Professional Documents
Culture Documents
TCC Bài tập nhóm
TCC Bài tập nhóm
ĐỀ TÀI:
THỰC TRẠNG NỢ CÔNG VÀ QUẢN LÝ NỢ CÔNG CỦA VIỆT NAM
Hà Nội – 3/2024
PHÂN CHIA PHỤ TRÁCH NỘI DUNG BÀI TẬP NHÓM
NHÓM 4 – TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP CLC 64D
1
MỞ ĐẦU
Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng mở ra cơ hội và thách thức cho nền kinh tế Việt
Nam. Nhu cầu về nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ngày càng trở nên cấp thiết
nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, nâng cao đời sống người dân. Trong đó, nợ công
là công cụ quan trọng để tài trợ vốn cho nền kinh tế, là nguồn vốn bổ sung cho ngân sách nhà
nước, hỗ trợ cho các hoạt động đầu tư, chi tiêu của Chính phủ và các cơ quan được bảo lãnh.
Nợ công tuy đóng vai trò quan trọng, nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với an toàn
nợ và an ninh tài chính quốc gia, đặc biệt là nợ nước ngoài. Việc quản lý nợ công hiệu quả là
vô cùng quan trọng để đảm bảo khả năng thanh toán nợ, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và tránh
rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ.
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của nợ công, nhóm chúng em lựa chọn đề tài
"Thực trạng nợ công và quản lý nợ công tại Việt Nam" để nghiên cứu và học tập. Với mong
muốn cung cấp những thông tin hữu ích về nợ công, góp phần nâng cao nhận thức về tầm
quan trọng của quản lý nợ công, mục tiêu của đề tài nhằm đưa ra những vấn đề chung của nợ
công, quản lý nợ công; phân tích thực trạng nợ công, đánh giá hiệu quả quản lý nợ công và đề
xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nợ công trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
1
NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NỢ CÔNG
1. Khái niệm và nội dung của nợ công
a. Khái niệm của nợ công
Theo Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), nợ công được
định nghĩa theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng là bao gồm các nghĩa vụ nợ của khu vực
công, bao gồm chính phủ trung ương, chính quyền địa phương, ngân hàng trung
ương và các tổ chức độc lập (nguồn vốn hoạt động do NSNN quyết định hay trên
50% vốn thuộc sở hữu nhà nước, và trong trường hợp vỡ nợ nhà nước phải trả nợ
thay). Còn theo nghĩa hẹp, nợ công bao gồm nghĩa vụ nợ của chính phủ trung ương,
chính quyền địa phương và nợ của các tổ chức độc lập được chính phủ bảo lãnh
thanh toán. Ngoài ra, tùy thuộc thể chế kinh tế và chính trị mà quan niệm về nợ công
ở mỗi quốc gia cũng có sự khác biệt. Tại hầu hết các nước trên thế giới, Luật Quản lý
nợ công đều xác định nợ công gồm nợ của chính phủ và nợ được chính phủ bảo lãnh.
Một số nước, nợ công còn bao gồm nợ của chính quyền địa phương (Đài Loan,
Bungari, Rumani…), nợ của doanh nghiệp nhà nước phi lợi nhuận (Thái Lan,
Macedonia…).
Ở Việt Nam, Luật Quản lý nợ công năm 2009 quy định, nợ công bao gồm nợ
chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Theo đó, nợ
chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài được ký
kết, phát hành nhân danh Nhà nước, Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài
chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính
phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm
thực hiện chính sách tiền tệ. Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh
nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo
lãnh. Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành.
Theo Từ điển Kinh tế học – ĐH Kinh tế Quốc dân, nợ công là nợ quốc gia và
một số khoản nợ khác mà chính phủ phải chịu trách nhiệm trực tiếp hoàn trả, chẳng
hạn các khoản nợ các doanh nghiệp nhà nước. Bài viết này sử dụng định nghĩa nợ
công là tổng giá trị các khoản vay mà các cơ quan nhà nước, bao gồm chính phủ
trung ương, chính quyền địa phương và các quỹ nhà nước, vay từ các tổ chức trong
và ngoài nước để trang trải các khoản chi tiêu ngân sách. Nợ công được xem như
một công cụ tài chính quan trọng giúp chính phủ bù đắp thâm hụt ngân sách, đầu tư
cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo
luật định. Bản chất của nợ công phản ánh sự lựa chọn thời gian đánh thuế của chính
phủ. Thay vì thu thuế ngay trong hiện tại để chi trả cho các khoản chi tiêu, chính phủ
chọn vay nợ và chuyển gánh nặng thuế sang thế hệ tương lai. Do đó, nợ công mang
tính chất liên thế hệ, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế của cả thế hệ hiện tại
và tương lai.
1
b. Các đặc trưng cơ bản của nợ công
Thứ nhất, nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm nợ của Nhà nước. Khác
với các khoản nợ thông thường, nợ công được xác định là một khoản nợ mà Nhà
nước (bao gồm các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) có trách nhiệm trả khoản nợ
ấy. Trách nhiệm trả nợ của Nhà nước được thể hiện dưới hai góc độ trực tiếp và gián
tiếp. Trực tiếp được hiểu là cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ là người vay nợ, do
đó sẽ chịu trách nhiệm trả nợ khoản vay. Ví dụ: Chính phủ Việt Nam vay nợ từ Quỹ
Tiền tệ Quốc tế (IMF) để thực hiện chương trình hỗ trợ kinh tế. Gián tiếp, hay còn
gọi là trách nhiệm bảo lãnh, được hiểu là trong trường hợp cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đứng ra bảo lãnh cho một chủ thể trong nước vay nợ, nếu bên vay không
trả được nợ thì Nhà nước sẽ có trách nhiệm trả nợ thay. Ví dụ: Chính phủ bảo lãnh
cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) vay vốn nước ngoài.
Thứ hai, nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Việc quản lý nợ công đòi hỏi quy trình chặt chẽ đảm
bảo hai mục đích: một là, đảm bảo khả năng trả nợ của đơn vị sử dụng vốn vay và
cao hơn nữa là đảm bảo cán cân thanh toán vĩ mô và an ninh tài chính quốc gia; hai
là, để đạt được những mục tiêu của quá trình sử dụng vốn. Theo quy định của pháp
luật Việt Nam, nguyên tắc quản lý nợ công là Nhà nước quản lý thống nhất, toàn
diện nợ công từ việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay đến việc trả nợ để đảm bảo
hai mục tiêu cơ bản như đã nêu trên.
Thứ ba, mục tiêu cao nhất của việc huy động và sử dụng nợ công là phát triển
kinh tế - xã hội vì lợi ích chung. Nợ công được huy động và sử dụng không phải để
thỏa mãn những lợi ích riêng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào, mà vì lợi ích chung
của đất nước. Xuất phát từ bản chất của Nhà nước là thiết chế để phục vụ lợi ích
chung của xã hội, Nhà nước là của dân, do dân và vì dân nên đương nhiên các khoản
nợ công được quyết định phải dựa trên lợi ích của nhân dân. Chính phủ là cơ quan
đại diện cho Nhà nước, chịu trách nhiệm quản lý và sử dụng nợ công một cách hiệu
quả và minh bạch. Việc sử dụng nợ công không đúng mục đích hoặc không hiệu quả
sẽ dẫn đến lãng phí nguồn lực quốc gia, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội
và gây gánh nặng cho thế hệ tương lai.
2
khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ký kết, phát
hành hoặc ủy quyền phát hành.
3
Thứ nhất, nợ công có tác động tích cực đến nền kinh tế thông qua việc cung
cấp nguồn lực cho chính phủ đầu tư vào cơ sở hạ tầng và hỗ trợ doanh nghiệp cũng
như người dân. Trong bối cảnh nền kinh tế suy thoái, khi nguồn thu từ thuế giảm sút,
việc sử dụng nợ công để bù đắp thâm hụt ngân sách và duy trì các hoạt động chi tiêu
cần thiết trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Đặc biệt, việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng
như đường cao tốc, sân bay không chỉ giảm chi phí vận chuyển mà còn thu hút đầu
tư và thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Đồng thời, các chính sách ưu đãi tín dụng, giảm
thuế được áp dụng để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân cũng góp phần tăng cường
sức mua, thúc đẩy tiêu dùng và sản xuất. Ví dụ rõ nét nhất cho tác động của nợ công
là trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Trong thời điểm khó khăn
đó, nhiều quốc gia lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản đã đề xuất và triển khai các gói kích
thích kinh tế với sự hỗ trợ từ nợ công. Những biện pháp này không chỉ giúp cải thiện
tình hình kinh tế mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc giúp nền kinh tế phục hồi
và phát triển trở lại.
Thứ hai, nợ công còn có thể được sử dụng hướng vào các lĩnh vực mang lại lợi
ích dài hạn như giáo dục, y tế, và nghiên cứu khoa học. Việc đầu tư vào những lĩnh
vực này không chỉ mang lại lợi ích ngay lập tức mà còn tạo ra những tiềm năng phát
triển cho nền kinh tế và cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân trong tương
lai. Đầu tư vào giáo dục và y tế không chỉ đem lại sự phát triển cho con người mà
còn làm tăng cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Trình độ học vấn cao và lao
động sức khỏe tốt không chỉ tạo ra nguồn nhân lực chất lượng mà còn thúc đẩy sự
tiến bộ và đổi mới trong các lĩnh vực kinh doanh và công nghệ. Ngoài ra, việc đầu tư
vào nghiên cứu khoa học cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát
triển và sáng tạo. Qua các dự án nghiên cứu, có thể tạo ra các sản phẩm và dịch vụ
mới, đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trên thị trường quốc tế.
Ví dụ rõ nhất cho việc sử dụng nợ công để đầu tư vào giáo dục và y tế là chính phủ
Singapore. Bằng cách này, họ đã tạo ra một hệ thống giáo dục và y tế hiệu quả, góp
phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân và tạo ra
nguồn nhân lực chất lượng cao, là một trong những yếu tố quan trọng đưa Singapore
trở thành một trong những quốc gia phát triển hàng đầu trên thế giới.
Thứ ba, nợ công giúp chính phủ duy trì sự ổn định trong những tình huống khó
khăn bằng cách tiến hành mua lại trái phiếu chính phủ và hỗ trợ các ngân hàng. Khi
thị trường tài chính gặp phải sự bất ổn, nhà đầu tư thường có thể bán tháo trái phiếu
chính phủ, dẫn đến sự tăng lên của lãi suất và ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân
hàng. Trong tình huống này, chính phủ có thể can thiệp bằng cách mua lại các trái
phiếu này, tạo ra sự ổn định cho thị trường, giảm bớt áp lực lên lãi suất và tăng
cường niềm tin của nhà đầu tư. Ngoài ra, hỗ trợ các ngân hàng cũng là một biện pháp
quan trọng để ổn định hệ thống tài chính. Chính phủ có thể cung cấp các khoản vay
ưu đãi hoặc mua lại các tài sản rủi ro từ các ngân hàng, giúp củng cố hệ thống này và
ngăn chặn khủng hoảng tài chính. Ví dụ, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã thực
hiện việc mua lại một lượng lớn trái phiếu chính phủ trong giai đoạn khủng hoảng tài
4
chính năm 2008, đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định thị trường tài chính và
giảm thiểu tác động tiêu cực của khủng hoảng.
5
ra một gánh nặng khổng lồ cho thế hệ trẻ. Những người trẻ phải chịu trách nhiệm trả
nợ và đối mặt với nhiều khó khăn trong cuộc sống, bao gồm cả việc giảm bớt các cơ
hội phát triển và tiến bộ.
Để giải quyết tình trạng này, việc kiểm soát nợ công ở mức độ hợp lý, sử dụng
nguồn vốn vay hiệu quả, tăng cường thu ngân sách, cắt giảm chi tiêu hợp lý và tái cơ
cấu nợ công để giảm lãi suất là những giải pháp cần được thực hiện. Tóm lại, nợ
công cao và lãi suất cao đều đặt ra những thách thức lớn đối với chính phủ và nền
kinh tế, và việc quản lý nợ công hiệu quả là yếu tố quyết định đối với sự ổn định và
phát triển bền vững.
b. Ý nghĩa
Đối với nền kinh tế, quản lý nợ công hiệu quả đóng vai trò quan trọng trong
việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Nó mang lại nhiều lợi ích
thiết thực cho nền kinh tế như giảm thiểu rủi ro tài chính, nợ công cao tiềm ẩn nguy
cơ vỡ nợ, gây bất ổn cho nền kinh tế. Quản lý nợ công hiệu quả giúp kiểm soát rủi ro
này bằng cách giảm tỷ lệ nợ công trên GDP, kéo dài kỳ hạn nợ, đa dạng hóa nguồn
vay và nâng cao năng lực quản lý nợ; giúp kích thích tăng trưởng kinh tế, nợ công
được sử dụng hiệu quả cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực sản
xuất và thu hút đầu tư trong nước và ngoài nước. Điều này giúp thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, nâng cao GDP, tạo ra việc làm và cải thiện đời sống người dân; đồng thời,
cải thiện hiệu quả hoạt động của chính phủ, quản lý nợ công hiệu quả giúp chính
phủ sử dụng nguồn lực ngân sách một cách hợp lý, minh bạch và hiệu quả. Việc này
6
giúp nâng cao chất lượng dịch vụ công, tăng cường niềm tin của người dân vào chính
phủ và thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Đối với xã hội, tác động của việc sử dụng nợ công cho các lĩnh vực như giáo
dục, y tế và cơ sở hạ tầng không chỉ giới hạn ở mức độ cá nhân mà còn mang lại
những lợi ích to lớn cho xã hội và kinh tế. Trong lĩnh vực giáo dục, việc đầu tư từ nợ
công giúp nâng cao chất lượng giáo dục và mở rộng cơ hội học tập cho mọi người.
Điều này không chỉ cải thiện trình độ học vấn của cả xã hội mà còn tạo ra nguồn
nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu về lao động chất lượng trong môi trường
kinh doanh. Trong lĩnh vực y tế, đầu tư từ nợ công giúp cải thiện chất lượng dịch vụ
y tế, giảm bớt gánh nặng chi phí y tế cho người dân. Việc nâng cao sức khỏe của
cộng đồng không chỉ giúp tăng tuổi thọ mà còn góp phần tăng cường sức khỏe và sự
phát triển bền vững cho nền kinh tế. Cùng với đó, việc sử dụng nợ công cho cơ sở hạ
tầng như giao thông, điện nước cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy
phát triển kinh tế và xã hội. Cơ sở hạ tầng tốt không chỉ cải thiện môi trường sống
mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu, hợp tác và phát triển của cộng
đồng. Tuy nhiên, việc sử dụng nợ công cần được quản lý một cách hiệu quả để tránh
gánh nặng tài chính lớn cho thế hệ tương lai. Điều này đòi hỏi kiểm soát lãi suất ở
mức hợp lý và đảm bảo các khoản đầu tư được thực hiện một cách có hiệu quả, từ đó
xây dựng nền kinh tế bền vững và giảm thiểu gánh nặng tài chính cho thế hệ sau này.
7
tệ; tối ưu hóa trong quản lý và đảm bảo thanh khoản của ngân sách nhà nước; đảm
bảo sự phân bổ cân bằng chi phí nợ công trong ngân sách hàng năm.
8
nhập Khu vực đồng tiền chung châu Âu, là nền tảng pháp lý quan trọng cho việc
quản lý nợ công tại EU. Trong phạm vi mỗi quốc gia, khung pháp lý có thể gồm:
Hiến pháp, Luật, văn bản dưới luật như Nghị định, Thông tư tuy nhiên các văn bản
Luật Quản lý nợ công vẫn được các quốc gia ban hành là chủ yếu.
Tại Việt Nam, Luật Quản lý nợ công ban hành năm 2017 và các văn bản
hướng dẫn Luật khác, cụ thể như Nghị định 94/2018/NĐ-CP về nghiệp vụ quản lý nợ
công hay Quyết định 458/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch vay, trả nợ công năm 2023 và
Chương trình quản lý nợ công 03 năm giai đoạn 2023-2025 do Thủ tướng Chính phủ
ban hành….., đã nêu rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước
trong việc lập kế hoạch, vay vốn, sử dụng vốn vay, trả nợ; đặt ra các quy định và cơ
chế để kiểm soát nợ công, góp phần quản lý nợ công một cách hiệu quả. Ngoài ra,
những bộ luật này còn tạo ra cơ chế khá linh hoạt và khuyến khích các bộ, ngành, địa
phương và các doanh nghiệp tăng cường huy động các nguồn vốn vay trong và ngoài
nước cho đầu tư công, nhất là đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ.
9
dụng vốn vay của chính phủ hoặc được chính phủ bảo lãnh, việc vay, trả nợ của
chính quyền địa phương, quản lý, thu hồi vốn cho vay lại theo các quy định về ủy
quyền cho vay lại, thỏa thuận cho vay lại.
Thứ bảy, công bố thông tin quản lý nợ công: là việc cơ quan quản lý nợ công
khai các thông tin về chính sách quản lý nợ, bao gồm các kế hoạch, chiến lược vay,
trả nợ, dư nợ công, cơ cấu thành phần các khoản nợ, cơ cấu lãi suất, kỳ hạn trả nợ và
báo cáo đánh giá các chỉ số phản ánh thực trạng nợ công.
10
Tương tự chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ cũng có hai phương thức chính đó là
thắt chặt và mở rộng.
Sự liên kết giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và chính sách quản lý
nợ công đóng vai trò quan trọng trong quản lý kinh tế. Mặc dù mỗi chính sách có
mục tiêu và phương tiện riêng, nhưng chúng tác động lẫn nhau qua việc vay nợ và
điều chỉnh quản lý nợ của chính phủ. Cách thức hoạt động của chính sách tiền tệ và
chính sách tài khóa có ảnh hưởng sâu rộng đến quyết định về nợ và cách quản lý nợ
công. Để đảm bảo hiệu quả, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chính sách này,
trong đó Ngân hàng Trung ương đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý mối quan
hệ với nợ công.
Hệ thống pháp lý, bao gồm luật, nghị định thể chế pháp luật, hệ thống pháp lý
là công cụ pháp lý nền tảng cho các cơ quan tổ chức thực hiện, tiến hành thanh tra
kiểm tra. Đây là tiền đề cho công tác quản lý hoạch định chiến nợ công của mỗi quốc
gia.
11
Bảng 2. Một số chỉ tiêu chính về nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 2010 – 2022
Nguồn: Niên giám thống kê tài chính 2019, Bộ Tài chính – Số liệu trích theo bản tin nợ công số 10, 17 – Bộ
Tài chính
Dựa trên các chỉ số đánh giá về mức độ nợ nêu trên (Bảng 1), so sánh với một
số chỉ tiêu chính về nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 2010 - 2022, ta thấy mức
độ nợ nước ngoài của Việt Nam thuộc mức 2 (mức nợ khó khăn). Giai đoạn 2010 -
2019, mức nợ nước ngoài/GDP bình quân của Việt Nam đạt 38,8%. Tuy nhiên, kể từ
năm 2020 trở đi mức nợ nước ngoài của Việt Nam có xu hướng giảm và đạt bình
quân 40,7%/năm giai đoạn 2020 - 2022. Đặc biệt, năm 2017, mức nợ nước ngoài đạt
48,9%/GDP, gần sát với ngưỡng mức nợ trầm trọng và sát với ngưỡng 50% được
quốc hội cho phép. Tuy nhiên, tới năm 2022 mức nợ này đã giảm xuống còn 36,1%.
Về tình hình nợ công của Việt Nam: Trong giai đoạn 2010 – 2022, theo số liệu
công bố từ Niên giám thống kê của Bộ Tài chính cho thấy tỷ lệ nợ công/GDP có xu
hướng tăng qua các năm và duy trì ít nhất từ mức 30%/GDP trở lên. Cụ thể, năm
2010, nợ công của Việt Nam đạt 46,978 triệu USD, tương đương 56,3% GDP, và
đến năm 2019, nợ công đã tăng lên 125,215 triệu USD, tương đương 55% GDP. Đến
năm 2022, mức nợ công của Việt Nam đạt 137,176 triệu USD, tương đương mức
37,4%/GDP và Việt Nam thuộc nhóm nước có mức nợ công trung bình so với thế
giới. Như vậy, trong vòng 10 năm từ năm 2010 đến năm 2019 quy mô nợ công đã
tăng gấp 2,67 lần với tốc độ tăng trưởng nợ tăng 11,64% mỗi năm. Từ năm 2020 đến
2022, quy mô nợ công tương đối ổn định ở mức 138,2 triệu USD/năm. Riêng năm
2016, tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam đạt ngưỡng cao nhất là 63,7% và có xu
hướng giảm xuống 37,4% vào năm 2022. Đạt được kết quả này có thể kể đến Luật
quản lý nợ công đã được ban hành vào năm 2017, đòi hỏi các đơn vị có liên quan
phải ưu tiên tập trung nguồn lực và tổ chức thực hiện đảm bảo đúng tiến độ, chất
lượng, hiệu quả và tiết kiệm.
12
Ở Việt Nam theo Luật quản lý nợ công (khoản 2, điều 21) số 20/2017/QH14
ngày 23 tháng 11 năm 2017 và Quyết định số 958/QĐ-TTg ngày 27 tháng 7 năm
2012 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của
quốc gia giai đoạn 2011 – 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 đã quy định chi tiết các
chỉ tiêu để đánh giá an toàn nợ công bao gồm: Nợ công ≤ 65% GDP; Dư nợ chính
phủ ≤ 55% GDP; Nợ nước ngoài của quốc gia ≤ 50% GDP; Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp
của Chính phủ (không kể cho vay lại)/Tổng thu NSNN ≤ 25% GDP; Nghĩa vụ trả nợ
nước ngoài của quốc gia/Giá trị xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ ≤ 25% GDP.
Mặc dù tỷ lệ nợ công vẫn nằm trong giới hạn cho phép (50% - 60% GDP),
Việt Nam từng gặp vấn đề đáng lo ngại khi tỷ lệ nợ công trên GDP tăng nhanh (tăng
trên 10%/năm), dù tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao. Ngoài ra, theo báo cáo
của Bộ Tài chính, mức nợ của Chính phủ cũng ổn định trong giai đoạn 2010 - 2020,
từ mức 56,3%/GDP năm 2010 tới mức 55,9%/GDP ở năm 2020, trong khi mức trần
là 55%/GDP. Như vậy, Chính phủ đã không giữ được mục tiêu duy trì nợ Chính phủ
ở mức dưới 50%/GDP và nguồn gốc chủ yếu làm phát sinh nợ Chính phủ chính là do
bội chi ngân sách. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến việc trả nợ nước ngoài của chính
phủ và ảnh hưởng đến tình hình an ninh tài chính nói chung. Tuy nhiên, nợ công của
cả nước năm 2021 và 2022 đã thấp so với nhiều năm trước đó (lần lượt ở mức 42,7%
GDP và 37,4% GDP), cách xa mức trần 60% GDP Quốc hội cho phép, giúp áp lực
lên ngân sách sụt giảm.
Nợ công/GDP của Việt Nam và một số quốc gia khu vực Đông Nam Á năm 2022
Ngoài ra, so sánh với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á cho thấy tỷ lệ
nợ công/GDP của Việt Nam là thấp nhất, chỉ chiếm 37,4%, trong khi Singapore và
Lào lần lượt là 133% và 88%.
c. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng gia tăng nợ công ở Việt Nam
15
Một số nguyên nhân chủ yếu có thể dẫn đến tình trạng nợ công như hiện nay:
Thứ nhất, mở rộng đầu tư công một cách ồ ạt nhưng không hiệu quả đã dẫn
đến sự gia tăng mạnh mẽ của nợ công. Trong nhiều năm qua, chính phủ đã đầu tư
một lượng lớn tài nguyên vào các dự án công cộng, đặc biệt là cơ sở hạ tầng như
cảng biển, sân bay, đặc khu kinh tế... Tuy nhiên, việc lập kế hoạch xây dựng các dự
án một cách dàn trải và lãng phí là điều tất yếu xảy ra. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
mỗi năm Việt Nam cần khoảng 25 tỷ USD để đầu tư vào cơ sở hạ tầng, nhưng nguồn
vốn huy động được chỉ đạt khoảng 16 tỷ USD, phần còn lại phải vay nợ nước ngoài.
Cùng với đó, hoạt động chi tiêu và đầu tư công kém hiệu quả, gây lãng phí và thất
thoát nguồn vốn đầu tư. Tình trạng này dẫn đến thâm hụt ngân sách và thâm hụt chi
tiêu công đều ở mức cao trong nhiều năm. Theo thống kê, việc xây dựng đường xá
tốn khoảng 20 triệu USD/km. Tuy nhiên, tính toán cho thấy, sau khi hoàn thành và
sử dụng trong 2 năm, đường xá thường cần phải tu sửa. Tương tự, gần đây, Việt Nam
đã chi một số tiền lớn để xây dựng tượng đài một cách phung phí. Với những chi phí
không hợp lý như vậy, tỷ lệ nợ công của Việt Nam sẽ tiếp tục gia tăng nhanh chóng.
Thứ hai, tình hình ngân sách nhà nước rơi vào tình trạng bội chi trong những
năm gần đây, khiến chính phủ phải vay nợ để bù đắp bội chi và giải quyết ngân sách
nên nợ công tăng cao. Điển hình như việc chính phủ sử dụng các gói kích cầu nhằm
ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội
trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy giảm. Mặc dù các biện pháp kích cầu đã giúp nền
kinh tế có nhiều biến động tích cực trong khủng hoảng, nhưng cũng là một trong
những nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng nợ công. Ngoài ra, cơ cấu chi tiêu thường
chiếm tỷ trọng lớn và có sự gia tăng trong những năm vừa qua, dẫn đến tình trạng
thâm hụt ngân sách và việc chính phủ chi trả lãi vay chiếm tỷ lệ lớn trong chi ngân
sách nhà nước.
Thứ ba, nợ được chính phủ bảo lãnh ngày càng gia tăng trong những năm vừa
đây, chủ yếu đến từ các khoản nợ của các doanh nghiệp nhà nước. Trong trường hợp
các doanh nghiệp này không thể trả nợ, nhà nước sẽ phải chịu trách nhiệm thanh
toán. Việc vay nợ nói chung và bảo lãnh nói riêng có thể tiềm ẩn rủi ro lớn và phụ
thuộc vào hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước. Vẫn tồn
tại nhiều doanh nghiệp lớn được nhà nước bảo lãnh hoạt động sản xuất kinh doanh
mà không đạt được lợi nhuận, gây ra sự thất thoát và lãng phí nguồn vốn và tài sản,
ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình trạng nợ công của quốc gia.
Thứ tư, hiện tượng tham nhũng, thất thoát nguồn vốn hiện đang diễn ra. Lãi
phải trả cho cho các khoản đi vay quá lớn, trong khi phần lớn số vốn vay lại không
được sử dụng hiệu quả do nhiều lý do như tham nhũng, thất thoát, chậm tiến độ...
Điều đó dẫn đến các khoản lãi ngày càng trầm trọng. Bên cạnh đó, Việc sử dụng vốn
không minh bạch và các dự án chậm tiến độ cũng góp phần làm tăng lãi phải trả. Các
dự án càng kéo dài, trì trệ thì càng lỗ, trong khi đó thì gánh nặng trả lãi của các
khoản vay lại ngày càng tăng. Điều này dẫn đến sự gia tăng nguy cơ trong việc chi
trả nợ và tăng thêm áp lực lên ngân sách. Đặt ra câu hỏi là liệu nguồn vốn đã thực sự
16
được đầu tư đúng hướng và các nhà lãnh đạo đã thực sự đặt lợi ích quốc gia lên hàng
đầu khi mà có quá nhiều dự án thua lỗ, chậm trễ, phải thay đổi nhiều nhà thầu mới có
thể hoàn thành.
17
đảm chỉ tiêu an toàn về nợ; quyết định tổng mức, cơ cấu vay và trả nợ hàng năm của
Chính phủ.
Chính phủ có nhiệm vụ và thẩm quyền thống nhất về quản lý về nợ công;
quyết định chính sách, giải pháp cụ thể nhằm thực hiện các chỉ tiêu an toàn về nợ
công được Quốc hội thông qua; phê duyệt đề án phát hành trái phiếu quốc tế của
Chính phủ; thanh tra, kiểm tra về huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay, trả nợ và
quản lý nợ công.
Thủ tướng Chính phủ có nhiệm vụ và thẩm quyền phê duyệt kế hoạch vay, trả
nợ chi tiết hàng năm; phê duyệt chương trình quản lý nợ trung hạn cho giai đoạn ba
năm liền kề; phê duyệt đề án xử lý nợ, cơ cấu lại khoản nợ, danh mục nợ; quyết định
cấp bảo lãnh chính phủ, và một số thẩm quyền khác.
Bộ Tài chính sẽ là cơ quan giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về nợ
công. Bộ Tài chính là cơ quan đầu mối xây dựng mục tiêu, định hướng huy động, sử
dụng vốn vay và quản lý nợ công; Bộ Tài chính còn chịu trách nhiệm trực tiếp quản
lý các khoản vay của Chính phủ như xây dựng, ban hành chế độ quản lý tài chính đối
với các khoản vay; thực hiện cấp phát từ nguồn vốn vay của Chính phủ cho các
chương trình, dự án đầu tư và các mục tiêu khác. Bộ Tài chính cũng là cơ quan chịu
trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ và nghĩa vụ của người bảo lãnh
đối với các khoản bảo lãnh chính phủ; quản lý danh mục nợ.
Các cơ quan liên quan như Bộ KH-ĐT và NHNN chịu trách nhiệm tham gia
với Bộ Tài chính trong một số công việc liên quan đến quản lý nợ công trong phạm
vi chức năng quản lý nhà nước được giao thuộc thẩm quyền của Bộ. cả Bộ KH-ĐT
và NHNN đều cùng được giao nhiệm vụ tham gia với Bộ Tài chính trong việc xây
dựng mục tiêu, định hướng huy động, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công.
3. Những rủi ro tiềm ẩn của nợ công và khả năng kiểm soát nợ công ở Việt
Nam
a. Những rủi ro tiềm ẩn của nợ công ở Việt Nam
- Rủi ro trong chi tiêu công
Trong những năm qua, việc chi tiêu công ở Việt Nam chưa đạt hiệu quả cao
khi các hiện tượng như chi tiêu không đúng chế độ, sử dụng tài chính không đúng
mục tiêu, không đúng nguồn; các tình trạng bội chi, lãng phí và thất thoát diễn ra
khá phổ biến. Đối với các quốc gia đang phát triển và hội nhập như Việt Nam, vay
vốn là cách để lợi dụng quy tắc đòn bẩy nhằm tăng nguồn vốn đầu tư phát triển. Vì
vậy, mấu chốt của vấn đề không chỉ nằm ở việc vay bao nhiêu, vay từ nguồn nào
mà còn ở cách sử dụng nguồn vốn sao cho hiệu quả.
Hiện nay, tỷ lệ đầu tư ở Việt Nam rất cao. Đầu tư công ở nước ta tuy chiếm
tỷ trọng lớn nhưng vẫn quá dàn trải và kém hiệu quả. Cụ thể, hơn 98% vốn vay sử
dụng trực tiếp vào các dự án hạ tầng, phần còn lại được đưa vào ngân sách nhà
nước cho chi đầu tư (1,5%) và một phần chi sự nghiệp trong các dự án vay ODA
theo cam kết (0,4%). Hiện tượng kéo dài thời gian trả nợ và không có khả năng chi
18
trả nợ của các tổ chức sử dụng nguồn vốn vay được bảo lãnh không hiệu quả đã dẫn
đến phát sinh nghĩa vụ nợ dự phòng, khiến họ phải tái cơ cấu lại tài chính, tăng chi
trả nợ trực tiếp của chính phủ.
Một số trường hợp Chính phủ Việt Nam phải phát hành trái phiếu để đảo nợ,
cụ thể năm 2020 là 214 nghìn tỷ, năm 2021 là 250 nghìn tỷ và năm 2022 là 343
nghìn tỷ đồng (theo báo cáo Bộ tài chính). Thông qua hệ số ICOR, hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư công ở mức kém. Theo khuyến cáo của Ngân hàng Thế giới đối
với các nước đang phát triển, ICOR ở mức 3 là đầu tư có hiệu quả và nền kinh tế
phát triển bền vững.
20
hành bình quân cả danh mục trái phiếu chính phủ dự kiến năm 2022 khoảng
3,3%/năm, giảm 0,18 điểm phần trăm so với mức năm 2021 trong bối cảnh lãi suất
toàn cầu vẫn duy trì xu hướng tăng.
Nợ nước ngoài giảm dần trong cơ cấu vay của Chính phủ. Danh mục nợ nước
ngoài hiện hành chủ yếu vẫn là các khoản vay kỳ hạn dài, lãi suất ưu đãi; góp phần
tăng tính bền vững trước biến động tỷ giá của các ngoại tệ mạnh trên toàn cầu.
Trong 2 năm gần đây, uy tín quốc gia của Việt Nam liên tục được cải thiện
và ghi nhận. Năm 2022, trong bối cảnh nhiều quốc gia bị hạ bậc tín nhiệm, Việt
Nam giữ nguyên mức hạng trong bảng xếp hạng tín nhiệm của tổ chức Fitch
Ratings đồng thời được 2 tổ chức xếp hạng tín nhiệm S&P và Moody’s nâng hạng
tín nhiệm quốc gia. Năm 2023, cả 3 tổ chức xếp hạng tín nhiệm toàn cầu đều đánh
giá triển vọng dài hạn của Việt Nam ở mức tích cực, trong đó Fitch Ratings đã nâng
xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn từ mức BB lên mức BB+ “Triển vọng ổn
định”; S&P, Moody’s giữ mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam (tương
ứng là BB+ “Triển vọng ổn định”; Ba2 “Triển vọng tích cực”).
21
Năm là, ban hành các chỉ tiêu đánh giá tính bền vững của nợ công, bao gồm
các chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán và khả năng thanh khoản của nợ công,
đồng thời giám sát chặt chẽ việc tuân thủ; cải cách mạnh mẽ công tác quản lý đầu tư
công ở tất cả các khâu của chu kỳ dự án từ quy hoạch, lựa chọn dự án, giám sát thực
hiện dự án đến đánh giá dự án qua việc nâng cao chất lượng thể chế quản lý đầu tư
công.
Sáu là, chủ động điều hành ngân sách theo hướng siết chặt kỷ luật tài khóa,
đẩy mạnh việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ việc
chi tiêu, đảm bảo đúng chế độ, chính sách quy định, đúng dự toán được giao và khả
năng thu ngân sách nhà nước; giữa bội chi ngân sách trong giới hạn cho phép; phấn
đấu tăng thu, tiết kiệm chi để giảm bội chi ngân sách nhà nước.
22
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới và sự phát triển của Việt Nam, vấn đề nợ công và
quản lý nợ công trở thành một thách thức đáng kể đối với sự ổn định tài chính và phát triển
bền vững của đất nước. Từ việc phân tích các vấn đề chung về nợ công, ta nhận thấy rằng nợ
công không chỉ đơn thuần là một chỉ số thống kê mà còn mang theo tác động rất lớn đối với
hoạt động kinh tế và xã hội của quốc gia.
Trong phần thực trạng quản lý nợ công tại Việt Nam, nhóm đã đặc biệt nhấn mạnh vào
việc phân tích cơ cấu nợ công, mô hình tổ chức bộ máy quản lý nợ, những rủi ro tiềm ẩn và
giải pháp quản lý nợ công. Tuy nhiên, việc thực hiện các giải pháp này vẫn còn nhiều thách
thức, đặc biệt là trong bối cảnh biến động của thị trường tài chính và tình hình kinh tế xã hội
không ổn định.
Để đảm bảo sự ổn định tài chính và phát triển bền vững, cần phải tiếp tục nâng cao
nhận thức và chủ động trong quản lý nợ công, thúc đẩy cải cách hệ thống quản lý tài chính
công và thực hiện các biện pháp cụ thể để giảm thiểu rủi ro và tối ưu hóa sử dụng nguồn vốn
vay. Chính sự chủ động và nhất quán trong việc thực hiện các biện pháp này sẽ đóng vai trò
quyết định trong việc đảm bảo an ninh tài chính và sự phát triển bền vững của Việt Nam trong
tương lai.
1
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Phan Hữu Nghị, PGS,TS. Lê Hùng Sơn, 2020, Bài giảng Tài chính công, NXB Đại
học Kinh tế Quốc dân
2. Bộ tài chính: https://mof.gov.vn/
3. Giáo sư - Tiến sỹ Vương Đình Huệ - UVTW Đảng - Tổng Kiểm toán Nhà nước, “Nợ
công và quản lý nợ công ở Việt Nam”, Cổng thông tin điện tử Kiểm toán nhà nước Việt
Nam
4. Trương Hùng Long, 2020, “Khuyến nghị của IMF về mức trần và ngưỡng an toàn nợ
công đối với Việt Nam trong trung hạn”, Cục Quản lý nợ & Tài chính đối ngoại
5. Nguyễn Lê, 2023, “Nợ công trong ngưỡng an toàn nhưng vẫn cần giải pháp mới”, Diễn
đàn Đầu tư – Kinh doanh
6. TS. Vũ Thanh Nguyên, 2023, “Phát triển kinh tế bền vững: Nhìn từ góc độ nợ công của
Việt Nam”, Tạp chí Tài chính
7. “Mối quan hệ giữa nợ công và sự phát triển của một quốc gia”, 2023, Trung tâm bồi
dưỡng đại biểu dân cử - Ban công tác đại biểu Ủy ban thường vụ Quốc hội
8. Nguyễn Thị Thúy, 2020, “Dự báo tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô đến nợ công”,
Cổng thông tin điện tử Viện chiến lược và chính sách tài chính
9. ThS. Nguyễn Thị Thúy, CN. Ngô Thị Phương Liên, 2016, “Đánh giá tác động của các
yếu tố kinh tế vĩ mô đến nợ công”, Cổng thông tin điện tử Viện chiến lược và chính
sách tài chính
10.Thùy Lê, 2019, “Khung pháp lý và thực trạng nợ công ở Việt Nam”, Báo Kiểm toán.
11.ThS. Trương Hùng Long, 2018, “Khuôn khổ pháp lý quản lý nợ công ở Việt Nam:
Những vấn đề đặt ra và định hướng hoàn thiện”, Tạp chí tài chính.
12.ThS. Nguyễn Thị Thúy, 2016, “Kinh nghiệm quốc tế về quản lý nợ công”, Cổng thông
tin điện tử viện chiến lược và chính sách tài chính.
13.Đỗ Thiên Anh Tuấn, 2015, “Các mô thức quản lý nợ công và vấn đề của Việt Nam”
14.Luật Quản lý nợ công, Luật số: 20/2017/QH14
15.Trần Văn Hùng, 2021, “Đánh giá tình hình nợ công của Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay”, Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ - Kinh tế - Luật và Quản lý
16.Bản tin 17 Nợ công, 2023, Bộ Tài chính
17.ThS. Nguyễn Thị Thanh Hoa, 2018, “Nợ công ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng,
nguyên nhân và một số giải pháp”, Tạp chí Công Thương
18.ThS Nguyễn Tuấn Tú, 2018, “Nợ công ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp”,
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN
19.Phạm Minh Thuỵ, 2022, “Cơ cấu chi phí và rủi ro nợ công đang báo động”,
VnEconomy.
20.Trâm Anh, 2023, “Chính phủ phải lo trả nợ khoảng 330.000 tỷ đồng năm 2023”,
VnEconomy
21.Đức Minh, 2023, “Các chỉ tiêu an toàn nợ công tiếp tục được kiểm soát chặt chẽ”, Thời
báo Tài chính Việt Nam
1
22.Đoàn Ngọc Phúc, 2018, “Nợ công ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp tăng cường
quản lý”, Tạp chí Việt Nam hội nhập