* Khổ 3: Cảnh đánh cá trên biển đêm được xây dựng bằng những hình ảnh thật
đẹp và lãng mạn:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa mây cao với biển bằng Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng.” Mở ra trước mắt người dọc là bức tranh thiên nhiên thật kì vĩ, hoành tráng với biển trời, sóng nước, trăng sao. Nghệ thuật nhân hóa kết hợp với biện pháp nói quá đã tạo nên những hình ảnh thơ thật đẹp và đầy lãng mạn. Gió lái thuyền đi, buồm đầy trăng sáng. Ở đây, HC rất độc đáo khi sáng tạo nên hình ảnh ẩn dụ “Buồm trăng”. Cánh buồm vốn nhàu nát, cũ kĩ giờ đây thấm đẫm ánh trăng vàng sáng trở nên lung linh, huyền ảo, thi vị vô cùng. Con thuyền có gió làm lái, có trăng làm buồm nhẹ tênh lướt đi giữa mây cao biển lớn. Động từ “lướt” kết hợp với phép nói quá đã đặc tả tốc độ phi thường của con thuyền lao vun vút giữa không trung. Một bức tranh thiên nhiên kì vĩ, phóng khoáng thật xứng làm phông nền cho sự xuất hiện của con người. Hình ảnh người lao động hiện lên thật đẹp đẽ, thật kì vĩ sánh ngang tầm vũ trụ, vụt lớn bổng như những thiên thần mang trong mình tư thế và tầm vóc của người làm chủ thiên nhiên, đất trời. Một chuyến ra khơi đánh bắt cá cũng hào hùng đầy khí thế như lao vào một trận đánh. Cũng ra đậu dặm xa dò tìm nguồn cá, cũng dàn đan thế trận giăng lưới sao cho trúng luồng cá bạc. Ở đây, mỗi thủy thủ là một anh hùng, một chiến sĩ. Con thuyền, lưới, mái chèo đều trở thành vũ khí của họ. Những động từ mang sắc thái mạnh như “ đậu”, “dò”, “dàn đan thế trận”, “ vây giăng”,..tô đậm sự hào hứng, hăm hở của không khí lao động, vừa tỏ rõ quyết tâm của con người. Công việc ra khơi đánh bắt cá chẳng khác nào một trận quyết chiến với thiên nhiên. * Khổ 4: Biển không chỉ đẹp, thơ mộng mà còn giàu có với nhiều loài cá rực rỡ, lấp lánh: “Cá nhụ cá chim cùng cá đé Cá song lấp lánh đuốc đen hồng Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long” Khổ thơ là một bức tranh sơn mài lung linh, huyền ảo về thế giới của các loài cá. Ở đây, nhà thơ HC thật tài tình khi sử dụng phép liệt kê: "Cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song”. Hiếm ở đâu lại có một nguồn tài nguyên cá dồi dào, phong phú, bất tận như thế. Phép liệt kê cho ta thấy sự phong phú, đa dạng của các loài cá, sự giàu có trù phú của biển quê hương; đồng thời thể hiện niềm tự hào sâu sắc của nhà thơ Huy Cận trước vẻ đẹp biển khơi. Câu thơ thứ hai sử dụng phép tu từ so sánh, ẩn dụ thật độc đáo. Hình ảnh những chú cá song được so sánh giống như ngọn đuốc đen hồng lấp lánh. Đây là cách so sánh rất hay và chính xác vì trên mình chú cá song có những vẩy đen, vẩy hồng xen kẽ, khi ánh trăng đêm chiếu rọi, trông chú lấp lánh như ngọn đuốc đang rực cháy và cả đàn cá song như đang trong một lễ hội rước đuốc tưng bừng để cahfo đón những ngư dân. Hai câu thơ sau là sự liên tưởng độc đáo. Cái đuôi cá quẫy, ánh trăng tan trong làn nước làm tung lên những giọt trăng vàng chóe. Cả mặt biển sóng sánh màu vàng của trăng. Ánh trăng như dát vàng, dát bạc khắp không gian. Nét độc đáo ở khổ thơ là Huy Cận đã nhân hóa con cá song bằng cách dùng từ ngữ xưng hô rất thân mật, trì mến gần gũi dể gọi cá: “em”. Còn đêm, sao là những vật vô tri, vô giác nhưng có hành động giống như con người “đêm thở, sao lùa”. Màn đêm giống như một sinh thể đang lắng nghe nhịp thở của thủy triều và tiếng rì rào của sóng. Muôn ngàn vì sao đêm lấp lánh như bàn tay con người đang lùa đuổi nước Hạ Long. Khung cảnh biển đêm không hề hoang vu, lạnh lẽo như người ta tưởng mà hiện lên thật sống động, ấm áp, có hồn. Khổ thơ đa thể hiện tài quan sát tinh tế, trí tưởng tượng phong phú, bay bổng của nhà thơ HC