Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 29

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP NHÓM


HỌC PHẦN TÀI CHÍNH CÔNG 1

ĐỀ TÀI:
THỰC TRẠNG NỢ CÔNG VÀ QUẢN LÝ NỢ CÔNG CỦA VIỆT NAM

Học phần : Tài chính công 1


Nhóm thực hiện : Nhóm 4
Lớp chuyên ngành : Tài chính doanh nghiệp CLC 64D
Viện : Viện Đào tạo Tiên tiến, CLC và POHE
Giảng viên : Bùi Đỗ Vân

Hà Nội – 3/2024
PHÂN CHIA PHỤ TRÁCH NỘI DUNG BÀI TẬP NHÓM
NHÓM 4 – TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP CLC 64D

STT Họ và tên Mã sinh viên Nhiệm vụ Đánh giá


1 Nguyễn Danh Vĩnh An 11220027 Nội dung phần II, mục 4
và phần III, mục 2
2 Hoàng Minh Anh 11220199 Nội dung phần III, mục 3
và mục 4
3 Nguyễn Cao Minh Anh 11220311 Nội dung phần III, mục 1
4 Nguyễn Tú Anh 11220492 Nội dung phần II, mục 2
và mục 3
5 Nguyễn Duy Đạt 11221243 Nội dung phần I, mục 1
và mục 2
6 Lê Ngọc Linh 11223469 Nội dung phần I, mục 3
và phần II, mục 1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................................1
NỘI DUNG...................................................................................................................................1
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NỢ CÔNG....................................................................1
1. Khái niệm và nội dung của nợ công..............................................................................1
2. Chỉ tiêu an toàn về nợ công...........................................................................................3
3. Tác động của nợ công đối với nền kinh tế....................................................................3
II. QUẢN LÝ NỢ CÔNG....................................................................................................6
1. Khái niệm và ý nghĩa của quản lý nợ công..................................................................6
2. Mục tiêu và phạm vi của quản lý nợ công....................................................................7
3. Nội dung quản lý nợ công..............................................................................................8
4. Phương thức và các công cụ quản lý..........................................................................10
III. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NỢ CÔNG TẠI VIỆT NAM........................................11
1. Thực trạng nợ công ở Việt Nam..................................................................................11
2. Mô hình tổ chức bộ máy quản lý nợ...........................................................................17
3. Những rủi ro tiềm ẩn của nợ công và khả năng kiểm soát nợ công ở Việt Nam....18
4. Giải pháp quản lý nợ công ở Việt Nam......................................................................21
KẾT LUẬN...................................................................................................................................1
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................................1

1
MỞ ĐẦU

Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng mở ra cơ hội và thách thức cho nền kinh tế Việt
Nam. Nhu cầu về nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ngày càng trở nên cấp thiết
nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, nâng cao đời sống người dân. Trong đó, nợ công
là công cụ quan trọng để tài trợ vốn cho nền kinh tế, là nguồn vốn bổ sung cho ngân sách nhà
nước, hỗ trợ cho các hoạt động đầu tư, chi tiêu của Chính phủ và các cơ quan được bảo lãnh.

Nợ công tuy đóng vai trò quan trọng, nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với an toàn
nợ và an ninh tài chính quốc gia, đặc biệt là nợ nước ngoài. Việc quản lý nợ công hiệu quả là
vô cùng quan trọng để đảm bảo khả năng thanh toán nợ, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và tránh
rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ.

Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của nợ công, nhóm chúng em lựa chọn đề tài
"Thực trạng nợ công và quản lý nợ công tại Việt Nam" để nghiên cứu và học tập. Với mong
muốn cung cấp những thông tin hữu ích về nợ công, góp phần nâng cao nhận thức về tầm
quan trọng của quản lý nợ công, mục tiêu của đề tài nhằm đưa ra những vấn đề chung của nợ
công, quản lý nợ công; phân tích thực trạng nợ công, đánh giá hiệu quả quản lý nợ công và đề
xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nợ công trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

1
NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NỢ CÔNG
1. Khái niệm và nội dung của nợ công
a. Khái niệm của nợ công
Theo Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), nợ công được
định nghĩa theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng là bao gồm các nghĩa vụ nợ của khu vực
công, bao gồm chính phủ trung ương, chính quyền địa phương, ngân hàng trung
ương và các tổ chức độc lập (nguồn vốn hoạt động do NSNN quyết định hay trên
50% vốn thuộc sở hữu nhà nước, và trong trường hợp vỡ nợ nhà nước phải trả nợ
thay). Còn theo nghĩa hẹp, nợ công bao gồm nghĩa vụ nợ của chính phủ trung ương,
chính quyền địa phương và nợ của các tổ chức độc lập được chính phủ bảo lãnh
thanh toán. Ngoài ra, tùy thuộc thể chế kinh tế và chính trị mà quan niệm về nợ công
ở mỗi quốc gia cũng có sự khác biệt. Tại hầu hết các nước trên thế giới, Luật Quản lý
nợ công đều xác định nợ công gồm nợ của chính phủ và nợ được chính phủ bảo lãnh.
Một số nước, nợ công còn bao gồm nợ của chính quyền địa phương (Đài Loan,
Bungari, Rumani…), nợ của doanh nghiệp nhà nước phi lợi nhuận (Thái Lan,
Macedonia…).
Ở Việt Nam, Luật Quản lý nợ công năm 2009 quy định, nợ công bao gồm nợ
chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Theo đó, nợ
chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài được ký
kết, phát hành nhân danh Nhà nước, Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài
chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính
phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm
thực hiện chính sách tiền tệ. Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh
nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo
lãnh. Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành.
Theo Từ điển Kinh tế học – ĐH Kinh tế Quốc dân, nợ công là nợ quốc gia và
một số khoản nợ khác mà chính phủ phải chịu trách nhiệm trực tiếp hoàn trả, chẳng
hạn các khoản nợ các doanh nghiệp nhà nước. Bài viết này sử dụng định nghĩa nợ
công là tổng giá trị các khoản vay mà các cơ quan nhà nước, bao gồm chính phủ
trung ương, chính quyền địa phương và các quỹ nhà nước, vay từ các tổ chức trong
và ngoài nước để trang trải các khoản chi tiêu ngân sách. Nợ công được xem như
một công cụ tài chính quan trọng giúp chính phủ bù đắp thâm hụt ngân sách, đầu tư
cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo
luật định. Bản chất của nợ công phản ánh sự lựa chọn thời gian đánh thuế của chính
phủ. Thay vì thu thuế ngay trong hiện tại để chi trả cho các khoản chi tiêu, chính phủ
chọn vay nợ và chuyển gánh nặng thuế sang thế hệ tương lai. Do đó, nợ công mang
tính chất liên thế hệ, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế của cả thế hệ hiện tại
và tương lai.

1
b. Các đặc trưng cơ bản của nợ công
Thứ nhất, nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm nợ của Nhà nước. Khác
với các khoản nợ thông thường, nợ công được xác định là một khoản nợ mà Nhà
nước (bao gồm các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) có trách nhiệm trả khoản nợ
ấy. Trách nhiệm trả nợ của Nhà nước được thể hiện dưới hai góc độ trực tiếp và gián
tiếp. Trực tiếp được hiểu là cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ là người vay nợ, do
đó sẽ chịu trách nhiệm trả nợ khoản vay. Ví dụ: Chính phủ Việt Nam vay nợ từ Quỹ
Tiền tệ Quốc tế (IMF) để thực hiện chương trình hỗ trợ kinh tế. Gián tiếp, hay còn
gọi là trách nhiệm bảo lãnh, được hiểu là trong trường hợp cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đứng ra bảo lãnh cho một chủ thể trong nước vay nợ, nếu bên vay không
trả được nợ thì Nhà nước sẽ có trách nhiệm trả nợ thay. Ví dụ: Chính phủ bảo lãnh
cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) vay vốn nước ngoài.
Thứ hai, nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Việc quản lý nợ công đòi hỏi quy trình chặt chẽ đảm
bảo hai mục đích: một là, đảm bảo khả năng trả nợ của đơn vị sử dụng vốn vay và
cao hơn nữa là đảm bảo cán cân thanh toán vĩ mô và an ninh tài chính quốc gia; hai
là, để đạt được những mục tiêu của quá trình sử dụng vốn. Theo quy định của pháp
luật Việt Nam, nguyên tắc quản lý nợ công là Nhà nước quản lý thống nhất, toàn
diện nợ công từ việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay đến việc trả nợ để đảm bảo
hai mục tiêu cơ bản như đã nêu trên.
Thứ ba, mục tiêu cao nhất của việc huy động và sử dụng nợ công là phát triển
kinh tế - xã hội vì lợi ích chung. Nợ công được huy động và sử dụng không phải để
thỏa mãn những lợi ích riêng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào, mà vì lợi ích chung
của đất nước. Xuất phát từ bản chất của Nhà nước là thiết chế để phục vụ lợi ích
chung của xã hội, Nhà nước là của dân, do dân và vì dân nên đương nhiên các khoản
nợ công được quyết định phải dựa trên lợi ích của nhân dân. Chính phủ là cơ quan
đại diện cho Nhà nước, chịu trách nhiệm quản lý và sử dụng nợ công một cách hiệu
quả và minh bạch. Việc sử dụng nợ công không đúng mục đích hoặc không hiệu quả
sẽ dẫn đến lãng phí nguồn lực quốc gia, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội
và gây gánh nặng cho thế hệ tương lai.

c. Phân loại nợ công


Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nợ công được phân loại thành ba
nhóm chính lần lượt là nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính
quyền địa phương. Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước,
nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc
các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, ủy quyền phát hành theo quy
định của pháp luật. Nợ Chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Nợ được
Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay
trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh. Nợ chính quyền địa phương là

2
khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ký kết, phát
hành hoặc ủy quyền phát hành.

2. Chỉ tiêu an toàn về nợ công


An toàn nợ công là một vấn đề quan trọng trong quản lý tài chính quốc gia,
đảm bảo khả năng thanh toán nợ và duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô. Hệ thống các
chỉ tiêu giám sát nợ công là các chỉ tiêu an toàn nợ, quy định giới hạn tối đa về nợ có
liên quan do Quốc hội quyết định. Nghị định 94/2018/NĐ-CP về nghiệp vụ quản lý
nợ công đã chỉ ra các chỉ tiêu giám sát về nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia bao
gồm: nợ công so với tổng sản phẩm quốc nội (GDP); nợ của Chính phủ so với GDP;
nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ (không bao gồm cho vay lại) so với tổng thu
ngân sách Nhà nước hằng năm; nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP; nghĩa vụ trả
nợ nước ngoài của quốc gia so với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ.
Để đánh giá tính bền vững của nợ công, tiêu chí tỷ lệ nợ công/GDP được coi
là chỉ số đánh giá phổ biến nhất cho cái nhìn tổng quát về tình hình nợ công của một
quốc gia, đánh giá mức an toàn của nợ công. Mức độ an toàn được thể hiện qua việc
nợ công có vượt ngưỡng an toàn tại một thời điểm hay giai đoạn nào đó. Để bảo đảm
an toàn của nợ công, các nước thường sử dụng các tiêu chí sau làm giới hạn vay và
trả nợ: Thứ nhất, giới hạn nợ công không vượt quá 50% - 60% GDP hoặc không
vượt quá 150% kim ngạch xuất khẩu. Thứ hai, dịch vụ trả nợ công không vượt quá
15% kim ngạch xuất khẩu và dịch vụ trả nợ của chính phủ không vượt quá 10% chi
ngân sách. Ngân hàng Thế giới đưa ra mức quy định ngưỡng an toàn nợ công là 50%
GDP. Tuy nhiên, con số này có thể thay đổi tùy thuộc vào tình hình kinh tế vĩ mô
của từng quốc gia. Theo đó, tỷ lệ hợp lý được khuyến nghị với trường hợp các nước
đang phát triển nên ở mức dưới 50% GDP. Bên cạnh đó trên thực tế không có hạn
mức an toàn chung cho các nền kinh tế; không phải tỷ lệ nợ công trên GDP thấp là
trong ngưỡng an toàn và ngược lại. Không những vậy với mức độ an toàn của nợ
công phụ thuộc vào tình trạng mạnh hay yếu của nền kinh tế thông qua hệ thống chỉ
tiêu kinh tế vĩ mô.
Tại Việt Nam, theo Nghị quyết số 23/2021/QH15 ngày 28/7/2021 Quốc hội đã
quyết định các chỉ tiêu an toàn nợ: nợ công/GDP mức trần không quá 60%; ngưỡng
cảnh báo là 55%; nợ Chính phủ/GDP và nợ nước ngoài của quốc gia/GDP mức trần
không quá 50%; ngưỡng cảnh báo là 45%. Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ
(không bao gồm nghĩa vụ trả nợ đối với các khoản cho vay lại)/tổng thu ngân sách
nhà nước không quá 25%. Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia (không bao gồm
nghĩa vụ trả nợ gốc ngắn hạn dưới 12 tháng)/tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và
dịch vụ không quá 25%.

3. Tác động của nợ công đối với nền kinh tế


a. Tác động tích cực

3
Thứ nhất, nợ công có tác động tích cực đến nền kinh tế thông qua việc cung
cấp nguồn lực cho chính phủ đầu tư vào cơ sở hạ tầng và hỗ trợ doanh nghiệp cũng
như người dân. Trong bối cảnh nền kinh tế suy thoái, khi nguồn thu từ thuế giảm sút,
việc sử dụng nợ công để bù đắp thâm hụt ngân sách và duy trì các hoạt động chi tiêu
cần thiết trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Đặc biệt, việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng
như đường cao tốc, sân bay không chỉ giảm chi phí vận chuyển mà còn thu hút đầu
tư và thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Đồng thời, các chính sách ưu đãi tín dụng, giảm
thuế được áp dụng để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân cũng góp phần tăng cường
sức mua, thúc đẩy tiêu dùng và sản xuất. Ví dụ rõ nét nhất cho tác động của nợ công
là trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Trong thời điểm khó khăn
đó, nhiều quốc gia lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản đã đề xuất và triển khai các gói kích
thích kinh tế với sự hỗ trợ từ nợ công. Những biện pháp này không chỉ giúp cải thiện
tình hình kinh tế mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc giúp nền kinh tế phục hồi
và phát triển trở lại.
Thứ hai, nợ công còn có thể được sử dụng hướng vào các lĩnh vực mang lại lợi
ích dài hạn như giáo dục, y tế, và nghiên cứu khoa học. Việc đầu tư vào những lĩnh
vực này không chỉ mang lại lợi ích ngay lập tức mà còn tạo ra những tiềm năng phát
triển cho nền kinh tế và cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân trong tương
lai. Đầu tư vào giáo dục và y tế không chỉ đem lại sự phát triển cho con người mà
còn làm tăng cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Trình độ học vấn cao và lao
động sức khỏe tốt không chỉ tạo ra nguồn nhân lực chất lượng mà còn thúc đẩy sự
tiến bộ và đổi mới trong các lĩnh vực kinh doanh và công nghệ. Ngoài ra, việc đầu tư
vào nghiên cứu khoa học cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát
triển và sáng tạo. Qua các dự án nghiên cứu, có thể tạo ra các sản phẩm và dịch vụ
mới, đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trên thị trường quốc tế.
Ví dụ rõ nhất cho việc sử dụng nợ công để đầu tư vào giáo dục và y tế là chính phủ
Singapore. Bằng cách này, họ đã tạo ra một hệ thống giáo dục và y tế hiệu quả, góp
phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân và tạo ra
nguồn nhân lực chất lượng cao, là một trong những yếu tố quan trọng đưa Singapore
trở thành một trong những quốc gia phát triển hàng đầu trên thế giới.
Thứ ba, nợ công giúp chính phủ duy trì sự ổn định trong những tình huống khó
khăn bằng cách tiến hành mua lại trái phiếu chính phủ và hỗ trợ các ngân hàng. Khi
thị trường tài chính gặp phải sự bất ổn, nhà đầu tư thường có thể bán tháo trái phiếu
chính phủ, dẫn đến sự tăng lên của lãi suất và ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân
hàng. Trong tình huống này, chính phủ có thể can thiệp bằng cách mua lại các trái
phiếu này, tạo ra sự ổn định cho thị trường, giảm bớt áp lực lên lãi suất và tăng
cường niềm tin của nhà đầu tư. Ngoài ra, hỗ trợ các ngân hàng cũng là một biện pháp
quan trọng để ổn định hệ thống tài chính. Chính phủ có thể cung cấp các khoản vay
ưu đãi hoặc mua lại các tài sản rủi ro từ các ngân hàng, giúp củng cố hệ thống này và
ngăn chặn khủng hoảng tài chính. Ví dụ, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã thực
hiện việc mua lại một lượng lớn trái phiếu chính phủ trong giai đoạn khủng hoảng tài

4
chính năm 2008, đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định thị trường tài chính và
giảm thiểu tác động tiêu cực của khủng hoảng.

b. Tác động tiêu cực


Thứ nhất, tác động của nợ công cao gây ra gánh nặng tài chính nặng nề đối với
chính phủ, thể hiện rõ qua việc nhà nước phải dành một phần đáng kể của ngân sách
để trả nợ gốc và lãi suất. Gánh nặng tài chính lớn này khiến cho chính phủ phải hạn
chế nguồn lực cho các lĩnh vực quan trọng khác như giáo dục, y tế, và an sinh xã hội.
Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc sống của người dân, khi các dịch
vụ công cần thiết có thể bị cắt giảm hoặc không đạt được mức độ mong muốn. Hơn
nữa, chi phí trả nợ cao có thể dẫn đến thâm hụt ngân sách, buộc chính phủ phải tìm
cách tăng thuế hoặc cắt giảm chi tiêu công. Những biện pháp này đặt áp lực lên
người dân và doanh nghiệp, khiến cho cuộc sống và hoạt động kinh doanh trở nên
khó khăn hơn. Ví dụ rõ nhất cho tình trạng gánh nặng tài chính do nợ công cao là Hy
Lạp, dẫn đến các biện pháp cắt giảm chi tiêu công, gây ra suy thoái kinh tế và làm
giảm chất lượng cuộc sống của người dân. Argentina cũng đang phải đối mặt với vấn
đề tương tự, khi nợ công cao gây khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn vay quốc
tế, ảnh hưởng đến khả năng phục hồi kinh tế của đất nước.
Thứ hai, nợ công cao làm tăng rủi ro tài chính đối với nền kinh tế. Trước hết,
thực trạng này khiến chính phủ phải trả lãi suất cao, từ đó ảnh hưởng đến chi phí vay
vốn của doanh nghiệp và người dân. Sự gia tăng này kìm hãm đầu tư và tăng trưởng
kinh tế, khiến cho môi trường kinh doanh trở nên khó khăn hơn. Ngoài ra, nợ công
cao có thể làm giảm niềm tin của nhà đầu tư vào nền kinh tế. Sự mất niềm tin này có
thể dẫn đến việc bán tháo trái phiếu chính phủ, gây ra bất ổn trên thị trường tài chính
và làm suy giảm sự ổn định của hệ thống tài chính. Cuối cùng, nợ công cao cũng
mang theo nguy cơ về vỡ nợ, có thể dẫn đến khủng hoảng kinh tế và ảnh hưởng
nghiêm trọng đến đời sống xã hội. Đây là một tình huống cực kỳ nguy hiểm, có thể
gây ra những hậu quả khôn lường cho nền kinh tế và xã hội. Ví dụ, trong cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, một phần lớn bắt nguồn từ tình trạng nợ công
cao của các quốc gia châu Âu. Sự tăng của nợ công khiến cho niềm tin của nhà đầu
tư sụt giảm, gây ra chuỗi sự kiện tiêu cực trên thị trường tài chính và dẫn đến khủng
hoảng toàn cầu.
Thứ ba, tình trạng nợ công cao tạo ra gánh nặng đáng kể cho thế hệ tương lai,
được thể hiện qua việc người dân phải chịu trách nhiệm trả nợ cho chính phủ. Nợ
công cao đặt ra những thách thức đối với chính phủ, buộc họ phải tìm cách tăng thuế
hoặc cắt giảm chi tiêu công trong tương lai. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc
sống của thế hệ sau, khi người dân sẽ phải gánh chịu hậu quả của các biện pháp tái
cân bằng ngân sách này. Gánh nặng nợ nần không chỉ làm kìm hãm tăng trưởng kinh
tế mà còn hạn chế cơ hội phát triển cho thế hệ tương lai. Việc phải chi trả lãi suất và
trả nợ sẽ tạo ra một áp lực tài chính lớn, ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận nguồn vốn
và đầu tư vào các lĩnh vực phát triển. Ví dụ, ở Nhật Bản, nơi mà nợ công cao đã tạo

5
ra một gánh nặng khổng lồ cho thế hệ trẻ. Những người trẻ phải chịu trách nhiệm trả
nợ và đối mặt với nhiều khó khăn trong cuộc sống, bao gồm cả việc giảm bớt các cơ
hội phát triển và tiến bộ.
Để giải quyết tình trạng này, việc kiểm soát nợ công ở mức độ hợp lý, sử dụng
nguồn vốn vay hiệu quả, tăng cường thu ngân sách, cắt giảm chi tiêu hợp lý và tái cơ
cấu nợ công để giảm lãi suất là những giải pháp cần được thực hiện. Tóm lại, nợ
công cao và lãi suất cao đều đặt ra những thách thức lớn đối với chính phủ và nền
kinh tế, và việc quản lý nợ công hiệu quả là yếu tố quyết định đối với sự ổn định và
phát triển bền vững.

II. QUẢN LÝ NỢ CÔNG


1. Khái niệm và ý nghĩa của quản lý nợ công
a. Khái niệm
Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), quản lý nợ công là quá trình thiết lập và thực
hiện chính sách quản lý nợ của chính phủ, nhằm huy động nguồn lực tài chính với
chi phí thấp nhất có thể trong trung và dài hạn, phù hợp với mức độ thận trọng và rủi
ro của quốc gia.Cách tổ chức và vận hành hệ thống quản lý nợ công của mỗi quốc
gia có thể khác nhau, nhưng cuối cùng phải đáp ứng được mục tiêu quản lý nợ công
mà chính phủ ở quốc gia đó đã thiết lập. Chính phủ cần xác định rõ ràng mục tiêu
của quản lý nợ công, bao gồm ba điểm chính. Đầu tiên, đảm bảo tính bền vững của
nợ công, tức là đảm bảo khả năng thanh toán nợ của chính phủ trong tương lai. Thứ
hai, tăng cường sự minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động quản lý nợ
công, giúp tạo ra một môi trường tài chính trong sạch và minh bạch. Cuối cùng, giảm
thiểu rủi ro tài chính và kinh tế liên quan đến nợ công, bằng cách áp dụng các biện
pháp phù hợp để kiểm soát và quản lý nợ một cách hiệu quả. Điều này giúp tạo ra
một cơ sở tài chính ổn định và bền vững, đồng thời tăng cường sức mạnh và ổn định
của nền kinh tế.

b. Ý nghĩa
Đối với nền kinh tế, quản lý nợ công hiệu quả đóng vai trò quan trọng trong
việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Nó mang lại nhiều lợi ích
thiết thực cho nền kinh tế như giảm thiểu rủi ro tài chính, nợ công cao tiềm ẩn nguy
cơ vỡ nợ, gây bất ổn cho nền kinh tế. Quản lý nợ công hiệu quả giúp kiểm soát rủi ro
này bằng cách giảm tỷ lệ nợ công trên GDP, kéo dài kỳ hạn nợ, đa dạng hóa nguồn
vay và nâng cao năng lực quản lý nợ; giúp kích thích tăng trưởng kinh tế, nợ công
được sử dụng hiệu quả cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực sản
xuất và thu hút đầu tư trong nước và ngoài nước. Điều này giúp thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, nâng cao GDP, tạo ra việc làm và cải thiện đời sống người dân; đồng thời,
cải thiện hiệu quả hoạt động của chính phủ, quản lý nợ công hiệu quả giúp chính
phủ sử dụng nguồn lực ngân sách một cách hợp lý, minh bạch và hiệu quả. Việc này
6
giúp nâng cao chất lượng dịch vụ công, tăng cường niềm tin của người dân vào chính
phủ và thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Đối với xã hội, tác động của việc sử dụng nợ công cho các lĩnh vực như giáo
dục, y tế và cơ sở hạ tầng không chỉ giới hạn ở mức độ cá nhân mà còn mang lại
những lợi ích to lớn cho xã hội và kinh tế. Trong lĩnh vực giáo dục, việc đầu tư từ nợ
công giúp nâng cao chất lượng giáo dục và mở rộng cơ hội học tập cho mọi người.
Điều này không chỉ cải thiện trình độ học vấn của cả xã hội mà còn tạo ra nguồn
nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu về lao động chất lượng trong môi trường
kinh doanh. Trong lĩnh vực y tế, đầu tư từ nợ công giúp cải thiện chất lượng dịch vụ
y tế, giảm bớt gánh nặng chi phí y tế cho người dân. Việc nâng cao sức khỏe của
cộng đồng không chỉ giúp tăng tuổi thọ mà còn góp phần tăng cường sức khỏe và sự
phát triển bền vững cho nền kinh tế. Cùng với đó, việc sử dụng nợ công cho cơ sở hạ
tầng như giao thông, điện nước cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy
phát triển kinh tế và xã hội. Cơ sở hạ tầng tốt không chỉ cải thiện môi trường sống
mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu, hợp tác và phát triển của cộng
đồng. Tuy nhiên, việc sử dụng nợ công cần được quản lý một cách hiệu quả để tránh
gánh nặng tài chính lớn cho thế hệ tương lai. Điều này đòi hỏi kiểm soát lãi suất ở
mức hợp lý và đảm bảo các khoản đầu tư được thực hiện một cách có hiệu quả, từ đó
xây dựng nền kinh tế bền vững và giảm thiểu gánh nặng tài chính cho thế hệ sau này.

2. Mục tiêu và phạm vi của quản lý nợ công


a. Mục tiêu quản lý nợ công
Theo IMF, mục tiêu chính của quản lý nợ công là tối ưu hóa việc sử dụng và
huy động nợ của Chính phủ, đảm bảo rằng nhu cầu tài trợ của Chính phủ được đáp
ứng và các khoản nợ được thanh toán với mức chi phí thấp nhất trong cả trung và dài
hạn, đồng thời giảm thiểu rủi ro phát sinh.
Mục tiêu thứ hai là mục tiêu kiểm soát rủi ro nợ, do rủi ro vay nợ quốc tế có
thể xảy ra ở bất cứ giai đoạn nào hay bất kì khâu nào nếu không được kiểm soát tốt,
có thể là từ khâu đàm phán đến đáo hạn nợ, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác
nhau. Vì vậy để đảm bảo an toàn nợ trong giới hạn nhất định, chính phủ cần thực
hiện việc kiểm soát mức nợ công trong ngưỡng cho phép. Điều này có thể hiểu là
nền tài chính quốc gia phải có khả năng thanh toán trong các tình huống khác nhau
mà vẫn đáp ứng được các mục tiêu về rủi ro và chi phí. Do đó việc cân bằng vay nợ
và đảm bảo an ninh tài chính quốc gia là yêu cầu tiên quyết mà chính phủ cần đáp
ứng khi thực hiện mục tiêu kiểm soát rủi ro nợ, vì nó là điều kiện cơ bản để giữ ổn
định kinh tế vĩ mô và tiếp cận được các nguồn vốn trong và ngoài nước.
Ngoài ra, mục tiêu quản lý nợ công của một số nước còn tập trung vào sự phát
triển thị trường nợ trong nước nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào các nguồn bên ngoài;
thúc đẩy thị trường tài chính hoạt động ổn định và hiệu quả; tăng cường quản lý và
giảm thiểu rủi ro; đảm bảo chính sách quản lý nợ công phù hợp với chính sách tiền

7
tệ; tối ưu hóa trong quản lý và đảm bảo thanh khoản của ngân sách nhà nước; đảm
bảo sự phân bổ cân bằng chi phí nợ công trong ngân sách hàng năm.

b. Phạm vi quản lý nợ công


Do không có một chuẩn mực quốc tế riêng về phạm vi xác định nợ khu vực
công nên việc quản lý nợ công tại mỗi quốc gia cũng có sự khác biệt nhất định, phụ
thuộc vào thể chế chính trị cũng như thể chế của quốc gia đó. Trên thực tế, phạm vi
quản lý nợ công thường gắn với phạm vi nợ công, nghĩa là phạm vi nợ công đến đâu
thì phạm vi quản lý nợ công sẽ bao phủ tới đó.
Theo IMF, phạm vi của quản lý nợ công phải bao gồm các nghĩa vụ tài chính
mà chính quyền trung ương chịu trách nhiệm kiểm soát. Những nghĩa vụ này thường
bao gồm cả các khoản nợ có thị trường (chẳng hạn như trái phiếu) và nợ không có thị
trường (chẳng hạn như các khoản tài trợ ưu đãi chính thức từ chính phủ các nước
hoặc các tổ chức quốc tế đa phương như WB, ADB, JICA...) và cả các khoản vay
nhỏ lẻ trong một số trường hợp. Theo Luật Quản lý nợ công số 29/2009/QH12 tại
Việt Nam, phạm vi quản lý nợ công bao gồm: nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo
lãnh và nợ chính quyền địa phương.

3. Nội dung quản lý nợ công


a. Thể chế quản lý nợ công
Theo thông lệ quốc tế, Luật Quản lý nợ công thường quy định về nhiệm vụ
của cơ quan hành pháp của Chính phủ phải thực hiện các nhiệm vụ quản lý nợ công
trong phạm vi đã được Quốc hội phê chuẩn. Cơ cấu thể chế về quản lý nợ công là nội
dung không thể thiếu trong khuôn khổ pháp lý, cụ thể khuôn khổ thể chế cần rõ ràng
và hỗ trợ giám sát hiệu quả các hoạt động của cơ quan hành pháp, tạo sự linh hoạt
cho cán bộ quản lý thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ được giao.
Đối với Việt Nam, trong giai đoạn trước năm 2010, việc quản lý nợ công của
Chính phủ, được điều chỉnh bởi những văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, còn
tách rời giữa các quy định quản lý, giữa việc huy động, sử dụng, giữa nguồn vốn
trong nước và nước ngoài. Tuy nhiên, sau khi Quốc hội thông qua Luật quản lý nợ
công năm 2009 và gần đây nhất là Luật quản lý nợ công năm 2017 với nhiều tiêu
chuẩn mới được bổ sung, thể chế pháp lý về quản lý nợ công ở nước ta đã thay đổi rõ
rệt, đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước
đối với lĩnh vực nợ công.

b. Khuôn khổ pháp lý quản lý nợ công


Khuôn khổ pháp lý thường bao gồm nhiều nguyên tắc đưa ra ở nhiều cấp độ,
nhiều địa phương và quốc gia khác nhau. Ví dụ, khung pháp lý về quản lý nợ công
tại các quốc gia thuộc Liên Minh Châu Âu (EU) có thể kể đến là Hiệp ước
Maastricht (1992), được áp dụng thống nhất trong cộng đồng, quy định các tiêu chí
về thâm hụt ngân sách và nợ công mà các quốc gia thành viên EU cần tuân thủ để gia

8
nhập Khu vực đồng tiền chung châu Âu, là nền tảng pháp lý quan trọng cho việc
quản lý nợ công tại EU. Trong phạm vi mỗi quốc gia, khung pháp lý có thể gồm:
Hiến pháp, Luật, văn bản dưới luật như Nghị định, Thông tư tuy nhiên các văn bản
Luật Quản lý nợ công vẫn được các quốc gia ban hành là chủ yếu.
Tại Việt Nam, Luật Quản lý nợ công ban hành năm 2017 và các văn bản
hướng dẫn Luật khác, cụ thể như Nghị định 94/2018/NĐ-CP về nghiệp vụ quản lý nợ
công hay Quyết định 458/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch vay, trả nợ công năm 2023 và
Chương trình quản lý nợ công 03 năm giai đoạn 2023-2025 do Thủ tướng Chính phủ
ban hành….., đã nêu rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước
trong việc lập kế hoạch, vay vốn, sử dụng vốn vay, trả nợ; đặt ra các quy định và cơ
chế để kiểm soát nợ công, góp phần quản lý nợ công một cách hiệu quả. Ngoài ra,
những bộ luật này còn tạo ra cơ chế khá linh hoạt và khuyến khích các bộ, ngành, địa
phương và các doanh nghiệp tăng cường huy động các nguồn vốn vay trong và ngoài
nước cho đầu tư công, nhất là đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ.

c. Quy trình quản lý nợ công


Theo Luật Quản lý nợ công, quy trình quản lý nợ công gồm các bước với nội
dung như sau:
Thứ nhất, xây dựng chính sách Quản lý nợ công. Xây dựng chính sách quản lý
nợ là việc cơ quan lập pháp xây dựng, ban hành các chính sách văn bản tạo khung
pháp lý cho việc quản lý nợ, định hướng các mục tiêu, huy động và sử dụng vốn vay.
Khung quản lý tốt giúp đem lại hoạt động quản lý nợ hiệu quả và nhất quán. Ngoài
ra, những chính sách quản lý nợ công còn hỗ trợ phân định rõ chức năng, quyền hạn
của các cơ quan quản lý nợ, giúp việc kiểm tra, giám sát nợ được rõ ràng, minh bạch.
Thứ hai, xây dựng kế hoạch. Tại bước này, các cơ quan quản lý nợ sẽ tổng hợp
danh mục các chương trình hoặc dự án đang có nhu cầu vay vốn, xây dựng kế hoạch
vay, trả nợ chi tiết theo từng thời kỳ và các kế hoạch quản lý rủi ro, quản lý nợ…
thành các kế hoạch chiến lược trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Thứ ba, đàm phán, ký kết hiệp định vay nợ, cấp bảo lãnh nợ là việc cơ quan
quản lý nợ công đại diện cho chính phủ, tham gia vào thị trường nợ để thực hiện ký
kết, đàm phán các hiệp định vay nợ đối với các bên cho vay và cấp bảo lãnh cho vay
với các đơn vị có nhu cầu vay vốn.
Thứ tư, thực hiện giải ngân, cho vay lại. Cơ quan quản lý nợ công sẽ thực hiện
giải ngân nguồn vốn vay theo kế hoạch nợ đã phê duyệt, dựa trên danh mục các
chương trình hoặc dự án có nhu cầu vay vốn.
Thứ năm, quản lý nợ, giám sát, đánh giá việc sử dụng khoản vay, xử lý nợ, trả
nợ: là việc cơ quan quản lý nợ thực hiện quản lý, theo dõi danh mục các khoản nợ
công, quản lý rủi ro, tổ chức thực hiện các đề án xử lý nợ, cơ cấu lại khoản nợ, danh
mục nợ và cân đối nguồn vốn, thực hiện trả nợ khi đến hạn thanh toán.
Thứ sáu, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về nợ công. Các cơ quan
có thẩm quyền trong lĩnh vực quản lý nợ công sẽ kiểm tra, đôn đốc, đánh giá việc sử

9
dụng vốn vay của chính phủ hoặc được chính phủ bảo lãnh, việc vay, trả nợ của
chính quyền địa phương, quản lý, thu hồi vốn cho vay lại theo các quy định về ủy
quyền cho vay lại, thỏa thuận cho vay lại.
Thứ bảy, công bố thông tin quản lý nợ công: là việc cơ quan quản lý nợ công
khai các thông tin về chính sách quản lý nợ, bao gồm các kế hoạch, chiến lược vay,
trả nợ, dư nợ công, cơ cấu thành phần các khoản nợ, cơ cấu lãi suất, kỳ hạn trả nợ và
báo cáo đánh giá các chỉ số phản ánh thực trạng nợ công.

4. Phương thức và các công cụ quản lý


Chính sách quản lý nợ công
Mục tiêu của chính sách nhằm đảm bảo nhu cầu tài chính và nghĩa vụ thanh
toán của chính phủ được đáp ứng tại mức chi phí thấp nhất với mức rủi ro được kiểm
soát. Các công cụ của chính sách này là việc xây dựng và quản lý một mức trần nợ
công thích hợp (phát hành, mua bán, trao đổi) các công cụ nợ trung và dài hạn trên
thị trường nợ để thay đổi và duy trì để thay đổi và duy trình thường xuyên một danh
mục nợ phù hợp. Mục tiêu của chính sách nhằm theo đuổi một chuẩn mực hoặc mục
tiêu chiến lược về nợ công quốc gia.
Chính sách tài khóa
Mục tiêu chính sách tài khóa nhằm đạt được sự cân bằng tối ưu của ngân sách
nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ổn định, đảm bảo phân bổ nguồn lực hiệu quả, cải
thiện phúc lợi xã hội. Hai công cụ chủ yếu của chính sách tài khóa chính là những
thay đổi xoay quanh thuế khóa và chi tiêu chính phủ. Thứ nhất, chính sách thuế áp
dụng cho các đối tượng khác nhau trong xã hội, phân biệt đối tượng chịu thuế, thu
nhập chịu thuế, thuế suất, các chính sách miễn giảm thuế, giãn thuế trong từng thời
kỳ, sự cân đối giữa thuế trực thu và thuế gián thu, giữa thuế áp dụng cho nguồn thu
nội địa và nguồn thu từ hoạt động xuất nhập khẩu. Thứ hai, chi tiêu chính phủ: Các
khoản chi ngân sách, cấu trúc chi tiêu và đầu tư, quyết định lựa chọn đối tượng chi
và quản lý chi ngân sách.
Các công cụ kết hợp với nhau sẽ tạo thành các loại hình chính sách tài khóa:
mở rộng (tăng chi tiêu chính phủ hoặc giảm thuế), thu hẹp (giảm chi hoặc tăng thu
của chính phủ) và trung lập (cân bằng ngân sách).
Chính sách tiền tệ
Mục tiêu dài hạn của chính sách tiền tệ là ổn định giá cả trong mối quan hệ với
tăng trưởng kinh tế. Chính sách tiền tệ có thể theo đuổi quan điểm ổn định giá là mục
tiêu duy nhất hay quan điểm đa mục tiêu; vừa ổn định giá vừa đảm bảo tăng trưởng
cùng với một số mục tiêu ổn định khác như ổn định thị trường tài chính, hay ổn định
tài chính. Công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ là lãi suất chiết khấu trong mối
quan hệ với hệ thống lãi suất của Ngân hàng Trung ương áp dụng cho các ngân hàng
thương mại, nghiệp vụ thị trường mở và dự trữ bắt buộc. Tất cả các công cụ này
không có tác dụng trực tiếp tới thu nhập và chi tiêu của các chủ thể trong nền kinh tế.

10
Tương tự chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ cũng có hai phương thức chính đó là
thắt chặt và mở rộng.
Sự liên kết giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và chính sách quản lý
nợ công đóng vai trò quan trọng trong quản lý kinh tế. Mặc dù mỗi chính sách có
mục tiêu và phương tiện riêng, nhưng chúng tác động lẫn nhau qua việc vay nợ và
điều chỉnh quản lý nợ của chính phủ. Cách thức hoạt động của chính sách tiền tệ và
chính sách tài khóa có ảnh hưởng sâu rộng đến quyết định về nợ và cách quản lý nợ
công. Để đảm bảo hiệu quả, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chính sách này,
trong đó Ngân hàng Trung ương đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý mối quan
hệ với nợ công.
Hệ thống pháp lý, bao gồm luật, nghị định thể chế pháp luật, hệ thống pháp lý
là công cụ pháp lý nền tảng cho các cơ quan tổ chức thực hiện, tiến hành thanh tra
kiểm tra. Đây là tiền đề cho công tác quản lý hoạch định chiến nợ công của mỗi quốc
gia.

III. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NỢ CÔNG TẠI VIỆT NAM


1. Thực trạng nợ công ở Việt Nam
a. Tình hình nợ công tại Việt Nam
Bảng 1. Các chỉ số dùng để đánh giá mức độ nợ của Ngân hàng thế giới

Nguồn: World Bank

11
Bảng 2. Một số chỉ tiêu chính về nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 2010 – 2022

Nguồn: Niên giám thống kê tài chính 2019, Bộ Tài chính – Số liệu trích theo bản tin nợ công số 10, 17 – Bộ
Tài chính
Dựa trên các chỉ số đánh giá về mức độ nợ nêu trên (Bảng 1), so sánh với một
số chỉ tiêu chính về nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 2010 - 2022, ta thấy mức
độ nợ nước ngoài của Việt Nam thuộc mức 2 (mức nợ khó khăn). Giai đoạn 2010 -
2019, mức nợ nước ngoài/GDP bình quân của Việt Nam đạt 38,8%. Tuy nhiên, kể từ
năm 2020 trở đi mức nợ nước ngoài của Việt Nam có xu hướng giảm và đạt bình
quân 40,7%/năm giai đoạn 2020 - 2022. Đặc biệt, năm 2017, mức nợ nước ngoài đạt
48,9%/GDP, gần sát với ngưỡng mức nợ trầm trọng và sát với ngưỡng 50% được
quốc hội cho phép. Tuy nhiên, tới năm 2022 mức nợ này đã giảm xuống còn 36,1%.
Về tình hình nợ công của Việt Nam: Trong giai đoạn 2010 – 2022, theo số liệu
công bố từ Niên giám thống kê của Bộ Tài chính cho thấy tỷ lệ nợ công/GDP có xu
hướng tăng qua các năm và duy trì ít nhất từ mức 30%/GDP trở lên. Cụ thể, năm
2010, nợ công của Việt Nam đạt 46,978 triệu USD, tương đương 56,3% GDP, và
đến năm 2019, nợ công đã tăng lên 125,215 triệu USD, tương đương 55% GDP. Đến
năm 2022, mức nợ công của Việt Nam đạt 137,176 triệu USD, tương đương mức
37,4%/GDP và Việt Nam thuộc nhóm nước có mức nợ công trung bình so với thế
giới. Như vậy, trong vòng 10 năm từ năm 2010 đến năm 2019 quy mô nợ công đã
tăng gấp 2,67 lần với tốc độ tăng trưởng nợ tăng 11,64% mỗi năm. Từ năm 2020 đến
2022, quy mô nợ công tương đối ổn định ở mức 138,2 triệu USD/năm. Riêng năm
2016, tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam đạt ngưỡng cao nhất là 63,7% và có xu
hướng giảm xuống 37,4% vào năm 2022. Đạt được kết quả này có thể kể đến Luật
quản lý nợ công đã được ban hành vào năm 2017, đòi hỏi các đơn vị có liên quan
phải ưu tiên tập trung nguồn lực và tổ chức thực hiện đảm bảo đúng tiến độ, chất
lượng, hiệu quả và tiết kiệm.
12
Ở Việt Nam theo Luật quản lý nợ công (khoản 2, điều 21) số 20/2017/QH14
ngày 23 tháng 11 năm 2017 và Quyết định số 958/QĐ-TTg ngày 27 tháng 7 năm
2012 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của
quốc gia giai đoạn 2011 – 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 đã quy định chi tiết các
chỉ tiêu để đánh giá an toàn nợ công bao gồm: Nợ công ≤ 65% GDP; Dư nợ chính
phủ ≤ 55% GDP; Nợ nước ngoài của quốc gia ≤ 50% GDP; Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp
của Chính phủ (không kể cho vay lại)/Tổng thu NSNN ≤ 25% GDP; Nghĩa vụ trả nợ
nước ngoài của quốc gia/Giá trị xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ ≤ 25% GDP.
Mặc dù tỷ lệ nợ công vẫn nằm trong giới hạn cho phép (50% - 60% GDP),
Việt Nam từng gặp vấn đề đáng lo ngại khi tỷ lệ nợ công trên GDP tăng nhanh (tăng
trên 10%/năm), dù tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao. Ngoài ra, theo báo cáo
của Bộ Tài chính, mức nợ của Chính phủ cũng ổn định trong giai đoạn 2010 - 2020,
từ mức 56,3%/GDP năm 2010 tới mức 55,9%/GDP ở năm 2020, trong khi mức trần
là 55%/GDP. Như vậy, Chính phủ đã không giữ được mục tiêu duy trì nợ Chính phủ
ở mức dưới 50%/GDP và nguồn gốc chủ yếu làm phát sinh nợ Chính phủ chính là do
bội chi ngân sách. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến việc trả nợ nước ngoài của chính
phủ và ảnh hưởng đến tình hình an ninh tài chính nói chung. Tuy nhiên, nợ công của
cả nước năm 2021 và 2022 đã thấp so với nhiều năm trước đó (lần lượt ở mức 42,7%
GDP và 37,4% GDP), cách xa mức trần 60% GDP Quốc hội cho phép, giúp áp lực
lên ngân sách sụt giảm.

Nợ công/GDP của Việt Nam và một số quốc gia khu vực Đông Nam Á năm 2022

Ngoài ra, so sánh với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á cho thấy tỷ lệ
nợ công/GDP của Việt Nam là thấp nhất, chỉ chiếm 37,4%, trong khi Singapore và
Lào lần lượt là 133% và 88%.

b. Cơ cấu nợ công tại Việt Nam


13
Theo quy định tại Điều 4 Luật Quản lý nợ công năm 2017, nợ công được phân
loại như sau: nợ của chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ của chính
quyền địa phương.
Theo số liệu công bố của Bộ Tài chính, cơ cấu nợ công của Chính phủ tính
đến ngày 31/12/2022 như sau: nợ Chính phủ chiếm 90,24%, nợ được Chính phủ bảo
lãnh chiếm 8,28% và nợ chính quyền địa phương chiếm 1,48%.

(1) Nợ của Chính phủ


Bảng 3. Các chỉ tiêu về nợ Chính phủ, nợ Chính phủ bảo lãnh, nợ Chính quyền địa phương

Nguồn: Số liệu từ bảng tin nợ công số 17 – Bộ Tài chính

Bảng 4. Dư nợ và cơ cấu nợ của Chính phủ

Nguồn: Số liệu từ bảng tin nợ công số 17 – Bộ Tài chính


Theo số liệu từ Bảng tin nợ công số 17 của Bộ Tài chính, tổng số nợ chính phủ
năm 2022 là 137,176 triệu USD, chiếm 90,24% tổng nợ công và chiếm 34,2% GDP.
Chính phủ đã giữ được mục tiêu duy trì nợ công dưới 50%. Tuy nhiên, năm 2016 và
2017, chính phủ đã không thực hiện được mục tiêu này, chủ yếu do bội chi ngân
sách.
Trong tổng số nợ của Chính phủ, nợ nước ngoài là 41,171 triệu USD, chiếm
30,01% và nợ trong nước đạt 96,004 triệu USD, chiếm 69,99%. Việc chính phủ vay
nợ nước ngoài nhiều có thể gây áp lực khi trả nợ và khi đối mặt với rủi ro tỷ giá. Vấn
đề vay và trả nợ nước ngoài ở trạng thái an toàn chỉ khi Việt Nam ổn định được tỷ
giá hối đoái. Tỷ lệ nợ nước ngoài của Chính phủ có xu hướng giảm dần kể từ năm
2020 và chiếm tỷ lệ 30,01% vào năm 2022. Các khoản vay ODA và vay ưu đãi có kỳ
hạn lãi suất dài chiếm khoảng 94% trong tổng nợ nước ngoài của chính phủ. Tuy
nhiên, cần quan tâm đến việc điều kiện vay có thể thay đổi do Việt Nam trở thành
quốc gia có thu nhập trung bình vào năm 2010. Các điều kiện vay có thể thay đổi
theo hướng giảm kỳ hạn và tăng chi phí huy động vốn. Hơn nữa, theo quy định của
14
Luật quản lý nợ công, các khoản nợ nước ngoài của doanh nghiệp Nhà nước không
được tính vào nợ công. Điều này mang theo nhiều rủi ro, vì trong trường hợp các
doanh nghiệp này không thể trả nợ, trách nhiệm vẫn thuộc về chính phủ và thực tế đã
xảy ra hiện tượng ở Việt Nam.

(2) Nợ được chính phủ bảo lãnh


Bảng 5. Dư nợ và cơ cấu nợ được Chính phủ bảo lãnh

Nguồn: Số liệu từ bảng tin nợ công số 17 – Bộ Tài chính


Theo số liệu từ Bảng tin nợ công số 17, nợ Chính phủ bảo lãnh năm 2022 đạt
12.582,33 triệu USD, chiếm 8,28% trong tổng cơ cấu nợ công và chiếm 3,1% trong
tổng sản phẩm quốc dân (GDP). Trong tổng nợ được chính phủ bảo lãnh, nợ nước
ngoài là 6.050,52 triệu USD, chiếm 48,1% và nợ trong nước là 6.531,81 triệu USD,
chiếm 51,9% trong tổng nợ được Chính phủ bảo lãnh. Đây là phần nợ có nhiều rủi ro
khi có biến động tỷ giá và trách nhiệm trả nợ thuộc về chính phủ nếu bên vay không
thể trả nợ. Trên thực tế nợ được chính phủ bảo lãnh phần lớn là nợ nước ngoài của
các doanh nghiệp nhà nước được nhà nước bảo lãnh. Với tình hình hoạt động sản
xuất kinh doanh kém hiệu quả của một số doanh nghiệp lớn của nhà nước gần đây đã
tạo ra áp lực trong việc trả nợ nước ngoài, với trách nhiệm cuối cùng thuộc về nhà
nước. Điều này làm tăng rủi ro trong việc chi trả nợ công chung của chính phủ.

(3) Nợ của chính quyền địa phương


Bảng 6. Vay và trả nợ của Chính quyền địa phương
Đơn vị: triệu USD

Nguồn: Số liệu từ bảng tin nợ công số 17 – Bộ Tài chính


Theo số liệu công bố của Bản nợ công số 17, đến cuối năm 2022 nợ chính
quyền địa phương là 2.250,91 triệu USD, chiếm 1,48% trong tổng nợ công của Việt
Nam và chiếm 0,6% GDP. Mặc dù tỷ trọng của nợ chính quyền địa phương trong
tổng nợ công và tỷ lệ nợ này so với quy mô của nền kinh tế đều nhỏ, nhưng trong bối
cảnh tình hình nợ công hiện nay ở Việt Nam, mức nợ của chính quyền địa phương
vẫn có ảnh hưởng không nhỏ đến sự gia tăng tổng nợ công.

c. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng gia tăng nợ công ở Việt Nam
15
Một số nguyên nhân chủ yếu có thể dẫn đến tình trạng nợ công như hiện nay:
Thứ nhất, mở rộng đầu tư công một cách ồ ạt nhưng không hiệu quả đã dẫn
đến sự gia tăng mạnh mẽ của nợ công. Trong nhiều năm qua, chính phủ đã đầu tư
một lượng lớn tài nguyên vào các dự án công cộng, đặc biệt là cơ sở hạ tầng như
cảng biển, sân bay, đặc khu kinh tế... Tuy nhiên, việc lập kế hoạch xây dựng các dự
án một cách dàn trải và lãng phí là điều tất yếu xảy ra. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
mỗi năm Việt Nam cần khoảng 25 tỷ USD để đầu tư vào cơ sở hạ tầng, nhưng nguồn
vốn huy động được chỉ đạt khoảng 16 tỷ USD, phần còn lại phải vay nợ nước ngoài.
Cùng với đó, hoạt động chi tiêu và đầu tư công kém hiệu quả, gây lãng phí và thất
thoát nguồn vốn đầu tư. Tình trạng này dẫn đến thâm hụt ngân sách và thâm hụt chi
tiêu công đều ở mức cao trong nhiều năm. Theo thống kê, việc xây dựng đường xá
tốn khoảng 20 triệu USD/km. Tuy nhiên, tính toán cho thấy, sau khi hoàn thành và
sử dụng trong 2 năm, đường xá thường cần phải tu sửa. Tương tự, gần đây, Việt Nam
đã chi một số tiền lớn để xây dựng tượng đài một cách phung phí. Với những chi phí
không hợp lý như vậy, tỷ lệ nợ công của Việt Nam sẽ tiếp tục gia tăng nhanh chóng.
Thứ hai, tình hình ngân sách nhà nước rơi vào tình trạng bội chi trong những
năm gần đây, khiến chính phủ phải vay nợ để bù đắp bội chi và giải quyết ngân sách
nên nợ công tăng cao. Điển hình như việc chính phủ sử dụng các gói kích cầu nhằm
ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội
trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy giảm. Mặc dù các biện pháp kích cầu đã giúp nền
kinh tế có nhiều biến động tích cực trong khủng hoảng, nhưng cũng là một trong
những nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng nợ công. Ngoài ra, cơ cấu chi tiêu thường
chiếm tỷ trọng lớn và có sự gia tăng trong những năm vừa qua, dẫn đến tình trạng
thâm hụt ngân sách và việc chính phủ chi trả lãi vay chiếm tỷ lệ lớn trong chi ngân
sách nhà nước.
Thứ ba, nợ được chính phủ bảo lãnh ngày càng gia tăng trong những năm vừa
đây, chủ yếu đến từ các khoản nợ của các doanh nghiệp nhà nước. Trong trường hợp
các doanh nghiệp này không thể trả nợ, nhà nước sẽ phải chịu trách nhiệm thanh
toán. Việc vay nợ nói chung và bảo lãnh nói riêng có thể tiềm ẩn rủi ro lớn và phụ
thuộc vào hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước. Vẫn tồn
tại nhiều doanh nghiệp lớn được nhà nước bảo lãnh hoạt động sản xuất kinh doanh
mà không đạt được lợi nhuận, gây ra sự thất thoát và lãng phí nguồn vốn và tài sản,
ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình trạng nợ công của quốc gia.
Thứ tư, hiện tượng tham nhũng, thất thoát nguồn vốn hiện đang diễn ra. Lãi
phải trả cho cho các khoản đi vay quá lớn, trong khi phần lớn số vốn vay lại không
được sử dụng hiệu quả do nhiều lý do như tham nhũng, thất thoát, chậm tiến độ...
Điều đó dẫn đến các khoản lãi ngày càng trầm trọng. Bên cạnh đó, Việc sử dụng vốn
không minh bạch và các dự án chậm tiến độ cũng góp phần làm tăng lãi phải trả. Các
dự án càng kéo dài, trì trệ thì càng lỗ, trong khi đó thì gánh nặng trả lãi của các
khoản vay lại ngày càng tăng. Điều này dẫn đến sự gia tăng nguy cơ trong việc chi
trả nợ và tăng thêm áp lực lên ngân sách. Đặt ra câu hỏi là liệu nguồn vốn đã thực sự

16
được đầu tư đúng hướng và các nhà lãnh đạo đã thực sự đặt lợi ích quốc gia lên hàng
đầu khi mà có quá nhiều dự án thua lỗ, chậm trễ, phải thay đổi nhiều nhà thầu mới có
thể hoàn thành.

2. Mô hình tổ chức bộ máy quản lý nợ

Nguồn: Sơ đồ hóa từ Luật Quản lý nợ công năm 2009


Mô hình tổ chức bộ máy quản lý nợ là hệ thống cơ cấu và các cơ quan có trách
nghiệm quản lý, giám sát, điều chỉnh các nguồn thu chi, nợ của một quốc gia. Bộ
máy quản lý nợ công của Việt Nam không có quản lý công nợ công nợ thống nhất
mà phân chia các chức năng quản lý nợ công thống nhất mà phân chia cho các đơn vị
khác nhau và thường hướng đến mục tiêu 5 năm hoặc các mục tiêu dài, trung hạn
khác cụ thể 7 đơn vị như hình trên.
Quốc hội là cơ quan có thẩm quyền quản lý cao nhất, Quốc hội đưa ra quyết
định về các chỉ tiêu an toàn nợ công và kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội Các quyết
định mục tiêu, định hướng huy động, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công nhằm bảo

17
đảm chỉ tiêu an toàn về nợ; quyết định tổng mức, cơ cấu vay và trả nợ hàng năm của
Chính phủ.
Chính phủ có nhiệm vụ và thẩm quyền thống nhất về quản lý về nợ công;
quyết định chính sách, giải pháp cụ thể nhằm thực hiện các chỉ tiêu an toàn về nợ
công được Quốc hội thông qua; phê duyệt đề án phát hành trái phiếu quốc tế của
Chính phủ; thanh tra, kiểm tra về huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay, trả nợ và
quản lý nợ công.
Thủ tướng Chính phủ có nhiệm vụ và thẩm quyền phê duyệt kế hoạch vay, trả
nợ chi tiết hàng năm; phê duyệt chương trình quản lý nợ trung hạn cho giai đoạn ba
năm liền kề; phê duyệt đề án xử lý nợ, cơ cấu lại khoản nợ, danh mục nợ; quyết định
cấp bảo lãnh chính phủ, và một số thẩm quyền khác.
Bộ Tài chính sẽ là cơ quan giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về nợ
công. Bộ Tài chính là cơ quan đầu mối xây dựng mục tiêu, định hướng huy động, sử
dụng vốn vay và quản lý nợ công; Bộ Tài chính còn chịu trách nhiệm trực tiếp quản
lý các khoản vay của Chính phủ như xây dựng, ban hành chế độ quản lý tài chính đối
với các khoản vay; thực hiện cấp phát từ nguồn vốn vay của Chính phủ cho các
chương trình, dự án đầu tư và các mục tiêu khác. Bộ Tài chính cũng là cơ quan chịu
trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ và nghĩa vụ của người bảo lãnh
đối với các khoản bảo lãnh chính phủ; quản lý danh mục nợ.
Các cơ quan liên quan như Bộ KH-ĐT và NHNN chịu trách nhiệm tham gia
với Bộ Tài chính trong một số công việc liên quan đến quản lý nợ công trong phạm
vi chức năng quản lý nhà nước được giao thuộc thẩm quyền của Bộ. cả Bộ KH-ĐT
và NHNN đều cùng được giao nhiệm vụ tham gia với Bộ Tài chính trong việc xây
dựng mục tiêu, định hướng huy động, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công.

3. Những rủi ro tiềm ẩn của nợ công và khả năng kiểm soát nợ công ở Việt
Nam
a. Những rủi ro tiềm ẩn của nợ công ở Việt Nam
- Rủi ro trong chi tiêu công
Trong những năm qua, việc chi tiêu công ở Việt Nam chưa đạt hiệu quả cao
khi các hiện tượng như chi tiêu không đúng chế độ, sử dụng tài chính không đúng
mục tiêu, không đúng nguồn; các tình trạng bội chi, lãng phí và thất thoát diễn ra
khá phổ biến. Đối với các quốc gia đang phát triển và hội nhập như Việt Nam, vay
vốn là cách để lợi dụng quy tắc đòn bẩy nhằm tăng nguồn vốn đầu tư phát triển. Vì
vậy, mấu chốt của vấn đề không chỉ nằm ở việc vay bao nhiêu, vay từ nguồn nào
mà còn ở cách sử dụng nguồn vốn sao cho hiệu quả.
Hiện nay, tỷ lệ đầu tư ở Việt Nam rất cao. Đầu tư công ở nước ta tuy chiếm
tỷ trọng lớn nhưng vẫn quá dàn trải và kém hiệu quả. Cụ thể, hơn 98% vốn vay sử
dụng trực tiếp vào các dự án hạ tầng, phần còn lại được đưa vào ngân sách nhà
nước cho chi đầu tư (1,5%) và một phần chi sự nghiệp trong các dự án vay ODA
theo cam kết (0,4%). Hiện tượng kéo dài thời gian trả nợ và không có khả năng chi

18
trả nợ của các tổ chức sử dụng nguồn vốn vay được bảo lãnh không hiệu quả đã dẫn
đến phát sinh nghĩa vụ nợ dự phòng, khiến họ phải tái cơ cấu lại tài chính, tăng chi
trả nợ trực tiếp của chính phủ.
Một số trường hợp Chính phủ Việt Nam phải phát hành trái phiếu để đảo nợ,
cụ thể năm 2020 là 214 nghìn tỷ, năm 2021 là 250 nghìn tỷ và năm 2022 là 343
nghìn tỷ đồng (theo báo cáo Bộ tài chính). Thông qua hệ số ICOR, hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư công ở mức kém. Theo khuyến cáo của Ngân hàng Thế giới đối
với các nước đang phát triển, ICOR ở mức 3 là đầu tư có hiệu quả và nền kinh tế
phát triển bền vững.

- Rủi ro trong trả nợ công


Nợ công của Việt Nam hiện nay gồm nợ trong nước và nợ nước ngoài. Nợ
trong nước chủ yếu là trái phiếu chính phủ mà hệ thống ngân hàng thương mại mua,
còn nợ nước ngoài phần lớn là nợ song phương và nợ đa phương, trong đó nợ nước
ngoài của doanh nghiệp do Chính phủ bảo lãnh chiếm một tỷ trọng rất lớn. Cả nợ
trong nước và nợ nước ngoài ở Việt Nam đều rất đáng lo ngại.
Đối với vấn đề nợ trong nước, hiện nay hệ thống ngân hàng Việt Nam đang
gặp rất nhiều vấn đề về tính thanh khoản và nợ xấu. Nghĩa vụ trả nợ nội địa trong 3
năm tới được ước tính trên số lượng trái phiếu chính phủ đã phát hành và sẽ đáo
hạn trong vòng 3 năm tới.
Đối với vấn đề nợ nước ngoài, khả năng thanh toán nợ của Việt Nam được
Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia đánh giá theo các chỉ tiêu: quy mô của khoản
nợ so với GDP; quy mô khoản nợ so với tổng thu ngân sách nhà nước và so với
tổng giá trị xuất khẩu.
Bảng 7. Các chỉ tiêu về nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia (2018 – 2022)

Nguồn: Số liệu từ bảng tin nợ công số 17 – Bộ Tài chính


Tính trong GDP, nợ nước ngoài của Việt Nam giảm từ 46,0% năm 2018
xuống 36,1% năm 2022. Điều này thể hiện nỗ lực của Chính phủ trong việc kiểm
soát nợ và đảm bảo an toàn tài chính. Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia so
với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ duy trì ở mức 5,7-7,0%/năm
trong giai đoạn 2018-2022. Mức này được đánh giá là an toàn, cho thấy khả năng
trả nợ của Việt Nam vẫn được đảm bảo. Tính toán thông qua các chỉ tiêu trên, có
thể thấy khả năng thanh toán nợ của Việt Nam đang có dấu hiệu tích cực. Tuy
19
nhiên, mức nợ nước ngoài vẫn ở mức cao: mặc dù đã giảm, 36,1% GDP vẫn là một
con số đáng kể cần được quan tâm. So với tổng thu ngân sách nhà nước, năm 2022,
tổng nợ công gấp gần hai lần (chưa bao gồm nghĩa vụ trả nợ dự phòng cho các
doanh nghiệp nhà nước). Còn tỷ lệ nợ công nước ngoài với tổng giá trị xuất khẩu
được tính xấp xỉ khoảng 42,5% (Tổng nợ công nước ngoài (theo Bộ Tài chính):
156,4 tỷ USD; Tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa (theo Tổng cục Thống kê): 368,5 tỷ
USD). Dựa vào các chỉ tiêu được cung cấp, khả năng thanh toán nợ của Việt Nam
đang có dấu hiệu tích cực.

- Rủi ro thị trường


Rủi ro thị trường là những tổn thất phát sinh khi có sự biến động về giá cả
hoặc các yếu tố trên thị trường, trong đó lãi suất và tỷ giá là hai yếu tố ảnh hưởng
lớn nhất.
Thứ nhất, về lãi suất. Khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình,
đang dần thoát khỏi nhóm nước thu nhập thấp, đồng nghĩa với việc không còn đủ
điều kiện vay vốn ODA ưu đãi. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã phải
chuyển sang các nguồn vốn vay thương mại với lãi suất cao hơn và các điều kiện
vay khắt khe hơn, điều này làm gia tăng chi phí trả nợ hằng năm. Không những thế,
lãi suất thương mại thường biến động mạnh hơn lãi suất ưu đãi nên rủi ro lãi suất
thực sự là một điều đáng lo ngại. Tính trung bình giai đoạn 2020- 2022, chi trả lãi
chiếm 17,94% trong tổng chi trả nợ hằng năm và tỷ lệ này có xu hướng ngày càng
tăng lên. Như vậy, chưa nói đến nợ gốc, gánh nặng lãi suất nợ đang ở mức cao.
Thứ hai, là về biến động tỷ giá. Hầu hết các khoản vay đều bằng ngoại tệ,
trong đó có những đồng tiền chủ chốt như USD, JPY, EUR (tỷ giá có chiều hướng
nới rộng) cũng tạo thêm gánh nặng nợ, gây sức ép thâm hụt ngân sách. Khi nội tệ
mất giá, giá trị nợ nước ngoài tính bằng nội tệ sẽ tăng lên và thu nhập của chính phủ
từ thuế xuất khẩu sẽ giảm sút, chi tiêu của chính phủ cho nhập khẩu sẽ tăng lên, làm
tăng gánh nặng tài chính cho chính phủ, dẫn đến rủi ro vỡ nợ cao hơn. Giả sử, nếu
một quốc gia vay 100 triệu USD với tỷ giá 20.000 VND/USD, thì khi VND mất giá
10%, giá trị nợ sẽ tăng lên 110 triệu USD.

b. Khả năng kiểm soát nợ công ở Việt Nam


Báo cáo của Bộ Tài chính cho thấy, trong giai đoạn 2021-2023, các chỉ tiêu
an toàn nợ từng năm đảm bảo trong các mức trần và ngưỡng an toàn, được Quốc
hội phê duyệt. Quy mô nợ công đến cuối năm 2022 khoảng 38% GDP, thấp hơn
nhiều so với mức trần 57%. Nợ chính phủ khoảng 34,7% GDP, thấp hơn nhiều so
với trần 50%. Kỳ hạn phát hành bình quân trái phiếu chính phủ khoảng 12,4 - 12,5
năm, đảm bảo mục tiêu từ 9 - 11 năm, theo Kế hoạch tài chính quốc gia và vay trả
nợ công 5 năm giai đoạn 2021-2025.
Cùng với đó, lãi suất phát hành trái phiếu chính phủ được điều hành thận
trọng, đảm bảo phối hợp hài hòa với điều hành chính sách tiền tệ. Lãi suất phát

20
hành bình quân cả danh mục trái phiếu chính phủ dự kiến năm 2022 khoảng
3,3%/năm, giảm 0,18 điểm phần trăm so với mức năm 2021 trong bối cảnh lãi suất
toàn cầu vẫn duy trì xu hướng tăng.
Nợ nước ngoài giảm dần trong cơ cấu vay của Chính phủ. Danh mục nợ nước
ngoài hiện hành chủ yếu vẫn là các khoản vay kỳ hạn dài, lãi suất ưu đãi; góp phần
tăng tính bền vững trước biến động tỷ giá của các ngoại tệ mạnh trên toàn cầu.
Trong 2 năm gần đây, uy tín quốc gia của Việt Nam liên tục được cải thiện
và ghi nhận. Năm 2022, trong bối cảnh nhiều quốc gia bị hạ bậc tín nhiệm, Việt
Nam giữ nguyên mức hạng trong bảng xếp hạng tín nhiệm của tổ chức Fitch
Ratings đồng thời được 2 tổ chức xếp hạng tín nhiệm S&P và Moody’s nâng hạng
tín nhiệm quốc gia. Năm 2023, cả 3 tổ chức xếp hạng tín nhiệm toàn cầu đều đánh
giá triển vọng dài hạn của Việt Nam ở mức tích cực, trong đó Fitch Ratings đã nâng
xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn từ mức BB lên mức BB+ “Triển vọng ổn
định”; S&P, Moody’s giữ mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam (tương
ứng là BB+ “Triển vọng ổn định”; Ba2 “Triển vọng tích cực”).

4. Giải pháp quản lý nợ công ở Việt Nam


Để quản lý và kiểm soát nợ công như là một công cụ tài trợ vốn cho nền kinh
tế, đáp ứng nhu cầu đầu tư, phát triển sản xuất, tạo động lực để thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế cho đất nước; nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp sau:
Một là, cần hạch toán nợ công theo chuẩn quốc tế để đảm bảo các chính sách
liên quan đến nợ công thực tế hơn và mức độ nghiêm trọng của nợ công được xem
xét một cách toàn diện hơn, đồng thời thiết lập cơ quan chuyên trách quản lý nợ công
độc lập để theo dõi, giám sát và chịu trách nhiệm về nợ công cũng như tham mưu
cho các nhà hoạch định chính sách trong những trường hợp cần thiết.
Hai là, kiểm soát và quản lý chặt chẽ việc vay vốn, chỉ thực hiện cho vay đối
với những dự án khả thi, có khả năng trả nợ; gắn trách nhiệm trả nợ cho đối tượng
đầu tư và sử dụng vốn vay; thẩm định kỹ các khoản đầu tư, dự án cần vay vốn. Các
công trình, dự án đang sử dụng nguồn vốn vay cần phải được thường xuyên kiểm
soát tiến độ thực hiện, tránh thất thoát lãng phí.
Ba là, cần quy định cụ thể về thời điểm công bố thông tin, về số liệu nợ công;
tăng cường kiểm tra, giám sát và minh bạch thông tin về nợ công; thường xuyên
nghiên cứu đánh giá mức độ an toàn, bền vững nợ công để kịp thời điều chỉnh cơ cấu
nợ công phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, thu chi ngân sách và khả
năng trả nợ.
Bốn là, cần cân đối giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài; lựa
chọn nguồn vốn phù hợp với nhu cầu tài trợ và tính chất của từng nguồn vốn; cần
phân cấp rõ ràng trong quản lý nợ công gắn quyền hạn với trách nhiệm giữa nhu cầu
sử dụng vốn với trách nhiệm hoàn trả; đồng thời tăng cường hơn nữa hiệu lực quản
lý nhà nước về nợ công.

21
Năm là, ban hành các chỉ tiêu đánh giá tính bền vững của nợ công, bao gồm
các chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán và khả năng thanh khoản của nợ công,
đồng thời giám sát chặt chẽ việc tuân thủ; cải cách mạnh mẽ công tác quản lý đầu tư
công ở tất cả các khâu của chu kỳ dự án từ quy hoạch, lựa chọn dự án, giám sát thực
hiện dự án đến đánh giá dự án qua việc nâng cao chất lượng thể chế quản lý đầu tư
công.
Sáu là, chủ động điều hành ngân sách theo hướng siết chặt kỷ luật tài khóa,
đẩy mạnh việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ việc
chi tiêu, đảm bảo đúng chế độ, chính sách quy định, đúng dự toán được giao và khả
năng thu ngân sách nhà nước; giữa bội chi ngân sách trong giới hạn cho phép; phấn
đấu tăng thu, tiết kiệm chi để giảm bội chi ngân sách nhà nước.

22
KẾT LUẬN

Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới và sự phát triển của Việt Nam, vấn đề nợ công và
quản lý nợ công trở thành một thách thức đáng kể đối với sự ổn định tài chính và phát triển
bền vững của đất nước. Từ việc phân tích các vấn đề chung về nợ công, ta nhận thấy rằng nợ
công không chỉ đơn thuần là một chỉ số thống kê mà còn mang theo tác động rất lớn đối với
hoạt động kinh tế và xã hội của quốc gia.

Trong phần thực trạng quản lý nợ công tại Việt Nam, nhóm đã đặc biệt nhấn mạnh vào
việc phân tích cơ cấu nợ công, mô hình tổ chức bộ máy quản lý nợ, những rủi ro tiềm ẩn và
giải pháp quản lý nợ công. Tuy nhiên, việc thực hiện các giải pháp này vẫn còn nhiều thách
thức, đặc biệt là trong bối cảnh biến động của thị trường tài chính và tình hình kinh tế xã hội
không ổn định.

Để đảm bảo sự ổn định tài chính và phát triển bền vững, cần phải tiếp tục nâng cao
nhận thức và chủ động trong quản lý nợ công, thúc đẩy cải cách hệ thống quản lý tài chính
công và thực hiện các biện pháp cụ thể để giảm thiểu rủi ro và tối ưu hóa sử dụng nguồn vốn
vay. Chính sự chủ động và nhất quán trong việc thực hiện các biện pháp này sẽ đóng vai trò
quyết định trong việc đảm bảo an ninh tài chính và sự phát triển bền vững của Việt Nam trong
tương lai.

1
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Phan Hữu Nghị, PGS,TS. Lê Hùng Sơn, 2020, Bài giảng Tài chính công, NXB Đại
học Kinh tế Quốc dân
2. Bộ tài chính: https://mof.gov.vn/
3. Giáo sư - Tiến sỹ Vương Đình Huệ - UVTW Đảng - Tổng Kiểm toán Nhà nước, “Nợ
công và quản lý nợ công ở Việt Nam”, Cổng thông tin điện tử Kiểm toán nhà nước Việt
Nam
4. Trương Hùng Long, 2020, “Khuyến nghị của IMF về mức trần và ngưỡng an toàn nợ
công đối với Việt Nam trong trung hạn”, Cục Quản lý nợ & Tài chính đối ngoại
5. Nguyễn Lê, 2023, “Nợ công trong ngưỡng an toàn nhưng vẫn cần giải pháp mới”, Diễn
đàn Đầu tư – Kinh doanh
6. TS. Vũ Thanh Nguyên, 2023, “Phát triển kinh tế bền vững: Nhìn từ góc độ nợ công của
Việt Nam”, Tạp chí Tài chính
7. “Mối quan hệ giữa nợ công và sự phát triển của một quốc gia”, 2023, Trung tâm bồi
dưỡng đại biểu dân cử - Ban công tác đại biểu Ủy ban thường vụ Quốc hội
8. Nguyễn Thị Thúy, 2020, “Dự báo tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô đến nợ công”,
Cổng thông tin điện tử Viện chiến lược và chính sách tài chính
9. ThS. Nguyễn Thị Thúy, CN. Ngô Thị Phương Liên, 2016, “Đánh giá tác động của các
yếu tố kinh tế vĩ mô đến nợ công”, Cổng thông tin điện tử Viện chiến lược và chính
sách tài chính
10.Thùy Lê, 2019, “Khung pháp lý và thực trạng nợ công ở Việt Nam”, Báo Kiểm toán.
11.ThS. Trương Hùng Long, 2018, “Khuôn khổ pháp lý quản lý nợ công ở Việt Nam:
Những vấn đề đặt ra và định hướng hoàn thiện”, Tạp chí tài chính.
12.ThS. Nguyễn Thị Thúy, 2016, “Kinh nghiệm quốc tế về quản lý nợ công”, Cổng thông
tin điện tử viện chiến lược và chính sách tài chính.
13.Đỗ Thiên Anh Tuấn, 2015, “Các mô thức quản lý nợ công và vấn đề của Việt Nam”
14.Luật Quản lý nợ công, Luật số: 20/2017/QH14
15.Trần Văn Hùng, 2021, “Đánh giá tình hình nợ công của Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay”, Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ - Kinh tế - Luật và Quản lý
16.Bản tin 17 Nợ công, 2023, Bộ Tài chính
17.ThS. Nguyễn Thị Thanh Hoa, 2018, “Nợ công ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng,
nguyên nhân và một số giải pháp”, Tạp chí Công Thương
18.ThS Nguyễn Tuấn Tú, 2018, “Nợ công ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp”,
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN
19.Phạm Minh Thuỵ, 2022, “Cơ cấu chi phí và rủi ro nợ công đang báo động”,
VnEconomy.
20.Trâm Anh, 2023, “Chính phủ phải lo trả nợ khoảng 330.000 tỷ đồng năm 2023”,
VnEconomy
21.Đức Minh, 2023, “Các chỉ tiêu an toàn nợ công tiếp tục được kiểm soát chặt chẽ”, Thời
báo Tài chính Việt Nam

1
22.Đoàn Ngọc Phúc, 2018, “Nợ công ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp tăng cường
quản lý”, Tạp chí Việt Nam hội nhập

You might also like