Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 4

Ngày 11/6, Đối thoại Shangri-La lần thứ 19 tại Singapore bắt đầu ngày họp chính thức

đầu tiên với các nội dung tập trung vào chủ đề an ninh, ổn định ở khu vực. Tại phiên toàn
thể thứ 4 với chủ đề “Hiện đại hóa quân đội và những năng lực quốc phòng mới”, Đại
tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng đã có bài phát biểu quan trọng. Trân trọng giới thiệu toàn văn bài
phát biểu của Đại tướng Phan Văn Giang:
Thưa Ngài Chủ tịch!
Thưa các Quý vị!
Trước hết, tôi chân thành cảm ơn Bộ Quốc phòng Singapore và Viện Nghiên cứu Chiến
lược Quốc tế đã cho tôi cơ hội dự và phát biểu tại Đối thoại Shangri-La lần thứ 19. Chủ
đề mà tôi phát biểu hôm nay là: “Tăng cường khả năng quốc phòng để bảo vệ Tổ quốc”.
Kính thưa các Quý vị!
Chúng ta đã và đang chứng kiến một thế giới, với nhiều diễn biến, biến động khó lường.
Trong khi các vấn đề an ninh phi truyền thống ngày càng xảy ra nhiều hơn, hậu quả nặng
nề hơn, đòi hỏi cộng đồng quốc tế cần chung tay góp sức để ứng phó thì các vấn đề an
ninh truyền thống còn nhiều phức tạp, có nguy cơ xảy ra ở một số nơi, một số khu vực.
Trong khi xu thế hòa bình, hợp tác phát triển luôn là mong muốn chung của nhân loại, thì
cạnh tranh chiến lược, mâu thuẫn, xung đột lợi ích, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ giữa
các quốc gia vẫn tiếp tục xảy ra. Do vậy, việc nâng cao năng lực quốc phòng để bảo vệ
Tổ quốc, bảo vệ hòa bình thực sự là đòi hỏi tất yếu khách quan của mỗi quốc gia, dân tộc.
Xưa nay, sinh tồn luôn là bản năng của tự nhiên và của con người. Xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc luôn là sự nghiệp sống còn của mỗi quốc gia. Việt Nam đã trải qua nhiều thập kỷ
chiến tranh tự vệ nên thấu hiểu sự tàn phá và hậu quả của xung đột, bạo lực. Vì vậy,
chúng tôi chủ trương xây dựng quân đội, xây dựng tiềm lực quốc phòng đủ mạnh để tăng
cường khả năng bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ,
lợi ích quốc gia, dân tộc; đồng thời thực hiện trách nhiệm nghĩa vụ quốc tế cao cả.
Quân đội nhân dân Việt Nam từ nhân dân mà ra và là đội quân của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân. Kế thừa và phát huy tinh thần yêu nước, tinh hoa nghệ thuật quân sự,
được sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, trải qua gần 80 năm xây dựng và trưởng thành, quân
đội Việt Nam cùng nhân dân Việt Nam đã giành được nhiều thắng lợi vĩ đại trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay, Quân đội nhân dân
Việt Nam tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân,
xung kích trong ứng phó với nhiều thách thức an ninh phi truyền thống, đặc biệt là công
tác cứu hộ, cứu nạn, phòng chống thiên tai, ứng phó với đại dịch Covid-19; cử lực lượng
tham gia các hoạt động Gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, bước đầu đạt nhiều thành tựu
nổi bật, được cộng đồng quốc tế tôn vinh, ghi nhận.
Quốc phòng Việt Nam là nền quốc phòng toàn dân, mang tính chất hòa bình, tự vệ; tích
cực, chủ động, kiên quyết, kiên trì ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh. Mục tiêu
xuyên suốt của quốc phòng Việt Nam là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ vững ổn định
chính trị, môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước. Cam kết thể hiện trách
nhiệm, nghĩa vụ quốc tế cao cả, mong muốn đóng góp cho hòa bình, thịnh vượng, hợp tác
phát triển chung của khu vực và thế giới.
Quan điểm của Việt Nam, tăng cường tiềm lực quốc phòng là nâng cao sức mạnh tổng
hợp của toàn quân, toàn dân và toàn thể hệ thống chính trị; nâng cao sức mạnh tổng hợp
toàn diện, cả tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực kinh tế, khoa học công nghệ; chứ
không đơn thuần là nâng cao sức mạnh quân sự.
Việt Nam chủ trương tăng cường khả năng quốc phòng không đơn thuần là mua sắm, sản
xuất, hiện đại hóa vũ khí trang bị, mà là nâng cao sức mạnh quốc phòng trên nhiều
phương diện; xây dựng tiềm lực quốc phòng, quân sự theo chiến lược thống nhất, phù
hợp với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, khả năng tác chiến và trình độ,
năng lực của lực lượng vũ trang. Tăng cường khả năng quốc phòng thể hiện cả ở xây
dựng tổ chức, biên chế, trang bị, nghệ thuật quân sự, khoa học kỹ thuật, cơ sở bảo đảm
hậu cần thường xuyên được duy trì, hoàn thiện và không ngừng phát triển, đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Trong đó, trước tiên và then chốt là xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh
về chính trị, tinh thần, với quan điểm “người trước, súng sau”; có chất lượng tổng hợp và
sức chiến đấu cao, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ trong mọi tình huống quân sự, quốc phòng.
Hai là, xây dựng Quân đội hiện đại về tổ chức, biên chế theo hướng tinh, gọn, mạnh, có
cơ cấu hợp lý giữa các thành phần lực lượng, phù hợp với vũ khí, trang bị, nghệ thuật tác
chiến. Tập trung xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, cả lực lượng chính quy, lực
lượng thường trực, lực lượng dự bị động viên và lực lượng dân quân, tự vệ, là nhân tố
quyết định để phát huy sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân.
Ba là, nghiên cứu phát triển khoa học, lý luận, nghệ thuật quân sự Việt Nam tiên tiến,
hiện đại, phù hợp với chiến lược quốc phòng, chiến lược quân sự với các hình thức tác
chiến trong thời đại công nghệ phát triển như ngày nay.
Bốn là, phát triển nền công nghiệp quốc phòng hiện đại, lưỡng dụng, tự cường và mở
rộng hợp tác quốc tế với các đối tác tiềm năng. Bộ Quốc phòng Việt Nam chủ trương
phát triển nền công nghiệp quốc phòng không chỉ phục vụ mục đích quân sự, mà còn
phục vụ nhu cầu dân sinh, với các công nghệ, sản phẩm lưỡng dụng; như thế, vừa đáp
ứng yêu cầu tăng cường khả năng quốc phòng để làm tròn nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, vừa
góp phần phát triển kinh tế-xã hội, phục vụ đời sống nhân dân, theo đúng quan điểm, tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân đội nhân dân Việt Nam là đội quân chiến đấu,
đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất”. Bộ Quốc phòng Việt Nam đang chuẩn bị
tổ chức Triển lãm công nghiệp quốc phòng vào cuối năm nay, với mong muốn đối tác các
nước có thể gặp gỡ, giao lưu và mở ra các cơ hội hợp tác cùng phát triển.
Năm là, để tăng cường khả năng quốc phòng, đương nhiên không thể thiếu hiện đại hóa
vũ khí, trang thiết bị quân sự. Tuy nhiên, Việt Nam luôn chủ trương chỉ tập trung hiện đại
hóa vũ khí, trang bị quân sự để phục vụ mục đích bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình.
Tôi xin nhấn mạnh lại rằng, nền quốc phòng của Việt Nam là nền quốc phòng mang tính
chất hòa bình và tự vệ. Tăng cường tiềm lực quốc phòng để bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam
chủ trương tăng cường khả năng quốc phòng bằng nội lực và điều kiện, khả năng của
mình, không tham gia liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống lại nước
kia, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống
lại nước khác, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Việt Nam chủ trương tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, tăng cường xây dựng
lòng tin chiến lược với các nước; luôn mong muốn mở rộng hợp tác quốc phòng, để nâng
cao khả năng bảo vệ Tổ quốc, cùng nhau giải quyết các thách thức an ninh chung, trên cơ
sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, phù hợp với các nguyên
tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của thế giới, khu
vực và cộng đồng quốc tế.
Kính thưa các Quý vị!
Suốt dọc chiều dài lịch sử, dân tộc Việt Nam đã phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh tự
vệ, chịu nhiều đau thương, mất mát. Cho đến tận ngày nay, khi chiến tranh đã lùi xa gần
nửa thế kỷ, những hậu quả và di chứng chiến tranh để lại vẫn còn là một gánh nặng đối
với đất nước chúng tôi. Việt Nam thấu hiểu giá trị của hòa bình, mong muốn duy trì và
quyết tâm gìn giữ hòa bình đất nước, quyết tâm bảo vệ độc lập, tự do, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc. Chúng tôi cũng khao khát thế giới, khu vực, mọi
quốc gia, dân tộc đều được hưởng hòa bình, tự do, ấm no, hạnh phúc.
Quý vị đều biết, Việt Nam luôn kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình,
hữu nghị, hợp tác và phát triển bình đẳng, cùng có lợi; đa dạng hóa, đa phương hóa quan
hệ; mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong
cộng đồng quốc tế.
Đối với tranh chấp về chủ quyền trên Biển Đông, chúng tôi kiên trì, kiên quyết nguyên
tắc giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng độc lập,
chủ quyền và lợi ích chính đáng của các quốc gia; tuân thủ luật pháp quốc tế, trong đó có
Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982, cam kết thực thi nghiêm
túc Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và mong muốn hướng tới xây
dựng một Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) hiệu quả, thực chất và có tính pháp
lý rõ ràng hơn.
Tăng cường năng lực quốc phòng, nếu không minh bạch, sẽ rất dễ dẫn đến nghi kỵ, hiểu
lầm; nếu không vì mục đích chính nghĩa, rất dễ kéo theo chạy đua vũ trang. Hệ lụy là,
lòng tin chiến lược giữa các quốc gia suy giảm, cạnh tranh chiến lược gia tăng, nguy cơ
đối đầu hiện hữu, an ninh truyền thống phức tạp, chiến tranh, xung đột tiềm ẩn, khó
lường. Mặt khác, chạy đua vũ trang tất yếu sẽ tiêu tốn nguồn lực quốc gia, mà lẽ ra, có
thể sẽ tốt hơn nếu những nguồn lực quốc gia ấy được dành cho phát triển kinh tế-xã hội,
giải quyết các mối đe dọa an ninh phi truyền thống để chăm lo đời sống và hạnh phúc của
người dân.
Kính thưa các Quý vị!
Trên tất cả là hòa bình, hợp tác và phát triển, đây luôn là lợi ích, là nguyện vọng chính
đáng, là mong ước tương lai chung của các quốc gia, dân tộc. Tôi chắc chắn rằng, ai
trong chúng ta cũng luôn mong chờ một thế giới không tiếng bom, đạn; mong gương mặt
vui cười trên mỗi trẻ thơ, mong tất cả mọi người trên thế giới cùng chung sống trong
hạnh phúc và hòa bình.
Với Việt Nam chúng tôi, xây dựng và tăng cường khả năng quốc phòng không gì khác
mục đích này - Để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình, bảo vệ cuộc sống ấm no, hạnh phúc
của người dân.
Chúng ta mong muốn thế giới, khu vực hòa bình, chúng ta sẽ cần đến sự tin cậy chính trị
và lòng tin chiến lược, cần đến sự hợp tác phát triển, trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng
lẫn nhau, tôn trọng nguyên tắc, chuẩn mực, luật pháp, các cam kết và cơ chế hợp tác,
quốc tế.
Tôi cho rằng, các diễn đàn quốc tế như Đối thoại Shangri-La luôn là cơ hội để chúng ta
gặp nhau, để cùng nhau chia sẻ, hiểu nhau, và tin tưởng nhau hơn; để mở ra các cơ hội
thiết lập quan hệ, hợp tác cùng phát triển; vì một thế giới hòa bình, vì thịnh vượng của
mỗi quốc gia, dân tộc.

You might also like