Professional Documents
Culture Documents
(Ngữ Văn 9) Dàn ý Chi Tiết 5 Tác Phẩm Quan Trọng Có Thể Sẽ Thi
(Ngữ Văn 9) Dàn ý Chi Tiết 5 Tác Phẩm Quan Trọng Có Thể Sẽ Thi
TÁC PHẨM 1:
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ - HUY CẬN
Cảnh hoàng hôn trên biển được miêu tả bằng một hình
tượng độc đáo:
Bốn câu thơ tiếp theo nói về những câu hát để làm
nổi bật một nét tâm hồn của người dân chài:
Hát rằng cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Nếu hai khổ thơ đầu miêu tả đoàn thuyền đánh cá ra khơi
trong khung cảnh rất đẹp và con người rất yêu lao động,
yêu thiên nhiên thì bốn khổ thơ sau lại tả cảnh đoàn
thuyền đánh cá trên biển bao la, hùng vĩ. Mỗi khổ thơ
là một nét vẽ về biển trời, sóng nước, trăng sao có nhiều
yếu tố lãng mạn, tràn đầy tưởng tượng dựa trên những
yếu tố hiện thực của đời sống trong đó con người hiện lên
trong dáng vẻ trẻ trung, khỏe mạnh và yêu đời.
Biển rộng lớn mênh mông và khoáng đạt trong
b.Bốn khổ
đêm trăng sáng. Trên mặt biển đó, có một con thuyền
thơ sau.
đang băng băng lướt đi trên sóng:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
- Câu thơ “biển cho ta cá như lòng mẹ. Nuôi lớn đời ta tự
buổi nào” là một lời hát ân tình sâu sắc trong bài ca lao
động say sưa thơ mộng, hùng vĩ và đầy lòng biết ơn.
Một đêm trôi đi thật nhanh trong nhịp điệu lao động
hào hứng hăng say
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng
Những đôi bàn tay kéo lưới nhanh thoăn thoắt gợi lên
vẻ đẹp rắn rỏi, khỏe mạnh với những bắp tay cuồn cuộn
của người dân chài khi kéo mẻ lưới đầy cá nặng. Từ phía
chân trời bắt đầu bừng sáng. Khi mẻ lưới được kéo lên,
những con cá quẫy dưới sánh sáng của rạng đông và
lóe lên màu hồng gợi khung cảnh thật rạng rỡ huy
hoàng, tươi đẹp. Câu thơ “lưới xếp buồm lên đón nắng
hồng” tạo một sự nhịp nhàng giữa sự lao động của con
người với sự vận hành của vũ trụ. Con người muốn chia
sẻ niềm vui với ánh bình minh.
a. Mùa xuân
của thiên Cảm hứng xuân phơi phới của Thanh Hải đã dệt nên
nhiên đất một bức tranh xuân rất đẹp, đầy sức sống và tràn ngập
nước (khổ 1) niềm vui rạo rực.
- Bức tranh ấy được chấm phá bằng rất ít chi tiết: một
dòng sông xanh, một bông hoa tím biếc, một tiếng
chim chiền chiện. Những nét chấm phá ấy đã vẽ ra
được một không gian cao rộng, màu sắc tươi thắm của
mùa xuân và cả âm thanh vang vọng, tươi vui của chim
chiền chiện.
+Ngay hai câu mở đầu đã gặp một cách viết khác lạ.
Không viết như bình thường : một bông hoa tím biếc
mọc giữa dòng sông xanh” mà đảo lại: “Mọc giữa dòng
sông xanh. Một bông hoa tím biếc”. Động từ “mọc” đặt
ở đầu khổ thơ của bài thơ là một dụng ý NT của tác giả
=> khắc sâu ấn tượng về sức sống trỗi dậy và vươn lên
của mùa xuân.Tưởng như bông hoa tím biếc kia đang
từ từ, lồ lộ mọc lên, vươn lên, xoè nở trên mặt nước xanh
của dòng sông xuân.
+ Tại sao màu nước sông lại xanh mà không là “dòng
nước trong mát” (bài “Vàm cỏ đông” của Hoài Vũ), hay
không là “dòng sông đỏ nặng phù sa” trong thơ Nguyễn
Đình Thi – bài Đất nước)? Có phải đấu là màu nước của
Hương Giang, hay chính là tín hiệu báo mùa xuân đang
về? Mùa xuân trang trải êm trôi một dòng xanh dịu mát.
Màu xanh lam của dòng sông hương hoà cùng màu tím
biếc của hoa, một màu tím giản dị, thuỷ chung, mộng
mơ và quyến rũ. Đó là mầu sắc đặc trưng của xứ Huế.
+ Tiếng chim chiền chiện tạo nên một nét đẹp nữa của
mùa xuân: “Ơi con chim chiền chiện. Hót chi mà vang
trời”=>. nhạc điệu của câu thơ như giai điệu của mùa
xuân tươi vui và rạo rực. Các từ than gọi “ơi, chi, mang
chất giọng ngọt ngào đáng yêu của người xứ Huế (thân
thương, gần gũi) . Câu thơ cứ như câu nói tự nhiên
không trau chuốt từ ngữ nhưng vẫn mang âm hưởng thi
ca. Câu hỏi tu từ “hót chi” thể hiện tâm trạng đùa vui,
ngỡ ngàng, thích thú của tác giả trước giai điệu của
mùa xuân.
- Quả thật, thiên nhiên nhất là mùa xuân vốn hào
phóng, sẵn sàng trao tặng con người mọi vẻ đẹp nếu
con người biết mở rộng tấm lòng. Thanh Hải đã thực sự
đón nhận mùa xuân với tất cả sự tài hoa của ngòi bút,
sự thăng hoa của tâm hồn. Nhà thơ lặng ngắm, lặng
nghe bằng cả trái tim xao động, bằng trí tưởng tượng,
liên tưởng độc đáo:
( Đoạn này, tác giả dùng phương thức biểu cảm trực
tiếp. Nhân vật “ta” trực tiếp bộc lộ tâm niệm của mình.
)
- Điều tâm niệm của nhà thơ: là khát vọng được hoà
nhập vào cuộc sống của đất nước, cống hiến phần tốt
đẹp – dù nhỏ bé của mình cho cuộc đời chung, cho
đất nước.
- Điều tâm niệm ấy được thể hiện một cách chân thành
trong những hình ảnh tự nhiên, giản dị và đẹp.
Đẹp và tự nhiên vì nhà thơ đã dùng những hình ảnh đẹp
c. Từ cảm xúc của thiên nhiên để nói lên ước nguyện của mình. Một
về mùa xuân con chim hót để cất tiếng thơ ngợi ca đất nước, làm
của thiên một nhành hoa để đem lại hương thơm cho cuộc đời.
nhiên, đất Bao trùm tất cả, ông ước nguyện hoá thành « một mùa
nước, mạch xuân nho nhỏ », lặng lẽ, âm thầm dâng hiến toàn bộ
tâm hồn, trí tuệ, sức lực và cả sự sống của mình góp
thơ chuyển
cùng mọi người : « Dù là tuổi hai mươi. Dù là khi tóc
một cách tự
bạc ».
nhiên sang
- Những hình ảnh bông hoa, tiếng chim hót được tác
bày tỏ những
giả phác hoạ ở phần đầu bài thơ giờ đây lại trở lại trong
suy ngẫm và khổ thơ này trong giọng thơ êm ái, ngọt ngào. Cách
tâm niệm của cấu tứ lặp lại như vậy tạo ra sự đối ứng chặt chẽ và
nhà thơ trước mang một ý nghĩa mới: Niềm mong muốn được sống
mùa xuân đất có ích,cống hiến cho đời là một lẽ tự nhiên như con
nước. chim mang đến tiếng hót, bông hoa toả hương sắc cho
đời. Trong bài “một khúc ca xuân” Tố Hữu cũng có
những suy ngẫm tương tự:
Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình?
=> Điều tâm niệm ấy thật cao đẹp, chân thành, là sự
phát triển tự nhiên trong mạch cảm xúc của bài thơ.
Điệp từ “ta” như một lời khẳng định. Và cái “ta” vốn chỉ
để nói về mình bỗng như trở thành cái “ta” chung của
nhiều người, khát vọng của nhiều người. Điệp ngữ “dù
là” như một lời tự khẳng định, tự nhủ với lương tâm -> sự
kiên trì, thử thách với thời gian, tuổi già, bệnh tật để mãi
làm một mùa xuân nho nhỏ trong mùa xuân rộng lớn
của quê hương, đất nước. Giọng thơ nhỏ nhẹ, chân tình
nhưng mang sức khái quát lớn.
= > Ước nguyện của nhà thơ cho ta hiểu mỗi người phải
biết sống, cống hiến cho cuộc đời.Thế nhưng dâng
hiến, hoà nhập mà vẫn giữ được nét riêng mỗi người...
Kết cấu đầu cuối tương ứng tạo ra sự đối ứng chặt chẽ,
hài hoà cân đối cho bài thơ đồng thời thể hiện rõ hơn
d. Kết luận mong muốn được sống có ích, cống hiến cho đời là
một lẽ tự nhiên.
- Kết thúc bài thơ là câu hát “Câu Nam ai, nam bình…”
Nam Ai nam Bình là những điệu ca Huế nổi tiếng
- Đó là ý nguyện của người tha thiết với vẻ đẹp của tâm
hồn quê hương đất nước mình.
TÁC PHẨM 3:
VIẾNG LĂNG BÁC - VIỄN PHƯƠNG
- Nếu ở khổ thơ đầu, nhà thơ giới thiệu mình là người con
miền Nam ra thăm Bác thì trong khổ thơ cuối, nhà thơ lại đề
cập đến sự chia xa Bác. Nghĩ đến ngày mai về miền Nam,
xa Bác, xa Hà Nội, tình cảm của nhà thơ không kìm nén, ẩn
giấu trong lòng mà được bộc lộ thể hiện ra ngoài:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”.
+ Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” như
một lời giã biệt.
+ Lời nói giản dị diễn tả tình cảm sâu lắng.
+ Từ “trào” diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn
không muốn xa nơi Bác nghỉ.
+ Đó là không chỉ là tâm trạng của tác giả mà còn là của
muôn triệu trái tim khác. Được gần Bác dù chỉ trong giây
phút nhưng không baogiờ ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp
quá, rộng lớn quá.
- Mặc dù lưu luyến muốn được ở mãi bên Bác nhưng tác
giảcũng biết rằng đến lúc phải trở về miền Nam. Và chỉ có
thể gửi tấm lòngmình bằng cách muốn hóa thân, hòa nhập
vào những cảnh vật quanh lăng để được luôn ở bên Người
trong thế giới của Người:
+ Điệp ngữ “muốn làm” cùng các hình ảnh đẹp của thiên
4. Tâm nhiên“con chim”,”đóa hoa”,”cây tre” đã thể hiện ước muốn
trạng lưu tha thiết, mãnh liệt củatác giả.
luyến của + Nhà thơ ao ước được hóa thân thành con chim nhỏ cất
nhà thơ khi tiếng hót làm vui lăng Bác, thành đóa hoa đem sắc hương,
rời xa lăng điểm tô cho vườn hoa quanh lăng.
Bác + Đặc biệt là ước nguyện “Muốn làm cây tre trung hiếu chốn
này” để nhập vào hàng tre bát ngát, canh giữ giấc ngủ
thiên thu của Người. Hình ảnh cây tre có tính chất tượng
trưng một lần nữa nhắc lại khiến bài thơ có kếtcấu đầu cuối
tương ứng. Hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác được lặp ở
câu thơ cuối như mang thêm nghĩa mới, tạo ấn tượng sâu
sắc, làm dòng cảm xúc được trọnvẹn. “Cây tre trung hiếu”
là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng kính yêu, sự trung thành vô
hạn với Bác, nguyện mãi mãi đi theo con đường cách mạng
mà Người đã đưa đường chỉ lối. Đó là lời hứa thủy chung của
riêng nhà thơ và cũng là ý nguyện của đồng miền Nam,của
mỗi chúng ta nói chung với Bác.
TỔNG KẾT
Niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, niềm tự hào, đau
1. Nội dung xótcủa nhà thơ từ miền Nam vừa được giải phóng ra thăm
lăng Bác.
- Giọng điệu thơ phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc:
vừatrang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau xót, tự hào.
- Thể thơ 8 chữ, xen lẫn những dòng thơ 7 hoặc 9 chữ. Nhịp
thơ chủ yếu là nhịp chậm, diễn tả sự trang nghiêm, thành
kính và những cảm xúc sâu lắng. Riêng khổ cuối nhịp thơ
2. Nghệ nhanh hơn, phù hợp với sắc thái của niềm mong ước.
thuật - Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực với
hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. Những hình ảnh ẩn dụ - biểu
tượng như “mặttrời trong lăng”,”tràng hoa”,”trời xanh” vừa
quen thuộc, vừa gần gũi với hình ảnh thực, vừa sâu sắc, có
ý nghĩa khái quát và giá trị biểu cảm.
TÁC PHẨM 4:
NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI – LÊ MINH KHUÊ
Truyện « Những ngôi sao xa xôi » là một trong những tác phẩm
2. Tác đầu tay của LMK, viết năm 1971, trong lúc cuộc kháng chiến
phẩm chống Pháp đang diễn ra ác liệt.
2. Thân 1. Cảm nhận về tính hồn nhiên, ngây thơ, tinh nghịch của
bài Phương Định.
- Phương Định là nữ sinh của thủ đô thanh lịch bước vào chiến
trường. Phương Định có một thời học sinh- cái thời áo trắng
ngây thơ, hồn nhiên và vô tư lự của cô thật vui sướng ! Những
hoài niệm của cô về thời học sinh thật đáng yêu luôn sống
trong cô ngay giữa chiến trường.
- Cơn mưa đá ngắn ngủi đột ngột xuất hiện ở cuối truyện, ngay
sau trận phá bom đầy nguy hiểm cũng thức dậy trong cô bao
niềm vui thơ trẻ : cô nhớ về mẹ, cái cửa sổ căn nhà, những ngôi
sao to trên bầu trời thành phố… Nó thức dậy những kỉ niệm và
nỗi nhớ về thành phố, gia đình, về tuổi thơ thanh bình của
mình. Nó vừa là niềm khao khát, vừa làm dịu mát tâm hồn trong
hoàn cảnh, khốc liệt và nóng bỏng của chiến trường.
- Những thử thách và nguy hiểm ở chiến trường, thậm chí cả
cái chết không làm mất đi ở cô sự hồn nhiên trong sáng và
những ước mơ về tương lai. Phương Định vẫn là người con gái
nhậy cảm, hồn nhiên, hay mơ mộng và thích hát.
- Cô đem cả lòng say mê ca hát vào chiến trường TS ác liệt.
Cô thích hát những hành khúc bộ đội, những bài dân ca quan
họ, dân ca Nga, dân ca Ý. Giọng của Phương Định chắc là
hay lắm nên « chị Thao thường yêu cầu cô hát đấy sao » ? Định
còn có tài bịa ra lời bài hát nữa. Chị Thao đã ghi cả vào sổ
những lời hát cô bịa ra….
+ Phương Định là một cô gái xinh xắn. Cũng như các cô gái
mới lớn, cô nhạy cảm và quan tâm đến hình thức của mình.
Chiến trường khốc liệt nhưng không đốt cháy nổi tâm hồn nhạu
cảm của cô. Cô biết mình đẹp và được nhiều người để ý : « Tôi
là con gái Hà Nội. Nói một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái
khá….. » ; còn mặt tôi thì các anh lái xe bảo « : Cô có cái nhìn
sao mà xa xăm ». Điều đó làm cô thấy vui và tự hào.
+ Biết mình được cánh lính trẻ để ý nhưng cô « không săn sóc,
vồn vã », không biểu lộ tình cảm của mình, nhưng chưa để lòng
mình xao động vì ai : « thường đứng ra xa, khoanh tay lại trước
ngực và nhìn đi nơi khác, môi mím chặt ». Đó là cái vẻ kiêu kì
đáng yêu của các cô gái Hà Nội như chính cô đã thú nhận :
« chẳng qua là tôi điệu đấy thôi ».
- Cô luôn yêu mến đồng đội của mình, yêu mến và cảm phục
tất cả các chiến sĩ mà cô gặp trên truyến đường Trường Sơn.
2. Cảm nhận về chất anh hùng trong công việc của cô.
- Là một nữ sinh, Phương Định xung phong ra mặt trận, cùng
thế hệ của mình « xẻ dọc TS đi cứu nước – mà lòng phơi phới
dậy tương lai » để giành độc lập tự do cho TQ. Cô ra đi mà
không tiếc tuổi thanh xuân, nguyện dâng hiến hết mình cho Tổ
quốc.
+ Cô kể : « chúng tôi có ba người. Ba cô gái. Chúng tôi ở trong
một cái hang dưới chân cao điểm. Con đường đi qua trước
hang bị đánh lở loét, màu đất đỏ, trắng lẫn lộn. Hai bên đường
không có lá xanh. Chỉ có thân cây bị tước khô cháy. Trên cao
điểm trống trơn, cô và các bạn phải chạy giữa ban ngày phơi
mình ra giữa vùng trọng điểm đánh phá của máy bay địch.
+ Cô nói về công việc của mình gọn gàng khô khốc, tĩnh nhẹ
như không : « việc của chúng tôi là ngồi đây. KHi có bom nổ thì
chạy lên, đo khối lượng đất lấp vào hố bom, đếm bom chưa
nổ và nếu cần thì phá bom » .
+ PĐ nghĩ về công việc của mình quá giản dị, cô cho là cái thú
riêng : « có ở đâu như thế này không : đất bốc khói, không khí
bàng hoàng, máy bay đang ầm ĩ xa dần. Thần kinh căng như
chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu, chân chạy mà vẫn
không hay biết rằng khắp xung quanh có nhiều quả bom chưa
nổ. Có thể nổ bây giờ, có thể chốc nữa. Nhưng nhất định sẽ
nổ ». Giản dị mà cũng thật anh hùng. Chiến tranh và đạn bom
đã làm cô lớn lên, trở thành dũng sĩ mạnh mẽ mà cô không hề
biết. Thật đáng phục !
3. Cảm nhận về tình thần dũng cảm trong một cuộc phá
bom đầy nguy hiểm
- Lúc đến gần quả bom :
+ Trong không khí căng thẳng và vắng lặng đến rợn người,
nhưng rồi một cảm giác bỗng đến với cô làm cô không sợ nữa :
« tôi đến gần quả bom . Cảm thấy ánh mắt cás chiến sĩ dõi
theo mình, tôi không sợ nữa. Tôi sẽ không đi khom. Các anh ấy
không thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ đàng hoàng mà
bước tới ». Lòng dũng cảm của cô như được kích thích bởi sự
tự trọng.
+ Và khi đã ở bên quả bom, kề sát với cái chết có thể đến tức
khắc, từng cảm giác của cô như cũng trở nên sắc nhọn hơn
và căng như dây đàn : « thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả
bom. Một tiếng động sắc đến gai người cứa vào da thịt tôi, tôi
rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên
một tí ! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành ». Thần
chết nằm chực ở đó chờ phút ra tay. Cô phải nhanh hơn,
mạnh hơn nó, k được phép chậm chễ một giây.
- Tiếp đó là cảm giác căng thẳng chờ đợi tiếng nổ của quả
bom. Thật đáng sợ cái công việc chọc giận Thần Chết đó. Ai
dám chắc là quả bom sẽ không nổ ngay bây giờ, lúc Phương
định đang lúi húi đào đào, bới bới ấy. Thế mà cô vẫn không run
tây, vẫn tiếp tục cái công việc đáng sợ : « tôi cẩn thận bỏ gói
thuốc mình xuống cái lỗ đã đào, châm ngòi. Tôi khoả đất rồi
chạy lại chỗ ẩn nấp của mình : liệu mìn có nổ, bom có nổ
không ? Không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai..
Nhưng quả bom nổ. Một thứ tiếng kì quái đến váng óc. Ngực
tôi nhói, mắt cay mãi mới mở ra được. Mùi thuốc bom buồn
nôn. Ba tiếng nổ nữa tiếp theo. Đất rơi lộp bộp, tan đi âm thanh
trong những bụi cây. Mảnh bom xé không khí, lao và rít vô hình
trên đầu. Bốn quả bom đã nổ. Thắng rồi ! Nhưng một đồng đội
đã bị bom vùi ! Máu túa ra từ cánh tay Nho, túa ra, ngấm vào
đất. Da xanh, mắt nhắm nghiền, quần áo đầy bụi… ». Nhưng
không ai được khóc trong giờ phút rất cần sự cứng cỏi của mỗi
người.
- Cái công việc khủng khiếp bóp nghẹt trái tim ấy không chỉ
đến một lần trong đời mà đến hàng ngày : « Quen rồi. Một
ngày tôi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít : ba lần. Tôi có nghĩ
đến cái chết. Nhưng một cái chết mờ nhạt, không cụ thể. »
=> Cảm xúc và suy nghĩ chân thực của cô đã truyền sang cho
người đọc nỗi niềm đồng cảm yêu mến và sự kính phục. Một
cô nữ sinh nhỏ bé, hồn nhên, giàu mơ mộng và nhạy cảm mà
cũng thật anh hùng, thật xứng đáng với những kì tích khắc nghi
trên những tuyến đường TS bi tráng. Một ngày trong những năm
tháng TS của cô là như vậy. Những trang lịch sử TS không thể
quên ghi một ngày như thế.
- Chúng ta luôn tự hào về những chiến sĩ, những thanh niên
xung phong TS như Phương Định và đồng đội của cô. Lịch sử
những cuộc kháng chiến và chiến thắng hào hùng của dân
tộc không thể thiếu những tấm gương như cô và thế hệ những
3. Kết
người đã đổ máu cho nền độc lập của Tổ Quốc.
luận.
- Chúng ta càng yêu mến tự hào về cô, càng biết ơn và học
tập tinh thần của những người như cô trong công cuộc xây
dựng đất nước hôm nay.
TÁC PHẨM 5:
LẶNG LẼ SAPA – NGUYỄN THÀNH LONG