Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 44

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRƯỜNG SƯ PHẠM
------

TIỂU LUẬN GIỮA KÌ


HỌC PHẦN
TIẾP CẬN VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI TỪ HỆ THỐNG THỂ LOẠI

ĐỀ TÀI
QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TRƯỜNG CA VIỆT NAM
(QUA CÁC TÁC PHẨM BÀI CA CHIM CHƠ RAO CỦA THU BỒN,
MẶT ĐƯỜNG KHÁT VỌNG CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM,
NHỊP ĐIỆU CHÂU THỔ MỚI CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU)
Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 01
Giảng viên hướng dẫn: Ngô Thị Quỳnh Nga

Vinh, T4/2024

0
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề...........................................................................................................1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...........................................................................4
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................4
6. Đóng góp mới của đề tài...........................................................................................4
7. Cấu trúc tiểu luận.....................................................................................................5
CHƯƠNG 1...................................................................................................................6
QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG CỦA TRƯỜNG CA VIỆT NAM..................................6
1.1. Khái quát về trường ca Việt Nam..................................................................6
1.1.1. Khái niệm về trường ca...........................................................................6
1.1.2. Tầm ảnh hưởng của trường ca đến văn học Việt Nam.........................6
1.2. Thời kì vận động và phát triển của trường ca Việt Nam.............................7
1.2.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1965....................................................................7
1.2.2. Giai đoạn từ 1965 đến 2000....................................................................7
1.2.3. Giai đoạn từ 2000 đến nay......................................................................8
Tiểu kết chương 1...................................................................................................9
CHƯƠNG 2.................................................................................................................11
ĐẶC ĐIỂM CỦA TRƯỜNG CA VIỆT NAM (QUA CÁC TÁC PHẨM BÀI CA
CHIM CHƠ RAO CỦA THU BỒN, MẶT ĐƯỜNG KHÁT VỌNG CỦA NGUYỄN
KHOA ĐIỀM, NHỊP ĐIỆU CHÂU THỔ MỚI CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU)
......................................................................................................................................11
2.1. Đặc sắc về nội dung của trường ca Việt Nam.............................................11
2.1.1. Đặc sắc về nội dung của Bài ca chim Chơ rao của Thu Bồn.............11
2.1.1.1. Chiến tranh và người lính............................................................11
2.1.1.2. Tình yêu quê hương đất nước và tình yêu đôi lứa của người chiến
sĩ cách mạng..............................................................................................15
2.1.2. Đặc sắc về nội dung của Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa
Điềm.................................................................................................................18
2.1.2.1. Cái tôi trữ tình – cái tôi thế hệ.....................................................18
2.1.2.2. Suy tư về người dân anh hùng......................................................20
2.1.2.3. Suy tư về đất nước của nhân dân.................................................22
2.1.3. Đặc sắc về nội dung của Nhịp điệu châu thổ mới của Nguyễn Quang
Thiều................................................................................................................26
2.1.3.1. Hành trình vươn lên, đứng dậy từ quá khứ..................................27
2.1.3.2. Niềm tin vào tương lai..................................................................28
2.2. Đặc sắc về hình thức nghệ thuật của trường ca Việt Nam........................30
2.2.1. Cấu trúc.................................................................................................30
2.2.2. Ngôn ngữ trường ca..............................................................................33
2.2.3. Giọng điệu trường ca............................................................................35
Tiểu kết chương 2.................................................................................................37
KẾT LUẬN..................................................................................................................38
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................39

0
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trường ca là gì? Đặc điểm của trường ca nên được nhìn nhận trên những phương
diện nào? Cho đến nay, các câu hỏi ấy, các khái niệm liên quan đến thuật ngữ trường
ca vẫn chưa có sự thống nhất; tuy nhiên, chúng ta có thể nhận biết thể loại trường ca
qua một số đặc điểm như dung lượng dài, có tính nhạc, chất trữ tình, có cả nhân vật và
cốt truyện…. Đặc biệt khuynh hướng sử thi và tính trữ tình suy tưởng chính là đặc
điểm chủ đạo, rõ nét nhất của thể loại này. Chúng ta không thể phủ nhận vị trí, vai trò
và những đóng góp của trường ca đối với nền văn học Việt Nam. Bằng chứng là
những sáng tác kinh điển với những cái tên tiêu biểu như Thu Bồn, Thanh Thảo,
Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Quang Thiều…

1.2. Trường ca có những nét tương đồng với truyện thơ, sử thi hay thơ dài nhưng thể
loại này vẫn để lại những dấu ấn riêng có sức ảnh hưởng sâu rộng tới nền văn học Việt
Nam. Trường ca vốn là thể loại kén người đọc bởi dung lượng dài nhưng những sáng
tác trường ca vẫn liên tục được xuất bản. Sự phát triển của trường ca có nhiều sự thay
đổi từ những sáng tác mang nặng tính sử thi của anh hùng ca đến những sáng tác thiên
về tính trữ tình, mang đậm dấu ấn cá nhân và cuối cùng hình thành khuynh hướng
chung tồn tại song song. Bên cạnh những cái tên “chung tình” với trường ca từ trước
như Thanh Thảo, Nguyễn Đức Mậu còn có những cái tên mới như Thu Bồn, Nguyễn
Khoa Điềm, Nguyễn Quang Thiều…. Có thể nói trường ca với những đặc điểm thể
loại nổi bật dễ truyền tải thông điệp tới người đọc nên được nhiều tác giả lựa chọn
sáng tác và góp phần không nhỏ vào kho tàng văn học Việt Nam.

1.3. Trường ca đang ngày càng phát triển mạnh mẽ với hai xu hướng, vừa tiếp tục đào
sâu những mảnh đất cũ và vừa khai phá những mảnh đất mới. Sự phát triển, đổi mới
nào cũng cần có sự cách tân và trường ca cũng có những sự đổi mới về nội dung, cấu
trúc, giọng điệu, ngôn ngữ,…. Việc phân tích, tìm hiểu các tác phẩm Bài ca chim Chơ
rao của Thu Bồn, Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, Nhịp điệu châu thổ
mới của Nguyễn Quang Thiều là để tìm hiểu cụ thể hơn về quá trình vận động và đặc
điểm của trường ca Việt Nam.
Chính bởi những lý do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn và thực hiện đề tài
“Quá trình vận động và đặc điểm của trường ca Việt Nam (qua các tác phẩm Bài ca
chim Chơ rao của Thu Bồn, Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, Nhịp điệu
châu thổ mới của Nguyễn Quang Thiều)”.
2. Lịch sử vấn đề

1
Song song tồn tại với quá trình sáng tác, văn học Việt Nam cũng đã xuất hiện
hàng loạt các công trình nghiên cứu cùng nhiều nguồn tài liệu khác nhau đề cập đến
trường ca Việt Nam.
Trong luận án Tiến sĩ văn học “Đặc điểm trường ca Thu Bồn, Nguyễn Khoa
Điềm, Thanh Thảo”, tác giả Mai Bá Ấn đã xem xét từ đặc trưng thể loại trường ca để
có cái nhìn khái quát về tiến trình vận động, phát triển và thành tựu của trường ca
rằng: “[...] trường ca hiện đại có mối liên hệ với sử thi, anh hùng ca cổ trung đại. Tuy
nhiên, ra đời trong hoàn cảnh lịch sử – xã hội có nhiều biến động với một hằng số tâm
lý – thi ca khác, nên trường ca hiện đại Việt Nam tích hợp được nhiều kiểu cấu trúc
mới mẻ, có phá và thay để tạo nên những chỉnh thể nghệ thuật mới, phù hợp với cuộc
sống lớn và tình cảm lớn của nhân dân; đồng thời phù hợp với nhu cầu tự thân của thể
loại” [2, tr.189].
Theo tác giả Diêu Lan Phương trong luận án Tiến sĩ Thể loại trường ca trong
văn học hiện đại Việt Nam đã đề cập đến sự ra đời và “lên ngôi” của trường ca như là
“một hiện tượng thâm nhập, giao thoa sâu sắc giữa các thể loại. Nó mang tính chất là
một thể loại tổng hợp giữa tự sự và trữ tình, là một biểu hiện mang tính thời đại nhất,
riêng biệt nhất [...]. Sự phát triển của trường ca trước hết là kết quả của quá trình mở
rộng chức năng xã hội – thẩm mỹ của các yếu tố tự sự” [12, tr.8–9]
Khi nhắc đến nhà thơ Thu Bồn với tuyển tập các tác phẩm trường ca của ông,
Trung Trung Đỉnh trong Nhà thơ Thu Bồn – tráng sĩ hề... dâu bể đã từng nhận định
rằng: “Đối với Thu Bồn, ông viết như một nhu cầu sống. Trường ca hay thơ trữ tình,
tiểu thuyết hay truyện ngắn, tất cả đều do nhu cầu của đời sống, chính vì thế cảm xúc
thơ ông lúc nào cũng tươi, cũng mới” [4, tr.536]. Hay Ngô Thế Oanh đã hồi tưởng lại
những “ấn tượng mạnh mẽ và cảm động đến sửng sốt” và “sự mở đầu cho một giai
đoạn phát triển có tính chất quyết định” mà Bài ca chim Chơ rao của Thu Bồn mang
đến trong Thu Bồn - như dòng sông cuộn xiết [10, tr.731].
Còn với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng như trường ca của ông cũng chỉ mới
được nghiên cứu trên một số phương diện, chưa mang tính hệ thống. Khi nhắc đến các
tác phẩm thơ ca của nhà thơ này, Nguyễn Quang Thiều (chủ biên), Nguyễn Quyến,
Trần Thanh Hà trong Tác giả nói về tác phẩm đã từng khẳng định: “Thơ ca Nguyễn
Khoa Điềm chứa đựng nhiều chất liệu văn học và văn hóa dân gian. Câu thơ dù ở thể
thơ truyền thống hay thơ tự do bao giờ cũng phảng phất phong vị của ca dao tục ngữ
[...]” [17, tr.255]. Khi đánh giá về trường ca Mặt đường khát vọng, đặc biệt là trong
chương 5 – Đất nước, Lại Nguyên Ân trong Văn học và phê bình cũng đã nhận định:
“Không phải ngẫu nhiên mà những gì gọi là đặc sắc nhất của Mặt đường khát vọng lại
tụ vào một chương mang tiêu đề Đất nước. Bao nhiêu “định nghĩa” được đặt ra [...] Từ

2
muôn vàn dấu hiệu tưởng như không bao giờ kể hết, tưởng kể mấy cũng không đủ.
Chính cảm giác về cái nhiều tưởng như vô tận trong những cách hình dung về đất
nước là nguồn cảm hứng trữ tình chính luận của Nguyễn Khoa Điềm trong Mặt đường
khát vọng” [1, tr.79].
Ngoài các tác giả Thu Bồn, Thanh Thảo hay Nguyễn Khoa Điềm, khi nhắc đến
trường ca, chúng ta không thể không nhắc đến nhà thơ Nguyễn Quang Thiều với
những bản trường ca hết sức nổi trội thời hậu hiện đại. Như Diêu Lan Phương trong
luận án tiến sĩ Thể loại trường ca trong văn học hiện đại Việt Nam đã từng đánh giá
Nguyễn Quang Thiều “là một trong vài nhà thơ đương đại xuất sắc nhất. Thơ anh thể
hiện một nội lực dồi dào và đầy ám ảnh. Trong rất nhiều những thể nghiệm cách tân
thì những cách tân của anh, có lẽ có hiệu quả và dễ đến được với độc giả nhất” [12, tr.
89]. Hay trong tọa đàm khoa học Nguyễn Quang Thiều trong sự đổi mới thơ Việt Nam
đương đại do Viện Văn học tổ chức, Đỗ Quyên đã nhấn mạnh trường ca Nguyễn
Quang Thiều là một trong những trường ca “đã mở rộng khuynh hướng trường ca ra
ngoài cảm hứng và giọng điệu hùng ca của trường ca cách mạng và chiến tranh, bằng
sự ca tụng cái Chân – Thiện – Mỹ của con người, bằng sự xác quyết cái tồn tại của
quê hương và dân tộc mà không thông qua các sự kiện xã hội, các đề tài nóng bỏng.
Đây chính là vật bảo đảm cho sáng tác trường ca trong bất kỳ nội dung và hình thức
nào” [6, tr.6].
Những ý kiến trong các bài luận văn, luận án ấy đã phần nào nêu lên được quá
trình vận động và đặc điểm của trường ca Việt Nam cũng như gợi mở nhiều chiều suy
tư, khuyến khích chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu đề tài này.
Bên cạnh những đề tài nghiên cứu chuyên sâu còn có sự xuất hiện của những
bài báo, bài viết viết về quá trình vận động và đặc điểm trường ca Việt Nam như trong
Dấu hỏi của trường ca trong văn học Việt đăng trên Báo Văn nghệ của tác giả Hoài
Nam đã nhận định về “sợi chỉ đỏ xuyên suốt” các trường ca “có thể nói ngắn gọn là nỗ
lực nhận thức về diện mạo và tầm vóc vĩ đại của Tổ quốc, tinh thần quật cường cùng
những hy sinh to lớn của nhân dân, mối liên hệ bền chặt, thiêng liêng giữa hiện tại và
quá khứ của đất nước Việt Nam. Tất cả, từ điểm nhìn của nhân vật trữ tình trong các
tác phẩm trường ca, đều được đặt vào tọa độ của “những chấn động lịch sử lớn”, mà ở
đây, chủ yếu là 2 cuộc kháng chiến kéo dài ba mươi năm” [8].
Phải tìm hiểu chuyên sâu đến mức nào mà Trần Anh Thái trong Trường ca Việt
Nam – một hành trình biến đổi đăng trên Báo Biên phòng có thể đưa ra nhận định sâu
sắc về lịch sử trường ca rằng: “Lịch sử trường ca được biết đến bởi những hứng khởi
và đầy đam mê trên dòng sông sáng tạo của văn học. Dòng sông ấy chảy mãi về phía
vô cùng vô tận do chính những nghệ sĩ tài danh sáng tạo ra. Có lẽ tất cả chúng ta đều

3
thừa nhận rằng, khi văn học nói được những điều thẳm sâu nhất của con người, thì
mặc nhiên nó trở thành sản phẩm của mọi người, mọi thời” [15].
Các bài viết, các công trình nghiên cứu, các bài báo nói trên chính là những lời
gợi mở quan trọng giúp chúng tôi kế thừa và phát triển để hoàn thành đề tài của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận là: quá trình vận động và đặc điểm của
trường ca Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài khảo sát các tác phẩm Bài ca chim Chơ rao của Thu Bồn, Mặt đường
khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm và Nhịp điệu châu thổ mới của Nguyễn Quang
Thiều.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Nhận diện được quá trình vận động và các đặc điểm của trường ca Việt Nam
qua từng giai đoạn, từ đó để thấy được những đóng góp hết sức quan trọng của trường
ca trong nền văn học Việt Nam.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát về trường ca Việt Nam cũng như quá trình vận động của trường ca qua
từng thời kỳ.
- Chỉ ra được những đặc điểm của trường ca Việt Nam dựa trên các tác phẩm Bài ca
chim Chơ rao của Thu Bồn, Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, Nhịp điệu
châu thổ mới của Nguyễn Quang Thiều
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê – phân loại
- Phương pháp loại hình
- Phương pháp lịch sử – xã hội
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp nghiên cứu phân tích – tổng hợp.
6. Đóng góp mới của đề tài
- Tiểu luận trước hết sẽ cung cấp lại một số vấn đề liên quan đến trường ca cũng như
đưa ra quan điểm riêng của nhóm về quá trình vận động của trường ca Việt Nam.
- Với tiểu luận này, chúng tôi cũng đã khảo sát cụ thể ở các tác phẩm trường ca nổi bật
của Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Quang Thiều, phân tích khác kỹ từng khía
cạnh đổi mới thi pháp của chúng một cách có hệ thống. Từ đó khẳng định được vị trí

4
quan trọng và không thể thiếu của các tác giả này đối với thể loại trường ca Việt Nam
và đối sánh được sự biến đổi trong đặc điểm của trường ca qua từng giai đoạn cụ thể.
7. Cấu trúc tiểu luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm 2 chương:
Chương 1: Quá trình vận động của trường ca Việt Nam
Chương 2: Đặc điểm của trường ca Việt Nam (qua các tác phẩm Bài ca chim Chơ
rao của Thu Bồn, Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, Nhịp điệu châu
thổ mới của Nguyễn Quang Thiều)

5
CHƯƠNG 1
QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG CỦA TRƯỜNG CA VIỆT NAM

1.1. Khái quát về trường ca Việt Nam


1.1.1. Khái niệm về trường ca
Đối với nền văn học thế giới, trường ca đã xuất hiện từ rất sớm nhưng để được
đánh giá, nghiên cứu như một thể loại văn học thì lại rất muộn. Vì thế, có rất nhiều
khái niệm về thể loại này được đưa ra, tuy nhiên, cho đến hiện tại, vẫn chưa có một
khái niệm thống nhất cho thuật ngữ này.
Dựa trên các quan niệm, các góc nhìn khác nhau về thể loại cũng như những
đặc điểm về nội dung và hình thức của thể loại này, chúng tôi đã khái quát về khái
niệm trường ca như sau: Trường ca là “một hiện tượng thâm nhập, giao thoa sâu sắc
về mặt thể loại”, là “những tác phẩm được viết bằng văn vần, có kết cấu tương đối
chặt chẽ, có nội dung cảm hứng lớn, thường là những chiêm nghiệm gắn với các sự
kiện thuộc về cái chung của quê hương, đất nước, dân tộc, con người sau một thời kì
biến động của lịch sử dân tộc, như những bản tổng kết mang hình thức trữ tình lịch sử
cỡ lớn để ôn lại lịch sử, truyền thống”.

1.1.2. Tầm ảnh hưởng của trường ca đến văn học Việt Nam
Trường ca trong văn học Việt Nam là thể loại được hình thành từ quá trình vận
động nội tại của bản thân nền văn học – một nền văn học liên quan mật thiết đến
những biến động lịch sử to lớn, xuất phát từ những yếu tố khách quan như lịch sử
chiến tranh liên miên, tâm thức cộng đồng luôn hướng về dân tộc đến những yếu tố
nội tại như những thể loại văn vần có dung lượng lớn hay âm hưởng anh hùng ca
trong văn học. Những tác phẩm thuộc thể loại này đã góp phần làm thay đổi cách nhìn
của độc giả về văn học Việt Nam, từ việc xem văn học chỉ là phương tiện truyền
thông thông tin và giáo dục đến việc coi văn học như là một hình thái nghệ thuật, một
phương tiện để thể hiện tâm trạng và tư tưởng cá nhân.
Trường ca đã đánh dấu sự đổi mới đáng kể về hình thức và nội dung của văn học
Việt Nam. Thay vì chỉ tồn tại nét truyền thống và trang trọng của sử thi cổ điển,
trường ca mang đến một thứ ngôn ngữ phong phú, hùng vĩ và gần gũi hơn với cuộc
sống hàng ngày của người dân. Nó đã mở ra một phong cách văn học mới sâu sắc hơn,
phản ánh tốt hơn cuộc sống và tâm trạng của nhân dân.
Sau chiến thắng của cách mạng tháng Tám năm 1945, nền văn học Việt Nam
đã được sử thi hoá, lý tưởng hóa theo hình thức vươn tới cái rộng lớn của tất cả các
thể loại. Trường ca với bản chất cổ điển xa xưa đã trở thành một thể loại sang trọng

6
đối lập với cái tầm thường, là một “Thánh thư của dân tộc”. Trường ca thường đề cập
đến cả một cuộc hành trình, từ cuộc hành trình của một cá nhân – một người lính để
ẩn dụ cho hành trình của cả một dân tộc. Đây chính là thể loại tiêu biểu nhất thể hiện
rõ khuynh hướng sử thi.
Sự ra đời rầm rộ của trường ca vào bối cảnh những năm 70 – 80 đã trở thành
một hiện tượng nổi bật trong đời sống thơ nói riêng, văn học Việt Nam nói chung. Nó
trở thành đội quân tinh nhuệ, hùng hậu, có mặt nơi đầu sóng ngọn gió của cuộc chiến
tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc.

1.2. Thời kì vận động và phát triển của trường ca Việt Nam
1.2.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1965
Giai đoạn từ 1945 đến 1965 là thời kỳ mở đầu của trường ca Việt Nam, đội ngũ
sáng tác lúc này không nhiều thế nên số lượng các tác phẩm trường ca cũng tương đối
ít ỏi, sự phân định giữa thể loại này với thể loại thơ dài cũng chưa thật rạch ròi.
Về cơ bản, trong giai đoạn này, trường ca đã phản ánh được một số sự kiện,
nhân vật tiêu biểu trong thời kì kháng chiến chống Pháp và sau đó là chống Mỹ. Đó là
hình tượng của những chiến sĩ, những anh hùng cách mạng. Đặc biệt, thể loại ấy còn
ca ngợi cách mạng tháng Tám và công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
Mặc dù trường ca trong chặng mở đầu khá mờ nhạt nhưng ta vẫn có thể kể đến
các tác giả tiêu biểu với những bản trường ca mang đậm dấu ấn của truyện thơ như
Xuân Diệu với Ngọn quốc kì (1945) và Hội nghị non sông (1946), Khương Hữu Dụng
với Từ đêm 19 (1948), Nguyễn Đình Thi với Bài thơ Hắc Hải (1958), Hoàng Cầm với
Tiếng hát quan họ (1956)..., đặc biệt là Thu Bồn với Bài ca chim Chơ rao (1963). Các
tác phẩm của họ mang tính chất đương đại, phản ánh tinh thần và ý chí của thế hệ trẻ
Việt Nam trong cuộc đấu tranh cho tự do và công bằng.
1.2.2. Giai đoạn từ 1965 đến 2000
Có thể nói đây là thời kỳ mà trường ca bước vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ
vừa song song tồn tại khuynh hướng sử thi và khuynh hướng trữ tình suy tưởng, trở
thành một hiện tượng văn học đáng chú ý trong những năm kháng chiến chống Mỹ và
sau giải phóng.
Đầu tiên là chặng 1965 – 1975 với đề tài chủ yếu đề cập đến chiến tranh, cuộc
kháng chiến chống Mỹ với giọng điệu suy tưởng triết lý. Dưới nhiều góc nhìn, khía
cạnh khác nhau, các nhà thơ đã đem đến cho thể loại này sự phong phú, sức khái quát
sâu rộng với hình thức kết cấu tương đối hoàn chỉnh (Trầm tích của Hoàng Trần
Cương, Nhịp điệu châu thổ, Nhân chứng của một cái chết của Nguyễn Quang Thiều).
Mười năm đầu của giai đoạn thứ hai này chính là thời kỳ khốc liệt nhất của cuộc

7
kháng chiến chống Mỹ cứu nước với đội ngũ sáng tác chính là những người lính trực
tiếp cầm súng chiến đấu, họ trưởng thành trong không khí sôi nổi của thời đại. Có thể
kể đến một số tên tuổi tiêu biểu như Lê Anh Xuân, Vương Anh, Phạm Ngà, Viễn
Phương, Nguyễn Khoa Điềm… Với lực lượng sáng tác đông đảo hơn, số lượng các
tác phẩm thuộc thể loại này cũng nhiều hơn, phong phú hơn đáp ứng được nhiệm vụ
phản ánh hiện thực rộng lớn của giai đoạn cách mạng mới, đồng thời làm thay đổi
diện mạo thơ ca nói chung và trường ca nói riêng.
Quả là một thiếu sót nghiêm trọng khi chúng ta không nhắc đến chặng 1975 –
1985 – thời kỳ hậu chiến, là giai đoạn trường ca phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy
bởi lúc này các nhà thơ – những người tham gia kháng chiến đã có thời gian để nhìn
nhận lại, khái quát lại bức tranh hiện thực rộng lớn, cũng như bộc lộ những suy tư,
chiêm nghiệm của mình mang đậm âm hưởng “trực chiến”. Văn học giờ đây mặc dù
vẫn phát triển theo quán tính sử thi nhưng đã có sự giao thoa giữa yếu tố sử thi và tìm
tòi. Có thể kể đến một số trường ca tiêu biểu như Những ngọn sóng mặt trời, Trẻ con
ở Sơn Mĩ, Những người đi tới biển (1976) của Thanh Thảo, Đường tới thành phố của
Hữu Thỉnh (1977), Sông núi trên vai của Anh Ngọc (1977) và năm 1983 xuất bản tiếp
Điệp khúc vô danh, Trường ca sư đoàn của Nguyễn Đức Mậu (1978), Con đường của
những vì sao của Nguyễn Trọng Tạo (1978), Mặt trời trong lòng đất của Trần Mạnh
Hảo (1979)…
1.2.3. Giai đoạn từ 2000 đến nay
Trong thời kỳ từ năm 2000 đến nay, trường ca ở Việt Nam đã trải qua nhiều
biến đổi đáng chú ý. Sự đa dạng về nội dung và hình thức đã là điểm nổi bật, khi
trường ca đã xóa bỏ “khoảng cách sử thi” với đời sống và chịu ảnh hưởng của xu
hướng hậu hiện đại.
Ở giai đoạn này, trường ca không chỉ tiếp tục đào sâu vào những mảnh đất cũ –
đề tài chiến tranh nhưng đã có sự hòa trộn giữa dư âm chiến tranh với bộn bề hiện
thực cuộc sống, là hành trình gian khó của nhân dân để xây dựng một cuộc sống mới
như tập Trường ca Trần Anh Thái (2008) với ba tác phẩm: Đổ bóng xuống mặt trời,
Trên đường và Ngày đang mở sáng, mà còn khai phá khai phá thêm những mảnh đất
mới, họ tập trung hướng vào những trải nghiệm cá nhân trước bộn bề cuộc sống,
hướng vào cách biểu hiện các vấn đề của tồn tại mà con người luôn phải đối diện –
vấn đề sinh tử, thiện ác, sự cô đơn, hoài nghi, thất vọng, nỗi buồn, niềm vui…. –
hướng đi mới, đầy triển vọng cho thể loại này, có sự góp mặt của các ngòi bút tiêu
biểu như Nguyễn Quang Thiều với Nhịp điệu châu thổ mới, Nhân chứng của cái
chết; Nguyễn Linh Khiếu với Phồn sinh, Mai Văn Phấn với Người cùng thời, Lê Minh

8
Quốc với Hành trình của con kiến, Thanh Thảo với Metro.... Các tác phẩm này đã rời
xa tính chất sử thi thường thấy trong trường ca.
Bên cạnh đó, trước bối cảnh đất nước đang trong guồng quay của vấn đề toàn
cầu hóa và sự phát triển của dòng văn học mạng, những tác phẩm hải ngoại cũng đã
gây nên những ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống văn hóa Việt, trong đó có trường ca.
Các tác phẩm ấy trước nhất đến với độc giả Việt Nam thông qua các trang web, sau đó
đã được in thành các ấn bản bằng tiếng nước ngoài và nó gây thương nhớ cho độc giả
bởi một lối viết mới lạ, bởi một cách nhìn từ bên ngoài, bởi thân phận của những đứa
con tha hương nơi đất khách quê người, và hơn hết, vẫn là nỗi lòng, là trải nghiệm của
những con người. Trường ca hải ngoại với các tác phẩm tiêu biểu như Lòng hải lí,
Thơ thời gian, Buồn muộn cùng thế kỉ (Đỗ Quyên – Canada), Kỳ tích từ phương
Đông (Trần Nghi Hoàng – Mỹ)…, xuất hiện đã trở thành một hiện tượng độc đáo cho
một dạng trường ca phi chuẩn mực cả về cấu trúc và nội dung. Tuy nhiên, nó vẫn có
sự gần gũi với các trường ca trong nước lúc bấy giờ ở trạng thái tâm thức thể hiện –
tâm trạng bất an, tự vấn của con người hiện đại.
Có thể nói, theo dọc sự vận động và biến đổi của trường ca qua từng thời kỳ,
âm hưởng sử thi trong trường ca cũng dần nhạt đi, nội dung cũng dần hướng tới con
người và hiện thực cuộc sống đời thường xoay quanh họ. Đây cũng chính là diễn tiến
chung của cả nền văn học không riêng gì trường ca khi phát triển trong bối cảnh chiến
tranh sang thời hậu chiến. Tuy nhiên, điều cốt lõi ẩn chứa trong mỗi tác phẩm trường
ca vẫn luôn là cảm hứng khẳng định: khẳng định sức mạnh, khẳng định sự trường tồn,
khẳng định ý chí con người và dân tộc… phát triển mạnh mẽ theo hướng “phi sử thi”.

Tiểu kết chương 1


Như vậy, ở chương 1, chúng tôi đã nhắc đến một số vấn đề liên quan đến
trường ca cũng như quá trình vận động của thể loại văn học này. Qua đó, ta có thể
thấy rõ ràng rằng trải qua từng giai đoạn văn học khác nhau, trường ca đã xảy ra nhiều
sự biến chuyển và có những bước tiến đột phá hơn. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, ở
chương tiếp theo, chúng tôi sẽ triển khai một cách cụ thể hơn về sự thay đổi của
những đặc điểm đáng chú ý trong trường ca qua các tác phẩm tiêu biểu ở từng giai
đoạn.

9
10
CHƯƠNG 2
ĐẶC ĐIỂM CỦA TRƯỜNG CA VIỆT NAM
(QUA CÁC TÁC PHẨM BÀI CA CHIM CHƠ RAO CỦA THU BỒN,
MẶT ĐƯỜNG KHÁT VỌNG CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM,
NHỊP ĐIỆU CHÂU THỔ MỚI CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU)

2.1. Đặc sắc về nội dung của trường ca Việt Nam


2.1.1. Đặc sắc về nội dung của Bài ca chim Chơ rao của Thu Bồn
Tiếp tục đào sâu vào những mảnh đất cũ, cuộc chiến đấu anh hùng của nhân
dân, qua tâm hồn tài hoa và cảm hứng anh hùng của nhà thơ được kết tinh thành
những hình ảnh, những tượng đài sống động. Đó là hình ảnh của các anh chiến sĩ với
lý tưởng cách mạng của Đảng kiên trung, bất khuất, hiên ngang, hy sinh vì độc lập tự
do của dân tộc, đó là những hình ảnh người bà, người mẹ, người em hy sinh tuổi
xuân, chịu bao đau thương vất vả làm chỗ dựa tinh thần cho người lính ở tiền tuyến.
Tất cả những điều đó hội tụ trong bản trường ca Bài ca chim Chơ rao của Thu Bồn
khiến cho người đọc không khỏi bồi hồi và xúc động.
2.1.1.1. Chiến tranh và người lính
Lịch sử dân tộc được ghi dấu bởi những chiến công chống giặc ngoại xâm hào
hùng của nhân dân ta, bởi sự hy sinh của những người lính kiên cường, bất khuất. Với
tinh thần “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Tố
Hữu), những người lính với nhiệt huyết của tuổi trẻ, của tinh thần yêu nước đã xông
pha ra chiến trường ác liệt. Dưới ngòi bút tài hoa của Thu Bồn – người cầm bút đồng
thời cũng là người cầm súng, hình ảnh chiến tranh và những người chiến sĩ lại càng
hiện lên một cách sống động, chân thật nhất.
Cùng với khẩu hiệu: “Toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh”, những
người con của dòng dõi vua Hùng, của Con Rồng Cháu Tiên đã lên đường tham gia
kháng chiến. Họ biết rằng mình sẽ phải đối diện với mưa bom bão đạn, phải đối diện
với cái chết. Thế nhưng, những con người đó vẫn hiên ngang gia nhập hàng ngũ tiến
lên chiến trường, đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Những người lính với những
cảm xúc như vàng được thử lửa, tinh thần thép với những suy nghĩ được khơi gợi khi
“Dân tộc ta mang trái tim chiến đấu” [3].
Những người lính đến với cách mạng từ lòng nhân dân, từ khắp mọi vùng miền
của đất nước. Đất nước chiến tranh, những người con từ khắp mọi nơi đổ về, họ là
những người xa lạ, không cùng quê hương, không cùng màu da nhưng trên mỗi người
lính đều mang trong đó là lý tưởng cách mạng, là lòng căm thù giặc sôi sục. Đến với
bản trường ca Bài ca chim Chơ rao, ta sẽ được bắt gặp hai người lính trẻ với hai cái

11
tên giản dị Hùng và Rin. Mỗi người có một xuất thân khác nhau nhưng lại sát cánh
trên cùng một chiến trường – chiến trường Tây Nguyên ác liệt. Rin là người con đến
từ mảnh đất Tây Nguyên đầy nắng gió, mảnh đất với vẻ đẹp hoang sơ, đầy bí ẩn.
Khác với người con miền ngược, người “dân tộc anh em miền xuôi” là Hùng.
Nếu Rin với quê hương có những ánh lửa bập bùng bên điệu múa cồng chiêng hoang
dã, bên chum rượi cần thì Hùng lại đến từ “phía biển xanh, nơi có chân trời sóng vỗ”,
có ngôi tháp chàm rêu phong phủ kín, có bầy dơi “bay vù khi nghe tiếng động hay con
sư tử đá nằm ngủ “lim dim” cùng với rừng dừa xa thấp thoáng dưới làn sương mờ ảo.
Chiến tranh được ví như những cuồng phong, như những cơn sóng lớn của lịch
sử đi qua và quét sạch mọi sự yên bình, gieo rắc nỗi bất hạnh cho sự sống, cho con
người. Chiến tranh quét sạch mọi sự bình yên, quét sạch những niềm vui và hạnh phúc
của con người mà thay vào đó là những đau thương, tang khóc.
Cơn lốc chiến tranh quét qua buôn làng, Rin đã trông thấy và cảm nhận được
nỗi đau, sự tàn phá mạnh mẽ của chiến tranh . Mang trong mình dòng máu của người
con đất Bazan, ngọn lửa căm thù giặc đã bùng lên và sục sôi khát vọng hòa bình,
người con vùng cao nguyên đã đặt những bước chân đầu tiên của mình đến với cách
mạng thật tự nhiên như:
“Lũ chúng nó một loài rắn độc
Làm dân ta khổ sở bao đời
Muốn tự do phải làm cách mạng”
Họ chẳng hề run sợ trước mưa bom bão đạn của giặc, cũng chẳng hề sợ những dàn
máy bay tân tiến của địch. Những người lính mang trong mình ngọn lửa căm thù giặc
sôi sục, quyết liều mình để chiến đấu, để trả thù cho quê hương, cho đất nước.
Bước chân đến với chiến trường kháng chiến từ mọi miền của dân tộc, mang
trong mình lý tưởng của cách mạng, niềm tin chiến thắng, niềm tin vào cuộc sống độc
lập – tự do – hạnh phúc, những người lính, những người chiến sĩ anh hùng – hiện lên
rực sáng trong những chịu đựng, những hy sinh gian khổ, hiểm nguy vì sự sống còn
của đất nước.
Những người lính có vô danh, có hữu danh nhưng họ không hề vì một chút lợi
ích mà đi đến với chiến trường cách mạng. Họ lặng lẽ ra đi, lặng lẽ chiến đấu, lặng lẽ
hy sinh vì tự do của dân tộc. Những người lính có tâm hồn vô tư nhưng cao cả, biết hi
sinh, vượt gian khó để mong làm nên chiến thắng. Họ sống thầm lặng nhưng lại chiến
đấu như những vị anh hùng:
“Nằm khuất nơi đâu ven rừng đá lạnh
Trọn đời làm chiến sĩ vô danh
Cho Tổ quốc lừng danh hiển hách

12
Những đôi mắt xanh thèm khát mảnh trời xanh” [3]
Ra đi với lý tưởng cách mạng, chiến đấu với tinh thần căm thù giặc đến tận
xương tuỷ. Thế nhưng, Thu Bồn không chỉ dừng lại ở việc xây dựng hình tượng người
lính anh hùng mà còn khai thác hình ảnh người lính với khí phách, tinh thần bất khuất
trước kẻ thù, trước những đòn roi và thủ đoạn tàn độc của chúng. Bản trường ca này
đã trở thành một bản hùng ca về tinh thần bất khuất và sự trung thành đối với cách
mạng của hai chiến sĩ Hùng và Rin.
“Sáng nay chúng đưa Rin vào phòng tra khảo
Anh bị treo lên đánh phú đầu
Những giày đinh thi nhau đá đạp
Nhưng Rin không hề nói nửa câu.” [3]
Sự kiên trung của người lính trong tác phẩm này không chỉ hiện lên lúc cầm
súng chiến đấu mà ngay cả lúc mặt đối mặt với kẻ thù, mọi thủ đoạn tra tấn của kẻ thù
cũng không thể làm lung lay khí phách của người chiến sĩ cách mạng. Dường như
thủ đoạn càng tàn bạo thì càng thấy sáng ngời bản lĩnh của người chiến sĩ, càng củng
cố thêm cái tinh thần yêu nước, cái sự căm ghét, khinh thường kẻ thù đến bình thản.
Rin – chàng chiến sĩ kiên trung, người con của vùng đất Tây Nguyên đã không khuất
phục mà còn cất tiếng hát – tiếng hát ca ngợi quê hương, tiếng hát làm kẻ thù kinh hãi:
“Rin hát giữa phòng tra Rin hát
Đứng hiên ngang đối mặt kẻ thù
Bài hát ngợi ca lòng dũng cảm
Ca ngợi lá cờ bay đẹp giữa mùa thu...” [3]
Trước sự tra tấn dã man của bọn giặc hung ác, thân thể của anh bị bầm đập
trước đòn tra tấn làm anh “đứng lên rồi ngã xuống”, khi những chiếc răng còn sót lại
của anh cũng bị những tên lính giặc tàn nhẫn dùng búa đập hết, khi chúng tưởng
chừng như người anh hùng của chúng ta đã hoàn toàn ngã quỵ thì:
“Bỗng Rin chồm lên chiếc ghế
Nhổ lên ảnh Diệm bãi máu tươi” [3]
Một hành động bất ngờ, một hành động xuất phát từ ý chí kiên cường cùng
lòng căm thù giặc của anh đã khiến cho bọn giặc hết sức kinh ngạc. Chúng không thể
ngờ rằng, một người chiến sĩ đã bị tra tấn và hành hạ đến như thế nhưng vẫn có thể
chồm dậy phản lại.Chúng đã bị bất ngờ và hoàn toàn đầu hàng trước tinh thần và ý chí
của người lính cách mạng Việt Nam. Chúng đã hoàn toàn thất bại trước người con của
miền đất “nắng tắm đẫm từng tấc đất Bazan”. Không khai thác được thông tin từ Rin,
chúng tìm cách dụ dỗ Hùng, người bạn từ xuôi lên với miền đất Tây Nguyên để chiến
đấu. Chúng dùng những lời đường mật dụ dỗ hùng khai ra nhưng chẳng có hiệu quả,

13
chúng đành đưa Hùng sang “phòng tự do” nhằm tra tấn Hùng. Thế nhưng, chúng đã
sai lầm khi nghĩ rằng Hùng sẽ run sợ, sẽ sụp đổ trước những đòn roi hung bạo của
chúng. Lại thêm một lần nữa, chúng phải hốt hoảng mà nhìn nhau trước hành động
châm lửa hút thuốc trước lò lửa đỏ của
Chỉ mới một đoạn ngắn trong Trường ca, nhưng đã tố cáo được những hành
động của bọn lính giam, khi tra tấn Hùng đủ mọi cách. Hành động Hùng tự mình “vùa
than hồng vào giữa lòng bàn tay” hay hình ảnh anh ung dung lấy chiếc kìm tự rạch
miếng đùi ở thịt mình, dõng dạc tuyên bố rằng nếu có chết cũng sẽ chết trên quê
hương, bao nhiêu máu thịt đều quyện vào bụi đất. Câu từ ung dung mãnh liệt càng làm
thêm vẻ dũng cảm của Hùng. Qua đó ta thấy được tinh thần yêu nước, một lòng trung
thành với nước với dân của người chiến sĩ cách mạng hết sức to lớn.
Chỉ qua ngôn từ được tác giả miêu tả một cách chân thực và sinh động, người
đọc có thể hình dung rõ được nhưng cảnh đòn roi tra tấn, những hành động anh dũng
của hai người lính cách mạng. Thật khâm phục trước những hành động ngoan cường
và anh dũng của người chiến sĩ. Không thể nào làm lung lay được tinh thần và ý chí
kiên cường của các anh, chúng đã đem các anh ra pháp trường. Chúng sợ hãi khi nhìn
thấy ánh mắt rực lửa, chúng sợ hãi khi nhìn thấy chính mình đang thất bại trong bản
lĩnh, ý chí của các anh. Thế nhưng, khi đứng trước cái chết, khi đứng trước những
giây phút cuối cùng của cuộc đời, các anh vẫn giữ cho mình một tấm lòng kiên trung
dành cho cách mạng. Tư thế các anh hiên ngang như “Thạch Sanh của thế kỉ XX”
đứng trên đầu thù mà sống, mà chiến đấu, hi sinh:
“Trên nương sáng nay lúa vừa ngậm sữa
Chúng đem Hùng, Rin trói chặt vào cây
Ôi hai con chim ưng trong bão tố
Đầu sắp rơi đôi cánh vẫn tung bay...” [3]
Chúng vẫn ung dung tưởng rằng, ngọn lửa hung bạo ấy có thể thiêu rụi được ý chí và
tinh thần yêu nước của các anh. Thế nhưng, ngọn lửa này đồng thời cũng đã đốt thêm
nữa ngọn lửa thù trong lòng các anh, ngọn lửa căm thù giặc, ngọn lửa căm thù chiến
tranh. Chúng đâu thể ngờ rằng ngọn lửa của chúng đã biến thành vầng sáng của lý
tưởng cách mạng, vầng sáng của tinh thần dân tộc bao quanh trái tim của hai người
anh hùng-hai trái tim “còn đập giữa khói đen”. Hai trái tim hướng về cách mạng,
hướng về dân tộc, rực cháy theo ngọn lửa của cách mạng. Cái chết của Hùng và Rin
được thắp sáng bằng hình ảnh đối lập giữa hình tượng người anh hùng và kẻ thù , cái
chết ấy “đâu làm ta yếu hèn” [3].
Bên cạnh chiến tranh ác liệt, đẫm máu là những người lính với lý tưởng cách
mạng, với tinh thần yêu nước, với tư thế hiên ngang, anh dũng. Người lính trong

14
trường ca Thu Bồn đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc nhất, khiến cho họ
chẳng thể nào quên được. Đó là những con người cao cả, những con người đi ra từ
lòng nhân dân, một lòng thủy chung với nhân dân. Các anh sống một đời anh hùng,
chiến đấu anh hùng và hi sinh anh dũng, các anh xuất hiện trong trường ca Thu Bồn
với tinh thần vào sinh ra tử cùng đồng đội và nhuốm lên trên những trang viết một
màu sắc sử thi đậm nét với chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với lý tưởng sáng ngời của
đảng.
2.1.1.2. Tình yêu quê hương đất nước và tình yêu đôi lứa của người chiến sĩ cách
mạng
Những con người từ trong nhân dân đi ra, những con người từ mọi miền đất
nước tụ họp lại đây. Họ không quen biết nhau nhưng cùng theo tiếng gọi của tổ quốc
mà đi đến, cùng nhau sinh sống, cùng nhau hành quân, cùng nhau chiến đấu. Trong
những năm tháng khói lửa chiến tranh ác liệt, bên cạnh một trái tim hướng về tổ quốc
chính là một nửa trái tim hướng về quê hương yêu dấu của mình, hướng về người mẹ,
người vợ, người em. Họ nhớ da diết những hình ảnh tươi đẹp của làng quê, nhớ gốc đa
mái đình, nhớ những lúc được cùng người thân vui vẻ nói cười. Thật là hạnh phúc biết
bao. Nhưng dường như nỗi nhớ ấy không làm cho người lính của chúng ta chùn bước
mà nó giống như một nguồn động lực, một nguồn suối tươi mát chảy thẳng vào trong
tâm hồn của họ, tiếp sức và thôi thúc các anh chiến đấu hết mình để bảo vệ quê
hương, đất nước. Những nỗi nhớ thương đó vẫn luôn hiện diện trong tâm trí của họ, là
nguồn cổ vũ nhiệt tình cho những người lính trong lúc khó khăn nhất.
Những người lính gác lại tuổi trẻ của mình, gác lại ước mơ của mình mà ra đi
lên đường cứu nước. Những đứa con với tấm lòng yêu thương, lo lắng cho cha mẹ hay
là những chàng trai trẻ với những cảm xúc của tuổi chớm yêu. Người lính với tình yêu
thương nước thương dân, hi sinh lợi ích cá nhân mà đặt lợi ích dân tộc lên trên hết.
Những câu thơ như những lời thủ thỉ tâm tình rất chân thật trong trường ca Bài ca
chim Chơ rao, tác giả đã khắc họa hình ảnh các anh tâm sự nhỏ to cùng mẹ: “mẹ ơi,
con vẫn ở giữa lòng đất nước trời nắng thiêu nghe rìu mẹ chém cây...”. Những đêm tối
trong ngục tù đày đọa, những đau đớn về thể xác cắn xé các anh. Thế nhưng các anh
lại nhớ những lời ru tha thiết của mẹ lúc trưa hè. Lời ru đưa những ấu thơ của anh vào
giấc ngủ có mẹ, có gia đình mình, có ca dao thần thoại:
“Anh bỗng nhớ tiếng ru bài hát cũ
Cái con chim xanh ăn trái xoài xanh
Mẹ đã ru những trưa nồng anh ngủ
Con chim xanh ăn trái xoài xanh” [3]

15
Có tình nào hơn tình mẹ chăng? Người mẹ luôn được nhắc đến không chỉ trong
đời sống mà hình ảnh người mẹ đi vào thơ ca một cách tự nhiên. Mẹ là cả nguồn sống
của con. Bởi thế mà trong trái tim những người lính cách mạng Việt Nam, mẹ chính là
nguồn động lực, là sự cổ vũ to lớn nhất cho con. Hình tượng người mẹ trong trường ca
Thu Bồn thật cao cả và thiêng liêng. Mẹ mang nặng đẻ đau, vất vả nuôi con lớn khôn,
để rồi khi đất nước gọi, con theo chân cha đi đánh giặc mà để lại người mẹ ở nhà bơ
vơ, mòn mỏi trông con về:
“Mẹ vẫn chờ anh ngày trở lại
Ơi người mẹ trọn đời kim chỉ vá may
Vá tấm áo như vá đời mẹ khổ
Từ buổi con đi bấm đốt từng ngày” [3]
Mẹ gạt nước mắt tiễn con lên đường ra chiến trận, mẹ gạt nước mắt ở nhà ngày đêm
mong mỏi ngóng trông tin tức của con. Và thế rồi, mẹ lại gạt những giọt nước mắt để
ôm con mình trong giấc mơ.
Lòng mẹ, tình yêu thương bao la của mẹ đã tiếp sức cho các anh sức mạnh.
Những chàng trai Đăm săn của thời đại mới, là tướng lĩnh không có tù và, không có
chiêng ché nhưng những bước chân của các anh đi đạp rừng băng suối, dẫm lên những
khó khăn, dẫm lên những tên giặc ngoại xâm hung bạo. Có ý chí dẫn đường, có lý
tưởng của đảng soi dẫn, các anh băng băng vượt lên. Nỗi nhớ nhà thương mẹ đã làm
bật ra những giọt nước mắt ở những người chiến sĩ tưởng không biết khóc bao giờ, ở
những con người chỉ biết ung dung nghe giặc dụ dỗ, bình thản cười đùa trước đòn roi
tra tấn tàn bạo của kẻ thù khi các anh nghe tin bản làng, ngôi nhà thân yêu bị lũ giặc
đốt trúng:
“...Y Rin khóc! lần đầu tiên Rin khóc
Nước mắt rơi, từng giọt nước mắt rơi…” [3]
Hay khi ngay lúc trên đường bị đưa ra pháp trường, Hùng lại lần nữa nhớ về
những kỉ niệm đẹp về quê hương của mình trong kí ức:
“Quê hương ơi! Ta chào quê hương nhé
Hồi nào tuổi trẻ ra đi
Rừng chiến khu vang ầm tiếng súng
Nhớ hàng sầu đông vẳng tiếng cu gù” [3]
Như một lời vĩnh biệt, anh nhìn lại những kỉ niệm, những nơi mà anh từng gắn bó,
nhớ từng chiến khu nơi từng chiến đấu, Hùng như muốn níu kéo lại những thứ kỉ niệm
đẹp đẽ đó, nhưng sự thật lạnh lùng khi anh đang nằm trên chiếc xe mà chở anh đi về
với cõi chết. Lời thơ vừa da diết vừa lạnh lùng, lột tát được cảm xúc đau đớn tột độ
của Hùng, anh ví anh như những con chim nhỏ bé. “Mạnh bước đi, chết cười vẫn

16
tươi” – anh tự hào khi là những người chiến sĩ quyết tâm giữ lòng yêu nước đến tận
cuối cùng, một lòng trung thành và điều đó được Thu Bồn nhấn mạnh rất rõ trong Bài
ca chim Chơ rao.
Tình yêu – thứ tình cảm độc đáo, thứ tình cảm chớm nở của tuổi trẻ đã hóa
luồng gió mát thổi bùng lên sức mạnh, niềm tin, thổi bùng lên lòng nhiệt tình can đảm,
quyết chiến đấu đem lại hòa bình trả cho quê hương, trả cho nụ cười của người yêu
dấu:
“Y Rin nắm tay người con gái
Truyền thêm sức mạnh niềm tin...” [3]
Vượt bao khó khăn, trở ngại để đến với chiến trường ác liệt và đẫm máu này,
mang trong mình lý tưởng cách mạng, thình yêu thương của người mẹ,niềm hy vọng
của người em, niềm tin vào chiến thắng của dân tộc, người chiến sĩ cách mạng hiện
hữu lên trước mặt chúng ta với tinh thần thép, ý chí kiên cường, anh dũng, hy sinh vì
sự sống còn của đất nước, của dân tộc.
Bên cạnh đó, hình ảnh “con chim” được hiện lên như những người chiến sĩ cách
mạng, lúc thoải mái vùng vẫy chiến đấu hết sức bình sinh, lúc lại bị nhốt giam cầm ở
trong lồng. “Từ một loài chim "vô danh", đến năm 1964 – 1965, chim chơ rao bỗng
dưng được nhiều người biết tới khi Tuần báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam
đăng tải toàn văn bản Trường ca chim chơ rao và sau đó, Đài Tiếng nói Việt Nam cho
diễn ngâm liên tục; rồi được in thành sách "bướm" (in trên giấy khổ lớn có giàn trang
và xếp gọn lại) để dễ phổ biến, dễ mang theo trong ba lô các chiến sĩ giải phóng quân.
Thế rồi, bản trường ca được dịch sang tiếng Trung Quốc và sau đó được giải thưởng
văn học Nguyễn Đình Chiểu của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam;
giải thưởng Bông Sen của Hội Nhà văn Á – Phi… cũng từ đó, nhà thơ Thu Bồn – tác
giả của trường ca ấy được ví là “cánh chim chơ rao” trong dòng văn học sáng tác về
đề tài Tây Nguyên!” [14].
Qua đó, ta có thể thấy rằng, thể loại trường ca là một trong những yếu tố làm
nên sự thành công to lớn cho sự nghiệp văn chương của Thu Bồn, trong đó có tác
phẩm Bài ca chim chơ rao đã làm nên nhiều thành tựu và từ đó Thu Bồn có tiếng tăm
và được mọi người biết đến với bài Trường ca Bài ca chim chơ rao của ông rất nhiều.
Trong giai đoạn 1961–1962, Thu Bồn đã được điều động lên làng Đêpa Pơlếch, huyện
Chư Prông, tỉnh Gia Lai để hoạt động. Tại nơi đây, giữa một không gian bao la rộng
lớn ngút ngàn, Thu Bồn đã được tận mắt chứng kiến khung cảnh sự đoàn tụ từ những
đàn chim chơ rao, kết hợp với những âm thanh tiếng đàn của người già làng Siu Ken
đã thúc đẩy tinh thần mãnh liệt tinh thần sáng tác mãnh liệt của nhà thơ để ông có thể
hoàn thành nên tuyệt tác này.

17
2.1.2. Đặc sắc về nội dung của Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm
Là người con xứ Huế, xuất thân trong gia đình có truyền thống văn nghệ cùng
sự trải nghiệm vào những năm tháng đầy biến động, Nguyễn Khoa Điềm đã trở thành
một ngòi bút thơ ca có phong cách giàu chất trí tuệ và tài hoa. Thơ ông giàu chất suy
tư, chiêm nghiệm sâu sắc, không chỉ khái quát được bức tranh hiện thực đầy đau
thương nhưng cũng mãnh liệt của đất nước mà qua đó còn thể hiện tâm tư của người
trí thức tích cực tham gia vào cuộc chiến trường kì của dân tộc. Năm 1974, ông đã cho
ra mắt trường ca Mặt đường khát vọng. Tác phẩm vẫn tiếp tục đi theo xu hướng khai
thác vấn đề của tuổi trẻ (những chiêm nghiệm chân thực, sinh động của chính nhà thơ
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ; có suy tư, trăn trở về vận mệnh đất nước và con
người) nhưng trên một bình diện mới – quá trình tìm đến cách mạng của thanh niên
thành thị miền Nam.
2.1.2.1. Cái tôi trữ tình – cái tôi thế hệ
Hòa cùng với thế hệ thơ trẻ những năm chống Mỹ như Lê Anh Xuân, Phạm
Tiến Duật, Hoàng Nhuận Cầm, Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Dương Hương Ly…, thơ
Nguyễn Khoa Điềm mang giọng điệu rất riêng mặc dù vẫn còn mang tinh thần sử thi.
Nếu Phạm Tiến Duật luôn viết về hình ảnh Trường Sơn cùng những cô gái thanh niên
xung phong; Ngô Văn Phú thiên hướng viết về với làng quê,… thì khi đối chiếu đến
Nguyễn Khoa Điềm, người đọc sẽ được cảm nhận được một làn sóng đấu tranh dữ dội
của thanh niên thành thị miền Nam. Cái tôi trữ tình sử thi vừa ca ngợi tinh thần hào
hùng của đất nước trong máu lửa chiến tranh, vừa chuyển hóa sang “dạng thức” cái tôi
“thế hệ”, để nhìn vào một nhưng người đọc thấy được cả không khí hào hùng tráng lệ,
anh dũng của con người thời đại; đồng thời bản thân nhà thơ có niềm tin mãnh liệt vào
tuổi trẻ, lòng nhiệt huyết, lý tưởng của những người chiến sĩ trong cuộc chiến trường
kỳ với kẻ thù:
“Ôi những bước Tự do chuyển động phố phường
Đại lộ nghiêng đi làm thác đổ
Đội ngũ tiến lên! Tiến lên là đội ngũ!
Mặt đường là mặt người, mặt đường là thanh niên…”
[5, chương 7]
Trong thời gian kháng chiến chống Mỹ, cái tôi được khắc hoạ lên chân thực,
hiện diện như một chủ thể trữ tình có ý nghĩa nhân danh. Vậy tại sao lại nói cái tôi đó
là cái tôi của cả thế hệ trong khi mỗi người luôn có cho mình một bản sắc riêng? Bởi
các nhà thơ cùng thời với Nguyễn Khoa Điềm cũng đã khắc hoạ chân dung mang tầm
vóc một tập hợp lịch sử đứng lên đấu tranh. Đây chính là cảm hứng hùng ca chung
của thời đại lúc bấy giờ:

18
“Thế hệ chúng con đi như gió thổi
Áo quân phục xanh đồng sắc với chân trời”
(Trần Mạnh Hảo)
Cảm thức về thế hệ trong thơ Nguyễn Khoa Điềm vừa sâu sắc, vừa vang lên
như một lời giục giã, thiết tha. Mỗi câu thơ như sự khẳng định, giãi bày lý tưởng
kháng chiến chắc chắn. Sự nhận thức của tác giả được trình bày theo lôgic, thông qua
những trải nghiệm chân thực về cuộc sống, từ ghi nhớ hình ảnh người nhân dân, đất
nước; căm phẫn kẻ thù đến sự tự ý thức và cuối cùng hành động xuất đường, lớp lớp
người đồng thanh đứng lên tiêu diệt quân thù. Nhà thơ luôn có cái nhìn đa chiều, khái
quát đến cụ thể, có cái nhìn tích cực về Cách mạng đối với thế hệ trẻ, từ đó dẫn đến
những hành động tất yếu, thiết thực:
“Hãy nâng máu ta lên thành ngọn cờ hồng
Trên cao điểm gian truân mùa giữ nước!
Ôi tuổi trẻ có gì cao quý nhất
Bằng hôm nay Tổ quốc quyết sinh
Ta cảm tử và xông lên quyết chiến
Những đường phố theo ta vào kháng chiến
Dòng sông xưa gươm sáng mặt kinh thành.”
[5, chương 7]
Những trí thức trẻ thành phố đã dựng lên những vũ đài chính trị, tập hợp và
truyền bá lý tưởng cách mạng đến với quần chúng lao khổ. Những con người của thế
hệ mới mang lý tưởng của thời đại, phải trải qua bao nhiêu nước mắt, gian khổ để hoà
cùng với nhân dân đứng lên đấu tranh trực diện với kẻ thù, bằng tất cả sức lực, trí
thức, văn hoá thậm chí cả bạo lực cách mạng. Nguyễn Khoa Điềm viết Mặt đường
khát vọng ở chiến khu Trị – Thiên (1974), thời điểm cuộc kháng chiến đi vào giai
đoạn ác liệt nhất. Ý chí và khát vọng giải phóng đất nước của nhân dân Việt Nam vào
lúc này cũng trở nên mạnh mẽ và quyết liệt hơn bao giờ hết. Chính vì vậy, viết về
chiến tranh, nhà thơ trẻ này luôn tái hiện bức tranh ấy một cách chân thực, rõ ràng.
Bởi chính bản thân ông là người được chứng kiến nên mỗi câu thơ vẫn luôn gắn với
sự suy tư, trải nghiệm của những người trong cuộc. Cái tôi trữ tình vừa có điều kiện tự
bộc lộ mình, những cảm xúc tư tưởng riêng, vừa đại diện cho thế hệ mình – những
người trẻ tuổi đang tôi luyện trong ngọn lửa chiến tranh, thực sự nếm trải những gian
lao thử thách và tự nguyện đem xương máu của mình bảo vệ quê hương, Tổ quốc.
Cùng thuộc thể loại trường ca, vẫn mang những suy tư, chiêm nghiệm của cá thể để
khái quát lên bức tranh hiện thực kháng chiến nhưng cái tôi ở đây của Nguyễn Khoa
Điềm lại có sự chuyển động. Ông không đứng yên một chỗ để nhìn cuộc kháng chiến

19
rồi từ đó ông bày tổ tình cảm mà cái tôi trong thơ của ông mang lý tưởng sâu sắc, lý
tưởng về đất nước, về anh hùng nhân dân, về trách nhiệm và hành động thực tế của
thanh niên thành thị miền Nam. Đến với thơ ca ông, cái tôi trữ tình sử thi đã được
khắc họa đầy khí phách, hùng tráng cái tôi thế hệ (xuống đường).
Thơ Nguyễn Khoa Điềm viết về hình ảnh bạn bè đồng chí rất đỗi thiêng liêng
cảm động. Đó là sức mạnh của người lính chiến thắng sự bạo tàn của bom đạn, chết
chóc của kẻ thù để hướng đất nước về ngày mai tươi sáng. Cái tôi trữ tình trong thơ
chiến tranh của tác giả là sự hội tụ của 3 yếu tố: chiến sĩ – văn hoá – thi sĩ. Đây là
những yếu tố mang tính chất nền tảng, tạo tiền đề cho sự đa dạng và biến hóa của cái
tôi trữ tình trong trường ca; cất lên tiếng nói vang vọng của người lính về một chân lý
vĩnh hằng đồng thời lấp lánh ánh sáng trí thức trong hành trình tìm về dân tộc, đặc biệt
cảm hứng văn hóa – lịch sử đã tạo nên vẻ đẹp riêng cho thơ ca Nguyễn Khoa Điềm.
Người đọc còn lưu mãi ấn tượng về một con người thi sĩ cảm nhận được những
chuyển biến lớn lao của thời đại và cả những rung động thầm kín, riêng tư của lòng
người và cuộc đời. Điểm nhìn liên tục di chuyển từ khái quát đến cụ thể, từ rộng đến
hẹp vào từng đối tượng cụ thể.
2.1.2.2. Suy tư về người dân anh hùng
Trường ca Mặt đường khát vọng đã tái hiện rõ nét lại quá trình nhận thức của
thanh niên trẻ miền Nam dưới ách Mỹ – Ngụy: Nỗi đau mất quê hương, nhận thấy rõ
chân tướng kẻ thù, sự thức tỉnh về tinh thần trách nhiệm của bản thân trong công cuộc
cứu nước, mối quan hệ tình cảm với nhân dân với đất nước rồi cuối cùng hành động
xuống đường, hoà vào dòng người đấu tranh vì độc lập tự do. Suốt chặng đường tìm
đến với lý tưởng cách mạng của tuổi trẻ thành thị miền nam vô cùng khó khăn đầy
gian nan, phức tạp. Nguyễn Khoa Điềm xót thương và muốn thức tỉnh nhân dân. Bản
thân nhà thơ cũng hoà nhập với tuổi trẻ miền Nam để cất lên tiếng nói, nỗi lòng của
họ:
“Phượng vẫn rơi từng cánh tươi hồng
Đau như máu những tâm hồn son trẻ
Sao con học để làm bầy nô lệ
Súng Mỹ hôm nay thành giáo cụ học đường?...”
[5, chương 4]
Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” như một cảm quan lịch sử chủ đạo của
Nguyễn Khoa Điềm chi phối cái nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử của đất nước. Đó
là lịch sử được hình thành từ hàng nghìn năm trước và được bảo vệ bằng máu thịt, mồ
hôi của những người con bình dị vô danh. Mỗi người, mỗi vật đi qua trong lịch sử dân
tộc, trong không gian, thời gian đều để lại một chút ấn tượng không phai cho đất

20
nước: những người vợ nhớ chồng nơi phương xa, từ anh học trò nghèo, những con gà
con cóc nhỏ bé, đến gót ngựa Thánh Gióng, 99 con voi chầu đất Tổ Hùng Vương….
Chính nhân dân, bằng những hành động thầm lặng, vô danh đã kiến tạo nên giá trị vĩ
đại và trường tồn “Đất nước”:
“Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Với cái nhìn xuyên suốt chiều dài lịch sử (từ chương 1 đến chương 9) tác giả
không ngừng nhấn mạnh đến vai trò của nhân dân. Nguyễn Khoa Điềm vừa trực tiếp
vừa gián tiếp gợi nhắc đến hình ảnh đất nước bình yên trong quá khứ, những điều đẹp
đẽ của quê hương và trách nhiệm xương máu của thanh niên để chiến đấu bảo vệ gìn
giữ đất nước.
Trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, “Đất nước” còn là sự nối liền giữa
các thế hệ Việt Nam. Họ đã lao động, sáng tạo, gìn giữ và truyền lại cho đời sau mọi
giá trị văn hoá vật chất, tinh thần: Từ hạt lúa với nền văn minh lúa nước, ngọn lửa
được tạo nên bởi bước tiến của loài người đến những của cải tinh thần quý báu như
phong tục tập quán lâu đời: tên xã, tên làng, giọng nói cha ông… Chính vì vậy, họ
phải gắng sức bảo vệ quê hương. Mỗi con người là anh hùng văn hoá, bảo tồn, gìn giữ
nét đẹp ấy từ đời này sang đời khác phong tục và lối sống của dân tộc mình:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than con cúi
Họ truyền giọng điệu cho con mình tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân.”
Tổ quốc chính là một phần máu thịt trong tâm hồn mỗi con người. Làm sao có
thể rời bỏ quê hương? Làm sao có thể để đất nước bị xâm lăng bởi thế lực thù địch?
Bằng giọng thơ đặc biệt xúc cảm của những người cùng thế hệ, vang lên như lời nhắn
nhủ ân tình của anh, Nguyễn Khoa Điềm nói lên được sự thống nhất, gắn bó giữa cái
riêng và cái chung, giữa cá nhân và dân tộc. Từ đó, nhà thơ nêu cao tình thần trách
nhiệm và bổn phận của thế hệ thanh niên đối với đất nước. Đó chính là trách nhiệm
đối với bản thân tác giả và bất kì ai trên đất nước Việt Nam này:
“Em ơi em Đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

21
Làm nên Đất nước muôn đời”
[5, chương 5]
Tiếng thơ của Nguyễn Khoa Điềm không chỉ nói lên những suy cảm của thanh
niên trẻ tuổi trong chiến tranh, mà còn có cái nhìn nghiêm túc thành thật, thậm chí trần
trụi về những mất mát… Tác giả thể hiện lòng yêu nước qua việc tranh luận về tuổi
trẻ, về nhân sinh quan để dựng lại cả quá trình “tìm đường” và “nhận đường” của tuổi
trẻ đô thị miền Nam về với con đường cách mạng của dân tộc, nhân dân.
2.1.2.3. Suy tư về đất nước của nhân dân
Trong chiến tranh, cảm hứng “Đất nước” luôn đi liền với khát vọng gìn giữ chủ
quyền dân tộc. Mong ước mãnh liệt về sự giải phóng, hoà bình nhưng Nguyễn Khoa
Điềm thể hiện chủ đề này trong Mặt đường khát vọng lại không hề mang tinh thần ảm
đạm, chết chóc mà đã tái hiện được cái không khí sử thi hào hùng của cuộc chiến đấu
chống Mỹ. Nguyễn Khoa Điềm đã phơi bày trực tiếp những cảm xúc nồng nàn bay
bổng trước vận mệnh chung của toàn dân tộc.
Cảm hứng sử thi là cảm xúc cao trào, dâng tràn lòng yêu nước, tự hào trước sự
quật khởi của đất nước. Trong Mặt đường khát vọng, tác giả không làm xuất hiện
những tên tuổi vang dội mà nhà thơ chỉ chú ý khai thác tính chất anh hùng có trong
những biểu hiện hàng ngày của những con người bình dị trong cuộc kháng chiến oanh
liệt. Nhà thơ nhiều lần cũng xưng hô chung chung: “Ta”, “em”, “họ”,… Bởi trong tâm
thức Nguyễn Khoa Điềm, đất nước được tạo nên bởi sức lực và sự yêu thương của
người nhân dân vô danh, không ai là chủ, là duy nhất. Cảm hứng sử thi xuyên suốt
trong bài trường ca bao giờ cũng song hành với chủ nghĩa yêu nước và anh hùng.
Bằng cái tôi mang tinh thần của cả thế hệ, Nguyễn Khoa Điềm như đã hòa vào dàn
đồng ca hào hùng của thơ trẻ chống Mỹ để nhìn thẳng, khái quát chân thực bức tranh
hiện thực. Nếu như trong âm hưởng chung của những nghệ sỹ tài hoa trong kháng
chiến chống Mỹ khác như: Hoàng Nhuận Cầm “”hồn nhiên mơ mộng; Phạm Tiến
Duật “hóm hỉnh tinh nghịch pha chút ngang tàng”; Bằng Việt “sâu lắng và trong
sáng”…thì thơ Nguyễn Khoa Điềm là thứ thơ người đọc vẫn nhận ra được chất riêng:
Đằm thắm, sâu sắc nhưng ngân vang. Bản chất của trường ca đã có giao thoa về mặt
thể loại, kết hợp giữa yếu tố trữ tình và tự sự. Nhưng thơ của Nguyễn Khoa Điềm
phần nào vẫn có độ sâu và nổi trội hơn nhiều so với một số tác giả trẻ cùng thời khác
bởi chính cách thể hiện phong phú và xúc động một tư tưởng xuyên suốt cả bài: Đất
nước của nhân dân. Hình tượng đất nước được thể hiện từ hai góc nhìn chính: Từ góc
nhìn lịch sử – văn hóa ngàn đời và từ những suy tư, chiêm nghiệm thực tế của chính
bản thân nhà thơ.

22
Cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta vừa đau thương, đầy sự mất mát
nhưng cũng thật hào hùng, bi tráng. Đây cũng chính là mảnh đất màu mỡ để những
nhà thơ trong cuộc có cơ hội được khái quát lại bức tranh hiện thực đầy tàn khốc;
đồng thời bày tỏ những tình cảm, chiêm nghiệm của mình về đất nước, con người và
cái nhìn suy tư về lý tưởng cách mạng. Nhiều nhà thơ có hướng đi khác, không lựa
chọn truyện thơ hay thơ dài để biểu đạt mà quyết định sử dụng đến thể trường ca –
một thể loại thể hiện được những sự kiện, biến cố lớn của dân tộc. Trong cuộc kháng
chiến trường kì của dân tộc, nếu trường ca của Lê Anh Xuân là bản tình ca được thể
hiện qua thơ lục bát dịu dàng đằm thắm; trường ca Thu Bồn lãng mạn, phóng khoáng
mà bay bổng thì đến trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm là tiếng
ca sôi nổi nhiệt tình được cất lên từ trái tim thanh niên trẻ tuổi miền Nam cùng xuống
đường để tranh đấu. Đồng thời những dòng thơ khắc hình “Đất nước” là những nốt
nhạc rung động lòng người, được toả sáng dưới một cái nhìn mới mẻ - cái nhìn của cái
tôi thế hệ. Xuyên suốt chương Đất nước là tư tưởng đất nước của nhân dân nhuần
nhuỵ trong “Đất nước của ca dao thần thoại” ngàn năm lịch sử. Đó như một sợi chỉ đỏ
tạo nên mạch chảy đằm sâu, tha thiết trong xúc cảm của nhà thơ. Nó như là một bản
nhạc với đầy đủ những âm vực cao độ xen kẽ nhau, hoà quyện vào nhau tạo nên sự
hấp dẫn lôi cuốn cho người đọc.
Thơ Nguyễn Khoa Điềm khi viết về đề tài đất nước luôn mang giọng thơ đầy
xúc cảm, trang trọng. Nó vang lên như khúc hát sử thi hoành tráng. Đây cũng chính là
tư tưởng xuyên suốt trong bản trường ca. Nhà thơ tập trung thể hiện những suy tư sâu
xa nhất về những năm tháng chiến tranh. Đất nước được tái hiện trong những hình ảnh
thân thiết có mối quan hệ chặt chẽ, được đặt trong cái nhìn lịch sử – văn hóa: Nhân
dân với “những câu ca dao, thần thoại”. Từ đó, nhà thơ để mỗi người con Việt Nam
cảm nhận hết tầm cao cả thiêng liêng của hai từ “Đất nước”. Đó là sự hóa thân của
những giá trị lịch sử mà bao thế hệ đem máu xương gìn giữ, bảo vệ:
“Ôi đất nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.”
Cảm quan lịch sử – văn hóa đã tạo nên một chiều sâu, sức hấp dẫn riêng để
khơi gợi đặc biệt của chương Đất nước, điểm hội tụ và tỏa sáng toàn bộ bản trường ca,
tạo nên một vẻ đẹp độc đáo khác biệt so với những trường ca cùng thời. Tác giả
Nguyễn Khoa Điềm không hề miêu tả cụ thể đến những ai đã ghi công, ghi danh với
đất nước, cũng không thần thánh hoá đất nước lên mà lại đặt đất nước trong mối quan
hệ với nhân dân, giữa một với toàn thể, từ đó cho người đọc thấy được hình ảnh của
quê hương, Tổ quốc mến yêu, thân thương mà cao cả, đồng thời đánh thức trách
nhiệm và hành động đứng lên đấu tranh của cả một thế hệ.

23
Nguyễn Khoa Điềm đã bắt đầu từ việc làm sống dậy cả không gian văn hóa cổ
xưa của dân tộc trong bề dày lịch sử bốn nghìn năm để tái hiện quá trình bắt đầu và
phát triển của đất nước. Trong chiều sâu của một nền văn hoá phong phú, lâu đời luôn
chứa đựng hình ảnh dân tộc Việt Nam giàu những truyền thống quý báu: Cần cù, chịu
khó, dũng cảm trong chiến đấu, chung thuỷ bền vững trong tình yêu, gia đình, Tổ
quốc. Người đọc bắt gặp ở chương Đất nước là thế giới của truyện cổ, kho tàng của ca
dao… Lời kể ngày xưa của mẹ mở ra xứ sở cổ tích thần kì; miếng trầu của bà gợi câu
chuyện Trầu cau, với tình người nồng hậu, thuỷ chung, biểu tượng đạo lí sáng đẹp yêu
thương của dân tộc; luỹ tre xanh gợi truyền thuyết Thánh Gióng, như khúc anh hùng
ca tráng lệ về sức mạnh thần kì của nhân dân Việt Nam từ buổi bình minh non trẻ
dựng nước và giữ nước, và hình ảnh “gừng cay muối mặn” nghĩa tình đằm thắm trong
ca dao. Đất nước được gợi lại từ lịch sử, được sống dậy qua phong tục tập quán trong
đời sống tinh thần của nhân dân: Miếng trầu, tre xanh,…Tất cả đều làm nên khuôn
mặt một dân tộc nghĩa tình đằm thắm. Chất dân gian, hồn dân tộc như thấm vào từng
câu từng chữ. “Đất nước” bắt nguồn từ những cái hàng ngày gần gũi, cũng lại là
những cái bền vững sâu xa hình thành tồn tại từ ngàn xưa trong đời sống dân tộc, từ
những phong tục tập quán được tiếp nối thiêng liêng, qua nhiều thế hệ. Đó chính là
chiều sâu văn hóa – lịch sử của đất nước, nó góp phần khẳng định đất nước đã có từ
xa xưa, từ khởi thuỷ khi những cư dân đầu tiên khai phá đất đai lập nên xứ sở. Nhà
thơ suy cảm về lãnh thổ:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
…Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở”
Đất nước là mảnh đất quen thuộc gắn bó với mỗi con người, đất nước thân thương
như mái trường ta học, như dòng sông em tắm, như góc phố , đình làng, ao sen, lũy tre
, cây đa, bến nước nơi lứa đôi hò hẹn, một không gian nhỏ chỉ hai người biết, hai
người hay, rất riêng tư nhưng cũng đậm hồn quê hương xứ sở. Đất nước còn là núi
sông rừng bể bao la, là không gian sinh tồn và phát triển của bao thế hệ người Việt.
Trải qua thời gian, “Đất nước” trở thành một giá trị lâu bền, vĩnh hằng và được bồi
đắp qua nhiều thế hệ, được truyền nối từ đời này sang đời khác:

24
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình”
Trong Mặt đường khát vọng, suy tư về đất nước được Nguyễn Khoa Điềm cảm
nhận trong chiều rộng của không gian địa lí và truyền thống văn hóa mang đậm bản
sắc dân tộc. Nếu như không gian trong bài thơ cùng tên Đất nước của Nguyễn Đình
Thi là bầu trời, núi rừng, cánh đồng, ngả đường, thiên nhiên nói chung: “Trời xanh
đây là của chúng ta/ Núi rừng đây là của chúng ta” thì không gian trong Đất nước của
Nguyễn Khoa Điềm lại là sự mở mang, đặt trong mối quan hệ giữa các vùng đất với
sự sống và tinh thần con người, dân tộc, làm cho sự vật, thiên nhiên dường như có cái
hồn của nó: những núi Vọng Phu, đất Tổ Hùng Vương, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm,
hòn Trống Mái, Hạ Long, Ông Đốc,… không còn đơn thuần là những cái tên mà là sự
kết tinh của truyền thống nhân văn cảm động về những người con Việt Nam đời
thường, vô danh đã làm nên một “Đất nước” thân thương ngày hôm nay:
“Ôi đất nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta”
Đó là lịch sử và cũng là hiện thực của dân tộc, nhân dân ta đang sống và chiến
đấu dành sự sống. Sự mới mẻ độc đáo về hình tượng “Đất nước” trong thơ Nguyễn
Khoa Điềm một phần được tạo nên nhờ cách xử lý ngôn ngữ thơ đầy sáng tạo, nhờ
cách sử dụng hình ảnh, tín hiệu thẩm mĩ của ca dao tục ngữ, của đời sống dân gian …
với một tần số lớn. Chưa bao giờ cùng một lúc xuất hiện trong thơ một trường văn hoá
thuần Việt đặc sắc và phong phú như vậy. Đó là những huyền thoại lịch sử đã đi vào
tâm linh bao thế hệ người Việt về cội nguồn dân tộc:
“Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
“Ta lớn lên bằng niềm tin rất thật
Biết bao nhiêu hành phúc có trên đời
Dẫu phải khi cay đắng dập vùi
Rằng cô Tấm cũng làm về hoàng hậu”
Đất nước trong trường ca chính là những phong tục tập quán ngàn đời của dân tộc ta:
“Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.
Con nộm nang tre đánh lừa cái chết
Đánh lừa cái rét là ăn miếng trầu…
Đánh lừa thằng giặc là truyện Trạng Quỳnh.”

25
Bởi cách viết có sự kết hợp đầy khéo léo giữa thơ văn hiện đại và chất liệu dân
gian nên lời thơ về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm bao giờ cũng có một giọng cuốn
hút đặc biệt, trầm lắng và tha thiết. Bởi phong vị ca dao tập trung rất nhiều thành ngữ,
quán ngữ: Ngày xửa ngày xưa, một nắng hai sương, con cá ngư ông móng nước biển
khơi, gừng cay muối mặn, con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc, con cá ngư
ông móng nước biển khơi, yêu em từ thuở trong nôi, quý công cầm vàng,…Tất cả đều
là chất liệu của đời sống dân gian được nhà thơ biến hoá đầy khéo léo, cẩn thận đưa
vào trang thơ, khiến mỗi giai điệu mỗi lúc ngân lên lại quen thuộc, gần gũi và lắng
đọng rất sâu trong tâm thức người Việt.
Có thể nói, Nguyễn Khoa Điềm đã làm sáng lên tư tưởng: “Đất nước của nhân
dân”. Rõ ràng những suy tư, chiêm nghiệm về lý tưởng trên đã thật sự vang lên bằng
tiếng nói đầy nghệ thuật của thi sĩ. Nó như nốt nhạc độc đáo, ngân vang trong bản hòa
điệu của thơ ca chống Mỹ, thể hiện tâm hồn cảm xúc của thi nhân trước vẻ đẹp văn
hóa dân tộc. Tư tưởng ấy đến nay còn tươi nguyên bởi giá trị của nó, bởi trách nhiệm
“hóa thân cho dáng hình xứ sở” là vấn đề muôn đời của thơ ca và cuộc sống.

2.1.3. Đặc sắc về nội dung của Nhịp điệu châu thổ mới của Nguyễn Quang Thiều
Từ năm 1990, Nguyễn Quang Thiều đã bắt đầu có những tập thơ xuất bản, tiêu
biểu là tập Ngôi nhà tuổi 17. Sau đó ông bắt đầu tiếp tục xuất bản những tập thơ khác.
Tuy nhiên, ông chỉ thực sự nổi tiếng khi thai nghén và cho ra đời những trường ca.
Giữa những thay đổi của cuộc sống thì các nhà thơ cũng đang lặng lẽ tìm lối đi cho
mình. Trong số những nhà thơ không ngừng trăn trở, vật lộn giữa dòng sông thi phú
để tìm đến bến bờ riêng của đời thơ thì Nguyễn Quang Thiều đã tìm được cho mình
một bến đỗ với tên gọi “Trường ca”. Một trong những tác phẩm mang đậm hồn quê,
mang đậm sắc thái của ngôi làng thân yêu của ông, làng Chùa thì phải kể đến trường
ca Nhịp điệu châu thổ mới được ông sáng tác năm 1997.
Đọc Nhịp điệu châu thổ mới với từng chương người đọc như lạc vào một thế
giới vừa thực vừa như có gì đó kì ảo đến vô cùng, từng câu chữ làm xốn xang lòng
người khiến ta miên man như rơi vào giấc mộng. Không còn là cái đau đớn của người
dân nô lệ mất nước như trước năm 1945. Không còn hình ảnh của cuộc chiến đấu anh
dũng của đất nước ta như thơ trước năm 1976. Nhưng Nhịp điệu châu thổ mới vẫn
mang cái oai hùng của dân tộc, của hồn thiêng sông núi ánh lên mỗi câu thơ, Những
điều đó càng khiến ta muốn khám phá từng chương của Nhịp điệu châu thổ mới của
Nguyễn Quang Thiều để cảm và để nghĩ về những cái hay cái đẹp của trường ca này.
Trong trường ca Nhịp điệu châu thổ mới, xuyên suốt các chương là hình ảnh
Người Nông Dân Già và Cậu Bé. Xuất hiện ở đầu chương I là hình ảnh Người Nông

26
Dân Già tự tin, bình tĩnh, điềm đạm. Ông cẩn thận đến nỗi đặt tên cho những hành lý
của mình rồi cuối cũng khép cửa ra đi. Khi đến với chương IV, độc giả tưởng chừng
như chuyện kể về Người Nông Dân Già đã kết thúc ở nhưng không phải. Ở cuối
chương VII, Người Nông Dân Già trở lại trong hình hài Cậu Bé và mỉm cười. Đây
cũng chính là cái độc đáo của trường ca Nhịp điệu châu thổ mới. Hình tượng Người
Nông Dân Già đến hình ảnh Cậu Bé là hình ảnh nghệ thuật biểu hiện không thời gian
đời người trong tác phẩm. Đó là quá trình luân hồi và thay đổi da thịt của con người
của cuộc sống, của thời đại qua cái nhìn của nhà thơ, của thi ca sau bao thời gian
thăng trầm.
Xoay quanh câu chuyện đời thường về Người Nông Dân Già và Cậu Bé, tác giả
đã dẫn dắt người đọc đến với một khuynh hướng “sử thi” mới cho thời đại. Đó là
trường ca của cuộc sống mới của miền châu thổ sông Hồng.
2.1.3.1. Hành trình vươn lên, đứng dậy từ quá khứ
Trường ca Nhịp điệu châu thổ mới đã thể hiện rõ được tư tưởng của Nguyễn
Quang Thiều. Đó chính là hành trình vươn lên, đứng dậy từ quá khứ hào hùng của một
vùng đất đầy truyền thống. Ngay ở chương I, ta thấy được trong cái đứng dậy của
vùng đất, của con người, của dân tộc là tiếng vọng của đất, của ngàn năm. Cách mở
đầu bản trường ca cũng rất đặc biệt:
“Nến được đốt lên sớm hơn mọi thế kỷ trước
Những vết rạn dương gian chầm chậm tràn tràn đầy
Ánh hoàng hôn – đấy bình minh linh ẩn
Dâng ngập những mái nhà, những vòm cây, những đỉnh núi u trầm
Đỉnh sáng dựng lá cờ khải ca, lá cờ bất tử
Lá cờ sinh ra không được phép thiếu ngày”
Ánh sáng của nến được đốt lên như xua đi bóng tối. Ánh sáng của tự do, ánh
sáng của cuộc đời mới. Ánh sáng đó được toát lên từ chính lá cờ của đất nước Việt
Nam thân yêu, lá cờ đó là lá cờ vinh quang chiến thắng. Đây chính là bình minh của
miền châu thổ, bình minh của những chuỗi ngày mới. Ta cảm giác những câu từ như
lộn xộn, tưởng như vô nghĩa:
“Mọc lên cánh đồng xanh phía thì thào cháy họng
Dào lên miền nhiệt đới ướt át, run rẩy đã từng khóc trộm”
Nhưng những câu những từ trong chương I cũng như bao trùm tác phẩm không
hề vô nghĩa. Tất cả đều toát lên sự trỗi dậy từ quá khứ của mảnh đất này. “Nến được
đốt lên sớm hơn mọi thế kỷ trước” là câu thơ được nhắc đến ba lần trong chương như
sự bừng tỉnh của một dân tộc, bóng tối được xua đi. Ánh nến tan đi cũng giống như
“hơi thở bất tận ẩm ướt và nóng hổi phủ trên Châu Thổ”.

27
Vẫn trong cái mạch cảm xúc đó, vẫn giọng thơ và ngôn từ như hư ảo, như ma
chú hồn người tác giả đã dẫn người đọc với một chương khúc mới. Cái chất trường ca,
cái hào hùng thể hiện trong “tiếng tù và” mạnh mẽ. Sự xuất hiện của lịch sử cũng rất
khác lạ khi “phía bên kia, những vầng mây không mang họ của nước; Chở lịch sử của
chúng tôi nham nhở dọc chân trời”. Lịch sử hào hùng như những áng mây, được rải
khắp chân trời của tổ quốc. Và lúc này Cậu Bé xuất hiện, Cậu Bé phải chăng chính là
biểu tượng của cái mới gắn với hình tượng chú chuột đồng của nền nông nghiệp châu
thổ sông Hồng. Cậu Bé quay về trong tiếng gọi của di chúc là sự quay lại của sự sống
hay sự đi lên của cuộc sống “Con chuột đồng tha thứ răng nanh trong khúc chia ly của
thế hệ ngũ cốc” – nền nông nghiệp đang dần được thay đổi trong cuộc sống thay đổi.
Ở chương III là sự thay đổi mạnh mẽ của cuộc sống mới, trong thay đổi là cái
vật lộn của tâm hồn Người Nông Dân Già. Cái đặc sắc của nội dung được chứa đựng
trong một cái “xác” thơ vừa quằn quại đớn đau, vừa như muốn vươn tới cái mới với
sự bỡ ngỡ và Người Nông Dân Già đã ra đi còn “Cậu Bé đi gọi tên linh hồn đất; Bằng
những cách gieo âm tiết của riêng mình”. Sự ra đi của Người Nông Dân Già và sự
xuất hiện của Cậu Bé là cái mới sinh sôi trên cái nền của của ruộng vườn, của linh hồn
một thời quá khứ.
2.1.3.2. Niềm tin vào tương lai
Trong Nhịp điệu châu thổ mới, chương IV không còn sự giãy giụa của quá khứ,
không còn sự lăn lộn của lựa chọn giữa truyền thống và đổi thay mà đó chính là sự bứt
phá trong tâm trạng. Giọng thơ ở chương này mang sắc thái của hạnh phúc và niềm
vui. Cánh cửa của tương lai mở ra, “những vòm họng được cọ rửa”, sự sạch sẽ, mới
mẻ hằn lên “Xin chào Người! Và chiếc áo mới đang hình thành; Tà áo chạy qua hoàng
hôn đắm mê, qua bình minh lưỡng lự; Cuối đường kim dội lại tiếng Người”.
Chương V đến chương VII lại là những đổi thay đến vần vũ. Nội dung của từng
chương của trường ca cứ khi trầm khi bổng. Lúc như tiếng hoan ca như ở chương IV
nhưng đến chương V lại là sự trầm lắng trong cái thống thiết, trong cái vật vã của
những sự biến động. Hình ảnh đặc sắc nhất trong khổ V lại là hình ảnh Cậu Bé với lá
cờ ngũ sắc và một con đường tương lai hiện ra. Chất trường ca ở những chương cuối
không mất đi mà bằng ngôn ngữ như ma mị, như thực như hư vẫn cứ sáng lên không
tắt. Cái hùng tráng được thể hiện qua những ngôn ngữ thơ điêu luyện
“Người đang đi. Kìa! Người đang đến
Con đường Người không thay đổi, không mở đầu, không kết thúc
Người đang đến. Người đang trở về
Con đường tinh kết. Con đường lan tỏa”

28
Cứ như vậy hình ảnh Cậu Bé càng ngày càng vững vàng, càng sáng lóa trong
bước đi đến tương lai.
“Và Cậu Bé đi, trong tiếng đập rền rĩ của cờ ngũ sắc
Đập rung ánh ngày và vọng đến những cánh rừng đêm
Nơi những lá cờ đã say ngủ, quên cả mùa di cư, quên những con đường gió
Giờ dập cánh bay lên, lượn quanh cờ ngũ sắc, theo hình trôn ốc
Và Cậu Bé đi, không phải để dựng lên một lá cờ khác
Chỉ đi như một trụ cầu để đỡ lấy một giọng nói”
Đấy cũng chính là nét đặc sắc trong diễn tả của người cầm bút tài năng. Đến
chương VII khi kết thúc bản trường ca này, một lần nữa nhà thơ muốn gửi tới chúng ta
rằng: Trên cái nền của quá khứ dân tộc, trên cái nền của đất đai châu thổ, một cuộc
sống mới bắt đầu. Cuộc sống mới đó song hành bên những cái đã có, giống như sự
hòa quyện của truyền thống và hiện đại, của nông nghiệp và công nghiệp ở thời kì
mới:
“Và giờ đây mọc lên một quả đồi mới, mọc lên một người bạn
Mọc lên không sụp lở bởi cơn mưa lầm lạc, khốn cùng
Mọc lên bên cạnh Cậu bé và lộng lẫy song đôi, và thấu hiểu song đôi
Và im lặng cùng nhau tròn sự đợi chờ của thế giới những lá cờ say ngủ.”
Kết thúc trường ca là hình ảnh Cậu Bé – thế hệ trẻ của tương lai:
“Đêm vĩ đại và linh ẩn đã chuẩn bị con đường cho Cậu Bé
Những quả đồi tự xưng tên tuổi thật của mình
Tất cả thức dậy và đứng lên, những quả đồi bóng tối
Thức dậy không quờ tay tìm đèn và không cả ho khan
Thức dậy và rút những chân hương ra khỏi ngực mình
THỨC DẬY ĐỂ CHÀO ĐÓN MỘT GIỌNG NÓI”
Cuộc sống trỗi dậy và thức dậy trong niềm vui bất tận, mọi gánh nặng đang kéo gì tâm
hồn người như chân hương được rút ra khỏi lồng ngực một người đề chào đón một
giọng nói mới.
Nói tóm lại, có rất nhiều ý kiến khác nhau khi bàn luận về trường ca của
Nguyễn Quang Thiều. Cũng có những ý kiến cho rằng những tác phẩm của ông nội
dung không rõ. Nhưng chỉ khi tiếp cận tác phẩm, đọc đi đọc lại từng chương ta mới
thấy được những thứ ẩn sâu trong nó. Có thể khẳng định với cách viết phóng khoáng,
hình ảnh mang tính hình tượng thì Nhịp điệu châu thổ mới xứng đáng là một trường ca
về sự tái sinh và trỗi dậy của vùng đất châu thổ sông Hồng. Những gì mà nhà thơ, nhà
văn Nguyễn Quang Thiều đã cống hiến cho độc giả đáng được chúng ta ngưỡng mộ
và trân trọng.

29
2.2. Đặc sắc về hình thức nghệ thuật của trường ca Việt Nam
2.2.1. Cấu trúc
Sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của trường ca đã trở thành một hiện tượng nổi
bật trong đời sống thơ ca. Cùng với thời gian, trường ca không chỉ khẳng định sự độc
lập của mình như một thể loại riêng biệt mà ngày càng phát triển rực rỡ với nhiều
thành tựu về chất lượng và số lượng. Có thể nói, từ trường ca sử thi sang trường ca
hậu hiện đại, bản thân nó đã có nhiều sự thay đổi. Bên cạnh những đổi mới về mặt nội
dung, trường ca cũng có sự cách tân về mặt cấu trúc, không còn giữ nguyên cấu trúc
cố định như trường ca sử thi mà có sự phong phú hơn, linh hoạt hơn.
Điều đó được thể hiện trước hết ở Bài ca Chim Chơ rao của tác giả Thu Bồn.
Chúng ta dễ dàng nhận ra bản trường ca này đã được nhà thơ xây dựng theo kiểu cấu
trúc truyền thống có cốt truyện và nhân vật cụ thể. Tuy vẫn sử dụng dạng cấu trúc cũ
nhưng ở đây Thu Bồn đã thể hiện sự bứt phá mới ở chỗ trường ca không còn nặng về
tính tự sự mà quan tâm đến yếu tố trữ tình, không nghiêng về kể chuyện mà chú ý đến
cảm xúc biểu đạt nhiều hơn. Cái hấp dẫn, cái độc đáo của bản trường ca này không
nằm ở nội dung câu chuyện mà nằm ở dòng cảm xúc dạt dào trong cách kể, cách dẫn
dắt câu chuyện của Thu Bồn. Bài ca chim Chơ rao gồm 230 khổ, mỗi khổ 4 câu thơ,
không có nhan đề cho từng khổ mà các khổ được nối nhau bằng những câu thơ chuyển
mạch. Mở đầu là tiếng hát trong nhà lao vào thời điểm “đêm tháng bẩy trời sao yên
tĩnh/ Tiếng lá rơi gõ nhẹ trước hiên thềm”. Tiếng hát trong hai câu thơ đầu là nguyên
cớ dẫn dắt độc giả đến cuộc hội ngộ của ba nhân vật chính là Hùng, Rin và Sao. Từ
đó, tác giả kể lại toàn bộ câu chuyện bi tráng giữa Rin và Sao, cũng như cuộc đời xa
quê đi làm cách mạng của nhân vật Hùng. Câu chuyện kết thúc bằng cái chết cao cả,
bi hùng của hai người chiến sĩ Hùng và Rin “Tôi sẽ chết bằng xe kéo trên đường/ Máu
thịt tôi quyện vào bụi đất/ Xương óc tôi rải khắp quê hương”, “Máy rú, xe từ từ lăn
bánh/ Hai chiến sĩ điềm nhiên đến pháp trường/ Hùng, Rin nhìn trời mây cây cỏ/ Lần
cuối cùng vĩnh biệt quê hương”. Tưởng chừng câu chuyện đến đây là kết thúc nhưng
sau đó, nhà thơ lại mở ra một khung cảnh mới bằng những câu mang tính chất kể “Tôi
đến thăm nơi một già làng vừa yên nghỉ/ Hoa Wang-kơ-run nở thắm cả đồi”, “Trở về
buồng giam Sao hát”, “Y Rin ơi ngực mày có lửa”,.... Những câu mở đầu đầy chất tự
sự không nhằm mục đích kể lại mà thực chất được dùng để làm nền cho những câu

30
thơ đầy cảm xúc phía sau, nhấn mạnh sự rung động trong tình cảm, cảm xúc. Đây
cũng chính là thành công của Bài ca chim Chơ rao.
Qua cấu trúc Bài ca chim Chơ rao, ta nhận thấy chức năng của các yếu tố tự sự
– trữ tình trong cấu trúc trường ca bắt đầu thay đổi. Các trường ca trước đây, tự sự là
chủ đạo, đóng vai trò chính, chi phối cấu trúc trường ca thì dần dần tính trữ tình càng
lấn át. Chính sự thay đổi yếu tố tự sự và trữ tình đã dẫn đến sự đổi thay trên cấu trúc
bề mặt hình thức của trường ca. Một minh chứng rõ nét cho việc thay đổi này là
trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm. Nhà thơ tổ chức triển khai
văn bản thành các chương, ở mỗi chương ông lựa chọn đặt tên theo chủ đề chứ không
theo kiểu bố cục truyền thống. Khi bàn đến cấu trúc của bản trường ca này, Nguyễn
Khoa Điềm cũng từng thú nhận: “Tôi lựa chọn viết trường ca, cấu tứ theo từng mảng,
như thế vừa dễ triển khai cảm xúc vừa dễ sử dụng chất liệu”. Trường ca Mặt đường
khát vọng có cấu trúc tổng thể gồm 9 chương, các chương đều trình bày một chủ đề
gồm:
Chương 1: Lời chào, âm thanh nhẹ nhàng của “tiếng đàn sẻ nâu”, những khúc đồng
dao trẻ con để “suốt đời tiếng Việt mãi ngân nga”.
Chương 2: Báo động, những câu thơ tự do trải ra dài ngắn thất thường, âm thanh hỗn
tạp của những gót giày lính viễn chinh nện trên đường phố.
Chương 3: Giặc Mỹ, đầy suy tư, chiêm nghiệm về bản chất của kẻ thù mới.
Chương 4: Tuổi trẻ không yên, âm vang tiếng “chuông thu không” từ “hai mươi ngôi
chùa” vọng đến đánh thức tuổi trẻ miền Nam tự ý thức và nhận trách nhiệm mới về
mình.
Chương 5: Đất Nước, khi thì lắng sâu, khi lại suy tư cùng những thăng trầm của lịch
sử dân tộc.
Chương 6: Áo trắng mặt đường, sôi nổi nhưng cũng đầy trăn trở trong những bước
chân.
Gay gắt, dữ dội hơn cả là chương 7: Xuống đường, tràn ngập âm thanh: âm thanh đầy
sát khí của hơi cay, bom đạn kẻ thù, tiếng đả đảo của quần chúng...
Đạt cao trào ở chương 8: Khoảng lớn âm vang, từ thành phố Huế lan tỏa khắp đô thị
miền Nam với “Những âm thanh nghẹn ngàn, dữ dội/ Báo phút lên đường chống Mỹ
thiêng liêng/ Vang, vang, vang như trỗi vạn hồi kèn/ Báo hiệu chúng ta tiến vào lịch
sử/ Quyết đánh Mỹ và quyết tâm thắng Mỹ!...”.
Bản trường ca kết thúc bằng chương 9: Báo bão với sự hô vang của nhân dân miền
Nam: “Quét sạch nó đi! “Quét sạch nó đi”.
Cấu trúc này giúp mạch thơ nhất quán và làm cho tác phẩm trở nên hấp dẫn
hơn. Mỗi chương trong trường ca đều mang một ý nghĩa riêng, phản ánh các khía cạnh

31
khác nhau của cuộc sống và tình hình lịch sử, xã hội thời bấy giờ. Chương Đất nước
đứng ở trung điểm của trường ca, nối tiếp các sự kiện và tạo nên một cao trào cho ý
thơ phát triển; thể hiện tình yêu quê hương sâu sắc của tác giả, đồng thời cũng là nơi
thể hiện những khát vọng, ước mơ của người dân. Cách triển khai cấu trúc theo chủ đề
giúp mở rộng dung lượng phản ánh, thể hiện được sự đa chiều trong cảm hứng, thể
hiện được những mảnh ghép trong cảm xúc của người viết. Việc tổ chức đoạn thơ theo
chủ đề là một sự đổi mới và vận động hợp lý của tư duy hiện đại. Điều đó được nhà
thơ Nguyễn Quang Thiều thể hiện ngay trong bố cục bề ngoài của bản trường ca Mặt
đường khát vọng.
Sự thay đổi về mặt cấu trúc ở thể loại trường ca còn được thể hiện rõ ở văn bản
Nhịp điệu châu thổ mới của Nguyễn Quang Thiều. Nhận thấy rằng, bản trường ca này
không nằm trong nhóm cấu trúc truyền thống, nghĩa là ông không lấy vấn đề tự sự làm
trung tâm biểu hiện. Cấu trúc trong trường ca Nhịp điệu châu thổ mới của Nguyễn
Quang Thiều được chia làm 7 chương nhưng nó vẫn có những nét khác biệt. Ở đây,
cách phân chia trường ca thành các chương không phải là vấn đề mà ông quan tâm,
chú ý đến. Điều này hoàn toàn khác so với Trường ca Mặt đường khát vọng của
Nguyễn Khoa Điềm gồm 9 phần. Nguyễn Khoa Điềm chú trọng nhấn mạnh sâu sắc
đến chủ đề các phần và giữa các chủ đề ấy có sự liên kết, liên quan đến nhau. Điều đó
là cần thiết để tác giả Nguyễn Khoa Điềm đi từ những chủ đề nhỏ rồi hướng đến một
chủ đề lớn là bối cảnh đánh giặc sục sôi của đất nước trong kháng chiến chống Mỹ.
Trái lại, Nguyễn Quang Thiều chủ trương đi tìm những hình thức diễn đạt mới, xây
dựng lối cấu trúc hoàn toàn khác. Ở trường ca Nhịp điệu châu thổ mới (1997) không
tổ chức cấu trúc theo tuyến sự kiện mà theo dòng ý thức. Mặc dù, trong đó, ta tìm thấy
một chút sự kiện, đó là lễ đưa tang một người nông dân nhưng sự kiện đó có phần mờ
nhạt. Bởi đó chỉ là cái cớ để Nguyễn Quang Thiều chú ý khai thác cảm nhận của
người đưa tang - nhân vật Cậu Bé: “Một Cậu Bé, dựng lên nín thở/Bản di chúc đã đến,
phía bên kia, bầy ngựa bạch rũ bờm”. Vậy nên, trong trường ca này, sự phi trật tự
không thể hiện ở sự kiện (vì chỉ có một sự kiện “đám tang một người nông dân”) mà
thể hiện trong điểm nhìn, trong cảm xúc hình tượng nhân vật. Điểm nhìn trung tâm là
của nhân vật Cậu Bé. Với con mắt nhạy cảm, Cậu Bé nhìn nhận thời gian, không gian
trong trạng thái mờ mịt, chập chờn và liên tục biến đổi, khi là “những mái nhà, những
vòm cây, những đỉnh núi u trầm”, lúc lại là “Con đường của cái chết đẹp không bao
giờ đánh lừa hướng đi của bóng tối. Thế nên, việc sắp xếp lại trật tự cấu trúc của các
phần trong Nhịp điệu châu thổ mới là một điều không tưởng. Thời gian quá khứ và
hiện tại tồn tại, hòa trộn thực hư. Đồng thời, nó lại được thể hiện đan xen bằng các
hình ảnh chồng chéo: “Phía bên kia, quanh bước chân Cậu Bé, hiện lên/ Con chuột

32
đồng loang loáng vệt đất nâu trên thế giới đắm mê của cỏ/ Con chuột đồng bỏ quên
công thức và nỗi khát thèm gặm nhấm/ Con chuột đồng dừng lại, cắn môi bên bông
hoa cổ tích”. Về cơ bản, rất khó để phân chia cấu trúc Nhịp điệu châu thổ mới ra thành
từng lớp nhỏ, bởi bản thân nó đã bị đan xen, trộn lẫn. Xây dựng cấu trúc theo dòng ý
thức, Nguyễn Quang Thiều cố ý vứt bỏ tính nhất quán và hoàn chỉnh của cốt truyện.
Không chú ý đến trật tự của bối cảnh, ngoại cảnh, các câu thơ được xây dựng theo các
mạch của ý thức. Trong đó, ông cũng tận dụng các thủ pháp tiêu biểu như đảo ngược
thời gian, hòa trộn thực hư, hiện tại quá khứ, tương lai. Cùng với nhiều cây bút khác,
Nguyễn Quang Thiều đã đóng góp những hướng cách tân mới về mặt cấu trúc vào
dòng văn học trường ca mang màu sắc hậu hiện đại Việt Nam.

2.2.2. Ngôn ngữ trường ca


Ngôn ngữ nghệ thuật là yếu tố quan trọng của thi pháp văn học, đặc biệt là thi
pháp trường ca. Theo nhà văn M.Gorki: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”, là
vũ khí cơ bản nhưng “đặc biệt” mà bất kỳ nhà văn, nhà thơ nào cũng cần phải có. Tuy
nhiên, khác nhiều so với ngôn ngữ đời sống là công vụ giao tiếp được sử dụng trong
đời sống hàng ngày, qua bàn tay “phù thủy” nhạy cảm và đầy tinh tế của người nghệ
sĩ, ngôn ngữ văn học đã được cách điệu hóa, nghệ thuật hóa nhằm làm tăng tính hiệu
quả thẩm mỹ đến bất ngờ cho các sáng tác văn học. Đối với những cây bút chân chính,
họ luôn có ý thức cao độ trong việc trau dồi, tìm tòi và đổi mới ngôn ngữ không
ngừng để mỗi trang văn, dòng thơ có thể mang trong mình “phong vị”, cá tính của
riêng họ. Chính vì thế mà qua từng giai đoạn phát triển của văn học, ngôn ngữ văn học
hay chính ngôn ngữ trường ca cũng luôn có những sự kế thừa và đổi mới hơn so với
trước đó.
Trước hết phải kể đến ngôn ngữ trong Bài ca chim Chơ rao của Thu Bồn, ngôn
ngữ trường ca lúc này vẫn còn mang đậm dáng dấp, âm hưởng của trường ca cổ, sử thi
dù cho đã có những lối diễn đạt sáng tạo, độc đáo, mới mẻ, mang hơi thở của một con
người hiện đại. Trường ca Thu Bồn luôn hướng tới yếu tố chân thật, với tên người, tên
đất cụ thể, chất liệu dân gian, gắn với câu chuyện lịch nhưng vẫn đậm âm hưởng tráng
ca, Bài ca chim Chơ rao chính là một dẫn chứng cụ thể. Đây là một tác phẩm mang
âm hưởng lãng mạn ca ngợi Cách mạng tháng Tám và công cuộc xây dựng Chủ nghĩa
xã hội với những hình tượng nhân vật có hành động chứa đựng chất thơ, chất lý tưởng
của hiện thực. Bởi thế mà thứ ngôn ngữ ở đây lúc nào cũng mang hơi hướng của kiểu
ngôn ngữ cường điệu, phóng đại và mang đậm chất triết lý, nhân sinh sâu xa, thâm
thúy. Xuyên suốt tác phẩm, nhà thơ đã sử dụng hàng loạt các từ ngữ gọi tên nhằm gọi
tên người: Rin, Hùng, Sao – những chiến sĩ tham gia cách mạng, Lum – tên chánh

33
tổng làng bên kia suối, Đăm San, thần Xinh Nhã, Nơ-trang-lơn, Dốc, Xếch… hay gọi
tên vật như pu-pút, pơ-xe, xem-tơ-răng, con dòn, cây ata-rôn, câu kơ-tơ-đáp, hoa lơ-
pang… hay gọi tên đất cụ thể như núi Pa-lơn-khơn, Đồi Khoac-roong-reng, sông
Ading, Tây Nguyên, Trường Sơn…. Tuy nhiên, dù gọi tên nhiều là thế nhưng Thu
Bồn vẫn không hề khiến cho câu thơ trở nên khô khan hay nhàm chán chính bởi thứ
ngôn từ mang tính khái quát cao với khả năng sử dụng hài hòa các biện pháp tu từ với
nhau như so sánh, ẩn dụ…. Đó là những câu thơ sử dụng vốn ngôn ngữ đầy phóng
túng với lối diễn đạt phóng đại quen thuộc của trường ca cổ Tây Nguyên đã gợi rõ nét
về một Tây Nguyên khoáng đãng, trù phú:
“Rẫy của mình ăn ba trải núi
Dàn khinh khung bằng bốn nhà rông”
Lối diễn đạt này cũng đã xuất hiện ở trong những câu thơ lúc chiến sĩ Rin đối thoại
với kẻ thù mang đậm âm hưởng tráng ca, khắc sâu mối hận thù của những người anh
hùng sắp sửa hy sinh vì chính nghĩa, một dân tộc đang bị đầy đọa, bị cướp đoạt hòa
bình:
“Dân tộc tao căm thù đầy bụng
Máu đỏ dòng sông nước chửa nhòa.”
Ngôn ngữ mang hơi hướng lịch sử, phóng khoáng, tráng ca là như thế, nhưng
nhằm biểu lộ một tâm hồn cao cả, một khát vọng bất tử về một cuộc đời mới, một đất
nước độc lập, thống nhất và khiến Bài ca chim Chơ rao đến gần hơn với bạn đọc, Thu
Bồn đã lồng ghép thêm một kiểu ngôn ngữ khác mang âm hưởng nhẹ nhàng hơn, giàu
chất trữ tình đằm thắm, mượt mà bay bổng. Đó là tiếng hát đầy du dương của đôi trai
gái Tây Nguyên về mối tình tươi đẹp với những mộng mơ về việc cưới xin:
“Tiếng hát ấy vẫn còn văng vẳng
Ơi con dòn đậu đẹp cành cây”
nhưng rồi hiện thực khốc liệt đã ngăn cách hai con người đó đến với nhau. Hay qua
thứ ngôn ngữ bóng bẩy, đẹp đẽ với hình ảnh ẩn dụ đầy kỳ vĩ, ta lại bắt gặp những
người chiến sĩ như Hùng và Rin hiện ra vẫn hiên ngang giữa pháp trường, trước cái
chết vẫn ngoan cường, kiêu hãnh biết bao:
“Ôi hai con chim ưng trong bão tố
Đầu sắp rơi đôi cánh vẫn tung bay”
Họ không hề run sợ cái chết và dẫu cho có phải chết thì những người chiến sĩ ấy cũng
sẽ kiên trung chọn một “cái chết đầy ý nghĩa”:
“Tôi sẽ chết bằng xe kéo trên đường
Máu thịt tôi quyện vào bụi đất
Xương óc tôi rải khắp quê hương”

34
Nhưng trước sự vận động không ngừng nghỉ của văn học, ngôn ngữ trường ca
cũng dần có sự thay đổi, chuyển biến nhằm đáp ứng thị hiếu của người đọc, cụ thể là
ngôn ngữ trong Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm. Mặc dù vẫn được trau
chuốt tỉ mỉ, tinh tế nhưng ngôn ngữ trường ca giờ đây đã có sự gần gũi hơn với cuộc
sống đời thường, không còn mang đậm hơi hướng của ngôn ngữ sử thi. Trải dài suốt 9
chương, cách kết hợp từ đơn giản đến nỗi tưởng chừng như khô khan nhưng thật bất
ngờ khi những dòng trường ca vẫn căng tràn giá trị thẩm mỹ với giá trị nghệ thuật lớn
lao. Qua cách lựa chọn ngôn từ mang cái giá trị biểu hiện trần trụi nhất, gần với hơi
thở cuộc sống đời thường, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa trường ca đến gần hơn với
người đọc. Đó là khi nhà thơ gọi tên giặc Pháp, “những con cá sấu Đại Tây Dương”,
người Mỹ, các bạn Việt Nam,... (Báo động), tên lính Pháp, tên lính Mỹ, “là Giếch, là
Giôn, là Tôm là Uých”, người Việt Nam,... (Giặc Mỹ) – những tên gọi hằn sâu trong
tâm thức của mỗi người dân Việt. Đó là lòng biết ơn từ những điều giản dị nhất “con
quý yêu tháng ngày tuổi trẻ/ Buổi mở mắt chào đời, phút nhắm mắt ra đi…” (Lời
chào), đó là một đất nước đã hóa vào trong cuộc sống của nhân dân “...Là nơi anh đến
trường/...là nơi em tắm/...là ta hò hẹn/...là nơi em đánh rơi chiếc khăn...” (Đất nước).
Đến với thời hậu hiện đại, ngôn ngữ trường ca mang âm hưởng sử thi đã bị xóa
nhòa, “khoảng cách sử thi” với đời sống đã bị xóa bỏ. Ngôn ngữ trong Nhịp điệu châu
thổ mới của Nguyễn Quang Thiều có sự gần gũi với đời sống nhưng đã được lạ hóa
tạo nên sức hút riêng trong trường ca ông. Nhà thơ không ngần ngại gọi tên “Người
Nông Dân Già” (Chương I,III,IV); “Cậu Bé”, “con chuột đồng” (Chương II); “Những
người đàn bà già của làng đồng phục màu nâu” (Chương IV,V)... xuyên suốt bản
trường ca, những tên gọi mộc mạc đậm chất cuộc sống đời thường. Tuy nhiên, những
hình ảnh thân quen nhưng cũng thật mới lạ ấy kết hợp với động từ, danh từ hay tính từ
cũng sẽ khiến cho các kiểu loại từ này trở nên đặc biệt hơn bao giờ hết. Đó là khi ta
“dựng lá cờ” trên “xương thịt”, đi qua những ngôi nhà đang “sụp lạy, loang lổ” trong
ánh chiều hoàng hôn hay “nỗi đau” chưa thể nào nguôi trong “tự do của vải”, “con
đường của cái chết” không hề đáng sợ mà lại thật “đẹp” hay tự phía nào có tiếng “thì
thào” đến “cháy họng”.... Ngôn ngữ trường ca nói chung, ngôn ngữ trong Nhịp điệu
châu thổ mới nói riêng giờ đây đã mang đậm âm hưởng đầy tính bi ai, đau thương.
Từ đó, chúng ta thấy được rằng, ngôn ngữ ngày càng gần gũi hơn với đời sống
thường nhật, khoảng cách sử thi cũng dần được rút ngắn lại.

2.2.3. Giọng điệu trường ca


Nếu như ngôn ngữ là viên gạch để xây dựng nên một bản trường ca thì giọng
điệu nghệ thuật chính là chất phụ gia nhằm làm tăng tính liên kết cho các yếu tố trong

35
tác phẩm ấy. Trước sự vận động của những đặc điểm nghệ thuật ấy, giọng điệu cũng
cần phải có những bước biến chuyển để theo kịp với kết cấu và ngôn ngữ. Đặc biệt,
kết cấu của trường ca là một kết cấu đa chiều, kết hợp trong mình nhiều thể loại khác
nhau, thế nên, trong giọng điệu trường ca có hai đặc trưng nổi bật, đó là sự kết hợp hài
hòa giữa giọng điệu trữ tình và tự sự. Không những vậy, theo dòng vận động của
trường ca, giọng điệu của thể loại này lúc bấy giờ cũng có sự dịch chuyển từ giọng
điệu ngợi ca sử thi sang giọng điệu bi ai.
Như đã nhắc đến, ngôn ngữ trường ca được Thu Bồn sử dụng vẫn còn mang
đậm âm hưởng của trường ca cổ, sử thi dù cho đã có những lối diễn đạt sáng tạo, độc
đáo; và để phù hợp với kiểu ngôn ngữ ấy, giọng điệu mà nhà thơ vận dụng trong tác
phẩm của mình, cụ thể là Bài ca chim Chơ rao luôn im đậm cái giọng kể, đối thoại mà
trữ tình mang tính khái quát cao. Lời kể mang tính tự sự, giới thiệu nhân vật tha thiết,
giàu hình ảnh với giọng kể giàu chất thơ sử dụng thành công thủ pháp so sánh, không
màu mè, cao siêu mà dễ hiểu: “Hùng, Rin chết như bao người khác/ Đã xông lên
nhưng thác đổ cuốn trời/ Dân tộc ta mang trái tim chiến đấu”. Giọng điệu đối thoại
trường ca Thu Bồn phong phú: thường đối thoại nhân vật trữ tình trường ca, người
lính với người lính, người lính với kẻ thù, người trai với người gái, đôi chỗ đối thoại
tác giả - chủ thể trữ tình với nhân vật trữ tình hay chủ thể trữ tình thể. Cùng với ngôn
ngữ đậm chất dân gian mang tính lịch sử, giọng điệu phù hợp, giàu nhạc điệu, thở của
lời ru ngào: “Anh nhớ tiếng ru hát cũ/ Cái chim xanh ăn trái xoài xanh/ Mẹ ru trưa
nồng anh ngủ/ Con chim xanh ăn trái xoài xanh” Lời ru mẹ lớn lao vô cùng, lời ru đất
nước, ru người anh hùng hy sinh vì nghĩa lớn.
Tiếp nối theo đó, giọng điệu trong Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa
Điềm luôn mang âm hưởng của sự hào hùng, ngợi ca, mang một niềm tin quyết thắng,
tin vào một ngày mai đất nước sẽ được giải phóng, nhân dân sẽ được hưởng tự do, ấm
no, hạnh phúc. Đó là “Ta đã thấy cuộc đời vô hạn/ Giữa đất đai, nhân dân, bè bạn/ Ta
tìm ra ánh sáng của Con Người/ Những Con Người làm sông núi sáng tươi…” (Đất
nước), là Những mặt đường/ Do chúng ta đắp nên/ Phải đưa ta đến tháng ngày tươi
đẹp/ Đưa ta đi tìm chân lý/ Đưa anh đi tìm em/ Đưa ta đi đuổi Mỹ/ Lật đổ bầy Việt
gian/ Đưa cuộc đời đi từ bình minh đến hoáng hôn” (Áo trắng và mặt đường). Đặc
biệt, trong những dòng trước ca ấy, xuyên suốt các phần của tác phẩm như là một lời
đối thoại, tâm sự với người đọc nhằm khích lệ, khơi gợi tình cảm yêu nước thẩm sâu
bên trong họ.
Tuy nhiên, đến với giọng điệu trong Nhịp điệu châu thổ mới của Nguyễn
Quang Thiều, ngay lúc này đây giọng điệu ngợi ca sử thi trước đó đã không còn mà
thay vào đó là giọng điệu bi ai, bi tráng của thời hậu chiến. Những dòng đối thoại như

36
“Xin chào người/ Chúng ta sinh ra, chỉ có sinh ra/…” hay giọng điệu nhẹ nhàng, du
dương nhưng đầy bi ai khi miêu tả khung cảnh “Lá sang sảng khua lên, và vang xa,
không sao cầm được.../ Khẽ cúi đầu, khẽ mỉm cười, trong vô bờ nhận biết” hay trong
những lời hát “Chúng ta sinh ra, chỉ có sinh ra.../ Chúng ta sinh ra miên man, phủ
ngập những cánh đồng cái chết” nỗi buồn dần trở nên bi thương hơn bao giờ hết
nhưng rồi “Chúng ta sinh ra..../ sinh ra.../ thanh đới hiện lên cầu vồng bảy sắc” đầy
niềm vui, hân hoan khó tả. Với sự đa dạng trong giọng điệu, trường ca của ông đã dần
trở nên gần gũi hơn, đáp ứng với thị hiếu người đọc hơn.
Nói tóm lại, chúng ta thấy được rằng, không chỉ ngôn ngữ mà ngay cả giọng
điệu cũng ngày càng gần gũi hơn với đời sống thường nhật, khoảng cách sử thi cũng
dần được rút ngắn lại.

Tiểu kết chương 2


Như vậy, ở chương 2, chúng tôi đã phân tích và làm rõ các đặc điểm của
trường ca Việt Nam nhằm khẳng định sau thời gian dài phát triển, trường ca đã có
những sự đổi mới về cấu trúc, giọng điệu nghệ thuật, ngôn ngữ, … để phù hợp hơn
với tình hình thực tế đời sống và thị hiếu người đọc. Đó chính là kết quả của quá trình
nhận thức và sáng tạo. Dù là mang tính sử thi hào hùng hay tính nhạc, tính trữ tình
cũng đều là đặc điểm chủ đạo của thể loại đặc biệt này. Từ đó, chúng ta càng hiểu rõ
tầm quan trọng của trường ca và xem nó là một thể loại cần được tiếp tục phát triển để
nhiều bạn đọc trẻ có cơ hội tiếp cận và chiêm nghiệm về những thông điệp mà các nhà
thơ gửi gắm trong mỗi bản trường ca.

37
KẾT LUẬN

1.1. Qua quá trình khảo sát và phân tích, tiểu luận đã đi sâu và làm rõ được hai vấn đề
chính, đó là quá trình vận động và đặc điểm (nội dung biểu hiện, hình thức nghệ thuật)
của trường ca Việt Nam thông qua các tác phẩm tiêu biểu như Bài ca chim Chơ rao
của Thu Bồn, Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm cùng Nhịp điệu châu thổ
mới của Nguyễn Quang Thiều. Những trường ca ở giai đoạn đầu đều mang theo tinh
thần sử thi nhưng đến Nhịp điệu châu thổ mới của Nguyễn Quang Thiều lại có xuất
hiện cái tôi bản ngã, nghĩa là xu hướng nhìn về nội tâm bên trong của con người càng
được làm rõ. Từ đó, người đọc nhận diện được quá trình vận động và các đặc điểm
của trường ca Việt Nam qua từng giai đoạn để thấy được những đóng góp hết sức
quan trọng của trường ca trong nền văn học Việt Nam.

1.2. Dù trường ca nở rộ trong khoảng thời gian từ 1975 đến 1986 và cùng khai thác về
chủ đề chiến tranh, cách mạng kháng chiến chống Mỹ nhưng người đọc không thể phủ
nhận được những sáng tạo nghệ thuật, bức tranh hiện thực được vẽ nên đầy màu sắc,
hùng tráng cùng hình ảnh đất nước thân yêu của nhân dân hay mối quan hệ giữa con
người với dân tộc được tái hiện rất chân thực.

1.3. Bên cạnh đó, trường ca cũng là một trong những phương thức văn học được các
nhà thơ sử dụng để thể hiện những suy tư, chiêm nghiệm về những sự kiện lớn của đất
nước. Vì vậy, mỗi một bài trường ca đều mang hơi thở rất riêng về phong cách sáng
tạo của người nghệ sỹ. Người đọc thấy được ở bức tranh hiện thực kháng chiến không
chỉ ở một mà còn qua nhiều phương diện khác nhau cả nội dung và nghệ thuật độc
đáo.

38
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lại Nguyên Ân (1984), Văn học và phê bình, Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt
Nam
[2] Mai Bá Ấn (2008), “Đặc điểm trường ca Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh
Thảo”, Luận án Tiến sĩ văn học, Đại học Quốc gia Hà Nội
[3] Thu Bồn (1962), Bài ca chim Chơ rao, Thi Viện
[4] Trung Trung Đỉnh (2004), “Nhà thơ Thu Bồn – Tráng sĩ hề... dâu bể”, Thu Bồn gói
nhân tình, Nxb Văn học, Hà Nội
[5] Nguyễn Khoa Điềm (1974), Mặt đường khát vọng, Thi viện
[6] Nguyễn Thị Thu Hà (2013), “Đặc điểm trường ca Nguyễn Quang Thiều”, Luận
văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội
[7] Trần Đăng Kiên (2010), “Đặc điểm ngôn ngữ trong trường ca Mặt đường khát
vọng của Nguyễn Khoa Điềm”, Luận văn thạc sĩ, trường Đại học Vinh
[8] Hoài Nam (2023), Dấu hỏi của trường ca trong văn học Việt, Báo Văn nghệ
[9] Nguyễn Thị Nguyệt (2007), “Đặc điểm loại hình trường ca thế hệ chống Mỹ”,
Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, trường Đại học Vinh
[10] Ngô Thế Oanh (Tuyển chọn và giới thiệu) (2003), Thu Bồn - thơ và trường ca,
Nxb Đà Nẵng
[11] Lê Hồng Phong (2016), “Trường ca Nguyễn Anh Nông”, Luận án Thạc sĩ ngôn
ngữ và văn hóa Việt Nam, Đại học Thái Nguyên
[12] Diêu Lan Phương (2011), “Thể loại trường ca trong văn học hiện đại Việt Nam”,
Luận án Tiến sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội
[13] Nguyễn A Say (2014), “Hình tượng biển trong trường ca Thu Bồn, Thanh Thảo,
Hữu Thỉnh”, Nghiên cứu khoa học
[14] Tạ Văn Sỹ, Điều ít biết về Trường ca chim Chơ rao, Thi viện
[15] Trần Anh Thái (2016), Trường ca Việt Nam - một hành trình biến đổi, Báo Biên
phòng
[16] Nguyễn Thị Thảo (2009), “Chất sử thi của trường ca sau 1975”, Khoá luận tốt
nghiệp đại học, Trường Đại học Vinh
[17] Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Quyến, Trần Thanh Hà (2000), Tác giả nói về tác
phẩm, Nxb Trẻ
[18] Nguyễn Quang Thiều (1997), Nhịp điệu châu thổ mới, Thi viện
[19] Trang Dimple, Phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm trong Trường ca Mặt đường
khát vọng, Văn học trẻ
[20] Vương Trọng (1980), Về mấy đặc điểm của trường ca, Tạp chí Văn nghệ
quân đội

39
[21] Phan Thị Thanh Vân (2017), “Trường ca viết về biển đảo trong văn học Việt
Nam từ 1986 đến nay”, Luận văn Thạc sĩ Lý luận văn học, Trường Đại học Vinh
[22] Trần Ngọc Vương (1981), Về thể loại Trường ca và tính chất của nó, Tạp chí
Văn nghệ quân đội
[23] Lê Thị Xuân (2006), “Đặc điểm của trường ca Thu Bồn”, Luận văn thạc sĩ,
Trường Đại học Vinh
[24] Nhóm tác giả (2020), “So sánh sự vận động của hai tiểu thuyết và trường ca”,
Học phần Sự vận động của tiểu thuyết và trường ca trong văn học quốc ngữ Việt Nam,
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh

40

You might also like