Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 35

BỘ CÔNG THƯƠNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH

KHOA CÔNG NGHỆ HÓA

NHÓM 10

ĐỀ TÀI: PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG

BÀI TIỂU LUẬN GIỮA KÌ

MÔN HỌC: PHÁP LUÂT ĐẠI CƯƠNG

GIẢNG VIÊN: LÊ NGUYỄN THANH TRÀ

NĂM HỌC 2022


LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học riêng của nhóm 10 được
thực hiện dưới sự chỉ dẫn của giảng viên Lê Nguyễn Thanh Trà. Các số liệu và vụ việc
thực tế trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và có nguồn rõ ràng,
đảm bảo tính trung thực và tuân thủ đúng các quy định và trích dẫn, chú thích tài liệu
tham khảo. Nhóm chịu trách nhiệm hoàn tòan trách nhi ệm về lời cam đoan này.

Người cam đoan


LỜI TRI ÂN

Qua những tháng ngày sau ngày nhập học đến giờ, sinh viên năm nhất chúng em
đã cảm nhận được một luồng gió mới từ môi trường đại học. Đây là một nơi mà không
phải ai cũng chạm được tơi, cũng là nơi để chúng em bắt đầu và phát triển bản thân.
Những bộ môn khác nhau lại mang tới kiến thức khác nhau, mới lạ hơn, sâu hơn rộng
hơn.

Nhân cơ hội nay, em cũng xin cảm ơn Cô Lê Nguyễn Thanh Trà, người giảng viên
đã cho sinh viên tụi em những kiến thức về pháp luật, những câu chuyện về đời sống
để tụi em biết được những cách giải quyết cho điều mà sinh viên chúng em đang hoặc
có thể sẽ gặp sau này. Cô rất nhiệt huyết trong việc chỉ dẫn tụi em làm đúng và đủ các
bài tập để có được những số điểm đẹp trong môn học này. Em xin tỏ lòng biết ơn và
sự trân trọng với Cô và các Thầy Cô khác trong trường IUH, những giảng viên đã
mang lại cho chúng em những bài giảng hay mà tất cả Thầy Cô đã bỏ công sức để
thực hiện, nghiên cứu ngày đêm để mang lại hiệu quả tốt nhất cho sự hiểu biết của các
em học sinh trong ngôi trường này.

Thông qua bộ môn này, em đã học được rất nhiều điều hay, có thêm những người
bạn mới, và một kiến thức về pháp luật mà em sẽ rất cần hiện tại và sau này.

Cuối cùng em xin kinh chúc Cô Lê Nguyễn Thanh Trà và quý thầy cô luôn hạnh
phúc, khỏe mạnh, và thành công trong sự nghiệp, cuộc sống, và trong công trình
giảng dạy tri thức của mình. Em xin gửi lời cám ơn và chúc sức khỏe đến Thầy Cô,
bạn học, Gia đình!

Em xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Giá trị nghiên cứu của đề tài
7. Cấu trúc của tiểu luận

CHƯƠNG I: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VÀ TÁC HẠI CỦA THAM


NHŨNG

1.1. Những quy định chung

1.1.1. Khái niệm tham nhũng

1.1.2. Những đặc trưng cơ bản

1.1.3. Các hành vi tham nhũng và biểu hiện theo quy định của pháp luật hiện
hành

1.2. Tác hại của tham nhũng

1.2.1. Tác hại về chính trị

1.2.2. Tác hại về kinh tế

1.2.3. Tác hại về xã hội

KẾT LUẬN CHƯƠNG I

CHƯƠNG II: CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG

KẾT LUẬN CHƯƠNG II

KẾT LUẬN CHUNG

CÁC VỤ ÁN THAM NHŨNG THỰC TẾ

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Một hiện tượng xã hội đã và


đang hiện hữu ở tất cả quốc gia,
không phân biệt giàu, nghèo,
phát triển, hay không phát triển.
Hiện tượng đó kéo dài qua
dòng chảy lịch sử thế giới, gắn
liền với sự hình thành và tồn tại
của nhà nước. Nó đã tạo ra một chiều hướng không nên phát triển và tồn tại trong xã
hội, như là có thể làm cho một quốc gia sụp đổ, cũng có thể làm người người sống
trong đói nghèo, lầm than. Đúng vậy hiện tượng chúng ta đang nói đến là tham nhũng,
vậy chúng ta cần chuẩn bị đầy đủ những hiểu biết về tham nhũng, để biết được sức
ảnh hưởng của hiện tượng này và hậu quả có thể xảy ra ,và dễ dàng phòng, chống
những tác hại to lớn mà tham nhũng có thể gây ra. Vậy tham nhũng là gì?

Tham nhũng là một hiện tượng tất yếu của xã hội có sự phân chia giai cấp, có nhà
nước; bởi tham nhũng luôn gắn với quyền lực nhà nước; một số người có chức vụ,
quyền hạn trong bộ máy nhà nước đã lợi dụng quyền lực nhà nước để nhằm thu lợi ích
bất chính về cho mình, cho gia đình, cho người thân của mình. Gây ra những tác hại
về nhiều mặt, trong đó có về mặt chính trị, kinh tế, xã hội, làm suy thoái bộ máy Nhà
nước, gây bất lợi cho quyền lợi đáng ra sẽ nhận được của nhân dân. Vì vậy mà cấp
thiết Đảng và nhà nước, nhân dân phải có những phương pháp, chương trình nhằm
hạn chế, tiến tới tiêu diệt những mầm tai họa này. Vậy phòng, chống tham nhũng bằng
cách là như thế nào?

Theo đó phòng, chống tham nhũng được hiểu là: bao gồm các hoạt động của hệ
thống cơ quan Đảng, bộ máy nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội và toàn thể nhân dân, căn cứ vào đường lối, chủ trương của Đảng và
pháp luật của Nhà nước để phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý những hành vi tham
nhũng nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và công dân, góp
phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị – xã hội, bảo vệ chế độ và bảo
đảm cho kinh tế – xã hội đất nước phát triển bền vững.

Vì muốn càng hiểu biết, rõ ràng, sâu hơn về những điều luật phòng, chống tham
nhũng để giành lại quyền lợi nên được hưởng, phá tan bất công vì những người lạm
dụng chức quyền, để không phải lo sợ về sự tồn vong của đất nước nhóm 10 đã chọn
đề tài “Pháp luật về phòng, chống tham nhũng”. Với mong muốn thông qua bài tiểu
luận này để càng hoàn thiện các kiến thức về pháp luật phòng, chống tham nhũng,
giúp mọi người càng thấu hiểu các pháp luật có ích cho bản thân, gia đình, đất nước.
Cũng là để góp phần đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật, và nâng cao hiệu quả việc
áp dụng những phương pháp phòng chống tham nhũng.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Giáo trình

- Sách Pháp luật đại cương, Ts, Đặng Công Tráng ( chủ biên), Ts.Vũ Thế Hoài,

- Sách Luật Phòng, chống tham nhũng ( sửa đổi)

Khóa luận, luận văn, luận án

- Khóa luận tốt nghiệp cứ nhân luật học Lê Hữu Sơn

Bài báo, tạp chí

- Báo kinh tế & đô thị

3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu

Mục tiêu của khóa luận: Làm rõ khái niệm, đối tượng, hành vi, vi phạm, tác hại
của tham nhũng. Sau khi hiểu rõ thế nào là tham nhũng và như nào là phạm trù vi
phạm pháp luật, ta sẽ biết được cách pháp luật về phòng, chống tham nhũng, để giải
quyết và phòng ngừa được nó một cách có hiệu quả.

Nhiệm vụ của khóa luận:

Một là, định nghĩa của tham nhũng.

Hai là, đối tượng điều chỉnh.


Ba là, hành vi tham nhũng.

Bốn là, các biện pháp phòng chống.

Năm là, liên hệ thực tiễn các vụ án tham nhũng đã có bản án có hiệu lực pháp luật.

Sáu là, phân tích cách cấu thành tội phạm.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Pháp luật về phòng, chống tham nhũng.

Phạm vi nghiên cứu: Cơ sở lý luận. Những vấn đề chung về tham nhũng và phòng
chống tham nhũng. Các biện pháp phòng chống tham nhũng.

5. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp phân tích, tổng hợp: dùng để làm rõ cơ sở lý luận, phân tích thực
trạng và đề xuất những giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống tham
nhũng. Phương pháp áp dụng ở hầu hết cả bài.

Kết hợp lý luận với thực tiễn: Dựa trên các quy định của pháp luật, đối chiếu với
thực tiễn áp dụng, từ đó phân tích thực trạng áp dụng pháp luật về phòng, chống tham
nhũng. Phương pháp này áp dụng gần như chỉ ở phần II.

6. Giá trị nghiên cứu của đề tài

Kết quả của việc nghiên cứu sẽ chỉ ra những hạn chế trong các

quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam từ đó đề xuất
những giải pháp nhằm cải thiện pháp luật, cũng như những định hướng nhằm nâng
cao nhận thức của mỗi cá nhân trong vấn đề này.

7. Cấu trúc của tiểu luận

Tiểu luận được thiết kế với 3 phần: Phần mở đầu, nội dung, kết luận, trong đó nội
dung gồm 3 phần:

Cơ sở lý luận.

Chương I: Những vấn đề chung về tham nhũng và phòng chống tham nhũng.

Chương II: Các biện pháp phòng chống tham nhũng.


CHƯƠNG I: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VÀ TÁC HẠI CỦA THAM
NHŨNG

1.1. Những quy định chung

1.1.1. Khái niệm tham nhũng:

- Tham nhũng là một hiện tượng xã hội tiêu cực xuất hiện cùng với sự phát triển
của Nhà nước, nó gắn liền với quyền lực nhà nước và được thực hiện bởi chủ thể được
nhà nước trao quyền vì vậy mà tham nhũng là biểu hiện của sự tha hoá của một bộ
phận các quan chức được giao cho các quyền về chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội.
Với mỗi góc nhìn khác nhau đều có cách hiểu và tiếp cận riêng về vấn đề này nhưng
tất cả đi đến một mục đích chung là nhận diện và phát hiện tham nhũng để từ đó tìm ra
những giải pháp có thể ngăn chặn, khắc phục và giảm thiểu đến mức thấp nhất hiện
tượng này.
- Nếu chúng ta đứng ở góc độ nhìn chung của xã hội thì tham nhũng hiện nay
đang là một vấn đề nhức nhối của xã hội, luôn là vấn đề lớn của nhiều quốc gia. Hiện
nay, hình thức và mức độ tham nhũng có thể thay đổi dựa vào sự diễn biến thay đổi
của xã hội. Nạn tham nhũng ngày nay không còn là vấn đề riêng của mỗi quốc gia mà
đã trở thành vấn đề toàn cầu. Nó đã và đang phá hoại sự phát triển ổn định lâu dài, bền
vững của mỗi quốc gia. Các quốc gia trên thế giới đang cùng nhau thực hiện các biện
pháp mạnh để phòng ngừa và đấu tranh chống tệ nạn này. Đó cũng là lý do khiến
nhiều quốc gia trên thế giới tham gia ký kết, áp dụng các biện pháp thực thi Công ước
của Liên Hiệp Quốc về chống tham nhũng (United Nations Convention Against
Corruption - viết tắt là: UNCAC).
- Tham nhũng với mỗi giai đoạn lịch sử hay mỗi quốc gia có những định nghĩa
khác nhau tuy nhiên đều hướng chung đến ý chỉ những hành vi như: hối lộ, tham ô,
biển thủ công quỹ,… Vì vậy, việc đưa ra khái niệm hay định nghĩa hoàn chỉnh phản
ánh đúng bản chất của hành vi tham nhũng và được chấp nhận rộng rãi là điều không
đơn giản.
- Theo quy định của Pháp lệnh chống tham nhũng của Việt Nam năm 1998 thì
tham nhũng “là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền
hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại
cho tài sản của Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các
cơ quan, tổ chức”. Hay theo Từ điển Tiếng Việt, tham nhũng là lợi dụng quyền hành
để nhũng nhiễu nhân dân lấy của. Tài liệu hướng dẫn của Liên hợp quốc về cuộc đấu
tranh quốc tế chống tham nhũng năm 1969 đã định nghĩa tham nhũng trong một phạm
vi hẹp hơn là sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng.
- Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005,
khái niệm “tham nhũng” được hiểu: “là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã
lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”.
- Trong ngôn ngữ thông thường và ngôn ngữ luật pháp, khái niệm “tham nhũng”
có thể được hiểu theo những cách khác nhau. Tuy nhiên, trên cơ sở quy định của pháp
luật về tham nhũng, chúng ta có thể định nghĩa khái quát về tham nhũng như sau:
Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn sử dụng chức vụ quyền hạn
của mình làm trái pháp luật để mưu cầu lợi ích riêng.

1.1.2. Những đặc trưng cơ bản:

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tham nhũng có những đặc trưng cơ bản
như sau:

a. Thứ nhất, chủ thể tham nhũng là nhũng người có chức vụ, quyền hạn.
- Theo quy định tại khoản 3, Điều 1 Luật phòng, chống tham nhũng( năm 2005) :
“Tham nhũng là hành vi… lợi dụng chức vụ, quyền hạn…”. Điều này cho thấy chủ
thể của hành vi tham nhũng phải là người có chức vụ, quyền hạn. Bởi vì, chỉ khi “có
chức vụ, quyền hạn” người ta mới có thể “lợi dụng chức vụ quyền hạn”. Chức vụ
quyền hạn mà chủ thể của hành vi tham nhũng có được có thể do được bầu cử, do
được bổ nhiệm, do hợp đồng… Chức vụ quyền hạn phải gắn với quyền lực nhà nước
trong các lĩnh vực và các cơ quan khác nhau: cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ
quan tư pháp, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế Nhà
nước hoặc lực lượng vũ trang nhân dân từ trung ương đến địa phương.
- Người có chức vụ và quyền hạn bao gồm như sau: cán bộ, công chức, viên
chức; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị
thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ,hạ sĩ quan chuyên môn – kỹ
thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; cán bộ lãnh đạo, quản lý trong
doanh nghiệp Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện phần vốn góp của
Nhà nước tại doanh nghiệp; người đucợ giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền
hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó.
- Đây là dấu hiệu để phân biệt hành vi tham nhũng với những hành vi vi phạm
pháp luật khác tuy cũng có yếu tố vụ lợi nhưng không phải là tham nhũng vì nó được
thực hiện bởi những người không có chức vụ, quyền hạn như hành vi trộm cắp tài sản,
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, buôn lậu…
b. Thứ hai, chủ thể tham nhũng lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao:
- Là một trong những yếu tố xác định hành vi tham nhũng.
- Người có hành vi tham nhũng sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình như một
phương tiện để thực hiện hành vi trái pháp luật. Nếu không có chức vụ, quyền hạn đó
họ sẽ không thể thực hiện được hoặc khó có thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật
để đáp ứng nhu cầu hưởng lợi (trái pháp luật) của bản thân.
- Ví dụ: Nếu không phải là người giữ kho thì T không thể hoặc khó có thể lấy
được tài sản trong kho làm tài sản riêng của mình. Việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn
là thủ kho trong trường hợp này đã giúp T đạt được mục đích hưởng lợi ích vật chất
trái pháp luật. Thì đây chính là hành vi tham nhũng.
- Dấu hiệu lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái pháp luật là một dấu hiệu không
thể thiếu của hành vi tham nhũng.
- Chúng ta sẽ phân biệt được hành vi tham nhũng với hành vi vi phạm pháp luật
khác thông qua dấu hiệu này.
- Mặt khác, không phải khi nào người có chức vụ, quyền hạn làm trái pháp luật
cũng có yếu tố lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Người có chức vụ, quyền hạn nhưng khi
thực hiện hành vi vi phạm pháp luật lại không lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình
thì hành vi vi phạm đó không phải là tham nhũng. Ví dụ, trường hợp một công chức
có hành vi trộm cắp tài sản của người khác hoặc của cơ quan, tổ chức khác. Hành vi
trộm cắp tài sản và chức vụ của người đó không liên quan với nhau trong trường hợp
này. Hành vi trộm cắp tài sản có thể được thực hiện bởi bất kỳ người nào không có
chức vụ quyền hạn hoặc có chức vụ, quyền hạn nhưng chức vụ quyền hạn đó không
liên quan đến việc quản lý, bảo vệ tài sản.
c. Thứ ba, múc đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi:
- Đây là hành vi cố ý
- Người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn - sử dụng trái
pháp luật quyền hành mà nhà nước trao cho để mưu cầu lợi ích riêng. Hành vi của họ
không xuất phát từ nhu cầu công việc hay trách nhiệm của người cán bộ, công chức
mà vì lợi ích riêng (cá nhân hay đơn vị mình).
- Thiếu yếu tố vụ lợi thì hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn, làm trái công vụ
của cán bộ công chức cũng không bị coi là “tham nhũng” nói chung hay tội phạm về
tham nhũng nói riêng.
- Hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ quyền hạn làm trái pháp luật mưu lợi
riêng - tham nhũng đã xuất hiện và tồn tại trong xã hội từ rất sớm.
- Việc ban hành và áp dụng các văn bản pháp luật, đặc biệt là các văn bản pháp
luật để xử lý nghiêm minh các hành vi tham nhũng được coi là công cụ hữu hiệu trong
việc phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng ở mỗi quốc gia.
- Ở Việt Nam, nhà nước Việt Nam từ thời phong kiến đã rất quan tâm đến việc
đấu tranh chống những hành vi lợi dụng, lạm dụng chức vụ quyền hạn mưu lợi cá
nhân gây thiệt hại cho nhà nước và của người dân. Trong số các văn bản pháp luật của
nhà nước phong kiến Việt Nam còn lưu lại đến ngày nay thì Quốc Triều Hình Luật
(Luật Hình Thời Lê) và
Hoàng Việt Luật Lệ (Luật
Hình Thời Nguyễn) mỗi bộ
luật đều có nhiều điều luật
quy định xử lý các viên quan
lợi dụng hay lạm dụng chức
quyền để mưu lợi cá nhân.
- Ngay sau khi nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà ra
đời, Đảng và Nhà nước ta đã
rất quan tâm đấu tranh chống
tham nhũng - hành vi lợi
dụng chức, quyền chiếm đoạt
tài sản, gây thiệt hại cho nhà
nước hoặc công dân. Bác Hồ từng nói: “Tham ô, ăn cắp của công làm của tư, đục
khoét của nhân dân, ăn bớt của bộ đội, tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung, của
Chính phủ làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình cũng là tham ô...”. .Hơn
một năm sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được thành lập, ngày 27 tháng
11 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí ban hành Sắc lệnh số 223 quy định trừng trị
các tội đưa, nhận hối lộ, phù lạm và biển thủ công quỹ. Đây là văn bản pháp luật hình
sự đầu tiên quy định trừng trị một số tội phạm về tham nhũng (theo cách gọi hiện
nay). Các tội được quy định trong Sắc lệnh này bao gồm: tội đưa hối lộ cho công
chức, tội công chức nhận hối lộ, tội công chức phù lạm và tội công chức biển thủ công
quỹ.
- Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm đối với cuộc đấu tranh chống tham
nhũng, răn đe mạnh mẽ đối với những hành vi tham nhũng, phát huy tinh thần tích
cực, chủ động của cơ quan, tổ chức và trách nhiệm của mọi công dân trong cuộc đấu
tranh chống tệ nạn xã hội tiêu cực và loại tội phạm nguy hiểm này.

1.1.3. Các hành vi tham nhũng và biểu hiện theo quy định của pháp luật hiện hành:

Ngày 26 tháng 02 năm 1998, Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội đã ban hành Pháp lệnh
số 03/1998/PL-UBTVQH10 - Pháp lệnh chống tham nhũng. Theo pháp lệnh này, các
hành vi tham nhũng bao gồm 11 loại hành vi . và sau gần ngần ấy năm thì tại BLHS
2017 bổ sung 2019, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã phân loại và quy
định 12 hành vi tham nhũng bao gồm:

- Tham ô tài sản:


+ Người có hành vi tham ô tài sản phải là người có chức vụ, quyền hạn hoặc có
trách nhiệm trong việc quản lý tài sản.
+ Người có hành vi tham ô tài sản đã lợi dụng (sử dụng) chức vụ, quyền hạn hay
trách nhiệm quản lý tài sản như là phương tiện để chiếm đoạt tài sản được giao. Chức
vụ, quyền hạn hay trách nhiệm quản lý tài sản làm cho người phạm tội có điều kiện
tiếp cận và dễ dàng chiếm đoạt tài sản. Chức vụ, quyền hạn mà người tham ô tài sản
có được có thể do bầu cử, do bổ nhiệm, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có
hưởng lương hoặc không hưởng lương.
+ Dấu hiệu có chức vụ, quyền hạn của người tham ô tài sản phải gắn với việc
quản lý (tài sản bị chiếm đoạt)
+ Theo quy định tại Điều 353 BLHS ( năm 2015 ), người có hành vi tham ô tài
sản bị coi là phạm tội tham ô tài sản nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ hai triệu
đồng trở lên hoặc dưới hai triệu đồng nhưng phải thuộc một trong các trường hợp:
Gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này, hoặc Đã bị kết án
về một trong các tội quy định tại mục I chương này ( BLHS năm 2015 ) , chưa được
xoá án tích mà còn vi phạm.
+ Trường hợp người có chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới hai
triệu đồng và không thuộc một trong ba trường hợp nêu trên thì đó chỉ là hành vi tham
ô tài sản và người có hành vi này chỉ bị xử lý kỷ luật.
+ Ví dụ: thủ trưởng cơ quan lợi dụng chức vụ (chủ tài khoản) chiếm đoạt tài sản
của cơ quan
- Nhận hối lộ ( Điều 354, BLHS 2015, sửa đổi bổ sung 2017 ):

+ Là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận
hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào để làm
hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa tiền của. Hành vi
nhận hối lộ có đặc điểm là:
+ Chủ thể có sự lợi dụng chức vụ, quyền hạn để (giải quyết công việc nào đó);
+ Hành vi nhận hối lộ có thể là đã nhận hoặc sẽ nhận (nhận trước hoặc sau khi
làm một việc cho người đưa tiền của);
+ Việc nhận hối lộ có thể là nhận trực tiếp hoặc qua trung gian (người môi giới);
+ Của hối lộ phải là tiền, tài sản hoặc lợi ích có tính vật chất (như xây nhà, sửa
nhà không phải trả công hoặc được nhận các dịch vụ không phải trả tiền…);
+ Giữa người nhận và người đưa hối lộ phải có sự thoả thuận (để làm hay không
làm một việc theo yêu cầu của người đưa tiền của). Việc mà người đưa hối lộ và
người nhận hối lộ thoả thuận làm có thể đúng pháp luật hoặc trái pháp luật.
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản :
+ Lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản là trường hợp người có chức
vụ, quyền hạn đã (lạm dụng) vượt quá chức vụ, quyền hạn của mình chiếm đoạt tài
sản của người khác.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi:
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi là
trường hợp người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn hay trách
của mình làm trái công vụ để mưu cầu lợi ích riêng.
+ Trường hợp hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ (trong khi
thi hành công vụ) gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân (có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm) thì người thực hiện hành vi
này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong
khi thi hành công vụ
- Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi:
+ Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi là trường hợp người
có chức vụ, quyền hạn vì mưu cầu lợi ích cho mình hoặc cho người khác đã vượt qúa
chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ.
+ Trường hợp hành vi lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ gây thiệt
hại cho lợi ích của nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân (có đủ
dấu hiệu cấu thành tội phạm) thì người thực hiện hành vi này có thể bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ ( Điều 355, BLHS 2017 ).
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi:
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi là hành
vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận
tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào để dùng ảnh hưởng
của mình thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc thuộc
trách nhiệm hoặc liên quan trực tiếp đến công việc của họ hoặc làm một việc không
được phép làm.
+ Trường hợp người lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác
để trục lợi nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên hoặc
dưới 2 triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý kỷ luật về hành vi
này mà còn vi phạm, thì người thực hiện hành vi này có thể bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi
- Giả mạo trong công tác vì vụ lợi:
+ Giả mạo trong công tác vì vụ lợi là trường hợp người có chức vụ, quyền hạn vì
vụ lợi mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu
hoặc làm, cấp giấy tờ giả hoặc giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn.
+ Tuỳ theo mức độ của sự vi phạm mà người có hành vi giả mạo trong công tác
có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giả mạo trong công tác
- Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để
giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi:
+ Đưa hối lộ là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức,
đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi mà trực tiếp hoặc qua trung gian đã hoặc sẽ đưa tiền,
tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào có giá trị dưới 2 triệu đồng
cho người có chức vụ quyền hạn để người đó làm hoặc không làm một việc cho mình
(cá nhân, cơ quan, đơn vị hoặc địa phương mình).
+ Trường hợp đưa hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên hoặc dưới
2 triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp: gây hậu quả nghiêm trọng hoặc vi
phạm nhiều lần thì người có hành vi đưa hối lộ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự
về tội đưa hối lộ
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi:
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi
là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn vì vụ lợi mà khai thác giá trị sử dụng của
tài sản của Nhà nước một cách trái phép (không được phép hoặc trái quy định)
- Nhũng nhiễu vì vụ lợi:
+ Hành vi nhũng nhiễu để nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất có giá trị từ 2 triệu
đồng trở lên hoặc dưới 2 triệu đồng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội nhận
hối lộ
+ Vụ lợi là lợi ích vật chất, tinh thần mà người có chức vụ, quyền hạn đạt được
hoặc có thể đạt được thông qua hành vi tham nhũng
- Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi:
+ Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi là hành vi của người có chức vụ,
quyền hạn vì vụ lợi mà không thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp
luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán,
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi:
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp
luật vì vụ lợi là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội vì vụ lợi đã che giấu, bỏ qua hành vi vi phạm pháp luật của người khác.
+ Cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều
tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi là hành vi của người có chức vụ quyền hạn
trong cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội vì vụ lợi mà ngăn cản, gây khó khăn, làm trì
hoãn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án của các cơ quan tư pháp.
+ Trường hợp chủ thể thực hiện hành vi nói trên gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà
nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân thì tùy theo mức độ hành vi vi
phạm cũng như mức độ của hậu quả thiệt hại đã gây ra mà người thực hiện hành vi nói
trên có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong
khi thi hành công vụ.

1.2. Tác hại của tham nhũng:

1.2.1. Tác hại về chính trị:


- Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 Ban hành kèm
theo Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 12 tháng 5 năm 2009 của Chính phủ đã nhận
định: “tình hình tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp trên nhiều lĩnh vực, nhất là trong
quản lý, sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, quản
lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin
của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý Nhà nước, tiềm ẩn các xung đột
lợi ích, phản kháng về xã hội, làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo. Tham nhũng
trở thành vật cản lớn cho thành công của công cuộc đổi mới, cho sức chiến đấu của
Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ.”
- Tham nhũng tạo ra những rào cản, cản trở việc thực hiện các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước. Nhiều chính sách của Đảng và Nhà nước bị các cán bộ,
công chức, viên chức lợi dụng phục vụ cho các mục đích cá nhân đã gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sự phát triển chung của đất nước.
- Tham nhũng vì vậy làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào bộ máy Nhà nước,
làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào đội ngũ cán bộ, đảng viên, gây bức xúc trong
nhân dân và dư luận xấu trong xã hội.
- Tham nhũng cũng làm ảnh hưởng đến uy tín của quốc gia trên trường quốc tế.
Tham nhũng làm giảm lòng tin của các nhà tài trợ khi mà nguồn viện trợ cho các dự
án, nguồn hỗ trợ cũng như sự ủng hộ của các quốc gia cho nước ta bị thất thoát nhiều,
làm cho hiệu quả đạt được của các nguồn tài chính, tín dụng này là rất thấp.
- Tham nhũng ảnh hưởng xấu đến những chính sách tốt đẹp của Đảng và Nhà
nước về mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức
lợi dụng các chính sách của Đảng và Nhà nước để tạo ra những đặc quyền, đặc lợi của
mình và gia đình.
- Ví dụ, một số cán bộ, công chức đã làm giả hồ sơ để được hưởng các chính
sách dành cho thương binh, liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng, hộ nghèo, các hộ
ở vùng sâu vùng xa, nạn nhân của thiên tai hoặc để được hưởng các chính sách cử
tuyển đi học, xét tuyển công chức, viên chức… Điều này đã gây ra những ảnh hưởng
xấu trong đời sống chính trị của xã hội, gây ra sự bất bình trong nhân dân, gây ảnh
hưởng đến việc thực thi các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà
nước.
1.2.2. Tác hại về kinh tế:

- Theo đánh giá của Văn phòng Liên hợp quốc về ma túy và tội phạm (UNODC)
và Ngân hàng Thế giới (WB), nạn tham nhũng đã gây thiệt hại cho các nước đang
phát triển tới 1,6 nghìn tỷ USD mỗi năm. Những thiệt hại về kinh tế mà tham nhũng
gây ra cho nước ta có thể kể đến là:
- Tham nhũng làm thất thoát những khoản tiền lớn trong xây dựng cơ bản do
phải chi phí cho việc đấu thầu, việc cấp vốn, việc thanh tra, kiểm toán và hàng loạt các
chi phí tiêu cực khác.
+ Trong năm 2010, qua thanh tra, các cơ quan chức năng đã phát hiện nhiều sai
phạm trong lĩnh vực đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng, đầu tư xây dựng, quản lý sử
dụng tài sản công, kiến nghị thu hồi 8.152,6 tỷ đồng và 2.108,5 ha đất
- Vì lợi ích cá nhân của mình hay của một nhóm người, một số doanh nghiệp đã
đầu tư mua, nhập khẩu những dây chuyền sản xuất, máy móc, thiết bị, phương tiện,
tàu thủy rất lạc hậu, cũ nát không thể sử dụng được do công nghệ đã quá cũ hoặc tiêu
tốn quá nhiều nhiên liệu hoặc thải ra quá nhiều các chất độc hại, gây thất thoát cho
ngân sách nhà nước hàng ngàn tỷ đồng
- Tham nhũng gây tổn thất lớn cho nguồn thu của ngân sách nhà nước thông qua
thuế.
+ Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước
+ Tuy nhiên do tệ tham nhũng, hối lộ mà một số doanh nghiệp chỉ phải nộp
khoản thuế ít hơn nhiều so với khoản thuế thực tế phải nộp. Điều này đã làm thất thoát
một lượng tiền rất lớn hàng năm cho ngân sách nhà nước. Hối lộ cũng dẫn đến những
thất thoát lớn cho ngân sách nhà nước trong việc hoàn thuế, xét miễn giảm thuế, các
khoản thu phí, lệ phí, tiền phạt...
- Tham nhũng, nhất là hành vi tham ô tài sản đã làm cho một số lượng lớn tài sản
công trở thành tài sản tư của một số cán bộ, công chức, viên chức
- Tham nhũng gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho các công trình xây dựng
+ Do tham nhũng mà một số công trình xây dựng như các công trình cầu đường,
nhà cửa kém chất lượng. Điều này không chỉ làm thất thoát tài sản quốc gia mà còn
gây nguy hiểm đáng kể, đe dọa cuộc sống của người dân khi sử dụng các công trình
này, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của nền kinh tế - xã hội.
- Tham nhũng gây ảnh hưởng lớn đến môi trường kinh doanh, làm giảm đáng kể
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, làm chậm tốc độ tăng trưởng của nền kinh
tế.
+ Ngân hàng Thế giới (WB) ước tính tham nhũng khiến chi phí của các doanh
nghiệp toàn cầu tăng 10%, trong khi chi phí giao dịch tại các nước đang phát triển
tăng thêm tới 25%. Số tiền tham nhũng của quan chức trên toàn thế giới mỗi năm lên
tới hơn 1.000 tỷ USD.
+ Điều đó không chỉ làm mất lòng tin của các doanh nghiệp làm ăn chính đáng,
cạnh tranh lành mạnh mà còn dẫn đến nhiều hậu quả xấu khác như chất lượng công
trình kém, làm suy thoái phẩm chất của một số cán bộ, công chức, viên chức, làm mất
lòng tin của các nhà đầu tư, gây nguy hiểm cho cuộc sống người dân…

1.2.3. Tác hại về xã hội:

- Tham nhũng làm ảnh hưởng đến các giá trị, các chuẩn mực đạo đức và pháp
luật, làm xuống cấp đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên.
+ Tham nhũng đã làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên coi thường các giá trị
đạo đức, coi thường các chuẩn mực của pháp luật, sách nhiễu, gây khó khăn… để đòi
hối lộ.
+ Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định, một số chỉ tiêu, nhiệm vụ do Đại hội X đề ra
chưa đạt được, trong đó có “tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tội phạm, tệ nạn xã
hội, suy thoái đạo đức, lối sống... chưa được ngăn chặn, đẩy lùi.”
- Tham nhũng làm xáo trộn trật tự xã hội.
+ Hoạt động của những cán bộ, đảng viên thay mặt Đảng, Nhà nước thực thi
công vụ không còn phục vụ cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, của công dân mà
chủ yếu phục vụ cho lợi ích của họ và một số ít người đưa hối lộ từ đó gây ra những
ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội, gây bất bình trong nhân dân.
+ Đặc biệt, khi tham nhũng xẩy ra trong các lĩnh vực, ngành nghề được xã hội
tôn kính như giáo dục, y tế, văn hóa… thì hành vi tham nhũng còn xâm hại nghiêm
trọng đến các giá trị đạo đức, xã hội truyền thống, gây ra những hậu quả xấu, tác động
không nhỏ đến hệ tư tưởng trong xã hội.
- Tham nhũng gây ra những hậu quả nghiêm trọng về chính trị, kinh tế và xã hội;
gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển mọi mặt của nền kinh tế - xã hội. Tham nhũng
làm xuống cấp đạo đức một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức, gây bất bình trong
dư luận xã hội, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Đảng và Nhà nước.

KẾT LUẬN CHƯƠNG I

Tham nhũng luôn là một trong những vấn đề được chính phủ các nước đặc biệt
quan tâm do mức độ, phạm vi ảnh hưởng nghiêm trọng đối với sự ổn định chính trị,
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Trong những năm qua, mặc dù tình hình
tham nhũng ở nước ta từng bước được kiềm chế, ngăn chặn, song vẫn còn diễn biến
phức tạp, nhất là khi tham nhũng đang là một nguy cơ đe dọa đến an ninh phi truyền
thống, an ninh quốc gia hiện nay.

* Tham nhũng và nhũng hậu quả nghiêm trọng đối với an ninh quốc gia:

Tham nhũng xuất hiện từ thế kỷ XIII trước Công nguyên, dưới nhiều hình thức
biểu hiện, tính chất, mức độ và phạm vi khác nhau. Tùy vào trình độ phát triển, điều
kiện kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau mà quan niệm về tham nhũng cũng có sự khác
nhau. Tại Đức, “tham nhũng được coi là hiện tượng mất phẩm chất, hối lộ, đút lót,
thường xảy ra đối với công chức có quyền hành” (1). Ở Thụy Sĩ, “tham nhũng là hậu
quả nghiêm trọng của sự vô tổ chức của tầng lớp có trách nhiệm trong bộ máy nhà
nước. Đó là hành vi phạm pháp để phục vụ lợi ích cá nhân” (2). Ở Áo, “tham nhũng là
hiện tượng lừa đảo, hối lộ, bóc lột”(3). Ngân hàng Thế giới (WB) coi “tham nhũng là
sự lạm dụng chức vụ công để tư lợi” (4). Tổ chức Minh bạch quốc tế (Transparency
International - TI) cho rằng “tham nhũng là hành vi lợi dụng quyền hành để gây phiền
hà, khó khăn và lấy của dân”(5). Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm
2003 không đưa ra khái niệm về tham nhũng mà chỉ khuyến cáo các quốc gia thành
viên cần quy định các hành vi sau đây là tội phạm, bao gồm: hối lộ (trong khu vực
công và khu vực tư), tham ô, lợi dụng ảnh hưởng để trục lợi, làm giàu bất hợp pháp,
biển thủ trong khu vực tư, tẩy rửa tài sản…(6). Như vậy, mặc dù nội dung diễn giải có
nhiều điểm khác nhau, song tựu chung lại, tham nhũng được hiểu tương đối thống
nhất là việc lợi dụng vị trí, quyền hạn để thực hiện các hành vi trái pháp luật nhằm
trục lợi.
Trên thực tế, tham nhũng xảy ra ở tất cả các quốc gia và thường ở mức độ nghiêm
trọng hơn trong giai đoạn quá độ về kinh tế - xã hội. Tháng 1-2022, Chỉ số cảm nhận
tham nhũng (CPI) do Tổ chức Minh bạch quốc tế công bố cho thấy, vấn nạn tham
nhũng vẫn diễn ra nghiêm trọng trên phạm vi toàn cầu. Đáng chú ý, trong nhiều năm
qua, hầu hết các quốc gia trên thế giới không có sự cải thiện đáng kể về hiệu quả
phòng, chống tham nhũng. Hiện
vẫn có hơn 2/3 trong tổng số 180
quốc gia và vùng lãnh thổ được
đánh giá chỉ đạt điểm dưới 50 trên
thang điểm 100 của CPI(7).
Tại Việt Nam, trong cuốn Quần thư
khảo biện, nhà bác học Lê Quý Đôn
khẳng định tham nhũng tràn lan là
một trong năm nguy cơ mất nước(8).
Do vậy, các triều đại phong kiến
Việt Nam đã đưa ra nhiều biện pháp
phòng, chống tham nhũng trong đội
Lê Quý Đôn
ngũ quan lại. Điển hình nhất là việc
vua Lê Thánh Tông sử dụng khoa cử, bảo cử, tiến cử chặt chẽ để tuyển bổ; áp dụng lệ
Hồi tị; cử người đi dò xét phẩm cách các quan để giám sát chặt chẽ việc tiêu cực, tham
nhũng của quan lại(9). Để thực hiện chế độ lương bổng hợp lý, nhà Trần áp dụng khoản
“dưỡng liêm”; nhà Lý sử dụng cơ chế đặc biệt cho một số quan lại, như: cho thêm
ngục lại mỗi năm 20 quan tiền, 100 bó lúa; thời Hậu Lê phân loại những “nơi ít việc”,
“nơi nhiều việc” để phát bổng lộc khác nhau cho phù hợp nhưng bổng lộc các cấp bậc
quan lại không quá 40 lần(10). Đặc biệt, để phòng ngừa, xử lý những hành vi tham
nhũng, các triều đại phong kiến đã chú ý xây dựng các quy định pháp luật nghiêm
minh về vấn đề này. Đơn cử như Bộ Luật Hồng Đức có tới 78/722 Điều luật, 7/13
Chương quy định hành vi liên quan đến tham nhũng với các chế tài xử phạt nghiêm
khắc.
* Một số biện pháp góp phần bảo đảm an ninh quốc gia trong tình hình hiện nay.
Để công tác phòng, chống tham nhũng hiệu quả, góp phần bảo đảm an ninh quốc
gia của nước ta trong tình hình hiện nay, cần tập trung thực hiện một số giải pháp:

Một là, tiếp tục xác định tham nhũng là “giặc nội xâm” với phương châm “chống
tham nhũng như chống giặc nội xâm” với quyết tâm chính trị cao.

Từ năm 1994, Đảng ta xác định tham nhũng là một trong bốn nguy cơ đe dọa sự
tồn vong của Đảng và chế độ. Đến nay, quan điểm này vẫn còn nguyên tính thời sự.
Những diễn biến phức tạp của tham nhũng, có mặt còn gay gắt, nghiêm trọng hơn, đã
và đang đe dọa đến an ninh, sự phát triển và thịnh vượng của đất nước. Do vậy, cần
chống tham nhũng như “chống giặc nội xâm” với quyết tâm và ưu tiên chính trị cao
nhất. Cần vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm quý của cha ông ta, của thế giới để
chống tham nhũng. Công tác phòng, chống tham nhũng cần xác định là một nội dung
quan trọng của công tác bảo vệ an ninh quốc gia, áp dụng tổng hợp các biện pháp
phòng, chống, trong đó có các biện pháp nghiệp vụ đặc thù của công tác an ninh.

Hai là, tập trung xây dựng chiến lược phòng, chống tham nhũng có trọng tâm,
trọng điểm.

Tham nhũng do nhiều nguyên nhân, điều kiện hình thành phát triển, do vậy, công
tác phòng, chống tham nhũng cần chủ động nhận diện và dự báo chính xác, kịp thời,
có hệ thống; trên cơ sở đó, đề ra các biện pháp chiến lược có tính lâu dài, đồng bộ để
phòng ngừa, kiểm soát, từng bước đẩy lùi. Tuy nhiên, cần có sự đánh giá, phân loại
các nguyên nhân để có những ưu tiên chiến lược, phòng, chống những nguyên nhân
căn bản, gốc rễ. Qua nghiên cứu, các chiến lược trọng điểm cần ưu tiên, đó là: 1-
Chiến lược kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua việc tăng cường tính minh bạch
và cơ chế phản biện, giám sát thực chất hơn; 2- Chiến lược cán bộ đúng đắn theo
hướng tinh giản biên chế, đổi mới căn bản cơ chế tuyển chọn, đánh giá, sử dụng, nhất
là thực hiện chính sách đối với cán bộ, nghiêm trị tham nhũng chính trị.

Ba là, chú trọng triển khai chiến dịch phòng, chống tham nhũng từ cơ sở, khắc
phục căn bản tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”.

Ngoài những chiến lược mang tính lâu dài, cần có những chiến dịch mang tính cấp
bách, khẩn trương. Trước tiên, cần triển khai chiến dịch lan tỏa công tác phòng, chống
tham nhũng mạnh mẽ xuống các cấp cơ sở. Tham nhũng lớn là sự tích tụ của tham
nhũng vặt. Muốn chống tham nhũng ở cấp cao hiệu quả phải phòng, chống tham
nhũng quyết liệt ở cơ sở, ngăn chặn tình trạng các hành vi tham nhũng, tiêu cực vặt bị
“bình thường hóa”, hình thành “thói quen” xấu. Khi người cán bộ được bổ nhiệm lên
những vị trí cao hơn không xóa bỏ được “thói quen” này sẽ dễ dẫn đến các hành vi
tiêu cực, tham nhũng với mức độ ngày càng lớn, tinh vi hơn tương xứng với vị trí
ngày càng cao của họ. Như vậy, phòng, chống tham nhũng phải trở thành một phong
trào xã hội, nhất là lên án mạnh mẽ tham nhũng ngay từ cấp cơ sở; đưa công tác
phòng, chống tham nhũng trở thành vấn đề thường trực trong đời sống chính trị từ cơ
sở đến Trung ương.

Bốn là, hài hòa các biện pháp “bốn không” trong phòng, chống tham nhũng, trong
đó quan tâm đúng mức tới yếu tố “không cần tham nhũng”.

Tiếp tục triển khai quyết liệt các biện pháp để cán bộ, đảng viên “không dám tham
nhũng”, “không thể tham nhũng” bằng cách hoàn thiện cơ chế, chính sách nghiêm
minh, hiệu lực, hiệu quả. Theo đó, tập trung sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định
pháp luật trong những lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh tham nhũng, như đầu tư xây
dựng, đấu thầu, thu chi ngân sách, quản lý, sử dụng tài sản công… ; hoàn thiện các
quy định về công khai, minh bạch hoạt động của cơ quan, tổ chức, về kê khai tài sản,
kiểm soát thu nhập; xây dựng cơ sở dữ liệu để theo dõi sự biến động tài sản, thu nhập
của người có chức vụ, quyền hạn, gia tăng trách nhiệm chứng minh tài sản tăng lên
đối với cán bộ, bổ sung trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với tội phạm tham
nhũng; sớm ban hành Luật Bảo vệ nhân chứng để người dân tin tưởng, mạnh dạn hợp
tác trong cuộc đấu tranh khó khăn, nhạy cảm này.
Năm là, cảnh giác với âm mưu lợi dụng vấn đề tham nhũng để xâm hại an ninh
quốc gia.
Cùng với vấn đề dân chủ, nhân quyền, vấn đề tham nhũng thường bị các thế lực chống
đối lợi dụng để xuyên tạc, hạ uy tín của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, tham nhũng
không phải là vấn đề của riêng một quốc gia, mà còn là hiện tượng tất yếu trong bất
kỳ xã hội nào, dưới bất kỳ mô hình chính trị nào. Do vậy, luận điểm cho rằng, tham
nhũng là đặc điểm cố hữu, là sản phẩm của hình thái xã hội chủ nghĩa là sai lầm về cả
về lý luận và thực tiễn. Đây là cơ sở để đấu tranh, phản bác những âm mưu lợi dụng
vấn đề tham nhũng nhằm làm suy giảm uy tín của Đảng và Nhà nước ta. Theo đó, cần
công khai hơn nữa kết quả công tác phòng, chống tham nhũng để củng cố thêm niềm
tin của người dân trong và ngoài nước vào thành công của công tác phòng, chống
tham nhũng của Việt Nam.

* Tham nhũng gây ra những hậu quả, tác hại hết sức to lớn trên tất cả các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, đe dọa nghiêm trọng đến ổn định và phát triển toàn
diện của Nhà nước và xã hội. Vì vậy, cần đặt công tác phòng, chống tham nhũng trong
tổng thể công tác bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới với những chiến lược,
giải pháp đồng bộ nhưng có trọng tâm, trọng điểm, thẳng thắn, mạnh dạn đi vào
những điểm nghẽn mấu chốt, đòi hỏi sự đổi mới tư duy về chính trị, kinh tế và an
ninh.

CHƯƠNG II: CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG


Phòng, chống tham nhũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh
đạo của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp, nhấn mạnh trách
nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị, đề cao vai trò của xã hội, các
tổ chức đoàn thể và quần chúng nhân dân . Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn liền
và phục vụ cho đổi mới kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường đại
đoàn kết toàn dân và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ
đổi mới.

- Trong những năm gần đây, tệ nạn tham nhũng đã có những diễn biến hết sức
phức tạp, tác động tiêu cực đến nhiều mặt của đời sống xã hội, chính vì thế Đảng ta
cũng đã xác định tham nhũng là một trong 4 nguy cơ lớn đe dọa đến sự sống còn của
chế độ và sự nghiệp đổi mới của đất nước.
- Tuy nhiên, trong thời gian vừa
qua, hành vi nhũng nhiễu, quan liêu,
hách dịch, cửa quyền của một số cán bộ
ở cơ sở đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến
uy tín, danh dự của đảng, làm xói mòn
lòng tin của nhân dân đối với đảng.
- Hệ thống chính trị chậm được
đổi mới, trình độ quản lý còn lạc hậu
vẫn đang chịu ảnh hưởng nặng nề của
việc quản lý bao cấp, cơ chế xin cho tạo
ra các kẽ hở cho tệ nạn tham nhũng nảy sinh và phát triển.
- Cơ chế chính sách pháp luật về công tác phòng, chống tham nhũng chưa đầy
đủ, thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán, việc phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa
phương chưa rõ ràng.
- Sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham
nhũng chưa chặt chẽ, sâu sát, thường xuyên; xử lý hành vi tham nhũng chưa nghiêm,
vẫn còn sự nể nang, né tránh, bao che cho những người có hành vi tham nhũng.
- Bên cạnh đó, việc huy động toàn thể lực lượng toàn xã hội tham gia đấu tranh
chống tham nhũng chưa được quan tâm đúng mức. Công tác tuyên truyền, nâng cao
nhận thức của xã hội về tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng chưa tạo ra sự
chuyển biến tích cực.
* Việc cần cấp bách triển khai công tác phòng, chống tham nhũng.
- Một là , tuyên truyền phổ biến, quán triệt chủ trương, chính sách, pháp luật về
phòng, chống tham nhũng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, tích cực, thống nhất, có
hiệu quả từ nhận thức đến hành động của cán bộ, công chức, viên chức trong việc
phòng, chống tham nhũng.
- Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế về quản lý kinh tế - xã hội để phòng, chống
tham nhũng. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính nhằm đơn giản hóa thủ
tục hành chính trong các lĩnh vực gắn liền với quyền lợi của người dân, doanh
nghiệp. Rà soát việc tổ chức, triển khai thực hiện các văn bản pháp luật của Trung
ương và địa phương nhằm phục vụ tốt hơn yêu cầu quản lý, đồng thời không gây khó
khăn, phiên hà cho người dân, doanh nghiệp.
- Ba là, tiếp tục thực hiện nghiêm cơ chế, chính sách về công tác tổ chức – cán
bộ thuộc cấp cơ sở để phòng, chống tham nhũng. Xử lý trách nhiệm người đứng đầu
cơ quan, đơn vị để xảy ra tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; xử lý kỷ luật cán bộ, công
chức vi phạm tham nhũng lãng phí, tiêu cực trong cơ quan đơn vị mình.
- Bốn là, tăng
cường công tác thanh
tra, kiểm tra, giám sát
để nâng cao hiệu quả
công tác phòng, chống
tham nhũng. Cụ thể hóa
và tăng cường kiểm tra
nhằm đảm bảo thực
hiện nghiêm các quy
định của Luật phòng,
chống tham nhũng về
công khai, minh bạch
trong hoạt động của cơ quan, tổ chức ở trong hệ thống chính trị ở cơ sở và trong các
lĩnh vực nhất là trong việc thực hiện các chính sách an ninh và xã hội.
- Năm là, tăng cường vai trò giám sát trong công tác phòng, chống tham nhũng.
Duy trì công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí một cách thường xuyên, liên
tục, có biện pháp chặt chẽ, không để sơ hở trong công tác quản lý, điều hành và thực
thi nhiệm vụ đối với tất cả các cơ quan trong hệ thống chính trị như Đảng ta đã xác
định: “ Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là một nhiệm vụ trọng tâm của
công tác xây dựng Đảng, nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của cả hệ thống chính trị
và toàn xã hội ”.

2.1. Những quy định chung


Điều 1 khoản 1 quy định phạm vi điều chỉnh của Luật Phòng, chống tham
nhũng như sau: “ Luật này quy định về phòng ngừa, phát hiện, xử lý người có hành vi
tham nhũng và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong phòng, chống
tham nhũng ”. Phạm vi điều chỉnh của Luật Phòng, chống tham nhũng bao gồm các
nội dung chủ yếu là:
- Các biện pháp phòng ngừa tham nhũng;
- Việc phát hiện hành vi tham nhũng;
- Việc xử lý người có hành vi tham nhũng;
- Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong phòng, chống
tham nhũng.
Điều 1 khoản 2 về khái niệm tham nhũng quy định: “ Tham nhũng là hành vi
của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì lợi vụ.” Tham
nhũng được mô tả dưới dạng hành vi, bao gồm ba yếu tố.
- Thứ nhất, hành vi này được thực hiện bởi một đối tượng đặc biệt là người có
chức vụ, quyền hạn;
- Thứ hai, người có chức vụ, quyền hạn đã có sự lợi dụng chức vụ, quyền hạn
đó khi thực hiện nhiệm vụ, công việc được giao.
- Thứ ba, hành vi này thực hiện với mục đích vì vụ lợi.
- Được coi là hành vi tham nhũng nếu có đủ cả ba yếu tố, nếu thiếu một trong
các yếu tố đó thì tuy không là tham nhũng, nhưng có thể là hành vi vi phạm pháp
luật.

Điều 1 khoản 3 về những đối tượng được coi là người có chức vụ, quyền hạn.

- Cán bộ, công chức, viên chức;


- Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn
vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, hạ sĩ quan chuyên môn –
kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân;
- Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo,
quản lý là người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp;
- Người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực
hiện nhiệm vụ, công vụ đó.”

* Tài sản có nguồn gốc từ hành vi tham nhũng:

- Có thể hiểu là tài sản mà người thực hiện hành vi tham nhũng trực tiếp có
được thông qua việc thực hiện hành vi tham nhũng hoặc gián tiếp ( nhà; xe;….).
- Minh bạch tài sản, thu nhập là kê khai tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ
kê khai và khi cần thiết được xác minh, kết luận. Minh bạch tài sản, thu nhập có mục
đích bảo đảm tính chất rõ ràng, rành mạch đối với tài sản, thu nhập của cán bộ, công
chức trước Nhà nước và khi xã hội đòi hỏi

* Luật Phòng, chống tham nhũng chủ yếu hướng vào việc phòng, chống tham
nhũng trong khu vực nhà nước cho nên những quy định của đạo lực này chủ yếu áp
dụng cho các cơ quan , tổ chức, đơn vị trong khu vực nhà nước.
KẾT LUẬN CHƯƠNG II

Qua đó cho thấy, tình trạng tham nhũng có thể xảy ra ở các cấp, từ xã đến tỉnh và
từ cán bộ chuyên môn đến lãnh đạo đơn vị. Phải nói rằng, tham nhũng không hề kiêng
dè hay buông tha cho bất cứ một cán bộ nào, nếu họ không kiềm chế được sự ham
muốn bản thân, lòng tham. Những cán bộ có phẩm chất đạo đức bị thoái hóa, thiếu
trách nhiệm trước công việc, lối sống không lành mạnh... đều có thể rơi vào đối tượng
tham nhũng. Chính vì thế, cái gốc dẫn đến phòng chống tham nhũng hiệu quả nhất chỉ
có thể là do “bản lĩnh, tư tưởng, nhận thức, đạo đức và lối sống” của mỗi cán bộ, công
chức.

Tham nhũng là hành vi gây ảnh hưởng nghiêm trọng dến sự phát triển bền vững
của đất nước, xâm phạm đến các hoạt động đúng đắn của các cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân làm cho kinh tế chậm phát triển,
thất thoát, lãng phí tài sản của nhân dân, thiệt hại ngân sách, gây rối loạn nền kinh tế,
gia tăng khoảng cách giàu nghèo, tình trạng nghèo đói ngày càng trầm trọng. Hơn
nữa, nó làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào đảng, vào nhà nước, làm cho chế độ
chính trị dần suy yếu từ bên trong, tạo điều kiện cho các thế lực thù địch tấn công, dẫn
đến sụp đổ nếu không kịp thời chấn chỉnh đồng thời nó còn là yếu tố kìm hãm, ngăn
cản sự phát triển kinh tế- chính trị của đất nước, đe doạ dến sự ổn định của đất nước vì
thế phòng, chống tham nhũng phải luôn được xem là nhiệm vụ trọng tâm, thường
xuyên, liên tục với quyết tâm chính trị cao độ của Đảng, sự đồng lòng của cá nhân
chính trị và sự ủng hộ nhân dân bằng nhiều cách thức khác nhau, vừa phòng, vừa
chống, lấy phòng ngừa là mục tiêu chính kết hợp nhiều biện pháp như chính sách, cơ
chế, pháp luật,…

Phòng chống tham nhũng là một lĩnh vực công tác luôn thu hút được sự quan tâm
đặc biệt của xã hội, thể hiện sự tin tưởng của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
Trong đó công tác phòng chống tham nhũng trên phạm vi cả nước đạt được những kết
quả khá tích cực, để lại dấu ấn tốt, lan tỏa mạnh mẽ trong đời sống xã hội như lời
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng khẳng định: "Công tác phòng chống tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực đã trở thành phong trào, xu thế, được nhân dân đồng tình,
đánh giá cao". Để công cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng hiệu quả, các cấp ủy,
tổ chức Đảng, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền địa phương của tỉnh cần tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, mạnh mẽ, đồng bộ với quyết tâm cao.

Phòng chống tham nhũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo
của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp, nhấn mạnh trách
nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị, đề cao vai trò của xã hội, các

tổ chức đoàn thể và quần chúng Nhân dân , phong chống tham nhũng là nhiệm vụ
quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài, xuyên suốt quá trình phát triển kinh tế - xã hội
và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới

Bước vào thế kỉ 21, Việt Nam đang đứng trước những thời cơ và vận hội mới.
Đảng và nhà nước ta tiếp tục lãnh đạo hân dân xây dựng một đất nước Việt Nam hoà
bình và giàu mạnh. Nhận thức được những hậu quả của tham nhũng gây ra chúng ta
cần phải có những biện pháp hữu hiệu nhằm đấu tranh phòng chống vấn nạn này, làm
sạch bộ máy chính quyền, lấy lại niềm tin trong nhân dân và một môi trường phát
triển lành mạnh cho kinh tế Việt Nam.

KẾT LUẬN CHUNG


Tham nhũng là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử, gắn liền với sự ra đời và tồn
tại của nhà nước. Nó hiện hữu ở tất cả quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị, giàu
nghèo, phát triển hay đang phát triển hoặc kém phát triển. Tham nhũng là hệ quả của
quyền ực bị lạm dụng, bị tha hóa. Tham nhũng nảy sinh, tồn tại và hoàn thành do sự
hư hỏng, biến chất không chỉ những người có chức quyền mà còn của cả những người
được giao thực hiện những công vụ bình thường đã là biến dạng quyền hạn và công vụ
được giao phó. Nói cách khác, quyền hạn hay công vụ trao cho họ đấng lý ra phải
được thực hiện vì lời ích chung của cả xã hội thì lại bị làm dụng và mục đích trục lợi
cho riêng cá nhân.

Tham nhũng
gây ra nhiều tác
hại ngiêm trọng
về kinh tế, chính
trị, văn hóa-xã
hội, làm mất lòng
tin của nhân dân
đối với đảng, nhà
nước, là một
nguy cơ lớn đe dọa sự tồn vong của chế độ ta. Chính vì thế, phòng chống tham nhũng
là nhiệm vụ của mọi quốc gia, mọi cấp, mọi ngành, mọi người dân.

Trong những năm gần đây, tình trạng tham nhũng ngày càng có nhiều biểu hiện
phức tạp. Lòng tin của nhân dân vào sự liêm khiết của cán bộ, công chức nhà nước
giảm sút. Qua hơn 10 năm triển khai thực hiện pháp luật về phòng chống tham nhũng,
công tác chống tham nhũng trên địa bàn tỉnh Gia Lai đã đạt được 1 số kết quả tích
cực, một số vụ việc đã được đưa ra truy tố và xét xử. Nhân dân đã có ý thức tham gia
cung cấp thông tin chống tham nhũng, các cơ quan phòng chống tham nhũng chuyên
trách đã được thành lập, các hoạt động CTN ngày càng được coi trọng.

Tuy nhiên so với việc ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tham nhũng thì Gia Lai còn
phải tiếp tục quyết tâm và quyết liệt hơn nữa trong đấu tranh phong chống tham
nhũng, Để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về phòng chống tham nhũng ở Gia
Lai trong những năm tới cần tăng cường các hoạt động PCTN theo hướng: đẩy mạnh
cải cách hành chính nhất là TTHC theo hướng công khai, minh bạch, dễ tiếp cận để
giảm thiểu cơ hội tham nhũng; nâng cao cai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức
đảng trong thực hiện công tác PCTN; tạo điều kiện thuận lợi cho công dân và các tổ
chức xã hội tham gia PCTN; chú trọng nội dung phòng chống tham nhũng trong công
tác quản lý công chức nhà nước; củng cố, kiện toàn các cơ quan chó chức năng phòng
chống tham nhũng; nâng cao chất lượng, hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử các vụ án
tham nhũng; ban hành và thực hiện tốt cơ chế, chính sách quản lý nhà nước trên các
lĩnh vực có nhiều cơ hội tham nhũng; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư pháp,
kiểm tra, thanh tra, kiểm toán; phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân chủ trong
PCTN.

Phòng chống tham nhũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo
của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp, nhấn mạnh trách
nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị, đề cao vai trò của xã hội, các
tổ chức đoàn thể và quần chúng Nhân dân , phong chống tham nhũng là nhiệm vụ
quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài, xuyên suốt quá trình phát triển kinh tế - xã hội
và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới

Phòng chống tham nhũng là một lĩnh vực công tác luôn thu hút được sự quan tâm
đặc biệt của xã hội, thể hiện sự tin tưởng của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
Trong đó công tác phòng chống tham nhũng trên phạm vi cả nước đạt được những kết
quả khá tích cực, để lại dấu ấn tốt, lan tỏa mạnh mẽ trong đời sống xã hội như lời
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng khẳng định: "Công tác phòng chống tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực đã trở thành phong trào, xu thế, được nhân dân đồng tình,
đánh giá cao". Để công cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng hiệu quả, các cấp ủy,
tổ chức Đảng, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền địa phương của tỉnh cần tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, mạnh mẽ, đồng bộ với quyết tâm cao.

CÁC VỤ ÁN THAM NHŨNG THỰC TẾ

1. “Tham ô tài sản” và “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế
gây hậu quả nghiêm trọng”- 2017
- Ông Đinh La Thăng, cựu chủ tịch Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) bị bắt từ
ngày 8/12/2017. Ông liên tiếp bị truy tố, xét xử trong bốn vụ án.
- Năm 2018, ông bị phạt 30 năm tù trong hai vụ án xảy ra tại PVN, PVC và
Ngân hàng Oceanbank với các tội Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý
kinh tế gây hậu nghiêm trọng.
- Cuối năm 2020, ông tiếp tục bị TAND TP HCM phạt thêm 10 năm tù trong vụ
án thứ ba, liên quan sai phạm bán quyền thu phí cao tốc Trung Lương.
- Tháng 3/2021, ông Thăng bị phạt thêm 11 năm tù với cáo buộc chỉ định thầu
trái quy định trong dự án Ethanol Phú Thọ. Tổng cộng bốn bản án, cựu chủ tịch PVN
phải chấp hành hình phạt chung 30 năm tù. Ông Thăng phải bồi thường dân sự 600 tỷ
đồng trong hai vụ án bị tuyên năm 2018; 200 tỷ đồng trong vụ án Ethanol Phú Thọ.
( trích VTCnews)
2. Gian lận điểm thi THPT quốc gia 2018 tại Hòa Bình.-2018
- 15 bị cáo gồm: Nguyễn Quang Vinh: 8 năm tù, nguyên Trưởng phòng Khảo thí
Sở Giáo dục và Đào tạo (GD và ĐT) tỉnh Hòa Bình; Đỗ Mạnh Tuấn: 10 năm tù, trong
đó, bảy năm tù về tội nhận hối lộ và ba năm tù về tội lợi dụng chức vụ quyền hạn
trong khi thi hành công vụ nguyên Phó Hiệu trưởng Trường PTDT nội trú THCS và
THPT huyện Lạc Thủy; Khương Ngọc Chất: sáu năm tù nguyên Trưởng phòng, Bí
thư Chi bộ Phòng An ninh chính trị nội bộ, Công an tỉnh Hòa Bình; Nguyễn Khắc
Tuấn: 5 năm tù (sinh 1981, thường trí phường Tân Thịnh, TP Hòa Bình, nguyên
Chuyên viên Phòng Khảo thí
Sở GD và ĐT tỉnh Hòa Bình;
Diệp Thị Hồng Liên: ba năm tù
(sinh năm 1974) thường trú
phường Phương Lâm, TP Hòa
Bình, nguyên Phó Trưởng
phòng Khảo thí Sở GD và ĐT;
Nguyễn Thị Thu Loan: hai năm
tù (sinh năm 1979), thường trú
phường Hữu Nghị, TP Hòa
Bình, nguyên giáo viên Trường THPT Lạc Long Quân, TP Hòa Bình; Nguyễn Thị
Hồng Chung: 21 tháng tù (sinh năm 1980), thường trú phường Thái Bình, TP Hòa
Bình, nguyên Giáo viên Trường THPT Ngô Quyền,
- Các bị cáo tuyên án về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công
vụ” theo Điều 356 Bộ luật Hình sự năm 2015 gồm: Nguyễn Quang Vinh, Diệp Thị
Hồng Liên, Nguyễn Khắc Tuấn, Khương Ngọc Chất, Nguyễn Thị Thu Loan, Nguyễn
Thị Hồng Chung, Bùi Thanh Trà, Lê Thị Hồng, Đào Ngọc Thuật, Nguyễn Đức
Hoàng, Nguyễn Tân Hưng, Quách Thanh Phúc và Phùng Văn Thụ. Riêng Đỗ Mạnh
Tuấn bị tuyên án về hai tội: "Nhận hối lộ" và “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi
thi hành công vụ”, theo điều 354 và 356 Bộ luật Hình sự năm 2015; Hồ Chúc bị tuyên
án về tội “Đưa hối lộ” theo Điều 364 Bộ luật Hình sự năm 2015.

(trích báo nhân dân.VN)

3. Nguyên giám đốc CDC Hà Nội lĩnh án vì nâng khống giá máy xét nghiệm
Covid-19- 2020

Bị cáo Nguyễn Nhật


Cảm trong phiên tòa
ngày 12/12/2020
Hệ thống máy xét
nghiệm Realtime PCR phòng chống Covid-19 khi nhập về Việt Nam giá khoảng hơn
2 tỉ đồng. Tuy nhiên, các doanh nghiệp nhập khẩu, phân phối mua bán lòng vòng với
nhau và CDC Hà Nội đã mua với giá hơn 7 tỉ đồng, gấp 3 lần giá nhập.

Ngày 12-12, sau 3 ngày xét xử và nghị án, TAND TP Hà Nội đã tuyên án bị cáo
Nguyễn Nhật Cảm (nguyên giám đốc CDC Hà Nội) 10 năm tù cùng 9 bị cáo khác từ
36 tháng tù treo đến 6 năm tù vì liên quan đến vụ án nâng khống giá máy xét nghiệm
Covid-19.
(trích báo nhân dân.VN)

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Văn bản vi phạm pháp luật


1. Luật phòng chống tham nhũng 2005
2. Luật phòng chống tham nhũng 2018
3. Pháp lệnh số 03/1998/PL-UBTVQH10 – pháp lệnh chống tham nhũng
4. Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 12 tháng 5 năm 2009 của Chính phủ
5. Công ước Liên Hợp Quốc phòng chống tham nhũng thông qua ngày 31
tháng 10 năm 2003
6. Đánh giá của Văn phòng Liên hợp quốc về ma túy và tội phạm (UNODC)
và Ngân hàng thế giới (WB)
II. Tài liệu tham khảo
7. Giáo trình Pháp luật đại cương của trường đại học công nghiệp TPHCM
8. Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi 2017 ( BLHS )
9. https://nhandan.vn/tuyen-an-15-bi-cao-trong-vu-gian-lan-thi-cu-o-hoa-binh-
post458877.html
10. https://nhandan.vn/tuyen-an-15-bi-cao-trong-vu-gian-lan-thi-cu-o-hoa-binh-
post458877.html
11. https://nld.com.vn/phap-luat/nhung-dai-an-duoc-xet-xu-nam-2020-
20210214094544222.htm

You might also like