Professional Documents
Culture Documents
LÍ THUYẾT LL VÀ PPDH MÔN NGỮ VĂN
LÍ THUYẾT LL VÀ PPDH MÔN NGỮ VĂN
LÍ THUYẾT
I. ĐẶC ĐIỂM CỦA MÔN HỌC NGỮ VĂN
1. Ngữ văn là môn học có vị trí quan trọng trong chương trình giáo dục
của nhà trường phổ thông từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay
Trước Cách mạng tháng Tám:
Không có môn học chính thức, văn học gắn liền với thi cử.
Giai đoạn Pháp thuộc:
o Xuất hiện môn học "Việt văn" (phân biệt với Pháp văn).
o Là môn phụ, tự chọn, không thi cử.
o Tên gọi "Quốc văn" xuất hiện từ 1925 với sách giáo khoa
của Dương Quảng Hàm.
Miền Bắc:
o 1956: "Văn học" phổ biến, "Quốc văn" vẫn được dùng.
o 1964-1965: "Ngữ văn" (cấp 2) và "Văn học" (cấp 3).
o Sau 1975:
Miền Nam:
Từ năm 2000:
=> Như vậy, kể từ sau cách mạng tháng 8 – 1945, môn Ngữ văn trong
nhà trường phổ thông đã trải qua nhiều lần cải cách. Môn học ngày càng
khẳng định vị trí quan trọng trong hệ thống các môn học và hoạt động
giáo dục của nhà trường. Cụ thể, trong chương trình GDPT 2018, Ngữ
văn là môn học thuộc lĩnh vực Giáo dục ngôn ngữ và văn học, được học
từ lớp 1 đến lớp 12, là môn học bắt buộc trong cả ba cấp học. Ngoài ra, ở
THPT còn có một số chuyên đề tự chọn của môn Ngữ văn dành cho học
sinh có sở trường và nguyện vọng nhằm đáp ứng yêu cầu dạy học phân
hóa.
2. Ngữ văn là môn học có tính công cụ và tính thẩm mĩ – nhân văn
- Công cụ: Cái dùng để tiến hành một việc nào đó, để đạt một mục đích
nào đó (theo Từ điển tiếng Việt)
- Môn Ngữ văn trang bị cho học sinh công cụ ngôn ngữ tiếng Việt để giao
tiếp và tư duy, học tập.
+ Nội dung học tập trong môn Ngữ văn bao gồm kiến thức tiếng Việt với
các mạch:
./ Ngữ âm và chữ viết
./ Từ vựng
./ Ngữ pháp
./ Hoạt động giao tiếp
./ Sự phát triển của ngôn ngữ và các biến thể ngôn ngữ
Sự phát triển của ngôn ngữ và các biến thể ngôn ngữ từ mượn, từ ngữ
mới và nghĩa mới của từ ngữ, chữ viết tiếng Việt, các biến thể ngôn ngữ
phân biệt theo phạm vi địa phương, xã hội, chức năng, trong đó có văn
bản đa phương thức như là một biến thể của giao tiếp ngôn ngữ.
=> Môn Ngữ văn trong nhà trường (được gọi là môn Tiếng Việt ở tiểu
học, Ngữ văn ở trung học) đảm nhiệm vai trò trang bị cho học sinh công
cụ tiếng Việt để học sinh thực hiện tốt các hoạt động giao tiếp trong cuộc
sống hàng ngày và học tập tất cả các môn khoa học khác cũng như để
chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội của nhân loại được tích luỹ và lưu giữ
bằng ngôn ngữ. Đó là lí do khi bước vào trường tiểu học trẻ em được học
Tiếng Việt trước khi học tập các môn khoa học khác và Tiếng Việt, Ngữ
văn trở thành môn học bắt buộc từ lớp 1 đến lớp 12.
- Ngữ văn là môn học trang bị công cụ để học sinh thực hiện hoạt động
giao tiếp thẩm mĩ
+ Trong cuộc sống, con người không chỉ cần giao tiếp đời sống, học tập
các kiến thức khoa học mà còn cần có công cụ để giao tiếp thẩm mĩ, bồi
đắp tâm hồn, tình cảm, làm cho đời sống tinh thần của con người không
ngừng được nâng cao. Giao tiếp thẩm mĩ của con người được thể hiện
trong các lĩnh vực nghệ thuật, trong đó có nghệ thuật ngôn từ.
+ Hoạt động tiếp nhận văn bản văn học – nghệ thuật ngôn từ và tạo lập
các văn bản có liên quan đến văn bản văn học trong nhà trường trang bị
cho học sinh một thứ “ngữ pháp nghệ thuật” để học sinh tự mở được cánh
của văn học, cảm nhận cái đẹp, biết cách đọc hiểu, thực hiện được những
cuộc giao tiếp văn học, giao tiếp thẩm mĩ thông qua việc chiếm lĩnh và
cắt nghĩa thế giới nghệ thuật của văn bản.
- Môn học Ngữ văn là công cụ để giáo dục tâm hồn, tình cảm cho học
sinh, bồi đắp tình cảm thẩm mĩ, các giá trị nhân văn.
+ Tất cả các môn học trong nhà trường đều có vai trò công cụ này, nhưng
môn Ngữ văn có ưu thế đặc biệt và có những điểm đặc thù.
+ Nội dung giáo dục mà môn Ngữ văn đem tới cho HS gắn bó chặt chẽ
với cái đẹp, với các giá trị nhân văn bởi lẽ trung tâm của tác phẩm văn
học là con người. Văn học “thanh lọc tâm hồn con người, nhờ đó con
người biết cảm nhận, phát hiện cái đẹp trong cuộc sống, biết căm ghét cái
ác, bảo vệ lẽ phải, trân trọng các giá trị,
+ Con đường giáo dục của môn Ngữ văn chủ yếu được thực hiện thông
qua hoạt động tiếp nhận văn học và hoạt động tạo lập văn bản để thể hiện
kết quả của hoạt động tiếp nhận văn học của học sinh.
=> Sự giáo dục thông qua việc tiếp nhận hình tượng văn học – hình tượng
ngôn từ, rung động thẩm mĩ với các hình tượng văn học, thông qua trải
nghiệm thẩm mĩ. Mọi sự giáo dục phải đảm bảo tính nghệ thuật ngôn từ
của văn bản văn học (một nội dung học tập chủ yếu của môn Ngữ văn).
3. Ngữ văn là môn học có tính tích hợp
- Nội dung môn Ngữ văn là sự tích hợp xuyên thấm, nhuần nhuyễn giữa
các thành phần, bộ phận trong nội bộ môn học:
+ Giữa kiến thức tiếng Việt và kiến thức văn học trong ngữ liệu là các
văn bản thuộc các kiểu loại khác nhau.
+ Giữa kiến thức tiếng Việt, kiến thức văn học, ngữ liệu và các kĩ năng
đọc, viết, nói và nghe.
+ Giữa các kĩ năng đọc, viết nói và nghe với nhau.
+ Trong nội bộ từng mạch kiến thức, kĩ năng lớn cũng có sự tích hợp. Ví
dụ: tích hợp giữa kiến thức lí luận văn học, kiến thức lịch sử văn học với
kiến thức về thể loại văn học...
- Nội dung môn Ngữ văn là sự tích hợp xuyên thấm, nhuần nhuyễn giữa
các lĩnh vực, môn học liên môn:
+ Giữa văn học với triết học, lịch sử, địa lí, văn hoá, nghệ thuật,... (ví dụ:
tính chất văn, sử, triết bất phân trong các tác phẩm văn học thời trung đại)
+ Giữa văn học với đời sống (đời sống từ đó có tác phẩm văn học: đời
sống của người học). Nhờ đó, môn Ngữ văn giúp HS biết quan tâm, gắn
bó hơn với đời sống thường nhật, biết liên hệ và có kĩ năng giải quyết các
vấn đề nảy sinh trong thực tiễn.
I. MỤC TIÊU CỦA MÔN HỌC NGỮ VĂN TRONG NHÀ TRƯỜNG
1. Mục tiêu chung
Trong chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2018, mục
tiêu của môn Ngữ văn ở nhà trường phổ thông gồm mục tiêu về phẩm
chất và mục tiêu về năng lực. Mục tiêu này được trình bày thành mục tiêu
chung và mục tiêu ở từng cấp học.
2.2.1. Mục tiêu chung
- Hình thành và phát triển cho học sinh những phẩm chất chủ yếu: yêu
nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực và trách nhiệm.
- Môn Ngữ văn giúp học sinh:
· Khám phá bản thân, thế giới, thấu hiểu con người.
· Có đời sống tâm hồn phong phú, quan niệm sống nhân văn.
· Yêu tiếng Việt, văn học, ý thức cội nguồn, bản sắc dân tộc.
· Góp phần giữ gìn, phát triển giá trị văn hóa Việt Nam.
· Tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, hội nhập quốc tế.
- Góp phần giúp học sinh phát triển các năng lực chung năng lực tự chủ
và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và
sáng tạo.
- Đặc biệt, môn Ngữ văn giúp học sinh phát triển năng lực ngôn ngữ và
năng lực văn học:
· Viết đoạn, bài: tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh, nhật
dụng.
· Nói: dễ hiểu, mạch lạc, tự tin, phù hợp ngữ cảnh.
· Phân tích tác dụng: yếu tố hình thức, biện pháp nghệ thuật.
· Nhận biết giá trị: biểu cảm, nhận thức, thẩm mỹ.
· Phân tích: tính hình tượng, nội dung, hình thức tác phẩm.
· Chuyển từ tiếp nhận tri thức sang tìm kiếm tri thức.
=> Sử dụng các phương pháp, biện pháp, kĩ thuật dạy học; trang bị các
nền tảng (tri thức công cụ) để học sinh có thể thực hiện được hoạt động,
tạo ra môi trường học tập phù hợp...
- Hiểu các đặc điểm của chủ thể học sinh để tác động vừa sức, phân hóa
(theo nội dung học tập, theo phong cách học sinh)
2.3. Dạy học Ngữ văn gắn với đời sống
* Thế nào là dạy học Ngữ văn gắn với đời sống
- Dạy học Ngữ văn gắn với đời sống là dạy học Ngữ văn trong mối quan
hệ gắn bó mật thiết với cuộc đời, với thực tại đời sống xã hội, gắn dạy
văn với dạy người, gắn việc học với hành, lí thuyết với thực tiễn, nhằm
phát triển phẩm chất, năng lực học sinh.
- Những phạm vi đời sống trong dạy học Ngữ văn:
Đời sống lịch sử xã hội đã sản sinh ra tác phẩm văn chương => gắn với
đời sống: để hiểu, cắt nghĩa theo quan điểm lịch sử cụ thể.
+ Đời sống nghệ thuật được xây dựng trong tác phẩm (mô hình của thực
tại) => gắn với đời sống để trải nghiệm, nếm trải, cung cấp vốn sống.
Làm giàu có hành trang tinh thần.
+ Đời sống hiện tại của người học sinh (rộng – hẹp) => gắn với đời sống:
để mở rộng tiềm năng thâm nhập, lí giải, cắt nghĩa tác phẩm văn học, để
chuyển hóa thành giá trị sống, hành vi ứng xử, để vận dụng các kiến thức
môn học vào thực hiện các nhiệm vụ học tập và giải quyết các vấn đề bắt
gặp trong thực tiễn.
=> Đảm bảo tôn trọng đặc thù của nội dung dạy học, đặc biệt là tác phẩm
văn học.
* Tại sao cần dạy học Ngữ văn gắn với đời sống
- Mục tiêu dạy học Ngữ văn là hình thành và phát triển phẩm chất, năng
lực học sinh. Phát triển năng lực đòi hỏi học sinh không chỉ biết điều gì
mà còn phải biết làm gì từ những điều đã biết (học để biết, học để làm,
học để cùng chung sống, học để tồn tại) => Dạy văn là dạy làm người.
- J. Deway cho rằng: “Giáo dục là một hoạt động của cuộc sống, chứ
không phải là sự chuẩn bị cho cuộc sống tương lai” (Dân chủ và giáo
dục)
- Tác phẩm văn học – một nội dung dạy học quan trọng của môn học là
một quá trình từ: cuộc đời – nhà văn – văn bản – người đọc – cuộc đời.
* Làm thế nào để dạy học Ngữ văn gắn với đời sống
- Hiểu rõ yêu cầu của đời sống đặt ra cho giáo dục trong đó có giáo dục
Ngữ văn; hiểu rõ khả năng, đặc thù của môn học trong việc đáp ứng ở các
mức độ, cách thức khác nhau đối với yêu cầu đặt ra này (được thể hiện
một cách khái quát trong chương trình môn học)
- Tìm hiểu kĩ lưỡng kinh nghiệm sống, bối cảnh học tập Ngữ văn của học
sinh để tìm kiếm các cơ hội kết nối với đời sống sâu sắc, giàu ý nghĩa.
- Hiện thực hóa nguyên tắc dạy học Ngữ văn gắn với đời sống vào mục
tiêu của từng bài học cụ thể, trong hoạt động dạy học và kiểm tra đánh
giá
- Đa dạng hóa các hình thức, phương pháp, biện pháp để thực hiện các
mục tiêu dạy học Ngữ văn gắn với đời sống đã được xác định
- Đảm bảo tôn trọng đặc trưng của môn học.
2.4. Dạy học Ngữ văn theo quan điểm giao tiếp (giáo trình Phương pháp
dạy học tiếng Việt)
* Thế nào là dạy học Ngữ văn theo quan giao tiếp ?
- Theo nghĩa hẹp, giao tiếp là một quá trình thông tin giữa ít nhất hai chủ
thể diễn ra trong một hoàn cảnh cụ thể, bằng phương tiện nhất định.
- Giao tiếp là một quan điểm/ hướng dạy học mới xuất hiện vào những
năm 1970, làm cho các giáo viên dạy ngôn ngữ phải nghĩ lại về chương
trình học, việc dạy học và các tài nguyên học tập.
- Giao tiếp là một nguyên tắc dạy học đặc thù trong dạy học ngôn ngữ nói
chung, dạy học tiếng Việt nói riêng.
- Dạy học Ngữ văn theo quan điểm giao tiếp tức là xác định giao tiếp là
điểm xuất phát quy định toàn bộ quá trình dạy học Ngữ văn: từ xác định
mục tiêu giáo dục, xây dựng chương trình, nội dung dạy học, sử dụng các
phương pháp, hình thức, kĩ thuật dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả
học tập của học sinh.
* Dạy học Ngữ văn theo quan điểm giao tiếp có một số đặc trưng
- Mục tiêu dạy học Ngữ văn là nhằm phát triển năng lực ngôn ngữ cho
người học (các kĩ năng: đọc, viết, nói và nghe).
- Chương trình dạy học phải được xây dựng có tính toán cho việc phát
triển các kĩ năng giao tiếp và nội dung học tập phải được thiết kế, sắp
xếp, mô phỏng các tình huống giao tiếp thực gắn với văn hóa giao tiếp
của dân tộc, nhân loại.
- Trong quá trình dạy học, người học được khuyến khích tham gia vào
các hoạt động giao tiếp và tương tác càng nhiều càng tốt.
* Tại sao cần phải dạy học Ngữ văn theo quan điểm giao tiếp
- Cơ sở ngôn ngữ học:
+ Chức năng chính của ngôn ngữ là giao tiếp. Ngôn ngữ tách rời khỏi
giao tiếp là vô nghĩa.
+ Các nhà ngôn ngữ học đều khẳng định ngôn ngữ tự nhiên mang tính
giao tiếp cao.
- Cơ sở giáo dục học:
Mục tiêu giáo dục phổ thông: Phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác cho
học sinh.
Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn (2018):
Mục tiêu: Giúp học sinh phát triển năng lực ngôn ngữ, văn học và các kĩ
năng đọc, viết, nói, nghe.
Đặc điểm: Môn học công cụ giúp học sinh giao tiếp hiệu quả và học tập
tốt hơn.
* Làm thế nào để dạy học Ngữ văn theo quan điểm giao tiếp
- Hiểu rõ yêu cầu của quan điểm giao tiếp trong dạy học Ngữ văn
- Khi tổ chức dạy học, cần khuyến khích học sinh tham gia vào các hoạt
động giao tiếp. Có một số phương pháp điển hình cho dạy học tiếng theo
quan điểm giao tiếp là đóng vai, học thông qua dạy, trò chơi, dạy học
theo nhóm, dạy học theo dự án...
- Đánh giá năng lực giao tiếp của người học gắn với đặc trưng của mỗi kĩ
năng: đọc, viết, nói và nghe.
- Trong dạy học tiếng Việt, phải đặt các đơn vị ngôn ngữ cần nghiên cứu
vào hệ thống hành chúc của nó.
- Thiết kế các bài tập Ngữ văn cần đặt ra các tình huống giao tiếp có thực
hoặc giả định phù hợp, tự nhiên để phát triển năng lực ngôn ngữ của học
sinh.
2. 5. Phối hợp các hình thức tổ chức, phương pháp dạy học trong dạy học
Ngữ văn
II. CÁC PHƯƠNG PHÁP
1. Phương pháp đọc sáng tạo
1.1. Khái niệm
- Đọc sáng tạo là phương pháp dạy học sử dụng hành động đọc bộc lộ thể
hiện sự tìm tòi, khám phá mang dấu ấn độc đáo riêng của chủ thể đọc
(như đọc diễn cảm, đọc phân vai, đọc nghệ thuật)
· Làm sống dậy thế giới âm thanh, vật chất của văn bản nghệ thuật
· Giúp học sinh thâm nhập, cảm thụ trực tiếp văn bản
· Chia sẻ, đối thoại kết quả tiếp nhận văn bản
· Tạo bầu không khí giao tiếp văn chương, khơi gợi hứng thú học tập
- Đọc sáng tạo là phương pháp đặc thù trong dạy học đọc hiểu văn bản
văn học.
1.2. Các biện pháp
- Đọc diễn cảm
- Đọc phân vai
- Đọc nghệ thuật
2. Phương pháp tái tạo hình tượng nghệ thuật.
Tái tạo hình tượng nghệ thuật là phương pháp GV hướng dẫn HS
dựa vào các yếu tố tạo hình và biểu hiện của hình tượng được tác giả thể
hiện trong văn bản văn học cùng sự cảm thụ, tiếp nhận cá nhân của người
học để thực hiện hành động hình dung, tưởng tượng, làm sống dậy hình
tượng NT trong thế giới tinh thần của HS và hành động bộc lộ, chia sẻ sự
hình dung, tưởng tượng đó bằng các phương tiện, cách thức khác nhau.
Phương pháp tái tạo hình tượng NT giúp HS bước vào tiến trình tiếp
nhận văn học, làm sống dậy bức tranh đời sống – thế giới NT của văn
bản, tạo ra sự tiếp xúc cụ thể, cảm tính của người đọc với hình tượng
nghệ thuật, góp phần chuyển hóa văn bản của nhà văn thành tác phẩm
trong cảm thụ mỗi cá nhân. Tái tạo hình tượng nghệ thuật là phương pháp
đặc thù trong dạy học đọc hiểu văn bản văn học.
Hướng dẫn học sinh hình dung, tưởng tượng, làm sống dậy hình tượng
nghệ thuật (vd: cảnh Thạch Sanh đánh đàn và thết đãi cơm binh lính và
quân chư hầu) trong thế giới tinh thần của các em. Từ đó, góp phần
chuyển hóa văn bản của nhà văn thành tác phẩm trong cảm thụ của mỗi
cá nhân.
2.3. Các biện pháp
- Tái tạo hình tượng nghệ thuật bằng ngôn từ
- Tái tạo hình tượng nghệ thuật bằng tranh vẽ
- Tái tạo hình tượng nghệ thuật bằng hành động kịch
3. Phương pháp gợi mở
3.1. Khái niệm
Gợi mở (gợi tìm/ tìm kiếm bộ phận) là PP giáo viên hướng dẫn HS
từng bước thực hiện chuỗi hành động tìm tòi, khám phá từng nội dung,
phương diện… của bài học theo trình tự từ dễ đến khó, từ đơn giản đến
phức tạp, từ cảm tính đến lí tính, từ tái hiện đến khám phá, phát hiện để
đạt mục tiêu bài học.
c
thứ
ận
nh
cần
yết
thu
lí
ng
du
nội
ng
đự
ứa
ch
cần
u
Mẫ
sát
an
qu
dễ
n,
gọ
ắn
ng
n
nê
u
Mẫ
c
dụ
o
giá
mĩ,
m
thẩ
h
tín
ng
ma
u
Mẫ
i
tuổ
lứa
lí
m
tâ
với
p
hợ
ù
ph
u
Mẫ
7. Phương pháp dạy học hợp tác
Dạy học hợp tác được hiểu là cách thức tổ chức dạy học, trong đó, học
sinh làm việc theo nhóm để cùng nghiên cứu, trao đổi ý tưởng và giải
quyết vấn đề.