Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 26

1.

HCM viết: Tập trung trên nền tảng dân chủ, dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung, đây là nguyên tắc tổ chức của đảng
làm cho đảng tuy nhiều người nhưng khi tiến đánh chỉ như một người. Anh( chị) hãy phân tích nội dung và ý nghĩa của
luận điểm trên?
Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng Mác xít chân chính, xuất phát từ bản chất giai cấp
công nhân của Đảng Cộng sản. Hồ Chí Minh coi nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc rất quan trọng trong xây
dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, là nguyên tắc số một, bất di bất dịch, bảo đảm cho Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh lý giải vấn đề tập trung dân chủ trong Đảng là: Cá nhân phải phục tùng toàn thể, số ít phải phục tùng số
nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương. Thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ bảo
đảm cho “Đảng tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh chỉ như một người”. Đó là biểu hiện cụ thể của tính tiền phong,
chiến đấu của giai cấp công nhân.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt tập trung và dân chủ; hai mặt này tác
động, bổ sung cho nhau, tạo thành một chỉnh thể thống nhất. Trong đó, dân chủ là điều kiện, tiền đề của tập trung; còn
tập trung là cơ sở bảo đảm cho dân chủ được xác định và phát huy. Yêu cầu khi thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
là: mọi cán bộ, đảng viên đều có quyền tham gia vào việc quyết định công việc của Đảng; có quyền được thông tin, thảo
luận, tranh luận, nêu ý kiến riêng, bảo lưu ý kiến trong tổ chức; nhưng khi tổ chức đảng đã có nghị quyết thì phải nói và
làm theo nghị quyết; thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức
đảng trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc, Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Việc
phát triển và mở rộng dân chủ trong Đảng phải luôn đi đôi với tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của
Đảng, giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật. Dân chủ càng phát triển thì tập trung càng vững chắc, sức mạnh của Đảng càng
được khẳng định. Nếu thực hành dân chủ tốt, Đảng sẽ quy tụ được trí tuệ, khơi dậy được tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của mọi cán bộ, đảng viên, tạo sự đoàn kết, thống nhất, tình đồng chí, giúp nhau hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Bởi
vậy, trong sinh hoạt và hoạt động của các tổ chức đảng, phải kết hợp chặt chẽ dân chủ với tập trung, không được tuyệt
đối hóa mặt nào. Bởi vì, theo Hồ Chí Minh, tuyệt đối hóa tập trung sẽ dẫn đến quan liêu, chuyên quyền, độc đoán; tuyệt
đối hóa dân chủ sẽ dẫn đến tình trạng vô chính phủ, vô tổ chức, kỷ luật. Cả hai biểu hiện này đều nguy hại và làm giảm
sức mạnh của Đảng. Do đó, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ tạo cho Đảng đoàn kết, kỷ luật
thống nhất, nghiêm minh, mà còn tạo cơ chế hữu hiệu nhất để phát huy mọi sáng kiến, sáng tạo, khai thác mọi trí tuệ
của đảng viên, của cơ sở, qua đó nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và của toàn Đảng.
( Thực tiễn hơn 91 năm lãnh đạo cách mạng của Đảng đều khẳng định điều nói trên; đa số các tổ chức đảng
trong toàn Đảng thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ. Vì vậy, đây là một trong những nguyên nhân làm cho Đảng
ta có sức mạnh để lãnh đạo dân tộc đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác to lớn hơn. Tuy nhiên, ở không ít tổ chức
đảng hiện nay, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ còn mặt hạn chế; một số đảng viên do tính đảng không cao,
có tư tưởng nể nang, “dĩ hòa vi quý”, “dễ người, dễ ta”, chưa thật sự mạnh dạn trong đấu tranh bảo vệ lẽ phải… từ đó,
làm giảm đi sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên, hệ quả là một số cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên bị các
cấp xử lý kỷ luật và trong đó có nguyên nhân hết sức quan trọng là tổ chức đảng, đảng viên chấp hành và thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách chưa đảm bảo theo quy định của Đảng.)
(Liên hệ vấn đề trên ở Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng cho thấy vừa qua nhìn chung các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ,
đảng viên chấp hành và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng đạt kết quả rất tích cực; dân chủ trong Đảng
tiếp tục phát huy, tính chiến đấu của đảng viên không ngừng được nâng lên, đoàn kết nội bộ được tăng cường... tuy
nhiên, trong quá trình thực hiện một số ít cấp ủy, tổ chức đảng và lãnh đạo cơ quan thực hiện chưa nghiêm túc, có biểu
hiện chưa thực hiện đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ từ đó dễ dẫn tới nội bộ mất đoàn kết, năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức đảng suy giảm.
Nguyên nhân của tình trạng nêu trên có nhiều và rất đa dạng, nhưng chủ yếu là: (1) Chưa xác định rõ cơ chế
chịu trách nhiệm trong mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân khi thực hiện nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách”, dẫn đến khi có sai sót, khuyết điểm thì không ai chịu trách nhiệm, dẫn đến hiện tượng vừa dựa dẫm vào tập thể,
không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám nói,
dám làm, dám chịu trách nhiệm và dám đột phá vì lợi ích chung, tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, trì trệ, hoặc lạm
dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân; (2) Cấp uỷ đảng, đặc biệt là những người đứng đầu ở một
số cơ quan, địa phương thực hiện không nghiêm Quy chế làm việc đã đề ra; chưa gắn thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ với thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; chưa coi trọng phát huy vai trò giám sát, tham gia đóng góp xây dựng
Đảng, chính quyền và cán bộ, đảng viên của các tổ chức, đoàn thể và nhân dân; (3) Tính đảng, ý thức tự giác tự phê bình
và phê bình của đảng viên không cao. Tình trạng né tránh, ngại va chạm, không nói thẳng, nói thật, dễ người dễ ta còn
xảy ra; (4) Công tác kiểm tra, giám sát chưa thực hiện thường xuyên, nghiêm túc để “rung chuông báo động” về nhân
cách, lối sống, tính đảng của cán bộ, đảng viên cũng như chưa xử lý kịp thời, nghiêm minh những tập thể và cá nhân vi
phạm các nguyên tắc của Đảng. Vai trò của Ban Thanh tra nhân dân, của các tổ chức đoàn thể ở cơ quan chưa được
phát huy.
Xuất phát từ tình hình trên cũng như để thực hiện nghiêm và giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tăng
cường đoàn kết thống nhất nội bộ, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, đảng viên thiết
nghĩ cần quan tâm thực hiện một số việc sau:
Thứ nhất, tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức để mỗi cán bộ, đảng viên thực hiện nghiêm các nguyên tắc
của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, đoàn kết, thống nhất trong Đảng...; quy định
của Đảng và pháp luật của Nhà nước về những điều đảng viên, cán bộ công chức, viên chức không được làm; quy định
của Đảng về việc kiểm soát quyền lực; về quy chế làm việc và nội quy của cơ quan... Cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy và
mỗi đảng viên phải gương mẫu thực hiện nhiệm vụ đảng viên, trong sinh hoạt, lối sống và các mối quan hệ trong cơ
quan, ngoài xã hội. Cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy, địa phương, cơ quan có quy định cụ thể và biện pháp thiết thực
ngăn chặn, khắc phục những nơi có dư luận về biểu hiện thực hiện dân chủ chưa đảm bảo. Tập trung giải quyết tình
trạng mất đoàn kết nội bộ hoặc đơn, thư khiếu nại, tố cáo theo quy định.
Thứ hai, mở rộng dân chủ đi đôi với củng cố, tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong Đảng. Những vấn đề cơ bản,
quan trọng, những chủ trương, nghị quyết của tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị phải được dân chủ thảo luận trong tập thể
cấp ủy, lãnh đạo cơ quan và trong tổ chức đảng từ cao đến thấp theo phạm vi, quyền hạn được xác định và được quyết
định theo đa số; ý kiến thiểu số vẫn được bảo lưu đệ trình lên cấp trên để xem xét. Khi tổ chức đã thống nhất ban hành
nghị quyết thì phải trên dưới đồng lòng, nói và làm theo nghị quyết. Cấp ủy và lãnh đạo cơ quan, đơn vị có quy định và
có biện pháp ngăn chặn, xử lý những biểu hiện “bằng mặt, không bằng lòng”, nói một đàng, làm một nẻo, nói trong hội
nghị khác, nhưng ngoài hội nghị lại nói khác, nói ở cơ quan khác, nhưng phản ánh lên cấp trên lại khác ...
Thứ ba, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách; đồng thời, có cơ chế hữu hiệu để kiểm soát quyền lực theo hướng quyền lực đến đâu, trách nhiệm đến đó,
bảo đảm vai trò lãnh đạo của tập thể nhưng không ngừng đề cao trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm của người
đứng đầu theo quy định của Đảng. Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy, địa phương, ngành, đơn vị kinh
tế và các lĩnh vực dễ xảy ra sai phạm trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao và việc giữ gìn phẩm
chất đạo đức, lối sống... Nghiêm túc phê bình hoặc có các biện pháp xử lý kỷ luật kịp thời các tổ chức, đảng viên vi phạm
nguyên tắc tập trung dân chủ hoặc lợi dụng tập trung dân chủ vì mục đích không chính đáng.
Thứ tư, bản thân mỗi đảng viên cần phát huy tính đảng, tính gương mẫu, tự giác, dám nghĩ, dám nói, dám
làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm trong thực thi công vụ và trong các quan hệ của mình cũng như tự giác, nghiêm
túc thực hiện tự phê bình và phê bình. Nghiêm chỉnh chấp hành kỷ luật của Đảng, kỷ cương hành chính, kỷ luật phát
ngôn, bí mật nội bộ. Có cơ chế giám sát và biện pháp xử lý tình trạng “trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã tường”, làm nghi
ngờ, mất đoàn kết nội bộ.)
Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản, là cơ sở bảo đảm hàng đầu để giữ vững bản chất cách mạng
và vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Nắm vững và thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ là một bảo đảm quan
trọng để xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, góp phần
củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng trong thời kỳ mới.( Việc nhận thức không
thấu đáo, thực hiện không nghiêm túc nguyên tắc này không chỉ làm tổn hại đến vị thế, sức mạnh của Đảng, mà còn là
một trong những căn nguyên dẫn đến sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên.)
Đảng Cộng sản Việt Nam là một khối thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ
bản, thực hiện lãnh đạo tập thể và cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, thực hiện dân chủ đầy đủ và kỷ luật chặt
chẽ trong sinh hoạt đảng. Sức mạnh tổ chức to lớn của Đảng là ở sự thực hiện đầy đủ nguyên tắc này. Tình trạng tập
trung quan liêu, gia trưởng độc đoán, không tôn trọng ý kiến cấp dưới hay không phát huy trí tuệ tập thể đễ dẫn đến
những quyết định sai lầm hoặc tình trạng cục bộ, vô kỷ luật gây hậu quả tai hại… đều làm suy yếu sự đoàn kết trong
Đảng, đều làm cho sự lãnh đạo của Đảng kém hiệu lực. Vì thế, mọi cán bộ, đảng viên đều phải nêu cao tinh thần gương
mẫu thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng.
Trong toàn Đảng, những vấn đề cơ bản, quan trọng (chủ trương, nghị quyết của tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị
về thực hiện nhiệm vụ chính trị; công tác cán bộ, công tác nhân sự cấp ủy, cơ quan…) đều phải được dân chủ thảo luận
trong tập thể cấp ủy/lãnh đạo cơ quan/tổ chức đảng từ cao đến thấp theo phạm vi, quyền hạn được xác định. Quyết
định của cấp ủy được quyết định theo đa số và ý kiến thiểu số vẫn được bảo lưu để trình cấp trên xem xét, nhưng khi
nghị quyết đã ban hành, thì mọi đảng viên đều phải đồng lòng nói và làm theo nghị quyết. Trong toàn Đảng, mọi cấp uỷ
đều thực hiện sự lãnh đạo tập thể (được bàn bạc và quyết định tập thể) đi đôi với tăng cường trách nhiệm cá nhân;
"mọi cấp uỷ viên có quyền và có trách nhiệm phát biểu ý kiến, tranh luận thẳng thắn, tham gia các quyết định của cấp
uỷ. Chống mọi biểu hiện độc đoán, gia trưởng, áp đặt ý kiến cá nhân, hoặc nể nang, né tránh”[4].
Trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện, Đảng xác định tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau; trong đó, "tập thể lãnh đạo không phủ nhận trách nhiệm cá nhân, trái lại phải trên cơ sở phát huy
đầy đủ trách nhiệm cá nhân. Mọi cá nhân trên cương vị của mình phải chủ động đóng góp ý kiến với tập thể để tập thể
có được quyết định chính xác, và dám chịu trách nhiệm trong việc chấp hành các nghị quyết của tập thể, dám tự phê
bình và thành khẩn nhận khuyết điểm của mình trong việc chấp hành các nghị quyết ấy”[5]. Đồng thời, mọi cấp ủy từ
Trung ương đến địa phương đều quán triệt sâu sắc rằng, bất cứ người đứng đầu nào cũng không được lợi dụng/lạm
dụng quyền lực của mình (được bầu/ được trao) để mưu cầu lợi ích cá nhân/nhóm lợi ích và "bất cứ người lãnh đạo nào
cũng không được tự đặt mình ra ngoài tổ chức, tự cho mình quyền nói và làm khác quyết định của tập thể. Cấp dưới, dù
cho người đứng đầu là ủy viên Trung ương, cũng không thể tự cho mình quyền không thi hành hoặc làm trái chỉ thị của
cấp trên. Tăng cường sự lãnh đạo tập thể, mở rộng sinh hoạt dân chủ”[6].
Vì vậy, mọi hiện tượng, biểu hiện “bằng mặt nhưng không bằng lòng”, "nói một đàng nhưng làm một nẻo", "nói
trong hội nghị khác nhưng phản ánh lên cấp trên khác" hoặc lợi dụng tập trung dân chủ vì mục đích không chính đáng…
đều là những hạn chế cần phải khắc phục trong quá trình thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; đều là trái với nguyên
tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Những hạn chế này vừa không khuyến khích người đứng đầu nhiệt tình, tâm
huyết, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, lại vừa tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, trì trệ hoặc lạm dụng
quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân; đồng thời, cũng dễ tạo kẽ hở cho các phần tử phản động, cơ hội
xuyên tạc, công kích, chống phá Đảng.
Thực tế ở Việt Nam, việc mở rộng sinh hoạt dân chủ trong Đảng, nâng cao chất lượng sinh hoạt của các cấp ủy,
đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, kiểm tra và giám sát gắn liền với việc không ngừng hoàn thiện, thực hiện tốt hơn, có
hiệu quả hơn nguyên tắc tập trung dân chủ; tiếp tục xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa lãnh đạo tập trung và phát huy
dân chủ, bảo đảm để nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ được thực hiện nghiêm trong Đảng mà đã và đang trở
thành nguyên tắc quản lý của một xã hội văn minh, hiện đại, nhằm xây dựng đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc,
phát triển bền vững.
Gần 77 năm qua, dân chủ xã hội chủ nghĩa không phải chỉ dừng lại ở khẩu hiệu mà ngày càng trở thành hiện
thực sinh động, nhất là trong hơn 35 năm đổi mới và hội nhập quốc tế. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực thi; nhân
dân là người làm chủ xã hội, được thụ hưởng những thành quả của mình tạo ra đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: "NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc
đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến
Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân”[7]…
Cùng với thời gian, chế độ dân chủ, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về
nhân dân ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn gắn với kỷ luật, kỷ cương; được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp
luật bảo đảm và được phổ biến sâu rộng đến mọi người dân. Việc thực hành dân chủ trong Đảng có ý nghĩa quyết định
đối với phát triển dân chủ trong tổ chức, hoạt động của cả hệ thống chính trị gắn với dân chủ hóa đời sống xã hội, bởi
dân chủ tạo sự đồng thuận xã hội và đồng thuận xã hội tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng vào
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm
1991 và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục
nhất quán mục tiêu xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Gần đây nhất, bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ngày 16/5/2021 cũng đã tiếp tục khẳng định và làm rõ: Dân chủ là bản
chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung, ở
Việt Nam nói riêng. Dân chủ vừa là bản chất vừa là động lực; đồng thời, cũng chính là mục tiêu của chế độ xã hội chủ
nghĩa mà Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân kiên định xây dựng trong suốt 9 thập niên qua. Đó là sự thật và sự
thật này đã được kiểm chứng bởi lịch sử Việt Nam hiện đại; bởi sự tin tưởng, ủng hộ, đi theo của các tầng lớp nhân dân;
bởi sự ghi nhận của các tổ chức quốc tế.

Nghiêm ngặt thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ là để Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, đoàn kết, thống nhất
trong tư tưởng và hành động; đảm bảo lãnh đạo và tổ chức thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. Vì thế, bất cứ sự buông lỏng nào trong việc thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ cũng sẽ dẫn đến tình trạng vô chính phủ, tạo ra phe phái, lực lượng đối lập với Đảng, phá hoại sự đoàn kết,
thống nhất trong Đảng!

 Ý nghĩa
Nguyên tắc tập trung dân chủ mang ý nghĩa như sau:
– Tập trung được sức mạnh, thống nhất ý chí và hành động của Đảng. Là điều kiện cần thiết
cho hoạt động, tồn tạo và phát triển của Đảng.
– Ý nghĩa về mặt dân chủ:
+ Phát huy quyền làm chủ tập thể của cán bộ, đảng viên.
+ Là điều kiện rèn luyện, giáo dục đảng viên, phát huy trí tuệ, nguồn lực của Nhà nước.
+ Đảng viên được quyền làm chủ nhưng giới hạn trong phạm vi tổ chức.
2. HCM nói:” Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Anh ( chị ) hãy phân tích nội dung và ý
nghĩa của luận điểm trên?
* Cơ sở của luận điểm
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giá trị cao cả của quyền tự do và độc lập trong Tuyênngôn
độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có cội nguồn trước hết từtruyền thống đề cao giá
trị độc lập của dân tộc Việt Nam từ trong lịch sử hàng ngànnăm dựng và giữ nước. Truyền
thống quý báu đó của dân tộc đã sớm được thể hiệnbằng sự khẳng định đanh thép một tinh thần
bất hủ như Lý Thường Kiệt đã viết:“Nam quốc sơn hà Nam đế cư; tuyệt nhiên định phận tại
thiên thư…”
Tư tưởng không có gì quý hơn độc lập tự do cũng bắt nguồn trực tiếp từ đòi hỏicủa thực
tiễn cuộc đấu tranh đòi độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam và các dân tộcthuộc địa trên toàn
thế giới. Dưới ách áp bức, thống trị của thực dân Pháp từ cuốithế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Việt
Nam trở thành một nước thuộc địa nửa phongkiến; dân tộc ta mất độc lập và hoàn toàn phụ
thuộc Pháp; nhân dân mất quyền tựdo, trở thành những người dân nô lệ. Độc lập cho dân tộc và
tự do, hạnh phúc chonhân dân là đòi hỏi bức thiết nhất của dân tộc đặt ra cho những người yêu
nướcViệt Nam có trách nhiệm với đất nước, nhân dân, trong đó có người thanh niên yêunước
Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Độc lập dân tộc, tự docho nhân dân
cũng là nguyện vọng của tất cả các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc trêntoàn thế giới đang đấu
tranh chống lại chính sách xâm lược, áp bức dân tộc của chủnghĩa đế quốc, thực dân từ cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Cuộc đấu tranh đòi tựdo dân chủ và quyền tự quyết của các dân tộc
thực chất là đòi lại những quyền màtạo hóa cho họ, đã bị đế quốc thực dân cưỡng đoạt và chà
đạp vô nhân đạo.
Tư tưởng đề cao giá trị độc lập, tự do của Hồ Chí Minh còn bắt nguồn từ giá trị củanhững tư tưởng tiến
bộ phương Tây là: tự do, bình đẳng, bác ái. Đây chính là mộttrong những động cơ, tiêu chí khiến người thanh
niên yêu nước Nguyễn Tất Thànhđã tìm đường sang phương Tây một cách rất tự nhiên như Người từng nói:
“Khi tôiđộ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái. Vàthủa ấy tôi rất muốn làm
quen với nền văn minh Pháp, muốn xem những gì ẩn dấuđằng sau những chữ ấy”. Như vậy, chính ánh sáng từ
lý tưởng tự do, bình đẳng,bác ái của đại cách mạng Pháp (1789), từ quê hương của bản Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền (1791) đã hướng Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh tiếp cận vàhòa nhập vào dòng lịch sử
cách mạng thế giới, khẳng định giá trị cao cả nhất củađộc lập và tự do.
Tư tưởng không có gì quý hơn độc lập tự do của Hồ Chí Minh còn được hình thànhtừ chính những
phẩm chất nhân cách cao đẹp của Hồ Chí Minh – một con ngườigiàu lòng yêu nước, thương dân, một chủ nghĩa
nhân văn cao cả. Thực tiễn nếmtrải cuộc sống của một người dân mất nước, nô lệ của chính bản thân Hồ Chí
Minhvà thực tiễn khảo sát, chứng kiến nỗi khổ của thân phận những người dân lao độngở các nước thuộc địa
trong quá trình đi tìm đường cứu nước, càng giúp Hồ ChíMinh nhận rõ và khẳng định giá trị thiêng liêng cao cả
của độc lập, tự do. Từ đó,Người đã nguyện trọn đời tranh đấu, hy sinh cho mục tiêu độc lập, tự do của dântộc,
của nhân dân. Mục tiêu cao quý đó đã trở thành ham muốn, ham muốn tột bậccủa Hồ Chí Minh là: “Làm sao
cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta đượchoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành”.
Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi (năm 1954), cách mạng Việt Nam đứng trước tình hình
mới. Miền Bắc nước ta được giải phóng và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng ở miền Nam, đế quốc Mỹ
thay thế thực dân Pháp thống trịvà dựng lên chính quyền tay sai, âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam.
Cuối năm 1964 đầu năm 1965, trước sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của cách mạng miền Nam và sự
phá sản của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ vẫn không chịu từ bỏ âm mưu xâm lược nước ta.
Chúng thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ” - một “cuộc chiến tranh tàn bạo nhất trong lịch sử loài
người”đưa hàng chục vạn lính viễn chinh Mỹ và chư hầu đổ bộ vào miền Nam Việt Nam, đẩy cuộc chiến tranh
xâm lược Việt Nam lên nấc thang cao nhất.
Ở miền Bắc, đế quốc Mỹ gây ra sự kiện “Vịnh Bắc Bộ” (tháng 8/1964), để dùng không quân và hải
quân đánh phá ra miền Bắc, phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngăn chặn sự chi viện của hậu
phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam, làm lung lay quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của nhân dân
Việt Nam. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam bước vào giai đoạn mới với nhiều
thách thức hết sức quyết liệt.
Nhân dân hai miền Nam - Bắc tiếp tục vượt qua những khó khăn lớn thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ
chiến lược: Miền Bắc tiếp tục bước vào thời kỳ quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm nhiệm vụ hậu
phương lớn cho cuộc chiến tranhchống Mỹ, cứu nước của đồng bào miền Nam, đồng thời chiến đấu chống lại
cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Miền Nam tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, là tiền tuyến lớn trong cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.
Trước khả năng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước có thể còn lâu dài và vô cùng ác liệt, để khẳng
định quyết tâm sắt đá bảo vệ nền độc lập dân tộc, thống nhất, toàn vẹn chủ quyền, lãnh thổ của đất nước, đồng
thời để thống nhất về nhận thức và tư tưởng, củng cố niềm tin cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong
giai đoạn chiến đấu mới quyết liệt hơn, khó khăn, gian khổ và hy sinh nhiều hơn đểgiành thắng lợi hoàn toàn,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn thảo tài liệu quan trọng: Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước.
Trong hoàn cảnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn thảo tài liệu quan trọng: Lời kêu gọi đồng bào và
chiến sĩ cả nước.
Ngày 17/7/1966, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh bằng không quân đánh phá miềnBắc, trên Đài phát
thanh Tiếng nói Việt Nam, lời kêu gọi nhân dân cả nước quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã vang lên: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do...".
2. Nội dung của luận điểm
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, câu nói bất hủ cách đây 55 năm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lay
động hàng triệu triệu trái tim người Việt Nam yêu nước vàbạn bè quốc tế khắp năm châu. “Độc lập, tự do”, đó
chính là điều thiêng liêng nhất,quý giá nhất của mỗi người, mỗi dân tộc và nhân loại. Có độc lập, tự do thì sẽ có
tất cả, nếu không có độc lập, tự do thì sẽ không có bất cứ thứ gì. “Độc lập, tự do”, đó cũng chính là khát vọng, ý
chí, nguyện vọng, quyết tâm từ ngàn đời của dân tộc ta.
Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do" của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tưtưởng mang tầm chân
lý, một chân lý bất hủ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và giá trịthời đại sâu sắc.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập, tự do là quyền dân tộc, quyền con người, làxuất phát điểm đối với
mọi dân tộc trên con đường đi tới phồn vinh và hạnh phúc.Dân tộc không thể phát triển, đất nước không thể
phồn vinh, nhân dân không thểcó cơm no, áo ấm và cuộc sống hạnh phúc nếu không có được độc lập, tự do.
Dođó, giành lấy và bảo vệ độc lập, tự do là yêu cầu sống còn của các dân tộc. Khi độclập, tự do bị xâm phạm cả
dân tộc phải kiên quyết đứng lên chiến đấu đến cùng đểgiữ vững và bảo vệ nền độc lập và tự do ấy.
Độc lập, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, là người dân phải được hưởng tự do và hạnhphúc, “nếu nước độc
lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập ấycũng chẳng có nghĩa lý gì”. Câu nói “Không có gì quý
hơn độc lập tự do” của Báclà chân lý đúng đắn, nó đã toát lên tinh thần Việt Nam, văn hoá Việt Nam và ý
chíkiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam đã được hun đúc qua hàng nghìn nămdựng nước và giữ nước.
Đó cũng là mục tiêu đấu tranh, là nguồn sức mạnh làmnên chiến thắng của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu
tranh vĩ đại vì độc lập tựdo, vì sự sinh tồn và phát triển của dân tộc. Đồng thời tư tưởng đó cũng là nguồncổ vũ,
động viên to lớn đối với nhân loại tiến bộ, đặc biệt đối với các dân tộc bị ápbức trên thế giới trong cuộc đấu
tranh vì hòa bình, tự do, hạnh phúc.Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân
dân làmục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Người đã dành cả cuộc đời đấu tranhgiành độc lập, tự do
cho Tổ quốc, đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Độc lập, tự dolà một chân lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại.
Chân lý đó luôn là khát vọng, lànỗ lực phấn đấu để xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc
lập,dân chủ và giàu mạnh.
3. Ý nghĩa luận điểm
“Không có gì quý hơn độc lập tự do” không ch‚ là tư tưởng mà còn là lẽ sống, làhọc thuyết cách mạng
của Hồ Chí Minh, của Đảng ta và của toàn thể dân tộc Viêt Nam.
Trả lời phóng viên báo chí năm 1946 Bác bộc bạch:
-Suốt đời tôi ch‚ có một ham muốn, Ham muốn tột bậc của tôi là làm sao đấtnước ta được độc lập, dân
tộc ta được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ănáo mặc, ai cũng được học hành.
Đó cũng chính là lí do chiến đấu, là nguồn sức mạnh, là động lực vô hình giúpnhân dân ta vượt qua mọi
khó khăn gian khổ chiến thắng mọi kẻ thù, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc Viêt Nam. Đó cũng là khẩu hiệu
hành động của dân tộc ViêtNam. Với khẩu hiệu đó, nhân dân Viêt Nam đã kiên cường chiến đấu, hi sinh, buộc
đế quốc Mỹ phải kí Hiệp định Pari, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở ViêtNam, phải chấp nhận điều 1
của chương I nói về các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Viêt Nam: “Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng
đôc lâp, chủ quyền,thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Viêt Nam như Hiêp định Giơnevơ năm1954 về Viêt
Nam đã công nhân”.
Không phải đến khi viết lời kêu gọi ngày 17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh mớikhẳng định giá trị của
độc lập tự do. Ngay từ khi còn niên thiếu, động lực thúc đẩyNgười quyết chí ra tìm đường cứu nước chính là để
tìm lại độc lập tự do cho dântộc.
Sau này, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Người soạn thảo cũng xácđịnh: “Đánh đổ đế quốc
chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Namđược hoàn toàn độc lập."
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giữ vững ngọn cờ độc lập,tự do, Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân nêu cao ý chí, quyếttâm “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịulàm nô lệ."
Tuyên ngôn độc lập do Người viết cũng đã kết thúc bằng lời thề quyết tử cho Tổquốc quyết sinh: ‘Toàn
thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lựclượng, tính mạng và của cải để giữ quyền tự do, độc lập
ấy’’
Đặc biệt, khi đế quốc Mỹ đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam, đồng thờisử dụng không quân
và hải quân tăng cường đánh phá miền bắc, lường trước khảnăng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước có thể
còn lan rộng và vô cùng ác liệt,để khẳng định quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc
Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi: "Không có gì quý hơn độc lập,tự do."
→ Có thể khẳng định, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, “Không có gì quý hơn độc lập,tự do" là tư tưởng
mang tính cách mạng sâu sắc và triệt để. Nó gắn bó chặt chẽ vớicuộc đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp và giải phóngcon người-sự nghiệp vĩ đại mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phấn đấu, hy sinh cả
cuộcđời để thực hiện.Đồng thời, tư tưởng đó cũng là nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp bức trênthế giới
đấu tranh giành lấy đôc lập, tự do. Vì vậy, Hồ Chí Minh không ch‚ đượctôn vinh là “Anh hùng giải phóng dân
tôc” mà Người còn được thừa nhân là“Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa
trong thế kỉ XX”.
Và tư tưởng này không ch‚ đúng trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, khángchiến chống xâm
lược, mà còn có giá trị sâu sắc trong quá trình xây dựng chủnghĩa xã hội
Hiê •n nay các thế lực thù địch quốc tế và nhũng kẻ phản động tay sai trong nướcdùng mọi thủ đoạn, lợi
dụng toàn cầu hóa nhằm phá hoại con đường xây dựng chủnghĩa xã hội ở nước ta. Trong hoàn cảnh đó tư tưởng
“Không có gì quý hơn đôclâp, tự do” của Hồ Chí Minh vẫn là chân lí của thời đại. Chúng ta càng cần đề
caocảnh giác, phát huy thế mạnh của đất nước để có thể tham gia vào quá trình toàncầu hóa, phát triển kinh tế-
xã hội mà vẫn giữ được đôc lâp chủ quyền dân tôc, đemlại cuôc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực cho các thế hê đời sau noi theo. Tư tưởng củaHồ Chí Minh cùng
với chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng, là kim ch‚ namcho hành động của Đảng và nhân dân ta, tiếp
tục soi sáng cho sự nghiệp đổi mớicủa nhân dân ta trong thời đại ngày nay. Nghiên cứu và làm rõ tư tưởng đôc
lâp, tựdo của Hồ Chí Minh giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc về môt khía cạnh trong tưtưởng chân thât mà vĩ
đại của Người, đồng thời có cái nhìn toàn diên hơn về hê thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Để từ đó xác định mục
tiêu phát triển đất nước vớinhững chính sách xây dựng kinh tế xã hôi đúng đắn, giữ vững đôc lâp chủ
quyền,đưa nước ta trở thành quốc gia ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế, ngày càngcó vị thế trên trường
châu lục và quốc tế.
4. Liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay
Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ; trước những âmmưu thủ đoạn chống
phá hết sức thâm hiểm của các thế lực thù địch chủ nghĩa xãhội và sự nghiệp xây dựng, phát triển của dân tộc
Việt nam; trước những diễn biếnhết sức phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, đặc biệt là vấn đề tranh
chấp,xâm phạm chủ quyển biển, đảo ngày càng căng thẳng. Hơn lúc nào hết, chúng tacần quán triệt sâu sắc tư
tưởng không có gì quý hơn độc lập tự do của Hồ ChíMinh trong Tuyên ngôn độc lập, vận dụng sáng tạo trong
cuộc đấu tranh nhằm bảovệ nền độc lập dân tộc và sự toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của đất nước.
Kiên định mục tiêu giữ vững nền độc lập thực sự, hoàn toàn của dân tộc, giữ vữngquyền quyết định mọi
vấn đề hệ trọng của đất nước, không để lệ thuộc hoặc bị chiphối bởi bất cứ quốc gia nào; giũ vững môi trường
hòa bình, hợp tác quốc tế vàphát triển.
Kiên quyết đấu tranh trên mọi lĩnh vực, bằng mọi hình thức, phương pháp, huyđộng mọi lực lượng
trong nước và quốc tế nhằm tạo sức mạnh tổng hợp mạnh mẽđể bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, bảo vệ
chủ quyền, quyền chủ quyền quốcgia; giũ vững biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc, không đánh đổi chủ quyền
quốcgia với bất cứ sự thỏa thuận lệ thuộc nào.
Nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường; chú trọng xây dựng đất nước cóthực lực mạnh, thực
hiện “đem sức ta” bảo vệ chủ quyền đất nước ta, bảo vệ nềnđộc lập dân tộc và cuộc sống hạnh phúc của nhân
dân; kiên quyết đấu tranh vớinhững quan điểm, nhận thức sai trái xuyên tạc, phủ nhận giá trị to lớn của tư
tưởngHồ Chí Minh về độc lập, tự do của dân tộc, góp phần bảo vệ chân lý vĩnh hằng“Không có gì quý hơn độc
lập tự do” của Hồ Chí Minh
3. Theo hcm cách mạng muốn thắng lợi trước hết cần có đảng. Đảng như người cầm lái con thuyền
người cầm lãi có vững thuyền mới chạy. Phân tích nội dung và ý nghĩa luận điểm?
* Nội dung của luận điểm
Luận điểm “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới
chạy” được Nguyễn Ái Quốc đề cập trong tác phẩm “Đường cách mệnh” – đây là tác phẩm tập hợp các bài
giảng của Người tại các lớp huấn luyện cán bộ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tổ chức tại Quảng
Châu (Trung Quốc) trong những năm 1925-1927. Tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh phong trào đấu tranh của
giai cấp vô sản các nước trên thế giới phát triển mạnh mẽ, phong trào giải phóng dân tộc ở trong nước đã xuất
hiện nhiều tổ chức yêu nước mang sắc màu chính trị khác nhau, thực tiễn lịch sử đòi hỏi phải có một tổ chức
mới, có đường lối đúng đắn, có tổ chức chặt chẽ thì mới lãnh đạo cách mạng đi đến thành công.
Giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản trong thời đại mới được tiến hành từ thắng lợi của
Cách mạng Tháng Mười, rõ ràng trước hết là phải có Đảng. Không có Đảng cách mạng không thể thắng lợi, đó
là một điều chắc chắn. Tuy nhiên, điều đó cũng không có nghĩa cứ có Đảng là cách mạng thắng lợi. Điểm cần
phải nhấn mạnh trong quan điểm của Người là Đảng có vững cách mạng mới thành công. Bởi vì Đảng như
người cầm lái con tàu, nếu không vững tay lái, không có trí tuệ, không dũng cảm... thì rất nhiều nguy cơ đến
với con tàu: chệch hướng, đâm vào đá, lật tàu...

Thế nào là Đảng vững? Đây là câu hỏi lớn, trả lời lý luận thì không thật sự khó, nhưng biến những lý
luận đó thành việc làm thật sự trong xây dựng Đảng là vô cùng khó khăn. Như Bác Hồ đã nhắc nhở, “nói thì dễ,
làm thì khó”.

Muốn hiểu một Đảng vững trước hết cần nhận thức những đặc điểm lớn của một Đảng cầm quyền. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về “Đảng ta là một Đảng cầm quyền” xuất hiện từ sớm trong quá trình hoạt động cách
mạng của Người. Đặc biệt, sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, có thể nói nỗi bận tâm lớn nhất của Hồ
Chí Minh là Đảng ta trở thành một Đảng cầm quyền. Nỗi bận tâm này theo suốt cuộc đời Người đến tận trước
lúc đi xa, Người vẫn trăn trở về “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”
Cũng là Đảng ta, nhưng khi chưa cầm quyền thì nhiệm vụ to nhất của Đảng là lãnh đạo cả dân tộc vùng
dậy lật đổ ách thống trị của của thực dân, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân. Nhưng khi có chính
quyền trong tay- Đảng cầm quyền- thì nhiệm vụ lớn nhất của Đảng là giữ vững chính quyền và xây dựng đất
nước. Theo Lênin, giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn. Theo Hồ Chí Minh, “thắng đế quốc
và phong kiến là tương đối dễ, thắng bần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều”(4). Bước vào công cuộc cải tạo
xã hội chủ nghĩa, Người căn dặn cử tri Hà Nội: “Chúng ta đoàn kết quyết tâm kháng chiến, đến chín năm đã
thắng lợi. Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, công cuộc đổi xã hội cũ thành xã hội mới gian nan phức
tạp hơn việc đánh giặc”(5). Trong Di chúc, Hồ Chí Minh xác định công việc chống lại những gì cũ kỹ, hư hỏng
để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi là cả một cuộc chiến đấu khổng lồ. Hiện nay vẫn còn tư tưởng chủ quan,
duy ý chí cho rằng công việc xây dựng trong đổi mới dễ hơn việc đánh giặc. Nhận thức như vậy là trái với tư
duy Hồ Chí Minh. Chúng ta phải có niềm tin chắc chắn cuối cùng cách mạng sẽ thành công với một trong
những điều kiện tiên quyết là Đảng vững. Chúng ta, có quyền khẳng định rằng trước đây cha ông chúng ta làm
được thì ngày nay cháu con phải quyết tâm thực hiện bằng được theo tinh thần “các vua Hùng đã có công dựng
nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Nhưng điều đó không có nghĩa là công cuộc “xây dựng đất
nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” là dễ hơn việc đánh giặc. Theo lối suy nghĩ giản đơn, chủ quan, duy ý chí
mà từ năm 1986, khi bước vào đổi mới, Đảng ta đã kết luận, chúng ta đã phải trả giá đắt để có được tư duy đổi
mới. Ngày nay, sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam không còn đất cho kiểu tư duy cũ, trượt theo lối suy nghĩ
manh mún, giản đơn của đầu óc trong một đất nước tiểu nông.

Nhiệm vụ xây dựng nặng nề. phức tạp hơn nhiệm vụ xóa bỏ vì cách mạng là hướng tới tương lai. Theo
quy luật, thành quả hôm nay phải lớn hơn thành quả hôm qua và thành quả ngày mai, trong tương lai, phải lớn
hơn thành quả hôm nay. Xây dựng chủ nghĩa xã hội theo đường lối đổi mới lại càng khó khăn, gian nan, phức
tạp hơn nhiều. Mô thức chủ nghĩa xã hội (mô hình, cách thức, phương pháp) hoàn toàn chưa có tiền lệ trong
lịch sử. Ví như thiết kế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hoàn toàn chưa có trong tư duy của
Đảng khi Đảng ra đời và trong suốt các giai đoạn tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, kể cả những
năm đầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Đảng cầm quyền không đơn giản chỉ là lãnh đạo đất nước khi đã có chính quyền trong tay. Đây là cả
một đại vấn đề, liên quan tới trí tuệ, đạo đức, bản lĩnh, phương thức lãnh đạo, không chỉ đối nội mà còn đối
ngoại trong một thế giới đa cực, luôn luôn vận động, đổi thay, nhiều thay đổi, xoay chuyển khó lường.

Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng hoàn toàn Đảng không thể đứng trên Nhà nước, đứng
ngoài pháp luật. Ngược lại, một vấn đề lớn đặt ra là Đảng phải xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có hạt nhân là pháp luật,
sự hoàn thiện, tính khoa học, nghiêm minh của pháp luật. Đôi khi người ta nói tới tính tối thượng của pháp luật
theo nghĩa đầy đủ, toàn diện của khái niệm này.

Điểm qua mấy nét lớn về Đảng cầm quyền như vậy để thấy rằng, luận điểm “Đảng có vững cách mạng
mới thành công” cần được thấu triệt từ Trung ương xuống tới cơ sở, đến tận mỗi cán bộ, đảng viên. Bởi vì, thực
chất Đảng là gì? Đảng là mỗi chúng ta như Bác Hồ giải thích. Mỗi chúng ta lớn mạnh thì Đảng lớn mạnh. Cán
bộ, đảng viên kém thì Đảng yếu. Mọi sự thành bại của Đảng, của cách mạng đều liên quan tới cán bộ tốt hay
kém.

Đảng vững cần nhiều yếu tố, ở đây chỉ xin nêu hai điểm cốt yếu.

Một là, theo Hồ Chí Minh, Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa “làm cốt”. Đó là tư tưởng cách mạng và
khoa học lấy chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Chúng ta cần khẳng định và nhấn
mạnh rằng, tuy thế giới đã, đang và sẽ còn nhiều đổi thay, nhưng tinh thần, những quan điểm có tính nguyên
tắc, phương pháp, phong cách trong di sản Hồ Chí Minh không hề thay đổi. Dưới ánh sáng cách mạng và khoa
học của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy thực tiễn Việt Nam làm điểm xuất phát, nắm bắt và
bám sát xu thế của thời đại, Đảng phải đưa ra được Cương lĩnh mang tính khoa học và cách mạng, lấy cải tạo
hiện thực Việt Nam làm mục tiêu. Cương lĩnh của Đảng phải thể hiện được bản lĩnh chính trị vững vàng của
một đảng chân chính và cách mạng, trong mọi tình huống phức tạp, mọi bước ngoặt hiểm nghèo luôn kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đảng phải có một trí tuệ và bản lĩnh biết và dám huy động sức mạnh của toàn dân tộc theo tinh thần
“Hội nghị Diên Hồng” và sức mạnh thời đại, chống những tư tưởng lệch lạc “tả- hữu”, chống cơ hội dưới mọi
màu sắc, chống xét lại, chống giáo điều, bảo thủ, nôn nóng, chủ quan duy ý chí. Trên cơ sở đặc điểm của bối
cảnh thế giới và trong nước, Đảng phải có khả năng dự báo khoa học các chiều hướng có thể xảy ra, vừa cứng
rắn về nguyên tắc, chiến lược vừa mềm dẻo về sách lược, linh hoạt về biện pháp và con đường, dám quyết định
những vấn đề liên quan tới vận mệnh của dân tộc.

Hai là, đội ngũ cán bộ đảng viên dám phụ trách, dám chịu trách nhiệm trước nhân dân. Họ phải là những
người không tham quyền cố vị, nếu đảm nhiệm một chức vụ nào đó phải quan niệm đúng đắn rằng quyền hạn
đó là nhân dân ủy thác thì phải gắng hết sức làm cũng như một người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra trước
mặt trận, Ngày nay, cán bộ, đảng viên phải là những người có phẩm chất đạo đức, có năng lực trí tuệ, có bản
lĩnh chính trị, văn hóa, có phương pháp và phong cách làm việc khoa học, gần dân, học dân, hiểu dân, không
quan liêu, mệnh lệnh. Bởi vì, như Bác Hồ đã dạy, xa dân, chẳng khác gì đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất
bại. Các cơ sở đảng phải kịp thời xem xét, có cách xử lý, thậm chí loại bỏ ngay khỏi đội ngũ của mình những
cán bộ, đảng viên nói mà không làm, nói nhiều làm ít, nói một đường làm một nẻo; những cán bộ đảng viên đùn
đẩy trách nhiệm, dễ làm khó bỏ; những người kém năng lực chuyên môn, tài không xứng chức; những người xu
nịnh a dua, theo gió bẻ buồm, không có khí khái, “thấy xôi nói xôi ngọt, thấy thịt nói thịt bùi”. Bởi vì, như Hồ
Chí Minh đã dạy, nếu trong đội ngũ của Đảng còn có những đảng viên cán bộ, “đập đi, hò đứng”, không dám
phụ trách. Đó là một thất bại cho Đảng.
Kỷ niệm 80 năm Ngày Đảng ta ra đời, càng tự hào với Đảng quang vinh đã lãnh đạo dân tộc làm nên
bao kỳ tích bao nhiêu, càng trăn trở, đau lòng bấy nhiêu với một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có chức
có quyền, do thoái hoá biến chất, đã làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, làm hoen ố hình ảnh của một
đảng đạo đức, văn minh. Chúng ta tin tưởng rằng, với nhận thức cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân
dân; Đảng cầm quyền nhưng dân là gốc, dân là chủ, Đảng ta sẽ tiếp tục ghi lên lá cờ của mình những điều
huyền thoại, đưa dân tộc Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu.
 Ý nghĩa
4.. Sự sáng tạo của HCM trong việc giải quyết mỗi quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp và ý nghĩa
của tư tưởng đó đối với cách mạng VN?
Có thể nói Hồ Chí Minh là một trong những người cộng sản đầu tiên vận dụng thành công học thuyết
cách mạng Mác - Lênin vào cách mạng của các dân tộc thuộc địa, vào cách mạng Việt Nam, cách mạng của
một nước thuộc địa nửa phong kiến. Tuy nhiên, nhân tố cơ bản đảm bảo thành công của cách mạng Việt Nam
không chỉ đơn giản là “sự vận dụng”, mà còn là sự phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh đối với học thuyết đó,
nhất là về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.

Trước hết là về vấn đề dân tộc thuộc địa, khái niệm này chỉ xuất hiện khi chủ nghĩa tư bản chuyển từ
giai đoạn tự do cạnh tranh, sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước đế quốc cấu kết với nhau xâm lược,
cướp bóc, nô dịch các dân tộc nhược tiểu khiến vấn đề dân tộc trở nên gay gắt (bởi sự áp bức dân tộc), từ đó
xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa. Giải quyết vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là tiến hành cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc,
xóa bỏ ách áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước dân tộc độc lập.

Ở thời đại của C.Mác và Ph.Ăngghen, các ông không đi sâu nghiên cứu, giải quyết vấn đề dân tộc, vì về
cơ bản, vấn đề dân tộc ở Tây Âu đã được giải quyết trong cách mạng tư sản; nhất là các ông chưa có điều kiện
bàn nhiều về vấn đề dân tộc thuộc địa - như V.I.Lê-nin đã nhận xét - đối với C.Mác, so với vấn đề giai cấp vô
sản, thì vấn đề dân tộc chỉ là một vấn đề thứ yếu thôi. Mặc dầu vậy, Mác - Ăng-ghen cũng đã đưa ra những
quan điểm lý luận về mối quan hệ dân tộc - giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc; về mối quan hệ giữa
cách mạng vô sản và cách mạng thuộc địa... Trong bản Tuyên ngôn của Ðảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăng-
ghen đã viết: "Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng
sẽ bị xóa bỏ. Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa
các dân tộc cũng đồng thời mất theo”

(1); tức là chỉ có thể giải quyết vấn đề giai cấp một cách triệt để thì vấn đề dân tộc mới được giải quyết.
Quan điểm đó hoàn toàn đúng với đòi hỏi của cách mạng vô sản ở châu Âu đang đặt ra lúc bấy giờ, nhưng có
thể nói, không phù hợp với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
Ðến thời V.I.Lê-nin, chủ nghĩa đế quốc đã phát triển thành một hệ thống thế giới, cách mạng giải phóng
dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản, V.I.Lê-nin có cơ sở thực tiễn để phát triển vấn đề dân
tộc thuộc địa và cách mạng thuộc địa thành một hệ thống lý luận. Theo V.I.Lê-nin, cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản (ở chính quốc) sẽ không thể giành được thắng lợi, nếu nó không biết liên minh với cuộc đấu tranh
của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Từ đó, V.I.Lê-nin đã bổ sung khẩu hiệu của C.Mác và Ph.Ăng-ghen:
"Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại"; thành khẩu hiệu: "Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức liên hiệp
lại". Tuy vậy, nhưng trong Tuyên ngôn thành lập quốc tế cộng sản năm 1919, V.I.Lênin đã viết: Công nhân
và nông dân không những ở An Nam, Angiêri, Bengan mà cả ở Ba Tư hay Ácmênia chỉ có thể giành được
độc lập khi mà công nhân các nước Anh và Pháp lật đổ được Lôiít Gioócgiơ và Clêmăngxô giành chính
quyền nhà nước vào tay mình (2). Như vậy, mặc dù C.Mác, Ph.Ăng-ghen, V.I.Lê-nin khẳng định mối quan hệ
biện chứng, chặt chẽ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, nhưng các ông đều cho rằng, trong mối quan hệ
đó, nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của giai cấp công nhân là phải là tiến hành cuộc cách mạng lật đổ giai cấp tư
sản, giành lấy chính quyền. Sau khi lên nắm chính quyền, sẽ trao trả độc lập cho các nước thuộc địa, hoặc tạo
điều kiện cho phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa giành thắng lợi. Có nghĩa là, cách mạng vô sản ở
chính quốc có vai trò quyết định đến thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.

Đối với Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, là người xuất thân từ một nước thuộc địa, trên hành trình tìm
đường cứu nước, Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin tìm thấy con đường cách mạng giải phóng dân tộc
qua bản Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê-nin. Mặc dù coi
hệ thống lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin là "cẩm nang thần kỳ", nhưng từ sự nghiên cứu, trải
nghiệm thực tiễn ở các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh cho rằng, nhiều vấn đề lý luận các nhà kinh điển đưa ra,
chỉ đúng với điều kiện châu Âu, cho nên, cần phải nghiên cứu, bổ sung và phát triển lý luận, vận dụng vào
thực tiễn một cách sáng tạo, phù hợp, không giáo điều, dập khuôn. Người nói: "Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là
kim chỉ nam cho hành động, chứ không phải là kinh thánh". "Những người cộng sản các nước phải cụ thể hóa
chủ nghĩa Mác - Lê-nin cho thích hợp với điều kiện hoàn cảnh từng lúc và từng nơi" (3).

Nghiên cứu về sự thay đổi của tình hình cách mạng thế giới từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga, Hồ
Chí Minh cho rằng, nhiệm vụ đặt ra cho cách mạng thuộc địa là không phải là làm ngay một cuộc cách mạng
vô sản (như các nước tư bản), mà trước hết phải tiến hành đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc; có độc lập
dân tộc rồi, mới có điều kiện để giải phóng giai cấp. Theo quan điểm của Người, giải phóng dân tộc là vấn đề
trên hết, trước hết; giải phóng dân tộc là tiền đề để giải phóng giai cấp; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. Theo Người, trong mối quan hệ dân tộc - giai cấp, dân tộc là tổng thể, giai cấp là một bộ phận. Do đó,
quyền lợi của giai cấp, (tức là quyền lợi của bộ phận) phải phục tùng quyền lợi của dân tộc (bộ phận phục
tùng tổng thể). Ðó là những quan điểm lý luận sáng tạo của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc thuộc địa.

Thứ hai về mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản
ở các nước tư bản chính quốc. Theo quan điểm của Mác - Ăng-ghen, các dân tộc thuộc địa không thể tự mình
làm cách mạng thắng lợi. Quan điểm này còn tồn tại trong Quốc tế Cộng sản đến tận Ðại hội VI, (1928). Thể
hiện trong Những luận cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa: Chỉ có thể
thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước
tư bản tiên tiến (4).

Ðối với Hồ Chí Minh, qua nghiên cứu phong trào cách mạng thuộc địa, ngay từ năm 1921, Người đã
nhận định: "trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ
có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn"(5). Năm 1924,
Hồ Chí Minh khẳng định, cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính
quốc, mà có thể giành thắng lợi trước. Hơn nữa, yêu cầu bức thiết của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc
không cho phép ỷ lại, ngồi chờ thắng lợi của cách mạng vô sản ở châu Âu để được trả lại nền độc lập cho các
dân tộc thuộc địa. Ðây là một quan điểm cách mạng sáng tạo của Hồ Chí Minh, có giá trị lý luận và thực tiễn
to lớn đối với phong trào cách mạng thế giới. Ðặc biệt, đối với cách mạng Việt Nam, luận điểm cách mạng
của Hồ Chí Minh đã được vận dụng một cách chủ động, sáng tạo trong tiến trình vận động cách mạng giải
phóng dân tộc. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam, là một minh chứng khẳng định
luận điểm của Hồ Chí Minh hoàn toàn đúng đắn.

Thứ ba về vấn đề lực lượng cách mạng. Theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, "Cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng"; phát triển tư tưởng của Mác - Ăng-ghen trong điều kiện mới, V.I.Lê-nin khẳng định:
Không có sự đồng tình và ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiên phong của mình, tức là đối
với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được… (6). Mặc dù đánh giá cao vai trò của
quần chúng,"quần chúng là những người làm nên lịch sử", nhưng theo V.I.Lê-nin: "Chỉ có giai cấp vô sản
công nghiệp ở thành thị, do đảng cộng sản lãnh đạo, mới có thể giải phóng quần chúng lao động" (7). Phải
chăng quan điểm này chỉ đúng với điều kiện của các nước tư bản phát triển, nơi có phong trào công nhân lớn
mạnh, mà không đúng với điều kiện ở các nước thuộc địa có nền kinh tế kém phát triển, (chủ yếu là sản xuất
nông nghiệp), cơ cấu dân số có tới hơn 90% là nông dân.

Ðối với Quốc tế Cộng sản, quan điểm về vấn đề lực lượng cách mạng ở các nước thuộc địa cũng thể
hiện nhiều hạn chế. Trong đó, rõ nhất là một số hạn chế thể hiện trong bản "Ðề cương về phong trào cách
mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa" được thông qua tại Ðại hội VI (1928). Bản Ðề cương đã quá
nhấn mạnh về tính không triệt để cách mạng của giai cấp tư sản dân tộc ở các nước thuộc địa; từ đó đề ra
nhiệm vụ đặc biệt của các đảng cộng sản là đấu tranh chống lại phong trào dân chủ tư sản trong nước mình
(8). Quan điểm "tả khuynh" cứng nhắc, biệt phái, hẹp hòi, đã đẩy giai cấp tư sản dân tộc ở thuộc địa đứng về
phe đế quốc, mà lẽ ra các đảng cộng sản có thể tranh thủ được họ trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Nhất là sự đánh giá không đầy đủ về yếu tố dân tộc, tinh thần yêu nước của nhân dân các dân tộc bị áp bức,
dẫn đến những quan điểm mang tính phiến diện, thậm chí sai lầm về lực lượng cách mạng.

Nhìn nhận từ thực tiễn tình hình lực lượng cách mạng ở các nước thuộc địa (nói chung), ở Việt Nam
(nói riêng), Hồ Chí Minh khẳng định, lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc "là việc chung cả dân chúng
chứ không phải việc một hai người" (9). Lực lượng tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc là lực lượng toàn
dân, trong đó "công nông là gốc cách mệnh"; học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ là "bầu bạn cách mệnh của
công nông"(10). Trên cơ sở đó, Hồ Chí Minh chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc, vận động tất cả các tầng
lớp nhân dân tham gia cách mạng, tập hợp trong Mặt trận Dân tộc thống nhất rộng rãi: sĩ, nông, công, thương
đều nhất trí chống lại cường quyền.

Lấy "mẫu số chung là lòng yêu nước", lực lượng cách mạng là toàn dân tộc, không phân biệt đảng phái,
giai cấp, tôn giáo... đó là tư tưởng bắt nguồn từ truyền thống đại đoàn kết dân tộc, được Hồ Chí Minh thể hiện
bằng một sắc thái mới, tư duy mới trong thời đại mới. Những quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về lực
lượng cách mạng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tổ chức, tập hợp xây dựng lực lượng, tiến hành
cách mạng giải phóng dân tộc giành thắng lợi ở Việt Nam. Ðồng thời góp phần chống lại tư tưởng "tả
khuynh", hẹp hòi trong Phong trào Cộng sản và Công nhân quốc tế; góp phần ngăn chặn sự ảnh hưởng của nó
đối với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc.

Thứ tư về xây dựng Ðảng Cộng sản ở một nước thuộc địa kém phát triển. Xuất phát từ điều kiện lịch sử,
thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại mới (từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga), Hồ Chí Minh
khẳng định, cách mạng giải phóng dân tộc (ở Việt Nam), muốn giành thắng lợi triệt để phải do Ðảng Cộng
sản lãnh đạo. Người nói: Cách mệnh trước hết "phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân
chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Ðảng có vững cách mệnh mới thành
công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy" (11). Trong quá trình chuẩn bị về tư tưởng chính trị
và tổ chức cho sự ra đời của Ðảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã kết hợp một cách sáng tạo lý luận chủ nghĩa
Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, thành lập một chính đảng mác-xít ở Việt
Nam. Không chỉ là người sáng lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là người lãnh đạo và rèn luyện Ðảng ta trở
thành: Ðảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Ðảng luôn giương cao
ngọn cờ tiên phong lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thành công trong
việc xây dựng Ðảng Cộng sản Việt Nam, thể hiện thiên tài về trí tuệ, sự mẫu mực trong việc vận dụng, phát
triển sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh. Ðồng thời là một đóng góp to lớn của Người về lý luận xây dựng
đảng cộng sản trên thế giới, làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Những quan điểm của Hồ Chí Minh là thành quả của một tư duy sáng tạo, thể hiện tư tưởng cách mạng
và khoa học, được kiểm chứng trong tiến trình đấu tranh cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng thế
giới. Tuyệt nhiên đó không phải là sự vay mượn, hay "nhập khẩu cách mạng". Quan điểm của Người thấm
đượm khát vọng của nhân dân Việt Nam về độc lập, tự do, công bằng, văn minh, ấm no, hạnh phúc hướng tới
mục tiêu phục vụ cho quyền lợi và khát vọng của dân tộc, hòa quyện trong tình yêu giai cấp, yêu nhân loại,
đượm tính nhân văn, không có ranh giới quốc gia ngăn cách.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp thể hiện sâu sắc ở
quan điểm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đã định hướng chính trị, chỉ đạo nhận thức và hành
động của toàn Đảng, toàn dân ta, đồng thời đã được kiểm nghiệm, khẳng định trong thực tiễn lịch sử cách
mạng Việt Nam.
*Ý nghĩa
5.. Sự sáng tạo của HCM về thành lập ĐCS Việt Nam ntn? Điều đó góp phần làm phong phú lý luận xây
dựng đảng ra sao?
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và từng bước biến nước ta trở thành thuộc địa của chúng.
Trước cảnh nước mất nhà ta, nhân dân lầm than, khổ cực, nhiều phong trào yêu nước đã nổ ra nhưng đều thất
bại vì chưa có đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn. Ngày 05/6/1911, người thanh niên yêu nước
Nguyễn Tất Thành đã quyết chí ra nước ngoài để tìm đường cứu nước. Trải qua hành trình khắp năm châu,
bốn biển, năm 1917, Người trở lại Paris và tích cực hoạt động trong Đảng xã hội Pháp. Tháng 7/1920, Người
đã bắt gặp “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I.Lênin và tìm ra
con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam, Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không
có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Nguyễn Ái Quốc tích cực chuẩn bị mọi mặt cho sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là quá trình vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác -
Lênin vào thực tiễn xã hội Việt Nam và Người cũng có những sáng tạo độc đáo phù hợp với thực tiễn cách
mạng Việt Nam.

Một là, Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quy luật ra đời Đảng cộng sản của chủ nghĩa Mác - Lênin và
chỉ ra quy luật ra đời đặc thù của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước cho dân tộc, Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt động nhằm
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị mọi mặt cho việc thành lập Đảng. Người tham gia
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, hoạt động tích cực trong Hội liên hiệp thuộc địa, xuất bản báo “Người cùng
khổ” để tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào các nước thuộc địa. Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đi Liên Xô
dự Đại hội V của Quốc tế Cộng sản và có nhiều hoạt động tích cực tại Quốc tế Cộng sản như: tham dự Đại
hội Quốc tế Nông dân, Quốc tế Thanh niên, Quốc tế Công hội đỏ,… Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng cho 75 đồng chí.
Những bài giảng của Người được tập hợp thành cuốn sách “Đường cách mệnh” xuất bản năm 1927. Trong tác
phẩm Người nêu rõ: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận
động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững
cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy

Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân, được tổ chức và hoạt động
theo những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, đó là: nguyên tắc tập trung dân
chủ, phải đoàn kết thống nhất, lấy tự phê bình và phê bình làm quy luật phát triển và phải có kỷ luật nghiêm
minh... Người khẳng định vấn đề có ý nghĩa quyết định trong xây dựng Đảng là: “Đảng muốn vững thì phải
có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ
nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”[3].

Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ
nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Vận dụng sáng tạo quy luật này ở một nước thuộc địa nửa
phong kiến, kinh tế nghèo nàn lạc hậu như Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: Chủ nghĩa Mác - Lênin kết
hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đây chính là sáng tạo nổi bật nhất của Hồ Chí Minh trong quá trình vận động thành lập Đảng. Người
trung thành với nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về quy luật ra đời của Đảng, đồng thời có bổ sung, sáng
tạo vào quy luật ấy với điều kiện cụ thể của Việt Nam, đó là phong trào yêu nước. Hồ Chí Minh đã phân tích
rất kỹ tính chất xã hội, cơ cấu giai cấp của xã hội Việt Nam để chỉ ra quy luật này.

Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, số lượng ít, chủ
yếu là công nhân khai thác mỏ, đồn điền mà chưa phải là công nhân đại công nghiệp như ở phương Tây. Tuy
vậy, giai cấp công nhân Việt Nam cũng là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, có tinh thần
cách mạng triệt để nhất, có mối liên hệ mật thiết với nông dân, là lực lượng lãnh đạo cách mạng. Phong trào
công nhân diễn ra nhưng quy mô còn nhỏ, tổ chức chưa chặt chẽ. Bên cạnh đó, phong trào yêu nước Việt
Nam diễn ra sôi nổi, rộng khắp, thu hút được đông đảo các giai cấp, tầng lớp tham gia. Vì vậy, phong trào
công nhân và phong trào yêu nước cần phải hỗ trợ nhau để thu hút lực lượng đông đảo trong xã hội, nhất là
nông dân.

Chủ nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa “chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất”, cần phải được
truyền bá, thẩm thấu vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước để tạo nên sự chuyển biến về chất, trở
thành hành động cách mạng của dân tộc Việt Nam. Chính sáng tạo của Hồ Chí Minh về quy luật ra đời đặc
thù của Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập hợp được lực lượng đông đảo trong nhân dân dưới sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân mà đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam làm nên những thắng lợi vẻ vang của cách
mạng Việt Nam.
Bằng nhiều hình thức tuyên truyền, nhất là thông qua tổ chức và hoạt động của Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên, chủ nghĩa Mác - Lênin đã thẩm thấu vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam. Thời kỳ 1927 - 1929 là thời kỳ chuyển biến của cách mạng Việt Nam. Phong trào công nhân Việt Nam
chuyển mạnh từ tự phát đến tự giác, phong trào yêu nước phát triển với chất lượng mới. Qua đó, tạo nên làn
sóng cách mạng dân tộc, dân chủ mạnh mẽ, tạo điều kiện chín muồi cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Với sự ra đời của 03 tổ chức cộng sản vào cuối năm 1929, đầu năm 1930 cho thấy việc thành lập Đảng
đã được chuẩn bị chu đáo về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Với nhãn quan chính trị nhạy bén, nhằm thống
nhất thành một Đảng duy nhất để lãnh đạo cách mạng, Nguyễn Ái Quốc với vai trò phái viên của Quốc tế
cộng sản đã triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930).

Hai là, Hồ Chí Minh xác định: giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam.

Trong các văn kiện thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng (Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt) do
Hồ Chí Minh soạn thảo xác định: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản”, “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn
toàn độc lập”[4]. Đây là đường lối đúng đắn của cách mạng Việt Nam với hai giai đoạn: Giải phóng dân tộc
đem lại độc lập cho dân tộc được đặt lên hàng đầu, tiếp đó cách mạng phải tiến lên giai đoạn xã hội chủ nghĩa,
cộng sản chủ nghĩa để thực sự giải phóng giai cấp, giải phóng con người, đem lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho
nhân dân, con người được phát triển toàn diện. Đây là hai giai đoạn không có sự phân biệt về không gian và
thời gian, nó gắn liền với nhau, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, giải phóng dân tộc là tiền đề, là điều kiện để
giải phóng giai cấp, giải phóng con người và giải phóng giai cấp, giải phóng con người sẽ bảo đảm cho độc
lập dân tộc được vững chắc, “độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Ba là, sáng tạo của Hồ Chí Minh về việc xác định lực lượng tiến hành cách mạng.

Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: Liên minh giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân là động lực của
cách mạng vô sản. Vận dụng sáng tạo quan điểm đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng
định: Công nông là chủ cách mệnh, bên cạnh đó Người cũng chỉ ra: học trò, nhà buôn, điền chủ nhỏ là bầu
bạn cách mệnh của công nông. Trong “Sách lược vắn tắt”, Hồ Chí Minh xác định về từng lực lượng cách
mạng: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải
làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng. Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải
dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến… Đảng phải hết
sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai
cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì
phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến,
v.v.) thì phải đánh đổ”[5].
Đây chính là chủ trương tập hợp tất cả các giai cấp, tầng lớp, lực lượng có tinh thần yêu nước, tinh thần
cách mạng đứng về phe công nông, tạo nên sức mạnh tổng hợp cho cách mạng, đồng thời phân hóa, cô lập kẻ
thù, là sáng tạo độc đáo của Hồ Chí Minh trong huy động sức mạnh toàn dân làm cách mạng.
Để thực hiện được việc tập hợp lực lượng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến tính tiên phong và
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tính tiên phong của Đảng, theo Người là thể hiện ở đường lối chính trị
đúng đắn. Người nêu rõ: “Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân
và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”[6]. Trong Lời kêu gọi nhân thành lập Đảng, Người cũng
chỉ rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập. Đó là Đảng của giai cấp vô sản. Đảng sẽ dìu dắt giai cấp
vô sản lãnh đạo cách mạng An Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột
chúng ta”[7]. Các văn kiện thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng, các bài viết cũng như thư gửi Trung ương
Đảng và Quốc tế Cộng sản trong những năm 30 thế kỷ XX, Hồ Chí Minh dùng rất nhiều từ như: “thu phục”,
“lôi kéo”, “liên lạc”, “dìu dắt”, v.v.. nhằm khẳng định tính tiên phong và vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc
tổ chức, tập hợp, đoàn kết dân tộc đấu tranh cho quyền lợi của dân tộc và của giai cấp.

Bốn là, sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc đặt tên Đảng và chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong
khuôn khổ mỗi nước Đông Dương.

Trong khi Quốc tế Cộng sản có chỉ thị thành lập một Đảng Cộng sản chung cho ba dân tộc Đông
Dương. Trong thảo luận tại Hội nghị thành lập Đảng, Hồ Chí Minh giải thích: “Cái từ Đông Dương rất rộng
và theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề dân tộc là vấn đề rất nghiêm túc, người ta không thể bắt
buộc các dân tộc khác gia nhập Đảng, làm như thế là trái với nguyên lý của chủ nghĩa Lênin. Còn cái từ An
Nam thì hẹp, mà nước ta có ba miền: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ.

Do đó, từ Việt Nam hợp với cả ba miền và cũng không trái với nguyên lý của chủ nghĩa Lênin về vấn đề
dân tộc”, nên Hội nghị nhất trí với cách giải thích của Người và đặt tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ
trương đó của Người tuân thủ những nguyên lý xây dựng đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, có tính
đến yếu tố dân tộc, nhằm thức tỉnh ý thức dân tộc, khơi dậy sức mạnh của ba dân tộc Đông Dương, đồng thời
tạo ra sự tin cậy về chính trị để đoàn kết, giúp đỡ nhau một cách tự nguyện, bình đẳng và có hiệu quả.
Những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ở một nước thuộc địa đã
được thực tế cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới trong thế kỷ XX kiểm chứng là đúng đắn và khoa
học. Đây là sự cống hiến quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận Mác - Lênin. Trải qua gần 90 năm
xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, với bản lĩnh của một đảng cách
mạng chân chính, luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam với sự sáng lập và rèn luyện
của Hồ Chí Minh đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành những thắng lợi vẻ vang, có ý nghĩa lịch sử to lớn.
Ngày nay, những tư tưởng của Người vẫn còn nguyên giá trị, soi sáng cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
*Điều đó đã góp phần làm phong phú lý luận xây dựng đảng
6.. Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn để HCM lựa chọn con đường cách mạng vô sản? Ý nghĩa của sự
lựa chọn đó với cách mạng VN?
7.HCM nói: “ Đảng của giai cấp lao động mà cũng là Đảng của toàn dân. Phân tích nội dung và nêu ý
nghĩa đối với nước ta hiện nay?

Một trong những cống hiến đặc sắc của Hồ Chí Minh cả mặt lý luận và thực tiễn về vấn đề Đảng là
Người đã kết hợp một cách đúng đắn và nhuần nhuyễn tính giai cấp, tính tiền phong, tính trí tuệ, tính đạo đức
và tính quần chúng trong công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam và rèn luyện đảng viên. Trong hoàn
cảnh cụ thể của nước ta, một nước thuộc địa, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là "sự kết hợp giữa chủ nghĩa
Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước". Như vậy ngay từ đầu, Đảng đã bắt rễ sâu
trong "miếng đất màu mỡ" của dân tộc mang trong mình sự gắn bó chặt chẽ vấn đề giai cấp và dân tộc và Hồ
Chí Minh đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác-Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, kết
hợp giác ngộ dân tộc với giác ngộ giai cấp trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin.

Trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (2 - 1951), Hồ Chí Minh đã
khẳng định: "Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là
một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó
phải là Đảng của dân tộc Việt Nam"(1). Năm 1953, Hồ Chí Minh viết: “ Đảng lao động là tổ chức cao nhất
của giai cấp cần lao và đại biểu cho lợi ích của cả dân tộc…Đảng là đảng của giai cấp lao động, mà cũng là
đảng của toàn dân”(2). Năm 1957, Hồ Chí Minh khẳng định lại: “ Đảng là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời cũng là đội tiên phong của dân tộc”(3). Trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, năm
1961, Người nhắc lại: "Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư thiên
vị"(4).

Nói tới một đảng cộng sản chân chính trước hết phải nhận thức đó là đảng của giai cấp công nhân, tức là
nói tới tính giai cấp, đảng mang bản chất giai cấp công nhân. Đảng ta từ lúc ra đời và suốt quá trình xây dựng
theo tư tưởng Hồ Chí Minh luôn giữ vững bản chất giai cấp công nhân. Những biểu hiện cụ thể là xác định
mục tiêu, lý tưởng cách mạng, đi tới chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội. Nền tảng tư
tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin. Nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt là tập trung dân chủ, tự phê bình và
phê bình, kỷ luật nghiêm minh tự giác, đoàn kết thống nhất.

Cùng với tính giai cấp, Đảng phải giữ vững tính tiền phong, nghĩa là Đảng luôn luôn ở vị trí đi đầu, dẫn
đầu, hăng hái, tích cực nhất.. Đảng đứng mũi chịu sào, đi tiên phong, có mặt trong quần chúng nhưng không
bao giờ đứng trên hoặc theo đuôi quần chúng.

Những vấn đề đó từ Mác đến Lênin, đặc biệt là Lênin đã khẳng định và nhiều lần nhấn mạnh, sau đó Hồ
Chí Minh đã cụ thể hoá vấn đề "trở thành dân tộc" trong lý luận Mác-Lênin phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam
nơi mà chủ yếu là nông dân và các thành phần yêu nước khác, còn giai cấp công nhân chỉ chiếm một tỷ lệ
nhỏ.

Dưới ánh sáng lý luận Mác- Lênin và từ thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định bản chất giai cấp
công nhân mà không triệt tiêu vấn đề dân tộc trong Đảng; nói "Đảng của dân tộc Việt Nam" mà không làm
mất và giảm lập trường giai cấp; ngược lại là một minh chứng hùng hồn cho "Đảng của giai cấp công nhân".
Bản chất giai cấp của Đảng càng sâu sắc thì tính dân tộc càng đậm nét; tính dân tộc càng đậm nét thì càng làm
cho tính giai cấp sâu sắc hơn. Hai tính chất này bổ sung cho nhau để khẳng định một đảng cách mạng chân
chính theo đúng nguyên lý Đảng kiểu mới của Lênin, nhưng ra đời và trưởng thành ở một nước thuộc địa.

Căn cứ vào luận điểm kinh điển và tuân thủ những quan điểm của Lênin về xây dựng đảng kiểu mới của
giai cấp vô sản thì chỉ cần khẳng định Đảng ta là "Đảng của giai cấp công nhân" là đủ. Nhưng một sáng tạo
lớn của Hồ Chí Minh là Người đã bổ sung một vế "đồng thời cũng là Đảng của dân tộc Việt Nam". Vì thế,
cần thấm nhuần bản lĩnh và trí tuệ của Người trên mấy mặt:

Một là, về mặt bản chất giai cấp của Đảng thì chỉ có một, đó là Đảng mang bản chất giai cấp công nhân,
nhưng cơ sở xã hội của Đảng là toàn dân tộc. Mọi công dân Việt Nam - chớ không phải chỉ có giai cấp công
nhân - qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm đều có thể được xét để kết nạp vào
Đảng.

Hai là, Đảng có trách nhiệm to lớn không chỉ đối với giai cấp công nhân, mà còn đối với nhân dân lao
động và cả dân tộc. Trách nhiệm này vừa có tính chiến lược lâu dài, là xây dựng một nước Việt Nam hoà
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, công bằng, văn minh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách
mạng thế giới, vừa mang tính lợi ích cụ thể. Hồ Chí Minh khẳng định: "Hễ còn có một người Việt Nam bị bóc
lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn nhiệm vụ. Cho nên Đảng vừa lo
tính công việc lớn như đổi nền kinh tế và văn hoá lạc hậu của nước ta thành một nền kinh tế và văn hoá tiên
tiến, đồng thời lại luôn luôn quan tâm đến những việc nhỏ như tương cà mắm muối cần thiết cho đời sống
hằng ngày của nhân dân"(5). Trách nhiệm này đồng thời cũng là vinh dự của Đảng. Bởi vì nếu Đảng làm
được điều đó thì Đảng vừa "bao trùm cả nước, đồng thời vì nó gần gũi tận trong lòng của mỗi đồng bào
ta"(6). Đảng ta không thiên tư thiên vị, lo việc cho cả nước. Ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân
tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác. Đó là một trong những lý do làm cho Đảng ta vĩ đại.

Ba là, Đảng của dân tộc Việt Nam nghĩa là Đảng có một cội nguồn vững chắc tạo nên sức mạnh to lớn
cho Đảng là dân tộc; đó là những "đồng bào" tuy chưa phải là đảng viên nhưng vẫn luôn tự hào nói tới "Đảng
ta". Vì vậy, nói tới Đảng của dân tộc Việt Nam, đặc biệt trong điều kiện Đảng cầm quyền, thì một yêu cầu cơ
bản, xuyên suốt đối với Đảng là Đảng phải gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, tôn trọng và phát huy
quyền làm chủ, chịu sự giám sát của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo
nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng.
Tóm lại, khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân đồng thời là Đảng của
dân tộc Việt Nam là một luận điểm mới của Hồ Chí Minh, bổ sung vào học thuyết về Đảng Cộng sản của chủ
nghĩa Mác-Lênin.

Hạt nhân sáng tạo thể hiện trí tuệ và bản lĩnh của Hồ Chí Minh ở luận điểm này là những yếu tố yêu
nước và dân tộc, trên lập trường giai cấp công nhân, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Trước đây,
trong thập kỷ ba mươi, có lúc Hồ Chí Minh bị hiểu lầm, bị đánh giá là nặng về dân tộc, nhẹ về giai cấp, là
người "dân tộc chủ nghĩa". Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy việc gắn bó hữu cơ giữa giai cấp và dân
tộc là hoàn toàn đúng đắn. Bước vào thập kỷ sáu mươi, khi phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang
tồn tại cả khuynh hướng giáo điều và xét lại, nhưng Hồ Chí Minh vẫn đầy đủ bản lĩnh, không sợ bị quy kết
vào khuynh hướng xét lại chủ nghĩa Mác-Lênin. Người cũng không rơi vào bệnh dập khuôn, giáo điều mà
vươn tới tầm nhìn biện chứng, sáng tạo giữa tính giai cấp và tính quần chúng, giữa giai cấp và dân tộc. Điều
này không chỉ có ý nghĩa trong cách mạng giải phóng dân tộc, mà cả trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn hiên nay, Đảng ta xác định xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là
nhiệm vụ then chốt. Về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhiệm vụ hàng đầu là nâng cao chất lượng và
hiệu quả công tác giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Đảng
ta nhấn mạnh việc học tập và vận dụng nhuần nhuyễn tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn công tác, tu dưỡng,
rèn luyện đạo đức cách mạng, đấu tranh chống suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, chống tham
nhũng, quan liêu, lãng phí. Gốc rễ của vấn đề là Đảng gắn bó với dân, lấy dân làm gốc. Đảng đồng hành cùng
dân tộc. Đảng lãnh đạo nhưng dân làm chủ. Bác Hồ dạy “có dân là có tất cả”. Nếu “cách xa dân chúng, không
liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại” (7). Đảng ta trong công
cuộc đổi mới đã rút ra bài học quan trọng: “ Từ trước đến nay, bất cứ việc gì đáp ứng được nguyện vọng của
nhân dân, của toàn Đảng, được nhân dân và toàn Đảng đồng lòng góp sức thì nhất định thắng lợi (8). Gần
đây, trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4-2006), một trong những vấn đề đổi mới, chỉnh
đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng được nêu lên là Đảng ta xác định bản chất
giai cấp của Đảng: “ Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên
phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của dân tộc”(9). Đây chính là Đảng ta đã thật sự trở lại tư tưởng Hồ Chí Minh về bản
chất giai cấp của Đảng. Quán triệt sâu sắc và làm đúng điều này là một động lực của tiến trình cách mạng.
9.Anh ( chị) hãy chứng minh tư tưởng HCM soi đường cho mọi thắng lợi của cách mạng việt nam và
phản ánh khát vọng của nhân loại tiến bộ? Tại sao sinh viên cần học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách HCM?

Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho yêu nước, ở một vùng quê giàu truyền thống lịch sử, văn
hoá và cách mạng, chứng kiến cảnh nước mất, nhà tan, Hồ Chí Minh đã sớm hấp thụ truyền thống văn hoá
của dân tộc mà giá trị tập trung nhất là lòng yêu nước thiết tha, ý chí đấu tranh cách mạng kiên cường, bất
khuất, tinh thần khoan dung nhân ái, cố kết cộng đồng... Chính nền văn hoá ấy là một cội nguồn hun đúc nên
nhân cách Hồ Chí Minh và là một nguồn gốc hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.

Ra đi tìm đường cứu nước khi 21 tuổi, với khát vọng cháy bỏng giành độc lập tự do cho dân, cho nước,
Người bôn ba khắp năm châu bốn biển, vừa lao động, học tập, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh
nghiệm các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới. Hồ Chí Minh đã tham gia hoạt động trong Đảng Xã hội
Pháp, là một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người cộng sản đầu tiên của Việt
Nam. Chính cuộc hành trình này đã giúp Người hiểu rõ cội nguồn những khổ đau của nhân dân lao động là ở
sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản đế quốc và hình thành nên ý thức giai cấp rõ rệt. Vì thế, Người đã đến
với chủ nghĩa Mác - Lênin một cách tự nhiên, như một tất yếu lịch sử, và đã tìm thấy ở đó những vấn đề cơ
bản của đường lối giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người; độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam do Người sáng lập vào năm 1930, cùng Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng, đường lối cách mạng Việt Nam đã cơ bản được hình thành, con đường cứu nước của
Việt Nam đã cơ bản được xác định. Sự đúng đắn ngay từ đầu của tư tưởng, đường lối cách mạng Việt Nam do
Hồ Chí Minh vạch ra đã được thực tiễn chứng minh và khẳng định; và chính trong quá trình vận động của
cách mạng, tư tưởng, đường lối đó ngày càng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện dần, trở thành ngọn đuốc
soi đường cho cách mạng Việt Nam.

Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng nước ta đã vượt
qua muôn vàn khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đó là thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Nhà nước do dân làm chủ đầu tiên
trong lịch sử dân tộc. Đó là thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là chiến thắng
Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu", giải phóng hoàn toàn miền Bắc, xây dựng hậu
phương lớn cho công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Đó là thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước, kết thúc bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất
nước, đưa cả nước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là thắng lợi bước đầu với những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế mà
hiện nay nhân dân ta đang tiến hành.

Công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh với dân tộc ta như non cao, biển rộng. Người đã gắn bó và hiến
dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta và dân tộc ta, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân cho đến hơi thở cuối cùng. Tên tuổi và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ còn mãi với
non sông đất nước, sống mãi trong lòng mỗi chúng ta. Người đã để lại cho chúng ta và các thế hệ mai sau một
gia tài đồ sộ, một di sản hết sức quý báu, gồm ba bộ phận. Đó là: Tư tưởng Hồ Chí Minh; Thời đại Hồ Chí
Minh; và Tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, kết quả của những năm bôn ba, lăn lộn trong hoạt động thực tiễn, nghiên cứu, học tập,
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về
quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân; về chiến tranh nhân dân,
quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn
hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, về xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh; cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân,... Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá, mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho cuộc đấu tranh
vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam.

Thời đại Hồ Chí Minh là một thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam, là kỷ nguyên độc lập
tự do và chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là nhà tư tưởng, nhà chiến lược thiên tài mà còn
là nhà hoạt động thực tiễn kiệt xuất. Người đã sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, xây
dựng nền Cộng hoà Dân chủ Việt Nam, xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, tổ chức và huấn
luyện các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, thiết lập quan hệ với các dân tộc trên thế giới. Người là linh
hồn, là ngọn cờ chói lọi lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Việt Nam đoàn kết một lòng, vượt qua muôn
vàn khó khăn gian khổ, anh dũng đấu tranh, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích
vẻ vang. Với những thắng lợi đó, Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia
độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi; nhân dân Việt Nam từ
thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước Việt Nam từ nghèo nàn, lạc
hậu đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trở thành một nước đang phát triển có thu
nhập trung bình, có vị thế ngày càng quan trọng trên thế giới. Dân tộc Việt Nam chưa bao giờ có được cơ đồ
như ngày nay, triển vọng phát triển rất tươi sáng.

Tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một tấm gương vô cùng trong sáng và cao thượng, kết
tinh của tinh hoa văn hoá Việt Nam. Người không chỉ là một nhà tư tưởng lỗi lạc về văn hoá, sáng tạo ra một
nền văn hoá mới, văn hoá cách mạng Việt Nam, kiến tạo ra một thời đại mới trong lịch sử phát triển của nền
văn hoá dân tộc, mà chính bản thân Người, cuộc sống của Người, những việc làm bình thường hằng ngày của
Người là hiện thân của nền văn hoá Việt Nam, là mẫu mực của con người Việt Nam.

Tư tưởng, tâm hồn, cốt cách của Người là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính
với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, kết tinh những giá trị văn hoá phương Đông và phương Tây, truyền thống
và hiện đại, dân tộc và quốc tế. Cuộc đời của Người là biểu tượng cao đẹp về chí khí cách mạng kiên cường,
tinh thần độc lập tự chủ, lòng yêu nước, yêu nhân dân tha thiết, đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư, tác phong khiêm tốn, giản dị. Người để lại cho chúng ta một tấm lòng nhân hậu, một tình cảm chan chứa
yêu thương, vì nước, vì dân, vì Đảng; một trí tuệ anh minh, mẫn tiệp; một tầm nhìn xa rộng, sâu sắc; một mẫu
mực tuyệt vời về cách sống, cách nghĩ, cách viết, cách nói, cách làm việc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà hoạt động cách mạng thực tiễn vĩ đại, nhà tổ chức kiệt xuất, đồng thời là
nhà lý luận, nhà chiến lược thiên tài của cách mạng Việt Nam. Nét đặc sắc ở Hồ Chí Minh là lý luận nhưng
không giáo điều, sách vở, trái lại, luôn gắn bó chặt chẽ, nhuần nhuyễn với thực tiễn; lý luận mà không cao xa,
cầu kỳ, trái lại, rất mộc mạc, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm, thiết thực. Nói cách khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một
nhà lý luận cách mạng giàu thực tiễn và kinh nghiệm đấu tranh, đồng thời là một nhà thực tiễn giàu lý luận
khoa học. Ở Người có sự thực tiễn hoá lý luận và lý luận hoá thực tiễn. Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin
là để tìm kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc, tức là từ nhu cầu thực tiễn của cách mạng
Việt Nam, cốt nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất, vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ
nghĩa Mác - Lênin để tự tìm ra những chủ trương, giải pháp, đối sách phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, từng
thời kỳ cụ thể và cả những vấn đề cụ thể của Việt Nam chứ không đi tìm những kết luận có sẵn trong sách vở.

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
con người Việt Nam, mà còn cho cuộc đấu tranh của nhân loại tiến bộ vì lương tri và phẩm giá con người, vì
hoà bình trên thế giới và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Chính vì vậy mà không chỉ nhân dân Việt Nam kính
yêu Chủ tịch Hồ Chí Minh mà nhân dân thế giới cũng rất yêu quý Người, dành cho Người những tình cảm
trân trọng và những lời nói tốt đẹp nhất.

Năm nay, chúng ta kỷ niệm 125 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vào thời điểm đất nước ta đã trải
qua gần 30 năm đổi mới, trong bầu không khí hào hùng và xúc động của những ngày kỷ niệm lớn của dân tộc,
đặc biệt là kỷ niệm 85 năm Ngày thành lập Đảng, 40 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất
đất nước, 70 năm thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9,...; chúng ta đang tiến hành đại hội
đảng bộ các cấp và chuẩn bị tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Vào giờ phút thiêng liêng này,
chúng ta càng thương nhớ Bác, biết ơn công lao trời biển của Bác và nguyện mãi mãi đi theo con đường Bác
đã vạch ra.

Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta quyết tâm phấn đấu thực hiện thắng lợi Cương lĩnh của Đảng,
Hiến pháp của Nhà nước, tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo,
cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân
tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế nhanh,
bền vững, xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại;
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ gìn hoà bình, ổn
định để phát triển đất nước; nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới; thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Đó là một sự nghiệp cách mạng vô cùng to lớn, vĩ đại, "một cuộc chiến đấu khổng lồ" như Bác Hồ đã
dạy, nhưng cũng cực kỳ khó khăn, phức tạp. Bối cảnh quốc tế và tình hình trong nước bên cạnh mặt thuận lợi,
thời cơ, cũng có nhiều khó khăn, thách thức. Chúng ta đứng trước nhiều vấn đề mới phải xử lý, nhiều việc hết
sức phức tạp phải giải quyết. Tình hình đó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, hơn bao giờ hết, phải
phát huy cao độ truyền thống yêu nước và cách mạng, tinh thần đoàn kết, trách nhiệm, nỗ lực phấn đấu vượt
qua mọi khó khăn, thử thách, để xây dựng Tổ quốc ta ngày càng "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn". Sự phấn đấu
kiên cường, sáng tạo của toàn dân, của các ngành, các địa phương, các thành phần kinh tế là nhân tố cực kỳ
quan trọng đối với sự phát triển đất nước ta. Đảng ta phải ra sức đẩy mạnh việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, làm tròn trách nhiệm là đội tiên phong lãnh đạo sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta trong giai đoạn mới. Phương hướng chung của việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng
hiện nay là phải tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, giữ vững và tăng cường bản chất cách mạng và tính
tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo
đức, tổ chức, cán bộ, đổi mới phương thức lãnh đạo, tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân
dân, bảo đảm để Đảng đủ sức lãnh đạo sự nghiệp của đất nước không ngừng phát triển. Đấu tranh ngăn ngừa
và phòng chống cho được những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, xa dân,... gắn với việc nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng
và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, chúng ta nguyện tuyệt đối trung thành với lợi ích
của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh như chính Người đã khẳng định: "Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản"; "chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới"; chủ nghĩa
Mác - Lênin là "chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất", là "cái cẩm nang thần kỳ", là
"cái la bàn", là "trí khôn" của Đảng ta; nó là "vũ khí tinh thần" của giai cấp công nhân, là kim chỉ nam cho
hành động cách mạng. Bác nhiều lần căn dặn: "Đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của Tổ quốc,
của nhân dân"; "mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân". Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, gột rửa chủ nghĩa cá nhân, bởi
vì "chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù hung ác của đạo đức cách mạng, của chủ nghĩa xã hội"; "là thứ gian giảo, xảo
quyệt", "là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư, nết xấu", nó "kéo người ta xuống dốc không phanh",... Thường xuyên
gắn bó máu thịt với nhân dân, luôn lấy việc phục vụ nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu. Chăm lo giữ
gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng "như giữ gìn con ngươi của mắt mình"; đồng thời hết sức chăm lo xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc theo tinh thần "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công,
đại thành công"...
10.. Hồ Chí Minh nói đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ
hàng ngày mà phát triển và củng cố Anh chị hãy phân tích nội dung và ý nghĩa luận điểm trên?

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, nhà lãnh đạo cách mạng bàn nhiều
nhất đến vấn đề đạo đức. Theo Bác Hồ, con người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính. Nếu thiếu một đức thì
không thành người. Những tư tưởng lớn của Bác Hồ về đạo đức, nằm trong những bài viết, bài nói ngắn gọn,
hàm xúc theo phong cách rất phương Đông, gần gũi, dễ hiểu. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được bắt nguồn
từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, được kế thừa tư tưởng đạo đức phương Đông và những tinh
hoa đạo đức của nhân loại. Có thể nói, với tư duy độc lập và sáng tạo, Bác Hồ của chúng ta đã xuất phát từ
thực tiễn Việt Nam, thực hiện một công việc kế thừa có chọn lọc, thâu tóm những giá trị đạo đức của quá khứ,
đề xuất những tư tưởng, đạo đức mới, phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.

Mặt khác, hơn ai hết, Bác Hồ lại là người thực hiện trước tiên những điều mình đã nói, đã viết. Bác Hồ
vừa là nhà đạo đức học lớn, vừa là tấm gương đạo đức trong sáng, tiêu biểu nhất. Ở Bác Hồ, một đặc trưng
nổi bật, một nét rất riêng là luôn có sự thống nhất giữa tư tưởng và hành vi, động cơ và hiệu quả, giữa lý luận
và thực tiễn. Bởi vậy, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ thông qua những tác
phẩm của Người về đạo đức, mà quan trọng hơn phải thông qua chính thực tế được thể hiện trong toàn bộ
cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác Hồ, thông qua những cử chỉ, những việc làm được coi là mẫu mực
đạo đức trong sáng mà Bác Hồ để lại cho Đảng, cho dân tộc, cho nhân loại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống, nó do đấu tranh,
rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện
càng trong" (1).

Khác với tác dụng điều chỉnh của luật pháp Nhà nước là bắt buộc, đạo đức chỉ có thể hình thành trên cơ
sở tự giác, tự nguyện, dựa vào lương tâm của mỗi người và dư luận của quần chúng trong xã hội.

Để hình thành, củng cố và phát triển đạo đức cách mạng cho mỗi người, nhất là cán bộ, Đảng viên, công
chức, viên chức Nhà nước, thì:

- Nói và làm phải đi đôi với nhau. Tác dụng nêu gương của cấp trên đối với cấp dưới, của cán bộ, Đảng
viên đối với quần chúng là rất quan trọng. Các cụ ta có câu: "Thượng bất chính, hạ tắc loạn".

- Xây và chống phải đi đôi với nhau, lấy xây làm chính. Lấy xây dựng Đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững
mạnh làm nòng cốt để xây dựng tổ chức, xây dựng con người. Lấy mặt tốt làm chính để phát huy, khắc phục
mặt xấu.

- Nêu cao sức mạnh chiến đấu của tổ chức Đảng, sự nghiêm minh kỷ cương của bộ máy Nhà nước, thực
hiện tốt nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Khắc phục có hiệu quả hiện tượng "dĩ hòa vi quý", "đấu tranh
tránh đâu", "ậm ừ từ từ mà tiến" đang là phổ biến hiện nay.

Thực sự làm cho tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh, làm cho bộ máy Nhà nước kỷ cương, nghiêm
minh, làm cho mỗi cán bộ, Đảng viên, công chức, viên chức thật sự gương mẫu về đạo đức cách mạng, đó là
điều bảo đảm thành công cho sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội trước yêu cầu đổi mới và hội nhập.

Bác Hồ đã từng nói: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải
có gốc, không có thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân" (2). "Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới
hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang" (3).

Nhấn mạnh đạo đức là gốc, Bác Hồ không coi nhẹ tài năng, vì phải có tài năng, có trí thức mới hoàn
thành được nhiệm vụ. Năm 1959, nói chuyện với một lớp đào tạo giáo viên chính trị, Người nói: "Có tài mà
không có đức là hỏng. Có đức mà chỉ i tờ thì dạy thế nào" (4).
Thực hiện cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" trước hết mọi cán bộ,
Đảng viên, công chức, viên chức phải nêu cao tinh thần tự rèn luyện, tu dưỡng về đạo đức, lối sống cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư, chấp hành nghiêm túc Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tự giác gương mẫu
giữ gìn phẩm chất đạo đức trong môi trường kinh tế mới. Có như vậy, thì tấm gương mới trong sáng được,
mới hoàn thành được nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới, mới xứng đáng với lòng tin cậy của Đảng và
sự tín nhiệm của nhân dân.
11. Phân tích quá trình Hồ Chí Minh từ một nhà yêu nước trở thành một chiến sĩ cộng sản Tại sao sinh
viên cần học tập làm theo tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh?

Hành trang lớn nhất Người mang theo là lòng yêu nước, thương dân sâu sắc và đôi bàn tay lao động với
quyết tâm tìm ra chân lý để trở về cứu dân, cứu nước khỏi kiếp đọa đày, nô lệ. Tuy nhiên, với vốn tri thức
phong phú và những kinh nghiệm quý báu có được trong gần 10 năm bôn ba, hòa mình vào cuộc sống của các
tầng lớp nhân dân lao động ở khoảng 30 quốc gia trên thế giới; cộng với tư duy sắc sảo, nhãn quan chính trị
nhạy bén, Người đã bắt gặp và đến được với Chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ nghĩa Cộng sản và trở thành người
Cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đây là bước ngoặt chính trị vĩ đại đánh dấu sự chuyển biến căn bản trong nhận
thức của Nguyễn Ái Quốc về con đường cứu nước, vạch ra hướng đi đúng đắn cho cách mạng Việt Nam-đó
là: cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội.
Trước Nguyễn Tất Thành đã có những người Việt Nam xuất dương cứu nước. Chỗ khác nhau cơ bản
không phải ở hành động xuất dương, mà trước hết ở mục đích của nó. Những chuyến đi của Tôn Thất Thuyết,
của những nhân vật trong phong trào Đông Du chủ yếu để tìm ngoại viện. Nguyễn Tất Thành xác định mục
tiêu xuất dương hoàn toàn khác: “Tôi muốn đi ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem
xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”. Rõ ràng, trước lúc ra đi, Người đã nhận thức một
cách rõ ràng, cái mà dân tộc cần trước tiên chưa phải là súng đạn, của cải mà là cách đuổi giặc cứu nước, là
làm cách mạng, hay nói cách khác là lý luận cách mạng và phương pháp cách mạng.

Với những chuyến đi, những cuộc khảo nghiệm trong 10 năm ròng (1911-1920), bàn chân của Người đã
từng in dấu trên 3 đại dương, 4 châu lục (Âu, Á, Phi, Mỹ) và khoảng 3 chục quốc gia. Đặc biệt, Người đã
dừng chân khảo sát khá lâu ở 3 đế quốc lớn nhất thời đó là Mỹ, Anh và Pháp. Đâu đâu Người cũng chịu đựng
mọi gian khổ, hòa mình vào cuộc sống của những người lao động, sẵn sàng làm mọi nghề như nấu bếp, làm
vườn, vẽ thuê... không chỉ để kiếm sống mà là để trải nghiệm, thấu hiểu hơn về cuộc sống của người dân lao
động trên khắp thế giới. Từ đó, chủ nghĩa yêu nước ở Người có những chuyển biến mới. Sự đồng cảm với
đồng bào mình đã được nâng lên thành đồng cảm với nhân dân lao động các dân tộc cùng cảnh ngộ. Và cũng
qua đó, sự nhận biết diện mạo của kẻ thù trở nên sâu sắc hơn, khái quát hơn không chỉ đối với thực dân Pháp
mà cả chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc nói chung. Trên cơ sở đó, Người rút ra một kết luận có tính chất
nền tảng đầu tiên: Ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu những người lao động cũng bị bóc
lột, áp bức nặng nề và “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và
giống người bị bóc lột”. Những nhận biết căn bản đó càng giục giã Người quyết tâm tìm con đường giải
phóng dân tộc mà Người đã ấp ủ từ ngày rời Tổ quốc.
Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, Chiến tranh thế giới lần thứ Nhất kết thúc. Thành phố Paris
hoa lệ sống trong bầu không khí sôi động với những cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Pháp và sự
chuyển mình của những người cánh tả trong Đảng Xã hội Pháp theo đường lối Quốc tế Cộng sản của
V.I.Lênin. Nguyễn Tất Thành vừa bước đến Paris đã lao ngay vào hoạt động chính trị. Người cùng với Phan
Văn Trường, Phan Chu Trinh-những người đã trao đổi thư từ khi còn ở nước Anh lập ra Hội những người
Việt Nam yêu nước, nhằm đưa phong trào yêu nước của Việt kiều ở Pháp đi theo một hướng tích cực.

Đầu năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Ngày 18-6-1919, lấy tên Nguyễn Ái Quốc, thay mặt
Hội những người yêu nước Việt Nam ở Pháp, Người đã gửi tới hội nghị Véc-xây bản Yêu sách của nhân dân
Việt Nam đòi chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt
Nam. Cùng ngày, bản yêu sách đó xuất hiện trên tờ báo Nhân đạo-Cơ quan ngôn luận của Đảng Xã hội Pháp,
dưới nhan đề: Quyền của các dân tộc. Bản Yêu sách còn được Nguyễn Ái Quốc dịch ra chữ Hán và chuyển
thành một bài diễn ca tiếng quốc ngữ. Nó được in dưới dạng truyền đơn gửi tới các tòa báo, phân phát trong
các mít tinh, cuộc họp ở nhiều tỉnh nước Pháp và bí mật gửi về Việt Nam qua con đường thủy thủ và khách về
nước.

Với bản yêu sách đó, Nguyễn Ái Quốc đã gây tiếng vang lớn ở Pháp mà còn dội mạnh về nước, tạo nên
bước chuyển mới trong phong trào giải phóng dân tộc. Thực dân Pháp đã đi từ kinh ngạc đến lồng lộn hò hét,
cuối cùng ra lệnh điều tra tung tích Nguyễn Ái Quốc và lập cơ quan chuyên trách theo dõi những hoạt động
cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và Việt kiều yêu nước để áp dụng những biện pháp ngăn chặn.

Báo L’Humanité (Nhân đạo) số ra ngày 16 và 17-7-1920 đã đăng toàn văn Sơ thảo lần thứ nhất Luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin dưới tiêu đề chạy suốt trang đầu. Bản Luận cương
đã ngay lập tức thu hút sự chú ý đặc biệt của Nguyễn Ái Quốc. Người đã đọc đi, đọc lại nhiều lần và qua lăng
kính chủ nghĩa yêu nước chân chính Người tìm thấy ở đó con đường đi đúng đắn giải phóng dân tộc và đất
nước khỏi ách thực dân. Từ đó, Người hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba.
Đại hội lần thứ Nhất các dân tộc phương Đông nhằm phổ cập các nghị quyết của Đại hội II Quốc tế
Cộng sản và tư tưởng đoàn kết phương Tây vô sản và phương Đông bị áp bức vào tháng 8 và tháng 9-1920.
Tư tưởng đó được thể hiện rõ trong khẩu hiệu lần đầu tiên trong Đại hội: Vô sản tất cả các nước và các dân
tộc bị áp bức đoàn kết lại. Biên bản của Đại hội đã thu hút sự chú ý của tất cả những ai quan tâm đến phương
Đông, trong đó có Nguyễn Ái Quốc. Có thể nói, sau Luận cương, những sự kiện chính trị trên đã góp phần
củng cố thêm niềm tin vững chắc vào Lênin, vào Quốc tế Cộng sản, củng cố thêm lập trường chính trị của
Nguyễn Ái Quốc.
Tháng 12-1920, tại Đại hội Tua, bằng quyết định sáng suốt về mặt tổ chức là bỏ phiếu ủng hộ Quốc tế
Cộng sản, Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành Người Cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Đây là sự kiện đánh dấu bước chuyển căn bản về nhận thức tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc theo đường lối của
Quốc tế Cộng sản, theo lập trường vô sản, nó có ý nghĩa to lớn: Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới hiện đại,
một đại diện của giai cấp công nhân và dân tộc thuộc địa tham gia sáng lập Đảng tiên phong của giai cấp công
nhân ở một nước đế quốc lớn đang áp bức dân tộc mình. Điều đó có nghĩa là thông qua Nguyễn Ái Quốc, giai
cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam đã bắt tay với giai cấp công nhân Pháp hợp thành một mặt trận
đánh đổ kẻ thù chung là chủ nghĩa tư bản Pháp. Sự kiện đó còn mang một ý nghĩa tượng trưng cho xu thế
cách mạng thế giới-tính đoàn kết chiến đấu giữa giai cấp vô sản và dân tộc bị áp bức trên thế giới theo khẩu
hiệu chiến lược của Quốc tế Cộng sản.
Lịch sử cho thấy, có nhiều con đường đến với Chủ nghĩa Cộng sản, trở thành người Cộng sản. Nguyễn
Ái Quốc trở thành người Cộng sản theo con đường riêng của mình. Từ một người dân thuộc địa trong hoàn
cảnh phong trào công nhân chưa phát triển, ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin chưa rọi tới, nhưng xuất
phát từ chủ nghĩa yêu nước chân chính, Người đã vượt qua muôn vàn khó khăn, trở ngại để tìm hiểu, khảo
nghiệm cuộc sống của các dân tộc trên thế giới và trực tiếp tham gia phong trào công nhân của chính quốc là
một nước công nghiệp phát triển, rồi tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin và trở thành người cộng sản. Tiêu chuẩn
cao nhất cho sự lựa chọn và định hướng của Người là kiên quyết đứng về phía học thuyết và tổ chức cách
mạng nào thực sự quan tâm đến cuộc sống và quyền lợi của các dân tộc bị áp bức, bênh vực, ủng hộ và chỉ ra
con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc. Tiêu chuẩn hết sức thiết thực đó của một thanh niên yêu nước của
một nước thuộc địa lại phù hợp với chân lý của thời đại khi mà cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành
một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Đây chính là điểm gặp gỡ có ý nghĩa then chốt giữa con người
Nguyễn Ái Quốc, dân tộc Việt Nam với Chủ nghĩa Cộng sản, với thời đại Lênin.
Việc bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản đánh dấu một bước ngoặt quyết định trong cuộc đời và sự
nghiệp của Nguyễn Ái Quốc -Từ chủ nghĩa yêu nước đến Chủ nghĩa Cộng sản. Đây cũng là sự khởi đầu một
bước ngoặt căn bản trong lịch sử và sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam. Thực hiện bước ngoặt đó,
Người đã hoàn tất chặng đường đầu của hành trình cứu nước, đã tìm ra chân lý của thời đại và bắt đầu cuộc
đấu tranh đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân ta vào quỹ đạo cách mạng vô sản thế giới bằng việc
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về nước, chuẩn bị dần dần, từng bước về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự
ra đời một Đảng mác-xít ở Việt Nam, nhân tố cơ bản, đầu tiên đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng nước ta.
12. chị hãy cho biết Hồ Chí Minh đã thực hiện cuộc cách mạng về đạo đức như thế nào anh chị đã tu
dưỡng rèn luyện đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh như thế nào ?

Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, ta nhận thấy rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn quan tâm
đến vấn đề đạo đức và việc tu dưỡng đạo đức, coi đạo đức chính là cái gốc của những người cách mạng. Đạo
đức cách mạng trong tư tưởng của Hồ Chí Minh vẫn luôn có sự nhất quán và tính logic cao. Dựa trên cơ sở
truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, cũng như chắt lọc tinh hoa đạo đức của nhân loại, Chủ tịch Hồ Chí
Minh còn phát triển và sáng tạo những giá trị tư tưởng đạo đức mới phù hợp với điều kiện của Việt Nam.

– Đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đạo đức là gốc, nền tảng của người cách mạng. Khi bàn về vai trò
quan trọng của đạo đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, đạo đức cũng là yếu tố không thể thiếu trong đời
sống xã hội loài người và đối với cá nhân con người. Đối với người cách mạng, đạo đức có một vai trò vô
cùng quan trọng.

Như vậy, tiêu chuẩn đầu tiên của người cán bộ là phẩm chất đạo đức. Các chủ thể là những người cán
bộ phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức mới có thể trở thành người cán bộ chân chính, mọi việc
thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng, hay là không.

Vậy, đạo đức chính là động lực to lớn giúp cho những người cách mạng vượt qua mọi khó khăn, thử
thách, hiểm nguy. Nhận thức đúng đắn vị trí, ý nghĩa và tầm quan trọng của đạo đức đối với người cách mạng
cho nên ngay từ đầu cũng như trong suốt toàn bộ sự nghiệp cách mạng của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
rất quan tâm, coi trọng việc xây dựng đạo đức cách mạng cho các cán bộ, Đảng viên và Nhân dân ta.

– Tiếp theo đạo đức cách mạng được thể hiện ở các phẩm chất sau đây: trung với nước, hiếu với dân;
yêu thương con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng. Những phẩm chất
đó có mối quan hệ tác động qua lại biện chứng với nhau, thiếu một phẩm chất thì người CBĐV không thể làm
tròn nhiệm vụ do Đảng, Nhân dân và cách mạng giao phó. Vấn đề đạo đức cách mạng và giáo dục đạo đức
cách mạng cho đội ngũ cán bộ, Đảng viên được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập tới trong nhiều tác phẩm quan
trọng.

+ Trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân thì ta hiểu đây chính là một phẩm chất, chuẩn mực có ý
nghĩa quan trọng hàng đầu của người cách mạng, là tiêu chuẩn để xem xét, đánh giá đạo đức của con người,
của mỗi chiến sỹ cách mạng.

Trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân được coi là nội dung cơ bản nhất, bao trùm nhất trong tư
tưởng đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thể hiện mối quan hệ giữa con người với Tổ quốc và
Nhân dân. Trung với nước được hiểu chính là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc,
phải đặt lợi ích của cách mạng, của Tổ quốc lên trên hết, trước hết và quyết tâm đấu tranh cho sự phồn vinh
của đất nước, đem lại ấm no, hạnh phúc cho Nhân dân. Cũng chính vì thế theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trung
với nước cũng là trung với Đảng, trung thành với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, với sự nghiệp cách
mạng của dân tộc do Đảng lãnh đạo, đó là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Hiếu với dân theo Chủ tịch Hồ Chí Minh đó chính là phải tôn trọng, yêu kính Nhân dân, gắn bó máu thịt
với Nhân dân, khẳng định sức mạnh to lớn của Nhân dân và phải coi dân là gốc, nền tảng của sự nghiệp cách
mạng.

+ Yêu thương con người: Từ phân tích trên, ta nhận thấy trung với nước, hiếu với dân chính là phẩm
chất của mỗi con người, mỗi công dân đối với Tổ quốc, đối với Nhân dân, còn yêu thương con người lại được
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá là trách nhiệm của mỗi con người đối với con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho rằng yêu thương con người là phẩm chất cao đẹp nhất của con người. Yêu thương con người thì trước hết
là tình cảm dành cho những người bị áp bức, bóc lột, những người cùng khổ. Yêu thương con người còn được
thể hiện trong mối quan hệ hằng ngày với những người đồng chí xung quanh, trong cuộc sống bình thường.
Phải luôn nghiêm khắc với bản thân, nhưng rộng rãi độ lượng với người khác.

+ Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư: Đây có thể nói chính là phẩm chất trung tâm của đạo đức cách
mạng trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh. Mà thiếu một đức được nêu trên, thì không thành người.

Theo Hồ Chí Minh, “cần” là phải lao động cần cù, siêng năng, sáng tạo, năng suất, hiệu quả cao, không
được lười biếng; “kiệm” là phải tiết kiệm sức lao động, thì giờ, tài sản, tiền bạc của dân, của nước, của bản
thân mình, không xa xỉ, phô trương, hình thức; “liêm” đó là cần phải luôn tôn trọng giữ gìn của công, không
tham địa vị, tiền tài, danh vọng; “chính” là không tà, thẳng thắn, đúng đắn, chân thành, khiêm tốn, không tự
cao, tự đại, không dối trá, lừa lọc; việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác dù nhỏ mấy cũng tránh. Cần,
kiệm, liêm, chính còn là thước đo trình độ văn minh, tiến bộ của một dân tộc.

“Chí công vô tư” được hiểu cơ bản chính là các chủ thể đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của Tổ
quốc và của Nhân dân lên trên lợi ích của bản thân; lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ.
Cho nên, thực hành chí công vô tư cũng có nghĩa là kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức
cách mạng.

Như vậy, ta nhận thấy rằng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư có mối quan hệ mật thiết, khăng khít
với nhau, tạo nên sự thống nhất trong phẩm chất đạo đức của người cách mạng. Về thực chất, chí công vô tư
là nối tiếp cần, kiệm, liêm, chính. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư và ngược lại.

+ Tinh thần quốc tế trong sáng trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi cách
mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Đó là cơ sở bền vững để xây dựng tình
cảm cách mạng trong sáng, thuỷ chung giữa các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động trên thế giới trong
cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung, vì nền độc lập của mỗi quốc gia dân tộc và quyền tự do, hạnh phúc của
mỗi con người.
Tinh thần quốc tế trong sáng sẽ cần phải được thể hiện trong việc kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu
nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, gắn mục tiêu cách mạng của mỗi nước với mục tiêu chung của
thời đại đó là những mục tiêu: hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nhận thức rõ điều đó nên
trong quá trình Chủ tịch Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước cũng như sau này trở thành lãnh tụ của dân tộc
Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc giáo dục chủ nghĩa quốc tế vô sản cho Nhân dân ta.
 Liên hệ bth
 + Dù là bất cứ ai, công dân hay cán bộ, viên chức, công chức ở bất kỳ đơn vị nào
cũng cần nêu cao tinh thần ý thức về đạo đức cách mạng, bên cạnh đó cần kịp thời
chấn chỉnh những hành vi biểu hiện không đúng đắn.

 + Mỗi chúng ta sẽ cần noi theo những tấm gương sáng, không sa đà đua đòi theo
những bộ phận suy thoái đạo đức cách mạng, đồng thời tố cáo, phản ánh tới cơ
quan có thẩm quyền để kịp thời xử lý triệt để những hành vi tiêu cực đó.

 + Kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền về việc thường xuyên tổ chức giáo dục
để nhằm mục đích có thể tuyên truyền về đạo đức cách mạng Chủ tịch Hồ Chí
Minh,..

 + Bên cạnh đó sẽ cần thường xuyên kiểm tra đồng thời nghiêm khắc xử lý, không
bao che những trường hợp sai phạm dù là công dân hay cán bộ để nhằm từ đó có
thể củng cố niềm tin của toàn dân với Nhà nước, pháp luật Việt Nam

13. Phân tích quá trình Hồ Chí Minh từ người Tìm đường trở thành người dẫn đường
cho dân tộc xây dựng nội dung cơ bản về con đường cách mạng?

Năm 1911, mặc dù rất khâm phục tinh thần yêu nước của các sỹ phu, văn thân
nhưng không tán thành đường lối cứu nước của các bậc tiền bối, nên người thanh
niên Nguyễn Tất Thành đã quyết định sang nơi khởi nguồn của khẩu hiệu Tự do -
bình đẳng - bác ái để tìm hiểu những gì ẩn sau những mỹ từ đó, đồng thời tìm con
đường cứu nước mới.

Hành trình gần 30 năm ấy với những dấu mốc đặc biệt đã đưa Nguyễn Tất Thành
đến với những thay đổi lớn trong nhận thức.

Từ năm 1911 đến 1919, Nguyễn Tất Thành đến nước Pháp và các nước châu Phi,
châu Mỹ khác nhau để tìm hiểu thực chất về chủ nghĩa tư bản, về sự áp bức dân tộc
của thực dân đế quốc. Tại đây, Người đã được thấy tận mắt cuộc sống bần cùng của
giai cấp vô sản ở các nước tư bản phát triển và người dân thuộc địa. Người đã rút ra
kết luận: Ở đâu cũng có người áp bức và người bị áp bức; các dân tộc muốn thoát
khỏi nô lệ và áp bức bóc lột thì phải đoàn kết chống kẻ thù chung.

Giai đoạn từ năm 1919 đến 1924, qua các hoạt động tại Pháp và Nga, Người đã thu
nhận thêm nhiều hiểu biết về chủ nghĩa thực dân đế quốc.

Sau khi cùng một số chí sĩ yêu nước ở Pháp soạn thảo một bản yêu sách 8 điểm gửi
lên Hội nghị Véc-xai nhưng không được chấp nhận, Người hiểu thêm về bản chất
của chủ nghĩa thực dân đế quốc.

Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Mùa hè năm 1920, Người đọc Sơ
thảo Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lê-nin, sau đó, Người đã đứng
về phía Quốc tế III, trở thành thành viên sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp. Với sự
kiện này, sau gần 10 năm tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc từ người yêu nước
đã trở thành người cộng sản.

Sau Cách mạng tháng Mười Nga, thế giới có nhiều biến động lớn, Người đã đến đất
nước của Lê-nin để nghiên cứu về lý luận và thực tiễn. Từ việc nhận thấy những
thành quả trên đất nước Xô Viết, Người đã đi đến khẳng định: “Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô
sản”(1).

Trong khoảng thời gian từ 1924 đến 1941, Nguyễn Ái Quốc trực diện đấu tranh với
thực dân Pháp ngay trên đất Pháp và các nước tư bản phát triển. Mặc dù bị theo dõi,
kiểm duyệt, nhưng Nguyễn Ái Quốc đã thông qua báo chí, hội họp, mít tinh... để phô
bày tội ác của thực dân Pháp ở các nước thuộc địa của chúng. Hành động đó xuất
phát từ lý tưởng “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi” với một niềm tin
mãnh liệt: “Người Đông Dương không chết, người Đông Dương vẫn sống, sống
mãi... người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ
một cách ghê gớm khi thời cơ đến”(2).

Cuối năm 1929, khi được Quốc tế Cộng sản cử về Trung Quốc hoạt động, Người đã
nghiên cứu tình hình hoạt động của các tổ chức cộng sản trong nước và đi đến quyết
định hợp nhất 3 tổ chức cộng sản để lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam làm ngọn cờ
vận động, lãnh đạo Nhân dân đấu tranh giành tự do, độc lập.

Từ năm 1930 - 1941, tuy hoạt động ở nước ngoài nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn chỉ
đạo sát sao phong trào cách mạng trong nước. Tháng 6/1931, Người bị nhà cầm
quyền Anh bắt giam ở Hồng Kông. Cuối năm 1932, Người được trả tự do, sau đó
đến Liên Xô học tại Trường Quốc tế Lê-nin. Tháng 10/1938, Người rời Liên Xô đến
Diên An (Trung Quốc) làm việc tại Bộ chỉ huy Bát Lộ quân, sau đó bắt liên lạc với tổ
chức Đảng, chuẩn bị về nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam.

Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc đã vượt qua Cột mốc 108 biên giới Việt - Trung trở
về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng.

Từ khi tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin đến khi trở về nước, với sự nhạy bén về
chính trị, khả năng dự báo khoa học, Người đã đoán định được những thay đổi của
thời cuộc, tháng 5/1941, đã triệu tập Hội nghị lần thứ VIII của Trung ương Đảng
Cộng sản Đông Dương, đề ra những chiến lược và sách lược đúng đắn, đoàn kết,
lãnh đạo cả dân tộc trong cuộc chiến giành độc lập, tự do.

Sau gần 30 năm đi tìm đường cứu nước, vượt qua biết bao khó khăn, trở ngại tưởng
chừng như không thể vượt qua nổi, mong ước được trở về nước trực tiếp lãnh đạo
Nhân dân đấu tranh để giải phóng dân tộc của Người đã trở thành hiện thực.

Ra đi là người tìm đường, khi trở về là người dẫn đường. Ngày 28/1/1941, không
chỉ là ngày trở về của một người con ưu tú đã tìm thấy tương lai tươi sáng cho Tổ
quốc, cho Nhân dân, mà qua đó còn khẳng định vai trò của Việt Nam từng bước hội
nhập vào xu thế mới của nhân loại dưới sự dẫn dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bằng sự trải nghiệm của mình, Người đã biết đưa cách mạng Việt Nam trở thành
một bộ phận của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời
đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp, đem đến thắng lợi vĩ đại cho cách mạng Việt Nam.
Mặt khác, trong quá trình thực hiện khát vọng của dân tộc, Việt Nam đã góp phần
tích cực vào công cuộc đấu tranh chung của nhân loại, góp phần đánh đổ chủ nghĩa
thực dân, thúc đẩy lịch sử loài người tiến lên theo hướng nhân văn, tiến bộ.

14. Hồ Chí Minh nói đạo đức cách mạng là do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày?

"Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà
phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong". Là lời Chủ tịch
Hồ Chí Minh viết trong Tác phẩm "Đạo đức cách mạng", đăng trên Tạp chí học tập, số 12 năm 1958; với
nỗi day dứt, trăn trở trước yêu cầu phát triển của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất
nước nhà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài
giỏi mấy cũng không lãnh đạo được Nhân dân, không làm được cách mạng. Muốn có đạo đức mạng phải
rèn luyện thường xuyên, bền bỉ trong mọi hoạt động thực tiễn; phải tỉ mỉ công phu mới có được phẩm chất
đạo đức tốt và ngày càng được bồi đắp, nâng cao.

Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, bằng sự cố gắng học tập, rèn luyện
nghiêm túc, kiên trì, đạo đức cách mạng đã giúp cho cán bộ, đảng viên của Đảng luôn kiên định mục tiêu,
lý tưởng chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, vững vàng trong mọi thử
thách, khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại vẫn không lùi bước; khi gặp thuận lợi thành công vẫn giữ vững
tinh thần khiêm tốn, không tự đắc, tự mãn, không kiêu ngạo, không kèn cựa thiệt hơn; một lòng một dạ
phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.

Trong thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đã và đang xuất hiện tình trạng
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong
một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu tham nhũng, lãng phí diễn biến phức
tạp. Bên cạnh đó, âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa,
đạo đức, lối sống…, đang đặt ra yêu cầu cao đối với việc tu dưỡng rèn luyện đạo đức cách mạng đối với
cán bộ đảng viên và quần chúng.
Trước yêu cầu nhiệm vụ Bảo vệ Tổ quốc, người quân nhân cách mạng phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức
cách mạng thường xuyên, liên tục, ở mọi lúc, mọi nơi, gắn với thực tiễn huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu,
học tập và công tác hàng ngày. Quân nhân có chức vụ càng cao thì càng phải gương mẫu học tập, rèn
luyện để trao dồi đạo đức cách mạng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Trước sự tuyên truyền, kích
động chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, sự tác động của mặt trái cơ chế thị trường, những tiêu
cực xã hội, sự cám dỗ vật chất trong đời sống xã hội hiện nay, càng đòi hỏi quân nhân phải nghiêm túc, tự
giác học tập, tu dưỡng rèn luyện đạo đức suốt đời; dù đang công tác trong quân đội hay xuất ngũ hoặc
chuyển lĩnh vực công tác khác cũng phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, không ngừng phấn đấu
giữ vững và phát huy hơn nữa phẩm chất "Bộ đội Cụ Hồ".

You might also like