Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 4

Bài 1: Thời kỳ đầu và những thử thách sinh tử

Lịch sử 75 năm ngành quân giới-công nghiệp quốc phòng (CNQP) gắn liền
với nhiều sáng kiến độc đáo, sản phẩm đặc biệt của quá trình nghiên cứu, thiết
kế, sản xuất, cải tiến vũ khí, từng góp phần thay đổi cục diện chiến trường.
Đằng sau những hào quang chói sáng là biết bao câu chuyện, tấm
gương hy sinh, cống hiến của các thế hệ cán bộ, nhân viên ngành quân giới.
Vệt bài sau đây như là nét "chấm phá" trong hành trình gian lao, tự hào từ
quá khứ anh hùng đến quân giới thời 4.0 hôm nay...
Chỉ chưa đầy hai tuần sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời,
ngày 15-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký chỉ thị thành lập Phòng Quân giới
trực thuộc Bộ Quốc phòng (tiền thân của ngành CNQP ngày nay). Giữa chồng
chất khó khăn thuở ban đầu ấy, với tầm nhìn sáng suốt, Đảng ta và Bác Hồ đã
thu hút và bồi dưỡng được thế hệ tinh hoa đầu tiên trong lĩnh vực nghiên cứu và
sản xuất vũ khí (SXVK). Họ đã dấn thân, tận hiến, hy sinh vì đại nghĩa, vì dân
tộc...
Thế hệ tinh hoa đầu tiên...
Ra đời trong bối cảnh đất nước phải đối phó với muôn vàn khó khăn, thử
thách trước thù trong, giặc ngoài và "giặc đói", "giặc dốt" hoành hành, ngành
quân giới đứng trước một thực tế: Tất cả đều là con số không. Không có các cơ
sở sản xuất công nghiệp cơ bản, như: Điện, hóa chất, luyện kim...; không có các
thiết bị công nghệ sản xuất quốc phòng; không có các loại vật tư, nguyên liệu
cốt yếu...
Hơn lúc nào hết, thời điểm này, đất nước rất cần những nhà khoa học hàng
đầu để phát triển ngành quân giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh với uy tín lớn và khả
năng hấp dẫn phi thường, đã thuyết phục một số nhà khoa học Việt kiều tài năng
ở nước ngoài về tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tiêu biểu trong số đó có
kỹ sư Phạm Quang Lễ (tức Thiếu tướng, Giáo sư (GS), Viện sĩ Trần Đại Nghĩa)-
người có công đầu trong việc xây dựng và phát triển lĩnh vực nghiên cứu, chế
thử và SXVK Việt Nam. Lúc sinh thời, trong nhiều cuộc trả lời phỏng vấn, GS
Trần Đại Nghĩa đã khẳng định: “Chính Bác đã chỉ ra con đường cách mạng, trao
cho tôi nhiệm vụ. Và suốt chặng đường tôi đi, Bác đã dìu dắt và tạo điều kiện
cho tôi làm tròn nhiệm vụ”.
Kể về lần đầu tiên được gặp Bác khi Người sang Pháp dự Hội nghị
Fontainebleau tháng 7-1946, GS Trần Đại Nghĩa cho biết, thời điểm đó bản thân
ông đang chưa biết làm cách nào để gặp Bác và trình bày nguyện vọng trở về
nước phục vụ cách mạng thì được Người mời gặp tại khách sạn Joyal Monceau
cùng đoàn đại biểu Việt kiều. Ông viết trong hồi ký: “Tôi rất cảm động khi Bác
hỏi tình hình học tập và nguyện vọng. Tôi báo cáo với Bác về chuyện tôi bí mật
tự học về vũ khí và nguyện vọng được về nước, mang hết tâm hồn và năng lực
phục vụ Tổ quốc. Bác nhìn thẳng vào hai mắt tôi, cười và khẽ gật đầu. Lòng tôi
trào lên một niềm vui khó tả. Sau khi biết tin hội nghị không thành công và được
Bác báo: "Bác về nước, chú chuẩn bị về với Bác, hai ngày nữa ta lên đường", tôi
đã bỏ lại hầu hết đồ dùng cá nhân, tập trung gói ghém gần 1 tấn tài liệu, sách
báo để sẵn sàng lên đường”.
Sau đó là 40 ngày đêm lênh đênh trên biển trong hành trình trở về quê
hương. Kỹ sư Phạm Quang Lễ cùng các nhà khoa học khác như: Kỹ sư luyện
kim Võ Quý Huân, bác sĩ Trần Hữu Tước, bác sĩ Tôn Thất Tùng... được dự một
lớp học chính trị đặc biệt do Chủ tịch Hồ Chí Minh hướng dẫn. “Đối với những
trí thức ở nước ngoài về, sắp sửa bước vào cuộc đấu tranh gian khổ, Bác luôn
khêu gợi lòng yêu nước, củng cố niềm tin ở bản thân, tin ở tập thể, ở thắng lợi
cuối cùng của cách mạng. Lời nói giản dị, thân yêu, gần gũi của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã cảm hóa, chinh phục trái tim của chúng tôi”, GS Trần Đại Nghĩa
viết trong hồi ký.
Sau này, bằng nhiều con đường khác nhau, hưởng ứng lời kêu gọi của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều nhà khoa học đã bỏ lại vinh quang nơi xứ
người trở về nước, đem những kiến thức có được góp phần phát triển ngành
quân giới còn non trẻ. Không những thế, với tầm nhìn của mình, Bác Hồ còn
chủ động lựa chọn những nhân tài ở trong nước, cử ra nước ngoài học tập, bồi
dưỡng từ rất sớm.
Năm 1951, trong khu rừng Tân Trào ở Chiến khu Việt Bắc, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã gặp gỡ và quyết định cử 21 cán bộ là những tinh hoa sang Liên Xô
học tập. Đây là đoàn “lưu học sinh” đầu tiên được Chính phủ nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa gửi sang Liên Xô học tập, nghiên cứu. Và một điều rất đặc
biệt, 5 người trong số họ gồm các đồng chí: Phạm Như Vưu, Lê Văn Chiểu,
Hoàng Văn Lãn, Phạm Đồng Điện và Nguyễn Đức Thừa đều đang công tác tại
các đơn vị thuộc Cục Quân giới trước khi được cử đi học. Đồng chí Phạm Như
Vưu là Trưởng ban Chế tạo vũ khí của Nha Giám đốc Công binh xưởng; Lê Văn
Chiểu là cán bộ Phòng Xạ thuật (hay còn gọi là Thuật phóng); Phạm Đồng Điện
là Trưởng phòng Hóa chất; Nguyễn Đức Thừa là Phó trưởng phòng Hóa chất;
Hoàng Văn Lãn là Phó trưởng phòng Chế tạo vũ khí thuộc Nha Nghiên cứu kỹ
thuật (NCKT). Sang Liên Xô, Phạm Như Vưu và Hoàng Văn Lãn được phân
công học về bảo đảm kỹ thuật quân đội và SXVK bộ binh tại Trường Cao đẳng
Quân khí Tula; Lê Văn Chiểu và Phạm Đồng Điện học về chất nổ ở Trường Đại
học Tổng hợp Bauman; Nguyễn Đức Thừa học về luyện kim.
Việc đưa đoàn đi học là chủ trương bí mật của Trung ương Đảng ta lúc bấy
giờ, nên hầu như không có nhiều tài liệu ghi lại. Tuy nhiên, trong những cuốn sổ
ghi chép, nhật ký của các thành viên trong đoàn, nội dung làm việc của các đồng
chí trong Trung ương Đảng với đoàn được ghi chép từng ngày. Đặc biệt, sự kiện
ngày 18-7-1951, Bác Hồ đến gặp, giao nhiệm vụ được các thành viên ghi chép
cẩn thận. Đồng chí Phạm Như Vưu viết: “Ngày 18-7-1951 là ngày lịch sử trong
đời, Bác đến bắt tay anh em và dặn dò thêm kỹ càng hơn người cha... Một bờ
suối quanh co dưới bóng cây um tùm của Tân Trào kia không ngờ đã là nơi kỷ
niệm sâu sắc của 21 anh em, tiếp thu những lời vàng ngọc của vị lãnh tụ”. Còn
đồng chí Lê Văn Chiểu năm đó 25 tuổi, là người ít tuổi nhất đoàn, miêu tả trong
cuốn sổ nhỏ của mình: Bác mặc áo lụa màu gụ, quần cộc màu nâu, chống gậy
tre, đội mũ cát kaki đã có vết rách. Hôm đó, Bác dặn mọi người rất kỹ, nhiều
điều, đại ý nhắc chúng tôi nên học cái gì thiết thực, dân cần dùng.
Nhớ lời căn dặn của Người, đến năm 1958, tất cả 21 nhà khoa học trở về
nước, nhiều người sau đó trở thành cốt cán trong những ngành mà họ được đào
tạo, như các đồng chí: Phạm Như Vưu, Lê Văn Chiểu-Phó chủ nhiệm Tổng cục
CNQP; Hoàng Văn Lãn, Cục trưởng Cục Kỹ thuật, Tổng cục Kỹ thuật...
Dấn thân và tận hiến hy sinh
Trong việc trọng dụng và sử dụng trí thức, quan điểm nhất quán của Chủ
tịch Hồ Chí Minh là luôn quan tâm, tin tưởng và tôn trọng họ. Đó là động lực
mạnh mẽ thôi thúc các nhà khoa học cống hiến hết mình, từ bỏ những lợi ích cá
nhân, sẵn sàng hy sinh xương máu, tính mạng để phụng sự Tổ quốc, phục vụ
nhân dân.
Còn nhớ thời điểm năm 1946, khi gặp Bác, mức lương hằng tháng của kỹ
sư Phạm Quang Lễ được Chính phủ Pháp trả có giá trị tương đương hàng chục
lượng vàng. Vậy mà khi được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời về nước, ông đã nhận
lời ngay. Nhận trọng trách là Cục trưởng Cục Quân giới trong điều kiện cơ sở
vật chất hầu như không có gì ngoài một số trang thiết bị ít ỏi từ thời Pháp để lại,
đồng chí Trần Đại Nghĩa cùng các cộng sự đã bằng mọi cách khắc phục khó
khăn để hoàn thành nhiệm vụ. Đại tá Trần Dũng Trí, nguyên cán bộ Cục Kỹ
thuật, Quân chủng Phòng không-Không quân, con trai đầu của Giáo sư Trần Đại
Nghĩa kể với chúng tôi: “Cha tôi say mê nghiên cứu và hiếm khi nói về mình.
Trong số ít chuyện của ông, tôi nhớ mãi cha từng nhắc đến hai câu Bác Hồ hỏi
ông trước khi về nước là: “Ở nhà cực khổ lắm, chú về có chịu được không?” và
“Bây giờ ở nhà kỹ sư, công nhân về vũ khí không có, máy móc thiếu, liệu chú
có làm việc được không?” cùng câu trả lời chắc nịch của ông: "Thưa Bác, tôi đã
chuẩn bị 10 năm rồi và tôi tin là làm được”.
Với niềm tin ấy, đồng chí Trần Đại Nghĩa và các cộng sự đã nhanh chóng
hòa mình vào cuộc kháng chiến, tạo ra những sản phẩm đột phá của quân giới
Việt Nam. Cùng với ông, cán bộ, chiến sĩ, công nhân quân giới trên cả nước
cũng lặng thầm cống hiến, hy sinh cho sự nghiệp chung. Vừa thực hiện nhiệm
vụ sản xuất, vừa chiến đấu, bộ đội quân giới đã phải hứng chịu nhiều tổn thất.
Mới đây, chúng tôi được tham gia chuyến về nguồn cùng các cựu chiến binh
(CCB) CNQP-Quân giới thăm nơi các công binh xưởng từng đóng quân. Theo
những số liệu ghi chép trên các bia di tích, thì từ tháng 12-1948 đến năm 1952,
hàng chục cán bộ, chiến sĩ và công nhân các công binh xưởng ở Liên khu 3 đã
hy sinh khi làm nhiệm vụ. Điển hình như: Ngày 24-12-1948, trong khi tra kíp
địa thủy lôi, một quả phát nổ khiến 9 công nhân của Xưởng B4 (Ninh Bình) hy
sinh. Đêm mồng 3 rạng sáng 4-1-1949, Xưởng B5 được lệnh chuyển gấp toàn
bộ thiết bị, vật tư, vũ khí đạn của phân xưởng đúc từ hang động Gia Lâm (Nho
Quan, Ninh Bình) về chợ Đập (Lạc Thủy, Hòa Bình) thì bị quân Pháp bất ngờ
tấn công, 8 chiến sĩ du kích và 5 công nhân quân giới bám trụ chiến đấu trên
sườn núi Đít Ngựa đã bị địch xả súng bắn chết...
CCB Phạm Hữu Quốc, 97 tuổi, đang sinh sống tại TP Ninh Bình (Ninh
Bình) ngậm ngùi: “Công việc của lính quân giới là thế. Lặng thầm sau những
chiến công ngoài mặt trận là biết bao mồ hôi, nước mắt và cả máu của chúng tôi.
Nhiều đồng chí dù biết chắc sẽ đối mặt với nguy hiểm nhưng vẫn sẵn sàng nhận
và làm hết sức mình để hoàn thành nhiệm vụ”. Và theo lời giới thiệu của ông,
chúng tôi đã gặp được những nhân chứng của một thời như thế.
Đại tá, thương binh Phan Thượng Trí, nguyên Giám đốc Nhà máy Z121
vẫn vẹn nguyên ký ức về những ngày làm việc ở Nha NCKT, nhất là lần bị
thương khi nhồi thuốc nổ. Năm ấy, nhóm nghiên cứu lựu đạn thuộc Phòng Hóa
chất (Nha NCKT) gồm 3 người do Phan Thượng Trí làm nhóm trưởng đang
nghiên cứu thử thành phần lựu đạn khói (fumigène) của Pháp, hai lần thử đầu
thành công nhưng các thông số chưa được như mong muốn, Phan Thượng Trí
quyết định làm trực tiếp trên tay với suy nghĩ nếu bị thương, cũng chỉ bị thương
tay trái, mong sao nghiên cứu sớm hoàn thiện để kịp thời phục vụ chiến đấu.
Nhưng do nhồi quá nhiều, lực nén lớn, mật độ thuốc tăng cao, khối bộc phá nổ
ngay trên tay ông; bàn tay trái bị nát, 7 mảnh kim loại găm trên ngực, một mảnh
ở chân phải. Dù vĩnh viễn mất một cánh tay, sức khỏe giảm sút nhưng ngay sau
thời gian điều trị, Phan Thượng Trí lại trở về Nha NCKT tiếp tục công việc lặng
thầm của mình như chưa hề bị thương.
Tiếp nối tinh thần, ý chí các bậc tiền bối, chống Pháp rồi đến chống Mỹ,
cứu nước, đội ngũ cán bộ, kỹ sư của ngành quân giới chưa bao giờ lùi bước
trước khó khăn. Từ năm 1961, để có điều kiện xây dựng hệ thống trạm xưởng
quân giới, bảo đảm vũ khí cho toàn chiến trường, nhiều đoàn cán bộ quân giới
miền Bắc đã “Nam tiến”, trở thành nòng cốt của ngành quân giới ở các khu. Họ
đã dấn thân vào cuộc đối đầu mới với kẻ thù mạnh hơn rất nhiều với tâm thế của
những người lính luôn tiến về phía trước, dẫu có gian khổ và đầy rẫy những
hiểm nguy đang chờ đón. Ví như việc chuẩn bị đánh trận Ba Gia (Sơn Tịnh,
Quảng Ngãi) tháng 5-1965, một tổ kỹ thuật của Phòng Quân giới Khu 5 đã có
nhiều ngày đêm dũng cảm, bám sát đội hình của Trung đoàn 1-chủ lực Khu 5 để
bảo đảm kỹ thuật sử dụng súng 12,7mm kiểu M2HB của Mỹ đã được quân giới
nghiên cứu cải tiến trang bị thêm một giá 3 chân, đồng thời lắp thêm máy ngắm
phòng không để bắn máy bay địch yểm trợ bộ binh. Hay sự kiện đồng chí
Nguyễn Trinh Tiếp, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quân giới, năm 1967, trên
đường đi kiểm tra thực địa việc sử dụng sản phẩm mới được nghiên cứu, cải tiến
của đơn vị thì gặp máy bay Mỹ ném bom và đã anh dũng hy sinh...
Thật khó có thể kể hết những hy sinh thầm lặng của những người lính quân
giới trong hành trình 75 năm qua. Xin mượn lời của Thiếu tướng Trần Đại
Nghĩa lúc sinh thời đã khẳng định: “Một người thiết kế chế tạo vũ khí của quân
đội cách mạng, không thể thiếu trách nhiệm với sinh mạng của chiến sĩ”, nên họ
sẵn sàng đối mặt với nguy hiểm để hoàn thiện nghiên cứu của mình.

You might also like