Professional Documents
Culture Documents
- Từ giữa năm 1921, tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Hội Liên hiệp thuộc Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí Cộng sản, Tập san Thư tín quốc tế,…
- Từ giữa năm 1921, tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Hội Liên hiệp thuộc Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí Cộng sản, Tập san Thư tín quốc tế,…
Nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau của 2 văn kiện trên
Xuất phát từ sự khác biệt trong nhãn quan chính trị, năng lực cách mạng, khả năng đánh
giá tình hình của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Trần Phú. Đồng chí Trần Phú ít nhiều chịu
ảnh hưởng về tư tưởng của Quốc tế cộng sản do ông học ở Đại học Phương Đông do Quốc tế
cộng sản thành lập. Tư tưởng của Quốc tế cộng sản có nhiều điểm đáng học hỏi những cũng có
nhiều điểm không phù hợp với tình hình nước Việt Nam lúc bấy giờ dẫn đến những hạn chế
trong Luận cương chính trị.
Nước Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn bao trùm nhất của đất
nước là mâu thuẫn dân tộc, giữa nhân dân ta và thực dân Pháp.Việc xác định sai mâu thuẫn chủ
yếu, đặt nặng vấn đề giai cấp hơn vấn đề giải phóng dân tộc đã dẫn đến việc xác định nhiệm vụ
cách mạng dân tộc, đánh đế quốc đáng lẽ nên được đặt hàng đầu lại xếp sau nhiệm vụ giải
phóng giai cấp, đánh phong kiến.
Đánh giá không đúng khả năng làm cách mạng của các giai cấp khác trong xã hội ngoài
giai cấp công nhân, nông dân. Áp đặt tư duy giai cấp tư sản không thể làm cách mạng, chỉ biết
bóc lột kinh tế, tiểu tư sản bấp bênh về kinh tế, bạc nhược về chính trị. Xác định phải đánh đổ
giai cấp địa chủ dù biết rằng trong đó có một bộ phận trung tiểu địa chủ yêu nước có tinh thần
cách mạng, sẵn sàng giai nhập cách mạng.
Câu 3: Trình bày chủ trương điều chỉnh chiến lược cách mạng của Đảng ta trong giai
đoạn 1939 – 1945. Nghệ thuật chỉ đạo cách mạng của Đảng để giành thắng lợi trong tổng
khởi nghĩa tháng Tám 1945 ?
Chủ trương điều chỉnh chiến lược cách mạng của Đảng ta giai đoạn 1939-1945:
Trong thông cáo ngày 29/9/1939, Đảng nêu rõ “Hoàn cảnh Đông Dương sẽ tiến bước đến
vấn đề dân tộc giải phóng”. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần 6 (11/1939) chủ
trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, tập hợp tất cả các dân tộc,
các giai cấp, đảng phái và cá nhân yêu nước ở Đông Dương nhằm đánh đổ đế quốc Pháp và tay
sai, giành lại độc lập hoàn toàn cho các dân tộc Đông Dương => Hội nghị đáp ứng đúng yêu
cầu khách quan của lịch sử, đưa nhân dân bước vào thời kỳ trực tiếp vận động giải phóng dân
tộc.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần 7 (1940), Trung ương Đảng nhận định
“Cách mạng phản đế và cách mạng thổ địa phải đồng thời tiến, không thể cái làm trước, cái làm
sau” => Trung ương Đảng vẫn chưa thật sự dứt khoát với chủ trương đặt nhiệm vụ giải phóng
dân tộc lên hàng đầu được đề ra tại Hội nghị tháng 11/1939.
Tháng 5/1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Hội nghị nêu rõ những nội dung quan trọng:
– Thứ nhất, nhấn mạnh mấu thuẫn chủ yếu phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn
giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp và phátxít Nhật
– Thứ hai, khẳng định dứt khoát chủ trương “phải thay đổi chiến lược”, “chưa chủ trương
làm cách mạng tư sản dân quyền mà chủ trương làm cách mạng giải phóng dân tộc” => tạm gác
khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng
đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất công cho công bằng,
giảm tô, giảm tức.
– Thứ ba, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương, thi hành
chính sách “dân tộc tự quyết”. Sau khi đánh đuổi Pháp – Nhật, các dân tộc trên cõi Đông
Dương sẽ “tổ chức thành liên bang cộng háo dân chủ hay đứng riêng thành lập một quốc gia tùy
ý”. Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng”. => Thành lập ở mỗi nước
Đông Dương một mặt trận riêng, thực hiện đoàn kết từng dân tộc, đồng thời đoàn kết ba dân tộc
chống kẻ thù chung.
– Thứ tư, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc. Các tổ chức quần chúng trong Mặt trận
Việt Minh đều mang tên “cứu quốc”. Trong việc xây dựng các đoàn thể cứu quốc, “điểm cốt
yếu là không phải những hội viên phải hiểu chủ nghĩa cộng sản, mà điểm cốt yếu hơn hết là họ
có tinh thần cứu quốc và muốn tranh đấu cứu quốc”
– Thứ năm, chủ trương sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa theo tinh thần tân dân chủ, một hình thức nhà nước “của chung cả toàn thể dân
tộc”.
– Thứ sáu, Hội nghị xác định chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng
và nhân dân; “phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn
cả mà đánh lại quân thù”.
Hội nghị đã hoàn chỉnh chủ trướng chiến lược được đề ra từ Hội nghị tháng 11/1939,
khắc phục triệt để những hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10/1930, khẳng định lại
đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc.
Nghệ thuật chỉ đạo cách mạng của Đảng để giành thắng lợi trong tổng khởi nghĩa tháng
Tám 1945
Giũa tháng 8/1945, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Sau khi phátxít Đức đầu hàng
Liên Xô và Đồng min (9/5/1945), Liên Xô tuyên chiến với Nhật, đánh tan đạo quân Quan Đông
của Nhật tại Mãn Châu (Trung Quốc). Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hirosima và
Nagasaki, Chính phủ Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh không điều kiện ngày 15/8/1945.
Chính quyền do Nhật dựng lên hoang mang cực độ => Thời cơ cách mạng xuất hiện
Theo Hội nghị Pốtxđam (7/1945), quân đội Trung Hoa dân quốc vào Bắc Việt Nam từ vĩ
tuyến 16 trở ra và quân đội Anh từ vĩ tuyến 16 trở vào để giải giáp quân Nhật. Pháp toan tính
với sự trợ giúp của Anh sẽ trở lại xâm lược Việt Nam. Trong khi đó, những thế lực chống cách
mạng ở trong nước cũng tìm cách đối phó => Nguy cơ mới
Thời cơ giành chính quyền chỉ tồn tại trong thời gian từ khi Nhật tuyên bố đầu hàng
Đồng minh đến trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương, vào khoảng nửa cuối tháng
8/1945. Vấn đề giành chính quyền được đặt ra như một cuộc chạy đua nước rút với quân Đồng
minh mà Đảng và nhân dân Việt Nam không thể chậm trễ, không chỉ để tranh thủ thời cơ, mà
còn phải khắc phục nguy cơ, đưa cách mạng đến thành công.
Thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 thể hiện nghệ thuật chỉ đạo
sáng suốt và tổ chức tổng khởi nghĩa giành chính quyền tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Là kết quả của quá trình thường xuyên nắm bắt, chỉ đạo kịp thời, chính xác, chuẩn bị lực
lượng chu đáo, chọn đúng thời cơ, chủ động tổ chức và phát huy sức mạnh đại đoàn kết của cả
dân tộc; kết hợp chặt chẽ giữa hai lực lượng chính trị và quân sự cả ở nông thôn và thành thị,
miền núi, trung du và đồng bằng suốt từ Bắc, Trung, Nam; trong đó lực lượng quân sự làm
nòng cốt xung kích, hỗ trợ tích cực cho lực lượng chính trị, tạo ưu thế áp đảo khiến kẻ thù
không kịp đối phó, nhanh chóng giành chính quyền trên phạm vi toàn quốc.
Câu 4: Làm rõ những biện pháp của Đảng trong giải quyết xung đột giữa Việt Nam và Pháp từ
tháng 9/1945 đến ngày 19/12/1946. Từ thực tiễn Đảng giải quyết xung đột giữa Việt Nam và
Pháp trước khi phát động cuộc kháng chiến toàn quốc (19/12/1946), Anh (Chị) hãy nêu biện
pháp của mình về bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc hiện nay ?
Câu 5: Phân tích đặc điểm nước ta sau khi hòa bình lập lại (tháng 7/1954) và nội dung cơ bản
của đường lối cách mạng Việt Nam do Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III (tháng 9/1960)
vạch ra.
Câu 6: Trình bày nguyên nhân và nội dung cơ bản của đường lối đổi mới về kinh tế mà Đại hội
lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) đã đề ra. Ý nghĩa của đường lối đổi mới đó đối với cách
mạng Viêt Nam hiện nay.
Câu 7: Trình bày nội dung cơ bản của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (năm 1991 và bổ sung, phát triển năm 2011). Ý nghĩa của Cương lĩnh đối với
sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.