Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 14

TẬP THƠ: TRUYỆN KIỀU-NGUYỄN DU

VĂN BẢN: Chị em Thúy Kiều

Đầu lòng hai ả tố nga,


Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo, mặn mà,
So bề tài, sắc, lại là phần hơn.
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên Bạc mệnh, lại càng não nhân.
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

BT1: Nghệ thuật tả người qua bức chân dung chị em Thúy Kiều

Nói về Truyện Kiều, không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ Chế Lan Viên đã viết: “Khi Nguyễn Du viết Kiều đất nước hoá thành văn”. Quả
thật, mặc dù xuất phát từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, nhưng nếu Kim Vân Kiều không để lại dấu ấn gì trong văn học
Trung quốc thì Truyện Kiều của Nguyễn Du lại là một tác phẩm lớn trong văn học thế giới.

Điều gì đã làm nên giá trị và sức sống của Truyện Kiều ? Có rất nhiều yếu tố tạo nên thiên tài Nguyễn Du. Nhưng nét bút đặc sắc của
Nguyễn Du trong nghệ thuật tả người thì không ai có thể phủ nhận được. Ông đã sáng tạo ra những chi tiết, ngôn ngữ, tâm lý nhân vật…
tạo nên một thế giới nhân vật phong phú. Chân dung chị em Thuý Kiều là một điển hình.

Với ngòi bút thiên tài, đoạn trích Chị em Thuý Kiều đã ca ngợi vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân, những trang tuyệt sắc giai
nhân tiêu biểu trong dòng văn học trung đại. Đó là một vẻ đẹp toàn mĩ trong tính ước lệ của văn chương:

“Mai cốt cách, tuyết tinh thần,

Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.”

Câu thơ hiện lên hình ảnh hai cô gái vóc dáng mảnh dẻ, yểu điệu như cành mai, tâm hồn trắng trong như tuyết. Nhịp thơ 3/3 tách câu thơ
thành hai tiểu đối tạo âm điệu nhịp nhàng, nhấn mạnh vẻ đẹp hài hoà cân đối của hai chị em. Một vẻ đẹp đã đến độ hoàn hảo. Mượn các
yếu tố thiên nhiên để lột tả vẻ đẹp từ ngoại hình đến tâm hồn “mười phân vẹn mười”. Cái tài của Nguyễn Du là ở chỗ “mỗi người một
vẻ”. Quả thật, trong tác phẩm cũng như trong đời thực, không ai hoàn toàn giống ai, chính điều ấy đã tạo nên cái diện mạo và tính cách
riêng của từng nhân vật. Đây là vẻ đẹp của Thuý Vân:

“Vân xem trang trọng khác vời,

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.


Hoa cười ngọc thốt đoan trang,

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”

Hình ảnh ước lệ, nhưng người đọc có thể hình dung một Thúy Vân xinh đẹp, thuỳ mị, đoan trang với khuôn mặt phúc hậu, tươi thắm như
trăng rằm, nụ cười rạng rỡ như hoa hàm tiếu, giọng nói dịu dàng, trong trẻo như tiếng ngọc. Nhà thơ ca ngợi mái tóc của Thúy Vân óng
mượt đến mây cũng phải thua, làn da trắng ngần mà tuyết cũng phải nhường. Tạo hoá đã ban cho nàng một sắc đẹp mà biết bao phụ nữ
hằng ao ước! Một vẻ đẹp đầy chất ước lệ, khuôn sáo của văn học trung đại “mặt hoa da phấn”, “mắt phượng mày ngài”. Tạo hoá phải
nhường bước, chịu thua trước sắc đẹp của nàng. Biện pháp nhân hoá “mây thua, tuyết nhường” kết hợp với từ ngữ gợi tả “đầy đặn, nở
nang” vừa diễn tả vẻ đẹp của nàng vừa gợi lên sự tròn đầy viên mãn. Nhịp điệu thơ nhẹ nhàng hài hòa, như nét đan thanh của một cô gái
thùy mị, nết na chừng như dự báo một cuộc sống yên vui, tốt đẹp của nàng trong tương lai. Hạnh phúc dang rộng cánh tay chờ đợi những
bước chân nhịp nhàng, khoa thai của nàng trong tương lai.

Nếu Thúy Vân là vẻ đẹp của bức tranh tố nữ, thì Thúy Kiếu là vẻ đẹp của người ngọc hiện diện giữa trần đời đầy sắc sảo, mặn mà. Hoàn
tất bức chân dung Thúy Vân, nhà thơ mới từ tốn, hình như có chút hoang mang bối rối khi họa nên bức chân dung Thúy Kiều. Nếu chỉ
với 4 câu thơ, chân dung Thúy Vân đã hoàn thiện thì khi tả Kiều, nhà thơ đã khẳng định:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà,

So bề tài sắc lại là phần hơn.”

Có người nói, nhà thơ dùng Thúy Vân làm nền để tôn lên vẻ đẹp của Thúy Kiều trong nghệ thuật “tả khách hình chủ”. Lẽ nào trái tim
nhân hậu của Nguyễn Du có thể làm tổn thương một vẻ đẹp hoa nhường nguyệt thẹn như Thúy Vân ư? Chẳng phải đức hạnh và vẻ đẹp
của Thúy Vân đã được thừa nhận, ca ngợi đó sao? Ngòi bút nhân văn như Nguyễn Du, chắc chắn ông rất trân trọng và yêu thương nhân
vật của mình. Ông yêu thương, nâng niu tất cả những tài hoa trác tuyệt ấy. Có điều đối với Thuý Vân là sự yêu thương, nâng niu trân
trọng, còn đối với Thuý Kiều là sự đồng cảm, yêu thương, ưu tư cho một số kiếp con người:

“Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.”

Từ “càng” vừa là sự chuyển tiếp vừa diễn tả một mức độ thái quá, một điều gì đáng lo ngại. Nỗi băn khoăn lo lắng ấy không kềm chế
được nên câu trước thì khoan thai hào hứng “Làn thu thủy, nét xuân sơn”. Câu thơ ngắt ra thành 2 dòng để nhấn mạnh, để điểm tô vẻ đẹp
tuyệt vời ấy mà sao nghe như có gì uất nghẹn. Nguyễn Du đã sáng tạo trong miêu tả nhân vật. Chỉ một nét thần, nhà thơ không chỉ miêu
tả ánh mắt, nét mày mà còn lột tả tâm hồn nhân vật. Thúy Kiều đẹp quá, ánh mắt nàng đẹp như mặt nước hồ thu mênh mông, vời vợi
trong sắc xanh của mây trời, trong chút vàng của nắng, của chiếc lá thu phai. Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn. Trong đáy mắt màu thu ươn ướt,
man mác buồn ấy, lại chất chứa trái tim đa sầu đa cảm mà đằm thắm tình người, tình đời bao dung. Chính “làn thu thủy” ấy đã rung cảm
“dầm dầm châu sa” trước nấm mồ hoang vô chủ của Đạm Tiên, rồi lại trước cơn gia biến đã quyết hy sinh mối tình đầu chớm nở với Kim
Trọng mà “Liều đem tất cỏ quyết đền ba xuân”. Rồi phải trầm luân trong mười lăm năm gió bụi cuộc đời với niết bao đắng cay tủi nhục.
Nét độc đáo của thiên tài Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp của nét mày nàng đẹp như dáng núi mùa xuân xanh cong quyến rũ, tràn đầy sức
sống. Mùa xuân với sắc xanh mượt mà mơn mỡn “Xuân du phương thảo địa” (cổ thi), “cỏ non xanh tận chân trời” (Nguyễn Du), ẩn sau
“nét xuân sơn” ấy là sức sống dâng trào của cô gái “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cặp kê” (Nguyễn Du). Chính trong vẻ yêu kiều ấy, Thúy
Kiều đã rung động trong lần đầu gặp Kim Trọng “hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa” để rồi sau lần đầu gặp gỡ ấy trái tim dào dạt yêu
thương đã tự nhủ:

“Người đâu gặp gỡ làm chi,

Trăm năm biết có duyên gì hay không.”

Rồi chính nàng đã chủ động “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” để tìm đến chàng Kim. Nàng đã chủ động vượt qua những lễ giáo
phong kiến khắc nghiệt để tìm đến mối tình đầu trong sáng. Theo những bước chân mạnh mẽ ấy, trái tim nhân hậu của Nguyễn Du đã thể
hiện một quan niệm sống, một khái niệm tự do trong hôn nhân hiếm thấy trong văn học trung đại.

Ánh mắt nét mày ấy ẩn chứa một tâm hồn đa sầu đa cảm, đầy ắp yêu thương, tràn dâng sức sống. Nhưng ngay sau vẻ đẹp tuyệt trần ấy,
dường như có điều gì oan ức “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Việc gì phải ghen, phải hờn? Thói đời là vậy! Cái sâu sắc nhân
tình thế thái, cái tài của Nguyễn Du là ở chỗ chỉ nhân tả vẻ đẹp của Kiều mà đã gợi ra được một phần cuộc đởi ô trọc, nhỏ nhen sẵn sàng
vùi dập cuộc đời một trang tuyệt sắc giai nhân.
Nguyễn Du đã nhấn mạnh “Một hai nghiêng nước nghiêng thành”. Tác giả đã sử dụng điển tích, mượn ý thơ của Lý Diên Niên đời Hán
Vũ Đế (Trung quốc):

“Nhất cố khuynh nhân thành,

Tái cố khuynh nhân quốc.”

(Quay lại một lần tướng giữ thành mất thành, quay lại lần nữa nhà vua mất nước). Câu thơ làm ta liên tưởng đến nụ cười của Bao Tự, cái
liếc mắt của Điêu Thuyền, một chút nũng nịu của Dương Quí Phi, cái nhăn mặt của Tây Thi, hay nét u buồn của Chiêu Quân… – những
người đẹp đã từng làm xiêu đổ bao thành trì và triều đại phong kiến Trung quốc. Tác giả ngầm so sánh Kiều như một trang quốc sắc thiên
hương, một sắc đẹp có một không hai. Nhưng nàng đẹp đến nỗi thiên nhiên phải hờn ghen. Đoạn thơ đã phảng phất dự cảm về cuộc đời
đầy sóng gió bất trắc của nàng Kiều.

Tạo hoá ban cho nàng không chỉ là sắc đẹp mà còn tài năng hơn người:

“Thông minh vốn sẵn tính trời,

Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.”

Nàng có đủ phẩm chất, tài năng của một nghệ sĩ: Thơ ca, hội hoạ, âm nhạc nàng đều tỏ ra tài hoa rất mực. Nàng có một năng lực cảm
nhận nghệ thuật tinh tế, cho thấy một tâm hồn mẫn cảm, phong phú. Nhưng có lẽ nổi bật nhất là ngón đàn:

“Cung thương làu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.”

Tiếng đàn ấy như phát ra từ chính con tim đa sầu đa cảm, và nó gắn với số phận đời nàng. Như một sự xui khiến của số phận, khúc nhạc
nàng chọn cho riêng mình là khúc “bạc mệnh”:

“Khúc nhà tay lựa nên chương,

Một thiên bậc mệnh lại càng não nhân.”

Âm điệu câu thơ như chùng xuống, như nghẹn đắng theo cung đàn. Một linh cảm về kiếp đoạn trường. Không phải ngẫu nhiên nhà thơ lại
để cô gái xuân xanh vừa chớm lại gieo cung bạc mệnh. Chừng như trong sâu thẳm tâm hồn, thiên tài Nguyễn Du đã cảm nhận, đã dự báo
những nỗi bất hạnh sẽ phủ xuống đời nàng.

Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng chưa thoát khỏi thuyết “thiên mệnh”: “tài mệnh tương đố”, “tài tử đa cùng, hồng nhan đa truân”.
Cuộc đời mỗi người đều do số phận an bài, mệnh trời là một thế lực vạn năng “Cho hay muôn sự tại trời”, “Chữ tài liền với chữ tai một
vần”. Kiều đẹp quá, tài năng quá nên không tránh khỏi “hồng nhan bạc phận”. Thế nhưng, nếu chỉ thế thì Truyện Kiều cũng không thể trở
thành tuyệt tác. Chính tấm lòng nhân hậu, chính trái tim yêu thương, trân trọng con người, nhà thơ đã phản ánh “những điều trông thấy
mà đau đớn lòng” để phơi bày hiện thực xã hội tàn ác bất nhân, thế lực đồng tiền và quyền lực bọn quan lại đã vùi dập, chà đạp lên ước
mơ về hạnh phúc của con người, đã đẩy một nhân cách cao đẹp, một trang tuyệt sắc giai nhân vào vũng bùn tăm tối của cuộc đời.

Khép lại đoạn trích Chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã tô thêm về cuộc sống và đức hạnh của hai chị em:

“Êm đềm trướng rủ màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai.”

Những thành ngữ “trướng rủ màn che” diễn tả cuộc sống khuôn phép, êm ấm hạnh phúc của hai cô gái con nhà tử tế, được giáo dục hẳn
hoi. Một lần nữa Nguyễn Du đã khẳng định nhân cách và phong thái của hai chị em.

Khổ thơ cuối đã khép lại và hoàn chỉnh hai bức chân dung tuyệt tác của Thuý Vân và Thuý Kiều. Qua đó, người ngắm tranh không chỉ
thấy được chân dung nhân vật mà còn nhìn thấy bức tranh thói đời ghét thương, đố kị. Không chỉ thấy được ngoại hình nhân vật mà còn
thấy được tâm hồn tính cách của nhân vật, và dự báo cả về tương lai, số phận của nhân vật. Nguyễn Du đã đẩy nghệ thuật tả người đạt
đến đỉnh cao của văn học trung đại.
BT2: Hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ – tư dung tốt đẹp, tài sắc vẹn toàn nhưng lại có số phận đầy bi thương, bị xã hội chà đạp, tước
đoạt đi hạnh phúc, quyền được sống. Ấy vậy mà họ vẫn luôn toát lên những phẩm chất, cao quý, tốt đẹp. Văn học trung đại Việt Nam đã
khắc họa bức tranh hiện thực xã hội đầy bất công oan trái mà người phụ nữ phải cam chịu và phẩm chất sáng ngời của họ. Tiêu biểu là
các tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ và Truyện Kiều của Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình
Chiểu…

I. Phân tích điểm giống và khác nhau

1. Phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ

Trong xã hội phong kiến, dường như tất cả mọi thứ đều bất công với người phụ nữ. Tình yêu không, hạnh phúc không, tiếng nói cũng
không. Nhưng, chính những áp bức đó đã làm sáng ngời lên những đức tính, phẩm hạnh đáng quý, đáng trân quý của người phụ nữ.
Người phụ nữ ngày xưa xuất hiện trong văn học thường là những người phụ nữ đẹp. Từ vẻ đẹp ngoại hình cho đến tính cách.

Đọc Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, ta thấy Vũ Nương đúng là một mẫu mực của phụ nữ phong kiến với những
phẩm chất đáng quý. Nàng “thùy mị nết na, tư dung tốt đẹp”, là chuẩn mực của người phụ nữ Việt Nam. Trong đạo vợ chồng, nàng hết
sức khôn khéo, hết sức chú trọng “giữ gìn khuôn phép” để hy vọng có được một mái ấm gia đình hạnh phúc.

Rồi chiến tranh loạn lạc, nàng tiễn chồng ra trận với lời tống biệt dịu dàng, thiết tha mà chân thành: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng
dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi … “. Đó là một
tấm lòng của người phụ nữ Việt Nam dung dị, không màng danh lợi, chỉ mong vun quén cho một mái ấm gia đình. Trong những năm
tháng đằng đẵn chồng còn ngoài nơi chiến địa, người thiếu phụ đáng thương ấy đã ra sức tần tảo nuôi con thơ, phụng dưỡng mẹ chồng,
ngày đêm giữ gìn tiết hạnh hầu vun đắp dưỡng nuôi cho cái nguồn hạnh phúc mà nàng đang mong đợi. Đối với mẹ chồng, nàng giữ vẹn
đạo làm dâu thảo. Vũ Nương hết lòng săn sóc, lo thuốc thang khi mẹ ốm đau và cả việc lo ma chay tế lễ khi mẹ chồng mất… Còn gì quý
hơn là lời của người mẹ chồng nhận xét về tấm lòng thơm thảo của nàng trước khi bà cụ qua đời. Trong đôi mắt của người mẹ chồng,
nàng là người có “lòng lành”. Sự đảm đang hiếu nghĩa ấy cũng biểu hiện phần nào tấm lòng son sắt của nàng đối với Trương Sinh. Có thể
nói, đạo làm con, làm vợ, làm mẹ tất cả đều được Vũ Nương thực hiện trọn vẹn… Và có lẽ vẻ đẹp tâm hồn nàng đẩy lên đến cao độ qua
hình ảnh chiếc bóng trên vách. Một chi tiết tưởng đơn giản ấy nhưng bao hàm biết bao ý nghĩa về lòng yêu thương, thủy chung son sắt
của nàng đối với chồng. Dù chiến tranh ngăn cách nhưng trong tâm hồn nàng, hình bóng Trương Sinh vẫn khắng khít, gắn bó với nàng
như hình với bóng không rời nhau.

Đến với Nàng Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, một trang tuyệt sắc giai nhân, một người con có hiếu, một tấm lòng vị tha bao
dung.

Khi gia đình gặp tai biến Kiều đã quyết định hy sinh mối tình riêng để cứu cha và em. Hành động đó khiến người đọc thật cảm phục:

“Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,

Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.”

Sống nơi đất khách quê người, nỗi nhớ về người yêu – biểu hiện của tình cảm chung thuỷ không hề vơi đi trong tâm hồn người con gái
đáng thương này: “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?”. Kiều đã không giấu nỗi nhớ nhung da diết mãnh liệt của mình đối với chàng
Kim. Vừa mới hôm nào cùng với Kim Trọng nặng lời ước hẹn trăm năm mà nay Kiều đã phải cắt đứt mối tình duyên ấy một cách đột
ngột. Ngòi bút Tố Như thật tinh tế khi kể về tình cảm Thúy Kiều nhớ về người yêu cũng phù hợp với quy luật tâm lí và bộc lộ cảm hứng
nhân đạo sâu sắc. Chén rượu thề nguyền hôm nào dư vị còn đọng trên bờ môi, vầng trăng như vẫn còn kia, mà lại xa xôi cách trở. Kiều
đau đớn nhớ tới người yêu, tưởng như lúc này chàng vẫn chưa hay biết việc nàng đã phải trầm luân trong gió bụi cuộc đời nên đang mong
ngóng chờ đợi tin tức của nàng một cách uổng công vô ích!

Còn về phần nàng thì “Bên trời góc bể bơ vơ”, biết đến bao giờ mới phai được tấm lòng son mà nàng đã quyết định dành cho chàng từ cái
buổi “thề non hẹn biển” hôm ấy. Câu thơ “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai” có thể hiểu là tấm lòng son sắt, nỗi nhớ thương kim Trọng
không bao giờ nguôi hoặc có thể hiểu là tấm lòng son sắt, nỗi nhớ thương Kim Trọng không bao giờ nguôi hoặc có thể hiểu tấm lòng son
của Kiều đã bị dập vùi hoen ố biết bao giờ mới gột rửa được. Càng thương nhớ người yêu, Kiều càng thấm thía tình cảnh bơ vơ trống trải
của mình, nàng càng nuối tiếc những kỉ niệm đẹp đẽ của mối tình đầu thơ ngây trong sáng.
Kiều còn quên hết nỗi đau riêng của mình mà dành tất cả tình cảm thương nhớ cho cha mẹ, nàng thật là người có lòng vị tha:

“Xót người tựa cửa hôm mai,

Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ ?”

Những câu hỏi tu từ cứ sâu xoáy trong lòng người đọc về đắng cay cuộc đời.

Trong Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa vẻ đẹp của Kiều Nguyệt Nga nết na, ân tình, son sắt của một cô gái khuê. Cách
xưng hô “quân tử”, “tiện thiếp”, cách nói năng văn vẻ, dịu dàng, mực thước: “Làm con đâu dám cãi cha”, “Chút tôi liễu yếu đào thơ –
Giữa đường gặp phải bụi dơ đã phần”, cách trình bày vấn đề rõ ràng, khúc chiết thể hiện chân thành niềm cảm kích, xúc động của mình:

“Trước xe quân tử tạm ngồi,

Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa.”

Nguyệt Nga là một con người rất mực đằm thắm, ân tình. “Ơn ai một chút chẳng quên”, huống hồ đây lại là một cái ơn rất lớn, không chỉ
là ơn cứu mạng mà còn cứu cả cuộc đời con gái trong trắng của nàng:

“Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,

Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.”

Và cuối cùng nàng tự nguyện gắn bó cuộc đời với chàng trai khẳng khái, hào hiệp đó, và đã dám liều mình để giữ trọn ân tình thuỷ chung
với chàng. Sự thuỷ chung ấy còn khắc hoạ đậm nét con người ân tình của Kiều Nguyệt Nga.

2. Số phận bất hạnh, bi kịch

“Đau đớn thay phận đàn bà,

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.”

Lời ai oán trên đã hơn một lần xuất hiện trong sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du giống như một điệp khúc rùng rợn. Đây không phải là
một lời nói quá mà điều này lại được thể hiện khá phổ biến trong văn học Việt Nam. Trong một xã hội phong kiến suy tàn lúc bấy giờ, số
phận của người phụ nữ thật bé nhỏ, long đong, lận đận. Văn học thời ấy cũng đã nhắc nhiều đến kiếp đời của người phụ nữ, mà có lẽ điển
hình trong số ấy là nhân vật Vũ Nương (Chuyện người con gái Nam Xương – Nguyễn Dữ). Vũ Nương là một bi kịch của gia đình, của số
phận phũ phàng của người phụ nữ trong xã hội đầy bất công oan trái. Niềm vui hạnh phúc gia đình không được bao lâu, rồi chiến tranh
loạn lạc, nàng phải một mình một bóng âm thầm nuôi già dạy trẻ, những nỗi khổ về vật chất đề nặng lên đôi vai mà nàng phải vượt qua
hết. Những tưởng khi giặc tan, chồng về, gia đình được sum vầy thì không ngờ giông bão đã ập đến, bóng đen của cơn ghen đã làm cho
Trương Sinh mù quáng. Chỉ nghe một đứa trẻ nói những lời ngây thơ vô tình mà anh đã tưởng vợ mình hư hỏng. Trương Sinh chẳng
những không hỏi cho rõ ràng mà đánh đập phũ phàng rồi ruồng rẫy đuổi nàng đi, không cho nàng thanh minh.Bị dồn vào bước đường
cùng, Vũ Nương phải tìm đến cái chết để kết thúc một kiếp người trong oan khuất. Bi kịch của Vũ Nương là bi kịch gia đình.

Bên cạnh Vũ Nương, một hình ảnh nổi bật nữa là nhân vật Thuý Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Ngay từ đầu tác phẩm, nhận
định của tác giả “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” đã dự báo cho điều đau đớn này. Thuý Kiều mang một vẻ đẹp đằm thắm,
mảnh mai là thế, tài sắc lại vẹn toàn hiếu nghĩa, đáng ra nàng phải được sống hạnh phúc, êm ấm, vậy mà do một biến cố trong gia đình
nàng đã phải bán mình chuộc cha. Bất hạnh này mở đầu cho hàng loạt bất hạnh khác mãi cho tới khi nàng tìm tới sông Tiền Đường để
chấm dứt số kiếp trầm luân. Dẫu biết kết chuyện Thúy Kiều được về sum họp với gia đình nhưng cả một kiếp người trôi nổi truân chuyên
ấy đã vùi dập cả một giai nhân tài sắc vẹn toàn. Độc giả đã khóc cho bao lần chia phôi vĩnh viễn, những tháng ngày sống không bằng chết
trong lầu Ngưng Bích, những nỗi tủi nhục vò xé thân mình của Thuý Kiều. Số phận bi đát ấy. Bi kịch tình yêu của người con gái tài sắc
đã khiến muôn đời sau phải thốt lên “Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều” (Tố Hữu).

Còn Kiều Nguyệt Nga trong Truyện Lục Vân Tiên, một cô gái thủy chung son sắt, một tấm lòng trọng nghĩa, hiền thục thì bị cường
quyền hãm hại phải đi cống giặc Ô Qua, đến đỗi nàng phải trầm mình tự vẫn.

Có lẽ bi kịch của Vũ Nương và Thúy Kiều hay Kiều Nguyệt Nga không phải là trường hợp cá biệt mà khủng khiếp thay là số phận của
bao chị em phụ nữ, là kết quả của bao nhiêu nguyên nhân mà chế độ phong kiến đã sản sinh ra làm số phận của họ thật bi đát.
Đó không chỉ là tiếng kêu thương mà còn là lời tố cáo, vạch trần thực trạng xã hội đen tối, thế lực và tiền bạc lộng hành, đồng thời cũng
gián tiếp lên án thế lực phong kiến đã đẩy con người vào tình cảnh đau đớn. Với chế độ nam quyền: “Trọng nam khinh nữ “, người phụ
nữ đã bị tước đoạt mọi quyền lợi chính đáng, nhân phẩm họ bị rẻ rúng. Họ bị ràng buộc bởi những lễ giáo phong kiến khắc nghiệt như
đạo “tam tòng “, hay các quan niệm lạc hậu như “nữ nhân ngoại tộc”…Số phận của người phụ nữ hoàn toàn bị phụ thuộc, chà đạp, thậm
chí còn bị coi như món hàng trong bi kịch cuộc đời.

Điểm hội tụ nét đẹp của văn chương chính là sự đồng điệu trong tâm hồn của trái tim nhà nghệ sĩ đó chính là tinh thần nhân đạo cao đẹp,
là ước mơ về hạnh phúc cuộc đời. Nguyễn Dữ đã thể hiện thế giới thủy cung tuy huyền bí, hoang đường nhưng vẫn đầy ấp nhân nghĩa
thủy chung, Nguyễn Du tái hợp Kim – Kiều trong “mang duyên cầm sắt đổi duyên cầm kỳ” dẫu có đôi chút gượng gạo nhưng vẫn ánh lên
tình đời bao dung, Nguyễn Đình Chiểu đã để Lục Vân Tiên đoàn tụ Kiều Nguyệt Nga cũng là điểm son nhân hậu.

II. Đánh giá chung

Thời gian đã lùi xa hàng bao thế kỉ nhưng những tác phẩm tâm huyết trên vẫn gây xúc động sâu xa, nhức nhối trong lòng người dọc. Bởi
lẽ các tác phẩm đã lên tiếng phản ánh xã hội phong kiến bất công gây đau khổ cho người phụ nữ. Song song đó, hình ảnh người phụ nữ
Việt Nam hiện lên thật đáng trân trọng và tự hào về người phụ nữ Việt với những phẩm chất tuyệt vời. Đó là vẻ đẹp truyền thống: đảm
đang, vị tha, thủy chung son sắt, giàu đức hi sinh. Vẻ đẹp đó mãi mãi là hạt ngọc đáng trân quý.

BT3: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều

Nếu Xuân Diệu - nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới của nền văn học Việt Nam hiện đại lấy con người làm chuẩn mực cho vẻ đẹp
của thiên nhiên thì đại thi hào Nguyễn Du lại lấy thiên nhiên làm thước đo cho vẻ đẹp của con người. Sự khác biệt này được ông thể hiện
tài hoa qua đoạn trích "Chị em Thúy Kiều". Đây là một trong những đoạn trích tiêu biểu nhất của tác phẩm bất hủ mang tên "Truyện
Kiều". Tác phẩm này đã làm nên tên tuổi Nguyễn Du và lưu danh ông đến hàng thế kỉ sau.

Ở những câu thơ đầu tiên, Nguyễn Du giới thiệu với độc giả hai người con gái của viên ngoại họ Vương:

Đầu lòng hai ả tố nga,


Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.

Thoạt đầu, bốn câu thơ cất lên, người đọc hình dung ra hai thiếu nữ xinh đẹp “hai ả tố nga”, người em tên Thúy Vân còn người chị là
Thúy Kiều. Mỗi người mang một nét đặc trưng riêng tựa như hai loài hoa khác nhau, nhưng đều đẹp tuyệt mỹ, tỏa sắc, tỏa hương “mười
phân vẹn mười”. Đó là một vẻ đẹp tròn đầy, cả vẻ bề ngoài lẫn nhân cách, tài năng. Cốt cách của họ được Nguyễn Du ví như “mai” như
“tuyết”, trong sáng, thanh thuần, mộc mạc.

Vẻ đẹp của người em gái Thúy Vân hiện lên rõ nét, ngắn gọn trong bốn câu thơ tiếp theo:

Vân xem trang trọng khác vời


Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da

Nàng Vân có một vẻ đẹp mà không ai có thể có được “khác vời”. Đó là vẻ đẹp đầy sự sang trọng, quý phái, đoan trang, xứng đáng là một
thiếu nữ đài các. Nét đẹp của nàng Vân được họa nên bằng các hình ảnh ước lệ, tượng trưng: khuôn mặt tròn trịa, phúc hậu tựa mặt trăng,
đôi lông mày rậm rạp, sắc nét.

Những hình ảnh ước lệ như càng làm tăng thêm vẻ đẹp của nàng. Tính cách nhã nhặn, ôn nhu, cười tươi tựa hoa nở, lời nói đều là lời
vàng, ý ngọc. Vẻ đẹp đó đã đạt tới mức khiến sự vật xung quanh phải e thẹn, kính nể “mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”. Những
hình ảnh nhân hóa “thua, nhường” dự báo cho một cuộc sống êm đềm, thuận lợi của Thúy Vân.

Nhà thơ miêu tả về Thúy Vân như làm nền, đòn bẩy để làm tăng thêm nét đẹp của Thúy Kiều. Khi miêu tả Vân chỉ gói gọn trong bốn câu
thơ nhưng khi nói về Kiều, thi nhân đã dành hẳn mười hai câu thơ, đủ để nhận thấy tác giả có cảm tình thế nào với phận hồng nhan, bạc
mệnh này:
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai.

Vân đã đẹp đến thiên nhiên cũng phải kiêng dè, Kiều lại đẹp hơn nhiều lần: “càng sắc sảo mặn mà”, “phần hơn”. “Sắc sảo” chính là nét
đẹp trưởng thành, thông tuệ. Để có thể khắc họa một cách chân thực nhất sắc đẹp của Thúy Kiều, Nguyễn Du đã khai thác triệt để thủ
pháp ước lệ, các hình ảnh tượng trưng, đặc biệt tập trung vào đôi mắt “làn thu thủy”. Đôi mắt nàng trong trẻo, bình lặng và ẩn chứa nhiều
tâm sự.

Từ đôi mắt ấy, ta cảm nhận được một tâm hồn đa sầu, đa cảm, giàu tình yêu thương của nàng. Bên cạnh đôi mắt như làn nước mùa thu,
cặp lông mày được ví là “nét xuân sơn”. Như dáng núi mùa xuân, giúp chúng ta liên tưởng đến đôi mày liễu, gọn mảnh, cong, mang đến
vẻ đẹp xuân sắc cho cả khuôn mặt. Đó cũng là một nét đẹp tuyệt hiếm có, biểu lộ tính cách nhu thuận, dịu dàng của người phụ nữ.

Nhưng tại sao không trực tiếp ví đôi lông mày của nàng như lá liễu mà phải ví như núi mùa xuân. Bởi cuộc đời nàng cũng truân chuyên,
khúc khủy, lên xuống gập ghềnh tựa như núi. Không chỉ như vậy, vẻ đẹp thuần khiết, tự nhiên của nàng còn có thể làm “nghiêng thành,
nghiêng nước”, giao tranh kịch liệt mà hoa, liễu cũng phải hờn ghen. Phải chăng số trời đã báo trước về cuộc sống mai sau của Thúy Kiều
sẽ không được êm đềm, hạnh phúc, ngược lại luôn phải chịu nhiều điều bất hạnh, bi thương.

Phân tích chị em thúy kiều ta thấy về nhan sắc, Thúy Kiều đã hơn Thúy Vân một bậc còn về tài năng lại càng giỏi hơn mấy phần:

Thông minh vốn sẵn tính trời


Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.

Tư tưởng Nho giáo cho rằng người phụ nữ không cần quá xuất sắc về mọi mặt thì đã có thể hạnh phúc vẹn tròn, tiêu biểu cho hình mẫu
của Thúy Vân; còn ngược lại phụ nữ mà vừa có nhan sắc, lại còn có tài giỏi thì bạc mệnh.

Đây là sự ảnh hưởng của tư tưởng thời bấy giờ đến thơ ca của thi sĩ. Nhà thơ cho rằng: “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai". Thúy Kiều
vốn là thần đồng từ nhỏ, trí thông minh do trời phú. Thêm vào đó, những ngón nghề cầm, kỳ, thi, họa nàng đều thông thạo, giỏi giang.

Mà đặc biệt nhất là tài năng âm nhạc của nàng: “Cung thương làu bậc ngũ âm/Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương”. Nàng có thể tự
mình sáng tác nhạc, phổ nhạc, viết lên tiếng lòng của kẻ đa sầu cũng là cuộc đời lắm bạc bẽo, đau thương của nàng “một thiên bạc mệnh
lại càng não nhân”, thật khiến cho người ta đau lòng. Cũng bởi “chữ tài đi với chữ tai một vần.”

Khép lại đoạn trích, Nguyễn Du mở ra không gian sống khá giả, êm đềm của hai thiếu nữ:

Phong lưu rất mực hồng quần,


Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê,
Êm đềm trướng rủ màn che.
Tường đông ong bướm đi về mặc ai

Xinh đẹp, tài năng, đã đến tuổi lấy chồng và được nhiều người theo đuổi “ong bướm đi về”, Kiều và Vân sống trong khuôn phép, gia giáo
“trướng rủ màn che”, cứ chuyên tâm sống một đời êm đềm, hạnh phúc.

Phân tích Chị em Thúy Kiều bước đầu cho thấy được tài năng, bút lực của Nguyễn Du. Ông đã thành công khắc họa chân dung hai nhân
vật một cách sống động và sắc nét qua thể thơ lục bát truyền thống, kết cấu tinh tế. Bên cạnh đó, bút pháp ước lệ tượng trưng, hình ảnh so
sánh nhân hóa đặc sắc được lồng ghép khéo léo đã đưa đến cho người đọc những cảm xúc khó tả; vừa xuýt xoa trước vẻ đẹp hội tủ đủ:
sắc, tài , tình, mệnh vừa khiến người ta nhói lòng trước sự báo số mệnh của nàng Thúy Kiều.

“Thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc”. Chẳng biết Nguyễn Du sở hữu bao nhiêu tài năng, dành bao nhiêu tâm huyết để vẽ nên bức tranh
có một không hai ở “Chị em Thúy Kiều”. Bức tranh tinh tế, sống động, chân thật và gần gũi, mà khi nhìn ngắm người ta có thể cảm nhận
được từng hơi thở của thi sĩ, giọt nước mắt thương cảm về số phận phía trước chẳng mấy hoan hỉ của Thúy Kiều. Ngay bây giờ và đến
mãi về sau, Truyện Kiều luôn là áng văn chương bất hủ truyền tụng đời đời.

VĂN BẢN: Kiều ở lầu Ngưng Bích

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,


Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm?
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác, biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

BT1: Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích để thấy rằng: Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tâm tình đầy xúc động

Truyện Kiều là một trong những tác phẩm thơ ca đặc sắc và tiêu biểu nhất cho văn học chữ Nôm của Việt Nam. Tác phẩm là lời thương
cảm sâu sắc của Nguyễn Du dành cho những số phận bất hạnh của cuộc đời. Ông cũng đã thành công ở nhiều phương diện khi xây dựng
lên tính cách, tâm trạng của nhân vật qua lời nói, hành động. Đặc biệt trong đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích", có ý kiến đã nhận định
rằng "Nguyễn Du đã xây dựng lên một bức tranh tâm tình xúc động qua hình ảnh của nàng Kiều".

Thúy Kiều sau khi bán mình cứu cha, nàng những tưởng mình bị bán đi làm vợ lẽ cho người ta. Nào ngờ rằng nàng đã bị Mã Giám Sinh
lừa gạt, làm nhục rồi bán cho Tú Bà buôn phấn bán hương. Rơi vào nanh vuốt của mụ buôn thịt người, quá uất ức và đau khổ, Kiều quyết
định liều mình tự sát, cứu vớt chút danh dự cuối cùng cho bản thân. Thế nhưng, nàng lại được Tú Bà cứu sống chỉ vì không muốn mất đi
một món hời lớn. Tú Bà đã dụ dỗ Kiều tới ở lầu Ngưng Bích với lời hứa sẽ tìm chỗ tử tế để gả nàng đi. Tại đây, nàng sống những ngày
tháng buồn bã, đầy đau khổ và tủi nhục, thương nhớ người yêu, thương nhớ mẹ cha ở quê nhà. Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" chính
là đoạn trích miêu tả tâm trạng của nàng trong những ngày tháng sống tại đây. Bằng bút pháp tài hoa của mình, Nguyễn Du thực sự đã
dựng xây lên một bức tranh tâm tình đầy xúc động, đúng như nhận định trên. Cảnh vật trong đoạn trích cũng bị nhuốm một màu hiu hắt,
đìu hiu, gợi lên mối sầu cô đơn trong lòng nàng Kiều tội nghiệp.

Thúy Kiều sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, được sống trong không khí đầm ấm, dịu êm của gia đình, lại đang say trong hạnh
phúc cùng chàng Kim Trọng, ai ngờ đâu nàng lại lỡ sa chân vào vòng xoáy đen bạc của cuộc đời. Nàng bị Mã Giám Sinh rồi Sở Khanh
lừa gạt một cách trắng trợn, bị đánh đập, bị xúc phạm, bị làm nhục, tất cả những gì đau khổ nhất dường như đổ lên người nàng cùng một
lúc. Tâm hồn nàng, thể xác nàng bị dày vò, bị chà đạp, bị giày xéo bởi những thế lực đen tối đến mức nàng chỉ muốn tìm đến cái chết để
giải thoát cho mình. Thế nhưng, đúng là cuộc đời muốn vần xoay nàng khiến nàng chết cũng không được, nàng được Tú Bà cứu sống rồi
đưa đến lầu Ngưng Bích để giam lỏng. Những ngày tháng ở đây, nơi đất khách quê người, không một ai thân thích, Kiều hoàn toàn cô
đơn, bất lực, đau xót. Nàng chỉ biết bầu bạn cùng những cảnh vật bên mình, gửi gắm vào chúng những tâm tình đầy đau khổ vì quanh
nàng chẳng có lấy một ai cho nàng sẻ chia. Nhưng Nguyễn Du, ông đã vô cùng thấu hiểu nàng khi luôn theo sát bước chân nàng, là người
phía sau miêu tả và thấu hiểu những nỗi tâm tư trăm đường tơ vò của Thúy Kiều - người phụ nữ tài sắc vẹn toàn mà ông trân trọng, yêu
quý nhất.

Đọc đoạn trích, ở ngay những câu đầu tiên, người ta đã nhận ngay ra cái hoàn cảnh và tâm trạng đầy đau khổ của Kiều hiện lên trong
từng câu chữ, từng chút cảnh vật xung quanh:

"Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân


Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng"

Những người thân yêu với Kiều giờ đây đang ở một nơi phương xa, chỉ còn mình Thúy Kiều sống giữa bầy lang sói Tú Bà, Sở Khanh, ...
thế nên với nàng, một cảnh núi xa, một tấm trăng gần cũng trở thành người bạn tri kỉ, chia sẻ nỗi niềm cùng nàng. Cảnh vật ở lầu Ngưng
Bích hiện lên thật rõ ràng chỉ bằng vài nét miêu tả chấm phá tài hoa của Nguyễn Du. Trước lầu ấy có núi non bát ngát, có trăng, có bụi
hồng, cồn cát, ... Cảnh đẹp là thế nhưng ngôi lầu như chiếc lồng son đã khóa chặt bước chân của Kiều. Đây là sự giam lỏng mà Tú Bà
dành cho Kiều trước khi dùng âm mưu khác buộc Kiều phải tiếp khách. Lầu Ngưng Bích đã "khóa xuân" tức là khóa chặt tuổi xuân của
Kiều, khóa chặt những nỗi thương nhớ, tình yêu, hy vọng, thanh xuân của nàng. Cảnh vật hiện lên thật đẹp, thật mênh mông rộng lớn, thế
nhưng, giữa mênh mông đó chỉ có mình Kiều. Chỉ có mình nàng cô đơn giữa chốn đây, đìu hiu, hoang vắng. Nguyễn Du đã mượn cảnh
vật để Kiều nói lên tâm trạng của mình:

"Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung


Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia"

Có cảnh vật đấy, có cảnh sắc đấy, "bát ngát" mênh mông đấy, thế nhưng lại chẳng có ai cho nàng thổ lộ, chia sẻ nỗi niềm trong lòng.
Cảnh vật càng tĩnh lặng lại càng làm nổi bật lên nỗi cô đơn đau xót của nàng khi phải ở một mình nơi đất khách. Gần là núi, là trăng, xa
xa là cồn cát vàng đang tung lên những bụi phấn hồng, thế nhưng sao mà lạnh lẽo, thê lương tới nhường ấy! Mọi cảnh vật ở đây đều ngổn
ngang, đều mù mịt như chính tâm trạng và tương lai của nàng vậy. Bút pháp tả cảnh ngụ tình đã phát huy tối đa tác dụng của mình khi
miêu tả cảnh vật nhưng lại giấu trong đó bao nhiêu là nỗi niềm của người con gái xa quê tội nghiệp. Tả cảnh xung quanh nhưng cũng là tả
những phút giây tâm trạng cô đơn, ngổn ngang suy nghĩ của Kiều. Cô đơn, đau xót là vậy, nghĩ tới thân phận của mình, cõi lòng của Kiều
lại càng thêm xót xa hơn:

"Bẽ bàng mây sớm đèn khuya


Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng"

"Bẽ bàng" - sự tủi nhục, đau khổ, hổ thẹn của Kiều khi nàng hết bị Mã Giám Sinh làm nhục rồi lại phải chịu cảnh bước chân vào một nơi
chốn xa lạ, xấu xa, bẩn thỉu. Nàng cảm thấy thật xấu hổ, thật đau đớn tủi nhục biết bao khi chính mình phải chịu kiếp làm thân kỹ nữ mà
muôn người cười chê. Bị giam lỏng ở đây, hết tối lại sáng, rồi lại lặp lại vòng xoay ấy, Thúy Kiều chỉ có thể ở lại đây, thui thủi, lẻ loi một
mình. Không gian vắng lặng xung quanh bủa vây lấy nàng, vây hãm nàng.

Chính trong những lúc cô đơn buồn bã nhất, nàng lại lặng mình hồi tưởng, âm thầm gạt những giọt lệ khi nghĩ về quá khứ êm đềm ngày
xưa. Nàng nhớ về người mình yêu, về những phút giây đầu tiên khi say trong men nồng của hạnh phúc lứa đôi lần đầu nàng bắt gặp.
Nàng cũng nhớ về đêm trăng mình cùng tình lang hẹn hò, thề nguyền đôi lứa mãi mãi bên nhau. Nỗi nhớ người yêu bùng lên trong lòng
Kiều khiến nàng càng thêm xót xa vô tận:

"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng


Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai"

Hạnh phúc mà nàng có được trong đêm nàng băng tường vượt rào đến với chàng Kim thật khiến nàng không khỏi bồi hồi khi nhớ lại.
Những phút giây hạnh phúc nâng chén rượu dưới ánh trăng để hẹn thề, giờ nhớ lại thật là đau xót biết bao. "Tưởng" được Nguyễn Du đặt
ngay đầu câu thơ khiến chúng ta như cảm thấy rằng hình ảnh của đôi trai tài gái sắc ấy hiện ra ngay trước mắt. Hay phải chăng chính
Kiều cũng đang sống lại trong phút giây ấy trong sự hồi tưởng:

"Vầng trăng vằng vặc giữa trời


Đinh ninh hai miệng một lời song song"

Nàng cũng hình dung thấy rằng ở Lưu Dương cách trở xa xôi kia chàng Kim Trọng vẫn ngày ngày ngóng trông tin tức của nàng, mong
ngóng nàng "rày trông mai chờ" trong vô vọng. Nguyễn Du đã đặt ở đây những lời độc thoại từ sâu thẳm bên trong trái tim nàng. Đó là
tiếng nói thổn thức của một trái tim yêu hướng về mối tình đầu còn dang dở của mình. Nàng đang nhớ người yêu tha thiết biết nhường
nào! Chén rượu thề nguyền hôm đó vẫn còn đọng nguyên hương vị trong trái tim của nàng và nàng biết dù có đi xa, có cách trở chân trời
"chân trời góc bể bơ vơ" thì trong lòng nàng, mối tình ấy vẫn vẹn nguyên, trong sáng. "Tấm son" - tình yêu đầu tiên trong lòng nàng sẽ
không bao giờ nhạt phai.

"Chân trời góc bể bơ vơ


Tấm son gột rửa bao giờ cho phai"

Nghĩ tới tình lang Kim Trọng đang mòn mỏi mong ngóng tin tức của nàng, trong lòng nàng lại chợt dâng lên dạt dào nỗi nhớ cha mẹ:

"Xót người tựa cửa hôm mai


Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm"

Nàng đã rời xa quê hương, gia đình, ra đi biền biệt, giờ đây ai là người chăm sóc, thăm nom người cha già người mẹ của nàng? Nàng ra
đi vì chữ hiếu, nhưng nàng chẳng khỏi băn khoăn, thổn thức không nguôi khi nghĩ tới cảnh cha mẹ già yếu vẫn phải dựa cửa trông mong
con gái trong vô vọng. Nếu như ở trên, nhớ người yêu, nàng chỉ hồi tưởng, ngẫm lại "tưởng" thì khi nghĩ về mẹ cha, nàng lại thấy "xót"
thương vô cùng. Kiều cảm thấy thật day dứt, trăn trở khi không thể chăm nom, phụng dưỡng cha mẹ già, lại còn khiến mẹ cha thêm lo
lắng vì ngóng chờ tin tức của mình. Ở đây, Nguyễn Du đã dùng một loạt những điển cố, điển tích của Trung Quốc như "Sân Lai, gốc tử"
để nhắc tới tâm trạng nhớ thương và tấm lòng hiếu thảo của Kiều đối với cha mẹ của mình. Nàng đang tưởng tượng ra cha mẹ mình ngày
thêm già yếu, "có khi gốc tử đã vừa người ôm", thế mà nàng lại chẳng được kề bên mà chăm sóc, an ủi cha mẹ mình. Ẩn trong lời thơ là
sự trách móc bản thân, sự ân hận của Kiều khi không làm tròn được đạo hiếu của người con.

Qua tám câu thơ nhắc về những nỗi nhớ của Kiều, người ta mới thấy Kiều quả thật là một người con hiếu thảo, một tình nhân thủy chung
giàu lòng vị tha. Dù nàng đang phải sống trong những tháng ngày đày đọa, đau khổ, thế nhưng nàng chẳng hề màng tới nỗi đau của bản
thân mà chỉ sống trong nỗi tâm tưởng về tình yêu đầu cùng với tấm lòng hiếu thảo hướng về mẹ cha nơi quê nhà. Nàng nhớ chàng Kim
trước bởi vì nàng là người có lỗi. Nàng ra đi mà chẳng thực hiện lời thề, chẳng một lời báo tin tới chàng. Còn mẹ cha ở quê, nàng đã thực
hiện phần nào chữ hiếu khi bán thân cứu cha, cứu gia đình. Ở đây, thứ tự sắp xếp đảo ngược so với lễ giáo nhưng lại vô cùng hợp lý trong
hoàn cảnh của Kiều.

Bức tranh tâm trạng của Kiều hiện lên trong từng câu chữ, từng cảnh vật xung quanh nàng. Dường như những nỗi buồn, nỗi nhớ của nàng
đang thấm dần vào cảnh vật, để chúng cũng nhuốm một màu đầy tâm trạng. Đúng như Nguyễn Du cũng đã từng nói:

"Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ"

Nguyễn Du đã tả rất chân thực những nỗi niềm của Kiều, để đến những câu thơ tiếp theo, người ta thấy hiện lên ở đó là bức tranh về nỗi
niềm tâm trạng của Kiều khi nhìn về cuộc đời số phận của mình:

"Buồn trông cửa bể chiều hôm


Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trông man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân may mặt nước một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi"
Một loạt những từ láy cùng điệp ngữ được Nguyễn Du sử dụng liên tiếp ở đây để nhấn mạnh, để khắc sâu hơn suy nghĩ, tâm trạng của
Kiều. Bốn từ "buồn trông" được lặp lại liên tiếp ở bốn câu thơ liên tục,"buồn trông" - cái nhìn buồn bã, đầy tâm trạng khắc khoải, mỗi lần
nhắc lại lại là sự mở đầu của một cảnh vật khác nhau. Sự nhắc đi nhắc lại ấy là để diễn tả nỗi buồn trùng điệp của Kiều. Nỗi buồn ấy đang
dâng lên trong không gian, thời gian, bao trùm lấy cảnh vật quanh nàng, vẽ lên một bức tranh sống động đầy tâm tình xúc động. Nỗi buồn
trùng trùng lớp lớp ấy đang kéo đến, cuộn lên không dứt trong lòng Thúy Kiều.

Mỗi cặp câu lại diễn tả một nỗi buồn khác nhau của Kiều.

"Buồn trông cửa bể chiều hôm


Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa"

Lời thơ là ánh mắt của Kiều đang hướng ra ngoài xa của không gian cảnh vật. Trong cảnh vật chiều hôm, nhuốm tà dương ấy, một cánh
buồm đang chấp chới, lẻ loi ngoài khơi xa. Cánh buồm ấy lúc ẩn lúc hiện trong mênh mông sóng nước, lẻ loi, cô quạnh. Phải chăng, đó
cũng là tâm trạng là hoàn cảnh của nàng lúc này, cũng lẻ loi cô độc như vậy! Liệu chăng tới khi nào, nàng mới được trở về quê hương, trở
về trong vòng tay của người thân yêu?

Lặp lại điệp từ "buồn trông" nhưng lần này, cảnh vật lại hiện ra khác với câu thơ trước:

"Buồn trông ngọn nước mới sa


Hoa trông man mác biết là về đâu"

Ánh mắt của Kiều đang dừng trên dòng nước mới đang chảy trôi chầm chậm. Trên mặt nước ấy là hình ảnh của một cánh hoa rơi rụng
đang bị nước cuốn đi ra xa. Cánh hoa ấy cứ trôi nhẹ trên mặt nước, chẳng biết nước sẽ đưa cánh hoa ấy trôi đi xa tận những đâu. Phải
chăng, Kiều nghĩ, đó cũng là thân phận của mình? Số phận của nàng cũng giống như cánh hoa kia, cứ dập dềnh theo dòng nước xô đẩy
của cuộc đời chẳng biết sẽ dừng chân ở đâu, rơi vào một nơi thế nào? Đúng, nàng chỉ là cánh hoa mỏng manh, yếu đuối ấy, chẳng biết
cuộc đời sẽ vùi dập nàng thêm bao nhiêu lần nữa đây? Hình ảnh cánh hoa là hình ảnh ước lệ miêu tả bản thân của Kiều như lời ví von của
người xưa "hồng nhan" cũng là lời bày tỏ tâm trạng nỗi niềm lo lắng của nàng về cuộc đời của mình.

Hướng trông ra xa hơn, nàng nhìn thấy chân trời xa tắp, phía trước là một màu xanh của biển cả mênh mang. Thế nhưng, trong hình ảnh
xanh mơn man ấy, là những "nội cỏ rầu rầu" - một màu sắc buồn bã, u ám như chặng đường sắp tới của nàng:

"Buồn trông nội cỏ rầu rầu


Chân mây mặt nước một màu xanh xanh"

Một "nội cỏ rầu rầu" - từ láy chỉ sự úa tàn, tàn lụi, một nội cỏ chẳng xanh mướt mà lại "rầu rầu" héo úa. Phải chăng, nội cỏ ấy cũng chứa
tâm trạng của Kiều đang thật u ám, thật mệt mỏi, cô đơn rằng cuộc đời của mình cũng sẽ như nội cỏ ấy lụi tàn theo năm tháng, hao mòn
tại nơi đây? Màu xanh xanh nhờn nhợt của chân trời cũng như báo hiệu cho tương lai mịt mù, đầy bão tố của nàng.

Nghĩ tới bão tố dường như trong lòng nàng dâng lên một dự cảm chẳng lành, những dự cảm về những sóng gió bủa vây cuộc đời nàng:

"Buồn trông gió cuốn mặt duềnh


Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi"

"Gió cuốn mặt duềnh" - gió cuốn sóng nước nổi lên mù mịt, tiếng sóng ầm ầm bủa vây xung quanh. "Ầm ầm" được dùng ngay đầu câu
thơ để người đọc cảm thấy sự hãi hùng, sự to lớn của biển cả trong giông bão. Đọc câu thơ, ta như cảm thấy sự rung chuyển của từng
dòng nước đang nổi lên xung quanh. Phép nhân hóa ở đây không chỉ khiến cho câu thơ thêm sinh động mà còn dùng để thể hiện tiếng kêu
sợ hãi trong lòng Kiều. Tiếng sóng gió ấy, tiếng gầm gào của sóng biển ấy dâng lên trong lòng khiến cho Kiều có một dự cảm chẳng lành
về đoạn đường đời phía trước của nàng. Chắc hẳn nó cũng giông bão và thật khủng khiếp biết bao. Hình ảnh thiên nhiên nhưng lại mang
tâm trạng của con người. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã thật xuất sắc khi dựng lên bức tranh tâm trạng đầy sợ hãi trước
sóng gió của Kiều về cuộc đời phía trước. Đó như một lời cảnh báo, một dự cảm của Nguyễn Du báo hiệu cho những thử thách ở cuộc
đời nàng phía trước mặt.

Khép lại đoạn trích, những gì đọng lại trong lòng người đọc chúng ta là bức tranh cảnh vật nhuốm màu tâm trạng của Kiều. Bức tranh ấy
toàn những sắc màu nhợt nhạt, u sầu, buồn bã, bởi "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ" cùng những dự cảm của Kiều về quãng đời phía
trước. Đoạn trích cũng hội tụ nghệ thuật miêu tả tâm lý con người, độc thoại nội tâm đầy đặc sắc cùng những phép so sánh, nhân hóa, ẩn
dụ tài ba mà Nguyễn Du sử dụng để miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều. "Kiều ở lầu Ngưng Bích" quả là một bức tranh tâm tình đầy xúc
động.
Đọc đoạn trích người đọc thấy hiện lên ở đây một Thúy Kiều với tâm trạng thật cô đơn, buồn tủi, lạc lõng và sợ hãi biết chừng nào. Thế
nhưng, nàng vẫn đau đáu trong lòng tình yêu thủy chung với Kim Trọng cùng tấm lòng hiếu kính với mẹ cha. Nguyễn Du đã miêu tả thật
sát tâm trạng của Kiều. Ông đã dùng những cảnh vật xung quanh để vẽ lên bức tranh tâm trạng đặc sắc của Kiều. Ông đã cùng đồng cảm,
cùng suy tư, cùng sẻ chia những nỗi buồn của nàng. Đó là một trong những điều biểu thị giá trị nhân văn đáng quý. Ông quả là một người
thi sĩ vừa tài ba vừa nhân đạo của nền văn học Việt Nam.

BT2: Đề: “Có thể nói thiên nhiên trong Truyện Kiều cũng là một nhân vật, một nhân vật thường kín đáo, lặng lẽ, nhưng không
mấy khi không có mặt và luôn luôn thấm đượm tình người”. Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng
Bích”.

Thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ca Việt Nam từ xưa đến nay. Đã bao nhà thơ, nhà văn say đắm, có những lăng kính
khác nhau ở mọi góc nhìn từ thiên nhiên, cho ta những áng văn thiên cổ mà trong đó, thiên nhiên luôn đi với con người, thiên nhiên là
người bạn đắc lực nhất của con người. Ý kiến của Hoài Thanh đã khẳng định vai trò của thiên nhiên trong Truyện Kiều: “Có thể nói thiên
nhiên trong Truyện Kiều cũng là một nhân vật, một nhân vật thường kín đáo, lặng lẽ, nhưng không mấy khi không có mặt và luôn luôn
thấm đượm tình người”.

Thiên nhiên, ấy là một thế giới tuyệt đẹp, với những màu sắc, âm thanh, đường nét tráng lệ mà con người luôn khao khát. Có lẽ vì vậy mà
trong thơ cũ, tác giả luôn lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm chuẩn mực, thước đo cho con người. Thiên tài văn học Nguyễn Du có những
sáng tạo riêng, độc mà trong đó, thiên nhiên được lột tả bằng những từ ngữ chau chuốt, mang giá trị tuyệt đối khiến thế giới phải kính nể.
Sống động bằng những góc nhìn khác nhau, thiên nhiên đạt đến sự so sánh của một nhân vật, có ngoại hình, có tính cách, có suy nghĩ
riêng. Trong “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, thiên nhiên lấy vai trò là một “người bạn không tên”, giúp nàng Kiều nói lên những tâm sự của
mình. Nhân vật “kín đáo, lặng lẽ” ấy bên cạnh, thấu hiểu, kết nối Thúy Kiều với người đọc bằng cách phản chiếu chân thực cảm xúc của
nàng qua nhiều “tấm áo” khác nhau:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng

Thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích là một vẻ đẹp hoang vắng, cô đơn, mênh mông. Lầu Ngưng Bích tuy rộng mà cao, tuy nàng được tự
do nhưng đó chỉ là những giây phút như khiến nàng “mất cảnh giác” bởi cuộc đời nàng vẫn còn xa xôi. Lầu Ngưng Bích như một chiếc
lồng, khóa kín tuổi xuân của nàng. Đó là những tháng ngày chăm sóc cha mẹ, cùng chàng Kim thưởng nguyệt, cuộc đời ấm êm. Nhưng
nay, nàng bán thân, xa cách người yêu, một mình giữa chốn đất khách quê người, nàng liệu có thể đứng vững trước sóng gió cuộc đời?
Sự đối lập của “non xa”, “trăng gần”, “cát vàng cồn nọ” - “bụi hồng dặm kia”, khắp “bốn bề” cho đến “xa trông”. Cái đối xứng tạo cảm
giác trùng điệp của thiên nhiên, như vô tận mà nói với nàng rằng cuộc sống này sẽ không mỉm cười với người con gái ấy. Nhịp điệu của
câu thơ cùng từ láy “bát ngát”, “xa trông” chỉ có núi non mây mù, hướng lên trên thấy “trăng gần ở chung”. Các chiều từ xa đến gần luôn
luôn chỉ có vậy, không thay đổi, nàng vẫn đứng đó trông chờ đến ngày tái ngộ, thỏa nỗi lòng nhớ mong của nàng. “Cát vàng” và “bụi
hồng” cứ cuốn trong không trung chỉ chờ nàng bước đến. Thiên nhiên đó, là Kiều nhìn, nhưng nàng có thể vui sao? Nguyễn Du đã từng
viết:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đầu bao giờ?

Thiên nhiên bộ lộ vẻ đẹp của riêng, nhưng cũng đồng thời là tấm gương phản chiếu tâm trạng của Kiều. Một cuộc sống “êm đềm trướng
rủ màn che/Tường đông ong bướm đi về mặc ai?”. Một cuộc sống hạnh phúc bên gia đình, trong gia phong nề nếp, không bị vấy bẩn bởi
những mối quan hệ mập mờ. Nhưng nay, chỉ trong phút chốc, nàng đã phải tự bán mình cho Mã Giám Sinh. Vốn tưởng cuộc đời chỉ dừng
lại ở đó, cho phận con gái về làm vợ lẽ, nàng bị hắn lừa, cấu kết với Tú Bà, đưa nàng vào chốn lầu xanh. Một cô gái với những ước mơ,
khát vọng về tương lai tươi đẹp với gia đình, với người mình yêu, nay chỉ còn bóng tối bao quanh, chờ chực nàng. Nàng đã ở dưới vực
thẳm không đáy. Nàng càng đau đớn hơn khi mỗi đêm trôi qua nàng không thể ngăn những dòng nước mắt và sự tủi nhục:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng

Những câu hỏi “tại sao” vang lên trong tâm trí, nàng nghĩ về phận người con gái “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”, nay lại đặt chân ở
một nơi ô uế, nhục nhã như vậy. Thời gian cứ trôi đi, “mây sớm” rồi lại “đèn khuya”, nhưng cái “bẽ bàng” thì không hề chấm dứt. Cõi
lòng nàng đã tan nát. Vẻ bát ngát, xa rộng của thiên nhiên chỉ khiến nàng cô đơn, xót xa hơn. Thiên nhiên như một “nhân vật”, “lặng lẽ”
“đánh rơi” xuống con tim ta một câu chuyện về người con gái “hồng nhan bạc phận” ấy.

Bức tranh tứ bình trong tám câu cuối của đoạn trích thiên nhiên càng vẫy vùng, rợn ngợp với bốn nét riêng là ẩn dụ về cảnh ngộ và tâm
trạng của Kiều:

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Nỗi buồn, nỗi nhớ của nàng kéo dài đến tận “chiều hôm” và lại càng “tiến cấp” hơn nữa. Những người con xa quê, mỗi khi thấy ánh
chiều len lói, những mảng nắng còn sót lại trên bầu trời rộng lớn, họ lại nhớ về quê nhà. Nơi có khung cảnh quen thuộc, gắn bó. Nơi có
tiếng cười rộn vang sân nhà. Nơi có những đàn gà mổ thóc thật nhiều. Nơi có những người ta yêu quý không bao giờ rời xa. Những ngày
tháng bên gia đình, bên chàng Kim ùa về trong đôi mắt “làn thu thủy”, da diết nỗi nhớ cội nguồn. Trong buổi “chiều hôm” đó, nàng nhìn
thấy có con thuyền trôi. Nhưng chỉ là một con thuyền, “thấp thoáng cánh buồm” lại “xa xa”. Nó cứ lúc ẩn lúc hiện, trên thuyền lại không
rõ “ai”, mênh mông giữa “cửa bể” bao la. Cảnh thiên nhiên gợi sự lênh đênh, không biết bao giờ con thuyền mới cập bến trong chốn hư
vô, để đoàn tụ cùng những tiếng nói thân thuộc, những nụ cười mà nàng yêu. Sự vô định của con thuyền càng khiến nàng thấy cô đơn, lạc
lõng. Thiên nhiên xa, lại rộng lớn, chìm trong sắc chiều, nỗi buồn của nàng là sự quạnh hiu, là nỗi tha hương của người xa quê. Nơi đất
khách quê người, số phận nàng long đong, rồi sẽ như cánh hoa kia:

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Thủy triều đã lên. Cuồn cuộn, dập dềnh. Trên mặt nước đó, có một cánh hoa, chỉ một thôi, đang trôi dạt. Cánh hoa đó rơi từ cành cao, đến
một vùng biển xa lạ, nguy hiểm. “Ngọn nước mới sa” cứ đưa đẩy, sóng cứ ập xuống, mặc kệ hoa nhỏ bé, yếu ớt, côi cút. “Hoa trôi”
nhưng “trôi man mác”, như nỗi buồn của con người. Nguyễn Du thật khéo léo, đưa tính từ gợi cảm giác lao xao, nhẹ nhàng. Nhưng cái
nhẹ nhàng đó đối mặt với sự dồn dập của “ngọn nước”, lại có thể bị nhấn chìm bất cứ lúc nào. Sóng cứ vô tình xô đẩy cánh hoa, nay
phương Bắc, mai phương Nam, liệu biết đi về đâu? Thiên nhiên vẽ ra khung cảnh éo le, gợi cho con người bao nỗi niềm. Nàng Kiều nhìn
thấy “hoa” cứ cố gắng, cứ bám víu để đứng vững giữa dòng nước cuộn sóng, nàng nghĩ về phận mình. Chẳng phải nàng cũng giống cánh
hoa kia, từ chốn “xanh ngắt” rơi xuống vòng xoáy của cuộc đời, để cứ “trôi dạt” tìm kiếm đích đến của cuộc đời? Đã bao câu ca dao,
những câu thơ của thi sĩ nói về phận người phụ nữ trong xã hội cũ:

Thân em như trái bần trôi

Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu?

Hay như câu than của Bà chúa thơ Nôm:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non

Nếu ca dao ví phận người phụ nữ “như trái bần trôi”, Hồ Xuân Hương ví người con gái như “bánh trôi nước”, thì Nguyễn Du lại cất lên
ngòi bút ẩn dụ “cánh hoa” cho họ. Người phụ nữ ấy, họ đâu có quyền mà nói lên tiếng lòng? Họ đâu có quyền làm chủ cuộc đời? Họ đâu
thể thoát khỏi những ràng buộc về “tam tòng tứ đức”? Họ luôn bị số phận trêu đùa, phận “trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”, đẩy
họ vào bế tắc, tuyệt vọng. Họ như những cánh hoa đơn độc, mỏng manh, bị nước lũ cuốn trôi, không biết về phương nào, cũng chẳng biết
còn ai thương cho cuộc đời “bèo dạt mây trôi”. Thúy Kiều nay đã trở thành người con gái ấy, không thể tránh được bão tố cuộc đời. Chỉ
là một lát cắt của thiên nhiên, của tạo hóa, tưởng như không hề liên quan, nhưng lại ánh lên tâm trạng xót thương cho phận mình của
Kiều. Nay nàng được bình yên ở lầu Ngưng Bích, nhưng còn mai sau? Nàng sẽ đi đâu? Sẽ còn gặp những “ngon nước” nào ập lên nàng?
Nàng chỉ có thể chờ đợi trong sự tiếc thương vô hạn, tủi thân cho mình. Nàng không hề biết được tương lai sẽ đưa đẩy nàng đến đâu,
nhưng có lẽ có một “lời tiên tri”:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Trở lại với cánh đồng bao la, Nguyễn Du từng viết:

Cỏ non xanh tận trên trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

Trong những nơi mà tưởng như không thể có một sự sống nào có thể trỗi dậy được, ta thỉnh thoảng lại bắt gặp một sức sống mãnh liệt,
với thân trắng, nụ còn chưa hé nhưng lại xanh mơn mởn biết bao. Những cánh đồng lúa bạt ngàn xanh tươi luôn khiến ta cảm thấy tràn
đầy sinh lực, từ đó, màu xanh được coi là màu của hi vọng. Nhưng với thiên nhiên được trải trên trang thơ kia, màu xanh đó, cái xanh
ngát trời lại biến thành một màu héo úa, tàn tạ. Nó như dự báo cho nàng Kiều hình ảnh bản thân trong tương lai sẽ như cánh hoa, bị giẫm
nát, đè nặng, một dự báo không lành. Với những cảm xúc dồn nén khi bị đưa vào lầu Ngưng Bích, nỗi nhớ nhà, sự cô quạnh, nỗi buồn về
thân phận và bây giờ, trước mặt nàng là viễn cảnh xấu về con đường phía trước, nàng không khỏi có những nỗi sợ hãi, tiếng sóng trào
dâng trong lòng:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Những cơn sóng ngoài kia, nàng có thể cảm nhận, nó đang gào thét như những “sinh vật” đáng sợ của biển cả. Gió đã nổi lên, mặt đất
đang rung chuyển, trời đất như đang đảo lộn. Thiên nhiên trong những vần thơ cuối của bài lại dữ dội, cuồn cuộn. Nó đang muốn gì? Nó
đang chờ đợi điều gì từ kẻ đã cất lên “thiên Bạc mệnh” kia? Có phải đúng như lời cảnh báo của Nguyễn Du khi nói về sắc đẹp của nàng:
“hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”. Là nỗi sợ hãi của nàng đang cuộn sóng, khiến thiên nhiên cũng chuyển động theo? Là tiếng
sóng trong lòng nàng hay thật sự là sóng của thiên nhiên? Nó cứ ào tới như cơn bão, đến gần con thuyền của nàng. Buồn, nhớ, và đến xót
thương, tuyệt vọng, cuối cùng là sợ hãi tột độ. Bức tranh thiên nhiên trong từng cặp lục bát đều là những cảnh tuyệt bút của đất trời,
nhưng đâu có mang lại ẩn ý về điều tốt đẹp như trong những câu hát, bộ phim mà ta thường hay chiêm ngưỡng? Thiên nhiên đích thực là
hình ảnh phản chiếu của con người. Con người dù buồn, dù vui, cảnh cũng như một người bạn “ngâm mình” trong dòng cảm xúc ấy mà
thể hiện sự buồn vui đó. Nguyễn Du đã vô cùng sáng suốt khi sử dụng biện pháp tả cảnh ngụ tình, đúng như Hoài Thanh nhận xét rằng
thiên nhiên trong Truyện Kiều “thấm đượm tình người”, qua đó khắc họa thành công những suy nghĩ, nỗi buồn của nàng. Việc mượn lời
thiên nhiên để nói hộ lời Kiều góp phần hoàn thiện vẻ đẹp tâm hồn nàng. Nàng không tự mình nói ra như một lời bộc bạch, mà nàng đã
đau đớn đến mức không thể tự mình thốt lên lời, để nhờ thiên nhiên kết nối nàng với những trái tim cảm thông của độc giả. Nàng thật
hiếu thảo, có tâm hồn nhạy cảm trước cuộc đời. Nàng không hề có bất cứ lời thoại nào nhưng qua thiên nhiên, cảm xúc của nàng phản
ánh rõ rệt mà sống động như những lớp sóng tầng tầng lớp lớp dâng lên trong lòng.

Thiên nhiên luôn chứa đựng những vẻ đẹp khác lạ, nhưng nhờ đó, con người mới tìm ra những xúc cảm ẩn giấu trong tim và trở thành
người bạn chân thành với nhau. Trong cuộc sống của con người không thể vắng bóng thiên nhiên, “thiên nhiên là nguồn sống của con
người”, cũng như trong thơ ca thiên nhiên chiếm vị trí quan trọng như thế nào. Người nghệ sĩ phải nắm bắt được những vẻ đẹp đó, từ hiện
thực đưa vào tác phẩm, khiến “thơ đòi cô đúc để rồi trong một phút nổ ra như tiếng sét”.

You might also like