vằng
vặc….Và….và hôm nó được sinh ra đời, cũng chính là ngày mà người ta phát hiện ra
ngoài khu đất hoa nở quanh năm ấy có hai xác người bị chết. Tính đến nay, ngôi
miếu đó đã được 20 năm thì con trai tôi cũng tròn 20 tuổi. Từ đó cho tới nay, đón tết
Trung Thu cũng là mừng ngày sinh thần của nó. Ngày nhỏ mỗi khi đưa nó ra đình, tôi
và mẹ nó đều nói dối nó rằng sinh nhật nó được cả làng chúc mừng, được tất cả trẻ
con trong làng rước đèn, nó vui lắm…...Sau này lớn lên, dù đã hiểu ra nhưng nó vẫn
chọn ngày Trung Thu là ngày sinh nhật. Cũng đã hơn nửa năm nay tôi không gặp nó
rồi, hôm qua lúc tôi nhắc đến tết Trung Thu cũng là đang nhớ đến nó ấy chứ. Cái
thằng, thân làm tội đời….Không biết nó về, kể cho nó nghe chuyện này, nó sẽ phản
ứng thế nào đây.

Nghe ông Vọng nói, thầy Lương cũng khá tò mò về cậu con trai của ông Vọng. Lần
đầu tới nhà ông Vọng, được nghe ông Vọng nói sống có 1 mình vì vợ đã mất lâu nay,
còn cậu con trai đi làm ăn xa ít khi về nhà. Tính nán lại ít hôm nên chuyện gia đình
ông Vọng, thầy Lương không tiện hỏi nhiều. Bẵng đi một thời gian, trong làng liên
tiếp xảy ra những chuyện kỳ dị. Bản thân thầy Lương và ông Vọng phải căng sức ra
giải quyết bao chuyện của làng, thậm chí suýt chút nữa ông Vọng phải mất mạng.
Quả thực thầy Lương cũng quên bẵng đi cậu con trai của ông Vọng. Tuy nhiên, thầy
Lương không thể ngờ được rằng, con trai ông Vọng tên Vương, đúng với những gì
mà Cao Côn truyền lại ở văn tự hiện trong viên hồng ngọc.

Nhắc tới cái chết của hai người Hoa bên ngoài vị trí Cự Môn, có vẻ như ông Vọng
đang thêm phần lo lắng, thầy Lương bèn nói :

-- Có phải trưởng làng đang sợ rằng nếu chẳng may cậu nhà tới miếu hoang sẽ gặp
phải nguy hiểm tính mạng như những người trước đó phải không..?

Ông Vọng khẽ gật đầu :

-- Thật không giấu được thầy điều gì. Vợ chồng tôi cũng chỉ có nó là mụn con duy
nhất. Thà như tôi, già rồi, sống đủ rồi, có làm sao thì cũng còn đỡ. Đằng này nó vẫn
đang tuổi thanh niên, mẹ mất sớm, cuộc sống của nó cũng không dễ dàng….Tôi...tôi
lo lắm.

Thầy Lương hiểu điều mà ông Vọng đang nói, cha mẹ nào chẳng lo lắng cho con cái.
Nhất là tính cho tới nay, ngoài khu đất ấy đã có 4 người chết, tất cả đều bị lột sạch
da mặt, đều là những cái chết đáng sợ. Dù cho con trai ông Vọng có quyết định ra
sao thì người suy nghĩ nhất vẫn chính là ông Vọng.

Thầy Lương trấn an :

-- Trưởng làng đừng sợ, nếu trưởng làng tin tôi thì nghe tôi nói thêm đôi lời. Thứ
nhất chúng ta bàn về hai người chết cách đây 20 năm trước. Vừa rồi trưởng làng có
nói, họ chết cũng trùng khớp vào ngày trung thu. Điều này lại càng khiến tôi tin rằng,
hai người Hoa ấy chính là Cao Kiệt và phu nhân của ông ta. Bởi vì sao…? Bởi vì không
chỉ biết chính xác vị trí giấu của nằm ở Cự Môn. Ngay như bản thân tôi và trưởng
làng, phải mất rất nhiều công sức chúng ta mới phán đoán được vị trí Cự Môn là nơi
chôn cất đồ vật của Cao Côn. Không thể nào một người không biết chút gì lại đến
ngay khu đất ấy đào bới, tìm của cải cả. Trừ khi, người này phải có hiểu biết về một
vài chi tiết có liên quan. Ngoài con cháu Cao gia, tôi không thể đoán được là ai khác.
Nhưng chính vì không thông hiểu được toàn bộ lời giải nên họ phải trả giá bằng
chính mạng sống của mình. Ví dụ như tôi nhắc đến Cao Lãm, cha ruột của trưởng
làng, chắc chắn ông ấy biết về bí mật bên trong viên hồng ngọc, nhưng không phải
dành cho ông ta nên ông ta giữ sợi dây chuyền như một bảo bối gia truyền, dù chết
cũng phải để lại cho con cháu đời sau. Vì Cao Côn giao sợi dây chuyền cho Cao Lãm là
có nguyên nhân. Con thứ Cao Kiệt, dường như cũng nghe phong thanh được chuyện
tín vật mà cha để lại, bằng một cách nào đó có thể Cao Kiệt cũng biết được văn tự
bên trong viên hồng ngọc. Nhưng biết chưa đủ, Cao Kiệt chỉ biết Cao Côn để lại thứ
gì đó ở Cự Môn, nếu là người của Cao gia, sở hữu tấm bản đồ kia thì không khó để
họ hiểu về Thất Tinh Bắc Đẩu, biết về 7 vị trí liên kết địa mạch trong làng. Chi tiết họ
đào bới vào ngày trung thu đã khẳng định điều này. Và như vậy, Cao Kiệt biết Cự
Môn nằm ở đâu. Sau khi Cao Côn chết, Cao gia lâm nạn diệt thân. Cao Lãm, cha
trưởng làng chết, Lâm Thư phu nhân may mắn đưa được trưởng làng ra khỏi cảnh
thảm sát, nhưng bà cũng không qua khỏi. Việc Lâm Thư phu nhân cứu được trưởng
làng, cộng với khi đào bới tại Bãi Hoang, tôi nhận ra Cao gia trước kia khi xây dựng
thủ phủ ắt hẳn phải có những cơ quan bí mật. Nền móng của họ có thể sánh với
những kỳ quan, công trình của vua chúa thời bấy giờ, thậm chí là tinh vi hơn bởi Cao
Côn xuất thân gốc gác Trung Quốc. Lại còn là một bậc kỳ tài về phong thủy, trấn
yểm….Việc nơi ở của ông ta có cơ quan là điều không mấy ngạc nhiên. Và nhờ cơ
quan, đường hầm, Lâm Thư phu nhân cũng như vợ chồng Cao Kiệt đã thoát được ra
khỏi khu vực Bãi Hoang. Chỉ có điều, Lâm Thư phu nhân, mẹ của trưởng làng lại
không thể qua khỏi do đã bị thương nặng trước đó. Ôm theo bí mật truyền đời, vợ
chồng Cao Kiệt hẳn đã phải sống khổ sở, và khi không còn cách nào, họ nhớ tới văn
tự của cha, họ quay lại đây đào bới với mong muốn tìm được của cải, khôi phục lại
sự hưng vượng của Cao gia. Tuy nhiên, đồ vật chôn ở đó, không phải dành cho Cao
Kiệt, cũng không dành cho Cao Lãm, hay bác trưởng làng….Mà là dành cho Vương,
người đã được Cao Côn lựa chọn, ngoài Vương, bất cứ ai xâm phạm, đều phải chết.

Ông Vọng ấp úng :

-- Cũng chính vì tin rằng hai người hoa đó là vợ chồng Cao Kiệt nên tôi mới sợ rằng,
dù có mang huyết thống Cao gia, thằng Vương cũng chịu chung nghịch cảnh ấy.

Thầy Lương mỉm cười :

-- Tôi hiểu, nhưng những người đã chết và cậu nhà không giống nhau. Thứ nhất, 4
người kia không ai luận hết được văn tự bên trong viên hồng ngọc. Thứ 2, họ không
phải người được lựa chọn. Còn cậu nhà lại có cả 2 thứ trên, thêm vào đó còn có tôi ở
đây nữa. Tôi đã hiểu hết ngụ ý trong văn tự của Cao Côn. Hơn nữa, không phải cứ
muốn đào là đào, muốn lấy là lấy. Trưởng làng nghi ngờ là có nguyên do, nhưng hãy
tạm gác những suy nghĩ đó lại. Hãy cứ chờ đợi cậu nhà quay về đã. Ha ha ha, tôi cũng
đang rất háo hức, mong chờ xem xem, liệu con trai của trưởng làng sẽ là người như
thế nào đây. Đến lúc đó tôi mới đưa ra quyết định của mình.
Bên ngoài sân, ánh nắng mặt trời đã bắt đầu chiếu sáng cả một khoảng vườn. Vậy là
lại thêm một đêm, thầy Lương thức trắng không hề chợp mắt. Nhưng lần này thầy
Lương không thấy mệt, giải mã được bí ẩn được Cao Côn giấu trong viên đá hồng
ngọc đối với thầy Lương mà nói đã là một thành công lớn. Nhắc tới Cao Côn, thầy
Lương bồi hồi nhớ đến sư phụ của mình. Thầy Lương vẫn nhớ như in lần nói chuyện
lúc thầy Lương đã trưởng thành.

[......]

-- Sư phụ, người thật là phi thường, con thấy không có thứ gì trên đời này mà người
không biết cả. Chẳng hay đến khi nào con mới có thể học hết những hiểu biết của
người được đây.

Vị đạo sĩ mỉm cười hiền từ, ông khẽ nói :

-- Thế giới này rộng lớn lắm, ngoài ta ra vẫn còn rất nhiều bậc kỳ nhân, hiền sỹ. Trời
đất mênh mông, không ai trên đời này có thể khẳng định mình biết tất cả. Con còn
trẻ, tương lai của con còn ở phía trước, khi con rời khỏi nơi này, đi đến những vùng
đất khác, gặp gỡ muôn vàn những người khác…..Con sẽ hiểu lời ta nói, khi ấy có lẽ
am hiểu của con đã vượt qua ta, và con nhận ra rằng, sự hiểu biết của ta hay con
cũng giống như một hạt cát giữa hoang mạc bao la mà thôi. Con là người có thiên
phú, chỉ cần tu luyện tốt, chăm chỉ, không bị cám dỗ bởi dục vọng là ta yên tâm rồi.

Khi ấy thầy Lương vâng dạ, chắp tay cúi đầu cảm ơn sư phụ. Đối với thầy Lương, vị
đạo sĩ ấy vừa chính là ân nhân, cũng chính là người thân mà thầy Lương coi như cha,
như mẹ. Nhờ có sư phụ cưu mang, cứu giúp, đưa về nuôi nấng khi thầy Lương còn là
một đứa trẻ bị bỏ rơi, phải lang thang, vật vờ ngồi bên đường, bên cầu xin ăn qua
ngày. Rồi cũng chính vị sư phụ ấy truyền dạy cho thầy Lương những kiến thức về y
dược, rồi cả những hiểu biết về phong thủy, về thần cơ, diệu toán…….Chỉ tiếc rằng,
thầy Lương đã phụ lại sự mong mỏi, kỳ vọng của sư phụ. Thầy đã không vượt qua
được cám dỗ để rồi bỏ ngoài tai lời cảnh báo của sư phụ, dẫn đến tình cảnh đau
thương, hại mình, hại người…...Nhận ra sự nguy hiểm của thầy Mo người Việt cũng
là lúc thầy Lương mất tất cả. Những lời mà sư phụ ông nói năm xưa là hoàn toàn
đúng. Trên đời này, còn có rất nhiều những thứ vượt quá tầm hiểu biết của ông.

Bước ra ngoài hiên, nhìn lên bầu trời hảnh nắng sớm, thầy Lương khẽ nói thầm trong
miệng :

-- Sư phụ, cảm ơn người vì tất cả…...Có thể đồ nhi không được như sự mong mỏi kỳ
vọng của sư phụ. Nhưng đồ nhi hứa, nếu có thể cứu được 1 mạng sống, cho dù phải
hi sinh bản thân mình, đồ nhi cũng sẽ chấp nhận. Chỉ mong sao, sau khi được giải
thoát, nếu có gặp được người nơi suối vàng, người sẽ lại chấp nhận đồ nhi như lúc
thầy trò ta gặp nhau lần đầu.

Khóe mắt thầy Lương khẽ rưng rưng, cả cuộc đời lang bạt, hành thiện giúp người.
Nhưng nỗi khổ sâu thẳm trong tâm can của ông lại không có ai có thể giúp ông gỡ
bỏ. Bao năm qua, chưa lúc nào thầy Lương thôi khắc khoải về chuyện mà mình đã
làm, cho dù đó có là sự hãm hại của lão Mo ác hiểm, nhưng sự thật vẫn hiển hiện,
chính tay thầy Lương đã giết vợ con mình, bàn tay nhuốm máu cầm trái tim con gái
nhai sống trong ánh mắt điên dại ấy vẫn ám ảnh người đàn ông khốn khổ này mỗi khi
ông nhắm mắt lại.

Thật đau đớn thay…….

#Chap80 : Về Làng.


1h chiều cùng ngày hôm đó……

“ Xịch….Xịch...Xịch…”

-- Bác, bác….dừng lại cho cháu xuống đây được rồi.

Chiếc xe công nông 3 bánh cũ kĩ, thùng xe còn có những lỗ thủng do sắt hoen gỉ lâu
năm dừng lại cách cây đa đầu làng Văn Thái độ 200m, ông bác lái công nông quay lại
miệng vừa nhai trầu vừa nói :

-- Sao thế, còn chưa vào đến làng mà. Lại ngại tôi chứ gì…? Gớm mà khổ, cũng là
người trong vùng này cả. Đã bảo để tôi chở về tận nhà rồi mà lại.

Cậu thanh niên với gương mặt thư sinh nhưng tay chân rắn rỏi, nước da bánh mật
khẽ cười rồi trả lời :

-- Dạ thôi, cảm ơn bác, đến đây cháu lại muốn đi bộ vào làng. Cũng từ tết ra, giờ
cháu mới về…...Muốn đi xem xem trong làng gặp ai còn tiện chào hỏi.

Ông bác cười khoe hàm răng đen nhánh, nhổ toẹt bã trầu, ông bác đưa hai ngón tay
lên vuốt vành môi rồi đáp :

-- Thôi thế thì tùy cậu vậy, nhưng mà xách lắm đồ thế kia có đi được không…? Thấy
cậu túi lớn túi bé, gớm đi làm ăn xa chắc khá lắm hả, về quê mà quà cáp nhiều thế
kia thì...chẹp...chẹp.

Cậu thanh niên đang lấy hai nửa bao tải cùng cái balo sau thùng xe xuống, lau mồ hôi
cậu ta nói :

-- Dạ, cháu cũng mong là được như thế…..Cũng là đi làm ăn, nhưng cũng chẳng dư dả
ra được bao nhiêu. Chỗ này là bánh kẹo với đồ chơi cháu mua từ trên biên giới về
đấy. Làm quà cho bọn trẻ con trong làng, mai là tết trung thu rồi. Có thêm mấy thứ
này chắc khi ra đình rước đèn ngắm trăng, bọn trẻ vui lắm đây.

Ông bác gật đầu ra chiều thích thú :

-- Chậc, đúng là cậu trai tốt….Bố mẹ cậu chắc phải hãnh diện về cậu lắm. Chẳng bù
cho thằng con nhà tôi, cũng tầm tuổi cậu mà suốt ngày lêu lổng với đám nghiện hút.
Nó chỉ về nhà khi nào cần bòn tiền thôi. Phải chi nó được một nửa của cậu thì phúc
đức cho nhà tôi quá. Thôi, chào cậu nhé. Mà cậu tên Vương phải không, già rồi, cứ
nhớ trước quên sau. Tôi đi đây…

Vương cúi đầu chào rồi tươi cười vẫy tay chào bác lái công nông mà khi nãy cậu đã
gặp ngay sau khi vừa bước chân xuống xe đò. Bác chạy công nông cũng đang dỡ
hàng để chở về cho ai đó, bốc hàng xong, thấy Vương đứng đó với hai nửa bao tải
hai bên tay đang đi tìm bắt xe nên ông bác hỏi thăm. May mắn thế nào, ông bác với
Vương lại là người cùng xã, chỉ khác làng mà thôi. Cũng đang tiện đường đi về nên
ông bác cho Vương đi quá giang luôn. Trên đường đi hai người cũng hàn huyên đôi
ba câu chuyện. Ông bác thảo nảo, tốt bụng muốn chở Vương về tận nhà. Tuy nhiên
đến đây Vương lại muốn đi bộ để ngắm nhìn phong cảnh của làng Văn Thái.

Hai nửa bao tải Vương xách hai bên, một bao đựng đồ chơi, một bao đựng bánh kẹo
mà Vương lặn lội chịu khó mua từ bên kia biên giới về. Những thứ này cũng gần như
ngốn hết một nửa số tiền mà Vương đi làm dành dụm hơn nửa năm vừa qua. Đeo
balo, hai tay xách nặng, vẫn đang cuối trưa nên trời khá nắng, mồ hôi đổ ra nhưng
trong lòng Vương lại thấy vui vô cùng. Bởi tối mai, ngày rằm trung thu, Vương sẽ chia
chỗ bánh kẹo và số đồ chơi này cho bọn trẻ con trong làng. Làng Vương nghèo, bản
thân Vương sinh ra vào những năm chiến tranh mới chấm dứt, đến ăn còn chẳng có
chứ nói gì đến đồ chơi. Hồi nhỏ, đồ chơi của những đứa trẻ cùng thời với Vương chỉ
là lá dừa đan thành hình con chuồn chuồn, con châu chấu, nhặt sỏi chơi ô ăn quan,
kiếm quả bưởi, quả bòng non chơi chuyền, hay mài đá chơi đánh đáo…...Lớn lên,
làng Vương vẫn nghèo, có chăng bữa cơm của mỗi gia đình được no hơn một chút.
Làng Văn Thái bao đời nay gắn bó với nghề làm ruộng, năm được mùa thì mừng rỡ,
năm mất mùa nhìn bọn trẻ con lang thang bên ngoài bờ mương, bờ ruộng, chân lấm
bùn mò từng con ốc, hái từng khóm rau dại mà Vương thấy thương chúng nó vô
cùng. Những năm còn ở làng, Vương hay ra chỗ bọn trẻ chăn trâu, ở đó làm diều,
nặn tượng đất cho chúng nó chơi.

Những lúc như vậy, bọn trẻ trăn trâu quây quần xung quanh Vương với những cặp
mắt long lanh, háo hức chờ đợi. Chúng tò mò xem Vương đang nặn thứ gì, và rồi khi
Vương hoàn thành, cả đám ồ lên reo hò vì trên tay Vương khi nãy chỉ là cục đất sét,
nay đã biến thành con gà, con lợn, con trâu…...Chia tượng đất cho bọn nhóc, Vương
mỉm cười hạnh phúc mỗi khi đám nhóc nói :

“ Đồ chơi anh Vương làm là đẹp nhất, lâu lâu anh lại làm cho bọn em nhé…”

“ Anh Vương ơi, anh biết làm diều sáo không…? Em muốn có một con diều sao bay
cao thật cao “

Vương xoa đầu bọn trẻ rồi hứa sẽ làm cho chúng một con diều sáo, để khi chúng
chăn trâu, tiếng sáo diều trên bầu trời cao sẽ khiến cho bọn trẻ cảm thấy vui vẻ.
Cũng phải nói, Vương là một thanh niên có bàn tay tài hoa, khéo léo. Những năm
còn ở nhà, Vương trắng trẻo, thư sinh, mặt búng ra sữa. So với người dân trong làng
thì Vương hoàn toàn khác biệt, mặc dù Vương cũng ra đồng phụ giúp bố. Thêm một
điều nữa, cứ đi khỏi làng, da dẻ có sạm đen thế nào, nhưng chỉ cần về nhà độ dăm
bữa, nửa tháng, Vương lại hồi lại ngay. Bởi thế, mấy lần về nhà xong quay lại nơi làm
việc, ai nhìn thấy Vương cũng phải thắc mắc sao nó làm gì mà trắng nhanh thế, trong
khi trước đó lúc Vương về thì da đen thui, đen sạm. Vương chỉ cười cười rồi nói chắc
do hạp đất, hạp nước nên nó thế.

Hơn nửa năm, dồn nhặt toàn bộ ngày nghỉ, Vương để dành cho đợt trung thu này.
Trước khi về Vương cũng thấy nóng ruột mấy ngày hôm nay, đi làm ăn xa, nhiều lúc
Vương cũng lo không biết bố ở nhà thế nào, nhưng công việc bận rộn, hơn nữa nơi
Vương làm việc là ở bên kia biên giới nên việc đánh điện cũng khó khăn, phải nhờ vả
vô vùng rắc rối. Vậy cho nên, ngay khi đi thoát ly, Vương đã hẹn bố 1 năm có thể
Vương chỉ về được 2 lần, đó là tết Trung Thu và Tết Nguyên Đán. Hai năm trước mọi
thứ còn khó khăn, Vương cũng phải cố gắng rất nhiều nên không dư dả. Năm nay
khá hơn, cũng đã quen thuộc với thổ nhưỡng bên đấy. Vương quyết định lần này về
sẽ có quà cho bọn trẻ con trong làng, không còn phải là những bực tượng nặn bằng
đất sét nữa, trong bao tải Vương đang xách là những món đồ chơi đủ màu sắc, vô
cùng đẹp đẽ.

Nghĩ đến ánh mắt của bọn trẻ khi nhận quà mà Vương cứ tủm tỉm cười. Trước mặt là
cây đa đầu làng. Vương rảo bước nhanh hơn, trong đầu nghĩ :

“ Đi qua chào bà Miên rồi xin chén nước uống mới được. “

Nhưng đến trước gốc đa thì Vương không thấy bà Miên bao năm qua vẫn ngồi đó
bán hàng nước đâu cả. Cái quán lá cũng lụp xụp, xơ xác, xiêu vẹo hẳn đi…...Nhìn cứ
như thể lâu rồi không có người bán hàng ở đây vậy.

Thở dài, Vương đành tiếp tục đi bộ vào trong làng. Có thể là vẫn đang trưa nên ít
người ra ngoài. Nhưng cả đoạn đường từ cây đa cho tới bây giờ, trước mặt Vương
chính là giếng làng. Cả quãng đường khá xa mà Vương không gặp bất cứ một ai cả.
Những ngôi nhà hai ven đường từ chỗ đông cho tới chỗ vắng đều đóng cửa. Cây lộc
vừng cách giếng một đoạn cành thì bị gãy, lá thì nửa xanh nửa vàng, cứ như cái cây
đang héo dần đi vậy.

Bỗng nhiên Vương thấy bất an, chưa bao giờ làng Văn Thái lại tĩnh lặng, im ắng đến
mức này. Khác hẳn với đợt Vương về dịp tết, lúc Vương đi bộ vào làng, đi qua gốc
đa, Vương chưa đi tới nơi đã thấy cái vẫy tay cùng giọng của bà Miên hàng nước gọi
vào uống chén chè hoặc cốc nước vối. Trên đường vào làng, trẻ con chạy nhảy chơi
đùa sau hàng rào bao quanh những ngôi nhà lụp xụp. Thấy Vương chúng cũng chạy
ra chào đón, có đứa còn cứ thế đi theo Vương về tận nhà ông Vọng. Vậy mà sao giờ
đây, ngôi làng thân thuộc với Vương từ khi Vương còn nhỏ lại trở nên hoang vắng
đến vậy.

Lo sợ có điều không hay, Vương xốc lại ba lô, hai tay túm chặt lấy hai nửa bao tải,
Vương bước thật nhanh về nhà, bởi từ giếng làng về nhà Vương cũng không còn xa
nữa. Càng đi vào trong, Vương lại càng hoang mang bởi trong làng đâu đó đang vang
lên tiếng kèn đám ma.
“ Hộc….hộc….hôc…”

Vương thở mạnh, mặt mũi hốt hoảng, mồ hôi mồ kê nhễ nhại. Vương đặt hai nửa
bao tải xuống đất rồi đưa tay vào trong cổng mở then cài, vừa mở Vương vừa gọi lớn
:

-- Thầy ơi…..Thầy ơi…...Con về rồi đây…..Thầy có nhà không đấy…

“ Cạch “

Cánh cổng vừa mở ra, Vương xách hai nửa bao tải chạy vào trong sân. Từ trong nhà,
ông Vọng nghe thấy tiếng con trai gọi cũng lao ngay ra ngoài, ông Vọng chạy chân
đất ra hiên, nhìn thấy cậu con trai, ông Vọng chẳng hiểu sao rơm rớm nước mắt :

-- Giời đất ơi, cuối cùng thì mày cũng về…..Thầy Lương ơi, thầy Lương…..Thằng con
tôi nó về rồi này. Đấy, thầy thấy chưa, tôi nói không sai mà….Chỉ nội trong hôm nay
với mai, thằng Vương nó sẽ về.

Vương nhìn thấy bố mà quặn thắt tim lại, tóc trên đầu ông Vọng đã bạc trắng, gương
mặt ông Vọng cũng xuất hiện nhiều nếp nhăn hơn. Nhìn ông Vọng, cậu con trai của
ông sững sờ bởi cậu không tin nổi, chỉ trong vòng hơn nửa năm, bố cậu đã già đi cả
chục tuổi.

Vương ấp úng :

-- Thầy…..sao thầy lại thành ra thế này….? Đã xảy ra chuyện gì, làng mình đã xảy ra
chuyện gì mà khiến tóc thầy bạc trắng như thế này….Thầy ơi, con xin lỗi….Cho con
xin lỗi.

Nhìn ông Vọng, Vương bỗng dưng bật khóc. Từ lúc quay về làng, Vương đã sợ rằng
làng Văn Thái gặp chuyện gì đó, cho đến khi nhìn thấy ông Vọng với mái tóc bạc phơ,
Vương lại càng lo lắng hơn.

Mà vừa rồi, Vương có nghe thấy bố mình gọi ai dó là “ thầy Lương “, còn chưa kịp hỏi
thì Vương thấy đi từ trong nhà đi ra là một người đàn ông chừng 50 tuổi, ánh mắt
sáng quắc, gương mặt phúc hậu. Vương còn đang ngạc nhiên thì thầy Lương khẽ gật
đầu chào rồi nói :

-- Vậy ra cậu chính là Vương…...Tôi đang đợi cậu về đây. Đừng hoảng sợ, tôi sẽ kể
cho cậu nghe tất cả.

#Chap81 : Huyết Thống Cha Con.


Tại nhà ông Vọng, lúc này đã là hơn 4h chiều, 3 tiếng trôi qua, Vương vẫn chưa dám
tin những gì bố cậu và người đàn ông được gọi là thầy Lương kia nói là sự thật.
Nhưng những bằng chứng, những phân tích, những luận điểm của thầy Lương quá
chặt chẽ, quá hợp lý. Chưa kể đến di vật mà ông bà nội Vương để lại bên dưới gốc
cây xoài, thậm chí đến vết chàm sau vai ông Vọng cũng trùng khớp với đặc điểm
được viết trong tấm phổ truyền.

Nhưng suy cho cùng, đó vẫn chưa phải sự việc khiến cho Vương bàng hoàng. Thầy
Lương, ông Vọng cũng kể cho Vương nghe về quá khứ của Cao gia, về lịch sử của
làng Văn Thái, về những gì Cao Côn đã làm, cũng như dẫn đến nguyên nhân, dân làng
Văn Thái muốn giết chết toàn bộ Cao gia. Đối với Vương mà nói, đây thực sự là một
cú sốc lớn.

Vương nhìn bố mặt thất thần, Vương lắc đầu nói :

-- Không thể nào….Kìa thầy, thầy nói gì đi chứ….?

Ông Vọng nhìn con khẽ đáp :

-- Thầy còn biết nói gì nữa, khi tất cả đều là sự thật. Thầy biết, mày sau khi nghe xong
toàn bộ mọi chuyện sẽ khó có thể chấp nhận. Thầy u nuôi mày từ nhỏ, tính tình mày
thế nào thầy u là người rõ nhất. Thầy biết, mày lang bạt ra khỏi làng, thậm chí là đi
sang Trung Quốc làm ăn cũng là vì muốn tìm tòi, học hỏi công việc của người ta rồi về
giúp đỡ cái làng này. Đám trẻ con trong làng mỗi lần gặp thầy đều hỏi “ ông ơi, bao
giờ anh Vương lại về ? “. Bởi vì mày là đứa hết mực thương yêu trẻ con, thầy vẫn
nhớ câu nói của mày trước khi đi xa : “ Đời các ông, các bà, đời cha, đời mẹ khổ
nhiều rồi….Không thể để bọn trẻ làng này lớn lên cũng phải sống trong cơ cực như
vậy được nữa. Con phải làm điều gì đó..”. Giờ đây biết được gốc gác của cha con ta
là con cháu của Cao Côn, người khi còn sống đã gây ra quá nhiều đau thương, quá
nhiều tội ác. Thậm chí sau khi ông ấy chết rồi, hậu quả mà ông ấy để lại cho ngôi làng
này vẫn vô cùng khủng khiếp. Làng Văn Thái, nơi cha con ta sinh ra, lớn lên trong sự
bảo bọc của mọi người lại bị chính tổ tiên ta suýt chút nữa biến thành vùng đất chết.
Bản thân thầy cũng rất bàng hoàng khi biết được sự thật này….Nhưng sự thật không
thể thay đổi. Chúng ta thực sự là con cháu của Cao gia.

Thầy Lương nói :

-- Quả đúng người có tâm tốt thì con cái họ cũng như vậy. Từ tướng mạo, cử chỉ, lời
ăn tiếng nói, cậu Vương đây đúng là một con người nhân hậu, hiếu thảo, có hoài bão
lớn, có thể vì lợi ích chung mà không màng tới bản thân mình. Cha con hai người thật
khiến Lương tôi đây cúi đầu thán phục. Nhưng hai người đừng nên vì chuyện quá
khứ mà dằn vặt. Đúng, cả hai người đều là huyết thống của Cao gia, nhưng những
chuyện Cao Côn gây ra là do bản thân ông ta tự quyết định. Kết cục Cao Côn đã khiến
cho toàn bộ Cao gia gần như bị tuyệt hậu. Nếu không có phước đức của Lâm Thư
Phu Nhân thì trưởng làng đã không sống đến bây giờ, như vậy cũng đâu có cậu
Vương đây. Ý tôi muốn nói, tuy là con cháu của Cao Côn, nhưng hai người lại được
nuôi nấng như con dân làng Văn Thái. Cao Côn mắc tội, làng Văn Thái cũng tạo
nghiệp. Hai người, chỉ có hai người mới có thể kết thúc ân oán truyền kiếp của làng
này mà thôi. Cậu Vương, những gì cần kể tôi đã kể hết cho cậu rồi. Tôi cũng nói
trước, nếu như việc không thành, có thể cả 3 chúng ta đều phải trả giá bằng mạng
sống của mình. Từ giờ cho đến đêm mai, vẫn còn thời gian cho cả 2 cha con cậu suy
nghĩ. Quyết định như thế nào, tùy cả vào hai người.

Vương đáp :

-- Thầy...à bác….

Thầy Lương cười :

-- Cứ gọi bác xưng cháu cũng được, có gì cậu Vương cứ nói.

Vương tiếp :

-- Dạ, cảm ơn bác….Cháu không cần suy nghĩ gì nữa đâu. Thầy cháu tin bác thì chắc
chắn bác là người tốt. Khi nãy do cố chấp, không dám nhìn vào sự thật nên cháu có
chút hoài nghi. Nhưng những gì bác nói đều rất đúng, cả mấy câu vừa rồi nữa, cháu
đã hiểu. Và cháu quyết định, cháu sẽ đến ngôi miếu hoang đó. Nếu như cháu có thể
làm được điều gì giúp cho làng Văn Thái, cho dù nguy hiểm cháu cũng chấp nhận.
Nãy bác cũng nghe thầy cháu nói rồi, ngôi làng này là nơi cháu sinh ra là lớn lên, là
quê hương, là tất cả đối với cháu. Nếu tổ tiên cháu gây ra tai họa này thì cháu hi
vọng mình có thể sửa sai cho họ. Mong bác bày cách chỉ dẫn.

Thầy Lương nghe xong, thầy khẽ nhìn về phía ông Vọng. Khác hẳn với ánh mắt lo
lắng, gương mặt hoang mang sáng sớm nay. Giờ đây ông Vọng rưng tưng nước mắt
nhìn con đầy hạnh phúc. Ông Vọng khẽ lau giọt nước mắt đang chảy xuống gò má rồi
nhìn thầy Lương mỉm cười gật đầu.

Thầy Lương nhìn Vương đáp :

-- Tốt, tốt lắm…..Một chàng trai trẻ, năm nay chỉ mới 20 tuổi mà đã có thể suy nghĩ
thấu đáo, không ngại hi sinh bản thân mình để đem lại bình an cho người khác. Tấm
lòng trân quý này có thể cảm thấu trời xanh. Được rồi, nếu đã vậy thì Lương tôi sẽ
chỉ dẫn cậu đến vị trí của Cự Môn ( miếu hoang ). Nơi mà Cao Côn, hay chính xác là
cụ của cậu đã để lại thứ gì đó cho “ Vương “. Ân oán, nghiệp báo truyền đời sẽ được
hóa giải hay tử lộ dẫn xuống âm ti, địa ngục đều phụ thuộc tất cả vào cậu. Tuy nhiên,
trước tiên chúng ta cần làm chuyện này trước đã.

Ông Vọng hỏi :

-- Làm chuyện gì vậy thầy, cần gì dặn dò thầy cứ nói.

Thầy Lương đáp :

-- Cũng không có gì, chỉ là một khảo nghiệm nho nhỏ thôi. Điều này sẽ giúp chúng ta
chắc chắn hơn về câu đầu tiên của văn tự mà Cao Côn để lại trong viên đá hồng ngọc
: “ Cao Gia Huyết Thống “ .

Ông Vọng nói :


-- Thầy, ý thầy là sao….? Chẳng lẽ thầy không tin thằng Vương là…..

Thầy Lương đưa tay ngăn ông Vọng lại, thầy giải thích :

-- Tất nhiên là tôi tin, nhưng xưa nay tôi làm việc luôn cẩn thận, tỉ mỉ. Nghề của tôi là
nghề bốc mộ, một mẩu xương nhỏ cũng không được để sót. Nói như vậy để trưởng
làng hiểu, việc tôi chuẩn bị làm sau đây cũng là vì sự an toàn của cậu Vương mà thôi.
Mong trưởng làng đừng trách, bởi trưởng làng cũng biết, nếu không phải người
mang huyết thống của Cao gia, đừng nói đến đào bới, chỉ cần có tham ý khi bước vào
khu đất ấy thôi cũng sẽ bị quỷ nhi giết chết. Trưởng làng thì đã chắc chắn là cháu nội
của Cao Côn, còn cậu Vương đây tôi vẫn cần xem xét kỹ lưỡng 1 lần nữa.

Vương gật đầu :

-- Vậy bác sẽ dùng cách nào để xác định cháu và thầy cháu có hay không có chung
huyết thống khi mà chỉ tới đêm mai, như lời bác nói, thời điểm quan trọng sẽ đi qua.
Việc xác định huyết thống không phải chuyện dễ dàng gì. Để xác định nhanh, theo
như cách mà người Trung Hoa cổ xưa thường dùng chính là lấy một chậu nước, sau
đó hai người cần xác định huyết thống sẽ cắt máu nhỏ vào chậu nước, nếu máu của
cả hai hòa chung làm một thì hai người chung huyết thống. Có phải bác định làm
theo cách này không…?

Thầy Lương mỉm cười, ông nói :

-- Cháu cũng là người hiểu biết đó chứ. Đúng là vậy, nếu muốn xác định nhanh việc
hai cha con có chung huyết thống hay không, người Trung Hoa đã dùng cách đó. Tuy
nhiên, đó cũng không hẳn cho ra kết quả chính xác. Ta có một cách chính xác hơn rất
nhiều, và cũng rất nhanh thôi, chúng ta sẽ biết kết quả.

Ông Vọng và Vương hồi hộp lắng nghe, thầy Lương nói tiếp :

-- Trưởng làng cũng đã biết, trải qua nhiều chuyện, trưởng làng có biết điều mà Cao
Côn chú ý đến nhất chính là gì không…?

Ông Vọng lắc đầu :

-- Tôi….tôi hiểu biết nông cạn, không hiểu được ý của thầy.

Thầy Lương đáp :

-- Đó chính là “ huyết thống “, trấn yểm “ giấu long mạch “, phải là người cùng huyết
thống mới có thể phá giải. Văn tự bên trong viên hồng ngọc, cũng phải là người
mang huyết thống của Cao gia mới có thể nhìn thấy.

Ông Vọng mừng rỡ đáp :


-- Tôi hiểu rồi, có phải thầy định đợi đến đêm nay, khi trăng sáng sẽ cho thằng Vương
nhìn vào viên hồng ngọc. Nếu như nó cũng nhìn thấy chữ trong đó giống như tôi thì
nó chính là người mang huyết thông Cao gia phải không….?

“ Ùng…..Ùng….Ùng…”

5h chiều, bên ngoài trời bỗng dưng mây đen kéo đến khiến cho bầu trời tối sầm lại,
sấm cũng bắt đầu nổ động trời. Lại giống như buổi chiều ngày hôm qua, trời cũng
mưa tầm tã cho đến tối mới tạnh, nhưng hôm qua mưa đến sớm rồi cũng tạnh sớm.
Có chút kỳ lạ là hai ngày hôm nay, mưa thường đến khá bất thường.

Thầy Lương trả lời ông Vọng :

-- Đó cũng là một cách, tuy nhiên huyết thống Cao gia là điều kiện cần, còn điều kiện
đủ chính là ánh trăng. Nếu không có ánh trăng chiếu vào thì dù có là con cháu Cao
gia cũng không nhìn thấy gì cả. Mà trưởng làng nhìn ra bên ngoài mà xem, mây đen
kéo đến sầm trời. Sấm khan động trời, cơn mưa hôm nay đến muộn hơn cơn mưa
chiều qua. Đêm qua trăng sáng, trời đầy sao, thật không thể ngờ tiết trời thay đổi
nhanh đến như vậy.

Vương suy nghĩ rồi nói :

-- Cháu thì không thấy lạ, bởi vì hình như năm nào trước khi đến rằm Trung Thu, trời
cũng mưa 2-3 ngày….Đúng không thầy nhỉ…?

Ông Vọng gật đầu đáp :

-- Đúng vậy đó thầy, nhưng trước đó mưa lớn đến đâu thì hôm Trung Thu cũng tạnh
ráo.

Thầy Lương khẽ cau mày, ông suy nghĩ :

“ Năm nào trước Trung Thu cũng mưa, e là trận mưa hôm qua và hôm nay có chút gì
đó lạ thường. Chẳng trách khi bấm độn ta cứ ngỡ sẽ không có mưa…..”

Quay lại câu hỏi khi nãy của ông Vọng, thầy Lương nói :

-- Chỉ e mưa lớn, mây đen phủ kín, trời đất tối tăm…...Trăng không thể ló dạng, như
vậy đồng nghĩa với việc, cậu Vương cũng không thể nhìn được văn tự trong viên
hồng ngọc….

Ông Vọng cùng Vương nhìn nhau lo lắng, cả hai cùng hỏi :

-- Vậy chẳng lẽ không còn cách nào hay sao…..?

#Chap82 : Sự Thật Trong Tiếng Sấm Động Trời.


Thầy Lương dạo bước ra bên ngoài hiên nhà, đứng nhìn lên bầu trời mây đen xám
xịt, thầy Lương nhắm mắt lẩm nhẩm điều gì đó. Lát sau thầy quay trở vào trong nhà,
bố con ông Vọng vẫn đang chờ đợi câu trả lời của thầy.

Lúc này thầy Lương mới nói :

— Tất nhiên là có cách chứ, ngay từ đầu tôi đã không nghĩ đến việc sẽ dùng viên
hồng ngọc cùng với ánh trăng để xác định huyết thống rồi. Thực ra cách đó cũng tốt,
nhưng khi tôi nói muốn thực hiện ngay bây giờ nghĩa là tôi không cần đến ánh trăng,
ánh sao gì cả. Có một cách chắc chắn và chúng ta có thể biết ngay lập tức.

Ông Vọng hồi hộp gặng hỏi :

— Thầy nói đi ạ, cứ úp úp mở mở thế này tôi nóng ruột quá.

Thầy Lương mỉm cười :

— Trưởng làng đừng vội, tôi cứ nghĩ trưởng làng sẽ trách móc tôi vì sự khiếm nhã
này chứ.

Ông Vọng đáp :

— Sao tôi lại trách thầy được..? Chẳng phải thầy nói điều này là vì thằng Vương hay
sao..?

Vương lên tiếng :

— Có phải bác Lương sợ rằng cháu không phải con ruột của thầy u cháu không ạ..?
Quả thực khi nãy nghe bác nói muốn kiểm tra huyết thống, cháu cũng có chút bất
ngờ. Nhưng giờ thì cháu đã hiểu.

Ông Vọng giờ mới ngớ người ra :

— Nói...nói vậy chẳng phải thầy nghi ngờ cả người vợ quá cố của tôi sao..?

Thầy Lương trả lời :

— Vậy cho nên tôi mới mong trưởng làng tha lỗi vì sự khiếm nhã trên. Tôi không có ý
nghi ngờ gì cả, nhưng điều này vẫn là điều cần phải làm. Trưởng làng thì đã chắc
chắn là con cháu của Cao gia. Còn cậu Vương, tôi cần kiểm tra lại một lần nữa.

Nhìn ông Vọng, thầy Lương hỏi :

— Trưởng làng vẫn còn giữ đoạn xương sườn của Cao Côn cắm vào long mạch phải
không..?

Ông Vọng đáp :


— Vâng đúng rồi, tôi vẫn giữ….Dù sao đi nữa đó cũng là xương cốt của ông nội. Tôi
phải giữ cẩn thận chứ. Nhưng sao thầy lại hỏi đến đoạn xương ấy..? Thầy muốn làm
gì với nó…?

Thầy Lương khẽ cười :

— Đó chính là cách mà tôi sẽ kiểm tra xem cậu Vương có phải là dòng dõi của Cao gia
hay không. Phiền trưởng làng đem đoạn xương đó ra đây.

Lấy trong tay nải ra một túi nhỏ chứa thảo mộc. Thầy Lương đưa cho Vương rồi dặn :

— Giờ cháu đun cho ta một chút nước ấm. Sau đó đổ nước ra chậu, thả chỗ thảo
mộc này vào trong nước. Làm xong bê chậu nước lên đây cho ta.

Vương vâng dạ rồi lập tức đi làm theo lời thầy Lương căn dặn. Trong lúc Vương đi
chuẩn bị nước thì ông Vọng tiến lại bàn rồi đặt lên mặt bàn một chiếc hộp gỗ hình
chữ nhật to hơn nửa bàn tay một chút.

Ông Vọng nói :

-- Trong hộp này là đoạn xương mà tôi đã lấy được bên dưới đáy giếng. Tôi cẩn thận
để vào trong hộp gỗ đặt phía sau bát hương thờ cúng trên bàn thờ. Nhưng rốt cuộc
thì thầy định làm gì với đoạn xương này.

Thầy Lương đáp :

-- Trưởng làng cứ ngồi xuống đợi đi, một chút nữa thôi tôi sẽ nói cho trưởng làng
nghe. Đợi cháu Vương đun nước xong chúng ta sẽ bắt đầu.

Trong lúc chờ Vương, thầy Lương châm một ngọn nến, tiếp đó ông lấy ra một con
dao chỉ nhỏ bằng ngón tay út, con dao được bọc trong một lớp vải đen kín kẽ. Ánh
dao sáng loáng được thầy Lương hơ trên lửa ngọn nến có lúc chuyển màu đỏ rực.
Dùng vải lau sạch con dao bằng một chút rượu. Đúng lúc đó, Vương cũng bê chậu
nước ấm có thảo mộc lên trên nhà.

Vương nói :

-- Bác Lương, cháu làm đúng như lời bác dặn rồi…..Cháu đặt chậu nước ở đâu đây
ạ..?

Thầy Lương nói Vương đặt luôn lên bàn uống nước. Đặt chậu xuống, Vương khẽ đưa
mắt nhìn những dụng cụ được chuẩn bị sẵn, trong hộp gỗ có lót vải đỏ kia chắc là
đoạn xương sườn của Cao Côn dùng trấn yểm long mạch mà Vương được nghe thầy
Lương kể khi nãy.

Đang nhìn, Vương giật mình khi thầy Lương nói :


-- Cháu ngâm hai bàn tay vào chậu nước đi, cứ để yên như thế tầm 5 phút.

Ông Vọng hơi ngần ngại, Vương thì nhúng cả hai bàn tay vào trong chậu nước ấm có
pha thảo mộc. Thầy Lương mỉm cười :

-- Đừng lo, những loại thảo mộc trong chậu nước đều mang tính dương. Có tác dụng
thanh tẩy âm khí, tôi muốn cháu Vương rửa tay sạch sẽ, có thể trạng tốt nhất trước
khi tiến hành khảo nghiệm mà thôi. Mùi thơm của thảo mộc còn giúp cho con người
ta cảm thấy thoải mái, nhẹ nhõm. Lần trước tôi cũng cho trưởng làng uống loại bột
được xay ra từ những loại thảo mộc này đó. Không chết người đâu mà sợ….Ha ha ha.

Trong lúc Vương đang ngâm tay thì thầy Lương đặt bên cạnh Vương một tấm khăn
vải màu đỏ rồi nhắc :

-- Lát dùng tấm vải này để lau khô tay là được.

Xắp xếp lại ngay ngắn hộp gỗ đựng xương của Cao Côn, đặt con dao nhỏ ngay bên
cạnh chiếc hộp gỗ. Thầy Lương nhìn ông Vọng nói :

-- Bác trưởng làng còn nhớ lần hóa giải trấn yểm long mạch chứ..?

Ông Vọng gật đầu :

-- Làm sao tôi có thể quên được, nhưng sao ạ…?

Thầy Lương tiếp :

-- Khi ấy trưởng làng đã chích ba giọt máu nhỏ vào đoạn xương này theo như lời tôi
dặn phải không..?

Ông Vọng tiếp tục gật đầu, thầy Lương lại hỏi :

-- Vậy khi đó trưởng làng thấy gì…?

Ông Vọng đáp :

-- Ngay khi máu của tôi nhỏ vào đoạn xương, máu thấm vào xương rất nhanh. Đoạn
xương đang từ màu đen dần dần chuyển sang màu ngà vàng.

Thầy Lương nói :

-- Văn tự trong viên đá hồng ngọc có viết “ Cao Gia Huyết Thống “. Đây không đơn
giản chỉ là nói về máu mủ của Cao gia, mà còn là thâm ý của Cao Côn về những người
mang huyết mạch của dòng họ Cao. Nói dễ hiểu hơn, chỉ có dùng máu mới có thể
khẳng định một người có phải thuộc dòng dõi của Cao gia hay không. Ở bên Trung
Quốc, người xưa có một cách xác định huyết thống rất đặc biệt. Nó đặc biệt ở chỗ,
có thể dùng cách này để xác nhận huyết thống với cả người đã chết.

Ông Vọng vội hỏi :

-- Họ đã dùng cách nào vậy thầy…?

Thầy Lương đáp :

-- Họ dùng xương của người đã chết, sau đó lấy máu của người cần xác định huyết
thống nhỏ vào xương người đã chết kia. Nếu máu thấm vào xương không chảy ra
ngoài thì họ chắc chắn chung huyết thống. Còn ngược lại, nếu máu không thấm vào
xương thì họ không có liên quan gì đến nhau cả. Trên thực tế, cách này thường chỉ
được áp dụng đối với cha và con. Nhưng Cao Côn là một người có thể chấp nhận việc
Cao gia bị thảm sát để đổi lại mạng sống cho máu mủ của mình có nghĩa câu nói “
Cao Gia Huyết Thống “ phải mang một hàm ý sâu xa. Qua việc trưởng làng, cháu nội
của Cao Côn có thể hóa giải trấn yểm long mạch của ông ta bằng máu, khi máu nhỏ
vào xương đã ngay lập tức thấm vào. Như vậy đối với Cao Côn, chỉ cần là người
mang trong mình huyết mạch của Cao gia, khi máu nhỏ vào xương của ông ta, đều
được chấp nhận.

Vương hồi hộp hỏi :

-- Vậy là cháu chỉ cần cắt máu mình rồi nhỏ vào đoạn xương đó là biết được cháu có
phải người thuộc dòng dõi Cao gia không phải không bác Lương…?

Thầy Lương gật đầu, ông nói :

-- Đúng là như vậy, nhưng đừng lo…...Ta làm chuyện này chỉ là để khẳng định lại 1
lần cuối cùng mà thôi. Dẫu sao chuyện này trước mắt liên quan đến mạng sống của
cháu, sau là của toàn bộ dân làng. Tuy hơi khiếm nhã, nhưng ta không còn cách nào
khác. Giá như trời quang mây tạnh, đêm nay dưới ánh trăng chúng ta sẽ có thể xác
định huyết thống bằng viên hồng ngọc. Nhưng thời gian cấp bách, ta còn nhiều điều
phải nói với hai người. Vậy nên cháu cố chịu đau một chút nhé, được rồi, cháu lau
tay khô đi.

Vương vâng dạ rồi dùng tấm vải thầy Lương đã chuẩn bị sẵn lau tay, ông Vọng không
dám thở mạnh, ông hồi hộp chờ đợi khi thầy Lương khẽ cầm con dao lên. Tất cả mọi
người đều đang chờ đợi xem khi máu cắt xuống sẽ xảy ra hiện tượng gì.

“ Xoẹt “

Tiếng dao sắc lẹm khẽ vang lên một cách rõ rệt, bởi bên ngoài trời đang nín gió, bên
trong nhà cảm tưởng như cả 3 người đều đang nín thở tập trung. Vương khẽ nhăn
mặt khi máu bắt đầu nhỏ xuống.

“ Tách….Tách….Tách “
“ Uỳnh….Oàng “

Một tiếng sấm động trời kèm theo tia sét sáng lòa bên ngoài khoảng sân, ánh sét còn
sáng hơn cả ánh đèn điện bên trong nhà.

Ngọn nến bị gió lùa khẽ lay động, le lắt nhưng không tắt…….Trước mặt thầy Lương,
ông Vọng, và Vương…….Ba giọt máu vừa nhỏ xuống ngay khi chạm tới đoạn xương
của Cao Côn đã chảy xuống thấm vào tấm vải đỏ mà ông Vọng lót bên dưới.

Ánh sét lại lóe lên một lần nữa…...Máu thực sự không ngấm vào xương…..

#Chap83 : Mở “ Quỷ Môn Quan “ ?


Thầy Lương dùng ngón tay cái ấn chặt vào vết cứa đang rỉ máu, tay còn lại thầy quệt
nhẹ một chút thuôc trị thương trong cái lọ nhỏ đã mở sẵn. Bôi thuốc lên vết thương,
máu từ đầu ngón tay của thầy Lương không còn chảy ra nữa.

Nhìn cha con ông Vọng, thầy Lương mỉm cười khẽ nói :

-- Hai người nhìn rõ rồi chứ, sau khi cắt máu nhỏ vào đoạn xương của Cao Côn, máu
của tôi lập tức bị bài trừ. Không hề ngấm một chút gì gọi là có vào trong đoạn xương
này cả. Bởi vì tôi không phải người mang dòng máu của Cao gia. Để cho hai người dễ
hình dung và có được cái nhìn chính xác nhất, tôi vừa chứng minh thử. Còn bây giờ,
Vương, lại đây, cháu sẽ nhỏ máu của mình vào đoạn xương trong chiếc hộp gỗ này
như ta vừa làm.

Vương nuốt nước bọt, dù sao đi nữa chuyện này cũng vô cùng kỳ quái, chưa bao giờ
Vương nghĩ mình chuẩn bị xác nhận huyết thống với một người đã chết cách đây rất
lâu về trước. Thực tình mà nói, khi thầy Lương nhỏ máu vào đoạn xương, Vương
nghĩ ít nhiều máu cũng sẽ thấm vào xương, hoặc bám dính chút chút trên bề mặt
đoạn xương màu ngà vàng ấy. Nhưng không, máu chạm tới xương thì trơn tuột đi,
tựa hồ đoạn xương ấy như bề mặt của một chiếc lá sen, máu của thầy Lương như
hạt sương sớm đọng trên lá sen nhưng chỉ cần nghiêng nhẹ, nước sẽ trôi đi không
vương lại chút gì.

Thầy Lương hỏi Vương :

-- Có cần ta giúp không..?

Vương đáp :

-- Để cháu tự làm, chỉ cần nhỏ máu vào đoạn xương này thôi phải không ạ…?

Thầy Lương gật đầu, Vương đưa ngón tay trỏ cùng con dao nhọn sát vào chiếc hộp
gỗ bên trong có đoạn xương của Cao Côn.
Vương khẽ cau mày rồi dùng dao rạch một đường ngay đầu ngón trỏ, nặn cho máu
chảy xuống, Vương nín thở chờ đợi xem chuyện gì sẽ xảy ra. Không chỉ Vương mà
ngay đến thầy Lương, ông Vọng cũng hồi hộp không kém.

“ Uỳnh “

Cả ngôi nhà như vừa rung chuyển, cảm tưởng như mặt đất dưới chân bất chợt chao
đảo sau tiếng sấm động trời, đây cũng là tiếng sấm kinh khủng nhất mà cha con ông
Vọng được nghe từ trước tới nay.

Ông Vọng run run giọng nói :

-- Máu….máu thấm…..hết vào...rồi kìa….Thầy Lương ơi….như...vậy là…?

Máu của Vương nhỏ vào đoạn xương đến đâu đều thấm hết vào xương đến đó.
Không chỉ vậy, sau khi nhận máu của Vương, đoạn xương thêm một lần nữa chuyển
màu. Theo như lời ông Vọng thì lần đầu tiên ông nhìn thấy đoạn xương găm bên
dưới đáy giếng, bên trong hòn đá đầu lâu thì xương có màu đen. Nhưng khi ông
Vọng nhỏ máu vào thì xương đã chuyển màu vàng ngà. Và giờ đây, đoạn xương ấy
đã dần chuyển sang màu trắng hơi đục.

Thầy Lương lấy thuốc trị thương cho Vương, thầy nhìn Vương khẽ gật đầu nói :

-- Không còn nghi ngờ gì nữa, cháu chính là chắt của Cao Côn, cháu thực sự là người
mang huyết thống Cao gia. Được rồi, giờ hãy dọn dẹp những thứ này đi, sau đó ta sẽ
chỉ cho cháu phải làm thế nào khi đến khu vực Cự Môn.

Ông Vọng cẩn thận cất chiếc hộp gỗ đựng đoạn xương của Cao Côn trở lại chỗ cũ
phía sau ban thờ, thầy Lương cũng bỏ những đồ vật của mình vào lại trong tay nải,
Vương dọn dẹp sạch sẽ bàn uống nước. Xong xuôi, bố con ông Vọng lại tiếp tục đợi
thầy Lương chỉ đường dẫn lối. Bởi trước đó thầy Lương có nói, không phải cứ khơi
khơi đến đó đào bới mà được.

Thầy Lương trở lại bàn uống nước, nhưng trước khi vào vấn đề chính, ông Vọng có
một thắc mắc, ông ấp úng hỏi :

-- Thưa thầy, khi nãy đoạn xương ấy lại tiếp tục chuyển màu….Điều….điều này liệu có
nguy hiểm gì không ạ..?

Thầy Lương mỉm cười, thầy nói :

-- Trưởng làng đừng lo, tôi lại coi đó là một dấu hiệu tốt. Trưởng làng nói, khi viên đá
đầu lâu vỡ ra, đoạn xương găm vào long mạch ấy có màu đen kịt. Qua hai lần nhận
máu của cháu, chắt Cao gia…..Đoạn xương Cao Côn dùng trấn yểm đã chuyển từ đen
sang trắng đục. Khi nãy tôi cũng cảm nhận được tà khí toát ra từ đoạn xương đã
giảm đi đáng kể. Tôi đồ rằng, đoạn xương kia đang dần được máu của trưởng làng và
cháu Vương thanh tẩy. Cũng dễ hiểu thôi, khi xưa Cao Côn dùng xương của mình
trấn yểm long mạch, tạo ra nghiệp chướng, suốt cả 100 năm phá hoại địa mạch, tà
khí tích tụ không ít. Nay sắc đen đã biến mất điều này là đáng mừng. Hai người đừng
lo…..Cũng coi như Cao Côn phước số vẫn còn nên ông trời mới để lại cao Cao gia hai
hậu thế đức độ, giúp ông ta gánh bớt ác nghiệp như vậy. Nhưng trưởng làng nhớ hãy
giữ gìn kỹ đoạn xương ấy. Sau này trưởng làng sẽ hiểu cần phải làm gì. Thôi chuyện
sau này tạm gác lại, giờ hai người nghe cho rõ, nhất là Vương, cháu cần phải nhớ kỹ
những gì mà ta sắp nói sau đây.

Vương gật đầu im lặng lắng nghe, thầy Lương bắt đầu viết lại những gì mà ông Vọng
nhìn thấy trong viên đá hồng ngọc.

天 天 天 天 玉 開 摇.
枢 璇 玑 权 衡 陽 光.

“高家的血统,北斗七星, 我放在天璇,中秋节午夜, 全部给王 ”

Để Vương và ông Vọng dễ hiểu hơn, thầy Lương cẩn thận viết lại cả phiên âm lẫn
ngữ nghĩa của văn tự mà Cao Côn để lại.

“ Thiên Thiên Thiên Thiên Ngọc Khai Dao.


Xu Tuyền Cơ Quyền Hành Dương Quang. “

( Tham Cự Lộc Văn Liêm Vũ Phá


Lang Môn Tồn Khúc Trinh Khúc Quân )

“ Cao Gia Huyết Thống - Bắc Đẩu Thất Tinh - Để Ở Thiên Tuyền (Cự Môn) - Trung Thu
Nửa Đêm - Cho Vương Tất Cả. “

Viết xong, thầy Lương nhìn hai bố con ông Vọng rồi chỉ tay vào tên của 7 ngôi sao
trong Thất Tinh Bắc Đẩu.

Thầy Lương nói :

-- Trước tiên Vương, cháu cần phải nhớ rõ tên của 7 ngôi sao này. Tất nhiên không
phải tên tiếng Việt mà là tên tiếng Trung của chúng. Còn từ giờ đến sáng mai, ta sẽ
dạy cháu cách phát âm, cách viết tên của 7 ngôi sao này sao cho đúng nhất. Đừng lo,
cháu là người có tư chất thông minh, hơn nữa cũng đã làm việc bên Trung Quốc mấy
năm, chuyện này với cháu mà nói không có gì khó khăn cả. Điều quan trọng là phải
đọc đúng theo thứ tự từ Thiên Xu ( Tham Lang ) cho tới Dao Quang ( Phá Quân ).

Vương đáp :

-- Cháu làm được..

Ông Vọng hỏi :

-- Nhưng tại sao lại phải học thuộc và đọc được tên của tiếng Trung của 7 ngôi sao
này khi đến miếu hoang…?

Thầy Lương giải thích :

-- Trưởng làng đừng vội, nghe tôi nói hết đã…..Từ cổ chí kim, chuyện chôn giấu của
cải luôn được thực hiện một cách bí mật. Thậm chí có người còn dùng “ thần “ để
canh giữ của cải. Chắc hẳn trưởng làng và cháu Vương đây ít nhiều cũng từng nghe
về câu chuyện “ thần giữ của “.

Vương trả lời :

-- Dạ cháu có nghe, truyền thuyết kể rằng người ta sẽ dùng một cô gái còn trinh,
trong 100 ngày không cho ăn uống gì mà chỉ cho ngậm sâm. Đến khi cô ta chết sẽ bắt
giữ linh hồn của cô gái đó, và rồi thầy bùa sẽ trấn yểm linh hồn cô ta, bắt cô ta phải
trông coi của cải cho gia chủ. Nếu ai dám động vào chỗ của cải có thần canh giữ sẽ bị
lời nguyền báo hại. Những cô gái như vậy người ta gọi là “ thần giữ của “.

Thầy Lương nhìn Vương gật đầu :

-- Cháu nói sai 1 điều, đó không phải truyền thuyết mà là sự thật…...Không chỉ ở
Trung Quốc, mà ngay cả Việt Nam, rất nhiều nơi được chôn giấu của cải, và ở những
nơi đó đều tồn tại thứ gọi là “ thần giữ của “. Cũng tương tự như vậy, nhưng bùa
phép mà Cao Côn sử dụng thâm độc và nguy hiểm hơn nhiều. Nếu như “ thần giữ
của “ được nuôi dưỡng bằng sâm, thì “ quỷ giữ của “ lại được nuôi bằng máu. Không
bàn sâu đến chuyện này, khi nhắc đến “ thần giữ của “ ý của ta là người giấu của bao
giờ cũng để lại lời giải cho lời nguyền mà họ tạo ra. Ví dụ như muốn lấy được của,
người lấy phải giải được bài toán mà người giấu của để lại. Vấn đề của chúng ta cũng
vậy, muốn xem xem, Cao Côn chôn thứ gì ở Cự Môn, ta cần phải qua được cửa của
bọn Tiểu Quỷ được yểm ở đó. Trong văn tự có nói “ Cao Gia Huyết Thống - Bắc Đẩu
Thất Tinh - Để Ở Thiên Tuyền (Cự Môn) - Trung Thu Nửa Đêm - Cho Vương Tất Cả “.
Và lời giải đầu tiên của chúng ta chính là người mang huyết thống của Cao gia, thứ
hai Cao Côn nhắc đến Bắc Đẩu Thất Tinh và phía trên là tên gọi của 7 ngôi sao trong
Bắc Đẩu Thất Tinh. Từ thời cổ xưa, người đời truyền miệng nhau rằng, muốn lấy
được của của thần, người lấy phải đọc đúng bài thơ hoặc câu thần chú mà người
chôn của giao ước với thần giữ của. Tên của 7 vì tinh tú trong Bắc Đẩu Thất Tinh
chính là lời giải khi đặt chân đến Cự Môn. Cứ như vậy những câu tiếp sau đã chỉ rõ
toàn bộ những gì Cao Côn muốn truyền đạt.

Nhìn Vương, thầy Lương quả quyết :

-- Vào đêm trung thu, thời gian ở đây chính là nửa đêm ( giờ Tý ). Khi cháu đến miếu
hoang, cháu đeo sợi dây chuyền, miệng đọc tên của 7 ngôi sao bắt đầu từ Thiên Xu
cho tới Dao Quang. Dùng máu của mình để khẳng định mình chính là “ Vương “, khi
ấy cháu sẽ đào được thứ mà Cao Côn nói “ Cho Vương Tất Cả “. Tuy nhiên, là phúc
hay là họa thì không một ai trong chúng ta có thể biết được cả. Nói một cách khác,
cho tới thời điểm này, ba người chúng ta dường như cũng chỉ là ba con cờ trong bàn
tay của Cao Côn, một người đã chết mà thôi.
Vương vừa nghe mà mặt vừa tái nhợt đi, Vương run giọng nói :

-- Nếu….nếu….lỡ…..như cháu vô tình...mở ra….Quỷ Môn Quan….thì


liệu….liệu….có...cách nào….

Thầy Lương cau mày, giọng thầy trùng xuống, ánh mắt thầy khiến bố con ông Vọng
chợt rùng mình, thầy Lương trả lời :

-- Khi đó…..Ta sẽ đóng nó lại…...Ha ha ha…..Ha ha ha.

#Chap84 : Mê Hồn Hương.


Tối hôm đó trời mưa tầm tã, cơn mưa kéo dài cho tới tận nửa đêm. Mặc cho bên
ngoài mưa lớn, trong nhà, thầy Lương vẫn đang tập trung chỉ dạy cho Vương những
điều cần thiết để chuẩn bị cho đêm ngày mai. Cũng do bởi sau khi xác nhận Vương
thực sự là con cháu của Cao Côn nên mọi thứ có vẻ đã dễ dàng hơn rất nhiều. Văn tự
trong viên hồng ngọc cũng đã ghi rõ, mọi thứ ở Cự Môn là dành cho Vương. Điều
quan trọng lúc này là liệu khi Vương lấy thứ đó lên, sẽ là phúc hay là họa.

Tư chất thông minh, lại thêm những năm sống bên Trung Quốc làm việc, Vương học
rất nhanh, phát âm cũng rất chuẩn. Với thầy Lương thì điều này không có gì lạ, bởi
ngay lần đầu gặp Vương, thầy đã biết, cậu thanh niên này có điều gì đó đặc biệt.
Cũng chính vì điều này mà thầy Lương sợ rằng, vì có tư chất nên Vương mới chính là
người được lựa chọn chứ không phải ông Vọng. Đáng lẽ ra, Cao Côn phải để lại tất cả
cho cháu đích tôn của mình mới phải đạo. Đằng này, văn tự chỉ nhắc đến Vương.
Liệu rằng điều này ẩn chứa hàm ý nguy hiểm nào đó.

Cho tới tận lúc này, càng đi đến gần tới cuối con đường, thầy Lương lại càng thấy
Cao Côn thâm sâu, khó dò đến mức nào. Chưa cần nhắc đến việc Cao Côn đã chết,
mà chỉ nhìn vào những sắp xếp, dự liệu như thần của ông ta cho hậu thế về sau cũng
đủ lạnh gáy, hoảng sợ rồi. Chuyện này nằm ngoài sức tưởng tượng của thầy Lương.
Tuy nhiên, càng tìm hiểu về Cao Côn, thầy Lương lại thấy có chút gì đó quen thuộc,
nhưng không biết diễn tả ra làm sao.

Bỗng nhiên Vương hỏi thầy Lương :

-- Bác Lương, bác đã sống ở Việt Nam lâu chưa….?

Thầy Lương đáp :

-- Tính tới nay cũng đã hơn 30 năm rồi.

Vương ngạc nhiên :

-- Vậy là hơn nửa cuộc đời bác sống tại Việt Nam, chẳng trách bác lại nói tiếng Việt
giỏi như vậy. Ai không biết chẳng bao giờ nghĩ bác là người gôc Hoa.
Thầy Lương mỉm cười :

-- Suốt gần 30 năm qua ta lang thang, ngang dọc trên tất cả mọi miền của đất nước
này. Cũng học hỏi được không ít những kiến thức cũng như cách sống của con người
Việt Nam. Từ lúc nào ta đã như một người Việt Nam rồi.

Vương hỏi tiếp :

-- Vậy 30 năm qua, có khi nào bác quay về Trung Quốc không…? Chứ như cháu, xa
nhà vài tháng là cháu nhớ nhà lắm.

Thầy Lương trả lời :

-- 30 năm, có 1 lần ta quay về Trung Quốc...Ta khác với cháu, cháu có người thân
đang chờ đợi, có quê hương, có người làng, người xóm mong nhớ. Còn ta sau khi sư
phụ ta qua đời, ta chẳng còn người thân nào nữa. Mà thân ta đã khiến người thất
vọng, nghiệp chướng do ta gây ra quá nặng nề, không còn mặt mũi nào đứng trước
vong linh, hương hỏa của người nữa.

-- Bác năm nay cũng đã 50 tuổi, chẳng lẽ bác không có vợ con gì sao…?

Câu hỏi của Vương khiến thầy Lương bỗng khựng lại, im lặng một hồi, thầy đáp :

-- Có chứ, ta đang trên đường đến gặp họ đây…...Tập trung vào học thuộc những thứ
mà ta vừa chỉ, nhớ kỹ những gì ta dặn. Chuyện này có liên quan đến an nguy của tất
cả những người dân trong làng này. Xảy ra sơ suất, không chỉ chúng ta vong mạng,
mà toàn bộ làng Văn Thái cũng rơi vào tình cảnh nguy hiểm.

Vương gật đầu vâng dạ, một lúc sau thì trời tạnh mưa, nhưng mặt trăng vẫn không
thể ló dạng trong thời tiết mưa giông như vậy được. Cũng đã muộn, thấy Vương
cũng nắm chắc chắn được hết các khẩu quyết, thầy Lương nói Vương thu dọn lại đồ
đạc để chuẩn bị đi nghỉ.

Xong xuôi, cha con ông Vọng lúc này mới có thời gian để hàn huyên tâm sự. Ông
Vọng kể cho Vương nghe những chuyện đã xảy ra trong làng trong vòng 1 tháng qua.
Từ khi xảy ra sự việc lang Phan treo cổ chết cho tới đám tang của Lực ngày hôm qua.

Vương nói :

-- Con thấy thương con bé Mị quá thầy ạ…...Tội thân nó, bị tật bẩm sinh, mù lòa
không nhìn thấy gì mà còn không nói được nữa. Nhưng hình như nó nghe giọng biết
người hay sao ấy. Mấy lần trước về, con đem bánh cho nó, nó nghe tiếng con là nó
cười à. Nói trong làng này thì con thương nó nhất, ngoài bánh kẹo, đồ chơi, còn còn
mua cho con bé bộ quần áo mới. Vậy mà giờ nghe tin này, đau lòng quá thầy ạ.
Nhưng con còn buồn hơn bởi không thể nghĩ, cô Xoan lại là người như vậy. Sáng mai
con sẽ ra thăm mộ gia đình họ, cũng tiện thắp cho bé Mị nén nhang. Chỉ có hơn nửa
năm không về, làng ta xảy ra nhiều chuyện khủng khiếp quá. Dù chỉ nghe kể thôi con
cũng nổi hết da gà. Vậy mà thầy đã phải trải qua những điều đó, phận làm con phải
để thầy gánh vác mọi chuyện. con thật bất hiếu. Phải chi con có ở nhà thì tóc thầy
đâu bạc đến mức này.

Ông Vọng khẽ cười rồi nói :

-- Thằng ngố này, mày có ở nhà thì thầy cũng chẳng để cho mày làm những chuyện
đó. Cha mẹ sinh con, sao có thể để cảnh người đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh được. Đừng
có lo, thầy Lương nói cha mày phúc lớn, mạng lớn, không chết được đâu mà sợ. Chỉ
là tóc bạc thôi mà, mày xem xem bên Trung Quốc có loại thuốc nào nhuộm đen mày
mua về cho thầy dùng với, nhuộm xong lại chẳng đen hơn than à….? Ha ha ha….Ha
ha ha.

Hai cha con ông Vọng nhìn nhau bật cười, trời đêm thanh vắng, gió khẽ lùa vào trong
nhà qua vết nứt của khe cửa. Lúc này đã quá 12h đêm, lúc cha con ông Vọng toan
định đi ngủ thì thầy Lương tiến lại gần. Trên tay thầy Lương cầm thứ gì đó, đưa cho
ông Vọng và Vương mỗi người 1 cục, thầy Lương hỏi :

-- Nhắc đến than, hai người xem xem đây có phải than không nhỉ…?

Trên tay ông Vọng và Vương đang cầm là một cục nhỏ chỉ bằng đốt ngón tay cái,
không tròn mà hơi góc cạnh, có màu đen như than, nhưng hình như mùi từ cái cục
đen đen ấy tỏa ra hơi thơm thơm.

Vì để xa mũi nên mùi hương chỉ hơi phảng phất, ông Vọng nhìn nhìn rồi đáp :

-- Này không phải than thầy ạ…? Mà sao nó có mùi gì thơm thế nhỉ…?

Vừa nói ông Vọng vừa đưa lên mũi hít hít, bên cạnh Vương cũng làm thế, Vương
nói :

-- Công nhận thơm thật đấy, mùi thơm dễ chịu cực kỳ….Nhìn tưởng là than, vậy mà
sao…..thơm…..thế…..

Nói chưa dứt câu, Vương từ từ díu mắt rồi đổ gục xuống mặt bàn, ông Vọng cũng
không ngoại lệ. Thầy Lương đưa tay đỡ hai người họ rồi khẽ nở một nụ cười. Cha con
ông Vọng lúc này đây đã hoàn toàn bất tỉnh nhân sự, họ ngủ say như chết không còn
biết gì cả.

Thầy Lương nói :

-- Tất nhiên nó không phải là than rồi, chuyện đã đến nước này thì đành phải thất lễ
với hai người vậy. Yên tâm, ta sẽ làm nhanh thôi, cả hai người sẽ không cảm thấy
đau đớn gì cả.

Từng người một, thầy Lương dìu họ dậy rồi đặt lên trên giường, vẫn từ tay nải, thầy
Lương lấy ra một chiếc hộp gỗ, tắt đèn, thay vào đó thầy Lương châm nến, thầy đặt
ở bốn góc giường 4 cây nến rồi châm lửa thắp sáng. Ánh nến lập lòe khiến cho bên
trong nhà ông Vọng khung cảnh ma quái vô cùng.

In trên tường nhà là bóng của thầy Lương đang đưa tay làm gì đó, bàn tay của cái
bóng ấy đang cầm một thứ sắc dọn, rất dài hơ qua ngọn lửa đèn cầy. Cái bóng đó
tiếp tục một tay cầm dao cắt máu từ tay còn lại, không gian tĩnh lặng đến mức, thầy
Lương có thể nghe được chính tiếng máu của mình đang nhỏ giọt xuống cái chén bạc
nhỏ bằng 2 đầu ngón tay hứng sẵn ở bên dưới.

Chén bạc đầy máu, thầy Lương mới dừng lại. Cởi áo cha con ông Vọng ra, thầy Lương
lật họ nằm úp xuống. Tiếp theo, thầy Lương dùng cây kim dài phải đến 1 gang tay,
thầy Lương dùng tay bấm từ huyệt bách hội, kéo thẳng xuống giáp tích, nhấn giữ
như vậy vài giây, thầy Lương buông hai tay ra rồi đồng loạt bấm cùng lúc vào hai
huyệt kiên trung du và kiên tinh, từ hai bên, thầy Lương miết hai ngón cái đang điểm
hai huyệt áp sát vào nhau và dừng lại ở chính huyệt đại chùy.

Dưới ánh nến, phần xương hơi nhô lên nơi huyệt đại chùy xuất hiện vết bầm đen
nhỏ xíu. Ngay lập tức, thầy Lương dùng kim châm thẳng vào nốt bầm ấy, một giọt
máu đen xì rỉ nhẹ theo mũi kim chảy ra bên ngoài. Dùng một chén bạc khác, thầy
Lương hứng lấy hai giọt máu đen từ hai cha con ông Vọng rồi khẽ gật đầu :

-- Giờ thì hai người không thể ngăn cản ta nữa rồi…….Phải dùng đến hạ sách này
thực sự ta rất áy náy. Nhưng ta biết, cả hai người đang nghĩ gì, đừng cố che giấu như
vậy chứ. Cao Côn, tôi muốn xem xem, đến cuối cùng, ông muốn giở trò gì…..Khà khà
khà…..Khà khà khà..

“ Vù….ù….ù….vù….”

“ Ù….ù….ù…”

Bên ngoài gió vẫn đang thổi, đêm mai, chính là đêm Rằm Trung Thu…..

#Chap85 : Đêm Rằm Trung Thu.


Sáng hôm sau, khi hai cha con ông Vọng tỉnh dậy đã thấy thầy Lương ngồi ở ghế từ
bao giờ. Bên ngoài trời đã hảnh nắng, ông Vọng và Vương không nhớ hôm qua mình
ngủ từ lúc nào. Điều mà Vương còn nhớ là khi hai cha con đang nói chuyện với nhau.

Vương hỏi ông Vọng :

-- Hôm qua thầy với con đi ngủ từ khi nào vậy nhỉ…?

Ông Vọng đáp :

-- Thầy cũng không nhớ, nhưng lúc ấy cũng phải nửa đêm rồi. Mà thôi, dậy di, chẳng
phải con nói hôm nay đi ra mộ thắp hương cho gia đình cô Xoan sao. Chậc, thất lễ
quá, chúng ta ngủ giờ mới mở mắt, để thầy Lương phải chê cười rồi.

Bước vội xuống giường, Vương thấy hình như cơ thể có chút đau nhức, nhưng tinh
thần thì rất tỉnh táo. Vươn vai, Vương tiến lại chỗ thầy Lương đang ngồi rồi lễ phép
nói :

-- Bác Lương hôm qua ngủ ngon chứ ạ. Xin lỗi bác, chắc cháu đi đường xa nên mệt
quá, ngủ lúc nào không hay.

Ông Vọng tiếp :

-- Thật ngại quá, tính ra thầy còn vất vả hơn bố con tôi mà thầy đã dậy trước rồi. Để
tôi xuống bếp xem…..

Thầy Lương đáp :

-- Bữa sáng tôi đã chuẩn bị xong hết rồi, cũng chẳng có gì, vài thứ tôi kiếm được
ngoài vườn nhà mình thôi. Lâu nay tôi nương nhờ ở đây, trưởng làng khoản đãi tôi
nhiều rồi, hôm nay có cháu Vương về để tôi thể hiện một bữa.

Bữa cơm sáng được ông Vọng bê lên, mâm cơm có rau, có cá...nhìn bắt mắt và hấp
dẫn vô cùng. Mà cách chế biến cũng có phần khác lạ với những gia vị, hương liệu đặc
trưng. Vương nhìn mâm cơm trầm trồ :

-- Bác Lương, những món này đều được nấu theo kiểu Hoa phải không ạ, món cá hấp
xì dầu này có mùi hoa hồi, hạt tiêu, ớt khô nữa…...Những thứ gia vị này là đợt tết
năm ngoái cháu mua về. Nhưng thầy cháu không dùng đến thì phải, thơm quá bác ạ.

Thầy Lương mỉm cười :

-- Đúng là người đi Trung Quốc về có khác, ta cũng đoán chỗ gia vị dưới bếp là do
cháu mua. Vậy nên ta mới nảy ra ý định nấu vài món Hoa, lâu rồi ta cũng chưa
thưởng thức lại mấy món này. Cá câu ở ao đó, rau củ thì hái ngoài vườn. Nào, mời
hai cha con trưởng làng thưởng thức thử xem sao. Ha ha ha.

Vương sau khi mời bố và thầy Lương thì thử luôn, ông Vọng cũng ăn, cả hai tròn mắt
nhìn nhau rồi cùng gật đầu đồng thanh nói :

-- Ngon, ngon thật đấy….Không thể tin được.

Thầy Lương cười lớn :

-- Ha ha ha, ha ha ha ngon lắm phải không…? Vậy là tôi vẫn chưa quên đi hương vị
của mấy món Hoa này.

Vương đáp :
-- Cháu cũng từng được ăn món này rồi, nhưng ngoài mùi vị đặc trưng ra, món của
bác còn thơm ngon hơn. Bác có bí quyết gì không ạ…?

Thầy Lương mỉm cười :

-- Chắc có lẽ là do cách căn lửa, để làm được món cá hấp ngon nhất, ngoài gia vị thì
việc điều chỉnh nhiệt độ lửa sao cho phù hợp, lúc nào cần lửa to, lúc nào cần lửa
nhỏ….Như vậy cá mới chín đều, không nát, mùi tanh không còn, các hương liệu đi
kèm qua đó cũng hòa quyện vào món ăn một cách tuyệt hảo nhất. Và để làm được
điều này, người nấu phải đặt gần như cả tâm huyết của mình vào món ăn. Bởi chỉ
một chút xao nhãng thôi, mọi thứ sẽ khác.

Ông Vọng cười xòa :

-- Nấu ăn thôi mà nghe thầy nói tôi cũng thấy phải suy nghĩ, có quá nhiều công đoạn
rồi. Nhưng đúng là món cá hấp này ngon thật, cả đời tôi sống đến bây giờ mới ăn
được món cá ngon như vậy.

Vương thì khác với ông Vọng, chỉ qua lời nói về cách nấu ăn, Vương nhận thấy thầy
Lương thực sự có nhiều điều muốn bộc bạch, mỗi câu của thây Lương đều mang một
hàm ý sâu sắc.

Vương hỏi :

-- Vậy để nấu mấy món này, chắc hẳn bác phải thức dậy rất sớm. Hì, cha con cháu
được thưởng thức tay nghề của bác Lương quả thực may mắn. Nhưng không phải tự
nhiên bác tốn công nấu mấy món này chỉ vì nhớ món Hoa phải không ạ…?

Thầy Lương khẽ gật đầu :

-- Cháu đúng là biết cách thấu hiểu người khác. Phần vì ta muốn nấu món cá này là vì
có một người rất thích, người này từng nói ta làm món cá hấp xì dầu này là vô địch
thiên hạ, ha ha ha….ha ha ha…...Mà thôi, hai người dùng đi không nguội, dẫu sao sau
đêm nay, chúng ta cũng cáo biệt nhau rồi. Đây cứ coi như bữa cơm chia tay vậy.

Hai cha con ông Vọng nhìn nhau rồi cũng khẽ cười, đúng vậy, còn chưa biết qua đêm
nay mọi thứ sẽ thay đổi ra sao. Nhưng đã ngồi với nhau trong bữa cơm như thế này
thì ắt có duyên, bữa cơm sáng đầy ắp tiếng cười, chẳng ai nói hay nhắc gì đến Cao
Côn và những gì có liên quan đến ông ta nữa.

Ăn xong, Vương sửa soạn chút đồ đạc rồi đi cùng ông Vọng ra nơi chôn cất ba người
gia đình cô bé Mị. Trong thời gian này, dân làng còn đang hoang mang bởi sự việc bà
Điều và Lực bị chết ngoài miếu nên ai cũng sợ, rất ít người ra ngoài. Họ đang chờ đợi
thông tin cuối cùng mà công an xã kết luận, nhưng tới hôm nay đã trôi qua 2 ngày,
vẫn chưa có kết quả. Những tin đồn về ngôi miếu hoang đó lại một lần nữa được
thêu dệt lên còn khủng khiếp, kinh dị hơn cách đây 20 năm về trước. Tối đến, bà con
tắt đèn, đóng cửa ngủ sớm. Cũng đã có một vài người nói rằng, cứ nửa đêm họ lại
nghe thấy tiếng trẻ con cười khúc khích bên ngoài đường. Tiếng cười cứ lúc to, lúc
nhỏ, lúc xa, lúc gần…...Tiếng cười vang lên một lúc rồi lại biến mất.

Mặc cho đã có hai người chết tại miếu, mặc cho những lời đồn đại về ma quỷ xuất
hiện ngoài miếu, ngôi miếu bị bỏ hoang cả chục năm qua, trước đó đất đai khô cằn
thì nay hoa mọc vàng ươm trên nền cỏ xanh mướt. Khu đất từng là nơi đẹp nhất làng
Văn Thái ấy nay đã dần dần khôi phục lại vẻ đẹp khi xưa, nhưng nó cũng là nơi đáng
sợ nhất, nguy hiểm nhất dối với người dân làng Văn Thái, bởi nơi đây đã xảy ra
những cái chết kỳ dị.

Bao năm qua, có lẽ Trung Thu năm nay là Trung Thu buồn nhất đối với cả làng nói
chung và Vương nói riêng. Mọi năm cả làng dón Trung Thu cũng như mừng ngày sinh
nhật của Vương. Bước trên đường làng vắng vẻ, Vương nói với ông Vọng :

-- Cứ thế này thì làng ta bao giờ mới hết khổ hả thầy….? Chuyện này sẽ trôi qua phải
không thầy….?

Ông Vọng đáp :

-- Thằng ngố này, thế mà cũng phải hỏi, rồi mọi thứ sẽ quay trở lại như cũ thôi. Mà
mày định đem đồ chơi với bánh kẹo đến nhà từng người một đấy à…?

Vương cười :

-- Dạ vâng, lẽ ra như mọi năm khi dân làng ra đình rước đèn, đón trăng thì con sẽ
chia quà, bỏ bánh kẹo cho bọn nhóc liên hoan. Nhưng như này thì chắc chẳng ai ra
đình nữa đâu. Con mua cho tụi nhỏ, chắc chúng nó vui lắm. Mấy năm qua con cũng
đang cố gắng học lấy cái nghề, khi thành tài con sẽ về dạy lại cho mọi người. Mà thầy
ơi, muốn thoát nghèo thì chỉ có cách duy nhất đó là học và học mà thôi. Mấy đời nay
dân ta vẫn nghèo là do chúng ta không chú trọng vào việc học hành của bọn trẻ.
Người ta giàu hơn mình là do họ được học những thứ mà chúng ta không biết. Trẻ
con làng mình rất thông minh, nếu được học hành tử tế, sau này chúng sẽ thay đổi
cả bộ mặt của ngôi làng.

Ông Vọng hiểu con trai, ông biết ước mơ, hoài bão của con mình chính là giúp đỡ
cho dân làng Văn Thái có một cuộc sống tốt hơn. Nhưng sức con ông quá nhỏ bé,
hoài bão lớn tuy nhiên không phải cứ muốn là sẽ làm được.

Ông Vọng khẽ đáp :

-- Thầy cũng mong cuộc sống của dân làng ta sẽ tốt hơn. Mày phải thay thầy làm điều
này nhé, mày là lớp trẻ, thầy già rồi, không theo kịp suy nghĩ của mày nữa. Nghe mày
nói thầy cũng thấy mừng, bu mày ở dưới suối vàng chắc cũng vui lắm. Hi vọng đêm
nay mọi thứ sẽ diễn ra suôn sẻ, nếu như xảy ra cơ sự gì, chắc thầy có chết cũng
không dám nhìn mặt bu mày mất.

Đem bánh kẹo, đồ chơi đến từng gia đình có trẻ con xong, cha con ông Vọng quay
trở về nhà. Đèn pin, đèn dầu, cuốc, xẻng….mọi thứ đã được chuẩn bị xong. Nhìn vào
vài món đồ đạc sơ sài, Vương thắc mắc :

-- Cháu tưởng sẽ phải chuẩn bị lễ vật, lập đàn cúng tế nữa cơ. Chỉ cần như này thôi
hả bác..?

Thầy Lương khẽ cười :

-- Những thứ đó chỉ để mị người ta mà thôi. Thực ra chúng ta đã chuẩn bị rất kỹ rồi,
thứ quan trọng nhất khi đến đó chính là cháu. Xưa nay việc đào bới của cải phải diễn
ra trong bí mật, cúng vái, làm lễ rùm beng lên chẳng phải tự rước họa vào thân hay
sao. Tin ta đi, thứ mà bọn Tiểu Quỷ đó cần chính là máu của cháu chứ không phải
vàng mã, hoa quả đâu.

Ông Vọng nuốt nước bọt :

-- Liệu….liệu chúng có….làm hại...thằng bé...không hả thầy…?

Thầy Lương đáp :

-- Chúng tồn tại cho tới bây giờ là vì giao ước ma quỷ với Cao Côn. Chúng sẽ không
làm gì tổn hại đến người được chọn. Điều mà tôi lo lắng không phải về đám Tiểu
Quỷ, mà là Cao Côn “ cho Vương tất cả “ rốt cuộc là thứ gì……?

Thời gian cứ thế trôi đi, quả đúng như lời cha con ông Vọng đã nói, mọi năm cứ
trước ngày Trung Thu trời đều mưa xối xả, nhưng tới ngày rằm thì trời quang, mây
tạnh, trăng sáng lung linh, cảnh đêm thanh vắng, bên ngoài tiếng ếch nhái kêu râm
ran mỗi lúc một rõ hơn vì trời đã chuyển dần về giữa khuya. Đứng bên ngoài hiên
nhà, Vương vẫn đang ngắm nhìn những chữ ẩn trong viên hồng ngọc dưới ánh sáng
trăng. Từ lúc trăng lên đến giờ, Vương vẫn chưa thể giải thích nổi điều mà cậu đang
nhìn thấy. Có ánh trăng, chữ trong viên hồng ngọc hiện ra, không có ánh trăng, chữ
lại biến mất. Điều này lại càng khiến cho Vương cảm thấy hồi hộp với chuyện mình
sắp làm tới đây ở miếu hoang. Bỏ sợi dây chuyền vào trong áo, Vương chờ đợi thầy
Lương lên tiếng.

Lúc này, ngồi bên trong nhà, sau khi ông Vọng thắp hương cúi lạy bố mẹ xong, thầy
Lương dùng tay bấm độn, thầy Lương nhìn cha con ông Vọng rồi gật đầu nói :

-- Còn 1 tiếng nữa là tới giờ Tý, chúng ta đi thôi…..Nếu bây giờ, hai người, ai thay đổi
quyết định vẫn còn kịp đó…...Bởi, chúng ta chuẩn bị bước chân vào Quỷ Môn Quan.

#Chap_Cuối : “ Nghe Vẻ Nghe Ve, Nghe Vè Kể Chuyện “


Làng Văn Thái, lúc này đang là hơn 11h tối, thời gian dần chuyển về nửa đêm. Ngôi
làng ban ngày đã vắng vẻ, khi màn đêm buông xuống, mọi thứ lại càng tĩnh lặng, cô
tịch đến rùng mình. Dưới ánh sáng trăng của đêm rằm Trung Thu, bóng của ba con
người đang đổ xuống mặt đường với những bước chân có phần vội vã.
Đã ra tới giếng làng, khung cảnh ban đêm lung linh, huyền ảo, dưới giếng, mặt nước
trong vắt phản chiếu ánh trăng thi thoảng khẽ lay động bởi một cơn gió nhẹ thổi qua
khiến những gợn nước lăn tăn, sóng sánh. Trăng tròn, trời không một gợn mây đen,
cây lộc vừng với tán lá nửa xanh, nửa vàng đang rung rinh theo nhịp gió thổi.

Vương sững sờ thốt lên :

-- Đẹp quá, nhưng cảnh vật lại mang một màu ảm đạm bởi không có người ngắm
nhìn chúng.

Lúc này Vương mới hỏi thầy Lương về cây lộc vừng :

-- Bác Lương, liệu cây lộc vừng có còn sống được không…?

Thầy Lương đáp :

-- Cây, đất và ngôi làng này đã tồn tại gắn liền với nhau suốt trăm năm qua. Chỉ cần
làng qua được kiếp nạn, địa mạch được hồi phục như xưa, tự khắc cây sẽ sống. Nói
gì đi nữa thì cây lộc vừng này cũng là một linh tinh tốt, có lòng hướng thiện giúp
người. Ta cũng đã có dự tính riêng với nó, phần còn lại đành trông chờ vào kết quả
của chuyến đi đến Cự Môn lần này mà thôi. Ngắm cảnh đủ rồi, tiếp tục đi nào.

Ông Vọng và Vương gật đầu tiếp tục bước trên con đường dẫn ra miếu hoang. Ánh
trăng như đang soi sáng con đường của họ, con đường giải mã bí mật cuối cùng mà
Cao Côn chôn giấu.

“Ánh trăng bóng nước cây đa.


Ở nơi xa có miếu hoang cô cùng.
Đi qua bóng tối mịt mùng.
Cao gia hậu thế vượt trùng đến đây. “

Vừa đi, thầy Lương vừa nhìn lên bầu trời đêm lẩm nhẩm đọc những câu thơ tự bạch.

“ Lộc vừng nửa héo nửa xanh.


Trăm năm Văn Thái thanh bình còn không..?
Sông ngân Bắc Đẩu Thất Tinh.
Cự Môn để lại cho Vương điều gì…? “

Cả ba người dừng chân lại, ông Vọng khẽ nói :

-- Trước mặt chính là miếu hoang, chúng ta đến nơi rồi.

Từ lúc về đến giờ Vương chưa đặt chân ra khu vực này. Có nghe ông Vọng kể lại rằng
khu đất ở miếu mấy ngày qua bỗng dưng hoa mọc trở lại, không còn khô cằn, nứt nẻ
như trước nữa. Vương cũng tò mò, nhưng giờ đứng đây, tận mắt chứng kiến, Vương
lại càng sững sờ hơn. Những bông hoa vàng nở đầy quanh miếu, không biết đây là
loài hòa gì, nhưng màu sắc của nó khi hòa vào cùng với ánh trăng lại càng nổi bật đến
lạ thường. Có cảm giác, khu đất có ngôi miếu hoang đang tỏa sáng dưới đêm trăng
tròn.

Thầy Lương đưa tay ra bấm độn, thầy nói với Vương :

-- Vẫn còn thời gian cho cháu thay đổi quyết định của mình. Giờ Tý sắp đến rồi, cháu
vẫn muốn làm chuyện này chứ…?

Ông Vọng nuốt nước bọt nhìn con, Vương thò tay vào trong cổ áo, cậu lấy ra viên
hồng ngọc trên sợi dây chuyền, nắm chặt viên hồng ngọc trong tay, Vương khẽ mỉm
cười :

-- Đã đến đây thì chắc chắn cháu phải làm đến cùng.

Nhìn ông Vọng, Vương nói :

-- Thầy đừng lo, con sẽ không sao đâu. Thầy đã làm hết sức mình, thậm chí còn định
từ bỏ mạng sống để cứu ngôi làng này. Bây giờ đến lượt con, nếu đúng như những gì
bác Lương nói, chúng ta mang trong mình dòng máu của Cao gia, toàn bộ những
chuyện này đều do Cao gia tạo ra, chỉ có con có thể hóa giải được nghiệp oán trăm
năm giữa làng Văn Thái và Cao gia. Đây là điều mà con phải làm.

Bất ngờ lúc này trong không trung vang lên tiếng cười khanh khách :

“ Hi...hi...hi “

“ He...he...he..”

Tiếng cười vang vọng lúc xa, lúc gần, ông Vọng và Vương quay ra sau rồi lại nhìn về
phía trước nhưng không thể xác định được rốt cuộc thì tiếng cười đang phát ra từ
đâu. Chỉ có thầy Lương là bắt đầu nheo mày, thầy Lương nói :

-- Là chúng, giờ Tý đã điểm, bọn Tiểu Quỷ xuất hiện rồi. Vương, cháu cần phải đi vào
đó ngay lúc này. Hãy nhớ những gì mà ta đã dặn, đi đi.

“ Vù….Vù….Vù…”

“ He...he...he….”

“ He...he...he…”

“ Hi….hi...hi..”

“ Hi...hi...hi….”

Lẫn trong tiếng gió là tiếng cười của trẻ con, mỗi lúc điệu cười ấy lại vang lên rõ rệt
hơn.

“ Kịch “

12h đêm, Vương đặt chân đứng trước Miếu Hoang.

Ngay sau khi Vương bước chân lên khu đất đó, gió ngừng thổi, tiếng cười trẻ con
cũng im bặt. Không gian bốn bề xung quanh tĩnh lặng, mọi thứ dường như ngừng
chuyển động, mọi thứ im ắng đến mức Vương có thể nghe rõ tiếng tim mình đang
đập.

Sự tĩnh lặng như muốn dọa chết chàng trai trẻ, Vương thấy cơ thể mình đang run lên
từng chập. Mặc dù lúc này chưa có thứ gì xuất hiện cả, nhưng chính sự cô tịch đến
đáng sợ này mới là thứ khủng khiếp nhất.

Đứng trước miếu, Vương mấp máy môi bắt đầu đọc :

天 天 天 天 玉 開 摇.
枢 璇 玑 权 衡 陽 光.

Phá vỡ sự tĩnh lặng ấy, mặt đất bỗng chốc rung chuyển dữ dội. Trong đầu Vương
vang lên những giọng nói lanh lảnh của trẻ con :

“ Ngươi là ai….? Đến đây làm gì…? “

“ Trả lời sai ngươi sẽ chết “

“ He he he…..He he he “

Đất dưới chân vẫn đang rung lên mỗi lúc một dữ dội hơn, những giọng nói, những
tiếng cười của trẻ con phát ra từ 4 phía.

Vương cố gắng giữ bình tĩnh để trả lời câu hỏi của ma quỷ :

“高家的血统,北斗七星, 我放在天璇,中秋节午夜, 全部给王 ”

Sau khi Vương đọc xong thì mặt đất ngừng rung chuyển, không gian lại càng yên tĩnh
hơn, những giọng nói, những tiếng cười kia không còn xuất hiện nữa. Nhưng đây
mới thực sự là lúc mà Vương cảm thấy đáng sợ nhất.

“ Viu…..Vù…..ù….”

Chỉ một cơn gió lạnh thổi ngang qua vành tai đã khiến toàn thân Vương rùng mình,
nổi da gà, mắt Vương mở tròn, miệng há hốc, tay chân cứng đơ không thể cử động
nổi. Trước mắt Vương, đang ngồi vắt vẻo trên ngôi miếu hoang là 4 con Tiểu Quỷ,
đúng với những gì mà thầy Lương đã tả về chúng cho Vương nghe trước đó, chúng là
quỷ trong hình hài những đứa trẻ con, toàn thân trần truồng, nhẵn nhụi không một
cọng lông, sợi tóc, ánh mắt của chúng đỏ như máu.

Cả 4 con Tiểu Quỷ đều đang hướng ánh mắt đỏ đó nhìn Vương, chúng bắt đầu nói :

“ Ngươi thực sự là Vương sao..? “

“ He he he….He he he…”

“ Hắn có sợi dây chuyền “

“ Hắn là Vương đó “

“ Hi...hi...hi….hi...hi...hi…”

Chúng bàn tán với nhau, chúng cười vui mừng rồi chúng biến mất khỏi ngôi miếu
hoang, chúng hiện ra ở bốn phía xung quanh Vương, chúng mở to đôi mắt đỏ màu
máu rồi đồng thanh nói. Trong đầu Vương vang lên một giọng nói văng vẳng của
đám Tiểu Quỷ :

“ Nếu ngươi là Vương thì đến đây nào….He he he….He he he…..Bọn ta đợi ngươi đã
lâu “

“ Vù….Vù….Vù…..”

Gió lớn từ đâu bỗng ập đến thổi mạnh, trên bầu trời đêm, mây đen kéo đến che phủ
mặt trăng. Đất trời bỗng tối om như hũ nút, xòe bàn tay ra trước mặt, trong khoảnh
khắc, ông Vọng cũng không thể nhìn thấy bàn tay của mình.

“ Vù….ù….ù…..vù….”

Gió vẫn tiếp tục thổi, mây đen che kín mặt trăng dần bị xua tan, ánh trăng sáng vằng
vặc đêm rằm Trung Thu đã có thể soi sáng trở lại. Nhưng chỉ với một cái chớp mắt
ấy, phía bên kia miếu hoang, ông Vọng không còn nhìn thấy con trai mình đâu nữa.

Từ lúc Vương đặt chân lên miếu hoang, đứng bên này, thầy Lương và ông Vọng vẫn
chăm chú theo dõi từng hành động của Vương, bởi khu đất này khá bằng phẳng,
thậm chí miếu được xây dựng trên một mảnh đất còn hơi nhô cao hơn một chút so
với địa hình chung. Mới đây thôi, khi Vương đứng ở đó, khi đám Tiểu Quỷ xuất hiện,
cả thầy Lương và ông Vọng đều nhìn thấy. Nhưng chỉ một phút giây khi ánh trăng bị
mây đen che phủ, Vương đã biến mất đi đằng nào.

Ông Vọng toan vùng chạy sang nơi miếu hoang nhưng ông bị thầy Lương kéo tay giật
lại, thầy Lương nói :

-- Trưởng làng định làm gì vậy…?

Ông Vọng mếu máo :


-- Thầy không thấy sao…? Chúng bắt thằng Vương đi rồi…..Tôi….tôi phải đi cứu nó.

Thực sự thì ngay đến cả thầy Lương cũng không lường trước được tình huống này,
nhưng nếu để cho ông Vọng bước chân vào khu vực đó lúc này là vô cùng nguy hiểm.
Thầy Lương nói :

-- Trưởng làng bình tĩnh lại, hãy cố chờ đợi thêm một chút nữa.

Ông Vọng rấn nước mắt :

-- Nhưng….thằng Vương...biến mất rồi.

Thầy Lương ghì chặt ông Vọng lại, đưa tay bấm độn, miệng lẩm nhẩm, mắt khẽ nhắm
lại, một lát sau thầy Lương khẽ nói :

-- Trưởng làng yên tâm, cháu Vương hiện tại vẫn còn sống…..Chỉ là…..chỉ là...tạm thời
đang bị giấu đi mà thôi.

Ông Vọng hỏi :

-- Giấu đi…? Giấu đi là sao….?

Thầy Lương để ông Vọng bình tĩnh lại rồi mới bắt đầu giải thích :

-- Giống với lần trước khi trưởng làng xuống đáy giếng hóa giải trấn yểm long mạch
của Cao Côn. Cũng đã có lúc tôi không cảm nhận thấy trưởng làng đâu cả, cứ như thể
trưởng làng đã biến mất khỏi lòng giếng vậy. Nhưng rồi, khi bùa yểm được gỡ bỏ,
trưởng làng cũng đã quay về. Sự việc lần này tôi cũng nghĩ huyền cơ ẩn bên trong
tương tự như vậy. Tài phép của Cao Côn là không thể đong đếm, đo lường được.
Ông ta là người cẩn trọng, tỉ mỉ trong từng hành động của mình, từ việc giấu long
mạch cho đến những ký tự bên trong viên hồng ngọc mà chỉ người mang huyết
thống Cao gia, cộng thêm ánh trăng mới có thể đọc được đã chỉ ra rằng, Cao Côn
tuyệt đối cẩn trọng trong những việc đại sự. Tôi đồ rằng cháu Vương chỉ tạm thời
biến mất để che mắt những kẻ đứng ngoài nhìn như chúng ta mà thôi. Rồi Vương sẽ
quay trở lại, bởi nếu có chuyện gì thì……

Đang nói, thầy Lương bất chợt dừng lại khiến ông Vọng thắc mắc :

-- Thì sao thưa thầy….?

Thầy Lương khẽ cười :

-- Không sao, trưởng làng cứ tin tưởng ở tôi…..Vương không sao cả, chắc chắn sẽ
không sao. Còn bây giờ, việc chúng ta cần làm là kiên nhẫn chờ đợi, chỉ cần một hành
động sai sót, không những không cứu được Vương là còn góp phần hại chết cậu ta.
Bởi vậy, trưởng làng hãy ở yên đây…….Mọi chuyện, mọi chuyện sắp có lời giải rồi.
Thầy Lương phỏng đoán không sai, sau khi mặt trăng bị che khuất, 4 con Tiểu Quỷ
lao thẳng vào Vương, vừa sợ hãi vừa bất ngờ, Vương nhắm mắt lại, khi mở mắt ra,
Vương thấy mình đang đứng ở một nơi nào đó xung quanh chỉ toàn sương khói
trắng xóa, ngôi miếu hoang trước mặt không còn thấy đâu nữa. Bốn bề trắng xóa,
Vương cất tiếng gọi :

-- Thầy ơi, bác Lương ơi…..Mọi người ở đâu….? Con đang ở đâu thế này…?

Cơ thể Vương lúc này đã có thể cử động được, nhưng bước trong không gian mờ ảo
ấy, bốn bề xung quanh không có ai hay thứ gì cả, dường như chỉ có một mình Vương
ở nơi đây. Nhưng rốt cuộc đây là đâu thì Vương không biết được.

“ Đến đây….Đến đây “

“ Hi hi hi….He he he..”

Giọng nói và điệu cười của bọn Tiểu Quỷ lại vang vọng đâu đó phía trươc mặt
Vương. Vương đi theo nơi phát ra tiếng nói, dần dần hiện ra trong màn sương trắng
là một chiếc bàn đá hình tròn màu ngọc lục bảo, ở trên bàn đá có một cái ly bằng
vàng ròng được chạm trổ vô cùng tinh xảo những hình rồng phượng.

“ Nếu ngươi là Vương….hãy chứng minh cho bọn ta xem “

“ He he he...He he he “

“ Bằng không….ngươi sẽ chết “

“ Hi...hi...hi...Hi...hi...hi “

Giọng nói cùng những điệu cười ma quái của bọn Tiểu Quỷ vẫn vang lên từ bốn phía
xung quanh, nhưng Vương không thấy chúng đâu cả. Lúc này Vương mới nhớ lại lời
của thầy Lương :

“ Cao gia huyết thống, câu này còn mang hàm ý, muốn dùng máu của người mang
trong mình huyết mạch của Cao gia để khẳng định một điều gì đó. Khi đặt chân đến
Cự Môn, ắt hẳn cháu phải chứng minh được cháu là người được chọn. Và chỉ có
dùng máu của mình để làm được điều này. “

Trước mặt Vương là chiếc ly bằng vàng, không cần suy nghĩ nhiều, Vương khẽ mỉm
cười :

-- Thì ra là vậy….Được rồi, ta sẽ cho các ngươi thứ mà các ngươi đang mong đợi.

Rút từ trong túi quần ra một con dao nhỏ được bọc kỹ lưỡng, chính là con dao của
thầy Lương đã dùng để thử máu lần trước. Vương nuốt nước bọt, lấy hơi hít thở sao
cho thật bình tĩnh.
Đưa ngón tay trỏ vào giữa miệng chiếc ly bằng vàng, Vương cắt máu ở đầu ngón tay
rồi cứ thể để máu nhỏ giọt vào ly vàng. Sau khi nhỏ máu vào ly, Vương dừng lại chờ
đợi chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. Nhìn vào chiếc ly vàng, Vương thấy máu của mình
vừa nhỏ vào ly đang từ từ biến mất.

Sau khi ly không còn máu, trong màn sương trắng, tiếng cười của bọn Tiểu Quỷ vang
lên lanh lảnh, hình như chúng đang rất vui mừng, hoan hỉ.

“ He he he….là Vương….ngươi chính là Vương….He he he “

“ Chúng ta đã đợi được ngươi rồi “

“ Cuối cùng thì ngươi cũng đã đến “

“ Hi...hi...hi….Chủ….nhân…..Chủ nhân...Hi hi hi “

Trước mặt Vương, 4 con Tiểu Quỷ từ từ hiện ra lần lượt, nhưng lần này chúng quỳ
một chân xuống, một tay chống xuống đất, đầu cúi rạp. Đám Tiểu Quỷ cũng đã có sự
thay đổi, nước da nhợt nhạt khi Vương nhìn thấy chúng khi nãy đã trở nên hồng hào
hơn, chúng cũng không trần truồng nữa mà mỗi đứa đã khoác lên mình những bộ
giáp với những màu sắc khác nhau, theo thứ tự : Xanh, Trắng, Đỏ, Đen.

Nhìn bọn Tiểu Quỷ đáng sợ khi nãy giờ giống như những vị tướng quân nhỏ tuổi với
mũ giáp đầy đủ. Chúng vẫn quỳ trước mặt Vương như vậy cho đến khi Vương ấp úng
lên tiếng :

-- Ta….ta là….chủ nhân…? Các...ngươi đang nói...gì vậy…?

Con Tiểu Quỷ mặc giáp màu xanh nói :

“ Chủ nhân, chúng ta đã chờ đợi người suốt thời gian dài. Cuối cùng thì người cũng
đã xuất hiện. Người mang huyết thống của Cao đại lão gia, chính là người mà Cao đại
lão gia đã lựa chọn. Là người duy nhất có thể sở hữu tất cả những gì mà Cao đại lão
gia để lại. Chúng ta là những kẻ có nhiệm vụ canh giữ nơi đây chờ người được chọn
tới. Sau khi nhận máu của người, người chính là chủ nhân của bọn ta. Nay chủ nhân
đã đến đây, hãy nhận lấy toàn bộ mọi thứ mà Cao đại lão gia đã dành cho chủ nhân.

Dứt lời, bốn con Tiểu Quỷ nhất loạt đứng dậy, trong bộ giáp với bốn màu sắc khác
nhau Vương cũng không giải thích nổi tại sao khi nãy bọn chúng đáng sợ là thế mà
giờ lại thay đổi hoàn toàn đến như vậy.

Chúng đưa tay chạm vào nhau rồi nhắm mắt lại miệng khẽ lẩm nhẩm, từ chính giữa
vị trí mà 4 con Tiểu Quỷ đang đứng, một chiếc hộp bằng gỗ nhìn rất sơ sài, nếu
không muốn nói là không có gì đặc biệt hiện ra. Đỡ lấy hộp gỗ, bốn con Tiểu Quỷ quỳ
xuống dâng lên cho Vương.
Chúng đồng thanh nói :

“ Chủ nhân hãy nhận lấy thứ này “

Vương đón lấy chiếc hộp gỗ, trong đầu thầm ngĩ :

“ Chẳng lẽ đây là thứ mà Cao Côn để lại cho mình sao..? Chỉ là một chiếc hộp bằng gỗ
đâu có gì đặc biệt..? “

Nhìn trên bề mặt hộp gỗ có một cái khuôn, cái khuôn đó giống với hình dáng của
viên hồng ngọc trên sợi dây chuyền mà Vương đang đeo. Tháo sợi dây chuyền,
Vương đặt viên hồng ngọc vào khuôn trên bề mặt chiếc hộp gỗ. Viên đá hồng ngọc
như một chiếc chìa khóa, chiếc hộp được mở ra. Nhưng Vương giật mình bất giác lùi
lại, đánh rơi cả chiếc hộp xuống đất, bởi ngay khi hộp được mở, từ trong hộp tỏa ra
một làn khói dày đặc màu trắng xám.

Chiếc hộp rơi xuống đất nhưng khói trong hộp vẫn không ngừng bốc lên, và rồi,
trong làn khói xám ấy, có hình ảnh một ông lão hiện ra. Ông ta mặc quần áo người
Hoa cổ xưa, tóc xõa dài trắng muốt, gương mặt của ông lão khiến cho Vương vừa
thấy lạ nhưng cũng có chút gì đó quen thuộc.

Chưa hết bàng hoàng thì Vương nghe thấy một giọng nói vang lên trong đầu :

“ Nếu đã mở được chiếc hộp này thì ta đã đúng, huyết thống của Cao gia vẫn chưa
tuyệt tự. Đừng sợ, ngươi giờ chỉ đang nói chuyện với 1 phần hồn phách của ta mà
thôi. Thực ra thì ta đã chết rất lâu rồi, ta lưu lại 1 phần hồn này để mong muốn gặp
được hậu thế của mình sau những tiên đoán của ta về sự diệt vong của gia tộc. Ta là
Cao Côn, chính là người khởi đầu tất cả những chuyện xảy ra trên mảnh đất này. Ta
đã quá tự phụ, coi thường cả trời đất, muốn xoay chuyển càn khôn, nghịch thiên
nắm giữ số mạng của nhiều người dưới vòm trời này. U mê vào cấm thuật, vào tà
đạo, ta dần đánh mất lý trí của bản thân, trở nên điên cuồng trong ma đạo. Giết
người vô số kể, không trừ phụ nữ và trẻ em. Dẫn đến kết cục, gia tộc diệt vong, bản
thân ta cũng không thể nào cứu vãn nổi. Trước khi chết, ta đã dùng chút sức tàn, lực
kiệt của mình, luận ra một quẻ, ứng nghiệm cả trăm năm về tồn vong của gia tộc.
Nhận thấy huyết thống Cao gia vẫn chưa đoạn, lý trí chia hai, phần u mê, phần
thương cảm. Phần muốn trả thù, phần muốn buông bỏ. Nay ta đã chết, việc còn lại
đành dựa tất cả vào ngươi. Ta để tất cả mọi thứ ở nơi đây, lập thần, hóa quỷ, canh
giữ tới khi nào ngươi xuất hiện. Kẻ nào mạo phạm, chết bất đắc kỳ tử. Suốt gần trăm
năm, Vương, ngươi đã đến, nay ta sẽ giúp ngươi hoàn thành tâm nguyện của mình.
Và ngươi cũng sẽ giúp ta hoàn thành nguyện vọng của ta trước khi ta chết.”

Vương nói :

-- Ông…..Ông…..đừng hòng…..Tôi….tôi sẽ không...giúp ông trả thù dân làng…...Khiến


mọi người phải lâm vào cảnh lầm than…..Cho...cho dù ông có là….ông cố của tôi đi
chăng nữa.
Hồn phách Cao Côn cười lớn :

“ Ha ha ha…..Ha ha ha…...Ta đâu có bắt ngươi trả thù, bởi lẽ lựa chọn của ngươi cũng
chính là lựa chọn của ta. Nói nôm na cho ngươi dễ hiểu, khi máu của ngươi được bọn
Tiểu Yêu kia chấp nhận, chúng sẽ có 2 trường hợp để biến hóa : 1 là Tứ Thanh Tú và
2 là Tứ Ác Linh. Điều này dựa vào dòng máu của ngươi là chính hay tà. Nếu ngươi là
con người có tâm ác, chứa đầy tà khí, dục vọng thì bọn Tiểu Yêu đang đứng sau lưng
ngươi kia sẽ trở thành những con quỷ vô cùng đáng sợ, chúng sẽ giúp ngươi thỏa
mãn những ham muốn tà ác của mình. Nhưng nay chúng đã trở thành Tứ Thanh Tú,
xem ra ngươi là người nhân nghĩa, đức độ, dòng máu của ngươi thuần khiết không bị
vẩn đục. Như ta đã nói, trước khi chết, tâm ý của ta chia làm 2, một thiện một ác, và
ta đã quyết định, người được ta chọn cũng sẽ là người giúp ta hoàn thành tâm
nguyện cuối cùng :” Trả Thù hoặc Trả Nghiệp “ . Qua đó mà thứ ta dành cho ngươi
cũng sẽ là lựa chọn 1 trong 2. Thời gian lưu lại hồn phách của ta cũng không còn lâu
nữa. Hậu vận của Cao gia từ nay về sau đành trông cậy tất cả vào ngươi vậy…..Ha ha
ha…..Ha ha ha…”

Dứt lời, trước mặt Vương hiện ra một quyển sách cổ đã cũ kỹ. Vương định cúi xuống
nhặt nhưng lời nói của Cao Côn lại vang lên trước khi hồn phách ông ta biến mất :

“ Đó không phải là thứ dành cho ngươi. Cuốn “ Độc Cổ Kỳ Thư “ ấy la nguyên nhân
khiến cho gia tộc ta lâm vào cảnh diệt vong. Người như ngươi không cần đến nó, thứ
ta dành cho ngươi là một thứ khác. “

“ Phừng…..Phừng “

Vương vội rụt tay lại bởi quyển kỳ thư kia bất ngờ bốc cháy, kỳ thư cháy hết chỉ còn
lại tro tàn.

“ Ào…..Ào….Ào…”

Làn khói xám vương hình ảnh của Cao Côn biến mất, một cơn gió mạnh từ đâu thổi
ào tới, gió táp vào mặt khiến Vương phải nhắm mắt lại. Cơn gió đi qua, Vương mở
mắt ra thì thấy mình vẫn đang đứng trước miếu hoang, xung quanh Vương là sắc hoa
vàng dưới ánh trăng sáng rõ. Không chỉ vậy, lúc này trên mặt đất từ đâu xuất hiện 4
chiếc rương bằng gỗ khá lớn.

Gió thổi nhè nhẹ, cành lá khẽ rung rinh, tiếng ếch nhái lúc này mối kêu râm ran trở
lại. Không gian tĩnh mịch, đáng sợ đã biến mất, mọi thứ dường như không có gì xảy
ra.

Vương quay lại nhìn khi nghe thấy tiếng ông Vọng :

-- Vương, mày quay lại rồi…...Con ơi, mày làm thầy lo quá…..Mày đã đi đâu vậy…?

Vừa nói ông Vọng vừa rưng rưng nước mắt bấu víu vào người cậu con trai xem
Vương có bị làm sao không…? Vương nhìn thầy Lương nói :

-- Bác Lương, hình như cháu làm được rồi. Những...những rương này là gì vậy bác..?

Thầy Lương đáp :

-- Là vàng, thì ra đây chính là thứ mà Cao Côn đã để lại cho Vương. Chẳng lẽ chỉ có
vàng thôi sao….?

Vương vội đáp :

-- Chuyện dài lắm, sau khi về nhà cháu sẽ kể bác nghe…..Không chỉ có vàng đâu, còn
có gì mà “ Cổ Độc Kỳ Thư “ cùng với Tứ Thanh Tú nữa….

Thầy Lương bất chợt cau mày, ông lẩm bẩm :

-- “ Cổ Độc Kỳ Thư “, không...không phải….là...nó chứ…..?

Ông Vọng mở vội một rương, quả không sai, bên trong toàn vàng là vàng. Cả đời
mình, lần đầu tiên nhìn thấy vàng mà ông Vọng sợ hãi đến không nói lên lời bởi quá
nhiều vàng. Ông Vọng lắp bắp :

-- Nhưng….nhưng làm sao để chuyển 4 cái rương này về nhà….bây giờ…

Thầy Lương cũng không thể ngờ được rằng số lượng vàng được chôn cất lại nhiều
đến thế, trong lúc đang nghĩ cách thì Vương tự nói 1 mình :

-- Chuyện này các ngươi làm được chứ…?

Vương vừa nói xong thì từng rương một biến mất trước sự ngỡ ngàng của ông Vọng
và thầy Lương.

Thầy Lương nói :

-- Vương…..cháu có thể sai khiến được âm binh sao….?

Vương không hiểu thầy Lương nói gì, nhưng Vương đáp :

-- Cháu chỉ kêu 4 con Tiểu Quỷ giúp cháu đem 4 cái rương về thôi…...Như thế là sai
khiến âm binh hả bác…?

Thầy Lương nuốt nước bọt, nói như Vương thì giờ Vương chính là chủ nhân của đám
Tiểu Quỷ. Nếu như vậy thì lo lắng nãy giờ của thầy Lương là có cơ sở, mọi chuyện
không thể suôn sẻ như vậy được. Chắc chắn bên trong còn có nội tình gì đó, chính là
khoảng thời gian Vương biến mất rồi bất ngờ xuất hiện trở lại.

Thầy Lương nói :


-- Chúng ta quay về nhà trước đã.

Cha con ông Vọng đồng ý, hai người họ rời đi trước, còn thầy Lương, khi vừa bước đi
bước chân đầu tiên, thầy đã phải sững lại bởi một giọng nói vang lên trong đầu :

“ Thì ra là ngươi, kẻ đã yểm chú “ Hoán Sinh “ lên người của Vương. Đừng sợ, hồn
phách của ta đã tan biến, ta không thể làm gì được ngươi đâu. Chỉ là ta muốn xem
xem, rốt cuộc thì kẻ nào lại có thể biết được bùa chú trong “ Cổ Độc Kỳ Thư “. Phải
chăng ngươi chính là con trai của Khúc Quân. “

Thầy Lương lạnh sống lưng, toát mồ hôi hột, thầy nói bằng giọng run run :

-- Sao...sao ông….biết tên cúng cơm của….sư phụ ta….?

Cao Côn cười hào sảng :

“ Ha ha ha….Ha ha ha…..Thì ra là thế, chẳng trách ngươi lại có bản lĩnh này. Hóa ra
đây chính là giải thích cho việc khi ta luận quẻ cuối cùng, quẻ có nhắc tới sư phụ của
ngươi…Dù sao ta cũng phải cảm ơn ngươi, đừng lo lắng, mọi chuyện kết thúc rồi,
phần còn lại đành nhờ ngươi lo liệu nốt vậy….Ha ha ha “

Tiếng cười biến mất, thầy Lương cũng không còn cảm nhận thấy tinh thần bị đè nén
nữa. Chỉ là một phần hồn phách sắp tàn mà lại có thể khiến thầy Lương cảm thấy áp
lực đến như vậy, Cao Côn quá đáng sợ.

Thầy Lương giật mình khi nghe tiếng gọi của cha con ông Vọng :

-- Kìa thầy Lương, sao cứ đứng đó mãi thế…..Chúng ta về thôi.

Thầy Lương lúc này mới thực sự hoàn hồn, chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi,
một phần hồn phách của Cao Côn dường như đã nhìn thấu toàn bộ suy nghĩ của ông.
Có quá nhiều khúc mắc mà thầy Lương cần Vương giải đáp cho ngay lúc này. Nhưng
trước mắt phải quay về nhà cái đã.

3h sáng, gà đã gáy tiếng đầu tiên, cha con ông Vọng cùng thầy Lương bước vào trong
nhà. Ông Vọng thực sự sững sờ khi mà ông vừa mở cửa thì đã thấy 4 chiếc rương đã
được đặt sẵn trong nhà từ bao giờ. Trong khi đó cổng vẫn đóng, cửa vẫn khóa. Thầy
Lương thì không quá ngạc nhiên, bởi xưa nay chuyện sai khiến âm binh làm việc theo
sự sai bảo của thầy bùa, thầy pháp là điều bình thường. Nhưng điều mà thầy Lương
quan tâm lúc này, bọn Tiểu Quỷ kia không phải âm binh ma quỷ có thể sai bảo. Bản
thân thầy Lương biết chúng rất đáng sợ, vậy mà nay Vương, con trai ông Vọng lại có
thể điều khiển chúng, liệu rằng điều này còn ẩn chứa bí mật gì hay không..?

Thắc mắc mãi chi bằng tự hỏi thẳng Vương, trong lúc Vương cùng ông Vọng đang mở
những rương gỗ kia ra xem lại một lần nữa, cả 4 rương đều chứa toàn vàng là vàng.
Thầy Lương hỏi :

-- Đây có phải là thứ mà Cao Côn nói “ cho Vương tất cả “ ? Khoảng thời gian ta và
trưởng làng không nhìn thấy cháu, cháu đã đi đâu…? Khi nãy cháu có nhắc đến một
quyển kỳ thư…? Rồi chuyện cháu có thể sai khiến bọn Tiểu Quỷ…? Tất cả những
chuyện này, cháu có thể kể rõ cho ta nghe được không…?

Ông Vọng nói thêm :

-- Đúng rồi đó, lúc con biến mất, ta và thầy Lương lo lắm, con đã đi đâu vậy…?

Vương khẽ gật đầu, bỏ qua 4 rương vàng, Vương mời ông Vọng và thầy Lương ngồi
xuống ghế, Vương trả lời :

-- Thầy và bác Lương ngồi xuống đi, con sẽ kể lại toàn bộ mọi chuyện cho 2 người
nghe. Lúc mặt trăng bị mây đen che khuất, một cơn gió lạnh thổi tới, khi con nhắm
mắt lại rồi mở mắt ra thì thấy xung quanh mình chỉ toàn là sương trắng, mọi thứ
huyền ảo, con có cảm giác cơ thể mình nhẹ bẫng. Và rồi………

Cứ thế, Vương thuật lại từng chi tiết, từng câu nói mà anh đối thoại với hồn phách
của Cao Côn hiện ra trong chiếc hộp gỗ mà 4 con Tiểu Quỷ canh giữ suốt 100 năm
qua. Rồi cả việc bọn Tiểu Quỷ thay đổi hình dạng ra sao, Vương có nhắc đến quyển “
Cổ Độc Kỳ Thư “ khi Vương định nhặt nhưng cuốn kỳ thư đó đã bất ngờ bốc cháy.

Lắng nghe chăm chú từng câu, từng chữ, thầy Lương giờ đây mới vỡ ra nhiều điều,
thật không ngờ Cao Côn lại có thể tiên liệu đến mức độ đáng sợ như vậy. Và thầy
Lương cảm thấy may mắn khi “ Vương “ người được chọn lại mang một tấm lòng
nhân hậu, như Cao Côn nói, máu của Vương không mang tà niệm nên mọi thứ mới
đạt được kết quả tốt đẹp.

Ông Vọng hỏi :

-- Nếu như vậy tại sao Cao Côn không chọn tôi mà lại chọn con trai tôi…? Còn nữa,
sau khi Cao Lãm cha tôi chết, như thầy nói, chẳng phải nhiều khả năng Cao Kiệt, con
trai thứ 2 của Cao Côn vẫn còn sống, sao ông ấy không để lại mọi thứ cho Cao Kiệt…?

Thầy Lương trả lời :

-- Khi Cao Côn để lại lời sấm, chắc chắn ông ta đã dự liệu được trước những khả năng
có thể xảy ra. Trước tiên, tôi sẽ trả lời tại sao Cao Côn không để lại cho con trai thứ 2
là Cao Kiệt. Như chúng ta đã biết, dòng họ Cao đã bị dân làng Văn Thái giết sạch, Cao
Côn có nói với Vương, ông ta biết tai họa sẽ ập xuống đầu gia tộc nhưng không thể
cứu vãn được tình hình. Kết quả Cao Lãm và phu nhân của mình cùng rất nhiều
người trong Cao gia đã bị giết chết. Tôi dự đoán Cao Kiệt còn sống dựa vào việc hai
người Hoa bị chết ở Cự Môn, độ tuổi của hai người họ trùng khớp với số tuổi trong
tấm phổ truyền tính tới thời điểm đó. Chưa kể đến việc để biết được bí mật của Cao
Côn chôn ở Cự Môn, ngoài hai người con trai của Cao Côn ra, tôi không đoán được ai
khác. Do vậy tôi mới suy đoán, hai người 1 nam, 1 nữ chết ở Cự Môn, sau này dược
dân làng lập miếu thờ chính là vợ chồng Cao Kiệt. Còn tại sao Cao Côn không để lại bí
mật của mình cho Cao Kiệt, bởi vì, Cao Côn tiên liệu được, mạng số của Cao gia,
trong đó có cả 2 người con trai là Cao Lãm và Cao Kiệt đều sẽ tận. Đừng nói đến Cao
Kiệt, ngay cả trưởng làng là Cao Luân, Cao Côn không chọn trưởng làng cũng bởi, Cao
Côn biết, trưởng làng sẽ chết trước khi bí mật được tìm ra.

Ông Vọng xua tay :

-- Thầy nói thế nào, chẳng phải tôi vẫn sống đây sao…? Nói vậy thì Cao Côn đã dự
đoán sai còn gì…?

Thầy Lương mỉm cười :

-- Không, ông ta không hề sai….? Lẽ ra trưởng làng đã chết rồi, trưởng làng quên mất
khi trấn yểm Long Mạch được hóa giải, trên bầu trời, một luồng sét đã đánh thẳng
xuống giếng hay sao….? Đó chính là thiên kiếp mà trời giáng xuống để trừng phạt
người của Cao gia. Nhưng như tôi đã nói, trưởng làng bằng một cách nào đó vẫn
sống sót. Do vậy, Cao Côn không hề sai, chỉ là ông ta không lường được trưởng làng
lại có thể sống qua được thiên kiếp. Và còn 1 điều này nữa, Cao Côn không chọn Cao
Kiệt cũng có thể là vì, Cao Kiệt không có con. Theo như gia phả, Cao Kiệt còn lấy vợ
trước cả Cao Lãm, nhưng trong gia phả không hề nhắc đến con của Cao Kiệt. Tôi lại
đồ rằng, Cao Kiệt không thể có con, và nhiều khả năng, bệnh mà Cao Kiệt được viết
trong phổ truyền, chính là căn bệnh mà bố nuôi trưởng làng đã mắc phải. Nếu đúng
như vậy thì việc Lâm Thư phu nhân cũng chính là người cứu chữa cho Cao Kiệt. Vì
Cao Kiệt không có hậu thế nên Cao Côn không thể nào để lại mọi thứ cho Cao Kiệt
được. Nói tóm lại, Cao Côn có thể dự liệu đến đời chắt của mình là “ Vương “, kiếp
nạn của Cao Gia chỉ có Vương là người nhiều khả năng tìm thấy bí mật của Cao Côn
nhất. Và kết quả cuối cùng là đây, tuy nhiên chúng ta nên cảm thấy may mắn, bởi
nếu là một người có tâm địa xấu, muốn làm điều ác, thì phần thưởng sẽ không phải
là vàng, mà sẽ là một thứ khủng khiếp, đáng sợ hơn rất nhiều.

Vương nói :

-- Ý bác là cuốn kỳ thư kia…? Nhưng cho dù cháu có nhận cuốn kỳ thư đó, cháu cũng
không thể đọc được những ghi chép thì sao có thể…?

Thấy Lương khẽ lắc đầu :

-- Mọi chuyện không đơn giản như cháu nghĩ đâu, ngoài cuốn kỳ thư, cháu sẽ còn
nhận được thêm 1 “món quà” khác, đó chính là một phần hồn phách của Cao Côn.
Đừng nói đến đọc, khả năng Cao Côn nương nhờ vào thân xác của cháu hoàn toàn có
thể xảy ra.

Vương rùng mình, Vương hỏi :

-- Vậy tại sao khi đó ông ta không làm như vậy…?
Thầy Lương giải thích :
-- Ông ta không thể làm thế, bởi cháu không mang tà tâm, cháu là người hướng
thiện, mang trong mình dòng máu trong sạch. Trường hợp kia chỉ xảy ra khi “ Vương
“ là một kẻ độc ác. Cao Côn cũng đã nói rõ, lúc ếm lời nguyền, ông ta bị phân làm 2
luồng ý chí, một trả thù, một muốn sám hối. Nhưng không thể tự quyết nên Cao Côn
đã để lại lựa chọn này cho hậu thế của mình. “ Cho Vương Tất Cả “ ngụ ý muốn nói,
lựa chọn của Vương cũng chính là lựa chọn của ông ta, cho dù có thế nào, ông ta
cũng không thể ngăn cản.

Nghe thầy Lương giải thích, Vương cùng ông Vọng mới thấy mọi chuyện thực sự quá
hợp lý nhưng cũng vô cùng nguy hiểm, Vương hỏi tiếp :

-- Thế còn Tứ Thanh Tú và Tứ Ác Linh là sao thưa bác…?

Thầy Lương gật gù tiếp tục nói :

-- Hiện tại thì ta không thể nhìn thấy hình dáng của bọn Tiểu Quỷ, nhưng nghe cháu
mô tả cũng như cách gọi tên của Cao Côn, ta có thể giải thích như sau. Cao Côn tạo
ra bọn Tiểu Quỷ với mục đích canh giữ di vật, của cải của mình. Là một thầy phong
thủy đại tài, chắc hẳn ngoài việc nuôi dưỡng bằng máu người, Cao Côn còn dưỡng
chúng bằng linh khí của địa mạch. Nói cách khác, bọn Tiểu Quỷ đó vừa mang tà khí
của ma quỷ, lại vừa mang linh khí của đất trời. Quan trọng là chủ nhân của chúng là
người như thế nào mà thôi. Cao Côn với bản tính tà ác, làm nhiều điều trái với đạo
trời, không ngạc nhiên khi bọn Tiểu Quỷ của ông ta lại đáng sợ đến như vậy. Nhưng
tới nay, khi Cao Côn giao ước với chúng là đợi chủ nhân mới, chúng đã nhận máu của
cháu, do đó cũng thay đổi theo tâm tính của chủ nhân mới là cháu. Và từ Tứ Ác Linh,
chúng biến thành Tứ Thanh Tú. Màu xanh chính là Thanh Long, màu trắng là Bạch
Hổ, màu đỏ là Chu Tước, và màu đen chính là Huyền Vũ. Nhờ có cháu, tai kiếp cuối
cùng của làng Văn Thái cũng đã đươc hóa giải, nhưng với bọn Tiểu Quỷ đó, suy cho
cùng chúng vẫn rất đáng thương, sinh ra đã là một tội ác, nhưng rồi đến khi hóa quỷ
cũng chịu ràng buộc. Cứ như vậy, chúng sẽ mãi mãi không thể siêu sinh.

Vương vội nói :

-- Đó cũng chính là điều mà cháu suy nghĩ, cháu không muốn làm chủ nhân của ai cả,
có cách nào để giúp cho bọn trẻ đó được siêu thoát, không còn bị ràng buộc nữa
không bác..? Bác giúp cháu với, như vậy cháu mới yên lòng được.

Thầy Lương nhìn Vương mỉm cười :

-- Tất nhiên là có, không những vậy còn rất đơn giản, hiện nay cháu là chủ nhân của
chúng, chỉ cần cháu cho chúng nhận máu một lần nữa, rồi thề với đất trời, giải thoát
cho chúng là từ nay về sau, chúng sẽ không còn bị ràng buộc bởi người của Cao gia
nữa. Tiếp đó, chúng ta sẽ chuyển hài cốt của chúng về đúng với các thế đất trong Tứ
Thanh Tú, lập miếu thờ cúng, địa mạch nơi đó sẽ giúp chúng sớm được siêu thoát,
giải được oán nghiệt khi còn làm quỷ gây ra. Như vậy cũng là một điều tốt, nếu cháu
muốn, chuyện này ta có thể giúp cháu.

Vương lập tức quỳ xuống đất bái lạy thầy Lương, mong thầy Lương chỉ lối, dẫn
đường. Về phần ông Vọng, ông đang không biết phải tính sao với số vàng lớn như
thế này. Ông Vọng hớt hải nói :

-- Vậy còn chỗ vàng này thì sao…? Hay là chúng ta đem chia cho tất cả những người
dân trong làng…? Coi như cha con tôi thay mặt Cao gia tạ lỗi với dân làng Văn Thái.

Thầy Lương trả lời :

-- Chuyện này tôi không dám can dự vào quyết định của hai người. Nhưng xưa nay,
đời người thị phi, chưa chắc có của cuộc sống sẽ tốt hơn. Ví như bà Điều và cậu Lực,
cũng vì chữ Tham mà vong mạng. Đây là một số vàng vô cùng lớn, chỉ e lợi chưa tới,
hại đã ập vào. Thay vì cho vàng, trước mắt hãy trấn an bà con dân làng yên tâm về
chuyện “ Miếu Hoang “ đã. Còn việc dùng vàng vào mục đích gì, trưởng làng đừng lo,
hính như cháu Vương đây đã có chủ ý. Ha ha ha….Ha ha ha.

Ông Vọng nhìn sang cậu con trai, Vương khẽ gật đầu trả lời bố :

-- Bác Lương nói đúng, cần phải làm yên lòng người trước. Tạm thời con sẽ nhờ bọn
Tiểu Quỷ giấu số vàng này ra sau vườn. Con đã có dự định với số vàng chúng ta có,
con sẽ dùng tất cả chỗ vàng này vào việc thay đổi làng Văn Thái, con sẽ giúp bà con
ta có cuộc sống tốt hơn, nhưng là về lâu, về dài, về mai sau chứ không phải cho họ
vàng. Vàng nhiều bao nhiêu ăn mãi cũng sẽ hết, chi bằng chúng ta dùng vàng để thực
hiện những điều lâu dài mà trong tương lai làng Văn Thái sẽ là một vùng đất trù phú.

Ông Vọng chảy nước mắt vì hạnh phúc, thầy Lương cũng gật đầu đồng ý.

Thầy Lương nói tiếp :

-- Về việc làm yên lòng bà con, cũng là tiện cho việc chuyển hài cốt của bọn Tiểu Quỷ
về những nơi có địa mạch tốt. Ngày mai trưởng làng cho người đi thông báo, đã tìm
ra nguyên nhân dẫn đến việc Miếu Hoang xuất hiện ma quỷ, đã tìm được thầy về trừ
ma diệt quỷ. Việc còn lại cứ để cho tôi, đây cũng là chuyện cuối cùng tôi làm cho làng
Văn Thái. Hi vọng sau này, nếu có dịp tôi quay lại đây, làng Văn Thái sẽ thay đổi như
lời cậu Vương nói.

Thầy Lương mở cửa bước ra bên ngoài hiên, trăng Trung Thu cũng đã trắng ngà, trời
khuya thanh vắng, thầy Lương khẽ nở một nụ cười khi ông nhìn ngắm những ngôi
sao trên bầu trời cao, thầy Lương nói :

-- Vậy là ta vẫn chưa thể gặp được hai người…….Nhưng hôm nay ta thực sự thấy vui.

[.........]

10 ngày sau đó…….


Giếng làng hoan hức tiếng trẻ con nô đùa, chúng nghịch nước, múc nước té vào
nhau trong khi đó, người lớn đang lập một ban thờ bằng đá ngay dưới gốc cây lộc
vừng đã héo úa gần như toàn bộ, nhưng từ hốc cây, một chồi xanh vươn ra lại tươi
hơn bao giờ hết. Dân làng Văn Thái đang cẩn thận chăm chút cho chồi cây và dặn dò
đám nhóc con trong làng tuyệt đối không được nghịch phá.

Đình làng cũng đã bắt đầu được tu sửa lại, tượng thần Thành Hoàng cũng đang đươc
nghệ nhân tạc mới. Sau một khoảng thời gian tối tăm, u ám, làng Văn Thái đã nhộn
nhịp trở lại hơn bao giờ hết. Còn quá sớm để nhắc đến chuyện sau này, nhưng ít
nhất nụ cười đã nở lại trên môi mỗi người dân, đứng trong sân đình, ông Vọng nói
với con trai :

-- Vậy là thầy Lương đã rời khỏi đây được 1 tuần rồi. Chúng ta còn chưa kịp cảm ơn
ông ấy nữa. Ông ấy cứ thế mà đi không một lời từ biệt. Làng ta nợ thầy Lương nhiều
quá.

Vương đáp :

-- Những gì bác Lương đã làm cho làng Văn Thái sẽ được nhắc đến mãi mãi. Con sẽ
cố gắng thực hiện những gì đã nói với bác ấy, để mai này, khi bác ấy quay lại đây, bác
ấy sẽ không thất vọng.

Hai cha con ông Vọng đang nói chuyện với nhau thì một cô bé gái chạy tới kéo chân
Vương, cô bé cười tít mắt hỏi Vương :

-- Anh Vương ơi, bài vè hôm qua anh dạy em, em muốn nghe lại.

Vương xoa đầu cô bé rồi bắt đầu đọc :

“ Nghe vẻ nghe ve, nghe vè kể chuyện.


Phương xa xuất hiện một ông thầy Tàu.
Râu tóc bạc màu tấm lòng độ lượng……..”

Cô bé nghe xong thì vội chạy ra ngoài giếng, nơi có những đứa trẻ khác đang nô
đùa….Chiều dần buông xuống, râm ran trên con đường làng là những tiếng cười rộn
rã, giòn giã của đám nhóc con.

Chúng vừa chạy, vừa cười, miệng vừa đọc vang bài vè.

“ Nghe vẻ nghe ve, nghe vè kể chuyện.


……….Văn Thái dân làng, cảm tạ thầy Lương….”

-- Hi hi hi, bài vè này là anh Vương dạy cho tui đó…..

[.......]
Thầy Lương lúc này đang đứng bên bờ sông ở một nơi nào đó, sắc đỏ mặt trời của
buổi hoàng hôn đang phả những tia nắng cuối ngày xuống mặt nước. Khẽ hạ tay nải,
lấy trong tay nải ra một nắm cơm nắm với muối vừng. Thầy Lương ngồi luôn xuống
bờ kè đá tiện vừa ngắm cảnh, vừa nghỉ ngơi dùng bữa cơm chiều.

“ Hắt xì “

Gió không thổi, cảnh vật bình yên, mà bỗng nhiên thầy Lương lại hắt hơi một cái rõ
mạnh.

Thầy khẽ mỉm cười rồi tự nhủ :

-- Chà chà, không biết là ai lại đang chửi mình đây…..Ha ha ha…..Ha ha ha.

-------Kết Thúc------

Lời Kết :

Nếu bạn đã đọc đến đây có nghĩa là bộ truyện của chúng ta đã kết thúc rồi. Một lần
nữa, bằng tất cả tấm lòng của mình, xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất, sâu sắc nhất
đến toàn bộ anh chị em, cô bác đã đồng hành và ủng hộ tác giả trong bộ truyện này.
Sự đóng góp của mọi người đã giúp mình hoàn thành bộ truyện một cách tốt nhất có
thể. Trong quá trình viết cũng như full bộ, có gì còn sơ suất mong mọi người lượng
thứ. Hi vọng chúng ta sẽ tiếp tục đi cùng nhau trong những bộ truyện tiếp theo.

Xin cảm ơn vì tất cả.

( Trong truyện có nhắc đến bùa chú “ Hoán Sinh “ chính là thứ bùa mà trong đêm
thầy Lương đã dùng máu của mình trộn lẫn với máu của hai cha con ông Vọng tạo
thành. Đây là một loại bùa được ghi chép trong “ Cổ Độc Kỳ Thư “, có tác dụng
chuyển những đau đớn, thậm chí là cả cái chết từ người bị yểm bùa sang người vẽ
bùa ( nếu công cuộc đào bới ở Cự Môn, Vương gặp chuyện bất trắc thì thầy Lương sẽ
là người thay Vương gánh nạn, thậm chí là chết thay Vương ). Trong đêm đó, thầy
Lương có lẽ đã nghe được cuộc nói chuyện của cha con ông Vọng, biết cha con họ ai
cũng có ý không để thầy Lương gặp nguy hiểm ( đây là chuyện của Cao Gia ). Cả 3
người đều chấp nhận nếu phải chết, nhưng thầy Lương là người “ nhanh tay “ và “
thủ đoạn “ hơn. Do đó, bùa chú “ Hoán Sinh “ thầy Lương yểm lên người cha con ông
Vọng mang ý tốt. Chính vì ý tốt nên sau này, khi đã rời đi, giải bùa, thầy Lương cũng
không nói ra cho cha con họ biết. Bởi vậy mình cố ý không nhắc đến điều này, sợ có
người thắc mắc nên edit ở lời kết. )

Chính thức Hết Truyện.

You might also like