Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 10

PHÂN TÍCH: Nội dung xử phạt không đúng với bản chất của hành vi vi phạm

quy định của pháp luật về hành vi đó và mức xử phạt không phù hợp.

Thứ nhất, Đoàn thanh tra thuộc Sở thanh tra tỉnh G.L lập Biên bản vi phạm hành
chính đối với bà Nguyễn Thị Tuyết (chủ cơ sở kinh doanh nhà trọ Hoàng Lan) là SAI
bởi:

Tại biên Bản vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch số
11/BB-VPHC ngày 23/12/2013 của Đoàn thanh tra tỉnh GL, đã kết luận:

"Tại thời điểm kiểm tra nhà trọ Hoàng Lan phòng số 11 có ông nguyễn Văn Thường
và bà Nguyễn Thị Lành không có Giấy kết hôn đang quan hệ vợ chồng (quan hệ tình
dục); phòng số 9 có ông Phan Văn và bà Nguyễn Thị Thùy không có Giấy kết hôn đang ở
chung phòng xem ti vi;

Tại thời điểm kiểm tra tại phòng số 11 chủ cơ sở kinh doanh phòng trọ Hoàng Lan
không vào sổ bà Nguyễn Thị Lành.

Kết luận chủ cơ sở nhà trọ Hoàng Lan thiếu tinh thần trách nhiệm để xảy ra hành vi
vi phạm như trên.”

Căn cứ quy định tại điểm e khoản 2 Điều 6 Thông tư 33/2010/TT-BCA quy định:

“Người đến lưu trú có trách nhiệm xuất trình một trong các loại giấy tờ sau:
Chứng minh nhân dân; Hộ chiếu; các loại giấy tờ có dán ảnh do các cơ quan quản lý
Nhà nước Việt Nam cấp; giấy xác nhận cử đi công tác của cơ quan, tổ chức; xác nhận
của cơ quan đến liên hệ công tác; xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
nơi cư trú.”

Như vậy, Giấy đăng ký kết hôn không phải là một trong các giấy tờ mà người đến
lưu trú cần phải xuất trình khi lưu trú tại nơi cho thuê lưu trú.

Do đó, việc Đoàn thanh tra ghi nội dung vi phạm đối với việc ông Thường và bà
Lành, ông Phan Văn, bà Thùy không có Giấy đăng ký kết hôn là không đúng theo quy
định của pháp luật.

Thứ hai, tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể
thao và du lịch số 23/QĐ-XP ngày 10/4/2014 của ông Trần Ngọc Minh, Phó giám đốc,
kiểm Chánh thanh tra Sở văn hóa, thể thao và du lịch ra quyết định xử phạt đối với bà
Tuyết với lý do:

1
”Đã có hành vi vi phạm hành chính: thiếu tinh thần trách nhiệm tạo điều kiện cho
người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự để tổ chức hoạt
động mại dâm”
Căn cứ tại Điều 3 Pháp lệnh số 10/2003/PL-UBTVQH11 về phòng chống mại dâm
quy định:
“1. Bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền
hoặc lợi ích vật chất khác.
2. Mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người
bán dâm để được giao cấu.
3. Mại dâm là hành vi mua dâm, bán dâm.”
Đối chiếu với quy định của pháp luật, có thể thấy rằng tại thời điểm Đoàn thanh tra
kiểm tra phòng số 11 và số 09 của nhà trọ Hoàng Lan, Đoàn thanh tra không thu giữ được
các chứng cứ chứng minh có việc mua dâm hay bán dâm tại nhà trọ Hoàng Lan.

Cụ thể trong Biên bản vi phạm hành chính số 11/BB-VPHC không thể hiện có xảy
ra hành vi mua bán dâm giữa các khách thuê phòng là ông Nguyễn Văn Thường và bà
Nguyễn Thị Lành ở phòng số 11, ông Phan Văn và bà Nguyễn Thị Thùy ở phòng số 9.
Mặt khác, cho đến thời điểm ra Quyết định số 23/QĐ-XPHC, các cơ quan có thẩm quyền
cũng không thu thập được bất kỳ chứng cứ nào khác chứng minh có xảy ra hành vi mua
dâm, bán dâm ở nhà trọ Hoàng Lan tại thời điểm kiểm tra.

Theo quy định tại điểm đ, khoản 1, Điều 3, Luật xử lý vi phạm hành chính thì
nghĩa vụ chứng minh vi phạm hành chính thuộc về người có thẩm quyền xử phạt. Cụ thể,
việc Chánh thanh tra Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch tỉnh G.L dựa trên việc bà Tuyết
không cũng cấp các tài liệu chứng minh không xảy ra hành vi vi phạm để xử phạt bà
Tuyết lầ không có căn cứ. Ông Trần Ngọc Minh, Phó giám đốc, kiêm Chánh thanh tra Sở
văn hóa, thể thao và du lịch chỉ căn cứ vào việc “ông nguyễn Văn Thường và bà Nguyễn
Thị Lành không có Giấy kết hôn đang quan hệ vợ chồng (quan hệ tình dục); phòng số 9
có ông Phan Văn và bà Nguyễn Thị Thùy không có Giấy kết hôn đang ở chung phòng
xem ti vi” để xác định đây là hành vi mua bán dâm là không đủ căn cứ để chứng minh,
thể hiện sự quy chụp, thiếu sự phân tích, tư duy dẫn đến việc vi phạm nghiêm trọng trong
hoạt động xử lý vi phạm hành chính.

Do vậy, tôi khẳng định tại thời điểm 21 giờ 10 phút ngày 23/12/2013 tại nhà trọ
Hoàng Lan không có hành vi mua bán dâm.

Thứ ba, tại Biên bản lấy lời khai ngày 18/6/2014 (Bút lục số 46) Phó chánh thanh
tra Sở văn hóa, thể thao và du lịch tỉnh G.L căn cứ quy định tại "Nghị định 72/NĐ-CP

2
ngày 03/9/2009 và Thông tư hướng dẫn của Bộ Công an số 33 ngày 05/10/2010 thì nghề
cho thuê lưu trú phải bố trí phòng nghỉ nam riêng, nữ riêng trừ trường hợp gia đình là vợ
chồng. Đối với trường hợp của bà Tuyết sau khi lập biên bản vi phạm thì đã tạo điều kiện
cho bà Tuyết có thời gian để cung cấp giấy tờ chứng minh các cặp nam nữ thuê chung
phòng là vợ chồng nhưng qua 3 lần làm việc bà Tuyết đều không cung cấp được. Vì vậy,
hành vi của bà Tuyết là tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh có điều
kiện về an ninh, trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm".

Tại Mục 8.5 phần IV của Thông tư số 02/2001/TT-BCA ngày 04/5/2001 có quy
định "Phải bố trí phòng nghỉ nam riêng, nữ riêng (trừ trường hợp là gia đình, vợ chồng)"
nhưng thông tư này đã hết hiệu lực vào ngày 20/11/2010. Tuy nhiên, Thông tư số
33/2010/TT-BCA ngày 05/10/2010 thay thế Thông tư số 02/2001/TT-BCA ngày
04/5/2001 đã hủy bỏ quy định này. Do đó, bà Tuyết không có trách nhiệm yêu cầu các
khách thuê phòng là ông Nguyễn Văn Thường và bà Nguyễn Thị Lành, ông Phan Văn và
bà Nguyễn Thị Thùy phải chứng minh họ là vợ chồng hợp pháp. Như vậy, việc phòng trọ
cho nam nữ ở chung phòng mà không có giấy đăng ký kết hôn thì không vi phạm pháp
luật về vấn đề này do đó bà Tuyết không có nghĩa vụ cung cấp giấy chứng minh họ là vợ
chồng hợp pháp.

Tại Biên bản làm việc số 11 ngày 9/3/2014 (Bút lục số 27) tại Văn phòng Sở văn
hóa, thể thao và Du lịch tỉnh G.L chỉ được lập 01 bản và cho rằng bà Tuyết đã ký tên thừa
nhận hành vi như Quyết định số 23 nêu ra là không có giá trị pháp lý vì căn cứ vào Điều
58 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2013 thì đây không phải biên bản vi phạm hành
chính theo quy định của pháp luật, biên bản vi phạm hành chính theo quy định phải được
lập tại thời điểm và tại nơi xảy ra vi phạm và phải được lập thành ít nhất 02 bản có giá trị
pháp lý như nhau. Tuy nhiên, tại Biên bản nêu trên chỉ được lập thành 01 bản và cho rằng
việc bà Tuyết có ký các biên bản là đã xác nhận là có hành vi là không có căn cứ. Do đó,
Biên bản làm việc số 11 ngày 9/3/2014 tại văn phòng Sở VHTT-DL tỉnh G.L không có
giá trị pháp lý

Thứ tư, tại Bản tường trình ngày 23/12/2013, ông Nguyễn Văn Thường đã xác
nhận rằng: “Ngày 23/12/2013 tôi có thuê phòng trọ tại nhà nghỉ Hoàng Lan để ở cùng
với vợ tên là Nguyễn Thị Lành. Vợ tôi đang làm việc tại thị trấn Đ.C xuống thăm chồng”.
Anh Phan Văn và chị Nguyễn Thị Thùy cũng đã có Bản tường trình gửi cho Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch có khẳng định: “Hai vợ chồng có đám hỏi rồi nhưng do ông ngoại
mất nên hoãn lại”. Như vậy, ở đây không có hành vi tổ chức hoạt động mại dâm bởi lẽ
không có bên mua dâm cũng không có bên bán dâm, một trong hai bên không bên nào
dùng tiền hoặc lợi ích vật chất để trả cho bên còn lại. Anh Thường và chị Lành, anh Phan
Văn và chị Thùy đều là những vị khách bình thường, có mối quan hệ rõ ràng, trong sáng.
3
Việc Thanh tra sở VHTT và DL kết luận họ có hoạt động mua bán dâm là xâm phạm
nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của họ.

Hơn nữa, nếu thực sự có hành vi tổ chức mua bán dâm tại thời điểm kiểm tra thì
chính những người được đoàn thanh tra xác định là người mua dâm, bán dâm cũng phải
bị lập biên bản vi phạm hành chính về hành vi này. Thế nhưng đến nay, ông Thường, bà
Lành, ông Phan Văn, bà Thùy đều chưa nhận được bất kỳ một quyết định xử phạt hành
chính nào về hành vi mua bán dâm.

Do vậy, Thanh tra sở hoàn toàn không đủ cơ sở khẳng định giữa những vị khách
này có hành vi mua bán dâm. Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XPHC
ngày 10/3/2014 của Chánh thanh tra sở VHTT và DL đối với bà Nguyễn Thị Tuyết với
lý do “thiếu tinh thần trách nhiệm tạo điều kiện cho người khác thực hiện hoạt động mại
dâm” là vô căn cứ, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp cũng như uy tín,
nhân phẩm, danh dự của bà Tuyết.

Thứ năm, từ các phân tích trên có thể thấy rằng cơ sở kinh doanh nhà trọ Hoàng
Lan tại thời điểm kiểm tra không diễn ra hành vi mua bán dâm. Do đó việc ông Trần
Ngọc Minh căn cứ khoản 1 Điều 25 Nghị định 167/2013/NĐ-CP để xử phạt vi phạm với
mức phạt là 15.000.000 đồng đối với hành vi mà bà Tuyết không vi phạm và tại Biên bản
số 11/BB-VPHC ngày 23/12/2013 không đề cập đến vấn đề này là không đúng thực tế
khách quan và quy định của pháp luật.

Bảng hỏi:

Câu hỏi cụ thể


Mục đích/ Người có
Nội dung
Mục tiêu quyền và Người làm
được hỏi NKK NBKK
hỏi nghĩa vụ chứng
liên quan
Luận cứ 1: 1. Xác định - Thanh tra - Đoàn kiểm Hỏi ông
cơ sở kinh Sở văn hóa, tra thanh tra Thường:
doanh của bà thể thao và Sở văn hóa - Ông có
Tuyết không du lịch đến thể thao và quan hệ như
có hành vi cơ sở kinh Du lịch tỉnh thế nào với bà
mua bán doanh của bà G.L căn cứ Nguyễn Thị

4
dâm. kiểm tra, cơ sở nào Lành, người
Việc ban thanh tra về xác định cùng thuê
hành quyết vấn đề gì? hành vi của phòng số 11
định số 23 - Biên bản vi ông Thường, với ông tại
kết luận phạm hành bà Lành, ông nhà trọ
hành vi vi chính được Phan, bà Hoàng Lan
phạm của Đoàn kiểm Thúy là hành ngày
chủ kinh tra Thanh tra vi mua dâm? 23/12/2013?
doanh nhà Sở Văn hóa, - Khi Đoàn
trọ Hoàng Thể thao và thanh tra bất
Lan là không Du lịch lập ngờ kiểm tra,
có căn cứ. vào ngày, anh chị đang
tháng, năm làm gì?
nào? Sau khi - Ông bà đã
lập biên bản, bị cơ quan
bà có được nào lập biên
yêu cầu giải bản và xử
trình bằng phạt về hành
văn bản hoặc vi mua bán
giải trình dâm chưa?
trực tiếp với
thanh tra Sở
Văn hóa ,
Thể thao và
Du lịch
không?
- Theo quy
định pháp
luật về kinh

5
doanh phòng
trọ thì khi
khách đến
thuê phòng
có phải xuất
trình giấy
đăng ký kết
hôn không?
- Bà có ý
kiến gì về
việc Thanh
tra Sở văn
hóa thể thao
và du lịch
cho rằng bà
có hành vi
thiếu trách
nhiệm tạo
điều kiện
cho người
khác lợi
dụng cơ sở
kinh doanh
có điều kiện
an ninh trật
tự tổ chức
hoạt động
mại dâm?

6
- Ông hãy Hỏi người
cho biết làm chứng
Đoàn thanh ông Phan
tra đã kiểm Văn:
tra những - anh và chị
giấy tờ gì đối Thùy có mối
với người quan hệ như
lưu trú tại thế nào?
phòng số 11 - Chánh thanh
và 09 nhà trọ tra sở VHTT
Hoàng Lan? và DL cho
Đoàn thanh rằng việc ông
tra đã áp và bà Nguyễn
dụng quy Thị Thùy
định tại Điều không có giấy
khoản nào để kết hôn ở
kiểm tra chung phòng
Giấy đăng ký xem ti vi là
kết hôn của hành vi mua
khách lưu trú bán dâm và ra
quyết định xử
phạt đối với
bà Tuyết chủ
nhà trọ. Ông
đánh giá thế
nào về kết
luận này?
Luận cứ 2: - Trong vụ Hỏi anh
việc này đã Thường: -

7
xác định Đoàn thanh
được cụ thể tra có yêu cầu
ai là người là anh xuất trình
hành vi bố giấy đăng ký
trí, sắp xếp kết hôn khi
để thực hiện họ kiểm tra
việc mua không?
dâm, bán Anh/chị có ý
dâm? Ai là kiến thế nào
người trả về việc bị cho
tiền, lợi ích là đang mua
vật chất khác bán dâm ở
để mua dâm? nhà trọ
Ai là người Hoàng Lan?
trả tiền, lợi
ích vật chất
khác để bán
dâm chưa?
- Sau khi lập
biên bản xử
phạt số 11
ngày
23/12/2014,
cơ quan có
tiến hành xác
minh việc
giữa anh
Thường và
chị Lành có

8
hành vi mua
bán dâm
không hay
chỉ dựa trên
suy đoán?
Ông có nhận
thức được
hành vi mua
bán dâm là gì
không? Và
có xác định
được yếu tố
nào để cấu
thành hành
vi mua bán
dâm không?
-Tại sao
trong khi
không xác
định được
người tổ
chức hoạt
động mại
dâm, người
mua dâm,
người bán
dâm mà vẫn
xử phạt bà
Tuyết về
hành vi vi
phạm hành
chính:
“Thiếu trách
nhiệm, tạo
điều kiện cho

9
người khác
lợi dụng tổ
chức hoạt
động mại
dâm”.

……

10

You might also like