CHUƠNG 6 Tiền Tệ

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 20

CHUƠNG 6: NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

I. ĐỊNH NGHĨA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG ( NHTW)

1.1 Định nghĩa ngân hàng trung ương

Ngân hàng trung ương ( có khi gọi là ngân hàng dự trữ , hoặc Cơ quan hữu trách về
tiền tệ) là cơ quan đặc trách quản lý hệ thống tiền tệ của quốc gia và chịu trách nhiệm thi
hành chính sách tiền tệ. Mục đích hoạt động của ngân hàng trung ương là ổn định gia trị
của tiền tệ, ổn định cung tiền, kiểm soát lãi suất, cứu các ngân hàng thương mại có nguy
cơ đổ vỡ. Hầu hết các ngân hàng trung ương đều thuộc sở hữu của nhà nước , nhưng vẫn
có một mức độ độc lập nhất định với chính phủ.

1.2 Nguồn gốc và quá trình hình thành Ngân hàng Trung ương

Trước thế kỷ 17, các chức năng của ngân hàng trung ương được thực hiện bởi nhiều
tổ chức khác nhau, không một mô hình thống nhất nào. Các nhà buôn, ngân hàng tư nhân,
nhà thợ kim hoàn, kho bạc nhà nước và các tổ chức tôn giáo đều đóng vai trò trong việc
cung cấp các dịch vụ tài chính như cho vay, chuyển tiền và lưu ký tài sản. Tuy nhiên, các
tổ chức này thường có quy mô nhỏ, chức năng hạn chế và hoạt động không ổn định.
Sự ra đời của ngân hàng trung ương chính thức đầu tiên trên thế giới là Riksbank của
Thuỵ Điển (1668), tiếp đó là Ngân hàng Anh được thành lập vào năm 1694. Các ngân
hàng trung ương này được thành lập để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về một hệ thống
tiền tệ ổn định và an toàn cho nền kinh tế đang phát triển. So với các tổ chức tiền thân,
ngân hàng trung ương có quy mô lớn hơn, chức năng đa dạng hơn và hoạt động ổn định
hơn.
Bước sang thế kỷ 18 đầu thế kỷ 20, hoạt động lưu thông hàng hóa được mở rộng và
phát triển cả về quy mô lẫn phạm vi. Mỗi ngân hàng phát hành một loại tiền giấy của
riêng mình, điều này đã cản trở cho việc lưu thông tiền tệ lúc bấy giờ. Như một lẽ tự
nhiên, nhu cầu cần có một loại tiền thống nhất của công chúng bắt đầu xuất hiện. Từ đây,
bắt đầu có sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động của các ngân hàng. Các nước đều chỉ
cho phép các ngân hàng hội đủ điều kiện do nhà nước quy định mới được phát hành
tiền.
Cho đến đầu thế kỷ 20, các ngân hàng phát hành vẫn thuộc sở hữu tư nhân. Từ sau
Chiến tranh thế giới thứ hai, do ảnh hưởng của những bài học kinh nghiệm từ cuộc khủng
hoảng năm 1929-1933 cũng như sự phát triển của các học thuyết kinh tế của Keynes và
Milton Friedman về sự cần thiết của vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh
tế và ảnh hưởng của khối lượng tiền cung ứng đối với các biến số kinh tế vĩ mô, các nước
đã nhận thức được tầm quan trọng phải thành lập một Ngân hàng Trung ương đóng vai
trò quản lý lưu thông tiền tệ, tín dụng và hoạt động của hệ thống ngân hàng trong một
quốc gia.
1.3 Mô hình ngân hàng trung ương
1.3.1 Mô hình NHTW trực thuộc quốc hội ( hay NHTW độc lập với chính phủ)
Mô hình ngân hàng trung ương trực thuộc quốc hội là một mô hình tổ chức ngân hàng
trung ương trong đó ngân hàng trung ương chịu trách nhiệm trước quốc hội. Điều này có
nghĩa là ngân hàng trung ương phải báo cáo với quốc hội về các hoạt động của mình và
quốc hội có thể sa thải các thành viên hội đồng quản trị của ngân hàng trung ương. Mô
hình này được thiết kế để đảm bảo rằng ngân hàng trung ương độc lập với chính phủ và
không thể bị chính phủ gây áp lực để theo đuổi các chính sách có lợi cho chính phủ trong
ngắn hạn nhưng có hại cho nền kinh tế trong dài hạn.
Quan hệ giữa NHTW và chính phủ là quan hệ hợp tác.

Ưu điểm :
NHTW có toàn quyền quyết định việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ mà
không bị ảnh hưởng bởi các áp lực chi tiêu của ngân sách hoặc các áp lực chính trị khác.
Điều này có thể đảm bảo tính ổn định và đối tượng của chính sách tiền tệ.
NHTW có thể linh hoạt thực hiện các biện pháp tiền tệ để phản ánh chính xác và hiệu
quả tình hình kinh tế, giúp duy trì sự ổn định và phát triển bền vững.
NHTW kiểm soát lạm phát một cách hiệu quả, vì họ có khả năng điều chỉnh nguồn
cung tiền tệ và lãi suất mà không phụ thuộc nhiêu vào ngân sách quốc gia. Có thể đưa ra
các quyết định chính sách tiền tệ một cách nhanh chóng vè hiệu quả hơn để ứn phó với
các cú sốc kinh tế.
Giúp tăng cường sự tin cậy của cộng đồng quốc tế vào chính sách tiền tệ của quốc
gia, thuân lợi cho việc thu hút vốn đầu tư vào tạo điều kiện thuân lợi cho thương mại
quốc tế.
Nhược điểm:
Giảm khả năng phối hợp chỉnh sách giữa ngân hàng trung ương và chính phủ. Điều
đó có thể khiến chính phủ khó quản lý nền kinh tế. Nếu chính phủ không thể kiểm soát
chính sách tiền tệ, thì sẽ khó có thể kiểm soát được lạm phát hoặc thất nghiệp.
Có thể dẫn đến sự thiếu trách nhiệm giải trình. Nếu ngân hàng trung ương không
chịu sự kiểm soát của chính phủ, sẽ khó khăn trong việc buộc các ngân hàng trung ương
phải chịu trách nhiệm về các quyết định của mình. Điều đó có thể dẫn đến việc ngân hàng
trung ương đưa ra những quyết định không phù hợp với lợi ích tốt nhất của nền kinh tế.
Vì độc lập với chính phủ nên có thể tình trạng các NHTW không tập trung đủ vào
mục tiêu chính trị của quốc gia, đặt ra khả năng thiếu sự đồng thuận trong xã hội và trong
chính trị quốc gia.
Mô hình độc lập có thể khiến NHTW phải đối mặt với áp lực thị trường mạnh mẽ,
đặc biệt trong những tình huống khẩn cấp, khi có sự phục hồi nhanh chóng cần thiết.
Điều này đòi hỏi sự nhạy bén và linh hoạt trong đối ứng với biến động kinh tế.
Các NHTW theo mô hình này là
- Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ ( FED)
- Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB)
1.3.2 Mô hình NHTW trực thuộc chính phủ.
Mô hình NHTW trực thuộc chính phủ là mô hình trong đó NHTW nằm trong nội
các chính phủ và chịu sự chi phối trực tiếp của chính phủ về nhân sự, về tài chính và đặc
biệt về các quyết định liên quan đến việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ.

Mô hình này được xây dựng trên quan điểm cho rằng chính sách tiền tệ là một bộ
phận của chính sách kinh tế tài chính quốc gia. Theo mô hình này, NHTW là một bộ máy
của Chính phủ, là một cơ quan chức năng của Chính phủ, chịu sự kiểm soát toàn diện của
Chính phủ và thực hiện mọi chính sách thể chế của chính phủ.
Ưu điểm:
Chính phủ có thể dễ dàng phối hợp chính sách tiền tệ với chính sách tài khoá khi ngân
hàng trung ương là một cơ quan của chính phủ. Điều này có thể giúp đảm bảo rằng cả hai
chính sách đều hướng đến cùng một mục tiêu, chẳng hạn như thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế hoặc giảm lạm phát.
Chính phủ có thể ngăn chặn ngân hàng trung ương theo đuổi các chính sách tiền tệ có
thể gây bất ổn cho nền kinh tế. Ví dụ, chính phủ có thể ngăn ngân hàng trung ương giảm
lãi suất xuống mức quá thấp có thể dẫn đến lạm phát.
Chính phủ có thể buôhc ngân hàng trung ương tập trung vào các mục tiêu phát triển
kinh tế, chẳng hạn như tạo việc làm hoặc giảm nghèo. Điều này có thể được thực hiện
bằng cách yêu cầu ngân hàng trung ương đặt mục tiêu lãi suất hoặc tỷ giá hối đoái cụ
thể.
Nhược điểm:
Mối quan hệ chặt chẽ với chính phủ có thể làm giảm đi tính độc lập của ngân hàng
trung ương, đặt ra những thách thức về khả năng thực hiện các chính sách một cách hiệu
quả.
Có thể xuất hiện nguy cơ chính trị can thiệp vào quyết định của ngân hàng trung
ương, đặc biệt trong việc đặt ra chính sách lãi suất và tiền tệ.
Chính phủ có thể sử dụng ngân hàng trung ương để tài trợ thâm hụt ngân sách, dẫn
đến lạm phát. Điều này xảy ra khi chính phủ yêu cầu ngân hàng trung ương in thêm tiền
để mua trái phiếu chính phủ.
Ngân hàng trung ương có thể ít hiệu quả hơn trong việv kiểm soát lạm phát vì nó phải
chịu áp lực từ chính phủ để giữ lãi suất ở mức thấp. Điều này có thể dẫn đến lạm phát cáo
hơn và có thể làm tồn hại đến nền kinh tế.
* Các quốc gia có ngân hàng trung ương trực thuộc chính phủ
- Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc ( PBOC)
- Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ (RBI)
- Ngân hàng Trung ương Brazil ( BCB)
1.4 Lịch sử hình thành:
- Ngân hàng nhà nước Việt Nam được thành lập vào ngày 6 tháng 5 năm 1951, theo
sắc lệnh số 15/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ban đầu, ngân hàng này có tên là
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, với các nhiệm vụ chính là phát hành giấy bạc,
quản lý kho bạc, thực hiện chính sách tín dụng, quản lý ngoại hối và đấu tranh tiền
tệ với thực dân Pháp. Ngày 26/10/1961, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được đổi
tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Đây cũng là ngày truyền thống hàng
năm kỷ niệm thành lập của ngành ngân hàng Việt Nam.Theo sơ lược quá trình
thành lập và phát triển của Ngân hang Nhà nước Việt Nam, có thể chia làm các
giai đoạn chính như sau:
- • Giai đoạn 1945-1954: Đây là thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chính quyền
cách mạng đã phải đối mặt với nhiều khó khăn về tài chính, tiền tệ. Chính phủ đã
kêu gọi nhân dân quyên góp tài chính, phát hành các loại tiền khu vực, công phiếu
kháng chiến, công trái quốc gia, và thành lập Nha tín dụng sản xuất để hỗ trợ sản
xuất nông nghiệp Ngày 6/5/1951, Ngân hang Quốc gia Việt Nam được thành lập
theo sắc lệnh số 15/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- • Giai đoạn 1955-1975: Đây là thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, hoạt động của
Ngân hàng Quốc gia tập trung vào việc quản lý, điều hoà lưu thông tiền tệ, huy
động vốn và cho vay phục vụ phát triển kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, mở
rộng quan hệ thanh toán và tín dụng quốc tế, thực hiện chế độ Nhà nước độc
quyền quản lý ngoại hối. Ngày 26/10/1961, Ngân hang Quốc gia Việt Nam được
đổi tên thành Ngân hang Nhà nước Việt Nam.
- • Giai đoạn 1975-1985: Đây là giai đoạn khôi phục kinh tế sau chiến tranh,
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thực hiện thanh lý hệ thống Ngân hàng của chế
độ cũ ở miền Nam, thu hồi tiền cũ ở cả hai miền Nam-Bắc, phát hành các loại tiền
mới của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Trong giai đoạn này, hệ
thống Ngân hang Nhà nước về cơ bản vẫn hoạt động như là một công cụ ngân
sách, chưa thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ theo nguyên tắc thị trường.
- • Giai đoạn 1986-2000: Đây là giai đoạn đổi mới, Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam đã có những bước chuyển biến quan trọng trong vai trò, chức năng và cơ cấu
tổ chức. Ngân hàng Nhà nước được xác định là cơ quan quản lý nhà nước về tiền
tệ và ngân hàng, có nhiệm vụ điều hành chính sách tiền tệ, quản lý hoạt động của
các tổ chức tín dụng, bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng, phát triển thị trường
tiền tệ và ngoại hối. Ngân hàng Nhà nước cũng đã thực hiện cải cách hệ thống
ngân hàng, tách các nghiệp vụ ngân hàng thương mại ra khỏi Ngân hàng Nhà
nước, thành lập các ngân hàng thương mại nhà nước và cho phép hoạt động của
các ngân hàng thương mại không nhà nước.
- • Giai đoạn 2001-2010: Đây là giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam đã tiếp tục cải cách và nâng cao chất lượng hoạt động, thực
hiện chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá, duy trì sự ổn định
của hệ thống ngân hàng, phát triển thị trường tài chính, tang cường giám sát ngân
hàng, bảo đảm an toàn hệ thống thanh toán, thúc đẩy hội nhập quốc tế trong lĩnh
vực tiền tệ và ngân hàng.
- • Giai đoạn 2011-2020: Đây là giai đoạn đối mặt với nhiều thách thức do tác
động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, biến động của thị trường quốc tế, và
những bất cập trong quản lý kinh tế nội địa. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã
thực hiện các biện pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, cải thiện
thanh khoản của hệ thống ngân hàng, tái cơ cấu ngân hàng thương mại, xử lý nợ
xấu, nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Nhà nước, đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ tohong tin, phát triển thanh toán không dung tiền mặt, thực hiện chuyển
đổi số trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng.

1.5 Các đời thống đốc của ngân hàng nhà nước Việt Nam

Từ khi thành lập, chức danh của người đứng đầu Ngân hàng Quốc gia rồi Ngân hàng Nhà
nước là Tổng giám đốc. Từ tháng 4 năm 1989, chức danh này được gọi là Thống đốc.
Ngân hàng Nhà nước Việt nam đã trải qua các thời kì thăng trầm với 15 vị Thống đốc,
trong đó phải kể đến 3 vị Thống đốc gần nhất là ông Nguyễn Văn Bình, ông Lê Minh
Hưng và bà Nguyễn Thị Hồng.

1. Nguyễn Văn Bình


Nguyễn Văn Bình là một chính khách Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Bộ chính
trị, Bí thư Trung ương Đảng khóa XII, Trưởng ban Kinh tế Trung ương, đại biểu Quốc
hội Việt Nam khóa XIV nhiệm kì 2016–2021 thuộc đoàn đại biểu tỉnh Quảng Bình. Ông
từng là Thống đốc (2011 – 2016), nguyên Trưởng ban chỉ đạo Tây Bắc.

Ông Nguyễn Văn Bình được bổ nhiệm Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
từ tháng 8/2011 sau 3 năm đảm đương vai trò Phó thống đốc. Ở tuổi 50, ông nhậm chức
khi những yếu kém và bất cập của hệ thống ngân hàng vốn dĩ đã tồn tại nhiều năm, giờ
bộc lộ gay gắt hơn dưới tác động của kinh tế vĩ mô bất ổn.

Thị trường ngân hàng lúc ấy giống như một cái chợ, theo cách nói của chính tân
Thống đốc. Lãi suất cho doanh nghiệp vay vượt xa 20% và bản thân các ngân hàng có lúc
vay mượn của nhau tới 30-40%. Trần lãi suất đặt ra có cũng như không vì niêm yết một
đằng, ngân hàng huy động và cho vay một nẻo. Trong khi đó, tình trạng đôla hóa, vàng
hóa trở nên nghiêm trọng hơn khi người dân suy giảm niềm tin vào đồng tiền Việt Nam
cũng như triển vọng kinh tế vĩ mô.

Ông sớm đặt ra 3 mục tiêu cho nhiệm kỳ của mình: giảm lãi suất, dẹp loạn thị
trường vàng - ngoại tệ và tiếp theo là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng và xử lý nợ xấu

Lãi suất hạ “đáy”, tín dụng bật tăng

Giữa năm 2013, sau khi dẹp loạn thị trường vàng, Thống đốc Bình thực thi cơ chế
áp trần lãi suất tiền gửi dưới 6 tháng là 14%, sau hạ xuống 11%, và còn 6% vào năm
2015.

Đồng thời, ông Bình đưa cam kết gây sốc là sẽ “ép” lãi suất cho vay giảm về 15%/năm từ
mức cao tới 20-25%/năm (năm 2012), bằng cách kêu gọi các ngân hàng thương mại tự
nguyện cơ cấu giảm lãi suất nợ vay cũ, áp dụng lãi vay mới không quá 15%/năm, sau đó
giảm tiếp xuống 13%/năm…

Thực tế, các ngân hàng đã đồng loạt giảm lãi suất sau khi lãi huy động giảm sâu, nợ xấu
được xử lý khẩn trương, siết chặt tín dụng và kiểm soát chất lượng nợ vay.

Kết quả là năm 2015, mặt bằng lãi suất đã giảm rất mạnh, chỉ còn 4-5%/năm lãi suất huy
động kỳ hạn ngắn và 5-7%/năm ở kỳ hạn trung và dài. Ở đầu cho vay, lãi suất chỉ khoảng
5-11%/năm và hỗ trợ tích cực cho việc tăng trưởng tín dụng của hệ thống tới 18% năm
qua.

Khi lãi suất giảm xuống “đáy” thì tín dụng của ngân hàng cũng nới dần từng bước. Dòng
vốn có xu hướng lại chảy vào thị trường bất động sản và chứng khoán (tăng hơn 10%),
bên cạnh vốn ưu tiên cho sản xuất, kinh doanh tăng khả quan. Và một lần nữa, trước đề
nghị giảm lãi suất cho vay, Thống đốc Nguyễn Văn Bình lại hứa: lãi suất khó giảm thêm
song sẽ cố gắng giảm 0,3-0,5% đối với lãi suất vay trung và dài hạn trong năm 2016. Và
thêm lời hứa này của Thống đốc, đến giờ có lẽ cũng đã có cơ sở để tin sẽ thực hiện được.

Chính sách tỷ giá trung tâm

Trong giai đoạn 2011-2022, tỷ giá USD/VND biến động trong biên độ hẹp, trung bình
chỉ khoảng 1,5%/năm. Điều này đã giúp giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp và người dân
trong hoạt động sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Bên cạnh đó, NHNN cũng đã chủ động điều hành tỷ giá để hỗ trợ các mục tiêu kinh tế vĩ
mô khác, như kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Ví dụ, trong giai đoạn 2022,
NHNN đã điều chỉnh tỷ giá tăng nhẹ để hỗ trợ ổn định kinh tế vĩ mô trong bối cảnh lạm
phát tăng cao.

Nhìn chung, chính sách tỷ giá trung tâm của ông Nguyễn Văn Bình đã đạt được những
kết quả tích cực, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế.

2. Lê Minh Hưng

Ông Lê Minh Hưng là Thạc sĩ Chính sách công, trình độ lý luận chính trị cao cấp. Ông
từng giữ các chức vụ: Phó Vụ trưởng rồi Vụ trưởng Hợp tác Quốc tế, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam (2002-2011), Ủy viên BCS Đảng, Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Ngan
hàng Nhà nước Việt Nam (2010-2011), Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
(2011-2016).Ngày 28 tháng 12 năm 2016, ông Lê Minh Hưng được Quốc hội phê chuẩn
giữ chức Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Trong thời gian giữ cương vị Thống đốc, ông Lê Minh Hưng đã có những đóng góp quan
trọng trong việc ổn định kinh tế vĩ mô, cải cách hệ thống ngân hàng, phát triển hệ thống
thanh toán, thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt.

Ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát

Trong giai đoạn ông Lê Minh Hưng làm Thống đốc, kinh tế vĩ mô của Việt Nam đã đạt
được những kết quả tích cực, với tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định, lạm phát được kiểm
soát ở mức thấp.

Cụ thể, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2016-2022 đạt 6,5%/năm. Lạm phát
bình quân giai đoạn này đạt 3,47%/năm, thấp hơn nhiều so với giai đoạn 2011-2015
(5,75%/năm).

Cải cách hệ thống ngân hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh

Trong giai đoạn ông Lê Minh Hưng làm Thống đốc, hệ thống ngân hàng của Việt Nam
đã có nhiều cải thiện về chất lượng, an toàn, hiệu quả. Cụ thể, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống
ngân hàng giảm từ 2,95% cuối năm 2016 xuống còn 2,1% cuối năm 2022. Số lượng ngân
hàng thương mại giảm từ 34 ngân hàng năm 2016 xuống còn 31 ngân hàng năm 2022.

Phát triển hệ thống thanh toán, thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt

Trong giai đoạn ông Lê Minh Hưng làm Thống đốc, thanh toán không dùng tiền mặt đã
được phát triển mạnh mẽ. Cụ thể, số lượng giao dịch thanh toán qua thẻ tăng từ 12,8 tỷ
giao dịch năm 2016 lên 16,3 tỷ giao dịch năm 2022. Số lượng người sử dụng internet
banking tăng từ 48,1 triệu người năm 2016 lên 71,3 triệu người năm 2022. Tổng giá trị
thanh toán không dùng tiền mặt tăng từ 10,2 triệu tỷ đồng năm 2016 lên 24,4 triệu tỷ
đồng năm 2022.

Bên cạnh những dấu ấn tích cực, ông Lê Minh Hưng cũng đã để lại những tồn tại, hạn
chế trong công tác điều hành ngân hàng, như:

● Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng vẫn còn ở mức cao, tiềm ẩn rủi ro cho nền
kinh tế.
● Một số ngân hàng yếu kém vẫn chưa được xử lý dứt điểm.

● Một số hoạt động của NHNN còn thiếu công khai, minh bạch.

Tóm lại, ông Lê Minh Hưng là một Thống đốc trẻ, có nhiều đóng góp tích cực trong việc
ổn định kinh tế vĩ mô, cải cách hệ thống ngân hàng, phát triển hệ thống thanh toán, thúc
đẩy thanh toán không dùng tiền mặt. Tuy nhiên, ông cũng còn để lại những tồn tại, hạn
chế cần được khắc phục.

3. Nguyễn Thị Hồng

Bà Nguyễn Thị Hồng sinh năm 1968. Trước khi được bổ nhiệm làm Phó Thống đốc
NHNN, bà Hồng từng đảm nhiệm chức vụ Trưởng Phòng Cán cân thanh toán quốc tế,
Vụ Chính sách tiền tệ, NHNN; Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ, NHNN; Vụ
trưởng Vụ chính sách tiền tệ NHNN. Ngày 12/11/2020, bà được Quốc Hội phê chuẩn
giữ chức Thống đốc NHNN Việt Nam.

Điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, hiệu quả:

⮚ Lãnh đạo NHNN điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, phù hợp với diễn
biến kinh tế vĩ mô, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô
trong bối cảnh dịch COVID-19.
⮚ Chỉ đạo NHNN thực hiện nhiều giải pháp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp
bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, như giảm lãi suất cho vay, cơ cấu lại
thời hạn trả nợ, giải ngân gói hỗ trợ 30.000 tỷ đồng,...

Thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt:


⮚ Tăng cường công tác thanh toán quốc tế, thúc đẩy thanh toán không dùng
tiền mặt, hướng đến mục tiêu đưa Việt Nam trở thành trung tâm tài chính
khu vực.
⮚ Chỉ đạo triển khai nhiều giải pháp thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt,
như: Hệ thống thanh toán quốc gia (NAPAS), QR Code thanh toán, Ví điện
tử,...

Đổi mới, sáng tạo, ứng dụng công nghệ:

⮚ Chú trọng đổi mới, sáng tạo, ứng dụng công nghệ vào hoạt động của
NHNN, nâng cao hiệu quả quản lý, giám sát ngân hàng.
⮚ Chỉ đạo triển khai nhiều dự án ứng dụng công nghệ, như: Hệ thống Core
Banking, Hệ thống giám sát an toàn hoạt động ngân hàng,...

Nâng cao vị thế của NHNN và Việt Nam trên trường quốc tế:

⮚ Tham gia tích cực vào các diễn đàn quốc tế về tài chính, tiền tệ, nâng cao vị thế
của NHNN và Việt Nam trên trường quốc tế.
⮚ Đại diện Việt Nam tham gia các hội nghị, tổ chức quốc tế về tài chính, tiền tệ,
như: Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB),...

Ngoài ra, bà còn được đánh giá cao bởi:

⮚ Trí tuệ, bản lĩnh, quyết đoán trong lãnh đạo, điều hành NHNN.

⮚ Cách làm việc chuyên nghiệp, khoa học, hiệu quả.

⮚ Luôn quan tâm, lắng nghe ý kiến của các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp.

Với những đóng góp to lớn cho ngành ngân hàng và nền kinh tế đất nước, Thống đốc
Nguyễn Thị Hồng được nhận nhiều phần thưởng cao quý, trong đó có Huân chương Lao
động hạng Nhất.

1.6 Chức năng của ngân hàng trung ương.


1.6.1 Ngân hàng của chính phủ
Chức năng phát hành tiền và điều tiết lưu thông tiền tệ
Đây là chức năng cơ bản và quan trọng nhất của NHTW. Thực hiện chức năng này có
thể ảnh hưởng đến mọi mặt hoạt động của đời sống kinh tế-xã hội. NHTW là cơ quan độc
quyền phát hành tiền mặt (gồm tiền giấy và tiền kim loại). Thông qua chức năng này,
ngân hàng trung ương có thể tác động và ảnh hưởng đến tiền tệ quốc gia, từ đó ảnh
hưởng đến các yếu tố vĩ mô của nền kinh tế.

Vậy nên việc phát hành tiền được tập trung tuyệt đối vào NHTW theo chế độ nhà
nước nắm độc quyền phát hành tiền. Trong luật ngân hàng nhà nước có ghi rõ: “Ngân
hàng nhà nước là cơ quan duy nhất phát hành tiền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam bao gồm tiền giấy và tiền kim loại”.

Ngoài việc phát hành tiền để đảm bảo cho sự vận động của hàng hóa thì Ngân hàng
trung ương còn có thể phát hành tiền để cho ngân sách vay, tham gia bình ổn thị trường
hối đoái,…Do việc phát hành tiền có ảnh hưởng rộng lớn đến lưu thông tiền tệ của đất
nước, nên đòi hỏi công việc phát hành phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Đồng
thời việc phát hành tiền phải đi đôi với việc điều tiết lưu thông tiền tệ, nhằm đảm bảo
cung ứng một khối lượng tiền phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế (khối lượng tiền vừa
đảm bảo cung ứng đủ phương tiền lưu thông vừa không gây ra lạm phát).

NHTW điều tiết khối lượng tiền cung ứng qua 4 kênh:
Kênh ngân sách Nhà nước: NHTW phát hành tiền cho ngân sách Nhà nước vay
để xử lí bội chi do chỉ tiêu vượt mức.
Kênh Ngân hàng thương mại: NHTW cho vay để bù đắp thiếu hụt trong thanh
toán với các hình thức chiết khấu hay tái chiết khấu các giấy tờ có giá hoặc cho vay
có bảo đảm trong các giấy tờ có giá.
Kênh thị trường mở: NHTW tham gia mua bán các chứng khoán ngắn hạn trên
thị trường mở nhằm chủ động điều hòa lưu lượng tiền mặt cho phù hợp với nhu cầu
của nền kinh tế.
Kênh thị trường ngoại hối: NHTW sử dụng nguồn vàng và ngoại tệ dự trữ nằm
trong kho bạc của Chính phủ để tham gia mua bán trên thị trường vàng và ngoại tệ
nhằm ổn định giá trị của đồng tiền, ổn định tỷ giá đồng thời làm tăng dự trữ quốc gia.

1.6.2Ngân hàng của các tổ chức tín dụng.

Ngân hàng trung ương được gọi là ngân hàng của các ngân hàng bởi ngân hàng
trung ương không trực tiếp tham gia vào việc kinh doanh tiền tệ và tín dụng cá nhân mà
chỉ thực hiện các nhiệm vụ ngân hàng với các ngân hàng trung gian.

Mở tài khoản và nhận tiền gửi và bảo quản tiền tệ cho các ngân hàng trung gian: các
ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng sẽ không sử dụng hết nguồn vốn của mình
để cho vay mà sẽ giữ lại một khoản nhất định để đảm bảo khả năng thanh toán. Khoản
tiền này được gửi cho NHTW bảo quản.

Cung cấp tín dụng cho các NHTM và các TCTD: Hoạt động này của NHTW nhằm
đảm bảo cung ứng cho nền kinh tế có đủ phương tiện thanh toán trên cơ sở thực hiện các
chính sách tiền tệ. Trong trường hợp này, NHTW đóng vai trò là người chủ nợ và là
người cho vay cuối cùng, do đó nghiệp vụ cấp tín dụng của NHTW cho các ngân hàng
thương mại có ý nghĩa quyết định đối với hoạt động tín dụng của cả nền kinh tế.

Trung gian thanh toán giữa các ngân hàng trung gian: Với việc nhận tiền gửi và cấp
tín dụng cho các ngân hàng thương mại, NHTW đã trở thành trung tâm tín dụng của cả
nền kinh tế, trung tâm thanh toán giữa các ngân hàng thương mại. Với tư cách đó,
NHTW đứng ra tổ chức thanh toán bù trừ hay thanh toán từng lần giữa các ngân hàng
thương mại. Nhờ hoạt động thanh toán này của NHTW mà quá trình chu chuyển thanh
toán của nền kinh tế mới phát triển thuận lợi.

2.CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

2.1 Khái niệm của chính sách tiền tệ

Chính sách tiền tệ theo nghĩa thông thường: chính sách liên quan đến khối lượng tiền tệ
cung ứng tăng thêm trong thời kì tới (thường là 1 năm) phù hợp với mức tăng trưởng kinh
tế dự kiến và chỉ số lạm phát nếu có, đồng thời nhằm ổn định tiền tệ và giá cả hàng hoá.

Chính sách tiền tệ theo nghĩa rộng: chính sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền tệ trong
nền kinh tế quốc dân nhằm mục tiêu cơ bản là ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh tế và tạo
công ăn việc làm.

Chính sách tiền tệ là hệ thống các quan điểm, các chủ trương và biện pháp. của Nhà nước
pháp quyền, là một bộ phận của chính sách kinh tế tài chính của một quốc gia và là công
cụ quản lí kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Thông qua việc cung ứng những phương tiện
thanh toán cần thiết cho nền kinh tế và tạo ra những khuôn khổ pháp lí cho các hoạt động
tiền tệ trong nước, NHTW nhằm tác động và điều chỉnh các hoạt động tiền tệ - tín dụng
ngân hàng và ngoại hối, tạo ra sự ổn định của lưu thông tiền tệ để thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế quốc dân.

2.2 Phân loại chính sách tiền tệ

Dựa vào các công cụ điều tiết tiền tệ, chúng ta có thể phân chia thành hai loại sau:

Chính sách mở rộng


Chính sách này được thực thi khi Ngân hàng Nhà nước quyết định tăng mức cung tiền
cho toàn bộ nền kinh tế bằng cách áp dụng riêng lẻ hoặc kết hợp việc hạ lãi suất chiết
khấu, tăng hoạt động mua trên thị trường chứng khoán và giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc tại
hệ thống các ngân hàng.

Sau khi áp dụng chính sách tiền tệ mở rộng, lãi suất tín dụng giảm, doanh nghiệp được hỗ
trợ vay vốn nhiều hơn để mở rộng hoạt động kinh doanh. Ngoài ra, sức mua trên thị
trường cũng tăng, nhu cầu hàng hóa và dịch vụ tăng, tỷ lệ thất nghiệp giảm do các doanh
nghiệp tuyển dụng nhiều nhân sự để đáp ứng nhu cầu thị trường.

Do đó, chính sách tiền tệ mở rộng được Nhà nước áp dụng chủ yếu trong giai đoạn kinh
tế suy thoái, nhằm cân bằng lại toàn bộ nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng bền vững.

Chính sách tiền tệ thắt chặt

Chính sách này còn có tên gọi là chính sách tiền tệ thắt chặt, được áp dụng trong giai
đoạn lạm phát tăng cao, khó kiểm soát. Ngân hàng Nhà nước sẽ giảm mức cung tiền tệ ra
ngoài thị trường, tăng lãi suất chiết khấu và tỷ lệ dự trữ bắt buộc tại các Ngân hàng, thúc
đẩy bán chứng khoán trên sàn giao dịch.

Khi lãi suất tăng cao, doanh nghiệp sẽ giảm các hoạt động vay vốn, sức mua trên thị
trường giảm nhiệt, giúp nền kinh tế trở lại trạng thái cân bằng.

2.2 Mục tiêu của Chính sách tiền tệ quốc gia

2.2.1. Mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ quốc gia

Các mục tiêu của chính sách tiền tệ sẽ có sự khác nhau tuỳ theo đặc điểm và tình hình
kinh tế của từng quốc gia, nhưng đều phải gắn liền với mục tiêu chung của quốc gia. Về
cơ bản NHTW các nước đều có mục tiêu sau:

Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, gia tăng sản lượng:

Sự tác động vào quá trình phát triển kinh tế, gia tăng sản lượng do nhiều yếu tố khác nhau
và rất phức tạp, tuy nhiên có một điều chắc chắn là: muốn kinh tế tăng trưởng thì nhất
thiết phải thực hiện tái sản xuất mở rộng trên cơ sở khai thác triệt để các nguồn vốn tiềm
năng cả trong và ngoài nước. Vì vậy trong mục tiêu này thì vai trò của ngân hàng rất quan
trọng. Với vai trò là trung tâm tín dụng, dưới sự chỉ đạo của NHTW thông qua chính sách
tiền tệ, các ngân hàng sẽ huy động một cách triệt để các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi
trong xã hội, trên cơ sở phan phối lại cho các đơn vị kinh tế để sử dụng. Vì vâyj chính
sách tiền tệ góp phần khuyến khích mở rộng các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước,
cân bằng cán cân thanh toán.

Ổn định việc làm cao và ổn định trật tự xã hội:


Khi nền kinh tế được mở rộng và phát triển thì việc làm được tạo ra nhiều hơn, thất
nghiệp giảm và ngược lại. Nhà kinh tế học Arthur Okun đã phát hiện ra một quy luật
rằng: Khi GNP thực tế giảm 2% so với GNP tiềm năng, thì mức độ thất nghiệp tăng 1%.
Như vậy nếu GNP thực tế bắt đầu bằng 100% tiềm năng và sau đó giảm xuống 98%
GNP tiềm năng thì tỷ lệ thất nghiệp tăng x% lên (x+1)%. Nói một cách tổng quát, hiện
tượng suy thoái kinh tế theo chu kì sẽ làm cho tỷ lệ thất nghiệp gia tăng.

Trong nền kinh tế thị trường, khi sức lao động trở thành hàng hoá thì hiện tượng thất
nghiệp là một hện tượng tất yếu xảy ra. Do vậy tạo công ăn việc làm là một yêu cầu bức
thiết và thường trực của các quốc gia. Những phân tích trên cho thấy vai trò quan trọng
của NHTW vận dụng các công cụ của mình góp phần tăng cường đầu tư mở rộng sản
xuất – kinh doanh, tham gia tích cực vào việc chống suy thoái kinh tế, tạo ra sự tăng
trưởng và khống chế tỷ lệ thất nghiệp không vượt quá tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.

Ổn định giá cả, kiểm soát tỷ lệ lạm phát

Thường thì lạm phát vừa phải là mục tiêu phấn đấu của các NHTW trong vấn đề kiểm
soát lạm phát, vì theo kết quả nghiên cứu được công bố năm 1960 của nhà kinh tế học
người Mỹ, A.W.Phillips thì lạm phát và thất nghiệp tỷ lệ nghịch với nhau. Cụ thể, cứ
giảm 1% lạm phát thì tỷ lệ thất nghiệp tăng 2%, mặt khác mức lạm phát quá thấp thì kinh
tế dễ rơi vào tình trạng suy thoái. Mà tăng trưởng kinh tế, khống chế thất nghiệp và kiểm
soát lạm phát đều là mục tiêu cần đạt đến của chính sách tiền tệ. Mục tiêu ổn định giá cả,
kiểm soát lạm phát ở mức độ vừa phải nhằm tạo ra tác dụng tích cực cho việc phát triển
kinh tế xã hội ổn định bền vững thường là mục tiêu ưu tiên.

Rõ ràng sự phối hợp ba mục tiêu: Tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm và kiểm soát
lạm phát là rất quan trọng. Bởi vì không phải cùng một lúc cả ba mục tiêu đó đều có thể
đạt được mà không có sự mâu thuẫn với nhau. Thực tế cho thấy, nếu để đạt được mục
tiêu kiềm chế lạm phát thì sẽ làm giảm mục tiêu tăng trưởng kinh tế, tăng thất nghiệp.
Ngược lại, nếu đặt mục tiêu mở rộng đầu tư phát triển sarn xuất thì nguy cơ lạm phát lại
sẽ gia tăng. Vì vậy, việc khắc phục các mâu thuẫn trên cần căn cứ vào chủ trương phát
triển kinh tế xã hội của từng quốc gia trong từng thời kì để ưu tiên lựa chọn một mục tiêu
cơ bản lamf định hướng.

2.2.2. Mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ quốc gia

Mục tiêu trung gian là các chỉ tiêu được NHTW lựa chọn để đạt được mục tiêu cuối cùng.
Các mục tiêu này không được kiểm soát trực tiếp bởi NHTW.

Điều kiện để lựa chọn mục tiêu trung gian là:

⮚ Có thể đo lường được;


⮚ Có thể tác động được;

⮚ Có liên hệ chặt chẽ với mục tiêu cuối cùng;

Ví dụ: Tổng khối lượng tiền cung ứng (M1, M2 hoặc M3)

2.2.3 Mục tiêu hoạt động của chính sách tiền tệ quốc gia

Ngoài các mục tiêu trung gian hoạt động trong quá trình hoạt động, NHTW các nước còn
xây dựng thêm các mục tieuenhoajt động phục vụ cho các hoạt động điều hành tiền tệ
trong ngắn hạn. Mục đích nhằm sử dụng các mục tiêu này để thăm dò tác động của thị
trường, trước khi quyết định chọn các mục tiêu trung gian chính thức.

Tiêu chuẩn lựa chọn mục tiêu hoạt động gắn liền với sự lựa chọn mục tiêu trung gian. Ví
dụ: Tổng lượng dự trữ của ngân hàng, lãi suất thị trường liên ngân hàng, lãi suất trái
phiếu Chính phủ,…

2.2.4. Công cụ cơ bản của chính sách tiền tệ

2.2.4.1. Nghiệp vụ thị trường mở (Open market)

Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua bán giấy tờ có giá (GTCG) giữa NHTW và
các tổ chức tín dụng (TCTD). Đây là nghiệp vụ thường xyên được sử dụng nhất của
NHTW.

Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ có tính linh hoạt cao cả về khối lượng lẫn thời
gian, các nghiệp vụ mua bán thực hiện nhanh chóng có thể điều chỉnh sai sót dễ dàng,
qua đó làm thay đổi tổng tài sản có trong tay của công chúng.

Cơ chế tác động:

⮚ Khi muốn tăng cung ứng tiền NHTW sẽ mua chứng khoán trên thị trường và tăng
tiền trong tài khoản ngân hàng.
⮚ Khi muốn giảm cung ứng tiền NHTW sẽ bán chứng khoán trên thị trường và giảm
tiền trong tài khoản ngân hàng.

2.2.4.2. Lãi suất chiết khấu

NHTW thực hiện vai trò là người cho vay cuối cùng nhằm cứu nguy cho các NHTM khi
cần thiết. Đây là công cụ được NHTW các nước sử dụng khá sớm để điều hòa lưu thông
tiền tệ, bằng cách đưa ra các quy định về tỷ lệ chiết khấu và các điều kiện vay chiết khấu
các giấy tờ có giá của các NHTM tại NHTW.

Cơ chế tác động:

⮚ Tăng lãi suất chiết khấu làm giảm nhu cầu vốn của NHTM và giảm cung tiền.

⮚ Giảm lãi suất chiết khấu làm tăng nhu cầu vốn của NHTM và tăng cung tiền.

2.2.4.3. Dự trữ bắt buộc

Là số tiền NHTM bắt buộc phải duy trì trên tài khoản tại NHTW. Được xác định bởi tổng
số dư tiền gửi tại NHTM. Dự trư bắt buộc mang tính cưỡng bức dưới ba hình thức tiền
mặt tại quỹ, tiền gửi bắt buộc tại NHTW, dự trữ vượt quá. Đây là công cụ có ảnh hưởng
trực tiếp đến khối lượng tín dụng nhằm hạn chế khả năng tạo tiền của các NHTM thông
qua bút tệ.

Cơ chế tác động:

Khi NHTW tăng hay giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm giảm hay tăng tương ứng khối
lượng tín dụng của các NHTM đồng thời cũng ảnh hưởng đến giá cả của tín dụng và khả
năng tạo tiền của hệ thống NHTM.

Khi lạm phát xảy ra, NHTW sẽ bắt buộc các NHTM phải tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, kéo
theo làm tăng tiền gửi vào tài khoản tại NHTW. Dự trữ bắt buộc sẽ làm giảm hệ số nhân
tiền, qua đó giảm khối lượng tiền có thể cho vay tối đa của hệ thống NHTM, giảm khối
lượng tiền đưa vào lưu thông. Để gia tăng tác dụng, NHTW có thể mở rộng đối tượng và
thời hạn các khoản tiền gửi phải tiến hành dự trữ bắt buộc.

2.2.4.4. Một số công cụ khác

⮚ Tỷ giá hối đoái (Exchange rate)

NHTW có thể can thiệp làm thay đổi tỷ giá hối đoái bằng cách thực hiện các biện pháp
như thay đổi lãi suất, can thiệp ngoại hối, nâng giá hoặc phá giá đồng tiền trong nước.

⮚ Hạn mức tín dụng

Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa NHTW cho phép các NHTM cung cấp cho ra nền
kinh tế, thường trong vòng 1 năm.

2.2.5 Các kênh truyền dẫn CSTT


Cơ chế truyền dẫn tác động của CSTT mang tính khách quan. Cơ chế truyền dẫn CSTT
được xây dựng dựa trên cách tiếp cận các nhân tố ảnh hưởng đến cầu tiền tệ thông qua hệ
thống “kênh truyền dẫn” bao gồm: kênh lãi xuất, kênh tài sản, kênh tỷ giá hối đoai kênh
tín dụng.

2.2.5.1. Tác động qua kênh lãi suất

Khi cung tiền tăng làm cho mức lãi suất giảm, khuyến thích chủ thể nền kinh tế chi tiêu,
đầu tư nhiều hơn. Hơn nữa lãi suất tiết kiệm giảm xuống khiến cho việc gửi tiết kiệm
không còn hấp dẫn nữa, thay vào đó thì tiêu dùng sẽ tăng lên. Đối với khu vực doanh
nghiệp, lãi suất giảm khiến cho các dự án đầu tư hay mở rộng sản xuất kinh doanh vì chi
phí vay vốn ngân hàng giảm. Ngoài ra, với mức lãi suất thấp cũng làm giảm chi phí lưu
trữ vốn lưu động và do đó các vốn lưu động có thể tăng lên.

Nhưng nhu cầu đầu tư chỉ nhạy cảm với lãi suất thực chứ không phải lãi suất danh nghĩa.
Khi có một sự gia tăng tiền cung ứng M, mức giá dự tính P* và mức lạm phát dự tính

* tăng, kéo theo sự giảm xuống của mức lãi suất ir (Hiệu ứng Fisher).

Có thể khái quát ảnh hưởng như sau:

M ↑ → P↑ Π*↑ → ir↓→ I↑ → Y

Xét tác động dưới ảnh hưởng của thu nhập: lãi suất thật giảm xuống, người gửi tiền tiết
kiệm sẽ bất lợi, người đi vay thì được lợi, phân phối thu nhập từ người gửi tiền sang
người vay tiền. Người đi vay sẽ tăng cường đi vay phục vụ tiêu dùng, đầu tư vào các
danh mục, dự án, đầu tư nhằm tăng thu nhập, người tiết kiệmh hạn chế do thu nhập từ lãi
tiền gửi giảm. Tuy nhiên sự giảm chi tiêu thấp hơn nhiều so với nhu cầu đầu tư, tiêu dùng
của người đi vay. Tổng chi tiêu sẽ tăng, GDP tăng lên. Xét về một khía cạnh khác,lãi suất
tiết kiệm không hấp dẫn người gửi tiền thì học sẽ có xu hướng nắm giữa nhiều tài sản tài
chính hơn, giá của các tài sản tài chính sẽ tăng khi lãi suất giảm, tăng thu nhập cho họ,
chỉ tiêu tiêu dùng của họ có thể tăng lên.

2.2.5.2. Tác động qua kênh giá tài sản


Sự thay đổi của mức lãi suất thị trường ảnh hưởng đến giá cả thị trường của các tài sản tài
chính và tài sản thực, ảnh hưởng đến quyết định đầu tư chi tiêu, chủ thể kinh tế quan hệ
giữa lãi suất thị trường và giá cả thị trường là nghịch chiều, lãi suất thị trường giảm sẽ có
sự di chuyển vốn sang các kênh đầu tư vào các tài sản tăng lên, hướng đầu tư, tiêu dùng
tăng lên sẽ làm tăng GDP. Khi lãi suất thị trường tăng sẽ làm giảm GDP. Xem xét ảnh
hưởng của CSTT đến giá cổ phiếu của công ty, thể hiện ở tỉ lệ giữa giá trị thị trường của
công ty với giá thay thế tài sản. Khi NHTW giảm cung tiền sẽ làm cho giá cổ phiếu giảm
bớt vì 2 lí do:

- Khi cung tiền giảm, cá nhân hộ gia đình giảm chi tiêu, các khoản chi tiêu giảm là
giảm việc mua cổ phiếu hoặc trái phiếu dẫn đến giá chứng khoán giảm.
- Với sự giảm xuống của cung tiền có tác động làm lãi suất thị trường tăng, lãi suất
tiết kiệm ngân hàng tăng khuyến khích người gửi ngân hàng hơn là mua chứng
khoán, giá chứng khoáng giảm xuống và ngược lại sự tăng lên của giá cổ phiếu
của công ty có tác dụng nâng cao giá trị công ty trên thị trường.

Sự tăng lên của giá cổ phiếu của công ty nâng cao giá trị của công ty trên thị trường, giá
trị này của công ty có thể cao hơn giá thay thế tài sản, khích thích doanh nghiệp đầu tư
mới vào nhà xưởng, máy móc trang thiết bị… Chỉ số q<1, nhu cầu đầu tư mới của doanh
nghiệp sẽ giảm. có thể khát quát hiệu ứng này như sau:

M↑ → P*↑→ q↑→ I↑→ Y↑

2.2.5.3. Thông qua kênh tỷ giá hối đoái

Thứ nhất, làm thay đổi giá cả tương đối của hàng hoá. Điều kiện cơ chế tỉ giá linh hoạt
khi NHTW sử dụng CSTT mở rộng làm tăng lượng cung tiền đường LM dịch chuyển
sang phải, trong khi đường IS không thay đổi, lãi suất đồng nội tệ giảm xuống lãi suất
trong nước thấp hơn lãi suất nước ngoài, cầu ngoại tệ sẽ tăng, giá danh nghĩa tăng, làm
tăng tỉ giad thực. Nhà đầu tư tìm cách chuyển hướng đầu tự từ tài sản nội tệ sang tài sản
ngoại tệ, đồng nội tệ sẽ giảm giá. giảm giá của đồng nội tệ khiến cho giá của hàng hoá
xuất khẩu tính bằng nội tệ cao hơn, nhu cầu xuất khẩu tăng lên, tổng cầu và sản lượng
tăng. M↑ → i↓→ E↑→ xuất khẩu tăng, nhập khẩu giảm → AD↑→ Y↑

Thứ hai, ảnh hưởng đến giá trị tài sản bằng ngoại tệ trên bảng cân đối của các chủ thể
KT. Biến động về tỉ giá cải thiện hoặc làm xấu đi tình trạng tài chính. Tài sản của các chủ
thể là khoản vay nợ bằng ngoại tệ, khi tỉ giá thay đổi, làm thay đổi giá trị tài sản ròng. Dự
đoán biến động của tỉ giá, đưa ra quyết định chi tiêu của mình. Số quốc gia duy trì tỉ giá
cố định, CSTT có thể tác động tới tỉ giá thực thông qua giá cả trong nước dẫn đến tác
động đến xuất khẩu ròng, mặc dù với mức độ chậm hơn và thấp hơn. Đặc biệt điểm tài
chính của các hộ gia đình, các doanh nghiệp trong từng quốc gia mà CSTT tác động qua
kênh tỉ giá là khác nhau.
2.2.5.4. Tác động của kênh tín dụng:

Trung gian tài chính chủ yếu là ngân hàng đống vai trò quan trọng đối với tài trợ vốn cho
nền KT. Sự mở rộng hay thu hẹp quy mô cho vay của nó quyết định tới quy mô của tổng
cầu, quyết định tới sự tăng trưởng KT. Kênh tín dụng là kênh truyền dẫn ảnh hưởng của
CSTT tới khả năng cách tín dụng của trung gian tài chính. Kênh này truyền dẫn ảnh
hưởng của chính sách tiền tệ qua 2 giác độ là hoạt động tín dụng ngân hàng và sự điều
chỉnh bản tổng kết tài sản. Ở VN, thị trường tài chính chưa phát triển nên tín dụng trở
thành mắc xích trọng yếu trong phát triển KT. Tín dụng trở thành kênh quan trọng trong
sự truyền tải CSTT tới nền KT.

Cơ chế truyền dẫn CSTT đến các mục tiêu vĩ mô phụ thuộc vào các nhân tố khách quan
như mức độ nhạy cảm lãi suất và đầu tư, khả năng độc lập vào nguồn vốn tín dụng của
doanh nghiệp, sự phát triển của thị trường tài chính,… Phải xem xét đầy đủ và toàn diện
ảnh hưởng của các nhân tố trong quá trình truyền dẫn tác động qua các kênh đến nền KT,
trên cơ sở đó lựa chọn được các mục tiêu hoạt động, mục tiêu trung gian và các công cụ
CSTT thích hợp nhăm đạt được mục tiêu chính sách đã đề ra của NHTW.

CÁCH NHÀ NHTW XỬ LÍ NHỮNG YẾU KÉM CỦA TCTD:

Biện pháp Xử lý Các Tổ chức Tín dụng Yếu kém của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Trong quá trình quản lý hệ thống tài chính, việc đảm bảo sự ổn định và an toàn của các tổ
chức tín dụng là một ưu tiên hàng đầu. Đối với Ngân hàng Nhà nước (NHNN) của Việt
Nam, việc xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém là một phần không thể thiếu của nhiệm vụ
giám sát và quản lý. Dưới đây là một cái nhìn tổng quan về các biện pháp cụ thể mà
NHNN có thể áp dụng để giải quyết vấn đề này.

Tăng cường giám sát và đánh giá chất lượng tín dụng:

NHNN thường xuyên thực hiện các cuộc kiểm tra và đánh giá về chất lượng tín dụng của
các tổ chức tín dụng. Trong quá trình này, nếu phát hiện ra sự yếu kém trong quản lý rủi
ro tín dụng hoặc quản lý tài chính, NHNN sẽ đưa ra yêu cầu cụ thể để tổ chức điều chỉnh
và cải thiện quy trình của mình.

Yêu cầu điều chỉnh hoạt động kinh doanh:


Những tổ chức tín dụng có nguy cơ hoặc hiệu suất kém có thể được NHNN yêu cầu điều
chỉnh hoạt động kinh doanh của họ. Điều này có thể bao gồm việc giảm rủi ro bằng cách
giảm phạm vi các hoạt động cho vay, tăng cường kiểm soát nợ xấu hoặc điều chỉnh mô
hình kinh doanh để phù hợp với môi trường kinh doanh hiện tại.

Thúc đẩy tái cơ cấu và tái thiết cấu trúc tổ chức:

Trong trường hợp tổ chức tín dụng gặp khó khăn, NHNN có thể hỗ trợ trong việc tái cơ
cấu hoặc tái thiết cấu trúc tổ chức. Điều này có thể bao gồm sự hỗ trợ trong quá trình sắp
xếp lại nợ, sáp nhập hoặc chuyển nhượng cổ phần để tăng cường vốn và cải thiện quản lý.

Áp đặt biện pháp kỷ luật và phạt:

Trong trường hợp các tổ chức tín dụng vi phạm quy định hoặc không tuân thủ hướng dẫn
của NHNN, các biện pháp kỷ luật như phạt tiền hoặc cấm hoạt động nhất định có thể
được áp dụng.

Thanh tra và giám định:

NHNN có thể tiến hành các cuộc thanh tra hoặc giám định đặc biệt để kiểm tra và đánh
giá hiệu suất và tính đúng đắn của các tổ chức tín dụng.

Thu hồi vốn và xử lý nợ xấu:


Trong trường hợp các tổ chức tín dụng không thể cải thiện tình hình tài chính, NHNN có
thể yêu cầu thu hồi vốn hoặc yêu cầu xử lý nợ xấu để giảm thiểu rủi ro cho hệ thống tài
chính.

Những biện pháp này không chỉ giúp bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng mà còn đảm bảo
hệ thống tài chính hoạt động ổn định và bền vững, điều mà NHNN luôn chú trọng trong
quá trình quản lý và giám sát.

You might also like