Professional Documents
Culture Documents
Phân Tích Đoạn Cuối Của Đất Nước
Phân Tích Đoạn Cuối Của Đất Nước
- ĐN của những con người biết đứng lên đánh giặc để bảo vệ quê hương. Như câu ca dao xưa đã
nhắc:
HỌC VĂN CÙNG CÔ HIỀN 0986943495
Thù này ắt hẳn còn lâu
Trồng tre nên gậy gặp đâu đánh què
- Hình ảnh: Cây tre một lần nữa xuất hiện trong bài thơ:
+ Bài thơ: Cây tre – Thép Mới: “Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín”;
Tre Việt Nam – Nguyễn Duy: “Tre xanh xanh tự bao giờ…” => Biểu tượng cho phẩm chất tốt
đẹp của con người Việt Nam.
+ Truyền thuyết: Thánh Gióng nhổ tre Ngà đánh đuổi giặc Ân.
- Truyền thống đánh giặc giữ nước:
+ Truyền thống quý báu của dân tộc.
+ Đất nước ta có 4000 năm đánh giặc, giữ nước và dựng nước.
Đất nước được làm nên từ trong những phẩm chất của người VN, từ những truyền thống
yêu nước, đấu tranh tốt đẹp ngàn đời của dân tộc. ĐN của những con người không quản
ngại khó khăn, gian khổ, hi sinh mà đấu tranh giành độc lập, tự do.
Mục đích lớn nhất của NKĐ là ĐN được độc lập, non sông tươi đẹp vững bền. Để làm
nên điều kì diệu ấy cần công sức thậm chí máu xương của biết bao con người không quản
ngại gian khổ, hi sinh.
* Bốn câu thơ cuối:
Không phải ngẫu nhiên nhà thơ chọn hình ảnh kết thúc đoạn thơ là hình ảnh dòng sông với đầy
những ẩn ý.
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Dòng sông ngàn năm vẫn trôi chảy như ĐN vẫn ngàn đời phát triển. Không biết rõ dòng sông bắt
nguồn từ đâu cũng như không ai hiểu rõ cặn kẽ cội nguồn đn, nhưng chỉ hiểu rằng khi về đất nước mình
thì bắt lên câu hát, có niềm say hoan lạc, vui ca. Tiếng hát ấy ngân nga trong giọng hát của người chèo đò,
kéo thuyền vượt thác:
Hình ảnh thơ gợi chiều sâu liên tưởng: Khi “chèo đò” là những lúc dòng sông lịch sử của đất nước
bình yên. Đó là những tháng ngày dựng xây đất nước.
Khi “kéo thuyền vượt thác” phải chăng là những chặng đường gian nan và khó khổ hơn nhiều. Đó là
lúc dân tộc chịu áp bức của bọn xâm lăng, nhân dân phải gồng mình chiến đấu bảo vệ đất nước. Nhưng
niềm tin vào sức mạnh của nhân dân đã cho ta có quyền lạc quan và tự hào như nhà thơ Tố Hữu từng viết:
“Thác, bao nhiêu thác cũng qua
Thênh thênh là chiếc thuyền ta trên đời”
Sau dòng lịch sử ấy, Đn theo khúc hát ngân nga gợi lên trăm sắc màu trên trăm dáng sông xuôi đang ngày
đêm miệt mài chảy.
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi
Trăm sắc màu lộng lẫy trên dòng sông của dân tộc, phải chăng đó là những phẩm chất, truyền
thống tốt đẹp của người dân Việt Nam đang tỏa sáng lung linh. Sắc màu của dân tộc được làm nên từ sắc
màu của lịch sử và nhân dân. Mỗi con người là một mảnh ghép làm nên vẻ đẹp non sông. Chính điều này
tạo nên vẻ đẹp, sức mạnh và sự cuốn hút của dân tộc Việt Nam trong niềm tự hào vô bờ của nhà thơ. Câu
thơ cũng vẽ ra viễn cảnh tương lai tươi sáng của ĐN. Đó là niềm tin tất thắng vào cách mạng. Trong bối
cảnh này, niềm tin ấy tiếp thêm sức mạnh cho nhân dân, đất nước trong cuộc chiến với kẻ thù.
B4: Kết luận nội dung:
- Cả đoạn thơ là quan điểm, góc nhìn của tác giả dưới góc độ Văn hóa. Đất nước được làm nên,
bắt nguồn và hình thành từ truyền thống văn hóa lâu đời và tốt đẹp của nhân dân. Đất nước có
trong tình làng nghĩa xóm, có trong tình yêu quê hương đất nước với lối sống ân nghĩa, ân tình;
HỌC VĂN CÙNG CÔ HIỀN 0986943495
đất nước có trong truyền thống yêu nước, đánh giặc; đất nước được viết lên từ bản hùng ca của
dân tộc qua ngàn đời…
- Bốn câu thơ cuối đoạn là lời tổng kết hành trình lịch sử của dân tộc từ quá khứ, hiện tại và
tương lai. Dòng sông lịch sử với bao khúc quanh khi hòa bình yên ả, khi lắm thác nhiều ghềnh.
Nhưng lúc nào nhân dân ta vẫn vững niềm tin và tương lai tươi sáng lấp lánh trăm sắc màu của
độc lập, tự do.
B5: Khái quát nghệ thuật
- Tác giả lựa chọn thể thơ tự do, phóng khoáng không bị bó buộc về số chữ trong một câu, số câu
trong một bài vừa tạo ra nét độc đáo về hình thức cho bài thơ, vừa là cơ hội để dòng chảy của
cảm xúc được phát triển một cách tự nhiên.
- Sử dụng các chất liệu văn hóa dân gian với đa dạng các thể loại: từ phong tục - tập quán sinh
hoạt của nhân dân đến các thể loại của văn học dân gian như cadao - dân ca, truyện cổ tích,
truyền thuyết, sự tích,...Điều đặc biệt là tác giả sử dụng một cách sáng tạo, không trích dẫn
nguyên văn mà chỉ trích một vài từ nhưng người đọc cũng có thể hiểu về thi liệu dân gian ấy.
- Giọng thơ trữ tình - chính luận, là sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của
người trí thức về đất nước và con người.