Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 5

Chủ Đề: Nhân Cách

NHÓM 5

TÊN MSSV NHIỆM VỤ HOÀN THÀNH

Nguyễn Đăng
231A100279 Thuyết trình 100%
Khoa

Nguyễn Thị Hoài 100%


231A100160 Soạn nội dung
Thương

100%
Phan Văn Tiến 231A100201 Soạn powerpoint

Soạn nội dung 100%


Đỗ Thành Phong 231A100166

Soạn nội dung 100%


Nguyễn Đức Thọ 231A100208

Nhân cách

1. Khái niệm về Nhân cách và các yếu tố ảnh hưởng tới Nhân cách

1.1 Một số khái niệm về nhân cách

- Nhân cách là tổng hợp các đặc điểm phẩm chất, hành vi, ý thức và cảm xúc của một người trong thời gian dài và
trong nhiều tình huống khác nhau.

- Được hình thành từ yếu tố di truyên, môi trường và các trải nghiệm cá nhân. Bao gồm các yếu tố như tính cách,
hành vi, tư duy, cảm xúc, giá trị và niềm tin. Nó không chỉ là cách một người hành xử và phản ứng trong các tình
huống khác nhau, mà còn bao gồm cả các đặc điểm ẩn và xuất phát từ tiềm thức.

- Nhân cách là tổng thể các đặc điểm cá nhân độc đáo của một người, bao gồm cả cách hành xử, tư duy, cảm xúc và
giá trị. Nó được hình thành bởi di truyền, môi trường và kinh nghiệm sống.

1.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến nhân cách có thể bao gồm:
- Di truyền: Những đặc điểm gen di truyền từ cha mẹ có thể ảnh hưởng đến nhân cách của một người.

- Môi trường: Môi trường xã hội, gia đình, bạn bè và nền văn hóa đều có thể tác động đến sự phát triển và hình
thành nhân cách.

- Sự trải nghiệm cá nhân: Các trải nghiệm cuộc sống, cả tích cực và tiêu cực, đều có thể tạo ra ảnh hưởng lớn đến
nhân cách của một người.

- Giáo dục: Hình thức và chất lượng giáo dục mà một người nhận được cũng có thể có vai trò quan trọng trong việc
định hình nhân cách.

- Sự tự chủ và tự quyết định: Khả năng tự quản lý, tự điều khiển và ra quyết định của bản thân cũng ảnh hưởng đến
việc hình thành và phát triển nhân cách.

- Sự kiện lớn trong cuộc đời: Các sự kiện quan trọng như mất mát, thành công, thất bại, kết hôn, ly hôn, có con,
v.v., có thể gây ra các thay đổi đáng kể trong nhân cách

2. Các thuộc tính của nhân cách và phát triển của nhân cách.

2.1 Thuộc tính của nhân cách

- Tính thống nhất của nhân cách : Nhân cách là một cấu trúc tâm lý, tức là một chỉnh thể thống nhất các thuộc tính,
đặc điểm tâm lý xã hội, thống nhất giữa phẩm chấy và năng lực, giữa đức và tài. Các phần tử tạo nên nhân cách liên
hệ hữu cơ với nhau làm cho nhân cách mang tính trọn vẹn. Tính thống nhất của nhân cách còn thể hiện ở sự thống
nhất giữa ba cấp độ : cấp độ bên trong cá nhân, cấp độ liên cá nhân và cấp độ siêu cá nhân. Đó chính là sự thống
nhất giữa tâm lý, ý thức với hoạt động, giao tiếp của nhân cách.

- Tính ổn định của nhân cách – Những thuộc tính tâm lý là những hiện tượng tâm lý tương đối ổn định và bền
vững. Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý tạo thành bộ mặt tâm lý xã hội của cá nhân, phần nào nói lên
bản chất xã hội của cá nhân đó. Vì thế, các đặc điểm nhân cách cũng như cấu trúc nhân cách khó hình thành và
cũng khó mất đi. –

- Tính tích cực của nhân cách: Tính tích cực của nhân cách được biểu hiện trước hết ở việc xác định một cách tự
giác mục đích hoạt động, tiếp đó là sự chủ động, tự giác thực hiện các hoạt động, giao tiếp nhằm hiện thực hóa mục
đích. Ở đây, nhân cách bộc lộ khả năng tự điều chỉnh và chịu sự điều chỉnh của xã hội. Đây cũng là biểu hiện của
tính tích cực của nhân cách. Tùy theo mức độ và loại hình hoạt động mà mục đích của nó được nhân cách xác định
là nhận thức hay cải tạo thế giới, nhận thức hay cải tạo chính bản thân mình. Tính tích cực của nhân cách cũng
biểu hiện rõ trong quá trình thỏa mãn các nhu cầu của nó. Không chỉ thỏa mãn với các đối tượng sẵn có, con người
luôn luôn sáng tạo ra các đối tượng mới, các phương thức thỏa mãn những nhu cầu ngày càng cao của con người.
Quá trình đó luôn là quá trình hoạt động có mục đích, tự giác, trong đó con người làm chủ được những hình thức
hoạt động của mình.

- Tính giao lưu của nhân cách Nhân cách chỉ có thể hình thành, phát triển, tồn tại và thể hiện trong hoạt động và
trong mối quan hệ giao lưu với những cá nhân khác. Nhu cầu giao tiếp, giao lưu được xem như là một nhu cầu
bẩm sinh của con người. Thông qua quan hệ giao tiếp với người khác, con người gia nhập các quan hệ xã hội, lĩnh
hội các chuẩn mực đạo đức và hệ thống giá trị xã hội. Đồng thời cũng thông qua giao tiếp mà con người được đánh
giá, được nhìn nhận theo quan hệ xã hội.

- Tính độc nhất vô nhị của nhân cách : Cá tính tâm lý của mỗi người, của mỗi cá nhân là độc nhất vô nhị về những
hành vi của mỗi người của mỗi cá nhân cũng khác nhau không chỉ về cách thực hiện hành vi và cả về động cơ bằng
mục đích của hành vi. Do đó, nhân cách của mỗi người, mỗi cá nhân với tư cách là tổ hợp các đặc điểm tâm lý và
được biểu lộ qua các hành vi ứng xử cũng là nhân cách độc nhất vô nhị.

2.2 Sự phát triển của nhân cách

- Sự phát triển của nhân cách Nhân cách không chỉ được hình thành mà còn phát triển. Sự phát triển của nhân cách
không chỉ là phát triển những gì đã được hình thành (tức là những thuộc tính tâm lý đã có) mà còn là hình thành
những thuộc tính tâm lý mới (trước đó chưa có).

- Một sự phát triển như vậy sẽ dẫn tới một nhân cách có chất lượng cao hơn và phong phú hơn trước, đáp ứng được
những yêu cầu cao hơn của một xã hội đã phát triển cao hơn, nhất là khi xã hội đó đang được đổi mới. Đây là mối
quan hệ qua lại giữa sự phát triển, đổi mới của nhân cách và sự phát triển, đổi mới của xã hội. Sự phát triển của
nhân cách diễn ra một vài các giai đoạn tuổi tác về qua các vai trò, vị trí xã hội mà cá nhân đảm nhiệm trong từng
giai đoạn đó.

- Sự phát triển nhân cách trong tâm lý học là quá trình biến đổi và tiến triển về cảm xúc, ý thức, và hành vi của một
cá nhân qua thời gian. Nó bao gồm các giai đoạn phát triển từ tuổi thơ đến tuổi trưởng thành, và có thể bị ảnh
hưởng bởi nhiều yếu tố như môi trường gia đình, xã hội, và những trải nghiệm cá nhân. Các lý thuyết phát triển
nhân cách trong tâm lý học như lý thuyết của Sigmund Freud, Erik Erikson và Card Jung đã đóng vai trò quan trọng
trong việc hiểu về sự phát triển của con người về nhân cách.

3. Lý thuyết về nhân cách qua các học thuyết tâm lý

3.1 Học thuyết của Sigmund Freud

Theo học thuyết của Sigmund Freud về nhân cách của con người được chia thành 3 bộ phận chính:

- Id: Đây là phần của tâm trí tồn tại trong tình trạng vô thức và là nguồn gốc của các tri giác nguyên thuỷ và khao
khát. Id hoạt động dựa trên nguyên tắc của thỏa mãn ngay lập tức và không quan tâm đến những hậu quả. Nó là
nơi mà các tri giác bất hợp lý như ham muốn tình dục, thèm ăn, và cần được thỏa mãn.

- Ego: là phần của tâm trí có khả năng lựa chọn và kiểm soát hành vi. Nó hoạt động dựa trên nguyên tắc của hiệu
quả và thực tế, cố gắng làm thỏa mãn những khao khát của id một cách an toàn và hiệu quả trong xã hội. Ego cân
nhắc giữa các tri giác không phù hợp của id và các giới hạn đạo đức của superego.

- Superego: Superego đại diện cho bản ngã lý tưởng và chuẩn mực xã hội. Nó bao gồm các giới hạn, lý tưởng và
nguyên tắc đạo đức mà con người hấp thụ từ xã hội, gia đình và nền văn hóa. Superego đóng vai trò quan trọng
trong việc kiểm soát hành vi bằng cách áp đặt các giới hạn và chuẩn mực.

=> Các bộ phận này tương tác với nhau và thường xuyên đấu tranh để đạt được sự cân bằng. Sự mất cân bằng giữa
các bộ phận này có thể dẫn đến sự xung đột trong tâm trí và gây ra các vấn đề như lo âu, bất ổn tâm lý và hành vi
không phù hợp.

3.2 Học thuyết của Card Jung

Học thuyết của Carl Jung về nhân cách tập trung vào các khái niệm về cấu trúc và hành vi của tâm trí, trong đó nổi
bật là các khái niệm về ý thức cá nhân và vô thức cùng với quá trình phát triển của nhân cách.

- Ý thức cá nhân (consciousness): Theo Jung, ý thức cá nhân là một phần của tâm trí mà chúng ta có thể nhận
thức và nhận biết một cách rõ ràng. Nó bao gồm những ý tưởng, suy nghĩ, và kinh nghiệm mà chúng ta có thể truy
cập dễ dàng.

- Vô thức (unconscious): Jung phát triển ý tưởng về vô thức là một phần không thể tiếp cận của tâm trí chứa những
nội dung không nhận thức, bao gồm những cảm xúc, ký ức, và tri giác mà chúng ta không thể nhớ hoặc không
nhận ra một cách hoàn toàn.

- Cấu trúc nhân cách (ego, personal unconscious, collective unconscious):

+ Ego: Tương tự như lý thuyết của Freud, ego là phần của nhân cách mà chúng ta nhận thức và xác định bản thân
của mình. Nó là trung tâm của ý thức cá nhân.

+ Personal unconscious: Đây là một phần của tâm trí chứa những ký ức và cảm xúc mà chúng ta không thể nhớ
hoặc không nhận ra một cách hoàn toàn. Nó được hình thành từ trải nghiệm cá nhân của mỗi người.
+ Collective unconscious: Ông đặt ra khái niệm về tiềm thức chung mà chứa các mô tả về ký ức và tri giác mà chúng
ta kế thừa từ loài người. Trong đó, archetypes (mẫu hình) đóng vai trò quan trọng, là các hình mẫu cơ bản của trải
nghiệm con người như "mẹ," "cha," "anh hùng," và "thánh hiến."

=> Học thuyết về nhân cách của Carl Jung cung cấp một cái nhìn phong phú và đa chiều về tâm trí và nhân cách,
bao gồm cả khía cạnh cá nhân và cộng đồng.

3.3 Học thuyết của Erik Erikson

Học thuyết của Erik Erikson về nhân cách tập trung vào các giai đoạn phát triển tâm lý qua cuộc đời của con người.
Ông đề xuất rằng mỗi giai đoạn này đặt ra một thách thức duy trì sự cân bằng giữa hai khía cạnh đối lập, và việc
hoàn thành mỗi giai đoạn mang lại sự phát triển tích cực của nhân cách. Dưới đây là tóm tắt các giai đoạn phát triển
theo lý thuyết của Erikson:

Giai đoạn 1: Trust vs. Mistrust (Tin tưởng vs. Hoài nghi): Trong giai đoạn này (từ sinh đến 1 tuổi), trẻ em phải học
cảm thấy an toàn và tin tưởng vào sự chăm sóc của người khác. Nếu không, họ có thể phát triển tính cách hoài nghi
và không tin tưởng vào thế giới.

Giai đoạn 2: Autonomy vs. Shame and Doubt (Tự lập vs. Xấu hổ và Nghi ngờ): Trong giai đoạn này (từ 1 đến 3 tuổi),
trẻ em phải học cách tự lập và kiểm soát bản thân mình. Nếu không, họ có thể phát triển cảm giác xấu hổ và nghi
ngờ vào khả năng của bản thân.

Giai đoạn 3: Initiative vs. Guilt (Sáng tạo vs. Tội lỗi): Trong giai đoạn này (từ 3 đến 6 tuổi), trẻ em phải học cách đề
xuất và thực hiện các kế hoạch và hoạt động. Nếu không, họ có thể phát triển cảm giác tội lỗi và tự trách bản thân về
việc thể hiện sáng tạo.

Giai đoạn 4: Industry vs. Inferiority (Sự nghiệp vs. Sự tự ti): Trong giai đoạn này (từ 6 đến 12 tuổi), trẻ em phải học
cách phát triển kỹ năng và kiến thức. Nếu không, họ có thể phát triển cảm giác tự ti và thiếu tự tin trong việc đối
mặt với thách thức.

Giai đoạn 5: Identity vs. Role Confusion (Bản thân vs. Nhầm lẫn về vai trò): Trong giai đoạn này (từ 12 đến 18 tuổi),
thanh thiếu niên phải tìm kiếm và xác định bản thân và vai trò của mình trong xã hội. Nếu không, họ có thể trải
qua sự nhầm lẫn và không rõ ràng về bản thân.

Giai đoạn 6: Intimacy vs. Isolation (Gắn kết vs. Cô đơn): Trong giai đoạn này (từ 18 đến 40 tuổi), người trưởng thành
phải học cách xây dựng mối quan hệ và gắn kết với người khác. Nếu không, họ có thể cảm thấy cô đơn và cách biệt
với xã hội.

Giai đoạn 7: Generativity vs. Stagnation (Tích cực vs. Tình trạng đình đạc): Trong giai đoạn này (từ 40 đến 65 tuổi),
người trưởng thành phải cảm thấy có ý nghĩa và đóng góp cho xã hội. Nếu không, họ có thể rơi vào tình trạng đình
đạc và cảm thấy không thú vị trong cuộc sống.

Giai đoạn 8: Integrity vs. Despair (Toàn vẹn vs. Tuyệt vọng): Trong giai đoạn này (từ 65 tuổi trở đi), người lớn tuổi
phải đối mặt với sự đánh giá lại cuộc đời và chấp nhận sự đối mặt với cái chết. Nếu họ có thể chấp nhận cuộc sống
của mình một cách toàn vẹn, họ sẽ có cảm giác hài lòng và không hối tiếc; nếu không, họ có thể trải qua cảm giác
tuyệt vọng và hối tiếc về những điều họ đã không thực hiện được.

* Tài liệu tham khảo - Sách: Tâm lí học đại cương - Tạp chí khoa học Việt Nam - Luận Văn : Những Vấn Đề của Tâm
Lí Học Nhân Cách của PGS- TS Lê Quang Sơn, trường Đại Học Sư Phạm Đà Nẵng - Nhân Cách và sự Hình Thành
Nhân Cách của trường Tiểu Học Tô Hiệu

Sự phát triển của nhân cách Nhân cách không chỉ được hình thành mà còn phát triển. Sự phát triển của nhân cách
không chỉ là phát triển những gì đã được hình thành (tức là những thuộc tính tâm lý đã có) mà còn là hình thành
những thuộc tính tâm lý mới (trước đó chưa có). Một sự phát triển như vậy sẽ dẫn tới một nhân cách có chất lượng
cao hơn và phong phú hơn trước, đáp ứng được những yêu cầu cao hơn của một xã hội đã phát triển cao hơn, nhất
là khi xã hội đó đang được đổi mới. Đây là mối quan hệ qua lại giữa sự phát triển, đổi mới của nhân cách và sự phát
triển, đổi mới của xã hội. Sự phát triển của nhân cách diễn ra một vài các giai đoạn tuổi tác về qua các vai trò, vị trí
xã hội mà cá nhân đảm nhiệm trong từng giai đoạn đó.

Sự phát triển nhân cách trong tâm lý học là quá trình biến đổi và tiến triển về cảm xúc, ý thức, và hành vi của một
cá nhân qua thời gian. Nó bao gồm các giai đoạn phát triển từ tuổi thơ đến tuổi trưởng thành, và có thể bị ảnh
hưởng bởi nhiều yếu tố như môi trường gia đình, xã hội, và những trải nghiệm cá nhân. Các lý thuyết phát triển
nhân cách trong tâm lý học như lý thuyết của Sigmund Freud, Erik Erikson và Jean Piaget đã đóng vai trò quan
trọng trong việc hiểu về sự phát triển của con người.

You might also like