Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 3

“Văn học là nhân học”, “Văn là người”,… những mệnh đề đã trở nên quen thuộc nhưng không

phải lúc nào cũng thuyết phục bởi giữa con người văn chương và con người thế sự đời thường của
nhà văn thường tồn tại những khoảng cách nhất định. Điều này được thể hiện rất rõ qua nhân vật mẹ
Lê trong truyện ngắn “Nhà mẹ Lê”.
Về cốt truyện "Nhà mẹ Lê" là một truyện ngắn của nhà văn Thạch Lam, kể về cuộc đời của bà
Lê, một người phụ nữ nghèo sống ở miền quê. Mẹ Lê sống ở một xóm ngụ cư, nơi đây đều là những
con người nghèo khổ chẳng thể lo thân. Bà lại là người có hoàn cảnh khó khăn hơn cả, một mình
nuôi 11 đứa con khi bố chúng mất sớm. Cuộc sống của một người nghèo khổ cứ mãi tiếp diễn giữa
cái đói, cái rét và sự giá lạnh. Những đứa con gầy trơ xương đã thúc giục người mẹ phải làm gì đó.
Sau khi bị bức đến đường cùng, bà không còn làm việc được nữa, đành phải đến nhà ông Bá giàu có
trong làng để vay chén gạo. Nhân vật mẹ Lê thật đặc biệt. Đặc biệt bởi Thạch Lam có hướng đi khác
với những thành viên còn lại của Tự lực văn đoàn. Ông không chỉ viết về những người thuộc tầng lớp
tiểu tư sản mà còn hướng ngòi bút vào những người lao động bình dân, chân lấm tay bùn. Mẹ Lê xuất
thân là một người phụ nữ nông thôn. Chồng mất sớm, để lại một mình mẹ Lê nuôi mười một người
con, trong đó đứa lớn mới có mười bảy tuổi và đứa bé nhất hãy còn bế trên tay. Đàn con nheo nhóc
ấy khiến người dân Đoàn Thôn phải giật mình chú ý khi thấy bác ta. Nghèo lại đông con, mẹ Lê vắt
kiệt bản thân mình để chăm lo cho gia đình nhỏ. Những chi tiết ấy cho thấy sự lạc hậu, nghèo khổ
cùng hạn chế trong nhận thức của những người dân quê lúc bấy giờ. Không chỉ nghèo, bác ta còn đèo
bòng thêm cái phận “dân ngụ cư” rẻ rúng, phải làm thuê để kiếm sống. “Từ buổi sáng tinh sương,
mùa nực cũng như mùa rét, bác ta đã phải trở dậy để đi làm mướn cho những người trong làng”. Gia
tài của mẹ Lê chỉ là căn nhà lá, trong nhà có mỗi một chiếc giường nan gãy nát. “Dưới manh áo rách
nát, thịt chúng nó thâm tím lại vì rét như thịt con trâu chết. Bác Lê ôm lấy con trong ổ rơm, để mong
lấy cái ấm của mình ấp ủ cho nó.” Ngôi nhà là tổ ấm của con người, là nơi che mưa che nắng. Ấy thế
mà mái nhà của bác lại chỉ được ví với ổ rơm. Hình ảnh người đàn bà hiện lên cô độc, vất vả quá đỗi
khiến người đọc không khỏi cảm thương. Thân phận con người sao mà đáng thương, nhỏ nhoi, bạc
bẽo đến thế!
Ngoại hình của mẹ Lê càng tô đậm vẻ khắc khổ của nhân vật này. Mẹ Lê “có ngoại hình chắc
chắn và thấp bé, da mặt và chân tay nhăn nheo như một quả trám khô.”. Đó là dung mạo của một
người đã quen lao động, dù thân thể nhỏ bé nhưng cáng đáng được nhiều việc cực nhọc.
Mẹ Lê còn mang trong mình cả đức tính chăm chỉ, cần cù, chịu thương chịu khó. Dù công
việc bấp bênh, lận đận nhưng bác không bao giờ từ bỏ. Từ sáng sớm, mùa nực cũng như mùa rét, bác
đã trở dậy để đi làm mướn cho những người trong làng. Khi cả phố trở nên đói kém, bác vẫn cần mẫn
đi khắp các nhà xin làm mướn, kể cả làm không công và chỉ thu về có nửa bát gạo, đùm bọc về
không đủ cho ba đứa con ăn. Mùa rét là mùa ám ảnh với bác ta vì cánh đồng chỉ còn trơ cuống rạ, sẽ
không ai thuê bác làm việc gì nữa. Những đứa con lại nheo nhóc, khóc không ngừng. Với mẹ Lê,
hạnh phúc của bản thân đồng nghĩa với chiếc bụng no của đàn con. Phẩm chất nổi bật tiếp theo mà
Thạch Lam đã rất tinh tế phát hiện ra ở nhân vật này chính là tinh thần lạc quan, ý chí kiên cường
giữa những sóng gió của cuộc đời. Dù có vất vả là thế, đến mức khi tự ngẫm, bác Lê cũng phải bùi
ngùi thấy rằng từ khi sinh ra đến nay, cuộc đời bác khi nào cũng khổ, chẳng bao giờ là sung sướng.
Thế nhưng, người phụ nữ ấy không bi lụy mà hết mình tận hưởng, ôm ấp lấy những phút giây hạnh
phúc bình dị hiếm hoi bên đàn con, khi vẫn còn được lao động. Thậm chí, trong những phút giây khó
khăn nhất, mẹ Lê vẫn thầm nhen nhóm lên những hi vọng dù là nhỏ nhất.
Nhân vật mẹ Lê mang những phẩm chất tiêu biểu cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam
truyền thống như yêu thương gia đình, giàu lòng nhân hậu, chăm chỉ và lạc quan. Thạch Lam thật sự
là một nhà văn luôn “chắt chiu cái đẹp”. Và với gia đình ngụ cư của mẹ Lê, điều bất hạnh nhất đã xảy
đến. Quá xót xa khi nhìn đàn con đã nhịn đói suốt buổi, bác Lê vá lại manh áo rét, đánh liều sang nhà
ông Bá xin gạo lần nữa dù ban sáng đã bị cậu Phúc dọa nạt sẽ thả chó ra cắn. Cả tác phẩm, nhân vật

Downloaded by Hoàng ??ng H?ng Ánh (hafnhtubeee.5443@gmail.com)


ông Bá và cậu Phúc không xuất hiện trực tiếp một lần nào, cũng không có bất kì lời thoại nào nhưng
bộ mặt gian ác, vô nhân tính của bè lũ thống trị vẫn hiện lên rõ nét. Bác Lê không xin được gạo, bị
chúng thả chó ra đuổi. Trên bắp chân bác, máu đỏ chảy ròng ròng. Trong giây phút đau đơn, bác vẫn
không thôi trăn trở: “Thế là mẹ con lấy gì ăn cho đỡ đói bây giờ.”. Thương con, thương mình, bác Lê
ứa nước mắt.
Tác phẩm khép lại bằng cái kết gây ám ảnh tột cùng. Bác Lê chết sau cơn mê sảng. Những
đứa con ngồi bên bậc cửa, ngơ ngác và vô định. Người ta tự hỏi tương lai chúng sẽ ra sao khi thiếu đi
người mẹ. Cái chết của mẹ Lê xoáy vào vào lòng người đọc những trăn trở, day dứt khôn cùng.
Không gian trong truyện là căn nhà của mẹ Lê, nơi mà gia đình sống trong cảnh nghèo khó và
cực khổ. Thời gian diễn ra trong truyện là những ngày tháng xoay sở kiếm ăn nuôi con của mẹ Lê.
MỞ BÀI
- Con người ai cũng trải qua việc học, nhưng không phải ai cũng có ý thức xác định mục đích
và mục đích đúng đắn của việc học.
- Mỗi thời đại, con người có mục đích học tập không giống nhau. Tổ chức UNESCO đã đề
xướng... nhằm xác định mục đích học tập có tính toàn cầu.
II. Thân bài:
1. Giải thích và làm rõ tầm quan trọng của việc học
- Học để biết:
Học là quá trình tiếp thu tri thức từ sách vở, trường học, từ thực tế cuộc sống "trường đời".

"Học để biết" là mục đích đầu tiên của việc học. "Biết" là tiếp thu, mở mang, có thêm kiến
thức về đời sống, tự nhiên, xã hội và con người. Con người từ chỗ chưa biết đến biết, biết ít đến biết
nhiều, biết sơ sài đến biết sâu sắc, biết một lĩnh vực đến hiểu biết về nhiều lĩnh vực đời sống...
Nhờ học, con người có những hiểu biết phong phú, tự làm giàu kho tri thức khoa học của
mình, tạo được vốn sống sâu sắc...
Quan trọng hơn, qua những tri thức đó, con người có khả năng hiểu biết về bản chất con người
và tự nhận thức bản thân, "biết người", "biết mình", biết giao tiếp, ứng xử với nhau sao cho "Đắc
nhân tâm"...
- Học để làm: "Học để làm" là mục đích tiếp theo của việc học. "Làm" là vận dụng kiến thức
có được vào thực tế cuộc sống. Đây là mục đích thiết thực nhất của việc học – "Học đi đôi với hành".
Làm để tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần phục vụ nhu cầu cuộc sống của bản thân và góp
phần tạo nên của cải cho xã hội.
Ví dụ: Người nông dân, kĩ sư, bác sĩ... đều mang kiến thức đã học được áp dụng vào thực tế,
để tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội.
Học mà không làm thì kiến thức có được không có ích, không bền vững, không được sàng lọc.
- Học để chung sống:
Một trong những mục đích quan trọng nhất của việc học. "Chung sống" là khả năng hòa nhập
xã hội, kĩ năng giao tiếp, ứng xử... để tự thích nghi với mọi môi trường sống, các quan hệ phức tạp
của con người trong quá trình sống để không bị tụt hậu, lạc lõng. Đây là hệ quả tất yếu của việc
"biết", "làm".
Bởi lẽ, "con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội". Bản chất, giá trị, nhân cách của
con người được hình thành, nuôi dưỡng, khẳng định, thử thách trong các mối quan hệ đó.- Học để tự
khẳng định mình:
Là mục đích sau cùng của việc học. "Tự khẳng định mình" là tạo được vị trí, chỗ đứng vững
vàng trong xã hội, thể hiện sự tồn tại có ý nghĩa của cá nhân mình trong cuộc đời. Mỗi con người chỉ
có thể khẳng định mình khi có hiểu biết, có năng lực hành động, có khả năng chung sống.
Từ việc học, mỗi người có cơ hội khẳng định tri thức mình tích lũy được; khẳng định khả
năng lao động, sáng tạo; khẳng định nhân cách, phẩm chất...

Downloaded by Hoàng ??ng H?ng Ánh (hafnhtubeee.5443@gmail.com)


2. Bàn bạc, mở rộng vấn đề:
- Nội dung đề xướng về mục đích học tập của UNESCO thật sự đúng đắn, đầy đủ, toàn diện.
- Mục đích học tập này thực sự đáp ứng, hoàn toàn phù hợp với yêu cầu giáo dục, đào tạo con người
trong thời đại ngày nay. Mục đích này không chỉ dành riêng cho học sinh, sinh viên mà còn dành cho
tất cả những ai là người học. Vì thế, có thể coi đây là mục đích học tập chung, có tính chất toàn cầu.
- Từ mục đích học tập đúng đắn này, mỗi người học thấy rõ những sai lầm nhận thức về việc học: học
không có mục đích; coi việc học là thực hiện nghĩa vụ với người khác; học vì bằng cấp; học vì thành
tích; học mà không có khả năng làm, không biết chung sống, không thể khẳng định mình. Ví dụ: Học
sinh không biết viết đơn xin nghỉ học đúng quy cách; kĩ sư giỏi, được đào tạo bài bản mà không chế
tạo được những công cụ trong sản xuất nông nghiệp; có học vị, bằng cấp nhưng cách ứng xử thì vụng
về, lối sống lại thiếu văn hóa...
3. Bài học về nhận thức và hành động của bản thân:
- Mục đích học tập giúp con người, xã hội điều chỉnh được nhận thức về thời gian học: không chỉ học
ở một giai đoạn mà phải học suốt đời; không chỉ học trong nhà trường mà cần phải học ngoài xã hội;
người dạy không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn dạy "làm người"...
- Mục đích học tập này giúp người học:
- Xác định rõ mục đích, động cơ và thái độ học tập.
- Ra sức học tập và rèn luyện, trang bị kiến thức về mọi mặt để có trình độ chuyên môn vững vàng, có
khả năng hội nhập quốc tế.
- Học phải đi đôi với hành để khẳng định mình. Sống có ích cho cuộc đời và cho gia đình, xã hội.
III. Kết bài:
- Khẳng định vai trò của học tập: học để không bị ngu dốt, nghèo nàn và lạc hậu. Học để
khẳng định sự thành đạt của cá nhân và sự tiến bộ của nhân loại.
- Liên hệ bản thân: Đã xác định được mục đích đúng đắn cho việc học của mình chưa? Cần
phải làm gì để đạt được mục tiêu ấy?

Downloaded by Hoàng ??ng H?ng Ánh (hafnhtubeee.5443@gmail.com)

You might also like