Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 25

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH

Tiểu luận học phần


Cơ Sở Văn Hoá Nhật Bản

Chủ đề
TRÀ ĐẠO - TINH HOA NGHỆ THUẬT
NHẬT BẢN

Sinh viên: Hồ Việt Hoàng


Mã SV: 2180500267
Lớp: 21DTDJA1
GVHD: Ths. Nguyễn Thị Phong Nhã

Tp.HCM, ngày 20 tháng 04 năm 2024

1
Lời Cảm ơn
Lời đầu tiên, em xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến cô Nguyễn Thị
Phong Nhã. Trong quá trình học tập và tìm hiểu môn Cơ sở văn hoá Nhật Bản,
em đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ, hưỡng dẫn tâm huyết và tận tình
của thầy/cô. Thầy/cô đã giúp em tích lũy thêm nhiều kiến thức về môn học này để
có thể hoàn thành được bài tiểu luận về đề tài: TRÀ ĐẠO - TINH HOA NGHỆ
THUẬT NHẬT BẢN

Trong quá trình làm bài chắc chắn khó tránh khỏi những thiếu sót. Do đó, em
kính mong nhận được những lời góp ý của cô để bài tiểu luận của em ngày càng
hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!

2
Mục Lục
LỜI CẢM ƠN……………………………………………………………......….2
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN……………………………………..….…....4
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI………………………………………….……..............5
CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ TRÀ ĐẠO NHẬT BẢN….............................6
1.1 Khái niệm về trà đạo Nhật Bản……………………..….………..…6
1.2 Nguồn gốc và sự phát triển của trà đạo…………….............….…..6
1.2.1 Thời kỳ đầu……………………………………………...…..…..6
1.2.2 Thời Kamakura ……………...………………...…….....…….7
1.2.3 Thời Muromachi……………………………..…………..……7
1.2.4 Thời Azuchi-Momoyama…………………….……….……..10
1.2.5 Thời Edo……………………………….…….………….……11
1.2.6 Thời kỳ hiện đại……………………………….………......…12
1.3 Các trường phái trà đạo Nhật Bản……………….………..……..12
1.3.1 Trường phái Urasenke……………………….………….…..13
1.3.2 Trường phái Omotesenke…………………….………….….13
1.3.3 Trường phái Mushakojisenke……………….………….…..13
CHƯƠNG II: NÉT VĂN HÓA TRÀ ĐẠO CỦA NGƯỜI NHẬT BẢN…..13
1.4 Các loại trà phổ biến trong giới trà đạo ở Nhật Bản………………….13
1.5 Cách pha trà trong Trà Đạo……………………………………………17
1.6 Nghi thức thưởng thức………………………………………………….17
1.7 Không gian thưởng trà………………………………………………….18
CHƯƠNG III: Ý NGHĨA CỦA TRÀ ĐẠO………………………………………..22
CHƯƠNG IV: KẾT LUẬN…………………………………………………………22
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………..23

3
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
TP.HCM, ngày 20 tháng 04 năm 2024
NGƯỜI HƯỚNG DẪN

4
Lý do chọn đề tài:

- Nhật Bản từ trước đến nay có thể coi là một trong những nước đi đầu thế giới trong
lĩnh vực khoa học- công nghệ tân tiến cùng với những phát minh và sáng chế đi trước
thời đại. Nhưng không vì thế mà nét văn hóa truyền thống đặc sắc từ ngàn xưa bị mai
một hay lãng quên mà trái lại, ngày càng được bồi đắp và hoàn thiện. Không chỉ nổi
tiếng với sự rực rỡ của sắc đỏ hoa anh đào hay màu nâu trầm mặc của núi Phú Sĩ hùng
vĩ, Nhật Bản còn được biết đến với màu xanh thanh tịnh của Trà đạo.
- Văn hóa trà đạo là một nét cổ truyền lâu đời đã thấm sâu vào cốt cách con người
Nhật Bản. Trà đạo không chỉ là cách thưởng trà đơn thuần, hay mong muốn của người
Nhật khi giới thiệu nét văn hóa này ra thế giới. Đây còn là quá trình con người có thể
hòa mình vào thiên nhiên, gội rửa tâm hồn, tu tâm dưỡng tính theo lời truyền dạy của
Phật giáo. An yên trong tâm hồn, điềm đạm trong cách đối nhân xử thế và chậm lại để
ngắm nhìn, hòa quyện với cuộc sống muôn hình vạn trạng là thứ mà văn hóa Trà đạo
muốn gửi gắm đến thế giới này. Trà đạo không chỉ là một nét văn hóa mà nó còn tác
động rất lớn đến sự hình thành của cốt lõi con người nơi đây.
- Không chỉ vậy, văn hóa thưởng trà còn tác động rất lớn đến sức khỏe của người dân
Nhật Bản. Sự trường thọ của người dân đều do lá trà mang lại, bởi khi thường trà,
những phiền muộn trong cơ thể đều tan biến. Nó giúp con người ta giảm bớt gánh
nặng, lo âu trong cuộc sống, từ đó làm giảm tỉ lệ trầm cảm và rối loạn tâm lí. Hơn thế
nữa, trà còn hỗ trợ khả năng tập trung, cải thiện trí nhớ, cũng như làm đẹp da và nhiều
công dụng khác.
- Nghiên cứu này nhằm mục đích tìm hiểu, đánh giá một cách tổng quan hơn về văn
hóa trà đạo. Thông qua xử lý và phân tích dữ liệu thống kê các thông tin đã thu thập
được trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi hy vọng các kết quả nghiên cứu đạt được
cung cấp cho người đọc cái nhìn sâu sắc hơn về nét đẹp truyền thống của mảnh đất
nơi đây, từ đó càng thêm trân trọng và yêu quý đất nước Nhật Bản này.

5
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ TRÀ ĐẠO NHẬT BẢN
1.1 Khái niệm về trà đạo Nhật Bản
Trà đạo Nhật Bản (thường được biết đến với tên gọi sadō/chadō ( 茶道 ) hay chanoyu
(茶の湯 ) là một hoạt động văn hóa mang tính nghi lễ mà khi thực hiện, trà được
thưởng thức trong một không gian chuyên biệt với các quy trình được tiêu chuẩn hóa.
Các công đoạn chuẩn bị và thưởng thức trà hay loại trà được sử dụng trong khi pha
chế là một nghệ thuật cần nhiều năm để mài giũa và thành thạo. Đối với văn hóa Nhật
Bản, trà đạo không đơn thuần chỉ là cách uống trà mà còn là một phương pháp để hòa
mình với thiên nhiên, tu dưỡng tâm tính, thanh lọc tâm hồn và đạt tới giác ngộ.
1.2 Nguồn gốc và sự phát triển của trà đạo
1.2.1 Thời kỳ đầu
Theo ghi chép, trà lần đầu tiên được du nhập vào
Nhật Bản từ Trung Quốc vào đầu thế kỷ thứ 9
bởi các nhà sư Phật giáo Nhật Bản. Đây là thời
đại Nhật Bản vay mượn rất nhiều từ cả Trung
Quốc và Hàn Quốc để hình thành nhà nước tập
trung đầu tiên. Ở đỉnh cao của sự tiếp xúc văn
hóa đầu tiên với thời Đường Trung Quốc,
Kukai- một nhà sư Nhật Bản nghiên cứu Phật
giáo ở Trung Quốc đã giới thiệu giáo phái
Shingon của Phật giáo đến Nhật Bản vào năm
806.
Kukai- nhà sư Nhật Bản
Ông cũng mang một viên trà xanh đến triều đình Nhật Bản. Việc uống trà bắt đầu trở
nên phổ biến trong tầng lớp quý tộc cung đình Nhật Bản và trong các nghi lễ Phật
giáo. Triều đình của hoàng đế Nhật Bản ca ngợi sự tao nhã của trà, ca ngợi trong thơ
ca những phẩm chất “tâm linh” có mục đích của nó; và các nhà sư trong các ngôi chùa
Phật giáo đã đặc biệt sử dụng trà như một chất kích thích để chống buồn ngủ khi thiền
định. Khi triều đình Nhật Bản vào giữa thế kỷ thứ 9 gửi phái đoàn cuối cùng đến
Trung Quốc nhằm mục đích tiếp thu văn hóa sâu rộng từ lục địa, việc uống trà dường

6
như đã không còn ở Nhật Bản. Tuy nhiên, sau khoảng 300 năm, trà đã được du nhập
lại từ Trung Quốc vào cuối thế kỷ 12 bởi một tu sĩ của Thiền phái Phật giáo, và trong
vài thế kỷ tiếp theo, việc uống trà đã lan rộng đến mọi tầng lớp trong xã hội Nhật Bản.

1.2.2 Thời Kamakura (1185-1333) – Trà là thuốc


Năm 1191, một bước quan trọng khác hướng tới việc hội nhập trà ở Nhật Bản khi
nhà sư Nhật Bản Eisai trở về sau chuyến du học ở Trung Quốc với hạt giống
trồng trà và phương pháp làm matcha, một loại trà xanh dạng bột có thể trộn
thành đồ uống sủi bọt. Eisai cũng đưa Thiền tông đến Nhật Bản. Ông được coi là
người sáng lập Thiền Lâm Tế, dựa trên niềm tin rằng có thể đạt được giác ngộ
trong quá trình thực hiện các hành động hàng ngày. Các nhà sư Nhật Bản đã áp
dụng niềm tin này vào việc uống trà, điều này cuối cùng đã biến các tập tục được
học ở Trung Quốc thành một nghi lễ đặc trưng của Nhật Bản mà ngày nay được
gọi là trà đạo chado.

Myouan Eisai

Năm 1214, Eisai viết “Kissa Yojoki” (喫茶養生記, Uống trà để có cuộc sống lành
mạnh), ông đã mô tả trà là thuốc chữa bệnh. Khi Sanetomo - vị tướng thứ ba của Mạc
phủ Kamakura uống trà của Eisai, cơn say của anh ngay lập tức được chữa khỏi. Với sự
chuyển biến này, việc uống trà đã trở thành một phong tục phổ biến trong xã hội thượng
lưu, đặc biệt là các chiến binh samurai thường xuyên giao lưu với các thiền sư.

Nhiều dụng cụ pha trà được đưa đến Nhật Bản thông qua buôn bán với Trung Quốc.
Những dụng cụ này được gọi là Karamono (唐物, hàng nhập khẩu của Trung Quốc)

7
và được những người pha trà đánh giá cao.
1.2.3 Thời Muromachi (1333-1573) – Cược trà, Túp lều Trà và Wabi-Cha
Trong thời kỳ này, trà cực kỳ hiếm và đắt tiền, uống trà được coi là một thứ xa xỉ.
Trong tầng lớp chiến binh, To-cha (闘茶,) hay Cha Yoriai (茶寄り合) đã trở thành một
hoạt động phổ biến. Đây là một kiểu tiệc trà trong đó mọi người mặc trang phục rực
rỡ, được gọi là phong cách Basara ( 婆娑羅 ) để dùng một bữa thịnh soạn, uống nhiều
loại trà khác nhau và đặt cược vật có giá trị của mình bằng cách đoán nguồn gốc của
trà. Nói tóm lại, đó là một hình thức cờ bạc và Mạc phủ Muromachi đã cấm điều này
theo luật. Ashikaga Yoshimitsu ( 足利義満 , 1358-1408), vị tướng thứ ba của Mạc phủ
Muromachi, tiếp tục buôn bán với Trung Quốc (thời nhà Minh) và nhập khẩu
nhiều dụng cụ pha trà có giá trị hơn vào Nhật Bản. Ông đã xây dựng một dinh thự lớn
để sử dụng làm trung tâm văn hóa nghệ thuật, được gọi là Kaisho ( 会所 , trung tâm
hội họp)- nơi mọi người tụ tập để đọc thơ, ăn tối và chơi nhạc cùng nhau. Loại hình

trung tâm văn hóa này được thành lập phổ biến ở các dinh thự thượng lưu hoặc các
đền chùa, miếu ở địa phương.

Ashikaga Yoshimitsu

Vị tướng thứ tám Ashikaga Yoshimasa ( 足利義政 , 1436-1490) yêu thích nghệ thuật
và phong tục trà đạo. Tuy nhiên, không giống như những người tiền nhiệm, ông
thưởng thức trà theo phong cách yên tĩnh hơn như cách thực hành của Murata Jyuko.
Trái ngược với phong cách Basara lòe loẹt, Jyuko ưa thích phong cách pha trà đơn
giản và trầm lắng. Ông nhận thấy giá trị thẩm mỹ ở đồ sứ Nhật Bản và bắt đầu sử
dụng gỗ, tre làm nguyên liệu để làm thìa pha trà, hộp đựng hoa thay vì ngà voi hay

8
đồng nhập khẩu từ Trung Quốc. Để phản ánh phong cách mới này, ông đã thu nhỏ
kích thước phòng trà, đặt 4 tấm chiếu tatami rưỡi làm kích thước phòng trà tiêu chuẩn.
Ông cũng chuyển phòng trà từ một trung tâm văn hóa Kaisho lớn đến một phòng trà
nhỏ hơn. Ông được coi là người sáng lập phong cách So-An no Cha ( 草庵の茶 , trà

túp lều tranh). Bầu khí yên tĩnh, kỷ luật và trang trọng này đã thu hút được nhiều
người cải đạo, đặc biệt là trong tầng lớp samurai.
Murata Jyuko
Phong cách uống trà của Jyuko đã được truyền lại cho Takeno Jyo-o ( 武 野 紹 鴎 ,
1502-1555), một đệ tử lớn của Jyuko. Ông nghiên cứu nghệ thuật thơ waka và nghi lễ
thắp hương, đồng thời đưa phong cách nghệ thuật của chúng vào thực hành trà đạo.
Jyo-o là người thực hành phong cách Wabi-Cha ( 侘 び ,sự tinh tế khắc khổ), tinh
luyện phong cách uống trà của Jyuko. Là một học trò của cả thơ ca và trà đạo, Jyo-o
là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ wabi trong việc uống trà, một khái niệm phức tạp
có thể được định nghĩa là vẻ đẹp thuần khiết và mộc mạc. Trong thơ, Jyo-o cảm thấy
hình ảnh những bông tuyết cằn cỗi trên ngọn núi hiu quạnh còn thơ mộng hơn cả hoa

nở và hương thơm của mùa xuân. Được hướng dẫn bởi triết lý wabi, trà đạo tập trung

9
vào sự đơn giản và khiêm tốn.
Takeno Jyo-o

1.2.4 Thời Azuchi-Momoyama (1573-1600) – Trà của Rikyu


Phong cách và cách giảng dạy trà đạo của Jyo-o đã được Sen no Rikyu (千利休,
1522-1591) đào sâu và hoàn thiện hơn. Ông nội của ông, Tanaka Sen- Ami (田
中千阿弥 ) là một trong những Doboshu phục vụ cho các tướng quân trong thời
Muromachi. Rikyu lấy một phần tên của ông nội mình, Sen để đặt tên nghệ thuật trà
đạo của mình. Những hướng dẫn của ông về quy trình và dụng cụ cũng như kiến trúc
quán trà và cảnh quan vườn trà là cơ sở cho các trường phái hiện đại về “con đường
trà đạo”. Ông kết hợp sự đơn giản trầm lặng của wabi với sự trân trọng cái cũ và phai
nhạt, được gọi là sabi. Cùng với nhau, wabi- sabi là một khái niệm được mở rộng
sang các loại hình nghệ thuật khác của Nhật Bản, nhưng không gì khác hơn là trà đạo.
Vào thời Rikyu, thủ đô Kyoto là một chiến trường và nhiều thành viên có văn hóa
trong xã hội đã chạy trốn đến Sakai để tìm kiếm cuộc sống yên bình. Sakai trở thành
trung tâm của wabi-cha. Rikyu lần đầu tiên học trà dưới sự hướng dẫn của người
pha trà nổi tiếng Kitamuki Dochin ( 北向道陳 , 1504-1562), người sau này đã đề
nghị Rikyu đi học trà với Jyo-o.

10
Cũng giống như ông nội của mình, Rikyu cũng từng là Doboshu dưới quyền hai vị

tướng Oda Nobunaga ( 織 田 信 長 , 1534-1582) và Toyotomi Hideyoshi ( 豊臣吉 ,


1537-1598). Rikyu ưa chuộng những chiếc bát trà kiểu tối màu và những hộp đựng
trà cỡ nhỏ và mời khách đi bộ qua khu vườn cạnh phòng trà để thư giãn đầu óc trước
khi bước vào. Phòng trà do ông thiết kế năm 1582 thậm chí còn nhỏ hơn phòng trà của
Jyuko, chỉ có hai chiếc chiếu (36 feet vuông). Được đặt tên là Taian, nó vẫn còn tồn
tại ở ngôi chùa Myokian gần Kyoto. Rikyu cũng đưa ra những thay đổi căn bản hơn.
Ông thiết kế một lối thấp vào chòi trà, buộc tất cả khách phải cúi đầu khi bước vào
như một cách để xóa bỏ sự phân biệt xã hội (samurai sẽ phải để kiếm ở lối vào). Rikyu
tin rằng tất cả đều bình đẳng trong quán trà, một ý tưởng mang tính cách mạng trong
hệ thống phân cấp giai cấp của Nhật Bản vào thời điểm đó. Ông đã đơn giản hóa
các động tác được sử dụng trong temae (点前 , trà đạo) để loại bỏ các động tác lãng
phí. Ông theo đuổi sự đơn giản và thuần khiết.
Taian - wikipedia
Nhiều người đến học trà dưới sự hướng dẫn của Rikyu. Ông thường phục vụ trà cho
các lãnh chúa phong kiến và các tướng lĩnh quân sự là đối thủ chính trị của Nobunaga
hoặc Hideyoshi khiến phòng trà trở thành nơi tranh luận chính trị và đàm phán tế nhị.
Có thể do có sự bất đồng nào đó giữa Hideyoshi và Rikyu, Hideyoshi đã ra lệnh cho
Rikyu thực hiện seppuku (nghi lễ tự sát). Sau cái chết của Rikyu, các học trò của ông
tiếp tục những lời dạy của ông. Cháu trai của ông, Sen Sotan ( 千 宗 旦 , 1578-1658),
được ghi nhận là người đã xây dựng nền tảng của thực hành Chado kiểu Sen hiện tại.

11
Sen Sotan - wikipedia

0.1.1 Thời Edo (1600-1868)- 3 Trường phái trà đạo


Sau Sotan, 3 người con trai của ông tiếp tục thực hành Chado kiểu Sen bằng cách
thành lập các trường học riêng lẻ; Omotesenke ( 表千家), Urasenke (裏千家), và
Mushakojisenke (武者小路千家). Trong thời kỳ này, những người uống trà ngày
càng gia tăng, không chỉ bao gồm các tầng lớp lãnh chúa phong kiến và chiến binh mà
còn cả tầng lớp thương gia. Con gái của họ cũng học trà vì thực hành trà bao gồm việc
học các kỹ năng nấu nướng, dọn dẹp, trang trí phòng bằng cách cắm hoa và cuộn thư
pháp cũng như học cách cư xử và nghi thức cùng với cách cư xử tao nhã—những yếu
tố được đánh giá cao đối với những người vợ và người mẹ tương lai.

0.1.2 Thời kỳ hiện đại (1868- nay) – Trà vươn ra thế giới
Trong khi chính phủ Minh Trị (1868-1912) khuyến khích dân tộc du nhập các phong
tục và văn hóa phương Tây theo phong trào văn minh và khai sáng thì nghệ thuật
truyền thống Nhật Bản thường bị lãng quên và bỏ rơi. Chado là một trong số đó.
Thay vì các quan chức chính phủ, nhiều chuyên gia tài chính và kinh doanh - cả trong
nước và quốc tế - đã ủng hộ Chado, giúp truyền thống này tồn tại. Okakura Tenshin
(岡倉天心, 1862-1913), một nhà phê bình nghệ thuật và triết gia, đã xuất bản “Sách
Trà đạo” ở New York vào năm 1906, giới thiệu văn hóa trà đến phương Tây.
Ngoài ra, Sen Genshitsu (Soshitsu XV, sinh năm 1923), cựu hiệu trưởng trường
Urasenke, đã tích cực xuất bản về trà bằng cả tiếng Nhật và tiếng Anh, truyền bá lời
dạy của Rikyu dưới khẩu hiệu “Bình yên qua một bát trà” trên toàn thế giới.
Trà đạo của Rikyu hầu như không thay đổi trong nhiều thế kỷ, nhưng vào thế kỷ 19,
cuộc Minh Trị Duy Tân đã mở rộng thế giới trà đạo để bao gồm cả phụ nữ. Trước thời
Minh Trị Duy tân năm 1868, trà đạo hầu như chỉ dành cho nam giới, nhưng vào cuối
thế kỷ 19, nó đã được giới thiệu trong trường học như một cách để hướng dẫn phụ nữ
trẻ Nhật Bản về cách trang trí và phép xã giao. Năm 1894, phụ nữ được cấp chứng chỉ
giảng dạy chuyên nghiệp và nhanh chóng trở thành một nhân tố quan trọng trong việc
duy trì nghệ thuật trà đạo. Sau những biến động của Thế chiến thứ hai, trà đạo trở nên
phổ biến như một cách để duy trì truyền thống Nhật Bản. Ngày nay hầu hết giáo viên
và học trò dạy trà đạo đều là phụ nữ, mặc dù ngày càng có nhiều nam giới đến các

12
tiệm trà đạo để tìm lối thoát khỏi những căng thẳng của cuộc sống hàng ngày.
1.3 Các trường phái trà đạo Nhật Bản
Là một nét nghệ thuật không trộn lẫn, từng trường phái trong trà đạo Nhật Bản được
phân tách và giữ cho riêng mình những điểm tinh tế khác biệt. Theo truyền thống, trà
đạo diễn ra trong phòng trà chuyên dụng gọi là chashitsu, với sàn trải chiếu tatami và lò
sưởi. Vật liệu xây dựng và thiết kế hướng đến sự đơn giản. Các dụng cụ chuyên dụng
được các bậc thầy trà đạo sử dụng bao gồm một bát trà gọi là chawan, một thìa tre để
pha trà bột và một cây đánh trà bằng tre được gọi là Chasen. Về cơ bản, có 3 trường phái
được biết đến khi nhắc tới trà đạo Nhật Bản:
1.1.1. Trường phái Urasenke
Trường phái trà đạo được xem là lớn nhất với hơn một nửa trà sư trên toàn nước Nhật –
Urasenke. Điểm nhấn chính của trường phái Urasenke chính là làm hài lòng khách. Điều
này được thể hiện thông qua việc những người trà sư chú trọng sử dụng dụng cụ pha trà
có chất lượng tốt, đồng thời cách bài trí trà đạo phải tạo được ấn tượng với khách. Trường
phái Omotesenke gìn giữ truyền thống xưa và chú trọng vào sự bình dị.
1.1.2. Trường phái Omotesenke
Khác với Urasenke, trường phái Omotesenke tập trung vào nét giản dị và trân trọng
những truyền thống xưa cũ. Những trà sư của phái Omotesenke thường thích sử dụng các
công cụ đơn giản hơn để pha trà. Song song với đó, phong cách Omotesenke còn nổi bật
bởi lúc thưởng trà, họ nhấn mạnh đến cảm nhận sự sâu lắng trong hương vị của trà thông
qua việc làm cho trà ít sủi bọt hơn. Dụng cụ chất lượng và cách bài trí bắt mắt là đặc
trưng của trường phái Urasenke.
1.1.3. Trường phái Mushakojisenke
Mushakojisenke gần như là phiên bản nâng cấp hơn của trường phái Omotesenke, các trà
sư theo trường phái Mushanokoji Senke đề cao sự tinh gọn hơn cả. Họ lược bớt các bước
không cần thiết khi pha trà đạo và loại bỏ tối đa sự lãng phí trong phòng trà. Sự tinh gọn
được ưu tiên hàng đầu đối với trường phái Mushakojisenke.

CHƯƠNG II: NÉT VĂN HÓA TRÀ ĐẠO CỦA NGƯỜI NHẬT BẢN
1.2. Các loại trà phổ biến trong giới trà đạo ở Nhật Bản
- Cặn trà Konacha

13
Konacha được sử dụng bằng cách tận dụng tất cả những gì còn sót lại của trà xanh
gồm búp trà, vụn trà và lá trà. Loại trà này được phục vụ miễn phí ở các quán ăn,
đặc biệt là các quán Sushi bởi cặn trà với những miếng Sushi ngon lành là cặp bài
trùng của nhau. Tuy không phải loại trà thượng hạng nhưng đừng xem thường
hương vị của nó. Vị của cặn trà khá mạnh có thể đẩy hương vị của Sushi lên.
- Matcha – Trà xanh bột trồng bóng râm
Đây là loại trà được dùng trong trà đạo Nhật Bản. Matcha thuộc nhóm các loại trà
xanh ngon nhất thế giới, thường được trồng trong bóng râm để có màu sắc đúng
chuẩn, lá phát triển và xanh hơn do sản sinh diệp lục với số lượng lớn. Khi cây chè
lên khoảng 2-3 lá non thì người ta dùng vải mỏng hoặc mành che ánh nắng mặt trời
không cho chiếu vào các chồi non. Quá trình nuôi trồng đặc biệt cũng mang đến
cho trà màu sắc độc đáo cùng hương vị thơm ngon hòa quyện giữa ngọt và đắng. Ở
dạng chưa nghiền, bột được gọi là “Tencha”. Trong quá trình làm “Tencha” người
ta sấy khô sau khi đã hấp chồi non. Trong quá trình sấy khô, thân lá và gân mảnh
được loại bỏ trước khi đem nghiền thành bột. Matcha có màu xanh sáng và độ ngọt
cũng như độ chát tùy theo độ sáng của bột. Matcha càng sáng màu thì càng ngọt.
Matcha rất dễ dùng, là một thức uống thơm ngon, bổ dưỡng làm tinh thần con người
phấn chấn, dễ chịu hơn. Matcha nên uống vào buổi sáng, trước 3 giờ chiều. Bột
matcha cũng là nguyên liệu cho rất nhiều món ăn truyền thống Nhật Bản.
- Sencha - Trà xanh trồng nhiều nắng.
Sencha là một trong những loại trà phổ biến nhất của Ryokucha, cũng là một loại trà
xanh rất nổi tiếng của xứ sở hoa anh đào, thuộc nhóm trà xanh và có vị đắng hơn so
với thông thường. Do được trồng dưới ánh nắng mặt trời trực tiếp nên lá trà có màu
xanh đen. Lá trà được hấp ngay sau khi hái xuống từ cây (trong trạng thái lá trà vẫn
còn tươi). Sở dĩ người ta phải thực hiện ngay công đoạn này bởi để tránh quá trình
lên men vốn xảy ra rất nhanh ở trà. Bằng cách làm như vậy trà xanh sẽ giữ được
hương vị Sencha thơm ngon lâu hơn các loại trà khác. Tùy thời gian hấp mà độ tươi
của trà thay đổi, thời gian hấp càng lâu thì độ tươi giảm và kèm theo đó là màu trà
chuyển sang màu xanh lục.
Các cấp độ hấp trà ( theo thứ tự thời gian từ ít đến nhiều) của Sencha: Asa-mushi
(hấp sơ) - Chu-mushi (hấp vừa) - Fuka-mushi (hấp sâu) - Toku- mushi ( hấp lâu) -

14
Goku-mushi (hấp 2 lần). Để phân biệt trà Sencha cũng hơi phức tạp bởi nó được chia
làm nhiều loại, tuy nhiên phổ biến nhất là dựa vào độ xanh và màu sắc của thành
phẩm sắc xanh lục biểu thị cho lá trà đã được hấp trong nhiều giờ và rất kĩ.
- Gyokuro – Trà xanh bóng râm
Gyokuro được mệnh danh là một trong những dòng trà thượng hạng nhất tại Nhật
Bản thường chỉ được sử dụng trong các ngày lễ tết quan trọng. Chữ “Gyokuro”
trong tiếng Nhật nghĩa là “ngọc sương”, được đặt cho loại trà này do màu sắc trong
vắt, tươi sáng của nước trà sau khi pha. Gyokuro sử dụng lá chè tương tự như lá chè
của Matcha, tức là lá chè được lấy từ đồi chè được che cản nắng trong một thời gian
nhất định. Đặc trưng của Gyokuro là có vị ngọt thanh. So với các trà khác, thì
Gyokuro chứa nhiều cafein hơn. Gyokuro phải được pha trong nhiệt độ nước phù
hợp, khoảng 80-900C. Tùy vào gu thưởng trà của mình mà bạn có thể lựa chọn tăng
giảm thời gian hãm trà. Trà ngâm càng lâu thì vị càng đậm và đắng chát.
- Houjicha – Trà từ thân và lá
Quy trình sản xuất Houjicha khác biệt hoàn toàn so với những loại trà kể trên.
Hojicha được sao ở nhiệt độ cao để tạo thành phẩm có màu nâu đặc trưng riêng và
hương thơm ngào ngạt. Nhiệt độ chuẩn nhất là 2000C. Đặc biệt khi trà đạt đến độ
chín thì nghệ nhân phải đưa ra khỏi máy sao và làm lạnh ngay để giữ trả để giữ cho
hương vị trà không bị nồng quá mức. Chính vì vậy người chế biến đòi hỏi phải có
tay nghề và kỹ thuật ổn định. khi pha Hojicha có mùi thơm rất nồng và cực kì dễ
uống cho mọi đối tượng. Người ta tiến hành rang thân và lá của cây trà để tạo ra
hương vị trà nồng ấm và thơm ngon, đồng thời quá trình này còn giúp tiêu diệt hàm
lượng cafein cao có trong là trà. Houjicha có thể uống vào bất kì buổi nào trong ngày
đều được.
Houjicha là một trong những loại trà độc đáo nhất vì có thể dùng cho cả trẻ sơ sinh
và người đang ốm. Houjicha cũng được cho là có nhiều lợi ích cho sức khỏe bao
gồm giảm căng thẳng, tăng cường sức đề kháng, hỗ trợ tiêu hóa và giúp giảm cân.
Hơn cả nó được chứng minh là an toàn với tất cả mọi người, mang lại hương vị sảng
khoái dễ chịu khi thưởng thức trà.
- Genmaicha – Trà gạo rang
Genmaicha là tổng hợp từ trà Sencha trộn thêm gạo rang được làm từ gạo lứt nguyên

15
cám (gạo chưa bóc vỏ lụa tức là “Genmai”). Gạo rang sẽ đem lại hương thơm đặc
trưng cho Genmaicha đặc điểm của thức uống này chính là trộn gạo rang với trà với
tỉ lệ 1:1 nên loại trà này nhạt và ít cafein hơn trà nguyên chất Sencha. Vậy nên
Genmaicha rất được ưa chuộng dùng vào buổi tối và dành riêng cho người già và trẻ
nhỏ những người có sức khỏe nhạy cảm.
Genmaicha trở thành một trong các loại trà ngon của Nhật Bản được nhiều người ưa
chuộng nhất. Genmaicha có hương vị không quá đắng do tác dụng của gạo. Ngoài ra,
bạn cũng có thể hãm Genmaicha cùng một số nguyên liệu khác như matcha hay
sencha để mang đến hương vị tuyệt đỉnh.
- Bancha
Bancha là một trong các loại trà ngon của Nhật Bản, sản xuất bằng cách thu hoạch
các lá trà sau khi mùa vụ vừa kết thúc, thông thường là thu hoặc đông. Sau thời gian
thu hoạch để làm trà Sencha từ cuối tháng 2 đến hết tháng 5 thì chồi non và lá bắt
đầu phát triển. Đây là thời gian thu hoạch để làm trà Bancha. Với trà được làm từ lá
trà trong tháng 6 thì gọi là Nibancha, trong tháng 8 thì được gọi là sanbancha và
trong tháng 10 được gọi là yonbancha.Trà Bancha được làm từ thân trên ngọn cây và
những lá già hơn bị loại ra trong quá trình sản xuất Sencha. Bạn có thể nhận diện
loại lá trà này thông qua kích thước lá lớn, được chế biến bằng nhiều phương pháp
khác nhau để mang đến hương vị đặc biệt. Bancha thuộc nhóm trà thường, hương vị
cân bằng, gần gũi. So với Sencha, Trà Bancha chát hơn và không thơm bằng nên nó
được sử dụng làm thức uống nhẹ sau bữa ăn. Trà Bancha chứa nhiều Flor hơn các
loại trà khác nên nó có tác dụng chống sâu răng và hôi miệng. Trà Bancha được làm
từ các lá trà non hơn, có mùi thơm dễ chịu và ít chát hơn được gọi là “ senryu”. Tùy
vào nơi sản xuất mà hương vị Bancha có thể khác biệt đôi chút, nhưng tất cả đều
mang đến cảm giác sảng khoái và thỏa mãn.
- Mugicha – Trà lúa mạch
Mugicha cũng là một loại trà rang giống với Genmaicha, tuy nhiên không phải rang
thân hay lá mà tiến ngành ngâm lúa mạch trong nước để mang đến hương vị hoàn
hảo. Mugicha không có hàm lượng cafein quá cao nên rất phổ biến vào mùa hè,
thường được sử dụng để pha trà đá.
Tuy nhiên, trong thành phần Mugicha có chứa Gluten. Do vậy, nếu bạn không dung

16
nạp được chất này thì không nên sử dụng Mugicha.
- Mecha – Trà búp non
Một trong các loại trà ngon của Nhật Bản tiếp theo chính là trà búp non Mecha.
Đúng như cái tên, loại trà này được tạo ra từ các búp non tách ngay từ giai đoạn
đầu. Búp lúc này khá tươi, non, cần ngâm nhiều hơn để mang đến mùi hương hoàn
hảo.
Ưu điểm của loại trà này là hương vị và mùi thơm vô cùng nguyên bản, dù đã ngâm
hãm rất nhiều lần. Người dân Nhật Bản thường sử dụng loại trà này để thanh lọc
hương vị sau khi ăn xong.

1.3. Cách pha trà trong Trà Đạo


- Bước 1: Nước pha trà
Nước pha trà thường được giữ ở 80 oC – 90oC và thường được đựng trong một bình
thủy hoặc được nấu trong một cái ấm kim khí không nắp trên bồn than yếu. Không bao
giờ dùng nước đang sôi để pha trà.
- Bước 2 : Làm ấm dụng cụ
Ấm pha trà và tách uống trà được tráng bằng nước sôi để làm ấm dụng cụ. Sau đó
dùng khăn lau khô trước khi sử dụng. Sau đó cho trà vào ấm. Vì trà của Nhật là trà bột
nên thường mỗi người khách là một muỗng café trà xanh (trừ trường hợp người nghiện
và muốn uống trà đậm thì cho nhiều hơn).
- Bước 3 : Pha trà
Thường trà sẽ được pha thành 3 lần khác nhau như sau :
+Lần thứ nhất : Pha với nước nóng ở 60 oC, để trà ngấm trong 2 phút rồi rót ra mời
khách. Để giảm nhiệt độ của trà, thường nước sôi sẽ được rót ra một bình trà khác (hay
chén tống).
+Lần thứ hai : Pha với nước nóng ở 80 oC trong khoảng 30 – 40 giây. Nghĩa là cho
nước vào ấm trà, hơi lắc nhẹ và rót ra tách cho khách ngay. Nước pha trà cũng được rót
qua bình trung gian nhằm điều chỉnh nhiệt độ.
+Lần thứ ba : Pha trà ở nhiệt độ 90 oC khoảng 30 – 40 giây. Nước có thể rót trực tiếp
từ bình thủy vào bình trà. Với những loại trà ngon, thượng hạng có thể pha thêm lần 4,5.
Tuy nhiên, loại trà thường chỉ pha đến lần thứ 3 thôi.

17
- Bước 4 : Cách rót trà
Các tách trà được để trong khay trà và rót theo thứ tự 1,2,3,4. Loại tách cỡ lớn tầm
70ml, lần đầu rót vào 30ml, sau đó tiếp tục với thứ tự ngược lại 4,3,2,1 mỗi lần 20ml.
Tổng cộng tách trà rót là 50ml. Không được rót đầy trà cho khách một lần đầy tách rồi
rót tiếp cho người kế tiếp. Làm như vậy sẽ có sự khác biệt về độ đậm nhạt của trà.

2.2 Nghi thức thưởng thức


- Sau khi được chủ nhà mời trà, vị khách đầu tiên sẽ đặt chén trà vào lòng bàn tay
trái và giữ chén bằng tay phải rồi cúi đầu, nâng nhẹ tách trà lên và thưởng thức. Thông
thường, phần mặt chén (正面) thường mang ý nghĩa rất quan trọng, vì vậy, khi uống cần
phải xoay chén để tránh không chạm môi vào phần mặt chén. Không uống cạn ly trà
trong một lần mà nên chia thành ba ngụm. Cúi đầu và bày tỏ lòng biết ơn sau khi nhận
và uống hết tách trà của mình. Khi đưa lại chén trà, phải hướng mặt trước của chén về
phía người mời trà để thể hiện sự tôn trọng.
- Trong suốt buổi thưởng trà, người tiếp trà và khách mời sẽ thường giao lưu về
những vấn đề liên quan đến nghệ thuật, văn hóa mang tính giáo dục cao. Không khí
trang nghiêm và tôn kính luôn là tiêu chí hàng đầu trong buổi giao lưu. Thông thường,
người ngồi chiếu đầu mang vị trí quan trọng nhất, thông thái và hiểu biết nhất và sẽ là
đại diện cho nhóm người thưởng trà.
- Khi uống trà, người Nhật thường ăn kèm với bánh ngọt để tăng thêm hương vị cho
trà. Các loại bánh ngọt cũng rất đa dạng. Để cắt bánh, trước hết bạn cần bắt đầu với góc
phần tư phía dưới bên tay phải, sau đó mới tiếp tục cắt phần phía trên. Đưa góc phần tư
bánh vừa cắt lên miệng và ăn. Thưởng thức vẻ đẹp bên trong bánh qua góc bị cắt, sau đó
mới ăn nốt ba phần còn lại. Khi ăn bánh, bạn sẽ cầm một mảnh giấy gọi là “Kaishi”
giống như chiếc khăn giấy. Giữ mảnh giấy này trên tay trái để hứng những mảnh vụn rơi
xuống.

1.4. Không gian thưởng trà


Mối liên hệ giữa Trà đạo Nhật Bản và Thiền biểu hiện rõ nét qua bốn nguyên tắc
cơ bản của Trà đạo: Hoà ( 和 ), Kính( 敬 ), Thanh( 清 ), Tịch( 寂 ). Đây là những
nguyên tắc tất yếu để tạo nên sự riêng biệt, độc đáo của tinh hoa nghệ thuật mang

18
tên Trà đạo. Những nguyên tắc ấy không chỉ được thể hiện trong cách pha chế trà
truyền thống hay hương vị của những chén trà mà còn nằm trong không gian
thưởng thức trà: trà thất và vườn trà.

- Chaniwa- vườn trà Nhật Bản


Chaniwa là khu vườn được thiết kế dành riêng cho những nơi tổ chức Chanoyu.
Sau một bữa tiệc lớn, khách sẽ đến vườn nghỉ ngơi trong không khí mát mẻ trước
khi đến sảnh để uống trà. Khu vườn chỉ đơn thuần là những bụi cây, các bậc đá,
những cây nhỏ được chăm bón xanh mướt, giữa vàn cỏ xanh mướt là một lối đi
được làm một cách cẩn thận có lát những bậc đá để bước lên
dẫn đến Trà thất.
- Sotomon- Cổng ngoài
Cổng ngoài là biểu tượng của sự loại trừ thế giới bên ngoài khỏi
thế giới Trà Đạo. Cổng thường làm bằng tre, có mái. Thông
thường các vị khách khi bước vào sẽ không được đi thẳng trực
tiếp vào vườn vì luôn có cây cối chắn lại, muốn đi tiếp thì phải
rẽ sang một hướng khác đó là Nakakuguri ( cổng nhỏ ).

- Nakakuguri- Cổng nhỏ


Mỗi khu vườn Chaniwa đều có cổng nhỏ để bước vào
vườn. Là vật ngăn cách giữa vườn ngoài và vườn trong,
nó chỉ đơn giản là một hàng rào cây bụi hoặc hàng rào
tre.

- Machiai- Nơi ngồi chờ bên ngoài


Khu vực ngồi chờ có mái che, như một khu vực tiếp tân nơi mà các vị khách tập trung
tinh thần, tịnh tâm trước khi tiến đến vườn trong. Sau này người ta còn xây thêm nhà
vệ sinh, nơi thay quần áo phù hợp cho khách.

19
- Tsukubai- Bồn rửa tay bằng đá
Bồn chứa nước bằng đá có kích thước nhỏ và được đặt thấp so với mặt đất. Nước chảy
xuống bồn qua ống dẫn nước bằng tre thường được thiết kế rất đơn giản. Nguồn nước
chảy ra từ ống tre được gọi là Kakei, được bố trí như một vật trang trí cho khu vườn
nhưng công dụng chính của nó là chứa nguồn nước để mọi người súc miệng và rửa tay
trước buổi lễ Trà đạo.
Bây giờ việc rửa được thực hiện vì biểu tượng nhiều hơn là vì sự sạch sẽ nhưng nó vẫn
là một hành động quan trọng trong việc thanh lọc trước khi bắt đầu buổi lễ. Nguồn gốc
của tên gọi Tsukabai có nghĩa là cúi xuống, như là thể hiện một hành động khiêm
nhường. Khách tham dự một buổi tiệc trà sẽ cúi xuống rửa tay trước khi bước vào.
Tsukabai thường là đá, và có chiếc gáo nhỏ (kishaku) nhằm giúp khách có thể sử dụng
thuận tiện hơn.
- Ishi-doro- Đèn lồng đá

Đèn lồng đá từ Trung Quốc và Hàn Quốc được giới thiệu đến Nhật Bản thông qua các
tu sĩ Phật giáo, vì vậy ban đầu chúng được sử dụng trong các ngôi đền, sau đó trong
các đền thờ Thần đạo. Một chiếc đèn lồng lớn được đặt bên cạnh chậu rửa và những
chiếc đèn lồng nhỏ khác được đặt khắp khu vườn.

20
- Roji- Lối đi trong vườn

Con đường trong vườn hay còn gọi là Roji (có nghĩa đen là “đất ẩm ướt sương”), là
một con đường lát đá nối băng ghế với phòng uống trà. Những viên đá có kích thước
khác nhau, tùy thuộc vào quy mô của khu vườn nhưng chúng hầu như luôn có rêu và
những cây mọc thấp bao quanh. Tất cả các loại cây được sử dụng một cách tượng trưng
và rất ít thực vật có hoa được dùng vì chúng được coi là quá làm mất tập trung.
Ví dụ, thường sử dụng cây thông và tuyết tùng hoặc cây rụng lá theo mùa như sồi được
trồng để trông giống những ngọn núi xa xa. Rêu được sử dụng rất nhiều để gợi cho
người xem cảnh núi non. Đi bộ dọc theo Roji cho phép khách bước vào giao đoạn thiền
định đầu tiên của Trà đạo. Đây được coi là một lối đi vào bên trong, nhằm giúp khách
chuẩn bị cho trải nghiệm phòng trà.

- Trà thất ( Chashitsu)


Trà thất là một túp lều nhỏ bằng gỗ có mái tranh và thạch
cao màu xám, sàn nhà được nâng lên khỏi mặt đất dành
riêng cho việc uống trà. Trà thất trở thành một túp lều tách
biệt khỏi ngôi nhà ở bắt đầu có từ ý tưởng của nhà sư Sen
no Rikyu- bậc thầy lừng danh nhất từ xưa tới nay ở Nhật
Bản
- Chiếu Tatami

21
Tatami là tấm chiếu hình chữ nhật được được bện bằng rạ, lác, cói… dùng để trải sàn
trong ngôi nhà truyền thống của Nhật. Lớp bên ngoài bao bọc miếng ép bằng rơm là
chiếu cói, viền của chiếu Tatami được bọc bằng vải dệt hoặc vải trơn thường có màu
xanh lá tạo cảm giác mát mẻ. Kích thước của phòng trà chính thống là bốn chiếc chiếu
rưỡi, tức là khoảng mười bộ vuông (khoảng 9m2).
Thông thường, có một chiếc chiếu ở trung tâm, trên đó bày các dụng cụ pha trà
để chiêm ngưỡng và những chiếc chiếu khác được đặt xung quanh chiếc chiếu trung
tâm này. Theo truyền thống, khi đi trên chiếu tatami mọi người nên lê bước thay vì
sải bước. Điều này giúp ta duy trì tư thế đúng, đi chậm và yên lặng, tất cả các đặc
điểm phù hợp với triết lý của Trà đạo.

- Tokonom
Tokonoma là một góc phòng được trang trí và hơi thụt và trong so với vách tường.
Thông thường, có một khu vực để một bức thư pháp, tranh cuộn treo (kakemono)
hay có một cái giá nhỏ để đặt hoa, có thể là một chiếc bình hay một hộp hương
trầm. Nếu đã bày một lọ cắm hoa tươi thì nhất thiết bức tranh treo tường không thể
là tranh vẽ hoa lá. Khi bạn đặt một cái lọ hay một lư trầm
vào gian tokonoma hỹ chú ý chớ để thật đúng trung tâm
và không phân chia không gian thành hai phần bằng
nhau. Khi bước vào một trà thất, người ta thường quỳ và
chiêm ngưỡng bức tranh hoặc bình hoa một lát, cũng có
thể xem các vật được trưng bày. Sau đó, mọi người sẽ
đến ngồi vào chỗ dành cho mình.

22
CHƯƠNG III: Ý NGHĨA CỦA TRÀ ĐẠO
- Câu nói của người Nhật để nói về văn hóa trà đạo Nhật Bản chính là “Ichi go ichi e”
có nghĩa là “Mỗi khoảnh khắc chỉ xảy ra một lần”. Mục đích của văn hoá trà đạo Nhật
Bản là trân trọng từng khoảnh khắc của hiện tại và nhớ rằng nó sẽ không xảy ra lại lần
nào nữa. Ý nghĩa cốt lõi của trà đạo Nhật Bản được biết đến thông qua cách thức chuẩn
bị, pha chế cùng một vài nghi thức. Điều này giúp trà nhân đưa tâm quay trở về, hòa vào
nét mộc mạc của thiên nhiên, thân – tâm – trí được thanh lọc và tĩnh lặng. Đó là ý nghĩa
hàng đầu của việc thường thức trà, không đơn thuần chỉ là cảm nhận hương vị thông qua
từng ngụm nhấp môi.
- Bởi lẽ đó, yếu tố quan trọng đối với trà đạo Nhật Bản là không gian thực hiện. Bài trí
và sắp xếp gian trà thất làm sao cho gần gũi với thiên nhiên là cách người Nhật ưu tiên
hàng đầu, điều này giúp họ có thể thưởng ngoạn cảnh vật song song với thưởng trà trong
suốt bốn mùa. Đồng thời, người Nhật cũng cho rằng gần kề với thiên nhiên thúc đẩy họ
chiêm nghiệm được nét thanh tao trong cõi thế tục, nâng tần số rung động, năng lực tự
giác ngộ và trân quý cái đẹp đang hiện hữu.
- Nhật Bản là một đất nước có nền văn hóa vô cùng độc đáo và tinh tế. Đặc biệt, văn hóa
trà đạo Nhật Bản đã trở thành vẻ đẹp truyền thống của dân tộc này. Văn hóa uống trà ở đây được
nhiều người trên thế giới biết đến, thậm chí nhiều quốc gia cũng đã và đang du nhập văn hóa này
về cho đất nước mình. Trà đạo không chỉ uống trà mà còn là thưởng trà, thể hiện ở sự tỉ mỉ trong
các công đoạn từ lúc chuẩn bị cho đến tạo ra những chén trà ngon. Chính vì thế, trà đạo Nhật
Bản được coi là một nghệ thuật của sự tinh tế, ẩn chứa cả một nghệ thuật sống của người dân nơi
đây
CHƯƠNG IV: KẾT LUẬN
-Qua nhiều thế kỷ, trà đạo nét truyền thống văn hóa đẹp, lâu đời trên thế giới đã và
đang tồn tại và phát triển, đưa nền văn hóa đặc sắc này đến nhiều quốc gia thế giới. Do
đó, để đối mặt với cuộc sống hiện đại nhiều áp lực, chúng tôi nghĩ bạn có thể tìm đến trà
đạo và cảm nhận vẻ đẹp của nó.
- Với lịch sử lâu dài, gắn liền với đời sống của từng người dân Nhật Bản thì Trà đạo
đã trở thành người bạn tâm giao không thể thiếu. Không chỉ ở Nhật Bản mà văn hóa trà
đạo đã trở thành một trong những văn hóa quan trọng của người Á Đông, đây không đơn

23
giản là uống trà mà nó là nghệ thuật và phong cách sống được thể hiện qua từng tách trà.
Tùy vào nền văn hóa của từng quốc gia mà cách uống trà cũng có phần khác nhau tạo
nên thương hiệu riêng của quốc gia đó. Tuy nhiên văn hóa trà đạo Nhật Bản luôn là nền
tảng cho giới Trà đạo. Có thể coi trà đạo là một nghệ thuật văn hóa toàn diện của người
Nhật Bản, hình tượng con người xứ Phù Tang được thể hiện qua cách pha trà, cách
thưởng thức và cả cách cảm nhận. Thể hiện sự cẩn thận, tỉ mỉ mà từ tốn, chậm rãi nhờ
đó cảm nhận được sự lắng đọng trong tâm hồn, tạo nên con người Nhật Bản với những
đức tính tốt mà thế giới ai cũng ngưỡng mộ. Hòa quyện giữa sự tinh tế và triết lý, nghệ
thuật trà đạo ấy đã trải qua hàng thế kỷ và trở thành tinh hoa văn hóa của đất nước mặt
trời mọc. Thưởng thức trà đạo kiểu Nhật là một trải nghiệm độc đáo cho du khách, nơi
trà hữu có thể lắng đọng trong không gian thanh thản yên tĩnh, cảm nhận từng hương vị
tinh tế của tách trà, và chìm đắm trong những giây phút thanh lọc tâm hồn. Nền văn hóa
trà đạo vẫn luôn được gìn giữ và ngày càng phát huy, các lớp học về trà đạo được mở
trong các trường đại học ở Nhật Bản để có thể giáo dục cho thế hệ mai sau về lịch sử
văn hóa nước nhà. Hằng năm, Nhật Bản có tổ chức cuộc thi “Văn hóa trà”, cuộc thi
được chia ra nhiều cấp độ, từ cuộc thi cũng muốn gửi gắm đến mọi người ý nghĩa mà trà
đạo mang lại, bởi uống trà chính là rũ bỏ muộn phiền.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

The Evolution of the Tea Ceremony.


https://aboutjapan.japansociety.org/ the_evolution_of_the_tea_ceremony#sthash.oSMXtqZI.dpbs
History of Tea.
https://www.fivecolleges.edu/community/center-east-asian-studies/japanese- tea-ceremony/history-
tea
Các Loại Trà Truyền Thống Của Nhật Bản.
https://thichtra.com/cac-loai-tra-truyen-thong-nhat-ban/
13 loại trà ngon của Nhật Bản nức tiếng giới trà đạo.
https://www.tita.art/kien-thuc-tra/cac-loai-tra-ngon-cua-nhat-ban/
Không Gian Trà Đạo Nhật Bản

24
https://noithatjapan.com/khong-gian-tra-dao-nhat-ban/
Không gian trà thất Nhật Bản và kiến trúc đặc trưng.
https://sobokuya.vn/tin-tuc-va-blog/khong-gian-tra-that-nhat-ban-va-kien-truc-dac-trung/

25

You might also like