tiểu luận tiền tệ

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 12

LỜI NÓI ĐẦU

Cuộc khủng hoảng tài chính- kinh tế Mỹ dù đã đi qua tuy nhiên hậu quả mà nó để lại cho
nền kinh tế nhiều nước là hết sức nặng nề, thậm chí đến lúc này nhiều nước vẫn đang
gồng mình vật lộn với những khó khăn mà nó để lại. Đây là cuộc khủng hoảng trong
nhiều lĩnh vực, bắt nguồn từ khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp và bản thân nó lại là
nguồn gốc trực tiếp dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2010. Khủng hoảng
Mỹ xảy ra với sự bất ngờ lớn của thế giới. Không ai có thể ngờ rằng một tượng đài, một
đầu tàu Thế giới lại có thể suy sụp nhanh đến như vậy và kéo theo nó là bao nhiêu khó
khăn mà cả Thế giới phải gánh chịu. Vậy nguyên nhân của cuộc khủng hoảng này là gì?
Diễn biến của nó ra sao? Hậu quả gây ra như thế nào? Chính phủ Mỹ đã có biện pháp gì
và Việt Nam có tránh được cơn bão khủng hoảng đó hay không? Vâng, đó cũng chính là
nội dung mà nhóm chúng tôi đã tổ chức thảo luận để tìm ra lời giải. Từ đó có một cách
nhìn tổng quát về cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ 2007-2009.
 Tiểu luận gồm 5 phần:
Chương I: NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG
Chương II: DIỄN BIẾN CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG
Chương III: TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ
Chương IV: BIỆN PHÁP ĐỐI PHÓ VỚI KHỦNG HOẢNG CỦA MỸ
Chương V: BÀI HỌC CHO VIỆT NAM TỪ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ
I. NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG
Khủng hoảng tài chính xảy ra tại một trong những thị trường tài chính lâu đời và lớn
mạnh nhất thế giới. Hàng loạt các ngân hàng lớn ở Mỹ đã sụp đổ và ảnh hưởng của nó
trên phạm vi toàn thế giới thực sự khiến thế giới phải kinh ngạc. Có thể có nhiều quan
điểm về nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng . Vậy nguyên nhân nào dẫn tới cuộc
khủng hoảng tài chính Mỹ và kéo theo đó là khủng hoảng tài chính toàn cầu có thể coi là
tồi tệ nhất trong lịch sử phát triển của thế giới?
Nhóm chúng tôi xin phân tích dựa trên những nguyên nhân như sau:
a) Khủng hoảng nợ dưới chuẩn
Cho vay thế chấp dưới chuẩn là khoản cho vay chất lượng thấp với mức rủi ro cao. Các
khoản vay này không được xem xét kỹ lưỡng và thường được bảo đảm bởi rất ít hoặc
không có giấy tờ chứng minh khả năng tài chính của người đi vay.
Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, khi sự bùng nổ của giá nhà đất trở nên đỉnh điểm,
số lượng các giấy tờ đã được giảm thiểu tới mức thấp nhất. Các khoản vay này còn được
gọi là “không giấy tờ” bởi vì chúng hầu như không được bảo đảm bằng bất kỳ giấy tờ
nào. Điểm tín dụng trở thành tiêu chuẩn duy nhất. Nếu điểm tín dụng của một cá nhân
thấp thì khoản vay mang hình thức dưới chuẩn (Đây là khoản vay với chất lượng thấp
hơn so với khoản vay đạt chuẩn, vốn được cho vay với đầy đủ các giấy tờ cần thiết). Để
bù đắp lại rủi ro cao, những khoản vay này là những khoản vay với lãi suất cao hoặc
người đi vay phải vay theo lãi suất ARM với lãi suất ban đầu thấp sau đó được điều chỉnh
dần lên những mức cao hơn. Theo truyền thống, người mua thường muốn vay tiền mua
nhà với lãi suất cố định hơn là lãi suất linh hoạt, theo đó, họ sẽ phải thanh toán hàng
tháng tiền lãi với lãi suất cố định trong suốt 30 năm. Tuy nhiên, lãi suất ARM lại rất thấp
với thời hạn từ 3 đến 5 năm. Chính vì vậy, nó đã thu hút được những người mua có thu
nhập thấp.
b) Chứng khoán hóa
Các sản phẩm chứng khoán hóa xuất hiện từ đầu thập niên 1970 và phát triển mạnh trong
môi trường chính sách tiền tệ được nới lỏng từ năm 2001.
Chứng khoán hóa và việc ra đời các sản phẩm của quá trình này như chứng khoán đảm
bảo bằng tài sản thế chấp (MBS), giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (CDO) và các loại tương
tự là một phát minh lớn về công cụ tài chính. Tuy nhiên, vì có ít nhất tới 4 loại chủ thể
kinh tế liên quan đến chứng khoán hóa (thay vì 2 loại chủ thế kinh tế là người thế chấp -
đi vay và tổ chức tín dụng cho vay - nhận thế chấp như giao dịch tín dụng truyền thống),
vì sự xuất hiện của bảo hiểm cho các sản phẩm chứng khoán hóa như hợp đồng hoán đổi
tổn thất tín dụng (CDS), vì sự ra đời của các thể chế như các thể chế mục đích đặc biệt
(SPV) và những công cụ đầu tư kết cấu (SIV) để mua bán MBS và CDO, nên đã tồn tại
những rủi ro hệ thống bao gồm cả rủi ro đạo đức và lựa chọn trái ý. Trong khi đó, mô
hình giám sát tài chính của Hoa Kỳ trước khủng hoảng không đủ năng lực giám sát các
rủi ro này.
Những rủi ro mang tính hệ thống đã tồn tại và một khi sự cố đối với bong bóng thị
trường tài sản xảy ra thì những rủi ro này sẽ làm mất lòng tin ghê gớm của các bên liên
quan. Thêm vào đó, việc thực hành cho vay liên ngân hàng sẽ làm cho những tổn thất tín
dụng lây lan ra toàn hệ thống ngân hàng; một ngân hàng phá sản sẽ kéo theo nhiều ngân
hàng khác phá sản. Và mất lòng tin ở người gửi tiền gây ra đột biến rút tiền gửi còn làm
cho tình hình thêm nghiêm trọng và diễn ra nhanh chóng hơn. Thực tế, thị trường nhà ở
bắt đầu tự điều chỉnh từ năm 2005 khiến cho giá nhà đất giảm và chất lượng tài sản đảm
bảo cho các MBS và các CDO giảm theo. Rủi ro mang tính hệ thống đã làm cho khủng
hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra vào tháng 5 năm 2006 khi mà nhiều tổ chức phát hành
MBS và CDO cũng như một số tổ chức tài chính mà trong danh mục tài sản của mình có
nhiều MBS và CDO sụp đổ. Tiếp theo đó, khủng hoảng tài chính nổ ra vào tháng 8 năm
2007 khi đến lượt cả các SPV và SIV cũng sụp đổ, rồi phát triển thành khủng hoảng tài
chính toàn cầu từ tháng 9/2008 khi
cả những tổ chức tài chính khổng
lồ như Lehman Brothers sụp đổ.
c) Bong bong thị trường nhà ở
Diễn biến thay đổi của lãi suất chính sách ở Hoa Kỳ (đường màu xanh).

Diễn biến thay đổi giá nhà trong thời kỳ bong bóng thị trường nhà ở.

Khi bong bóng dot.com bị bể, chính phủ và các kinh tế gia Hoa Kỳ bày ra chiến dịch
“mỗi gia đình làm chủ một căn nhà” để phát triển kinh tế dựa trên chương trình cho vay
với lãi suất thấp trong mấy năm đầu và cao cho các năm sau (sub prime rate), viết tắt SP.
Đôi khi, các nhà tín dụng còn mạo hiểm cho con nợ vay tiền mua nhà có tên là Ninja tức
là người vay tiền không cần có công ăn việc làm, không cần trả tiền vốn ban đầu và
không cần trả nợ trong các năm đầu. Tóm lại, bất cứ ai chỉ cần ký tên vay tiền là có thể
làm chủ căn nhà.
Chẳng hạn, giá nhà bán 100 đô-la, ngân hàng cho vay 120 đô-la (cao hơn giá nhà mua)
20 đô-la, đồng được xử dụng để trả tất cả chi phí như tiền vốn ban đầu, tiền lời cho các
năm đầu, kể cả các dịch vụ mua nhà cửa. Các năm kế tiếp, người mua nhà sẽ trả tiền lời
cao hơn. Những người mua nhà đầu tư hy vọng giá nhà tăng, họ có thể bán lại căn nhà
đầu tư để kiếm lời.
Bong bóng Dot.com vỡ vào năm 2001 và suy thoái kinh tế hiện rõ sau sự kiện 11 tháng
9, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ đã có những biện pháp tiền tệ để cứu nền kinh tế nước
này khỏi suy thoái, đó là hạ lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng. Chỉ trong thời gian
ngắn từ tháng 5 năm 2001 đến tháng 12 năm 2002, lãi suất liên ngân hàng giảm 11 đợt từ
6,5% xuống còn 1,75%. Tín dụng thứ cấp cũng giảm lãi suất theo. Điều này kích thích sự
phát triển của khu vực bất động sản và ngành xây dựng làm động lực cho tăng trưởng
kinh tế. Trong môi trường tín dụng dễ dãi, những tổ chức tài chính đã có xu hướng cho
vay mạo hiểm, kể cả cho những người nhập cư bất hợp pháp vay. Hệ quả là vay và đi vay
ồ ạt nhằm mục đích đầu cơ dẫn tới hình thành bong bóng nhà ở. Năm 2005, có tới 28% số
nhà được mua là để nhằm mục đích đầu cơ và 12% mua chỉ để không. Năm này, bong
bóng nhà ở này phát triển đến mức cực đại và vỡ. Từ quý IV năm 2005 đến quý I năm
2006, giá trị trung vị của giá nhà giảm 3,3%. Thời điểm đó, tổng giá trị tích lũy các khoản
tín dụng nhà ở thứ cấp lên đến 600 tỷ đô-la.
Sau khi bong bóng nhà ở vỡ, các cá nhân gặp khó khăn trong việc trả nợ. Nhiều tổ chức
tín dụng cho vay mua nhà gặp khó khăn vì không thu hồi được nợ. Giá nhà ở giảm nhanh
khiến cho các loại giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (CDO - viết tắt của collateralized debt
obligations ) và chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế chấp (MBS - viết tắt của
mortgage-backed security) do các tổ chức tài chính phát hành bị giảm giá nghiêm trọng.
Kết quả là bảng cân đối tài sản của các tổ chức này xấu đi và xếp hạng tín dụng của họ bị
các tổ chức đánh giá đánh tụt. Cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra. Tóm lại, s
ự cho vay dễ dãi của các ngân hàng tín dụng tại Hoa Kỳ đã đưa tới sự sụp đổ thị trường
bất động sản, kéo theo sự lỗ lã của các ngân hàng, làm cho các ngành nghề khác bị đóng
cửa, thợ thuyền thất nghiệp. Tiền đầu tư, hưu trí của dân chúng bị bốc thành hơi. 6
II. DIỄN BIẾN CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG
Toàn cảnh cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ (2007-2009): Hệ thống tài chính ngân hàng của
Mỹ cuối năm 2007 và năm 2008 đột nhiên lâm vào một trong những cuộc khủng hoảng
chưa từng có. Hàng trăm tỷ USD đã tiêu tan. Sự lây lan vẫn chưa chấm dứt, hậu quả vẫn
chưa lường hết.

Những người phản đối kế hoạch giải cứu tại Phố Wall.
* Tháng 6/2007: Hai quỹ phòng hộ (hedge fund - một loại quỹ có tính đại chúng thấp và
không bị quản chế quá chặt) của Bear Stearns - ngân hàng đầu tư lớn thứ 5 của Mỹ - quỵ
ngã sau khi đánh cược vào các chứng khoán được đảm bảo bằng các khoản cho vay bất
động sản dưới chuẩn ở Mỹ.
* Tháng 7 - Tháng 9/2007: Ngân hàng IKB của Đức trở thành ngân hàng đầu tiên tại châu
Âu chịu ảnh hưởng bởi những khoản đầu tư xấu trên thị trường cho vay dưới chuẩn ở
Mỹ. Trong khi đó, Ngân hàng SachsenLB của Đức phải nhận sự cứu trợ từ chính phủ.
* Tháng 8 năm 2007, một số tổ chức tín dụng của Mỹ như New Century Financial
Corporation phải làm thủ tục xin phá sản. Một số khác thì rơi vào tình trạng cổ phiếu của
mình mất giá mạnh như Countrywide Financial Corporation. Nhiều người gửi tiền ở các
tổ chức tín dụng này đã lo sợ và đến rút tiền, gây ra hiện tượng đột biến rút tiền gửi khiến
cho các tổ chức đó càng thêm khó khăn. Nguy cơ khan hiếm tín dụng hình thành. Cuộc
khủng hoảng tài chính thực thụ chính thức nổ ra.
* Ngày 14/9/2007: Lần đầu tiên trong hơn 1 thế kỷ, khách hàng ùn ùn kéo đến bủa vây để
đòi rút tiền ở một ngân hàng lớn tại Anh - Ngân hàng cho vay thế chấp Northern Rock -
ngân hàng lớn thứ 5 tại Anh.
* Ngày 15/10/2007: Citigroup - Tập đoàn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ - công bố lợi
nhuận Quý 3 bất ngờ giảm 57% do các khoản thua lỗ và trích lập dự phòng lên tới 6,5 tỷ
USD. Giám đốc điều hành Citigroup Charles Prince từ chức vào ngày 4/11.
* Ngày 17/12/2007: Cuộc khủng hoảng tín dụng đã lan sang châu Úc với nạn nhân là Tập
đoàn Centro Properties, một chủ sở hữu của các phố buôn bán lớn ở Mỹ tại Úc sau khi
tập đoàn này đưa ra cảnh báo lợi nhuận giảm. Cổ phiếu Centro Properties đã tụt giá 70%
tại các giao dịch ở Sydney.
Tháng 12 năm 2007, cuộc khủng hoảng tiến sang nấc trầm trọng hơn khi những báo cáo
kinh tế cuối năm cho thấy sự điều chỉnh của thị trường bất động sản diễn ra lâu hơn dự
tính và quy mô của khủng hoảng cũng rộng hơn dự tính. Tình trạng đói tín dụng trở nên
rõ ràng. Hệ thống dự trữ liên bang cố gắng giảm mạnh lãi suất liên ngân hàng vào tháng
12/2007 và tháng 2 năm 2008 nhưng không có hiệu quả như mong đợi.
Năm 2008 bắt đầu những dấu hiệu ảm đạm. Bong bóng nhà đất xuất hiện tại Mỹ với trên
1 triệu chủ nhà đất đối mặt với nguy cơ tịch thu tài sản thế nợ. Nhiều ngân hàng vướng
phải các khoản nợ dưới chuẩn (subprime loan) phải hứng chịu những khoản thua lỗ nặng.
* Ngày 11/1/2008: Bank of America - ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về tiền gửi và vốn
hoá thị trường - đã bỏ ra 4 tỉ USD để mua lại Countrywide Financial sau khi ngân hàng
cho vay thế chấp địa ốc này thông báo phá sản do các khoản cho vay khó đòi quá lớn.
* 30/1/2008: Ngân hàng lớn nhất Thuỵ Sĩ UBS công bố trích lập dự phòng 4 tỷ USD,
nâng tổng số tiền trích lập dự phòng lên 18,4 tỷ USD do những thất thoát quan đến cuộc
khủng hoảng cho vay cầm cố.
* 17/2/2008: Anh quốc hữu hóa Ngân hàng Northern Rock.
* 28/2/2008: Ngân hàng DZ Bank của Đức được đưa vào danh sách các nạn nhân của
cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn với tổng giá trị tài sản mất giá là 1,36 tỷ euro.
* Tháng 3 năm 2008, Ngân hàng dự trữ liên bang New York cố cứu Bear Sterns , nhưng
không nổi. 16-17/3/2008, công ty này chấp nhận để JP Morgan Chase mua lại với giá 10
dollar một cổ phiếu, nghĩa là thấp hơn rất nhiều với giá 130,2 dollar một cổ phiếu lúc đắt
giá nhất trước khi khủng hoảng nổ ra. Việc Ngân hàng dự trữ liên bang New York cứu
không nổi Bear Sterns và buộc lòng để công ty này bị bán đi với giá quá rẻ đã khiến cho
sự lo ngại về năng lực can thiệp của chính phủ cứu viện các tổ chức tài chính gặp khó
khăn. Sự sụp đổ
* 29/4/2008: Deutsche Bank lần đầu tiên trong năm năm công bố một khoản thua lỗ trước
thuế sau khi buộc phải trích lập dự phòng 4,2 tỷ USD cho các khoản nợ xấu và các chứng
khoán được đảm bảo bởi các khoản thế thấp bất động sản.
* 11/7/2008: Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân hàng IndyMac
Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn nhất từ trước tới nay sau
khi những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD trong vòng 11 ngày.
* 31/7: Deutsche Bank công bố khoản trích lập dự phòng tiếp theo là 3,6 tỷ USD, nâng
tổng số tiền ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD. Deutsche Bank trở thành một trong 10
nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng tín dụng toàn cầu.
* Tháng 8 năm 2008, đến lượt Lehman Brothers, một tổ chức tài chính vào loại lớn nhất
và lâu đời nhất của Mỹ, bị phá sản. Tiếp sau Lehman là một số công ty khác
* 7/9: Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và Bộ Tài chính Mỹ đoạt quyền kiểm soát hai tập
đoàn chuyên cho vay thế chấp Fannie Mae và Freddie Mac nhằm hỗ trợ thị trường nhà
đất Mỹ.
* 11/9/2008: Lehman Brothers tuyên bố đang nỗ lực tìm kiếm đối tác để bán lại chính
mình. Cổ phiếu của ngân hàng đầu tư này tụt giảm 45%.

Các nhân viên của Lehman Brothers.


* 14/9: Bank of America cho biết sẽ mua Merrill Lynch với giá 29 USD/cổ phần sau khi
từ chối đề nghị mua lại của Lehman Brother
* 15/9: Đây là ngày tồi tệ nhất tại Phố Wall kể từ khi thị trường này mở cửa trở lại sau vụ
khủng bố 2 toà tháp đôi tại Mỹ vào Tháng 9 năm 2001. Lehman Brothers sụp đổ đánh
dấu vụ phá sản lớn nhất tại Mỹ; Merrill Lynch bị Bank of America Corp thâu tóm;
American International Group - tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới mất khả năng thanh
toán do những khoản thua lỗ liên quan tới nợ cầm cố.
* 16/9: Ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đã đổ hàng tỉ USD vào các thị
trường tiền tệ với nỗ lực hạ nhiệt tình trạng căng thẳng và ngăn chặn sự đóng băng của hệ
thống tài chính toàn cầu. Cổ phiếu AIG giảm gần một nửa. Fed công bố kế hoạch bơm 85
tỷ USD vào AIG và nắm giữ 80% cổ phần. Ngân hàng Barclays của Anh mua lại một
phần tài sản tại Bắc Mỹ của Lehman với trị giá 1,75 tỷ USD.
* 17/9: Cổ phiếu của Goldman Sachs và Morgan Stanley giảm mạnh; Tập đoàn Lloyds
TSB của Anh mua lại đối thủ HBOS; Uỷ ban Chứng khoán Mỹ kiềm chế tình trạng bán
khống.
* 19/9: Các thị trường chứng khoán thế giới tăng vọt sau khi Mỹ công bố kế hoạch mua
lại tài sản của các tập đoàn tài chính đang gặp khó khăn, giúp làm thanh sạch hệ thống tài
chính.
* 20-21/9: Công bố các chi tiết bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD. Hai ngân hàng
Goldman Sachs và Morgan Stanley được chuyển đổi thành tập đoàn ngân hàng đa năng,
đánh dấu sự kết thúc mô hình ngân hàng đầu tư tại Phố Wall.
* 22/9: Tập đoàn Nomura Holdings của Nhật trả 525 triệu USD để thâu tóm hoạt động
của Lehman tại châu Á. Sau đó, Nomura cũng mua lại Lehman tại châu Âu và Trung
Đông. Mitsubis hi UFJ Financial đồng ý mua 20% cổ phần Morgan Stanley. 11
* 23/9: Warren Buffett trả 5 tỷ USD mua 9% cổ phần Goldman Sachs; Cục điều tra liên
bang Mỹ (FBI) điều tra Fannie, Freddie, AIG và Lehman vì nghi ngờ có sự gian lận trong
cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ.
* 25/9: Washington Mutual Inc. (WaMu), một trong những ngân hàng lớn nhất Mỹ đã
sụp đổ cũng do đã đánh cược rất lớn vào thị trường cho vay thế chấp. Cơ quan Bảo hiểm
tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC) đã đoạt quyền kiểm soát WaMu và sau đó bán các tài sản
của ngân hàng tiết kiệm lớn nhất Mỹ cho JPMorgan Chase & Co. với giá 1,9 tỷ USD. Với
307 tỷ USD tổng tài sản, WaMu đã trở thành ngân hàng bị phá sản lớn nhất trong lịch sử
Mỹ. Trong khi đó tại Washington D.C., các thành viên chủ chốt trong quốc hội đã đồng ý
về những điều khoản chính trong kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD.
* 29/9: Hạ viện bất ngờ không thông qua kế hoạch giải cứu thị trường tài chính Mỹ.
Phản ứng ngay lập tức với quyết định trên, chỉ số công nghiệp Dow Jones tụt giảm gần
780 điểm - mức giảm trong một ngày mạnh nhất từ trước tới nay.
* 1/10: Thượng viện Mỹ thông qua bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD (tỷ lệ 74-25) với
một số điểm đã được thay đổi, bao gồm: gia hạn đạo luật cắt giảm thuế thu nhập cho
doanh nghiệp và cá nhân (tính sẽ làm ngân sách thất thu 149 tỷ USD); tăng hạn mức bảo
hiểm tiền gửi tại Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Liên bang từ 100.000 USD lên 250.000 USD
*Tháng 10/2008, khủng hoảng tín dụng đã lan rộng ra toàn nước Mỹ. Khi Iceland lâm
vào phá sản, chính phủ các nước trên thế giới cũng tới tấp thông báo kế hoạch cứu nguy
nền kinh tế. Trong quý 4 năm 2008 GDP của Mỹ đã giảm 3.8% theo báo cáo đầu tiên
ngày 30 tháng giêng năm 2009 rồi điều chỉnh lại là 5.4% chứng tỏ suy thoái đang gia
tăng. Cũng trong năm này, nhập siêu 813 tỷ 800 triệu đô-la nghĩa là xuất cảng được 1377
tỷ nhưng nhập cảng 2190 tỷ đô-la. Chỉ số kỹ nghệ trung bình của Mỹ khoảng 14164 vào
9/10/2007 đến 27/2/2009 chỉ còn 7067, mất gần 50% chứng tỏ nước Mỹ đã rơi vào đại
khủng hoảng kinh tế. Tính cả năm 2009, kinh tế Mỹ tăng trưởng âm 2,4%, mức tăng
trưởng tính theo năm thấp nhất từ năm 1946.
III. TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ
Khủng hoảng tín dụng, khủng hoảng cho vay thế chấp, khủng hoảng nợ dưới chuẩn của
các ngân hàng và các tập đoàn tài chính khổng lồ ở Mỹ đã lan tỏa nhanh chóng tới tất cả
các quốc gia ở các khu vực, ảnh hưởng tới tất cả lĩnh vực tài chính, kinh tế, thương mại,
đời sống, xã hội trên phạm vi toàn cầu. Trong bài tiểu luận này, chúng tôi xin đi sâu vào
phân tích tác động của khủng hoảng tài chính đến nội tại nền kinh tế Mỹ.
a) Khủng hoảng tài chính toàn cầu
Sự đổ vỡ dây chuyền trong ngành tài chính Mỹ đã lan qua Đại Tây Dương, tới Châu Âu,
sang Châu Á và trở thành “cơn sóng thần thế kỷ” (Alan Greenspan, cựu Chủ tịch FED).
Tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã khiến hàng loạt các vấn đề yếu kém và tồn
tại của kinh tế thế giới được bộc lộ ra ở phạm vi toàn quốc gia, khu vực và thế giới. Thực
tế cho thấy tình hình khủng hoảng đã diễn ra trên phạm vi rộng, tác động lớn và chuyển
từ khủng hoảng cho vay cầm cố dưới chuẩn sang khủng hoảng kinh tế, tài chính. Trầm
trọng hơn, thế giới không chỉ đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu mà cuộc
khủng hoảng tài chính lần này còn xảy ra trong bối cảnh thế giới đang phải đối mặt với
các cuộc khủng hoảng khác, đó là cuộc khủng hoảng năng lượng, khủng hoảng khí hậu
và khủng hoảng lương thực.
Cuộc khủng hoảng tài chính đã gây ra sự suy thoái kinh tế trên phạm vi toàn cầu, và
được đánh giá là trầm trọng nhất kể từ 80 năm qua. Tăng trưởng kinh tế toàn cầu đã sụt
giảm nhanh chóng từ mức 5.2% năm 2007 xuống còn 3.4% năm 2008. Mức độ suy thoái
kinh tế trong quý IV/2008 vad quý I/2009 ở nhiều nền kinh tế phát triển và đang phát
triển xấu hơn dự báo. Tăng trưởng thương mại thế giới giảm nhanh từ 7.2% năm 2007
xuống 4.1% năm 2008. Cuối tháng 3/2009, theo báo cáo đánh giá thường niên về thương
mại toàn cầu của Tổ chức thương mại tế giới WTO mức suy giảm được dự báo sẽ cao
nhất kể từ sau chiến tranh thế giới thứ 2. Hoạt động thương mại toàn cầu giảm đáng kể từ
tháng 9/2008. Tính chung cả năm 2008, xuất khẩu vẫn tăng 2%, nhưng thấp hơn nhiều
tốc độ tăng trưởng 6% của năm 2007. Hoạt động sản xuất ngưng trệ vì suy thoái toàn cầu
có thể khiến thương mại toàn câu năm 2009 giảm tới mức 10% (mức giảm lớn nhất trong
7 thập kỷ qua).
Hệ thống tài chính thế giới lung lay
Khởi đầu của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu là sự đổ vỡ của thị trường tín dụng
dưới chuẩn của Mỹ vào tháng 7/2007. Năm 2007 có 3 ngân hàng tại Mỹ sụp đổ 2008 con
số này đã là 25 và gần nửa đầu năm 2009, hơn 40 ngân hàng tiếp tục “ra đi”. Đặc điểm sự
sụp đổ điêu đứng của các tên tuổi lớn như Lehman Brother, Washington Mutual Inc...
hay AIG, Fannie Mae, Freddie Mac, Northern Rock... khiến cả thế giới chao đảo theo.
Toàn cầu hóa giúp liên thông thị trường tài chính thế giới, nhưng cũng chính toàn cầu hóa
cũng khiến sự ảnh hưởng lan truyền trong hệ thống tài chính thế giới thêm nghiêm trọng.
Không chỉ các định chế tài chính ở Mỹ gặp khó khăn, mà hệ thống tài chính toàn cầu
đứng trước nguy cơ sụp đổ khi cơn bão tràn lan qua châu Âu, châu Mỹ-latinh, Châu Á...
b) Tăng trưởng kinh tế
Theo như báo cáo của phòng Thương mại Mỹ, GDP của nước này đã sục giảm tới mức
6.1%/năm đặc biệt 3 tháng cuối năm 2008 mức độ sục giảm lên cao kỷ lục tới 6.3% chính
điều này đã làm cho cuộc khủng hoảng trở nên tồi tệ nhất trong vòng 50 năm trở lại đây.
Khi cuộc khủng hoảng diễn ra, các nhà kinh tế dự đoán rằng mức sục giảm GDP vào
khoảng 4.7% tuy nhiên tỉ lệ thức tế đã vượt xa mức dự đoán và trong vòng 40 năm trở lại
đây lần đầu tiên GDP sục giảm nghiêm trọng trong liên tiếp 3 quý.
Richard Berner nhà kinh tế hàng đầu thuộc ngân hàng Morgan Stanley ở New Yord cho
rằng kinh tế Mỹ chắc chắn sẽ hồi phục một cách chậm chạp và yếu ớt. Các chính sách
được đưa ra để cứu vớt nền kinh tế sẽ phải mất thời gian mới có hiệu lực cùng với đó là
những tác động trái chiều cản trở nền kinh tế phát triển.
c) Thị trường chứng khoán sụt giảm nghiêm trọng
Năm 2008, thị trường chứng khoán Mỹ lập kỷ lục về mức đáy mới, những lần giảm suy
giảm chưa từng có trong lịch sử. Chỉ số công nghiệp Down Jones mất giá 33.84% và đây
là mức giảm tồi tệ nhất kể năm 1931 (khi chỉ số này sục giảm 52.6%). Chỉ số tổng hợp
Nasdag cũng giảm tới 40.54% trong năm 2008 (năm tồi tệ nhất kể từ khi chỉ số này ra đòi
năm 1971). Số S&P 500 giảm 38.49% và cũng là giảm mạnh nhất trong 77 năm qua.

Chỉ số S&P 500


Chỉ số NASDAQ Composite
d) Tỷ lệ thất nghiệp tăng cao kỷ lục
Vẫn vượt ra ngoài những dự đoán ban đầu tỷ lệ thất nghiệp tăng cao đã gây ra nhiều áp
lực cho Fed trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế. Nhiều doanh nghiệp không đủ sức
chống đỡ lại vòng xoáy của khủng hoảng nên đã buộc phải cắt giảm nhân sự và tạo nên
làn sóng thất nghiệp lớn. Theo báo cáo công bố ngày 4/4/2009 của Chính phủ Mỹ, trong
tháng 3/2009, 80.000 việc làm đã bị cắt giảm và đây là mức cắt giảm lớn nhất trong vòng
5 năm qua. Đến cuối 6/2009, số người thất nghiệp ở Mỹ đã lên tới 627.000 người. Tháng
2/2010 mức thất nghiệp là 9.6%. Sự gia tăng tỉ lệ thất nghiệp khiến cho nhu cầu tìm kiếm
công việc khác trong xã hội của người lao động tăng cao. Những khó khăn về vấn đề việc
làm đã ảnh hưởng đến khu vực tiêu dùng của dân chúng khi mà hoạt động tiêu dùng
chiếm đến 2/3 hoạt động kinh tế Mỹ.

Tỷ lệ thất nghiệp tại Hoa Kỳ


e) Cán cân thương mại
Trong một thời gian dài, cán cân thương mại của Mỹ bị thâm hụt nặng nề, đặc biệt là
trong thời kỳ khủng hoảng. Nguyên nhân là do đồng đô la mạnh trong thời kỳ khủng
hoảng so với hầu hết các đồng tiền trên thế giới làm cho giá cả hàng hóa của Mỹ tại nước
ngoài đắt hơn và xuất khẩu giảm. Nguyên nhân của sự tăng giá của đồng đô la sẽ được
trình bày trong mục biến động của tỷ giá hối đoái.
f) Tỷ giá hối đoán
Nền kinh tế thế giới lâm vào suy thoái với hàng loạt tin tức ảm đạm về tình trạng tăng
trưởng kinh tế của hàng hóa các nước từ Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc kéo theo
sự sục giảm nghiêm trọng của thị trường hàng hóa như vàng, dầu mỏ và chứng khoán.
Trong bối cảnh hàng hóa sục giảm nghiêm trọng thì việc nắm giữ tiền là lựa chọn an toàn
với các nhà đầu tư, đặc biệt là các đồng tiền mạnh, lãi suất thấp như USD, JPY trở thành
“vịnh tránh bão” trong cơn khủng hoảng, dựa trên nguyên lý “Lợi nhuận thấp, rủi ro
thấp”. Từ đó làm cho đồng đô la lên giá so với các đồng tiền khác như Euro, Nhân dân tệ,
bảng Anh, Franc Thụy Sỹ....Do lo ngại kinh tế Châu Âu sẽ phục hồi chậm hơn kinh tế
Mỹ. Đối với tỷ giá giữa đô la Mỹ và Yên Nhật thì lại diễn biến theo chiều hướng ngược
lại. Do sự kỳ vọng của nhà đầu tư về sự phục hồi của nền kinh tế Nhật Bản so với kinh tế
Mỹ vì sự ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính hiện tại tới kinh tế Nhật chỉ là sự khó
khăn về thị trường xuất khẩu chứ không phải sự sụp đổ trong lĩnh vực tài chính Ngân
hàng như Mỹ.
g) Khủng hoảng niềm tin
Cuộc khủng hoảng lần này có lẽ sẽ ghi dấu ấn cùng với cuộc khugr hoảng về niềm tin. Sự
sụp đổ của hàng loạt các định chế tài chính lớn, các vụ siêu lừa đảo trên thị trường tài
chính khiến niềm tin của các nhà đầu tư bị lung lay. Hiệu ứng “tâm lý đẩy” lan tỏa. Thế
giới đã chứng kiến cảnh hàng đoàn người đứng trước của Ngân hàng đòi rút tiền, thị
trường chứng khoán tụt dốc thê thảm... Sự suy giảm của niềm tin được thể hiện roc trên
chỉ số niềm tin kinh doanh PIM – Purchasing Manager Index. Chỉ số này được xây dựng
dựa trên cơ sở điều tra, tổng hợp ý kiến của hơn 400 giám đốc mua hàng trê toàn nước
Mỹ về 5 lĩnh vực chính với trọng số cho từng lĩnh vực khác nhau: sản lương (0,25%), số
đơn đặt hàng mới (0,3%), tình hình giao hàng của nhà cung cấp (0,15%), lượng hàng tồn
kho (0,1%), tình hỉnh việc làm (0,2%). Khoảng dao động của PMI là từ 0 đến 100, trong
đó đặc biệt quan trọng là mốc 50, ranh giới giữa sự thu hẹp và mở rộng sản xuất. Do đó,
các nhà đầu tư trên thế giới luôn theo dõi rất sát sao về diễn biến của chỉ số này đề ra
quyết định đầu tư mỗi khi nên kinh tế có dấu hiệu chuyển biến.
Chỉ số niềm tin kinh doanh PMI của Mỹ.

You might also like