Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 127

I.

ĐỌC HIỂU (3 điểm)


Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Người ta thường nói: “Trời không tạo ra người đứng trên người và cũng không tạo ra
người đứng dưới người”. Kể từ khi tạo hóa làm ra con nqười thì tất cả sinh ra đều bình
đẳng, mọi người đều có tư cách, có địa vị như nhau, không phân biệt đẳng cấp trên dưới,
giàu nghèo.[...]
Vậy mà nhìn rộng ra khắp xã hội, cuộc sống con người luôn có những khoảng cách một
trời một vực. Đó là khoảng cách giữa người thông minh và kẻ đần độn: giữa người giàu và
người nghèo; giữa tầng lớp quý tộc và tầng lớp hạ đẳng.
Như thế là tại làm sao? Nguyên nhân thực ra rất rõ ràng.
Cuốn sách dạy tu thân Thực ngữ giáo có câu: “Kẻ vô học là người không có trí thức, kẻ
vô tri thức là người ngu dốt”. Câu nói trên cũng có thể hiện: sự khác nhau giữa người thông
minh và kẻ đần độn là ở chỗ có học hay vô học mà thôi.
(Khuyến học, Fukuzawa Yukichi - Phạm Hữu Lợi dịch, NXB Thế giới, 2017, tr.24)
Câu 1.Xác định đề tài của đoạn trích trên.
Câu 2.Theo tác giả, cuộc sống con người luôn có những khoảng cách một trời một vực là do
đâu?
Câu 3. Anh/ Chị có đồng ý rằng sự khác nhau giữa người thông minh và kẻ đần độn là ở chỗ
có học hay vô học mà thôi không? Vì sao?
Câu 4.Theo anh/ chị, nguyên nhân chính dẫn đến nghèo đói có phải do thiếu tri thức hay
không?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Anh/ Chị nghĩ gì về thực trạng nhiều học sinh, sinh viên tốt nghiệp loại khá, giỏi vẫn thất
nghiệp? Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) bàn luận.
Câu 2. (5,0 điểm)
Anh/ Chi hãy phân tích vai trò của tiếng sáo đối với sự hồi sinh của nhân vật Mị trong
truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài (Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục,
2017).
Từ đó, liên hệ với vai trò bát cháo hành đối với sự hồi sinh của nhân vật Chí Phèo trong
truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao (Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục, 2017) để
nhận xét về giá trị nhân đạo của hai nhà văn gửi gắm qua hai yếu tố tác động này.

I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)


Câu 1.
– Vai trò của việc học.
– Học vấn và con người.
– Học vấn và xã hội.
Câu 2.HS tham khảo câu trả lời:
Theo tác giả, cuộc sống con người luôn có những khoảng cách một trời một vực là do học
vấn: sự khác nhau giữa người thông minh và kẻ đần độn là ở chỗ có học hay vô học mà thôi.
Câu 3.HS tham khảo câu trả lời:
Ngoại trừ nguyên nhân khách quan như gen di truyền, điều kiện sống và xã hội thì tôi
đồng ý rằng sự khác nhau giữa người thông minh và kẻ đần độn là ở chỗ có học hay vô học
mà thôi. Vì có học mới có hiểu biết, còn không học thì không trau dồi, tiếp thu tri thức thì
ngu dốt, đần độn là một điều hiển nhiên.
Câu 4.HS có thể đưa ra nguyên nhân chính là do học vấn hoặc không nhưng cân trả lời
thuyết phục. Dưới đây là câu trả lời tham khảo:
Theo tôi, ngoài các nguyên nhân khách quan như do khí hậu, môi trường sống,... thì
một trong những nguyên nhân chủ quan, chính yếu dẫn đến nghèo đói, theo tôi là do
thiếu tri thức. Trong thời đại bây giờ, có tri thức mới có đủ khả năng đáp ứng cho những
công việc đòi hỏi phải có kiến thức, trí tuệ. Do vậy, có tri thức thì cơ hội việc làm sẽ tốt hơn,
mà cơ hội việc làm tốt, nghĩa là chúng ta có nhiều lựa chọn trong việc, trong đó có những
công việc có mức thu nhập cao. Có mức thu nhập cao thì điều kiện sống nâng cao, không còn
cảnh túng thiếu, nghèo đói. Còn ngược lại, không có tri thức thì sự lựa chọn công việc hạn
hẹp và các công việc lao động ít cần đến tri thức thì thường thu nhập thấp, mà thu nhập thấp
thì dẫn đến nghèo đói là chuyện không thể tránh khỏi.
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
[Đ] Muốn có được học lực khá giỏi trong quá trình học tập đòi hỏi một sự nỗ lực tự thân
rất nhiều. Nhưng bên cạnh học lực (tạm gọi là phần cứng), người học (học sinh, sinh viên)
cần biết trau dồi kỹ năng sống (tạm gọi là kỹ năng mềm). Và muốn được tuyển dụng, có được
công việc, đòi hỏi người học phải có cả học lực lẫn kỹ năng sống.
[G] Vì ngoài khả năng làm việc cá nhân, người làm việc cần phải biết hợp tác, giao tiếp
với những người cùng làm việc. Do vậy, học lực là yếu tố cần nhưng chưa phải là yếu tố
quyết định đến sự thành bại trong công việc. Để làm tốt công việc, người được tuyển dụng
cần đáp ứng được cả hai yếu tố trên (năng lực làm việc).
[M] Nguyên nhân dẫn đến thực trạng tốt nghiệp loại khá giỏi mà vẫn thất nghiệp có thể là
do người học chưa thấy được tầm quan trọng của kỹ năng sống, chưa chú tâm rèn luyện. Hơn
cả, người học không nên đổ lỗi cho hoàn cảnh mà cần có trách nhiệm với cuộc đời mình: như
chương trình giáo dục không chú trọng giáo dục kỹ năng sống cho người học, do hoàn cảnh
không cho phép...
[B] Vì ngoài người học được tự do lựa chọn học gì thì không ai có quyền ép buộc bạn lựa
chọn khác đi, đúng không ?
Câu 2 (5,0 điểm)
1 Giới thiệu đôi nét về nhà văn Tô Hoài, truyện ngắn Vợ chong A Phủ và vai trò của
“tiếng sáo” đối với sự hồi sinh của nhân vật Mị.
2. Yêu cầu cơ bản: Bình luận vai trò của tiếng sáo đối với sự hồi sinh của nhân vật
Đối với nhân vật Mị, tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân có vai trò là yếu tố tác động đánh
thức sức sống tiềm tàng đã ngủ quên trong con người Mị. Tiếng sáo tác động đến tâm hồn,
tâm trạng và cả hành động của nhân vật Mị. Cụ thể:
– Mị nghe tiếng sáo, lòng thiết tha bồi hồi. Tiếng sáo đã mang Mị trở về với những ngày
xưa, trong hồi tưởng. Ngày xưa Mị cũng thổi sáo, Mị cũng hát mỗi khi tiếng sáo gọi bạn tình
mùa xuân cất lên. Ở hiện tại, như một phản ứng tự nhiên khi nghe tiếng sáo: Mị ngồi nhẩm
thầm bài hát của người đang thổi. Ngày xưa, ngày Tết Mị cũng uống rượu. Hiện tại, Mị cũng
uống: Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát.
– Tiếng sáo văng vẳng đầu làng và men say nồng của rượu làm lòng Mị sống về ngày
trước – những ngày Mị còn trẻ, Mị tự do, Mị xinh đẹp và Mị thổi sáo giỏi: Mị thổi lá hay như
thổi sáo và Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thôi sáo đi theo Mị; Mị thấy phơi phới trở
lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Sau những năm tháng mất
hết ý thức, Mị ý thức được quyền sống hạnh phúc như bao cô gái trẻ khác: Mị trẻ lắm. Mị vẫn
còn trẻ. Mi. muốn đi chơi. Mị ý thức được cuộc sống hôn nhân bất hạnh, gượng ép khi phải
sống với A Sử – không phải người đàn ông Mị yêu. Lúc này, sự phản kháng với cuộc sống
nhiều uất ức, khổ nhục trỗi dậy, Mị muốn chết như những ngày tháng đầu khi về làm dâu là
thống lý: Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ
lại nữa.
– Tiếng sáo gọi bạn tình lửng lơ ngoài đường Như một tình cờ trùng hợp với tâm lý Mị,
bài ca vang lên: Anh ném pao, em không bắt/ Em không yêu, quả bao rơi rơi... Ngày thường
Mị sống trong căn phòng u tối, quên đi ý niệm về thời gian. Nhưng hôm nay, tiếng sáo, mùa
xuân rạo rực khoi dậy trong tâm hồn tươi sáng, tâm hồn đây tỏa ra ngoài cảnh với hành động
lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng.
– Tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị: Tiếng sáo ngoại cảnh thấm vào tâm hồn Mị, thôi thúc
Mị hành động: Mị quấn lại tóc và với tay lay cái váy hoa.
– Tiếng sáo “đưa Mị đi theo những cuộc chơi”. Kết quả, A Sử về, như thường lệ, hắn hành
hạ Mị: nắm Mị, lấy thắt lưng trói Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột
nhà. Tóc Mị xãa xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng
đầu được nữa. Tuy thân xác Mị bị trói, nhưng niềm khao khát tự do trong tiềm thức vẫn thôi
thúc Mị đi theo tiếng gọi của tự do, hạnh phúc: Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những
cuộc chơi. [...] Mị vùng bước đi. Qua hành động “vùng bước đi”, ta cảm nhận được niềm khát
khao được sống, được hạnh phúc vô cùng mãnh liệt, mạnh mẽ của nhân vật này. Tuy nhiên,
sự đau đớn của thể xác đưa Mị trở về hiện thực đau khổ, Mị chỉ còn nghe thấy tiếng chân
ngựa đạp vào vách. [...] Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa. Dù thế, dư âm của
mùa xuân vẫn vang vọng trong Mị: Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi.
– Nếu tâm hồn Mị là ngọn lửa thì tiếng sáo đối với tâm hồn Mị như một cơn gió mát lành
thổi bùng ngọn lửa ấy lên. Tiếng sáo đối với sự hồi sinh của nhân vật Mị có vai trò như thế.
3. Yêu cầu nâng cao: Từ đó, liên hệ với vai trò bát cháo hành đối với sự hồi sinh của nhân
vật Chí Phèo trong truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao (Ngữ văn 11, Tập một, NXB
Giáo dục, 2017) để nhận xét về giá trị nhân đạo của hai nhà văn gửi gắm qua hai yếu tố tác
động này.
– Đối với hai nhân vật, Mị và Chí Phèo thì hai yếu tố tác động, tiếng sáo và bát cháo hành
đều đóng vai trò quan trọng trong sự hồi sinh trong tâm hồn của hai nhân vật này.
+ Mị vì nghe thấy tiếng sáo, âm thanh quen thuộc mà Mị nghe mỗi khi xuân về mà những
kí về những ngày sống tự do, yêu đời lại ùa về, đánh thức khát khao sống mãnh liệt.
+ Bát cháo hành tượng trung cho sự quan tâm chăm sóc, tình yêu của Thị Nở dành cho
Chí Phèo. Vì được ăn bát cháo hành do Thị Nở nấu mà tâm trạng Chí Phèo – con quỹ dữ của
làng Vũ Đại đã có những chuyển biến liên tục và tích cực, từ ngạc nhiên, khóc, bâng khuâng,
độc thoại nội tâm, ăn năn hối cãi, vui như trẻ con đến khao khát được hoàn lương, được sống
trong mái ấm gia đình.
– Qua hai yếu tố tác động (tiếng sáo và bát cháo hành), chúng ta có thế thấy điểm tương
đồng nào đó trong cách nhìn nhận con người. Cả hai nhà văn, Tô Hoài và Nam Cao đều cảm
thông cho sự thống khổ của con người: một bị lê liệt hoàn toàn ý thức, mất đi sức sống và sức
phản kháng, một là người nông dân bần cùng hóa dẫn đến lưu manh hóa. Nhưng cũng đồng
thời đó trân trọng khát khao sống, khát khao hoàn lương của cả hai nhân vật (bằng cách xây
dựng hai yếu tố tác động, bát cháo hành và tiếng sáo) và tô cáo gay gắt xã hội phong kiến
thực dân đã cướp đi cuộc sống tươi đẹp của họ, đẩy họ vào bước đường cùng. Với nhận xét
cá nhân, tôi cho rằng thông qua hai yếu tố tác động trên, cả hai nhà văn đã thể hiện một tấm
lòng nhân đạo đáng trân quý. Chính Tô Hoài và Nam Cao thông qua hai chi tiết này đã giúp
bạn đọc, trong đó có tôi, rút ra được những bài học về cách nhìn nhận con người cũng như
biết cảm thông, trân trọng khát vọng cao đẹp mà mỗi con người đều muốn hướng đến.
4. Đánh giá chung
Cả hai chi tiết được nhắc đến ở trên đều là chi tiết đặc sắc, đóng vai trò và ảnh hưởng lớn
đến giá trị của tác phẩm. Đồng thời nó cho thấy tài năng xây dụng chi tiết trong tác phẩm tự
sự của mỗi nhà văn.
I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Sức mạnh của lòng đam mê không bao giờ bị đánh giá thấp. Sức mạnh đó dẫn dắt bạn
trong suốt cuộc đời, đo lường giá trị con người bạn và ý thức của bạn về sự thành đạt. Sức
mạnh đó giúp bạn kiên định trước ánh mắt xét đoán cùa người khác. Nhiều người từng có
nhưng quyết định “không giống ai” và chọn những con đường hẹp gồ ghề dài hun hút, nhưng
rồi họ nhận ra mình đang đứng trên đỉnh vinh quang của cuộc sống mà trước đây không ai
nghĩ rằng họ làm được. Bạn có thể đưa ra những quyết định tối ưu và lý trí nhất, nhưng tổng
của các quyết định đó không phải lúc nào cũng cho ra một kết quả hợp lí nhất. Cái tạo ra sự
khác biệt cuối cùng chính là sức mạnh của lòng đam mê.
Vào những năm cuối thập niên 90 của thế kỷ trước tại Mỹ có sự bùng nổ số lượng sinh
viên theo học các trường luật. Xu hướng này sau đó chuyển sang Học viện kế toán viên Công
chứng Hoa Kỳ (AICPA - American Institue of Certified Public Accountants), sau đó là du học
tại chỗ thay vì phải ra nước ngoài. Các trường đại học khoa học, nha hay y dược lúc đó vẫn
là các chủ đề được nói đến nhiều nhất, trong khi các trường nghệ thuật thì ngược lại. Tôi
không có ý đánh giá thấp nghề nghiệp nào cả, mà tôi chỉ muốn nhấn mạnh cảm giác trống
rỗng mà cuối cùng bạn sẽ phải đối diện, nếu bạn chọn nghề nghiệp tương lai không dựa vào
niêm đam mê mà dựa vào danh tiếng bề ngoài hay sự ổn định của khoản thu nhập về sự hứa
hẹn về những phúc lợi hấp dẫn.
Cuộc đời bạn phải được dẫn dắt bởi tương lai, ước mơ và niềm đam mê của bạn. Từ “đam
mê” trong tiếng Anh - passion – bắt nguồn từ một từ Latin cổ “passio”, có nghĩa là “đau
đớn”. Quả là không thể chính xác hơn! Đam mê là một tên gọi khác của nỗi đau. Khi bạn
thỏa hiệp với kết quả ngọt ngào đang quyến rũ bạn ngay vào lúc này thay vì theo đuổi ước
mơ, nỗi đau sẽ xuất hiện.
(Rando Kim, Tuổi trẻ, khát vọng và nỗi đau, NXB Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 2016)
Câu 1.Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên.
Câu 2.Theo tác giả, sức mạnh của lòng đam mê có ý nghĩa như thế nào?
Câu 3. Theo anh/ chị, tại sao: Khi bạn thỏa hiệp với kết quả ngọt ngào đang quyến rũ bạn
ngay vào lúc này thay vì theo đuổi ước mơ, nỗi đau sẽ xuất hiện?
Câu 4.Bài học ý nghĩa mà anh/ chị rút ra từ văn bản trên?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về quan niệm: Cái
tạo ra sự khác biệt cuối cùng chính là sức mạnh của lòng đam mê.
Câu 2. (5,0 điểm)
Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (Vợ chồng A Phủ,
Tô Hoài, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017).
Theo anh/ chị, hình ảnh tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân có điểm gì tương đồng với
hình ảnh chuyến tàu đêm trong tác phẩm Hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam (Ngữ văn 11,
Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017)?
I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Câu 1. Phương thức biểu đạt nghị luận/ Nghị luận
Câu 2. HS có thể trả lời theo cách trích dẫn hoặc diễn đạt lại nội dung. Theo tác giả/ sức
mạnh của lòng đam mê có ý nghĩa:
– Dẫn dắt bạn trong suốt cuộc đời, đo lường giá trị con người bạn và ý thức của bạn về sự
thành đạt, giúp bạn kiên định trước ánh mắt xét đoán của người khác.
– Tạo ra sự khác biệt.
Câu 3.HS tham khảo một số ý sau:
– Bời vì đam mê và ước mơ vẫn hiện diện trong cuộc sống, nhắc nhở và dằn vặt bạn về
những điều bạn chưa thể làm được.
– Bởi vì bạn không thể đánh giá giá trị và chất lượng cuộc sống của bạn dựa trên những
kết quả tạm thời. Mà khi đánh giá lầm/ đến khi nhận ra, nỗi đau và sự dằn vặt sẽ bám riết và
ám ảnh lấy bạn.
– Bởi vì cuộc đời không theo đuổi đam mê và mơ ước sẽ khiến cuộc sống trở nên vô
nghĩa. Còn nỗi đau nào lớn hơn là tự mình thấy cuộc đời của mình vô nghĩa.
Câu 4. HS có thể trả lời theo quan điểm của mình/ tuy nhiên cần tìm thấy bài học từ văn bản
(không chép lại văn bản). Dưới đây là một số gợi ý:
– Đam mê là điều quan trọng trong cuộc sống con người/ nó giúp con người sống thêm
một cuộc đời nữa, đầy nghĩa lí.
– Những ngành nghề thời thượng hay những kết quả ngọt ngào chỉ là cái tạm thời, do đó ta
cần xác định được ước mơ và mục tiêu của mình.
– Nếu không theo đuổi đam mê mà chỉ chạy theo giá trị tức thời, ta sẽ phải trả giá cho điều
đó bằng nỗi đau.
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
HS tham khảo gợi ý dưới đây:
[Đ] Quả thật: Cái tạo ra sự khác biệt cuối cùng chính là sức mạnh cùn lòng đam mê.
[G] Đam mê là một quá trình trải nghiệm, khi bạn đã trải qua quá trình thực tiễn với công
việc một thời gian, cảm thấy thực sự yêu thích công việc và theo đuổi công việc sở thích đó
tới cùng cho dù phải chấp nhận hy sinh nhiều thứ trong cuộc sống. Lòng đam mê có khả năng
và sức mạnh để dẫn dắt con người vươn đến thành công. Con người chỉ có thể thành công khi
đặt hết tâm huyết vào nỗ lực vào điều mà mình làm, điều đó chi có thể thực hiện được khi
con người làm điều đó với lòng đam mê. Lòng đam mê giúp con người vượt qua nghịch cảnh,
khó khăn, thất bại trong cuộc sống, tiếp thêm ý chí và sức mạnh để con người tiếp tục theo
đuổi khát vọng trong cuộc đời. Không có lòng đam mê con người khó có thể phát huy hết
năng lực sở trường của mình để tạo nên sự khác biệt và thành công.
[M] Tuy nhiên, cần xác định đam mê và nguồn lực của bản thân và đề ra hướng phát triển
đúng đắn để vươn tới thành công.
[B] Nếu chưa có đam mê, hãy tìm cho mình đam mê để sống vì nó, tin tôi đi, bạn sẽ tìm
thấy được sự khác biệt giữa mình và người khác, từ suy nghĩ, sự nỗ lực, kiên trì cho đến khả
năng thành công.
Câu 2 (5,0 điểm)
1. Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm và nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân
2. Yêu cầu cơ bản: Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa
xuân
– Giới thiệu đôi nét về nhân vật Mị: Mị là một cô gái hầu như tập trung được những vẻ
đẹp tiêu biểu của người phụ nữ miền núi: Mị vừa đẹp người, vừa đẹp nết, cần cù, đảm đang,
hiếu thảo, giàu đức hi sinh vị tha, ham sống, yêu đời và rất mực tài hoa. Bị bắt vô làm con
dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra, làm vợ A Sử, Mị thấm thìa nỗi đau của một cuộc đời bị cướp
đoạt: bị dày đọa trong cuộc sống lao động cực nhọc, bị giam hãm về mặt tinh thần, tê liệt cả ý
thức phản kháng. Mị đã từng phản kháng với cuộc sống ấy bằng những giọt nước mắt, bằng
cách tự tử, nhưng vì lòng hiếu thảo, Mị quay trở lại nhà thống lí Pá Tra và chấp nhận cuộc
sống ấy. Mị thờ ơ với sự chảy trôi của thời gian, sắc màu cuộc sống của Mị trở nên mờ nhạt.
– Sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị cháy lên trong đêm tình mùa xuân:
+ Mùa xuân về trên rẻo cao, đặc biệt là đêm tình mùa xuân với tiếng sáo gọi bạn tình của
trai làng đóng vai trò như là yếu tố tác động, làm sống tiềm tàng trong con người Mị trỗi dậy
một cách mãnh liệt.
+ Tiếng sáo, khung cảnh mùa xuân và cả hơi men chếnh choáng đã gợi dậy quá khứ tươi
đẹp, ngày Mị còn trẻ, còn tự do, còn yêu đời. Mị đã thoát khỏi tâm trạng dửng dưng bấy lâu
để trở thành con người thức tỉnh, vươn tới những ý nghĩ và khát vọng đẹp đẽ.
+ Mị thấy trong lòng đột nhiên vui sướng... Mị trẻ lắm... Mị muốn đi chơi. Ý thức về hoàn
cảnh bản thân trỗi dậy, Mị phẫn uất mãnh liệt và thấm thìa nỗi tủi nhục của mình. Lúc này,
Mị lại muốn ăn lá ngón mà chết đi. Trong khi đó, tiếng sáo, biểu tượng của khát vọng tự do
và tình yêu tuổi trẻ đang rập rờn trong đầu Mị.
+ Mị thắp lên ngọn đèn trong căn phòng tối tăm của mình như khêu ngọn lửa của lòng
ham sống, của sự khát khao. Hành động này thúc đẩy hành động khác, không thể kìm nén
được nữa: Mị quấn lại tóc, với tay lấy chiếc váy hoa chuẩn bị đi chơi ngày Tết.
+ Nhưng giữa lúc lòng ham sống trong Mị trỗi dậy, dâng lên mãnh liệt như sóng trào thì
cũng là lúc Mị bị vùi dập một cách khắc nghiệt, lạnh lùng. A Sử, chồng Mị thản nhiên trói
đứng Mị vào cột nhà. Như không đang biết mình đang sợ bị trói... Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa
Mị đi theo những cuộc chơi, quên mọi đau đớn về thể xác, Mị đã vùng dậy bước đi. Điều đó
chúng tỏ sức sống tiềm ẩn trong con người Mị mãnh liệt biết nhường nào.
3. Yêu cầu nâng cao: Chi tiết tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân có điểm tương đồng với
hình ảnh chuyến tàu đêm:
– Cũng như Mị, những người dân phố huyện sống trong một cuộc đời ngập đầy bóng tối,
ánh sáng chỉ bé nhỏ, len lỏi, ít ỏi. Do đó, chuyến tàu đêm như một tác nhân làm cuộc đời của
họ sáng lên, dẫu chỉ trong tích tắc.
– Tiếng sáo nhắc nhở Mị về một quãng đời đầy lòng ham sống, đánh thức trong Mị những
khao khát, chuyến tàu đêm chở theo ánh sáng từ một vùng trời khác để khơi dậy trong những
con người phố huyện sức sống, niềm tin tưởng và hi vọng về một ngày mai tươi sáng hơn.
Hai chi tiết thể hiện cái nhìn nhân đạo, đầy cảm thông của hai nhà văn đối với những kiếp
người bé nhỏ trong cuộc sống.
4. Đánh giá chung
– Bằng sự am hiểu tâm lý người miền núi, khả năng dẫn dắt kể chuyện tinh tế, Tô Hoài đã
làm bật lên sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân thật hấp dẫn, tự
nhiên và đầy xúc động.
– Sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị qua đêm tình mùa xuân cũng là biểu hiện của ngòi
bút nhân đạo Tô Hoài: cảm thông với những thân phận bất hạnh, nhìn thấy và trân trọng khát
vọng sống của họ.
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Có một sự thật: 99,5% thời gian của con người tồn tại trên Trái đất là ở trong rừng. 30
triệu năm tiến hóa từ một giống linh trưởng nhỏ cho đến loài người trưởng thành, tất cả chỉ
xảy ra khoảng vài nghìn năm trước mà thôi.
Tổ tiên chúng ta từng biết mọi thứ về thiên nhiên. Ta hiểu rõ bí mật của nó, ta biết loài
cây nào tốt để làm thuốc, loài nào ăn được và không ăn được. Chúng ta tường tận mọi ngóc
ngách, biết nơi nào có thể dừng để trú mưa và nơi đâu để đến mỗi khi bão lũ.
Nhưng giờ đây, con người quay lưng lại với thiên nhiên và bước đi một con đường khác.
Chúng ta ghì chặt lấy những khối bê tông và nhựa cứng. Ta tôn thờ thần tượng và các thương
hiệu đắt tiền. Con người đã biến ngôi nhà của chính tổ tiên thành một nhà máy khổng lồ để
phục vụ cho sự tham lam của mình.
Như đã nói, tôi yêu rừng và tôi mong có thêm người Việt Nam cảm nhận được như thế.
Ta cần những nơi như vậy để nhắc nhở rằng chúng ta đến từ đâu. Ta cần rừng để giúp ta giũ
bỏ nhiều loại bệnh xã hội như nghiện ngập, phương tiện di động, các thực tế sai lầm hay chủ
nghĩa tôn thờ vật chất. Và đặc biệt là cơn khát tiền.
Rừng không phải là nơi để chúng ta đùa giỡn. Rừng không chào đón những con người
thiếu ý thức cùng với iPhone của họ. Những người đó thèm muốn một nơi tuyệt đẹp để tham
quan và chụp hình, nhưng khi rời đi lại để rác cho khu rừng tự dọn. Rừng cũng không nên là
một công cụ để thu lợi nhuận hay phục vụ mục đích cá nhân của bất kỳ ai. Bất cứ khi nào tiền
và sự ích kỷ vào cuộc, mọi thứ đúng sẽ bị đảo lộn.
Rừng là để yêu thương, học hỏi và tôn trọng.
(Trích Thiên đường hạ giới, Jesse Peterson, dẫn theo báo điện tử VNExpress.net)
Câu 1. Đoạn trích trên sử dụng phương thức biếu đạt chủ yếu nào?
Câu 2. Đoạn trích trên cung cấp cho anh/ chị những tri thức nào về rừng?
Câu 3. Vì sao tác giả cho rằng: Rừng là để yêu thương, học hỏi và tôn trọng?
Câu 4. Thông điệp nào trong đoạn trích trên có ý nghĩa nhất với anh/ chị?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) với chủ đề: Bài học từ rừng.
Câu 2 (5,0 điểm)
Cảm nhận của anh/ chị về sức phản kháng mạnh mẽ của nhân Mị trong đêm đông giải
cứu A Phủ qua đoạn trích dưới đây:
Lúc ấy đã khuya. Trong nhà ngủ yên, thì Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng
lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò
xuống hai hõm má đã xám đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm
trước, A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống
miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt
mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng
nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải
chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở
đây thôi... Người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ... Mị phảng phất nghĩ như vậy.
Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi, cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình, Mị
lại tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con
Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái
cọc ấy. Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ...
Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị
tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại... Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây
mây. A Phủ cứ thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây
trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì thào được một tiếng "Đi ngay...", rồi Mị
nghẹn lại. A Phủ bỗng khuỵu xuống không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi
ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên chạy.
Mị đứng lặng trong bóng tối.
Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn,
chạy, chạy xuống tới lưng dốc, Mị thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:
- A Phủ cho tôi đi.
A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:
- Ở đây thì chết mất.
A Phủ chợt hiểu.
Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình.
A Phủ nói: “Đi với tôi”. Và hai người lẵng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi.
(Trích Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài, Ngữ văn 12 - Nâng cao,
Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, tr.14 -15)
Từ đó liên hệ với sức phản kháng của nhân vật Chí Phèo qua đoạn trích dưới đây
(Truyện ngắn Chí Phèo, Ngữ văn 11, Tập một, NXH Giáo dục, 2017) để nhận xét về giá trị
hiện thực và giá trị nhân đạo mà hai nhà văn gửi gắm thông qua hai nhân vật này.
Đoạn trích:
Trời nắng lắm, nên đường vắng. Hắn cứ đi, cứ chửi, cứ dọa giết “nó”, và cứ đi. Bây giờ
đến ngõ nhà cụ bá. Hắn xông xông đi vào […]
Hắn trợn mắt, chỉ vào mặt cụ:
- Tao không đến đây xin năm hào.
Thấy hắn toan làm dữ, cụ đành dịu giọng:
- Thôi, cầm lấy vậy, tôi không còn hơn.
Hắn vênh cái mặt lên, rất là kiêu ngạo:
- Tao đã bảo tao không đòi tiền.
- Giỏi! Hôm nay mới thấy anh không đòi tiền. Thế thì anh cần gì?
Hắn dõng dạc:
- Tao muốn làm người lương thiện!
Bá Kiến cười ha hả:
- Ồ tưởng gì! Tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ.
Hắn lắc đầu:
- Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai
trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không! Chỉ có một cách… biết
không!... Chỉ còn một cách là… cái này! Biết không!...
Hắn rút dao ra, xông vào. Bá Kiến ngồi nhỏm dậy, Chí Phèo đã văng dao tới rồi. Bá
Kiến chỉ kịp kêu một tiếng.
(Trích Chí Phèo, Nam Cao, Ngữ văn 11 – Nâng cao,
Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017, tr.186 – 187)
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Câu 1.
- Phép lặp: xe đạp, tôi,...
- Hoặc phép thế: Tất cả mọi người thay thế cho người dân đều chọn xe buýt, metro hoặc xe
đạp.
- Hoặc phép nối: Rồi cả những, nhưng,...
Câu 2. Theo tác giả, việc di chuyển bằng xe đạp có lợi ích:
- Tất cả mọi người có cùng một địa vị.
- Đi làm bằng xe đạp chính là cách tận dụng thời gian hiệu quả, vừa đến được chỗ làm, vừa
giảm được calo.
- Vận động nhiều ở chân giúp sản sinh một lượng lớn hormone testosterone, nên sẽ rất có lợi
cho nam giới.
- Bảo vệ môi trường, giữ cho môi trường luôn trong lành, sạch đẹp.
Câu 3. HS tham khảo câu trả lời dưới đây:
- Giọng điệu trong câu Những kẻ đạp xe mon men ngoài lề như tôi tất nhiên là không đủ tiêu
chuẩn tham gia cuộc chiến đó là giọng điệu mỉa mai, châm biếm.
- Tác dụng: Châm biếm, phê phán, mỉa mai những người tham gia giao thông thiếu ý thức.
Câu 4.
- Hưởng ứng: Tôi hưởng ứng việc dùng xe đạp làm phương tiện di chuyển chính. Vì nó
không chỉ tốt cho sức khỏe, thân thiện với môi trường mà còn góp phần làm cho xã hội trở
nên văn minh và có ý thức hơn.
- Không hưởng ứng: Vậy sinh ra các phương tiện hiện đại hơn xe đạp làm gì? Chúng ta
không sử dụng các phương tiện hiện đại khác đi lại nghĩa là phủ nhận sự phát triển, tiến bộ
của loài người. Vả lại, lựa chọn phương tiện di chuyển chính nào nó còn tùy thuộc vào điều
kiện của bạn: Nhà xa, đường kẹt xe,...
- Vừa hưởng ứng vừa không hưởng ứng: (Tham khảo hai ý kiến trên).
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
[Đ] Mỗi người cần có chính kiến của bản thân trước sự tác động của thế giới bên ngoài
là một câu nói giáo dục mỗi người về lòng kiên định trước sự tác động của thế giới bên ngoài
như dư luận chẳng hạn.
[G] Tôi cho rằng việc có chính kiến là tốt và kiên định bảo vệ chính kiến của bản thân
mình đến cùng trước dư luận xã hội còn tốt hơn. Vì nó không chỉ thể hiện bạn là người có lập
trường, có chính kiến mà nó còn thể hiện bạn là con người có bản lĩnh trước sóng gió của
cuộc đời. Tôi lấy ví dụ là trường hợp của tác giả Jesse Peterson trong đoạn trích phần Đọc
hiểu, anh đã thấy được vai trò của việc đi xe đạp sẽ mang lại lợi ích gì cho sức khỏe của con
người cũng như cộng đồng, kể trong việc thể hiện sự bình đẵng về địa vị của con người trong
xã hội. Anh đã kiên định đến cùng với sự lựa chọn đi xe đạp và chấp hành pháp luật một cách
tự giác. Đó là điều không hề dễ làm nếu bạn tham gia giao thông ở Việt Nam. Như vậy Jesse
Peterson đã không chỉ giúp bản thân mà còn giúp thúc đẩy sự tiến bộ của cộng đồng bởi
những suy nghĩ, hành vi tích cực, đúng đắn hơn thông qua việc bày tỏ và bảo vệ chính kiến
của mình trước sự tác động của thế giới bên ngoài. Đó là một việc chẳng hề dễ dàng.
[M] Không phải ai cũng có thể kiên định, quyết liệt trong việc bảo vệ chính kiến của
mình đến cùng. Những người như thế người ta gọi là thuộc kiểu người gió chiều nào theo
chiều đó, ba phải... Có chính kiến là tốt, tuy nhiên chính kiến cần xuất phát từ sự hiểu biết. Vì
tranh giới giữa một người có chính kiến và một người bảo thủ rất gần nhau.
[B] Chúc bạn tinh anh, trí tuệ trong suy nghĩ để luôn hướng đến và có những quan điểm
đúng đắn và tiến bộ.
Câu 2 (5,0 điểm)
1. Giới thiệu đôi nét về Tô Hoài, Vợ chồng A Phủ và nhân vật Mị :
2. Yêu cầu cơ bản: Cảm nhận của anh/ chị về sức phản kháng mạnh mẽ của nhân Mị
trong đêm đông giải cứu A Phủ: '
- Chính cuộc đời nô lệ đã biến Mị thành một cô gái lạnh nhạt, dửng dưng vô cảm với mọi thứ
xung quanh. Nhưng giọt nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đen xám lại của A Phủ đã
khơi dậy lòng đồng cảm nơi Mị, Mị thương mình rồi thương cho người: đêm năm trước A Sử
trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia và Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng,
xuống cổ, không lau hết đi được, rồi căm thù tội ác bọn thống lý gây ra: Chúng nó thật độc ác
vì có quá nhiều người bị trói đứng đến chết như thế. Mị lo lắng cho A Phủ: Cơ chừng này chỉ
đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Cũng lúc này ý nghĩ về thân
phận mình, một tù nhân của hủ tục lạc hậu miền núi, bị bắt đi trình ma nhà nó rồi tì chỉ còn
biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi. Thoáng Mị nghĩ đến A Phủ, A Phủ không bị trình ma thì
việc gì mà phải chết thế. Mị nghĩ đến cảnh tượng bị trói thay vào chỗ Phủ cho đến chết nếu
cứu A Phủ. Nhưng trong tình cảnh này làm sao Mị cũng không thấy sợ. Sau đó Mị quyết định
cởi trói cho A Phủ và cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài. Sức phản kháng mạnh mẽ của Mị
xuất phát từ tình thương, từ thương mình đến thương người mà Mị vượt qua được nỗi sợ bị
chết thay mà giải thoát cho A Phủ. Hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ là hệ quả tất yếu
của quá trình bị áp bức, đè nén, cần được giải tỏa của con người. Đồng thời, hành động này
khẳng định ý nghĩa của cuộc sống và khát vọng tự do đến cháy của nhân dân lao động miền
núi.
- Khác với vẻ ngoài gan góc, mạnh mẽ, bộc trực của A Phủ, nhân vật Mị tuy vẻ ngoài trầm
lắng nhưng đời sống nội tâm lại sôi nổi, phức tạp. Nhưng cũng vì thế mà Tô Hoài đã tái hiện
lại những nỗi đau, sự đè nén của nhân dân lao động miền núi và khát vọng sống mạnh mẽ của
họ thông qua nhân vật này. Đó là một phương diện rất thành công của truyện.
3. Yêu cầu nâng cao: Từ đó liên hệ với sức phản kháng của nhân vật Chí Phèo qua đoạn
trích dưới đây (Truyện ngắn Chí Phèo, Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục, 2017) để nhận
xét về giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo mà hai nhà văn gửi gắm thông qua hai nhân vật
này.
- Liên hệ với đoạn Chí Phèo trả thù Bá Kiến và tự sát: Đoạn trích tái hiện lại cảnh Chí Phèo
đến nhà Bá Kiến trả thù, giết Bá Kiến rồi tự kết liễu cuộc đời mình; cho thấy sức phản kháng
vô cùng quyết liệt và mạnh mẽ của Chí Phèo. Giá trị hiện thực của truyện ngắn này phản ánh
thực tế cuộc sống của người nông dân trước dưới chế độ phong kiến thực dân trước Cách
mạng, mà chủ yếu là tầng lớp nông dân bần cùng dẫn đến lưu manh hóa. Họ không còn con
đường nào khác tự giải thoát cho mình ngoài tìm đến cái chết. Đồng thời, đoạn trích này cũng
chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc của nhà văn Nam Cao: cảm thông với những con người
dưới đáy xã hội với bao tủi nhục, đắng cay họ phải chịu đựng, trân trọng khát vọng được
sống lương thiện, và tố cáo mạnh mẽ xã hội phong kiến thực dân đương thời.
- Nhận xét giá trị hiện thực và nhân đạo của hai nhà văn qua hai đoạn trích trên: Tuy đối
tượng khai thác hiện thực khách quan có khác nhau (một là người nông dân bần cùng hóa dẫn
đến lưu manh hóa trong xã hội trước Cách mạng, một là người nông dân sống trong xã hội
phong kiến thực dân ở miền núi sau Cách mạng), nghệ thuật dựng truyện và xây dựng nhân
vật có khác nhau,... Nhưng giá trị hiện thực của hai truyện Vợ chồng A Phủ và Chí Phèo
thông qua hai đoạn trích trên có nhiều điểm tương đồng và phản ánh chân thực cuộc sống của
người nông dân sống dưới chế độ phong kiến thực dân hà khắc. Đồng thời, hai đoạn trích đã
thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của nhà văn Nam Cao và Tô Hoài: cảm thông với số phận
đau khổ, trân trọng khát vọng sống tự do, hạnh phúc và tố cáo mạnh mẽ xã hội đương thời.
4. Đánh giá chung
Cả hai đoạn trích trên đều là những đoạn trích chứa đựng giá trị hiện thực chân thực, khách
quan và nhân đạo sâu sắc của nhà văn Tô Hoài và Nam Cao. Đó là giá trị để tác phẩm còn
sống mãi cùng với thời gian và thế hệ bạn đọc.

I.ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)


Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Anh viết thâu đêm, đánh vật với từng trang
Rồi thao thức không sao ngủ được
Kim đồng hồ tích tắc, tích tắc
Hai tiếng động nhỏ bé kia
Hơn mọi ầm ào gầm thét
Là tiếng động khủng khiếp nhất đối với con người
Đó là thời gian
Nó báo hiệu mỗi giây phút qua đi không trở lại
Nhắc nhở cái gì đang đợi ta ở cuối
Nhưng anh, anh chẳng sợ nó đâu
Thời gian - đó là chiều dài những ngày ta sống bên nhau
Thời gian - đó là chiều dày những trang ta viết
Bây giờ anh mới hiểu hết câu nói trong kịch Shakespeare:
Tồn tại hay không tồn tại
Không có nghĩa là sống hay không sống
Mà là hành động hay không hành động
nhận thức hay không nhận thức, tác động vào cuộc đời hay quay lưng lại nó?
Anh không băn khoăn mình có tài hay kém tài, thành công hay thất bại
Chỉ day dứt một điều: làm sao với những sự vật bình thường
Những ngày tháng bình thường
Như chiếc hộp con, như tờ lịch trên tường
Ta biến thành con tàu, thành tấm vé
Những ban mai lên đường.
(Lưu Quang Vũ, Cho Quỳnh những ngày xa, dẫn theo thivien.net)
Câu 1. Cho biết phương 02 phưong thức biểu đạt nổi bật sử dụng trong bài thơ trên.
Câu 2. Theo tác giả, vì sao tiếng kim đồng hồ lại là tiếng động khủng khiếp nhất đối với con
người?
Câu 3. Hình ảnh tấm vé và con tàu trong câu thơ: Ta biến thành con tàu, thành tấm vé tượng
trưng cho điều gì?
Câu 4. Theo anh/ chị, giá trị thực sự của thời gian là gì?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về thông điệp trong
đoạn trích thơ trích từ phần Đọc hiểu:
Tồn tại hay không tồn tại
Không có nghĩa là sống hay không sống
Mà là hành động hay không hành động
nhận thức hay không nhận thức, tác động vào cuộc đời hay quay lưng lại nó?
Câu 2 (5,0 điểm)
Phân tích diễn biến tâm lí nhân vật Mị trong đoạn trích sau:
Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị
cũng đến chết héo. Mỗi đêm, Mị đã dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần.
Thường khi đến gà gáy, Mị ngồi dậy ra bếp sưởi một lúc thật lâu, các chị em trong nhà
mới bắt đầu ra dóm lò bung ngô, nấu cháo lợn. Chỉ chợp mắt được từng lúc, Mị lại thức sưởi
lửa suốt đêm.Mỗi đêm, nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa sưởi bùng
lên, cùng lúc ấy Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống.
Mấy đêm nay như thế. Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết
đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa. Có đêm A
Sử chợt về thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn
ra sưởi như đêm trước.
Lúc ấy đã khuya. Trong nhà ngủ yên, thì Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng
lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò
xuống hai hõm má đã xám đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm
trước, A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống
miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt
mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng
nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải
chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở
đây thôi... Người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ... Mị phảng phất nghĩ như vậy.
Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi, cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình, Mị
lại tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con
Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái
cọc ấy. Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ...
Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị
tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại... Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây
mây. A Phủ cứ thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây
trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì thào được một tiếng "Đi ngay...", rồi Mị
nghẹn lại. A Phủ bỗng khuỵu xuống không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi
ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên chạy.
Mị đứng lặng trong bóng tối.
Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn,
chạy, chạy xuống tới lưng dốc, Mị thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:
- A Phủ cho tôi đi.
A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:
- Ở đây thì chết mất.
A Phủ chợt hiểu.
Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình.
A Phủ nói: “Đi với tôi”. Và hai người lẵng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi.
(Trích Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài, Ngữ văn 12 - Nâng cao,
Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, tr.14 -15)
Kết thúc đoạn trích trên có điểm nào khác biệt so với hình ảnh: Liên không nghĩ được
lâu, mắt chị nặng dần, rồi sau Liên ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở
trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam (Ngữ văn
11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017)?
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Câu 1. Phương thức biểu đạt biểu cảm và tự sự/ Biểu cảm và tự sự.
Câu 2. Theo tác giả, tiếng kim đồng hồ lại là tiếng động khủng khiếp nhất đối với con người
vì: Nó báo hiệu mỗi giây phút qua đi không trở lại/ Nhắc nhở cái gì đang đợi ta ở cuối.
Câu 3. Ý nghĩa của hình ảnh tấm vé và con tàu trong câu thơ: Ta biến thành con tàu, thành
tấm vé:
Hình ảnh tấm vé và con tàu tượng trưng cho những khao khát, những ước mơ được trải
nghiệm, được khám phá của con người, giúp hình ảnh thơ trở nên gợi hình, gợi cảm.
Câu 4.
- Giá trị thực sự của thời gian đó là khi chúng ta sống cuộc sống có ý nghĩa.
- Giá trị thực sự của thời gian nằm ờ chất lượng, ý nghĩa của cuộc đời ta sống.
- Giá trị thực sự của thời gian không nằm ở độ dài của nó mà ở những điều ta đã làm được.
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
[Đ] Qua đoạn trích thơ: Tồn tại hay không tồn tại/ Không có nghĩa là sống hay không
sống/ Mà là hành động hay không hành động/ nhận thức hay không nhận thức, tác động vào
cuộc đời hay quay lưng lại nó? tôi nhận được một thông điệp sống có giá trị. Đó là sống là
hành động và nhận thức được cuộc đời chỉ khi ta tác động vào nó.
[G] Tôi nghĩ rằng, ý nghĩa của sự tồn tại của con người chính là phải làm những điều có
ý nghĩa với chính mình, với gia đình, với cộng đồng. Đó là khi ta sống là hành động. Sự tồn
tại như vậy phải thông qua hành động: con người phải làm việc, hành động để tạo ra của cải
vật chất, hoặc những giá trị tinh thần để giúp ích cho bản thân và xã hội. Có như thế cuộc đời
con người mới trở nên có ý nghĩa, mới thực sự là sống. Tôi sẽ nhặt rác để bảo vệ môi trường
thay vì đứng nhìn hay viết một bài văn hay về bảo vệ môi trường. Tôi sẽ không nói chuyện
lớn tiếng để hạn chế gây ô nhiễm âm thanh ở nơi công cộng. Tôi sẽ không vượt đèn đỏ dù
còn một giây đèn đỏ. Tôi sẽ... Hành động chỉ đơn giản như thế nhưng nó lại tạo ra giá trị và
sự hiệu quả để chúng ta thực sự sống.
[M+B] Theo quan niệm này thì sự sống của con người không được đo lường bằng năm
tháng sống trên đất mà bằng những đóng góp, những cống hiến của con người cho cuộc đời.
Cuộc đời của con người sẽ trở nên vô vị, tẻ nhạt, vô nghĩa, sẽ chỉ là sự tồn tại vô ích nếu con
người không chịu nhận thức ý nghĩa của hành động trong cuộc đời.
Câu 2 (5,0 điểm)
1. Giới thiệu đôi nét về Tô Hoài, Vợ chồng A Phủ và vị trí đoạn trích
- Dửng dưng, vô cảm: Trong những đêm mùa đông tê buốt ấy, Mị trở lại trạng thái tê dại
trong tâm hồn. Mị sống âm thầm như một cái bóng không thiết gì ngoài ngọn lửa, có hôm A
Sử đi chơi về, ngứa mắt đánh, Mị ngã ngay xuống cửa bếp thì hôm sau lặng lẽ, Mị lại ra thổi
lửa, hơ tay  hình ảnh héo hắt của người đàn bà của những đêm đông trên núi cao. Mị thấy
A Phủ bị trói đứng từ mấy đêm trước, đôi mắt A Phủ mở trừng trừng chẳng gợi cho Mị điều
gì, Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay, A Phủ với Mị cũng xa lạ như mọi thứ trên đời. Để cực
tả sự lạnh lẽo, tê dại trong tâm hồn Mị, nhà văn còn đưa ra giả thiết: Nếu A Phù là cái xác
chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn vô cảm, vẫn sưởi, chỉ biết ngọn lửa.
- Thương mình, thương người cùng cảnh ngộ: Đêm ấy, A Phủ khóc: một dòng nước mắt lấp
lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Giọt nước mắt tuyệt vọng và cay đắng của A Phủ
đã đánh thức tâm hồn Mị thoát khỏi tình trạng vô cảm hằng ngày. Từ giọt nước mắt của
người, Mị nhớ đến giọt nước mắt của mình: Mị chợt nhớ lại đêm năm trước, A Sử trói Mị, Mị
cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không
biết lau đi được. Mị nhận ra mình trong bóng dáng A Phủ bị trói kia, tâm hồn Mị sống trở lại
trong sự tự thương mình.
- Sự thức tỉnh của nhận thức: Từ sự thương xót, Mị nghĩ đến tình cảnh tuyệt vọng của A Phủ
 nhận ra cái chết của A Phủ sẽ đau đớn và vô lí làm sao: Chỉ đêm mai là người kia chết,
chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. [...] Người kia việc gì mà phải chết thế. Mị nhớ lại
người đàn bà đã bị trói đến chết trong căn nhà này, lòng căm thù chôn giấu lâu nay bùng
cháy, chúng nó thật độc ác.
- Hành động cứu người: lòng thương một khi đã xuất hiện sẽ lớn lên mạnh mẽ, lấn át cả nỗi
thương thân, làm Mị chiến thắng nỗi sợ hãi: cắt dây trói cứu A Phủ. Mị cứu A Phủ trong ý
thức chấp nhận sự hi sinh về mình, sẵn sàng thế mạng cho anh. Đó là giây phút tuyệt đẹp
trong cuộc đời Mị. Cắt dây trói cứu A Phủ chứng tỏ Mị với sức sống nội tâm mạnh mẽ và
hành động phản kháng quyết liệt đã sống lại.
- Hành động tự cứu mình: giây phút A Phủ vùng lên chạy là lúc Mị hốt hoảng. Vì lòng
thương người đã được giải quyết rồi thì sự thương mình quay trở lại. Mị sợ ở đây chết mất,
cái sợ của người có lại niềm ham sống. Mị vụt chạy ra, băng đi, dẫu trời tối lắm để làm người
tự do, đuổi kịp A Phủ. Hai người lẳng lặng dìu nhau chạy xuống chân dốc, một kết thúc tất
yếu. Số phận đã gắn họ lại với nhau, con đường họ đi không thể khác.
- Ý nghĩa: Cắt dây trói hữu hình quanh A Phủ, Mị cũng đồng thời cắt đứt những dây trói vô
hình đang trói buộc mình trong kiếp sống nô lệ, cứu thoát A Phủ cũng chính là Mị tự quyết
định giải thoát, khát vọng sống của tuổi trẻ đã giải thoát Mị khỏi cảnh chết ngay khi còn đang
sống.
3. Yêu cầu nâng cao: Liên hệ với kết thúc trong tác phẩm Hai đứa trẻ (Thạch Lam):
- Mặc dù là nhà văn lãng mạn nhưng tác phẩm của Thạch Lam vẫn mang đậm dấu ấn hiện
thực. Sau phút bùng lên của đoàn tàu – một nguồn sáng lớn, mạnh mẽ đi qua phố huyện tăm
tối thì bóng tối đã trở lại, dày đặc, bao phủ đêm ở trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối. Đó là
kết thúc tất yếu của những con người chưa tìm thấy được ánh sáng bền vững và tin tưởng cho
cuộc đời mình.
- Ra đời trong một giai đoạn khác, khi: Nếp rêu con cùng chói lòa ánh sáng/ Khi mặt trời
chân lý rọi hang sâu (Chế Lan Viên), đoạn trích Vợ chồng A Phủ kết thúc bằng chi tiết A Phủ
cùng Mị chạy trốn, tìm đến cuộc đời tự do, và như một lẽ tất yếu, họ tìm đến với cách mạng.
Cuộc đời của họ từ đó đổi thay, không chìm ngập trong tăm tối và bi kịch.
- Hai kết thúc này có sự khác nhau là điều tất yếu bởi chúng ra đời trong những giai đoạn
khác nhau, có ý nghĩa khác nhau trong việc phản ánh hiện thực xã hội, thể hiện sự chuyển
biến về tư tưởng của các nhà văn theo từng giai đoạn của xã hội, trước Cách mạng và sau
Cách mạng.
4. Đánh giá chung
- Đoạn truyện hấp dẫn người đọc bởi lối miêu tả tâm lí nhân vật. Hành động của Mị tuy bộc
phát ngẫu nhiên những không nằm ngoài quy luật tất yếu.
- Đoạn truyện còn thể hiện tư tưởng nhân đạo: Cảnh ngộ bất hạnh cùng vẻ đẹp tâm hồn Mị
bằng tấm lòng thương cảm sâu sắc, khơi gợi niềm cảm thông ở bạn đọc qua đó khẳng định
sức sống tiềm tàng của Mị, dù bị giẫm đạp đè nén đến đâu cũng không chịu mất đi. Chính sức
sống và niềm đồng cảm đã khiến Mị giải thoát cho người và giải thoát cho chính mình. Nhân
danh quyền sống con người, Tô Hoài đã lên án chế độ phong kiến tàn bạo ở miền núi.
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Thế nào là một người sống thứ sinh? Đấy là người sống với mục đích gây ấn tượng với
người khác, lấy sự đánh giá của người khác làm thước đo bản thân.
Mục đích cuộc đời anh ta là gì? Là sự vĩ đại trong mắt người khác. Là danh vọng, sự
ngưỡng mộ, sự ghen tị của người khác, của công chúng. Công chúng quyết định giá trị của
anh ta và anh ta hài lòng với những gì người ta nghĩ là anh ta có. Công chúng là động lực
sống của anh ta, là mối quan tâm lớn nhất của anh ta. Anh ta không muốn giỏi, mà muốn
được nghĩ là giỏi. Anh ta không muốn lao động, mà muốn tỏ vẻ lao động và được người ta
nghĩ là lao động giỏi. Anh ta vay mượn giá trị và ảnh hưởng của người khác để gây ấn tượng
với những người khác nữa. Chính anh ta mới thực sự là kẻ không vị kỷ bởi vì anh ta hoàn
toàn không quan tâm tới mình muốn gì hay nghĩ gì, mà chỉ quan tâm đến người khác nghĩ gì
về anh ta và hành động theo ảo tưởng đó.
Những kẻ sống thứ sinh không hề quan tâm tới sự thật, tới dữ kiện, tới ý tưởng, tới sự
sáng tạo hay lao động. Họ không hỏi “Điều đó có đúng không nhỉ?” Họ hỏi “Không biết mọi
người có nghĩ điều này là đúng không nhỉ?” Họ không bao giờ tự đánh giá, phán xét mà chỉ
lặp lại những gì người khác đánh giá, phán xét. Họ không lao động mà chỉ muốn làm ra vẻ
lao động. Họ không sáng tạo, mà chỉ muốn khoe khoang và gọi tên những thứ trang sức phù
phiếm có thể đánh bóng cho tên tuổi họ. Họ không quan tâm tới năng lực, mà chỉ quan tâm
tới quan hệ. Họ không nghĩ giá trị, mà chỉ quan tâm tới ảnh hưởng. Thế giới sẽ ra sao nếu
chỉ có toàn những kẻ sống thứ sinh, những kẻ không lao động, không tư duy, không sản xuất,
không sáng tạo?
(Tiểu thuyết Suối nguồn, Ayn Rand, NXB Trẻ, 2014)
Câu 1. Đoạn trích trên sử dụng phương thức biểu đạt chính nào?
Câu 2. Chỉ ra 02 phép liên kết trong đoạn văn bản.
Câu 3. Anh/ Chị hiểu như thế nào về những kẻ sống thứ sinh qua nhận xét của tác giả: Họ
không hỏi "Điều đó có đúng không nhỉ?" Họ hỏi "Không biết mọi người có nghĩ điều này là
đúng không nhỉ?"?
Câu 4. Anh/chị có đồng tình với quan niệm của tác giả: Những kẻ sống thứ sinh mới thực sự
là kẻ không vị kỷ? Vì sao?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Từ nội dung văn bản phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ)
trình bày suy nghĩ về câu hỏi của tác giả: Thế giới sẽ ra sao nếu chỉ có toàn những kẻ sống
thứ sinh, những kẻ không lao động, không tư duy, không sản xuất, không sáng tạo?
Câu 2. (5,0 điểm)
Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ chi tiết tiếng sáo là chi tiết đặc sắc được nhà văn Tô
Hoài nhắc lại nhiều lần:
Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại,
thiết tha bổi hổi. Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thổi... Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi.
Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay
như thổi sáo... Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết
ngày trước ...tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ ngoài đường... Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị
đi theo những cuộc chơi, những đám chơi "Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người
nào, em bắt pao nào"...
(Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017)
Cảm nhận của anh/ chị về tiếng sáo trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài qua đoạn trích trên.
Từ đó liên hệ với âm thanh: Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ
mái chèo đuổi cá, tiếng mấy bà đi chợ hỏi nhau… (Truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam
Cao, Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017) để bình luận về ý kiến: Chi tiết
nhỏ làm nên nhà văn lớn.

I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)


Câu 1. Dạng câu hỏi nhận biết: Học sinh chỉ cần chỉ ra phương thức biểu đạt chính (01) được
sử dụng trong văn bản: Nghị luận
Câu 2. Đây là câu hỏi nhận biết phép liên kết, yêu cầu học sinh cần chỉ ra 02 phép liên kết
trong đoạn trích:
- Phép thế đại từ Họ.
- Phép lặp: Họ, Anh ta.
Câu 3. Đây là dạng câu hỏi thông hiểu về nội dung ý nghĩa câu văn, học sinh cần đặt trong
văn cảnh để hiểu được ý nghĩa của câu. Dưới đây là câu trả lời tham khảo:
Khi tác giả nhận xét về những kẻ sống thứ sinh: Họ không hỏi “Điều đó có đúng không
nhỉ?”, nghĩa là họ không quan tâm đến sự thật, không tự nhận xét, đánh giá, phán xét. Họ hỏi
“Không biết mọi người có nghĩ điều này là đúng không nhỉ?”, nghĩa là họ chỉ quan tâm đến
người khác nghĩ gì, chỉ lặp lại nhận xét, đánh giá của người khác.
Câu 4. Đây là dạng câu hỏi vận dụng, đòi hỏi học sinh bày tỏ rõ ràng quan điểm. HS có thể
đồng ý hoặc không đồng ý hoặc vừa đồng ý vừa không đồng ý nhưng cần đưa ra lí lẽ thuyết
phục. Tham khảo gợi ý dưới đây:
- Đồng ý với ý kiến những kẻ sống thứ sinh "mới thực sự là kẻ không vị kỷ", vì anh ta hoàn
toàn không quan tâm tới mình muốn gì hay nghĩ gì, mà chỉ quan tâm đến người khác nghĩ gì
về anh ta và hành động theo ảo tưởng đó.
- Không đồng ý với ý kiến những kẻ sống thứ sinh "mới thực sự là kẻ không vị kỷ", vì những
thứ mà kẻ thứ sinh theo đuổi thực là một cách họ đánh bóng tên tuổi của bản thân, họ chỉ
chăm chú xây dựng hình ảnh bản thân theo cách mà họ thích.
- Vừa đồng ý vừa không đồng ý: (Kết hợp cả hai ý kiến trên).
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
[Đ] Sống sao có ý nghĩa trong cuộc đời là câu hỏi, là mục đích theo đuổi của tất cả mọi
người. Trong số những người sống biết cống hiến, biết hy sinh, biết hưởng thụ đúng nghĩa
vẫn còn có những người sống thiếu định hướng, ảo tưởng về bản thân. Và thế giới sẽ ra sao
nếu toàn những kẻ sống thứ sinh, những kẻ không lao động, không tư duy, không sản xuất,
không sáng tạo?
G] Trong lịch sử phát triển, loài người không ngừng lao động để cải tạo chính mình. Nhờ
lao động, con người dần hoàn thiện nhân cách trở thành loài thượng đẳng trên trái đất, đạt đến
cuộc sống văn minh như hiện nay. Người không lao động sẽ trở thành kẻ vô công rồi nghề,
không được tôn trọng. Lao động rất cần tư duy, sáng tạo, đó là phẩm chất cần thiết của người
lao động trong xã hội hiện đại. Nó giúp con người có thể vượt qua những ràng buộc của hoàn
cảnh, rút ngắn thời gian để đạt được mục đích đã đề ra nhanh chóng, tốt đẹp. Người làm việc
có tư duy, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, tiên phong, không chấp nhận những gì sẵn có, không
bắt chước, lặp lại những cách thức cũ mà say mê tìm kiếm những cái mới mẻ, hữu ích. [M]
Nếu chỉ toàn những kẻ sống thứ sinh, xã hội sẽ thụt lùi, con người không tạo ra được thành
quả cho bản thân cũng như cho xã hội.
[B] Sống thứ sinh là một kiểu sống đáng phê phán, đó là mầm mống của những hiện
tượng tiêu cực, là rào cản đối với sự phát triển con người và xã hội. Mỗi người cần thiết phải
lao động, nỗ lực tư duy, sáng tạo để khẳng định mình, không nên chạy theo những giá trị ảo,
chạy theo dư luận phù phiếm.
Câu 2. (5,0 điểm)
1. Giới thiệu đôi nét về Tô Hoài, truyện ngắn Vợ chồng A Phủ và chi tiết tiếng sáo trong
truyện:
2. Yêu cầu cơ bản: Cảm nhận chi tiết tiếng sáo thông qua đoạn trích trong đề:
- Hoàn cảnh xuất hiện của tiếng sáo: Mị từ khi bị bắt về làm dâu nhà thống lí Pá Tra đã trở
thành người khác hẳn. Không còn là cô Mị trẻ trung, yêu đời, có biết bao người mê ngày đêm
thổi sáo đi theo. Mị trở nên câm lặng, chỉ biết vùi mình vào việc, lùi lũi như con rùa nuôi
trong xó cửa. Mị mất hết ý niệm về thời gian, bản thân, cảm xúc và tinh thần phản kháng
cũng bị tê liệt. Những đêm tình mùa xuân trên núi cao đã trở lại ngày tết trai gái rủ nhau đánh
pao, đánh quay rồi thổi sáo gọi bạn đi chơi. Ngày tết Mị lén lấy rượu uống, rồi say lịm mặt
ngồi đấy, Mị nghe thấy tiếng sáo, Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thổi, Mị uốn chiếc lá
trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo tiếng sáo trở thành một nguồn sống trong tâm hồn
Mị...
- Tiếng sáo là một chi tiết nghệ thuật được nhà văn nhắc đến nhiều lần với dụng ý nghệ thuật
sâu sắc:
+ Tiếng sáo là âm thanh gợi lên cảnh sắc đặc trưng, phong tục, nét đẹp văn hóa người dân
miền núi. Tiếng sáo mở ra một không gian xa xôi của núi rừng tây bắc. Tiếng sáo gọi bạn, gọi
người yêu là nét đẹp văn hoá của người dân miền núi: Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi
sáo rủ bạn đi chơi, tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng, tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lơ
lửng bay ngoài đường…
+ Tiếng sáo đại diện cho tài năng của con người: Mị thổi sáo giỏi, Mị uốn chiếc lá trên môi,
thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đẽ thổi sáo đi theo Mị.
+ Tiếng sáo khiến Mị nhớ về một quá khứ tươi đẹp, ước mơ về cuộc sống hạnh phúc, đồng
thời tiếng sáo là chất xúc tác trực tiếp khơi gợi sức sống tiềm tàng của Mị Mị vẫn nghe tiếng
sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi, Mị vùng bước đi.
+ Tiếng sáo là biểu tượng cho tiếng gọi cuộc sống, tình yêu; nó đã lay gọi khát vọng yêu đời,
yêu cuộc sống tự do trong Mị, có quan hệ mật thiết với quá trình diễn biến tâm lí của Mị, là
động lực thúc đẩy Mị đi đến hành động chuẩn bị đi chơi xuân.
+ Tiếng sáo thể hiện tư tưởng của tác phẩm: Sức sống con người cho dù bị giẫm đạp, trói
buộc nhưng vẫn luôn âm ỉ chờ cơ hội bùng lên. Và dù bị trói suốt đêm nhưng dây trói chỉ giữ
được thể xác Mị còn tiếng sáo đã đem tâm hồn Mị trở lại với thời con gái, với những cuộc
chơi ngày trước. Đây là giá trị nhân đạo sâu xa của truyện.
+ Tiếng sáo là chi tiết nghệ thuật đặc biệt tố cáo bản chất của giai cấp thống trị thực dân
phong kiến miền núi, cự tuyệt quyền sống, quyền làm người của con người. Nếu tiếng chân
ngựa đạp vào vách là sự lên tiếng của hiện thực phũ phàng thì tiếng sáo lại là hiện thân của
những ước mơ, hoài niệm.
- Chi tiết Tiếng sáo đêm tình mùa xuân là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo nhằm khám phá,
thể hiện vẻ đẹp nhân vật và chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Nhờ tiếng sáo mùa xuân mà Mị có
được sự thức tỉnh trong tâm hồn, giả sử không có tiếng sáo mùa xuân thì có lẽ tâm hồn Mị
không bao giờ thức dậy được. Nó là cú hích để Mị dũng cảm làm một cuộc vượt ngục trong
tâm hồn, nó khơi dậy sức sống tinh thần phản kháng lâu nay bị vùi lấp trong Mị. Tiếng sáo đã
trở thành điểm tựa và Mị đã vững vàng hơn. Chi tiết tiếng sáo là sản phẩm của một sự am
tường cặn kẽ, tinh thông về phong tục, lối sống của đồng bào rẻo cao. Là sản phẩm của một
ngòi bút tài hoa: văn như nhạc, như tranh, tải được cả màu sắc, hương vị, âm điệu, linh hồn
của núi rừng Tây Bắc: Trong sáng, hồn nhiên mà tình tứ, réo rắt da diết, mà khỏe khoắn lạ
thường. Thật trọn vẹn, ngọt ngào và đầy dư vị!
3. Yêu cầu phân hóa: Liên hệ với tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá trong truyện Chí Phèo
của Nam Cao để bàn luận về ý kiến: Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn.
- Liên hệ âm thanh trong Chí Phèo của Nam Cao:
+ Chí Phèo là tác phẩm tiêu biểu cho những sáng tác về đề tài người nông dân nghèo trước
Cách mạng thánh Tám của Nam Cao. Nam Cao miêu tả Chí Phèo từ đứa trẻ bị bỏ rơi, được
người làng nuôi, lớn lên thành anh canh điền khỏe mạnh lương thiện. Rồi Chí bị giai cấp
phong kiến và nhà tù thực dân hãm hại. Chúng bắt Chí đi tù mà không rõ lý do. Khi ra tù trở
về làng Chí trượt dài trong tội lỗi, trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Cuộc gặp gỡ bất
ngờ với Thị Nở và trận ốm đã làm cho con quỹ dữ có sự thay đổi hẳn cả về tâm sinh lý. Từ
khi đi tù về, đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm Chí hết say, hoàn toàn tỉnh táo và có được
một khoảng ngưng lặng để nghe được những âm thanh quen thuộc của cuộc sống: Tiếng chim
hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng mấy bà đi chợ về...
những âm thanh thường nhật ấy ngày nào mà chả có nhưng hôm nay Chí mới nghe được bởi
vì đến bây giờ hắn mới được tỉnh sau những cơn say dài mênh mang.
+ Tiếng chim hót, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng mấy bà đi chợ hỏi nhau là
những âm thanh nhỏ giọt vào tâm hồn Chí, như dòng nước mát lành, như cơn mưa mùa hạ
đang đổ xuống thớ đất tâm hồn khô cằn sỏi đá, thiếu vắng tình thương yêu đồng cảm chia sẻ
của Chí. Âm thanh đó đã đánh thức trong Chí những cảm xúc của con người. Chí nhận ra
ngoài cái lều ẩm ướt thấp chỉ có hơi mờ lờ của mình rằng: mặt trời chắc đã lên cao,và nắng
bên ngoài chắc là rực rỡ. Cũng như những ngày người say tỉnh dậy, Chí Phèo thấy miệng
đắng, lòng mơ hồ buồn,
+ Những âm thanh của cuộc sống chính làm Chí dần lấy lại ý thức về cuộc sống đưa Chí nhớ
về quá khứ, rằng có một thời, đã ước mơ có một cuộc sống gia đình nho nhỏ. Những âm
thanh cuộc sống ấy cũng khiến Chí nhận ra hắn già mà vẫn còn cô độc. Chí nghĩ suy nhiều
hơn, sâu xa hơn, hình dung được tương lai đầy bất ổn ở phía trước để rồi lo sợ... Âm thanh
tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng mấy bà
đi chợ về là chi tiết quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu
sắc nét tính cách tâm lý và bi kịch của nhân vật. Chi tiết ấy nhỏ, chỉ thoáng qua vài câu văn
ngắn nhưng lại là yếu tố nội liên văn bản làm cho mạch truyện từ đây bất ngờ rẽ sang hướng
khác. Nhờ nó mà ta có thể nhìn thấy hai nửa cuộc đời của Chí. Đó là chi tiết đắt giá thể hiện
tư tưởng nhân đạo sâu sắc của nhà văn.
- Nhận xét về vai trò của chi tiết trong tác phẩm - chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn: Trong tác
phẩm văn học, chi tiết nghệ thuật cực kỳ quan trọng, nếu không có nó, tác phẩm dường như
chưa thực sự có được tầm vóc. Chi tiết nghệ thuật giống như một hạt cát nhưng đủ để mang
đến một sa mạc mênh mông chi tiết nghệ thuật giống như một giọt nước nhưng có thể làm
đồng hiện cả đại dương bao la. Chi tiết nghệ thuật là những yếu tố nhỏ lẻ của tác phẩm nhưng
mang lại sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng, sức chinh phục của hình tượng nghệ thuật là ở
sự truyền cảm xúc và thì góp phần quyết định tạo ra sức truyền cảm hấp dẫn, lôi cuốn người
đọc là nhờ ở chi tiết. Chi tiết bao giờ cũng có khả năng thuyết minh, biểu hiện cái toàn thể.
4. Đánh giá chung
Có thể nói, chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn, với tiếng sáo trong Vợ chồng A Phủ và
tiếng chim hót trong Chí Phèo là những chi tiết nghệ thuật có sức dư ba, làm giường cột cho
cả hai tác phẩm, góp phần tạo nên hai thiên truyện ngắn đặc sắc nhất của văn chương Việt
Nam. Qua hai chi tiết nghệ thuật ấy, ta càng hiểu sâu sắc hơn tấm lòng nhân đạo của hai nhà
nhân đạo chủ nghĩa lớn của văn học dân tộc.
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Trên diễn đàn tranh luận Debate. org, có một câu hỏi như thế này: “Should you sacrifice
your life to save someone else’s?” (có nên hy sinh cuộc đời để cứu người khác?). Tính đến
thời điểm hiện tại đã có rất nhiều câu trả lời khác nhau với tỷ lệ 73% người nói “có” và 27%
người nói “không”.
Gần như những người nói “có” đều đưa ra lý lẽ rằng hy sinh người khác là một việc làm
cao cả, là hành động anh hùng và xã hội này rất cần lòng nhân đạo. Lòng tốt trong xã hội
vẫn chưa biến chất, đổi thay và con người vẫn không có gì khác xưa cả. Tuy nhiên, những
người nói “không” lại đưa ra nhiều lý lẽ khác nhau nhưng có một điều rằng, dẫn chứng của
họ ở một mức độ nào đó đều rất thuyết phục:
“Không. Cuộc đời rất quan trọng. Việc được sinh ra còn có nghĩa gì nếu bạn hy sinh
cuộc đời mình cho người khác bằng mọi giá? Đó là điều không công bằng. Cuộc đời là thứ
quan trọng nhất trên thế giới. Mặc dù nó có chút ích kỷ nhưng cuộc đời của bạn cũng giá trị
như cuộc đời của người mà bạn định hy sinh vì người đó”.
“Nói chung là không. Nó còn tùy thuộc vào người mà bạn định cứu, tình huống và điều
kiện liên quan. Tôi có gia đình. Vợ và con cái là những người quý giá nhất của tôi. Sẽ rất lố
bịch nếu như tôi hiến dâng cuộc đời mình cho một người không hề quen biết nào đó, đó còn
chưa kể gia đình tôi sẽ rất khốn khổ. Họ cũng cần tôi”.[…]
[…] Ai dám khẳng định những lý lẽ này là vô căn cứ?
Chúng ta đang sống trong một xã hội có tốc độ phát triển rất nhanh. Nhiều người bận
rộn tới mức chẳng hề có thời gian để nghỉ ngơi và làm thứ gì đó cho những người mình yêu
quý. Chúng ta có quá nhiều thứ để nghĩ trong đầu. Chúng ta bị ám ảnh bởi bài thuyết trình
quan trọng ngày mai hay phân vân về việc sẽ nấu gì cho bữa tối. Chúng ta háo hức khi sắp
được đi du lịch dài ngày. Về cơ bản, chúng ta bị mắc kẹt trong thế giới suy nghĩ, cảm xúc của
riêng mình nên cảm thấy vô cùng khó khăn để “ngó” sang cuộc sống của những người khác.
Là một công dân của xã hội hiện đại, chúng ta dường như đang đánh mất bản năng tử tế,
tốt bụng và tinh thần sẵn sàng mở rộng vòng tay tình bạn. Những phản ứng của chúng ta với
trẻ con, người lớn tuổi, người lạ tất cả đều bị giới hạn bởi suy nghĩ không muốn bị xúc phạm
và nỗi sợ can dự tới chuyện – nhà – người – khác.
Thậm chí, một số khảo sát còn ghi nhận rằng xã hội đang ngày càng đánh giá cao những
người có thế mạnh về kinh tế thay vì đánh giá dựa trên lòng tốt và sự đồng cảm.
(Trích Lòng tốt “dè dặt” và những con người cô đơn trong xã hội hiện đại,
From Your Soul, 28/07/2017)
Câu 1. Xác định đề tài của đoạn trích trên.
Câu 2. Dựa vào đoạn trích trên cho biết nguyên nhân khiến sự tử tế và lòng tốt ở con người
đang dần mất đi.
Câu 3. Cho biết tác dụng của phép liệt kê trong đoạn trích: Chúng ta đang sống trong một xã
hội có tốc độ phát triển rất nhanh. Nhiều người bận rộn tới mức chẳng hề có thời gian để
nghỉ ngơi và làm thứ gì đó cho những người mình yêu quý. Chúng ta có quá nhiều thứ để
nghĩ trong đầu. Chúng ta bị ám ảnh bởi bài thuyết trình quan trọng ngày mai hay phân vân
về việc sẽ nấu gì cho bữa tối. Chúng ta háo hức khi sắp được đi du lịch dài ngày. Về cơ bản,
chúng ta bị mắc kẹt trong thế giới suy nghĩ, cảm xúc của riêng mình nên cảm thấy vô cùng
khó khăn để “ngó” sang cuộc sống của những người khác.
Câu 4. Anh/chị có đồng ý với việc xã hội đang ngày càng đánh giá cao những người có thế
mạnh về kinh tế thay vì đánh giá dựa trên lòng tốt và sự đồng cảm không? Vì sao?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Từ đoạn trích phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) với chủ đề:
Đừng để sự tử tế và lòng tốt cô đơn.
Câu 2. (5,0 điểm)
Bàn luận về nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân (Ngữ văn 12,
Tập hai, NXB Giáo dục, 2017) có ý kiến cho rằng: Tràng là một gã trai quê nông nổi, liều
lĩnh nhưng lại đầy khát khao và tốt bụng. Anh/ Chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Từ đó, liên hệ với nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao ( Ngữ
văn 11, Tập một, NXB Giáo dục, 2017) để nhận xét về số phận của người nông dân thông
qua hai nhân vật này.
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Câu 1. Đề tài: Lòng tốt của con người.
Câu 2. HS tham khảo câu trả lời dưới đây:
- Chúng ta đang sống trong một xã hội có tốc độ phát triển rất nhanh. Nhiều người bận rộn
tới mức chẳng hề có thời gian để nghỉ ngơi và làm thứ gì đó cho những người mình yêu quý.
Chúng ta có quá nhiều thứ để nghĩ trong đầu. Chúng ta bị ám ảnh bởi bài thuyết trình quan
trọng ngày mai hay phân vân về việc sẽ nấu gì cho bữa tối. Chúng ta háo hức khi sắp được đi
du lịch dài ngày. Về cơ bản, chúng ta bị mắc kẹt trong thế giới suy nghĩ, cảm xúc của riêng
mình nên cảm thấy vô cùng khó khăn để “ngó” sang cuộc sống của những người khác.
- Là một công dân của xã hội hiện đại, chúng ta dường như đang đánh mất bản năng tử tế,
tốt bụng và tinh thần sẵn sàng mở rộng vòng tay tình bạn. Những phản ứng của chúng ta với
trẻ con, người lớn tuổi, người lạ tất cả đều bị giới hạn bởi suy nghĩ không muốn bị xúc phạm
và nỗi sợ can dự tới chuyện-nhà-người-khác.
- Thậm chí, một số khảo sát còn ghi nhận rằng xã hội đang ngày càng đánh giá cao những
người có thế mạnh về kinh tế thay vì đánh giá dựa trên lòng tốt và sự đồng cảm.
Câu 3. HS tham khảo câu trả lời dưới đây:
- Với phép liệt kê, những lí do khiến con người hiện đại bớt đi lòng tốt và sự tử tế của mình
được đưa ra, tác giả muốn nhấn mạnh cho mọi người cùng nhận thức được rằng: cần phải
sống chậm, biết lắng nghe và quan tâm hơn nữa đến cuộc sống của những người xung quanh.
Câu 4.
- Không đồng ý với việc xã hội đang ngày càng đánh giá cao những người có thế mạnh về
kinh tế thay vì đánh giá dựa trên lòng tốt và sự đồng cảm. Vì như thế tính cách con người
trong tương lai sẽ thay đổi theo chiều hướng thực dụng. Những giá trị đạo đức, nhân cách và
chuẩn mực con người trong tương lai sẽ thay đổi tiêu cực. Xã hội không coi trọng lòng tốt và
sự đồng cảm nghĩa là xã hội ấy đang chối bỏ đi một xã hội tốt đẹp, giàu tính nhân văn.
- Đồng ý với việc xã hội đang ngày càng đánh giá cao những người có thế mạnh về kinh tế
thay vì đánh giá dựa trên lòng tốt và sự đồng cảm. Vì tôi nghĩ rằng, con người cần thích ứng
những sự thay đổi của môi trường sống.
- Vừa đồng ý vừa không đồng ý: (Tham khảo hai ý kiến trên).
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
HS tham khảo đoạn trích dưới đây:
Sự thật sâu sắc nhất về con người không phải là cái mà chúng ta quá nhiều lần được
chứng kiến – mà chính là việc tất cả chúng ta được thúc đẩy bởi tính tư lợi, rằng bản chất
của chúng ta là cạnh tranh không ngừng; rằng các hành động của chủ nghĩa vị tha thể hiện
bên ngoài chỉ là tấm bình phong che đậy cho động cơ thật sự của chúng ta – thứ mà gần như
được nhìn thấy như là những hành động “tốt đẹp”. Vâng, chúng ta có thể như vậy. Nhưng sự
thật sâu xa hơn nhiều: về bản chất, chúng ta là những sinh vật xã hội; đa phần những hành
động vị tha chính xác đều là những gì được thể hiện ra ngoài; sự thôi thúc hợp tác nằm sâu
bên trong chúng ta. Giống như nhiều loài sinh vật khác trên Trái Đất, chúng ta phụ thuộc
vào các cộng đồng để cứu sống chính mình. Chúng ta không hoạt động tốt khi bị tách biệt,
chúng ta cần có nhau. Tuy nhiên, các cộng đồng mà giúp chúng ta tồn tại không chỉ tự nhiên
xuất hiện và chúng không phải lúc nào cũng sống sót. Chúng ta buộc phải nuôi dưỡng chúng,
phải gắn kết vào chúng; mỗi một người phải đóng góp vào vốn xã hội (social capital) – đóng
vai trò là thứ bảo hiểm cho chúng ta khỏi tình trạng hỗn loạn. Đó là cảm giác phụ thuộc lẫn
nhau ngăn mọi xã hội khỏi việc bị sa vào sự hỗn loạn. Gắn kết với cuộc sống cộng đồng –
tình hàng xóm, xã hội – không chỉ duy trì sự sáng suốt của riêng chúng ta mà nó còn nuôi
dưỡng các tài nguyên xã hội cứu sống tất cả chúng ta nữa. Đừng chỉ tìm kiếm hạnh phúc, hãy
đi tìm cả ý nghĩa. Đừng chỉ nghĩ cho lợi ích của riêng mình, hãy đi tìm cả một cộng đồng có
thể che chắn cho chính bạn. Đừng chỉ giúp đỡ những người mang đến lợi ích cho bạn, hãy
thể hiện lòng tốt và sống tử tế với tất cả mọi người. Trong bất kỳ thời đại nào, xã hội cũng
luôn cần những hành động tốt đẹp. Thử thách cho bạn đó là cuối tuần này, hãy dành thời
gian đi ra ngoài và giúp đỡ một người bất kỳ bạn gặp. Cười nhiều hơn, thân thiện nhiều hơn,
khen ngợi một cách chân thành và mở rộng trái tim của bạn. Đó là cách giúp bạn bước ra
khỏi cảm giác cô đơn và yêu lại cuộc đời một lần nữa.
(Theo From Your Soul)
Câu 2 (5,0 điểm)
1. Giới thiệu đôi nét về Kim Lân, truyện ngắn Vợ nhặt và ý kiến bàn luận về nhân vật
Tràng:
a) Giải thích ý kiến
Ý kiến trên nhận xét về hai mặt tính cách của nhân vật Tràng, một mặt nông nổi, liều lĩnh,
một mặt đầy khát khao và tốt bụng.
b) Phân tích làm sáng tỏ ý kiến
- Liều lĩnh, nông nổi: Dẫu trong hoàn cảnh nghèo đói, cuộc sống bấp bênh đến cái thân Tràng
còn lo chưa xong thế nhưng lại sẵn lòng đãi người đàn bà xa lạ bốn bát bánh đúc và đưa về
làm vợ. Đó là điều ấn tượng nhất mà người đọc thấy ở Tràng. Điều đáng nói là Tràng chỉ tình
cờ gặp người đàn bà ấy trong hai lần kéo xe bò lên tỉnh. Điều này cho chúng ta thấy điều gì?
Tràng là người không biết suy nghĩ vì đến cái thân mình còn lo chưa xong mà lại còn đèo
bòng, bởi trong hoàn cảnh đó cưu mang một con người là gánh thêm nguy cơ chết đói cho
mình. Đúng như thế thật. Tràng gợi ý thị về chung nhà với Tràng trước khi nỗi lo cơm áo
hiện diện: Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo
bòng. Tràng vốn là anh nông dân khù khờ, hiền lành, chất phác nên việc hành động, nói năng
như thế cũng chẳng có gì khó hiểu.
- Nhưng nếu hiểu như thế thì chẳng có gì nhân văn cả. Vậy thì là Tràng bao dung, thương
người? Là Tràng ế vợ, cô đơn đã lâu mong có một mái ấm nho nhỏ? Có lẽ cả hai. Nhưng
mong muốn có vợ của Tràng rất mãnh liệt, dẫu trong vài chi tiết hé lộ khá kín đáo nhà văn đã
cho bạn đọc thấy được điều đó: Trong lần thứ nhất, Tràng đẩy xe bò lên tỉnh gặp thị, Tràng
hò một câu tưởng tình cơ cho đỡ mệt nhưng thật ra lại đầy tình ý: Muốn ăn cơm trắng mấy
giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì !, khi thị nhận lời, Tràng thích lắm. Từ cha sinh mẹ
đẻ đến giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ như thế. Rồi cả trong câu nói vu
vơ nhưng đầy tình thương và thành ý: Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe
rồi cùng về. Nhà văn Kim Lân muốn nhấn mạnh với bạn đọc điều gì qua khát vọng hạnh
phúc gia đình của Tràng ? Là dù trong hoàn cảnh nghèo đói cơ cực hay thậm chí là cái chết
đang chờ đón trước mặt thì khao khát hạnh phúc của con người vẫn luôn dạt dào, mãnh liệt.
Tình người, hạnh phúc luôn mang đến những điều kì diệu, tươi đẹp trong cuộc sống để con
người cảm thấy muốn sống, sống đẹp hơn trong những ngày cằn cỗi, khắc nghiệt. Chính điều
đó đã làm cái vẻ xấu xí, thô kệch của Tràng bị lấn át bởi vẻ đẹp tự bên trong được tỏa sáng.
Những ấn tượng còn lại về Tràng: Anh là một con người bao dung, ấm áp và đầy tình yêu
thương. Như Chí Phèo sáng hôm sau tỉnh dậy sau đêm gặp thị Nở, Tràng trong lửng lơ như từ
giấc mơ đi ra, cảm nhận được không gian ấm cúng: Ngoài vườn mẹ…
3. Yêu cầu nâng cao: Từ đó, liên hệ với nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của
nhà văn Nam Cao (Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục, 2017) để nhận xét về số phận của
người nông dân thông qua hai nhân vật này.
- Cùng viết về đề tài người nông dân nghèo vùng nông thôn, phải chịu nhiều thiệt thòi, sống
cơ cực, lầm than dưới chế độ phong kiến, thực dân. Cả Nam Cao và Kim Lân đều diễn tả,
phản ánh thành công hiện thực cuộc sống, số phận người nông dân trước Cách mạng tháng
tám 1945.
- Tuy nhiên, mỗi nhà văn lại khai thác đối tượng của mình ở những khía cạnh khác nhau.
+ Chí Phèo là nhân vật điển hình cho người nông dân bần cùng dẫn đến lưu manh hóa – quy
luật có tính phổ biến trong xã hội trước Cách mạng. Còn Tràng lại tiêu biểu cho người nông
dân vùng nông thôn trong nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu (1945). Nhưng nhìn chung, số
phận của Chí Phèo đáng thương, đau khổ hơn Tràng: bị cự tuyệt quyền làm người.
+ Khám phá sự khác nhau: Ngoài những yếu tố chi phối như đề tài cảm hứng, phong cách
sáng tác, quan niệm nghệ thuật, tư tưởng của mỗi nhà văn có khác nhau thì có lẽ bối cảnh ra
đời của hai tác phẩm này là yếu tố quyết định đến sự khác nhau trong số phận của hai người
nông dân này. Tác phẩm Chí Phèo ra đời trước Cách mạng tháng Tám, đồng nghĩa với việc,
số phận và cuộc đời của người nông dân hoàn toàn bế tắc, không lối thoát. Chẳng phải vậy
mà, Chí Phèo với bản chất vốn lương thiện đã chẳng thể tồn tại trong xã hội ấy đó sao? Anh
phải tìm đến cái chết để được làm người… lương thiện. Còn Vợ nhặt thì khác, dù lấy bối
cảnh là nạn đói năm Ất Dậu (1945) nhưng tác phẩm lại được viết lại vào năm 1955, tức sau
Cách mạng tháng Tám. Văn học thời kì này phải gắn liền và phụng sự cho sự nghiệp cách
mạng. Do vậy mà số phận của người nông dân, mà chủ yếu qua nhân vật Tràng, có nhiều
điểm khác biệt: Có lối thoát với kết thúc có hậu.
4. Đánh giá chung
Với nhân vật Tràng nhà văn Kim Lân vừa xây dựng được một người nông dân với nét
phẩm chất, tính cách và trí tuệ, ngôn ngữ như tiêu biểu. Với Chí Phèo, Nam Cao đã xây dựng
được một nhân vật điển hình cho một tầng lớp của xã hội.
Nhưng hơn cả, thông qua hai nhân vật, ta cảm nhận được tấm lòng nhân đạo, cũng như
sự nhìn nhận đa chiều để trân trọng vẻ đẹp của người nông dân Việt Nam.
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Đại đa số thanh niên thời trước không ai suy nghĩ, trăn trở gì lắm về cuộc đời, vì ai đã
có phận nấy.
Phận là cái phần mà cuộc sống, xã hội dành cho mỗi người: phận làm trai, phận giàu,
phận nghèo, phận đàn bà, phận làm tôi, ... Con nhà lao động nghèo, nhiều lắm học đến chín,
mười tuổi, đã phải lo làm ăn mong kế nghiệp cha, anh. Con nhà giàu theo học lên cao thì làm
quan, kém hơn thì làm thầy. Sinh ra ở phận nào, theo phận ấy, chỉ số ít là thoát khỏi.
Trái lại, thanh niên ngày nay tuy cái phận mỗi người vẫn còn, song trước mặt mọi người
đều có khả năng mở ra nhiều con đường. Ngày nay sự lựa chọn và cố gắng của bản thân,sự
giúp đỡ của bạn bè đóng vai trò quyết định. Có lựa chọn tất phải có suy nghĩ, trăn trở.
Hết lớp tám, lớp chín, học gì đây? Trung học hay học nghề, hay đi sản xuất? Trai gái
gặp nhau bắt đầu ngập ngừng. Yêu ai đây? Yêu như thế nào? Sức khỏe tăng nhanh, kiến thức
tích lũy đã khá, sống như thế nào đây? Ba câu hỏi ám ảnh: Tình yêu, nghề nghiệp, lối sống.
Không thể quy cho số phận. Cơ hội cũng chia đều sàn sàn cho mọi người.
Thanh niên ngày xưa bước vào đời như người đi xem phim đã biết trước ngồi ở rạp nào,
xem phim gì, ghế số bao nhiêu, cứ thế mà ngồi vào. Ngày nay, chưa biết sẽ xem phim gì, ở
rạp nào, ngồi ghế số mấy, cạnh ai. Cho đến khi ổn định được chỗ ngồi trong xã hội, xác định
đúng được vai trò và vị trí của mình là phải trải qua cả một thời gian dài.
Thời gian sẽ xây dựng cho mình một niềm tin và đạo lí.
Xây dựng nên thì như tàu ra biển rộng, có kim chỉ nam xác định hướng đi; không thì như
chiếc bách giữa dòng, e dè gió dập, hãi hùng sóng va.
(Thanh niên và số phận, Nguyễn Khắc Viện, Ngữ văn 11 – Nâng cao,
Tập hai, NXB Giáo dục, 2017)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên.
Câu 2. Theo tác giả, vì sao thanh niên ngày nay không thể quy cho số phận?
Câu 3. Anh/ chị hiểu như thế nào về ý kiến: Thời gian sẽ xây dựng cho mình một niềm tin và
đạo lí.Xây dựng nên thì như tàu ra biển rộng, có kim chỉ nam xác định hướng đi; không thì
như chiếc bách giữa dòng, e dè gió dập, hãi hùng sóng va.
Câu 4. Anh/ chị có đồng ý với quan niệm: Phận là cái phần mà cuộc sống, xã hội dành cho
mỗi người: phận làm trai, phận giàu, phận nghèo, phận đàn bà, phận làm tôi, .... Sinh ra ở
phận nào, theo phận ấy, chỉ số ít là thoát khỏi. Vì sao?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Từ nội dung văn bản phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ)
trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của niềm tin trong cuộc sống.
Câu 2. (5,0 điểm)
Cảm nhận của anh/ chị về kết thúc truyện Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân (Ngữ văn 12,
Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017).
Từ đó liên hệ với kết thúc truyện Chí Phèo của nhà văn Nam Cao (Ngữ văn 11, Tập một
NXB Giáo dục Việt Nam, 2017) để cho biết yếu tố cốt yếu chi phối đến cách kết thúc truyện
của hai truyện ngắn này.
Kết thúc truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân)
Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi. Cái mặt to lớn bặm lặi, khó đăm đăm. Miếng cám ngậm
trong miệng hắn đã bã ra chát xít... Hắn đang nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật.
Tràng hỏi vội trong miếng ăn:
- Việt Minh phải không?
- Ừ, sao nhà biết?
Tràng không trả lời. Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm
ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đàng trước có lá cờ đỏ to lắm.
Hôm ấy hắn láng máng nghe người ta nói họ là Việt Minh đấy. Họ đi cướp thóc đấy.
Tràng không hiểu gì sợ quá, kéo vội xe thóc của Liên đoàn tắt cánh động đi lối khác.
À ra họ đi phá kho thóc chia cho người đói. Tự dưng hắn thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó
hiểu.
Ngoài đình tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập. Mẹ và vợ Tràng đã buông đũa đứng dậy.
Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới...
(Dẫn theo Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017, tr.32)
Kết thúc truyện Chí Phèo (Nam Cao)
Và nhớ lại những lúc ăn nằm với hắn, thị nhìn trộm bà cô, rồi nhìn nhanh xuống bụng:
- Nói dại, nếu mình chửa, bây giờ hắn chết rồi, thì làm ăn thế nào?
Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng
người qua lại…
(Dẫn theo Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017, tr.155)
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Câu 1. Phương thức biểu đạt nghị luận/ Nghị luận.
Câu 2. Theo tác giả, thanh niên ngày nay Không thể quy cho số phận vì: trước mặt mọi người
đều có khả năng mở ra nhiều con đường; Cơ hội cũng chia đều sàn sàn cho mọi người.
Câu 3. Thời gian sẽ xây dựng cho mình một niềm tin và đạo lí. Xây dựng nên thì như tàu ra
biển rộng, có kim chỉ nam xác định hướng đi; không thì như chiếc bách giữa dòng, e dè gió
dập, hãi hùng sóng va. Ý kiến trên khẳng định vai trò quan trọng của niềm tin, đạo đức đối
với thành công của mỗi người.
Câu 4. HS trình bày suy nghĩ riêng của mình song cần có quan điểm đúng đắn, thuyết phục.
Dưới đây là gợi ý tham khảo:
- Trong cuộc sống, mỗi người đều có rất nhiều cơ hội nhưng lựa chọn con đường nào để đến
được thành công lại phụ thuộc vào năng lực, bản lĩnh của mỗi người. Mặt khác, thành công
trong tương lai phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thời cơ, sự giúp đỡ của bạn bè, người thân...
Đặc biệt, bản thân mỗi người cần có ý chí nghị lực vượt qua mọi khó khăn để đạt được thành
công.
- Phê phán những người sống thiếu bản lĩnh, thường đổ lỗi cho số phận khi gặp thất bại.
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
[Đ] Niềm tin có vai trò quan trọng trong cuộc sống con người
[G] Vì cuộc sống luôn đầy rẫy những khó khăn, trở ngại, chính niềm tin vào cuộc sống,
vào con người, vào tương lai tươi sáng, tốt đẹp sẽ tiếp cho con người sức mạnh tinh thần to
lớn để đạt được thành công. Nếu không có niềm tin thì con người dễ khiến con người ta chán
nản, buông xuôi, thất bại. Beethoven (17/12/1770 - 26/3/1827) là nhà soạn nhạc cổ điển
người Đức. Hồi nhỏ, ông bị khiếm thính, sau đó bị điếc hoàn toàn, nhưng với niềm tin lòng
say mê âm nhạc, ông vượt qua mọi trở ngại, ông vẫn trở thành một nhà soạn nhạc vĩ đại, nổi
tiếng thế giới.
[M] Niềm tin không chỉ đóng vai trò quan trọng đối với bản thân mà trong các mối quan
hệ trong cuộc sống, trong kinh doanh, trong công tác xã hội,... chúng ta cũng đều cần đến
niềm tin để vực dậy lòng tin giữa người với người. Con người sống cần có niềm tin song
tránh rơi vào sự mù quáng, không phân biệt được đúng- sai, tốt - xấu,... Nếu không niềm tin
ấy sẽ trở thành niềm tin mù quáng, cực đoan.
[B] Muốn vậy mỗi người không ngừng học tập lĩnh hội tri thức, rèn luyện bản lĩnh.
Câu 2. (5,0 điểm)
1. Giới thiệu đôi nét về nhà văn Tô Hoài, truyện ngắn Vợ chồng A Phủ và vai trò của
"tiếng sáo" đối với sự hồi sinh của nhân vật Mị.
2. Yêu cầu cơ bản: Cảm nhận của anh/ chị về kết thúc truyện Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân:
- Kết thúc truyện Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân mở ra khung cảnh: Hình ảnh cuối cùng về
đám người đói và lá cờ đỏ sao vàng đến với tâm tưởng của Tràng rất tự nhiên. Tiếng trống
thúc thuế dồn dập trong bữa ăn sáng làm cho chị vợ nhặt ngạc nhiên "ở đây vẫn phải đóng
thuế cơ à?", "Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu.
Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói". Câu nói của vợ làm Tràng nhớ
lại cảnh những người nghèo đói ầm ầm đi trên đê Sộp, đằng trước có lá cờ đỏ sao vàng to
lắm. Vì chưa hiểu mục đích hành động của họ nên anh đã kéo xe thóc liên đoàn đi theo lối
khác. Trong đầu Tràng bỗng thấy tiếc rẻ vẫn vơ, khó hiểu.
- Hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ sao vàng đi trên đê Sộp gợi đến điều gì ? Nếu không có
cảnh buổi sáng hôm sau và cách kết thúc như thế này, câu chuyện vợ nhặt có giống Tắt đèn
(Ngô Tất Tô) hay Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan) không ? Hình ảnh khép lại tác
phẩm gợi cho người đọc nghĩ về Việt Minh, về Cách mạng tháng Tám vĩ đại, về sự vùng dậy
của những người dân khốn khổ, đập tan xiềng xích, giành lại cơm áo, giành lại sự sống cho
bản thân, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Vì thế, kết thúc của tác phẩm đã gieo vào lòng
người đọc một niềm tin mãnh liệt. Rằng Tràng và gia đình bé nhỏ của anh, rằng hàng triệu
những gia đình khốn khổ như thế sẽ có lá cờ đỏ kia dẫn đường đi giành cơm và sự sống. Rồi
đây trong đoàn quân của những người đói kéo nhau đi trên đê Sộp, nhất định sẽ có Tràng, mẹ
anh và vợ anh cùng sánh bước. Có lẽ cũng giống như bà cụ Tứ, nhà văn Kim Lân đã gieo một
hạt giống hi vọng mãnh liệt vào tâm hồn Tràng, gia đình anh và tất cả bạn đọc chúng ta.
Câu chuyện mở ra khung cảnh tối sầm vì đói khát, một buổi chiều chạng vạng mặt người, và
khép lại bằng cảnh buổi sáng đầm ấm hạnh phúc, dẫu vẫn còn đó những đối mặt gai góc với
cuộc sống, với cái đói, nhưng đã tạo ra một hướng mở cho cuộc đời nhân vật. Hình ảnh khép
lại vừa đủ để gợi ấn tượng về tương lai và cuộc đời của những người như Tràng, như mẹ anh,
vợ anh, vừa hé ra một tia sáng cuối đường hầm cho tác phẩm, vừa không làm cho truyện rơi
vào chủ quan, sơ đồ hóa giản đơn như không ít hạn chế của tác phẩm văn chương thời ấy.
3. Yêu cầu nâng cao: Từ đó, liên hệ với kết thúc truyện Chí Phèo của nhà văn Nam Cao
(Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục, 2017) để cho biết yếu tố cốt yếu chi phối đến cách kết
thúc truyện của hai truyện ngắn này..
Truyện ngắn Chí Phèo kết thúc với hình ảnh Thị Nở ôm bụng bầu (Chí Phèo con) và thoáng
nghĩ về cái lò gạch cũ. Điều đáng nói là cái lò gạch cũ chính là nơi Chí Phèo (cha) sinh ra.
Cách kết thúc làm nên kết cấu vòng tròn của tác phẩm này đã phản ánh một quy luật khách
quan của cuộc sống về số phận của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám (1945): cuộc
sống quẩn quanh, bế tắc, không lối thoát như chính cuộc đời Chí Phèo.
- Tuy cùng đề cập về người nông dân với cuộc sông thống khổ của họ nhưng do hoàn cảnh ra
đời của tác phẩm mà cách kết thúc của hai truyện khác nhau: Với kết thúc truyện Vợ nhặt,
nhà văn Kim Lân đã mở ra cho họ một lối thoát với hình ảnh lá cờ đỏ của cách mạng và đám
người đi phá kho thóc; ngược lại kết thúc truyện Chí Phèo lại quẩn quanh bế tắc. Nam Cao
viết Chí Phèo năm 1942 trong hoàn cảnh đen tối của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Kim Lân
viết Vợ nhặt sau hòa bình lặp lại 1954 khi dân tộc ta đã đi qua 2 mốc lớn của lịch sử là Cách
mạng tháng Tám và cuộc kháng chiến chống Pháp. Ánh sáng Cách mạng giúp nhà văn thấy
được hướng vận động và phát triển của lịch sử. Đây có lẽ là nguyên nhân, là yếu tốt cốt yếu
dẫn đến sự khác nhau ở kết thúc của hai truyện ngắn này. Ngoài yếu tố hoàn cảnh sáng tác
còn các yếu tô khác chi phối như khuynh hướng sáng tác, phong cách sáng tác, quan điểm
nghệ thuật của mỗi nhà văn khác nhau.
4. Đánh giá chung
Kết thúc truyện của cả hai truyện trên đều thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc, giá trị hiện
thực khách quan về cuộc sống của người nông dân trong bối cảnh thời đại.
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
“Các em học sinh thân mến, có lẽ các em sẽ ngạc nhiên khi hôm nay thầy sẽ nói với các
em về căn bệnh mà ít nhiều chúng ta sẽ mắc phải. Căn bệnh này tuy không làm chết người
ngay lập tức nhưng nguy hiểm lắm, nếu nhiều người không quyết tâm chạy chữa thì họ có thể
trở thành những người vô dụng. Nguy hiểm hơn nữa nếu xã hội có nhiều người mắc bệnh này
thì sẽ trở nên nghèo nàn lạc hậu, không bao giờ tiến bộ được. Căn bệnh này làm cho con
bệnh dần dần trở thành người có nhân cách thấp kém, sống theo lối bầy đàn và không giúp
ích gì cho xã hội.
Đó là thầy đang muốn nói về căn bệnh lười, một căn bệnh có nguy cơ lan rộng một cách
nhanh chóng. Bệnh này có những biểu hiện và triệu chứng như sau: lười học, lười nghe
giảng, lười làm bài tập, lười suy nghĩ, lười phản biện, lười đặt câu hỏi.
Tại sao như vậy? Lười đọc sách hoặc chỉ đọc những cuốn sách nhảm nhí, lười đọc kiến
thức tham khảo; lười lao động, lười làm việc chân tay kể cả những điều phục vụ cho chính
bản thân mình; lười tập thể dục thể thao, rèn luyện thân thể. Kể ra thì còn nhiều triệu chứng
lười nữa. Chắc rằng mỗi em đều cảm thấy mình đã mắc phải những triệu chứng đó.
Mỗi một người đều có một thời gian sống rất hữu hạn, nếu họ mắc phải bệnh lười thì
khoảng thời gian sống đó càng trở nên rất ngắn ngủi. Con bệnh sống một cách uể oải, họ
không suy nghĩ gì, không làm được một việc gì mặc cho thời gian vẫn trôi đi từ giờ này sang
giờ khác, ngày này qua ngày khác, thậm chí năm này qua năm khác”.
(Một phút chữa bệnh lười – PGS. TS Văn Như Cương)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích trên.
Câu 2. Vấn đề chính được đề cập đến trong đoạn trích trên là gì?
Câu 3. Theo anh/ chị, vì sao tác giả nói rằng: Căn bệnh này tuy không làm chết người ngay
lập tức nhưng nguy hiểm lắm, nếu nhiều người không quyết tâm chạy chữa thì họ có thể trở
thành những người vô dụng.
Câu 4. Thông điệp nào trong đoạn trích trên có ý nghĩa nhất với anh/ chị?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ)
trình bày suy nghĩ về quan niệm của PGS.TS Văn Như Cương: Mỗi một người đều có một
thời gian sống rất hữu hạn, nếu họ mắc phải bệnh lười thì khoảng thời gian sống đó càng trở
nên rất ngắn ngủi.
Câu 2. (5,0 điểm)
Có ý kiến cho rằng: Trong truyện ngắn "Vợ nhặt", nhà văn Kim Lân đã xây dựng được
một tình huống bất thường để nói lên khát vọng bình thường mà chính đáng của con người.
Bằng hiểu biết về truyện ngắn Vợ nhặt (Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam,
2017), anh/ chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Từ đó, anh/ chị liên hệ với tình huống Chí Phèo gặp Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo
của nhà văn Nam Cao (Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017) để nhận xét về
giá trị nhân đạo hai nhà văn gửi gắm qua hai tình huống truyện này.
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Câu 1. Phương thức biểu đạt nghị luận/ Nghị luận.
Câu 2. Vấn đề chính được đề cập đến trong đoạn trích:
Sự nguy hiểm của căn bệnh lười, những biểu hiện của nó và hậu quả nghiêm trọng do
căn bệnh này gây ra.
Câu 3. Tác giả nói rằng: Căn bệnh này tuy không làm chết người ngay lập tức nhưng nguy
hiểm lắm, nếu nhiều người không quyết tâm chạy chữa thì họ có thể trở thành những người
vô dụng. Vì:
Con bệnh sống uể oải, không suy nghĩ, không có lí tưởng sống, sống không mục đích; để
thời gian trôi đi vô nghĩa; thậm chí dần dần họ sẽ đánh mất nhân cách của chính mình sống a
dua và kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Câu 4. HS dựa vào đoạn trích lựa chọn một thông điệp tác giả gửi gắm có ý nghĩa nhất đối
với mình, cần lí giải được vì sao bản thân lại cho rằng thông điệp ấy có ý nghĩa đối với mình.
Dưới đây là một vài gợi ý:
- Vì đây là căn bệnh dễ mắc phải, có nguy cơ ngày càng lan rộng một cách nhanh chóng.
- Căn bệnh này làm cho ta không có ý chí phấn đấu, ngại gian khó, dễ buông xuôi, phó mặc,
từ đó làm nhân cách của ta đi xuống, kéo theo xã hội lạc hậu, chậm tiến bộ.
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
[Đ] Lịch sử loài người đã trải qua những cuộc Cách mạng vĩ đại với những phát kiến kì
diệu. Tuy nhiên, dẫu con người có sự hứa hẹn của máy móc, công nghệ vẫn không nên ỉ lại,
lười biếng vì theo PGS. TS Văn Như Cương thì Mỗi một người đều có một thời gian sống rất
hữu hạn, nếu họ mắc phải bệnh lười thì khoảng thời gian sống đó càng trở nên rất ngắn ngủi.
Căn bệnh lười được hiểu là không chăm chỉ, phó mặc hay dựa dẫm vào người khác, không tự
mình suy nghĩ hay hành động. Thời gian sống hữu hạn được hiểu là thời gian trọn vẹn một
đời người và so với thời gian của vũ trụ thì thật ngắn ngủi. Và nếu con người không thấu hiểu
được điều đó, sống lười biếng thì thời gian sống của mình sẽ càng bị thu hẹp lại. Quan niệm
trên đã gửi gắm một thông điệp sâu sắc để ta tránh xa căn bệnh lười.
G] Vậy, tại sao nếu chúng ta mắc bệnh lười thì thời gian sống của ta trở nên ngắn ngủi?
Khi con người lười biếng họ sẽ ngủ vùi trong một không gian chật hẹp của mình, không suy
nghĩ, ngại hành động, giao lưu, không cố gắng vượt khó, vượt khổ, gặp gian nan sẵn sàng
biện minh để trì hoãn sự cố gắng. Con bệnh ngày càng tụt dốc về nhân cách, thậm chí bị mọi
người xa lánh, không khẳng định được vị trí của bản thân trong tập thể. Nguy hiểm hơn, theo
PGS.TS Văn Như Cương căn bệnh này tuy không làm chết người ngay lập tức nhưng nguy
hiểm lắm, nếu nhiều người không quyết tâm chạy chữa thì họ có thể trở thành những người
vô dụng. Rõ ràng, cuộc sống của những người đó sẽ trở nên vô nghĩa.[M] Những cá nhân
mắc căn bệnh này hiện nay vẫn còn tồn tại ở mọi ngõ ngách trong cuộc sống, chúng ta cần
phê phán.
[B] Từ quan niệm trên, mỗi cá nhân cần thấy được tác hại của bệnh lười, cố gắng rèn
luyện bằng cách suy nghĩ, học tập và có hành động đúng đắn đế tránh xa căn bệnh đó để mỗi
khoảnh khắc của cuộc đời mình trở thành một mốc son đáng nhớ.
Câu 2. (5,0 điểm)
1. Giới thiệu đôi nét về nhà văn Kim Lân, truyện ngắn Vợ nhặt và tình huống truyện
ngắn Vợ nhặt.
- Kim Lân: Là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tuy không nhiều nhưng để lại ấn tượng sâu
đậm trong lòng người đọc. Đề tài quen thuộc của nhà văn là cuộc sống nông thôn và người
nông dân.
- Truyện ngắn Vợ nhặt: Tiền thân của truyện là tiểu thuyết Xóm ngụ cư. Cuốn tiểu thuyết này
được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công nhưng còn dở dang và mất bản thảo.
Hòa bình lập lại (1954), dựa trên một phần cốt truyện cũ, Vợ nhặt ra đời. Tác phẩm được in
trong tập Con chó xấu xí (1962).
- Khi bàn luận về tác phẩm này, có ý kiến cho rằng: Trong truyện ngắn “Vợ nhặt", nhà văn
Kim Lân đã xây dựng được một tình huống bất thường để nói lên khát vọng bình thường mà
chính đáng của con người.
2. Yêu cầu cơ bản:
- Giải thích ý kiến: Ý kiến đã khẳng định thành công của tác giả trong việc xây dụng tình
huống độc đáo (tính chất bất thường), giàu ý nghĩa nhân bản (thể hiện khát vọng bình thường
của con người).
- Nêu tình huống: Tràng - một nông dân ngụ cư nghèo khổ, ngờ nghệch, xấu xí, đang ế vợ
bỗng nhiên "nhặt" được vợ giữa nạn đói khủng khiếp.
- Tính chất bất thường: Giữa nạn đói kinh hoàng, khi người ta chỉ nghĩ đến chuyện sống -
chết thì Tràng lại lấy vợ; một người tưởng như không thể lấy được vợ lại "nhặt" được vợ một
cách dễ dàng; Tràng "nhờ" nạn đói mới có được vợ còn người đàn bà vì đói khát mà theo
không một người đàn ông xa lạ; việc Tràng có vợ khiến cho mọi người ngạc nhiên, không
biết nên buồn hay vui, nên mừng hay lo;...
- Khát vọng bình thường mà chính đáng của con người: Khát vọng được sống (người đàn bà
đói khát theo không về làm vợ Tràng); khát vọng yêu thương, khát vọng về mái ấm gia đình
(suy nghĩ và hành động của các nhân vật đều hướng tới vun đắp hạnh phúc gia đình); khát
vọng về tương lai tươi sáng (bà cụ Tứ động viên con, người vợ nhặt nhắc đến chuyện phá kho
thóc, Tràng nghĩ đến lá cờ đỏ sao vàng,...);...
- Đánh giá ý kiến: Ý kiến xác đáng vì đã chỉ ra nét độc đáo và làm nổi bật ý nghĩa quan trọng
của tình huống truyện trong việc thể hiện tư tưởng nhân đạo của tác giả. Có thể xem ý kiến là
một định hướng cho người đọc khi tiếp nhận tác phẩm Vợ nhặt, đồng thời là một gợi mở cho
độc giả về cách thức tiếp cận truyện ngắn theo đặc trưng thể loại.
3. Yêu cầu phân hóa: Liên hệ, mở rộng với tình huống trong truyện ngắn Chí Phèo của nhà
văn Nam Cao (Ngữ văn 11), để từ đó thấy được tư tưởng nhân đạo mới mẻ của nhà văn Kim
Lân.
- Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở là một tình huống truyện độc đáo trong truyện ngắn
Chí Phèo của nhà văn Nam Cao. Cũng khá giống với tình huống Tràng "nhặt" được vợ, cuộc
gặp gỡ giữa Chí Phèo với Thị Nỡ - một người phụ nữ xấu, vô duyên, ế chồng trở thành tâm
điểm của truyện. Chính cuộc gặp gỡ này đã khiến Chí hồi sinh, thức tỉnh nhân cách, khát
vọng làm người lương thiện, thèm làm hòa với mọi người. Nhưng cuối cùng Chí bị thị Nở từ
chối, cùng đường tuyệt vọng, Chí Phèo đã phải chọn cái chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc
đời.
- Nhìn chung, qua hai tình huống truyện trên, cả Kim Lân và Nam Cao đều đã thể hiện được
tâm lòng nhân đạo sâu sắc của mình với số phận của người nông dân trước Cách mạng tháng
tám, 1945: Trân trọng khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của họ, cảm thông với nỗi bất
hạnh của họ và lên án, tố cáo xã hội phong kiến thực dân đương thời đã đẩy họ vào cảnh đói
kém, sự tha hóa, chết chóc. So với Chí Phèo (Nam Cao), trong Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân đã
thể hiện một bước tiến cao hơn trong tư tưởng nhân đạo, đó là nhà văn đã chỉ ra cho nhân vật
của mình một con đường sống tươi sáng hơn với kết thúc truyện có hậu. Tuy nhiên cũng cần
nói rằng, do hoàn cảnh ra đời, phong cách nghệ thuật, tư tưởng của mỗi nhà văn mỗi khác
nên cách xây dựng tình huống, xây dựng nhân vật, cách truyền tải thông điệp nhân đạo cũng
khác nhau.
4. Đánh giá chung
Với hai tình huống truyện trên, cả hai nhà văn đồng thời thể hiện được tấm lòng nhân
đạo của mình. Đồng thời, tình huống truyện làm nên thành bại của truyện, đặc biệt là truyện
ngắn. Do đó, với sự thành công trong việc xây dựng tình huống truyện của hai nhà văn, ta
thấy được tài năng nghệ thuật của họ.
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Anh bạn tuổi 45 ơi, anh còn nhớ chứ! Chúng ta theo cha mẹ chạy trốn khỏi chiến tranh
và bạo lực đẫm máu nơi quê nhà Kobani với giấc mơ về “miền đất hứa” ở trời Âu. Vậy mà,
giấc mơ ấy chấm dứt chỉ 20 phút sau khi chiếc thuyền khởi hành. Biển dậy sóng, thuyền lật
úp, bàn tay bé nhỏ của tôi buông rời tay mẹ. Tôi đã vật lộn với những con sóng, đã cố bấu
víu lấy sự sống mong manh, đã vẫy vùng trong tuyệt vọng. Nhưng đứa bé 3 tuổi thì có thể làm
được gì giữa biển cả mênh mông trong đêm tối mịt mù? Và rồi… biển cả rộng mở đón tôi vào
lòng. Biển cả cũng rất khoan dung khi thay vì nhấn chìm tôi đã đưa tôi vào bờ, nằm yên trên
cát. Hẳn anh còn nhớ hình ảnh của tôi khi ấy. Bé bỏng. Áo màu đỏ và quần xanh lam. Chân
đi giày. Hai tay xuôi theo chiều chân. Tôi nằm trên bãi biển. Mặt úp xuống bờ cát hiền hòa
như đang say ngủ. Xung quanh, những con sóng vỗ về. Một giấc ngủ dài. Vĩnh viễn.
Nhưng anh ạ, dù sao thì tôi cũng được nhiều người biết đến, được an ủi. Còn hàng
nghìn, thậm chí còn hàng triệu cái chết khác thì sao? Hàng nghìn người di cư đã bỏ mạng
khi vượt Địa Trung Hải, hàng nghìn đứa trẻ đã chết vì đói, vì rét, vì bệnh tật, hàng trăm
người đã chết vì khủng bố. Có những người biết là sẽ chết khi phải vượt biển di cư nhưng
không làm khác được. Một người đồng hương Syria của tôi đã viết thế này trước khi chết
chìm anh ạ. “Cảm ơn biển cả đã chào đón chúng tôi mà không đòi hỏi visa… mà không hỏi
tôn giáo của tôi là gì….”. Thế đấy, có những cái chết được người ta xoa dịu. Có những cái
chết được người ta tưởng nhớ. Có cái chết bị bỏ rơi, quên lãng. Chao ôi, chỉ có chết mới hết
bất công sao? Hay đến chết cũng chưa hết bất công?
(Trích Bức thư đoạt giải nhất cuộc thi UPU quốc tế, Nguyễn Thị Thu Trang, theo báo Dân
trí, 2016)
Câu 1. Đoạn trích trên thuộc phong cách ngôn ngữ chính nào?
Câu 2. Nêu nội dung chính của đoạn trích trên.
Câu 3. Cho biết tác dụng của biện pháp lặp cấu trúc cú pháp và câu hỏi tu từ được sử dụng
trong các câu: Thế đấy, có những cái chết được người ta xoa dịu. Có những cái chết được
người ta tưởng nhớ. Có cái chết bị bỏ rơi, quên lãng. Chao ôi, chỉ có chết mới hết bất công
sao? Hay đến chết cũng chưa hết bất công?
Câu 4. Thông điệp nào trong đoạn trích trên có ý nghĩa nhất đối với anh/ chị?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Từ nội dung vằn bản phân Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn ( khoảng 200 chữ)
với chủ đề: Hãy thức tỉnh lương tri.
Câu 2. (5,0 điểm)
Cảm nhận của anh/ chị về cuộc đời thống khổ của Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt của
nhà văn Kim Lân (Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017).
Từ đó liên hệ với bi kịch của Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao
(Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017) để nhận xét về giá trị nhân đạo mà
nhà văn gửi gắm qua hai nhân vật.
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Câu 1. Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt/ Sinh hoạt.
Câu 2. Đây là câu hỏi nhận biết thông tin trong đoạn trích nên có thể trả lời bằng cách trích
dẫn hoặc tóm tắt nội dung chính của đoạn văn bản. Dưới đây là câu trả lời tham khảo:
Câu chuyện kể về nỗi đau của người dân tị nạn Syria và những nỗ lực tuyệt vọng của họ để
thoát khỏi nỗi đau ấy thông qua cuộc đối thoại giữa những người bạn sau nhiều năm gặp lại.
Câu 3. Đây là dạng câu hỏi nhận biết thông hiểu, học sinh cần nhận biết được và phân tích
tác dụng của biện pháp tu từ trong các câu văn trích dẫn:
- Biện pháp lặp cấu trúc cú pháp: Có những... với tác dụng nhấn mạnh vào nỗi đau của những
cái chết của những con người, tị nạn vô tội trong hành trình chạy trốn chiến tranh để tìm một
vùng đất bình yên.
- Câu hỏi tu tù: Chao ôi, chỉ có chết mới hết bất công sao? Hay đến chết cũng chưa hết bất
công?Có tác dụng kêu gọi thức tỉnh tinh thần nhân đạo của nhân loại và tố cáo tội ác của
chiến tranh.
Câu 4. Đây là câu hỏi thông hiểu vận dụng, học sinh từ việc hiểu nội dung của văn bản bày
tỏ nhận thức của mình về vấn đề. Học sinh có thể nêu các thông điệp sau:
- Cần chấm dứt chiến sự để người dân Syria được sống bình yên ổn, hạnh phúc ngay trên
mảnh đất quê hương mình.
- Các nước cần mở rộng vòng tay nhân ái, cưu mang giúp đỡ những người dân tị nạn.
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
[Đ] Cuộc giao tranh giữa ánh sáng và bóng tối, thiện và ác, tham vọng và nhân ái luôn
hiện diện trong cuộc sống của con người, ở đâu đó, nếu con người không làm chủ được tham
vọng, không chế ngự được hận thù thì sê gây ra biết bao đau khổ, tội ác ở đời.
[G] Hãy thức tỉnh lương tri, để cuộc sống trở nên có ý nghĩa và tốt đẹp hơn. Hãy thức
tỉnh lương tri của những kẻ gây hấn tạo nên xung đột vũ trang, thảm sát để người dân vô tội
không còn hoảng loạn, trốn chạy khỏi quê hương, đi tìm miền đất hứa. Hãy thức tỉnh lương
tri của nhà cầm quyền các nước Châu Âu, những người dân đang được sống trong bình yên,
mở rộng vòng tay nhân ái để những người tị nạn không phải chịu cảnh màn trời chiếu đất,
lênh đênh trên biển, chết dạt vào bãi cát.
[M] Nỗi khổ của người dân Syria xuất phát từ thái độ ích kỷ, thù hận lâu dài của một số
những con người. Vì vậy mỗi chúng ta phải có những hành động để lên án, tố cáo và lay thức
lương tâm họ.
[B] Mỗi người góp một tiếng nói, góp một hành động sẽ tạo ra làn sóng dư luận để thay
đổi những hành xử trái với lương tâm con người. Trong thực tế cuộc sống, đôi khi vì mải mê
theo đuổi những mục đích riêng mà nhiều người quên đi hay bỏ qua những chân giá trị tốt
đẹp. Con người cần phải biết điểm dừng cho tham vọng, xóa bỏ hận thù, thực hành chủ nghĩa
nhân văn, bởi cuộc đời con người là hữu hạn, không nên đắm chìm trong bạo lực, chiến tranh
phi nghĩa.
Câu 2. (5,0 điểm)
1. Giới thiệu đôi nét về Kim Lân, truyện ngắn Vợ nhặt và nhân vật Tràng
2. Yêu cầu cơ bản: Cảm nhận nhân vật Tràng
- Tràng là một gã trai nghèo khổ, dân cư ngụ, làm nghề đẩy xe bò thuê, bố chết, em gái cũng
chết, chỉ còn lại Tràng và bà mẹ già nua. Dân cư ngụ là nhưng người vốn từ nơi khác đến,
trong mắt người đời đó là hạng người tứ tán, nghèo khổ, thường bị coi rẻ, bị phân biệt đối xử.
Tràng có ngoại hình xấu xí, thô kệch: hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên
quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh
những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn... đầu cạo trọc nhẵn, cái lưng to rộng như lưng gấu, ngay
cả cái cười cũng lạ, cứ phải ngửa mặt lên cười hềnh hệch. Tràng là một đẽo gọt quá sơ sài của
tạo hóa, là di chứng của đói khát và nghèo khổ từ kiếp nào.
- Tràng là người vô tư nông cạn. Tràng là người hầu như không biết tính toán, không ý thức
hết hoàn cảnh của mình. Anh ta thích chơi với trẻ con và chẳng khác chúng là mấy. Mỗi lần
Tràng đi làm về, trẻ con trong xóm ùa ra vây lấy hắn, reo cười váng lên, rồi chúng, đứa túm
đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo tay, đứa lôi chân không cho đi, rồi chèo kéo
Anh Tràng ơi, bế em mấy... Tràng chỉ ngửa mặt lên cười hềnh hệch. Ngay cả chuyện quan
trọng như lấy vợ, Tràng cũng chỉ quyết định trong chốc lát, đâu có hai bận bông đùa, người
đàn bà đang đói khát bám lấy Tràng để được ăn, Tràng cũng vui vẻ chấp nhận, đưa về nhà để
thành... vợ chồng! Thật, xưa nay chưa có ai quyết định việc lấy vợ nhanh chóng như Tràng.
- Tràng là người đàn ông nhân hậu, hào hiệp, phóng khoáng. Thật ra, ban đầu Tràng không
chủ tâm tìm vợ. Thấy người đàn bà đói, dù anh cũng đói khát không kém nhưng vẫn cho ăn,
còn động viên thị yên tâm ăn không phải day dứt hổ thẹn khi vỗ vỗ vào túi "Rích bố cu, hở !".
Khi thấy thị quyết theo mình thì Tràng vui vẻ chấp nhận. Tràng lấy vợ trước hết vì lòng
thương đối với một con người đói khát hơn mình. Khi người phụ nữ chấp nhận làm vợ, Tràng
đã có ý thức chăm sóc: Đưa thị vào chợ tinh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài
thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê...
- Tràng là giàu khát vọng hạnh phúc và là một người sống có trách nhiệm. Trước đây có thể
cuộc sống bí bách, ít hi vọng nên Tràng chẳng lo lắng gì cho gia đình: cái nhà ở của hai mẹ
con xiêu vẹo, cỏ mọc lổn nhốn, ang nước khô cong, rác mùn tung bành ở lối đi, quần áo vắt
khươm mươi niên. Việc Tràng nhặt vợ về ngoài tình thương đối với người cùng cảnh ngộ, có
thể thấy đó còn là một khao khát thầm kín bấy lâu nay trong Tràng. Từ khi có vợ anh lấy lại
bản chất đáng quý vốn quý lâu nay bị khỏa lấp trong con người mình: Tràng ngoan ngoãn với
mẹ; thấy gắn bó với cái nhà mình, thấy thấm thía cảm động trước cảnh nhà đơn sơ, bình dị,
thấy mình nên người, muốn làm một việc gì đó dự phần vào tu sửa lại căn nhà. Từ một anh
phu xe cục mịch, chỉ biết việc trước mắt, sống vô tư, Tràng đã là người quan tâm đến những
chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên
vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi, đây là điều hiếm có đối với Tràng xưa nay.
Hình ảnh đoàn người nghèo đói vùng lên dưới bóng lá cờ đỏ bay phất phới trong tâm trí
Tràng đã nói lên ước vọng đổi đời của Tràng và những người dân nghèo.
- Số phận người nông dân qua nhân vật Tràng. Cuộc đời của Tràng tiêu biểu cho số phận của
người dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám, vừa tủi cực, vất vả vừa éo le: Khi chưa có nạn
đói thì nghèo đến nỗi không lấy nổi vợ, nhưng lại lấy vợ lúc nạn đói đang hoành hành, dồn
đẩy đến bờ vực của cái chết. Cuộc đời của những người như Tràng nếu không có một sự thay
đổi mang tính đột biến của cả xã hội sẽ sống mãi trong sự tăm tối, đói khát. Ở Tràng, tuy
chưa có được sự thay đổi đó, nhưng cuộc sống đã bắt đầu hé mở cho anh một hướng đi. Đó là
con đường đến với Cách mạng một cách tự nhiên và tất yếu mà những người như Tràng sẽ đi
và trong thực tế lịch sử, người nông dân Việt Nam đã đi đến với Cách mạng như thế. Qua
nhận vật Tràng, không những nhà văn phản ánh một mặt trận đen tối trong hiện thực xã hội
trước năm 1945 cùng số phận của người dân nghèo mà còn phát hiện vẻ đẹp tâm hồn của họ.
Qua nhân vật Tràng, Kim Lân muốn khẳng định một chân lí: sự sống chẳng bao giờ chán
nản, luôn mạnh hơn cái chết. Như Kim Lân từng tâm sự: Những người đói họ không nghĩ đến
cái chết mà chỉ nghĩ đến cái sống.
- Nghệ thuật xây dựng và tư tưởng nhà văn thể hiện qua nhân vật: Kim Lân đã khắc hoạ nhân
vật Tràng với đầy đủ diện mạo, ngôn ngữ, hành động, đặc biệt là diễn biến tâm trạng của
Tràng bằng ngòi bút sắc sảo. Anh chàng phu xe cục mịch nhưng có một đời sống tâm lý sống
động, khi hãnh diện cái mặt vênh vênh tự đắc với mình bởi vừa mới nhặt được vợ, lúc lật đật
chạy theo người đàn bà, như người xấu hổ chạy trốn, hay lúng túng, tay nọ xoa xoa vào vai
kia, cũng có khi lòng quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hằng ngày, chỉ còn tình nghĩa.
Anh thô kệch nhưng không sỗ sàng, trái lại biết ngượng nghịu, biết sợ, nhất là biết lo nghĩ
cho cuộc sống về sau. Qua truyện ngắn Vợ nhặt Kim Lân bộc lộ một quan điểm nhân đạo sâu
sắc của mình. Không chỉ bày tỏ niềm cảm thương với những người lao động khốn khó, nhà
văn còn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng đói quay quắt, trong bất
kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia đình,
vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai.
3. Yêu câu phân hóa: Liên hệ với nhân vật Chí Phèo trong truyện Chí Phèo của Nam
Cao dê nhận xét về số phận của người nông dân thông qua hai nhân vật này:
- Liên hệ với Chí Phèo: Chí Phèo là nhân vật chính, nhân vật tiêu biểu cho các sáng tác về đề
tài người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám trong các sáng tác của Nam Cao. Chí
Phèo là con người đáng thương, tuy có hoàn cảnh bất hạnh nhưng hắn vẫn lớn lên trở thành
người nông dân khỏe mạnh, lương thiện, tự trọng. Chí Phèo là nạn nhân của chế độ Phong
kiến và Thực dân. Bá Kiến đẩy Chí vào tù, nhà tù thực dân đã tiếp tay nhà nặn biến Chí thành
người khác hẳn, trông đặc như một thằng săng đá, uống rượu triền miên, chửi bới khắp tất cả.
Chí mất hết cả nhân hình lẫn nhân tính. Bị Bá Kiến mua chuộc Chí trở thành tay sai đắc lực,
công cụ gây tội ác, bị cả làng xa lánh coi hắn như con quỷ dữ. Song sâu thẳm trong con quỉ
dữ ấy vẫn khao khát được trở về với cuộc sống của người lương thiện, muốn làm hòa với mọi
người. Tình yêu thương chân thành của người đàn bà khốn khổ, Thị Nở đã thức tỉnh Chí và
linh hồn của Chí lâu nay phải bán cho quỷ để đổi lấy miếng ăn thì giờ đây đã trở về. Chí vô
cùng khao khát được mọi người nhận anh trở lại vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của
những người lương thiện. Tình yêu của Thị Nở đã mở đường cho Chí Phèo trở lại làm người.
Nhưng con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa được hé mở thì đã bị đóng lại. Bà cô
Thị Nở không cho phép cháu bà "đi lấy một thằng (...) chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”.
Cách nhìn của bà ta cũng chính là cách nhìn của mọi người làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí
Phèo. Tất cả quen coi Chí là quỷ dữ mất rồi. Linh hồn Chí trở về nhưng không ai nhận ra.
Thế là Chí Phèo thật sự rơi vào một bi kịch tinh thần đau đớn, bi kịch bị cự tuyệt quyền làm
người. Chí Phèo vật vã quằn quại trong cơn đau đớn, tuyệt vọng, thấm thía tội ác của kẻ thù
và tình trạng tuyệt vọng vô phương cứu chữa của đời mình. Chí đã đến trước mặt Bá Kiến,
đanh thép kết án lão và đã giết chết lão, sau đó, anh tự sát. Câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo:
Ai cho tao lương thiện? là câu hỏi chứa chất phẫn uất, đau đớn, còn làm day dứt người đọc.
Làm thế nào để con người được sống lương thiện trong cái xã hội tàn bạo, ngột ngạt, vùi dập
nhân tính ấy?
- Nhận xét về giá trị nhân đạo: Nhân vật Chí Phèo và nhân vật Tràng đều là những nhân vật
tiêu biểu cho số phận cuộc đời của người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám nhưng
mỗi nhà văn đã có những khám phá riêng về số phận và cảnh ngộ của người nông dân. Bằng
sự cảm thông và thương yêu chân thành, Nam Cao, Kim Lân đã ghi nhận cuộc đời của người
nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám là một chuỗi dài những ngày tháng đau khổ,
tủi cực. Chế độ phong kiến thực dân đã hùn nhau cùng bóc lột, chà đạp lên người nông dân,
đẩy họ vào con đường bần cùng hóa, nghèo khổ đói khát và có nguy cơ chết đói. Không chỉ
có vậy, với dã tâm thâm độc, chính quyền thực dân còn tiếp tay cho giai cấp phong kiên đẩy
người nông dân vào bi kịch bị tha hoá, bị đày đọa lăng nhục, đỉnh cao của những nỗi khổ trên
là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Nam Cao phản ánh nỗi khổ của người nông dân là bi
kịch bị tha hoá, bị dày doa lăng nhục, bị cự tuyệt quyền làm người. Họ khao khát, ước mơ
một cuộc sống lương thiện nhưng lại bị chà đạp tàn bạo về nhân phẩm khiến không những
không được làm người mà còn bị biến thành quỷ dữ, bị xã hội xa lánh, rồi khao khát trở về
làm làm người lương thiện bình thường cũng không được, đành phải chết trên ngưỡng cửa trở
về cuộc sống làm người. Kim Lân khám phá thân phận nghèo hèn của người nông dân trong
nạn đói lịch sử năm 1945, nhưng từ trong hoàn cảnh cơ cực, bị cái đói dồn đuổi đến bước
đường cùng, nhà văn vẫn nhận thấy ở người nông dân nghèo khổ vẫn ấp ủ một niềm tin mãnh
liệt vào cuộc sống, khao khát cháy bỏng về hạnh phúc gia đình và tình người nhân hậu ấm áp.
Chí Phèo kết thúc bằng cách lặp lại hình ảnh cái lò gạch củ đã xuất hiện ở phần đầu tác
phẩm, cái lò gạch cũ bỏ không và vắng bóng người qua lại hiện lên trong đầu óc thị Nở như
một dự cảm về số phận luẩn quẩn bế tắc của người nông dân khi Cách mạng chưa về. Vợ nhặt
kết thúc bằng hình ảnh hiện lên trong óc Tràng: đoàn người đi phá kho thóc của Nhật cùng
với hình ảnh lá cờ đỏ của Việt Minh bay phấp phới. Hình ảnh này đối lập với hình ảnh về
cuộc sống thê thảm của người nông dân được miêu tả trong những phần trước của thiên
truyện, hé mở một hướng giải thoát cho số phận các nhân vật, chỉ ra con đường sống của
người nông dân, và cho thấy khi bị đẩy vào tình trạng đói khát cùng đường thì những người
nông dân nghèo khổ sẽ hướng tới Cách mạng. Sở dĩ có sự khác nhau trong cách kết thúc
truyện là do hoàn cảnh sáng tác và hoàn cảnh lịch sử: Chí Phèo viết trước cách mạng (viết
năm 1940, in năm 1941) trong hoàn cảnh đen tối của xã hội Việt Nam đương thời. Còn Vợ
nhặt là tác phẩm của nền văn học cách mạng từ sau 1945 có khả năng và cần thiết phải chỉ ra
chiều hướng tích cực của đời sống xã hội.
4. Đánh giá chung
Với cuộc đời cơ cực và bi kịch của hai nhân vật, hiện thực khách quan của cuộc sống
được phản ánh, tấm lòng nhân đạo và tài năng xây dựng nhân vật của nhà văn được thể hiện.
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Lòng biết ơn là đẳng cấp cao nhất của văn minh. Một triết gia cổ đại đã từng nói như vậy.
Nên trong cuộc đời mình, dù có bất đồng quan điểm, hoặc không còn yêu thương, hoặc họ
không cho mình nữa, hoặc mình không đủ năng lực lấy cơ hội họ mang đến, thì cũng nên
trắng đen mà dùng lý trí phân biệt, rằng họ đã từng cho mình. Dù là 1 xu hay một miếng
bánh nhỏ, cũng phải biết ơn.
Luôn nghĩ về ngày xưa, để biết ơn người đã cho mình cơ hội. Nếu không có họ, thì mình
hiện giờ sẽ ra sao. Tự tưởng tượng và xóa bỏ những ý nghĩ không hay, nếu có. Văn minh đơn
giản chỉ là như vậy.
[...] Cám ơn là câu cửa miệng, nhưng với người mình thì ngày càng hiếm hoi. Chữ cám ơn
xuất phát từ lòng biết ơn chân thành, là một tiêu chí để đánh giá con nhà có giáo dục tốt từ
cha từ mẹ.
(Trích Lòng biết ơn, Tony Buổi sáng, 17/10/2017)
Câu 1. Xác định thao tác lập luận chủ yếu được sử dụng trong đoạn trích trên.
Câu 2. Nêu ngắn gọn nội dung của đoạn trích trên.
Câu 3. Vì sao Lòng biết ơn là đẳng cấp cao nhất của văn minh?
Câu 4. Anh/ Chị có đồng ý với quan niệm: Chữ cám ơn xuất phát từ lòng biết ơn chân thành,
là một tiêu chí để đánh giá con nhà có giáo dục tốt từ cha từ mẹ? Vì sao?
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ)
trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của lòng biết ơn trong cuộc sống.
Câu 2 (5.0 điểm)
Cảm nhận của anh/ chị về vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật thị trong truyện ngắn Vợ nhặt của
nhà văn Kim Lân (Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017).
Từ đó liên hệ với vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Liên trong cảnh phố huyện lúc đêm xuống
(Hai đứa trẻ, Thạch Lam, Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017) để thấy
được tư tưởng nhân đạo của hai nhà văn.
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Câu 1. Thao tác lập luận bình luận/ Bình luận.
Câu 2. Nội dung chính:
Lòng biết ơn là đẳng cấp cao nhất của xã hội văn minh. Văn minh ở chỗ, chúng ta là con
người nên cứ miễn nhận ơn là phái biết ơn, dù cho đó là điều vô cùng nhỏ nhặt. Vì cảm ơn
cũng là một tiêu chí đánh giá bạn là người có giáo dục hay không.
Câu 3. HS cần dùng tri thức để lí giải thuyết phục. Dưới đây là câu trả lời tham khảo:
Lòng biết ơn là đẳng cấp cao nhất của văn minh. Vì chỉ khi con người tôn trọng đạo lí "uống
nước nhớ nguồn", hàm ơn thì phải biết ơn và trả ơn thì mới có thể trở thành một người tốt, có
nhân cách tốt được. Mà mỗi cá nhân tốt với những hành vi ứng xử tốt thì chắc chắn rằng sẽ
làm nên một cộng đồng, một xã hội văn minh.
Câu 4.– Đồng ý: Đúng là Chữ cám ơn xuất phát từ lòng biết ơn chân thành, là 1 tiêu chí để
đánh giá con nhà có giáo dục tốt từ cha từ mẹ. Vì biết ơn và biết cách bày tỏ lòng biết ơn với
người giúp đỡ mình thể hiện sự ứng xử văn minh, lịch sự. Cách ứng xử đó không chỉ là kết
quả của sự tu dưỡng ở bản thân mỗi người mà còn do sự giáo dục, đặc biệt là từ gia đình. Cha
mẹ giáo dục tốt sẽ giúp đứa trẻ hình thành nhân cách cao đẹp, ứng xử có văn hóa, biết bày tỏ
lòng biết ơn chân thành với người đã giúp đỡ mình.
– Không đồng ý: Chữ cám ơn xuất phát từ lòng biết ơn chân thành, là 1 tiêu chí để đánh giá
con nhà có giáo dục tốt từ cha từ mẹ. Ý kiến đó không hoàn toàn đúng. Quả là gia đình, trong
đó có cha mẹ, có vai trò quan trọng trong việc giáo dục con, hình thành cho con cách cư xử
văn minh, lịch sự. Nhưng không hiếm trường hợp, cha mẹ rất quan tâm đến việc giáo dục con
nhưng con cái vẫn hư hỏng. Hoặc có những đứa trẻ bất hạnh, sớm phải tự lập bươn trải hoặc
sống trong một gia đình không có nền tảng giáo dục tốt nhưng họ vẫn trở thành người có văn
hóa, biết bày tỏ lòng biết ơn chân thành. Bởi hình thành nên nhân cách của một con người do
rất nhiều yếu tố, sự giáo dục của gia đình nhà trường,... và đặc biệt sự tự tu dưỡng, rèn luyện
và bản lĩnh của mỗi cá nhân.
– Vừa đồng ý vừa không đồng ý: (Kết hợp cả hai ý kiến trên).
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
[Đ] Lòng biết ơn có vai trò quan trọng trong cuộc sống con người. “Biết ơn là hiểu và nhớ
công ơn của người khác đối với mình”.
[G] Biết ơn những người đã giúp đỡ mình, những người có công với dân tộc, đất nước. Biết
ơn và bày tỏ lòng biến ơn đối với người giúp đỡ mình thể hiện lối sống có nghĩa có tình, cách
ứng xử có văn hóa, văn minh, lịch sử của con người. Bởi trong cuộc sống, chúng ta luôn nhận
được sự giúp đỡ của người khác về cả vật chất và tinh thần. Bày tỏ lòng biết ơn đâu hẳn chỉ là
những thứ vật chất cao sang, có khi chỉ là một câu cảm ơn, một lời hỏi thăm, động viên chân
thành, ấm áp tình người. Nếu không có lòng biết ơn, con người trở nên ích kỷ, bạc tình, bất
nhân, không bằng loài cầm thú.
[M] Trong cuộc sống, đâu đó vẫn còn những kẻ vô ơn đối với cha mẹ, thầy cô, với những
người đã giúp đỡ mình mà chúng ta cần phải lên án, phê phán.
[B] Lòng biết ơn thể hiện nhân cách của con người. Nhưng không phải tự nhiên mà có. Đó là
kết quả của sự tu dưỡng, rèn luyện của mỗi người.
Câu 2 (5,0 điểm)
1. Giới thiệu đôi nét Kim Lân, Vợ nhặt và vấn đề nghị luận:
2. Yêu cầu cơ bản: Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của nhân vật người vợ nhặt (Vợ nhặt,
Kim Lân):
– Không giống những nhân vật người phụ nữ chính diện trong văn học dân gian và văn học
trung đại, vẻ đẹp của nhân vật người vợ nhặt không được thể hiện ở ngoại hình. Thậm chí,
trong hồi tưởng của Tràng, thị không chỉ có ngoại hình xấu xí, rách rưới: áo quần tả tơi như
tổ đỉa, thị gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai mắt mà còn có tính cong cớn,
chỏng lỏn, vô duyên,.. (Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn, thị ngồi sà xuống ăn thật. Thị
cắm đàu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng trò chuyện gì. Ăn xong, thị cầm dọc đôi
đũa quệt ngang miệng, thở). Bởi thị là nạn nhân của nạn đói khủng khiếp năm 1945. Vì đói,
thị bỏ qua lòng tự trọng, chấp nhận theo không Tràng – vợ nhặt – để bám víu sự sống.
– Nhưng thật bất ngờ, sau khi đọc cả thiên truyện, ấn tượng bao trùm và sâu đậm của người
đọc về nhân vật người vợ nhặt lại là vẻ đẹp. Vẻ đẹp của nhân vật thị là khát khao sống, khát
khao hạnh phúc mãnh liệt trong hoàn cảnh nạn đói, hoàn cảnh mà con người ta đang đứng
chấp chới giữa sự sống và cái chết.
+ Sức sống mãnh liệt, khát vọng sống mạnh mẽ: chấp nhận theo không Tràng để bấu víu sự
sống, chăm lo gia đình để xây đắp tổ ấm, tương lai; không chấp nhận cái chết.
+ Trước khi lấy Tràng, thị đanh đá, cong cớn, vô duyên nhưng sau khi lấy Tràng, thị đã thay
đổi rõ rệt: ý tứ, hiền hậu, đúng mực, hiểu lễ giáo, chu đáo, đảm đang,.. (Trên đường về nhà
Tràng, Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che
khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Khi vào nhà, Thị vẫn ngồi mớm ở mép giường...
Thị cúi mặt, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Sáng hôm sau, Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ
rằng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần
Tràng gặp ở ngoài tỉnh...) Có thể nói, những phẩm chất tốt đẹp đó vốn là bản chất của người
vợ nhặt mà nhất thời bị cái đói che lấp.
+ Thị biết trân trọng, chắt chiu hạnh phúc gia đình: thái độ, hành động của người vợ khi quét
dọn sân trong buổi sáng sớm hôm sau (Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp cửa nhà
cho quang quẻ, nê nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn) và khi ăn
chè khoán (Ngay từ miếng và đầu tiên, Tràng chun ngay mặt lại, miếng cám đắng chát và
nghẹn bức trong cổ. Còn thị, đón lấy bát cháo từ mẹ chồng, dù hai con mắt thị tối lại bởi sự
thất vọng, nhưng thị vẫn điềm nhiên và vào miệng. Có lẽ, thị ý thức được giá trị lớn lao của tổ
ấm gia đình, thị muốn làm vui lòng mẹ chồng, muốn gìn giữ không khí vui vẻ, đầm ấm của
gia đình).
+ Tác giả đặt nhân vật người vợ nhặt vào tình huống truyện éo le, độc đáo để làm nổi bật vẻ
đẹp tâm hồn giàu sức sống và khát vọng sống. Ngôn ngữ nhân vật mang tính cá thể hóa cao,
mang tính đại diện cho tầng lớp nông dân nghèo trước Cách mạng ở miền Bắc. Tính cách
nhân vật có sự chuyển biến bất ngờ nhưng logic.
3. Yêu cầu nâng cao: Còn yêu cầu nâng cao là liên hệ với vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Liên
trong cảnh phố huyện lúc đêm xuống (Hai đứa trẻ, Thạch Lam) nhằm mục đích làm rõ tư
tưởng nhân đạo của hai nhà văn.
– Liên hệ với vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Liên trong cảnh phố huyện lúc đêm xuống: Cũng
như người vợ nhặt trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân, vẻ đẹp của Liên không được khắc
họa qua diện mạo bên ngoài mà là vẻ đẹp của nội tâm, tâm hồn. Liên không bị cái đói đẩy
vào tình cảnh cùng cực, bi thảm như người vợ nhặt. Nhung ở cái tuổi 12, 13, Liên và em
không được vui chơi, học hành mà phải sớm giúp mẹ bươn chải mưu sinh, phải sống nghèo
khổ, tù túng, mòn mỏi, bế tắc nơi phố huyện nghèo. Liên là cô bé ngoan, hiếu thảo, chăm chỉ.
Qua diễn biến tâm trạng Liên trước cảnh thiên nhiên và cuộc sống phố huyện lúc đêm xuống,
ta thấy tâm hồn cô vẫn sáng lên vẻ đẹp của tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương, tâm hồn
trong sáng, tinh tế, nhạy cảm, nhân hậu, giàu lòng trắc ẩn nhân hậu, đặc biệt là khát vọng
sống, niềm hy vọng vào một cái gì đó tươi sáng hơn cho cuộc sống thường ngày của mình và
những con người nơi phố huyện. Niềm ước vọng đó tuy mong manh, mơ hồ (Liên chỉ là một
đứa trẻ) nhưng thể hiện sức sống mạnh mẽ và ý thức phủ nhận cuộc sống hiện tại của nhân
vật. Nhân vật Liên cũng như nhân vật người vợ nhặt đều được tác giả dành cho những tình
cảm yêu quý, trân trọng và cảm thương, đều thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc.
– Tư tưởng nhân đạo của hai nhà văn Thạch Lam và Kim Lân:
+ Các nhà văn đều tập trung trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, đặc biệt vẻ đẹp khát vọng
sống, khát vọng hạnh phúc của con người, dù bị đẩy vào tình cảnh khốn cùng, bi thảm. Thạnh
Lam và Kim Lân dành tình cảm xót thương chân thành cho những mảnh đời bất hạnh, đặc
biệt là trẻ em, phụ nữ - những người yếu đuối, có thân phận nhỏ bé, luôn phải chịu nhiều thiệt
thòi trong xã hội cũ. Qua đó, các nhà văn ngầm tố cáo giai cấp thống trị đã đẩy nhân dân ta
vào tình cảnh thê thảm. (Trong truyện Vợ nhặt, lực lượng tàn bạo đó, ngoài phong kiến, thực
dân Pháp, là phát xít Nhật).
+ Nếu trong Hai đứa trẻ (Thạch Lam), cũng như nhiều các tác phẩm văn học trước Cách
mạng tháng Tám năm 1945, nhà văn thể hiện niềm khát vọng về sự đổi đời của các số phận
bất hạnh rất mơ hồ, mong manh (kết thúc truyện bi quan, đầy bóng tối, số phận nhân vật bế
tắc) thì ở Vợ nhặt, cũng như nhiều các tác phẩm văn học sau năm 1945, Kim Lân đã thể hiện
tư tưởng nhân đạo mới mẻ khi hé mở tương lai tươi sáng, con đường đổi đời của người lao
động và chính người lao động sẽ là người cải tạo hoàn cảnh dưới ánh sáng của Cách mạng
("Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”).
4. Đánh giá chung
Thạch Lam và Kim Lân đã có những đóng góp lớn trong việc kế thừa và phát huy truyền
thống nhân đạo trong văn học dân tộc.
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Nhìn các em thi đấu, tôi vừa cảm phục vừa thương các em. Tôi thương các em không phải vì
các em yếu hơn đối thủ, vì các em thua. Tôi thương vì các em còn quá trẻ, mới chỉ 20 tuổi
nhưng đã mang trên vai trọng trách lấy lại niềm tin và niềm tự hào của cả một dân tộc.
Trọng trách mà thế hệ chúng tôi, một thế hệ chưa già nhưng đã nguội lạnh, đã đổ trách
nhiệm đó cho ai khác […]
Để rồi khi lịch sử gọi tên các em, chứ không phải là thế hệ chúng tôi. Và chúng tôi chợt nhận
ra rằng lịch sử luôn đặt trọng trách lên vai lứa tuổi 20. Người thanh niên Nguyễn Tất Thành
ra đi tìm đường cứu nước chịu đựng mưa tuyết lạnh cắt thịt bên trời Âu chỉ với một viên gạch
hồng nung đỏ. Tổng bí thư Trần Phú hy sinh khi mới ở độ tuổi đôi mươi. Và nếu chúng tôi để
trôi qua thời khắc ấy, lịch sử sẽ gọi tên một thế hệ tuổi đôi mươi khác, đó là các em...
Tôi tin rằng nhiều người đã khóc vì cảm phục và ân hận sau trận đấu này, tôi cũng thế. Tôi
gọi các em là "những chiến binh tuyết". Màu áo đỏ của các em giống như những giọt máu đỏ
của những người lính rơi trên tuyết lạnh, nhưng đã làm tan băng những bộ não và trái tim đã
từ lâu đóng băng vì hết nhiệt huyết của chúng tôi.
Cảm ơn các em, chúng tôi xin hứa, dù muộn, nhưng chúng tôi sẽ thay đổi...
(Trích Những giọt máu đỏ rơi trên tuyết trắng..., Nguyễn Phước Thắng, dẫn theo baomoi)
Câu 1. Đoạn trích trên sử dụng những phương thức biểu đạt chủ yếu nào?
Câu 2. Theo tác giả tại sao khi lịch sử gọi, đã gọi tên các em, chứ không phải là thế hệ chúng tôi?
Câu 3. Cho biết hiệu quả biểu đạt của biện pháp tu từ so sánh sử dụng trong câu văn: Màu áo
đỏ của các em giống như những giọt máu đỏ của những người lính rơi trên tuyết lạnh nhưng đã
làm tan băng những bộ não và trái tim đã từ lâu đóng băng vì hết nhiệt huyết của chúng tôi.
Câu 4. Anh/ Chị có đồng ý rằng: lịch sử luôn đặt trọng trách lên vai lứa tuổi 20 không? Tại sao?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)Từ những gợi ý trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn
(khoảng 200 từ) với chủ đề: Tổ quốc rất cần những con người có trái tim nhiệt huyết.
Câu 2 (5,0 điểm)
Cảm nhận về bức ảnh nghệ thuật trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn
Minh Châu (Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017).
Từ đó liên hệ với hình tượng Cửu Trùng Đài trong đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài
(trích vở kịch Vũ Như Tô) của Nguyễn Huy Tưởng (Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục
Việt Nam, 2017) để làm nổi bật quan niệm về mối quan hệ của nghệ thuật và cuộc sống của
hai nhà văn này.
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Câu 1. Các phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích trên: phương thức biểu đạt
nghị luận và phương thức biểu đạt tự sự/ Nghị luận và tự sự.
Câu 2. Đây là câu kiểm tra năng lực nắm bắt thông tin, HS dựa vào đoạn trích trả lời.
Tham khảo câu trả lời dưới đây:
Theo tác giả: khi lịch sử gọi tên, đã gọi tên các em, chứ không phải là thế hệ chúng tôi vì: các
em còn quá trẻ, mới chỉ 20 tuổi nhưng đã mang trên vai trọng trách lấy lại niềm tin và niềm
tự hào của cả một dân tộc. Trọng trách mà thế hệ chúng tôi, một thế hệ chưa già nhưng đã
nguội lạnh, đã đổ trách nhiệm đó cho ai khác.
Câu 3. Tác dụng của phép so sánh:
Phép so sánh trong câu: Màu áo đỏ của các em giống như những giọt máu đỏ của những
người lính rơi trên tuyết lạnh, nhưng đã làm tan băng những bộ não và trái tim đã từ lâu
đóng băng vì hết nhiệt huyết của chúng tôi có tác dụng tạo ấn tượng mạnh mẽ ở người đọc về
vẻ đẹp của tinh thần quả cảm U23 Việt Nam đã làm tan băng giá trong trái tim mọi người và
thổi bùng ở họ lòng nhiệt huyết.
Câu 4. Học sinh có thể đồng ý hoặc không đồng ý với quan điểm của tác giả đoạn trích
nhưng lập luận phải tích cực, chặt chẽ, thuyết phục. Dưới đây là gợi ý tham khảo:
- Đồng ý: Lứa tuổi 20 là lứa tuổi đẹp nhất của con người, khi đó con người tràn đầy sức sống,
tình yêu và lòng nhiệt huyết sẵn sàng cống hiến cho tổ quốc.
- Không đồng ý: Lứa tuổi 20 đa số còn vụng dại, chưa có nhiều kinh nghiệm và hiểu biết sâu
sắc trong cuộc sống; còn đang chập chững bước vào đời nên dễ sai lầm, va vấp. Hơn nữa
cống hiến cho tổ quốc thì ở bất kỳ lứa tuổi nào cũng cần thiết, không riêng gì tuổi trẻ.
- Vừa đồng ý vừa không đồng ý: (Kết hợp cả hai ý kiến trên).
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
[Đ] Đất nước của chúng ta trường tồn đến hôm nay bởi ở bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử
cũng có những con người tràn đầy nhiệt huyết, sẵn sàng cống hiến, hy sinh cho đất nước. Do
vậy mà: Tổ quốc rất cần những con người có trái tim nhiệt huyết, những con người có trái
tim nhiệt huyết là những người có tình yêu cháy bỏng với công việc mình làm với quê hương
đất nước, sẵn sàng cống hiến tất cả tâm sức của mình cho cuộc đời.
[G] Trong lịch sử, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, những người con ưu tú của đất nước đã
không tiếc máu xương của mình để chiến đấu giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Họ đã góp
phần làm nên những chiến công vang dội, hào hùng như Bạch Đằng, Chi Lăng, Điện Biên
Phủ Đại thắng mùa xuân năm 1975... Trong cuộc sống hiện nay, rất nhiều người với lòng
nhiệt huyết của mình đã và đang đi đầu trong các lĩnh vực: khoa học công nghệ, xóa đói giảm
nghèo, khắc phục thiên tai dịch bệnh… Họ là những con người đầy quả cảm trong các lĩnh
vực kinh tế, văn hóa, thể thao góp phần đẩy nhanh sự phát triển của đất nước, đưa hình ảnh
của Việt Nam đến với bạn bè thế giới.
[M] Bệnh cạnh những con người tràn đầy nhiệt huyết đang ngày đêm cống hiến thì còn một
bộ phận không nhỏ sống thờ ơ vô cảm với những vấn đề chung của cộng đồng, đất nước. Và
nhiệt huyết không chỉ có lợi cho đất nước mà còn làm cho cuộc sống của chúng ta đẹp hơn,
có ý nghĩa hơn.
[B] Lứa tuổi thanh niên là lứa tuổi đẹp nhất của cuộc đời, cần có một trái tim nhiệt huyết để
có được thành công trong cuộc sống và cống hiến cho xã hội. Và thật đáng buồn nếu ta sống
với một trái tim nguội lạnh khi còn đang trẻ tuổi.
Câu 2 (5,0 điểm)
1. Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Minh Châu, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
và ý nghĩa của bức ảnh nghệ thuật.
2. Yêu cầu cơ bản:
a) Hoàn cảnh sáng tác bức ảnh nghệ thuật:
– Phùng được trưởng phòng giao cho nhiệm vụ đi chụp một bức ảnh cảnh biển để bổ sung
vào bộ lịch Thuyền và Biển. Sau mấy buổi sáng phục kích, anh đã phát hiện ra một cảnh đắt
trời cho là cảnh chiếc thuyền lưới vó thu lưới lúc bình minh trên mặt biển mờ sương. Tất cả
bức khung cảnh đó từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản
và toàn bích khiến đứng trước nó, người nghệ sĩ trở nên bối rối trong trái tim như có cái gì
bóp thắt vào. Đặc biệt hơn, Phùng còn khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá
thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.
– Phùng đã bấm máy hết cả cuộn phim để thu vào ống kính cảnh đẹp tuyệt vời đó của tạo
hóa.
b) Sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh nghệ thuật:
– Khi con thuyền tiến vào bờ, nghệ sỹ Phùng phải chứng kiến một cảnh tượng đầy nghịch lý.
Trên con thuyền ngư phủ bước ra hai vợ chồng người thuyền chài, gã đàn ông vũ phu đánh
đập vợ một cách dã man, đứa con trai nhỏ để bảo vệ mẹ đã chống lại bố.
– Tất cả những cảnh đó khiến Phùng cay đắng nhận ra: đằng sau cái toàn bích toàn thiện
toàn mĩ là cái xấu, cái ác, cái trái ngang. Có thể nói, chính những bi kịch trong gia đình
thuyền chài kia là thứ thuốc rửa ảnh quái đản làm bức hình kì diệu anh mới dày công chụp
được bỗng hiện hình một cách khủng khiếp, ghê rợn.
c) Vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài:
– Sau khi chứng kiến cảnh gã chồng vũ phu đánh đập vợ một lần nữa, nghệ sỹ Phùng cùng
bạn là chánh án Đẩu đã mời người đàn bà lên tòa án huyện để thuyết phục chị ly hôn với gã
chồng vũ phu. Nhưng qua những lời giãi bày của chị ở tòa án huyện, nghệ sỹ Phùng và bạn
mới nhận ra nhiều vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài.
– Đó là vẻ đẹp của tình mẫu tử, của đức hy sinh, sự trải đời. Chị không sống cho mình mà
sống cho các con, vì các con mà chị van xin được sống với gã chồng vũ phu để có người chèo
chống con thuyền mỗi khi giông bão đặng nuôi nấng các con. Trong đau khổ chị vẫn chắt lọc
được những niềm vui, niềm hạnh phúc giản dị vui nhất là nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn
no...
d) Cảm nghĩ của nghệ sỹ Phùng khi ngắm bức ảnh nghệ thuật:
– Tấm ảnh Chiếc thuyền ngoài xa được những người yêu nghệ thuật đánh giá cao. Không
những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau nó vẫn còn giữ nguyên giá trị. Có thể nói cách
khác, tấm ảnh ấy cũng được treo trong những phòng khách sang trọng của những người sành
nghệ thuật. Sự đánh giá cao ấy xứng đáng với công sức mà Phùng đã bỏ ra để "phục kích"
nhiều ngày mới chộp được nó. Đó là vẻ đẹp mà có khi cả đời Phùng chỉ nắm bắt được một
lần. Những người yêu nghệ thuật trân trọng tấm ảnh ấy cũng là điều dễ hiểu. Song, có khi họ
là những người yêu nghệ thuật thuần túy, cảm nhận cái đẹp trên bình diện của một tấm ảnh
toàn bích, đáng thưởng thức, đáng treo ở những nơi sang trọng nhất.
– Nhưng với nghệ sỹ Phùng nó không chỉ là bức ảnh nghệ thuật mang vẻ đẹp lãng mạn mà
mỗi khi nhìn kỹ anh lại thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai và như thấy
người đàn bà ấy bước ra khỏi tấm ảnh tấm lưng áo bạc phếch, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn
mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm...
– Ý nghĩa:
+ Màu hồng hồng của ánh sương mai là biểu tượng cho cái đẹp lãng mạn của bức ảnh nghệ
thuật.
+ Hình ảnh người đàn bà hàng chài lam lũ bước ra khỏi bức ảnh là biểu tượng cho mặt trái
của cuộc đời mà bức ảnh nghệ thuật không khám phá và miêu tả được hết.
+ Qua hai chi tiết này, Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm nhiều thông điệp về mối quan hệ
giữa nghệ thuật và cuộc sống: Nghệ thuật phải bắt nguồn từ cuộc đời và vì cuộc đời mà có.
Trách nhiệm đặt ra với người nghệ sĩ là phải thu hẹp khoảng cách giữa nghệ thuật và đời
sống. Người nghệ sĩ chân chính đừng bao giờ theo đuổi một thứ nghệ thuật cao siêu thuần túy
mà trước hết hãy là con người biết rung động trước nỗi đau của đồng loại, hãy là nhà nhân
đạo từ trong cốt tủy.
– Tóm lại, qua đoạn kết, phải chăng Nguyễn Minh Châu muốn nói Chiếc thuyền ngoài xa
chính là vẻ đẹp của ước mơ, của lí tưởng mà người nghệ sĩ luôn khát khao vươn tới. Nhưng
để cho nó có máu thịt của cuộc sống, người nghệ sĩ khi thể hiện nó cần có một tấm lòng trân
trọng, cảm thông. Nó là nỗi dằn dặt, đau đáu khi người nghệ sĩ cảm thấy mình chưa thể hiện
được hết điều muốn nói.
3. Yêu cầu nâng cao: Liên hệ với hình tương Cửu Trùng Đài trong đoạn trích Vĩnh biệt Cửu
Trùng Đài.
– Cửu Trùng Đài là một tòa lâu đài "cao cả, nóc vờn mây", "bền như trăng sao" để dân ta
nghìn thu còn hãnh diện.
– Xây Cửu Trùng Đài là ước mơ cháy bỏng nhất, của Vũ Như Tô, nên mặc dù cự tuyệt yêu
cầu của Lê Tương Dực, không xây Đài vì sợ gây ra thêm những đau khổ cho cuộc sống lầm
than của nhân dân nhưng khát vọng nghệ thuật đó vẫn âm ỉ cháy trong ông. Khi được Đan
Thiềm khuyến khích, khát vọng ấy đã bùng cháy,Vũ Như Tô quyết lợi dụng vương quyền tàn
bạo để xây Cửu Trùng Đài để khẳng định tài năng và thực hiện hoài bão của mình.
– Trong mắt Vũ Như Tô và Đan Thiềm thì Cửu Trùng Đài là kiệt tác nghệ thuật tô điểm cho
đất nước, khẳng định tài trí Việt. Nhưng trong con mắt người dân, Cửu Trùng Đài là nơi ăn
chơi sa đọa, là núi xương sông máu của nhân dân, vì nó mà mẹ mất con, vợ mất chồng, dân
gian đói khổ lầm than. Chính vì vậy mà họ đã nổi dậy đốt Cửu Trùng Đài, giết Vũ Như Tô.
– Như vậy, Cửu Trùng Đài là biểu tượng cho cái đẹp nghệ thuật cao siêu thuần túy mà người
nghệ sỹ khát khao vươn tới nhưng đáng tiếc là cái đẹp nghệ thuật ấy lại đối lập với lợi ích
thiết thân, trực tiếp của nhân dân. Bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô là bi kịch của người nghệ
sỹ có tài năng và hoài bão lớn nhưng không giải quyết được mối quan hệ phức tập giữa nghệ
thuật và đời sống, đặc biệt là không giải quyết được một cách đúng đắn vấn đề sáng tạo nghệ
thuật cho ai và để làm gì. Đây cũng là thông điệp mà Nguyễn Huy Tưởng muốn gửi gắm qua
hình tượng nghệ thuật này.
4. Đánh giá chung: Hai tác phẩm, hai hình tượng nghệ thuật ra đời trong những giai đoạn
khác nhau của lịch sử nên mang những ý nghĩa biểu tượng khác nhau. Cửu Trùng Đài biểu
tượng cho cái đẹp nghệ thuật cao siêu, thuần túy, tách biệt hoàn toàn với cuộc sống của nhân
dân. Đó là biểu hiện của nghệ thuật vị nghệ thuật của văn học lãng mạn nhiều bế tắc mà
Nguyễn Huy Tưởng là một nhà văn tiêu biểu. Bức ảnh nghệ thuật về chiếc thuyền ngoài xa
cũng là một bức ảnh mang vẻ đẹp lãng mạn nhưng người nghệ sỹ biết nhìn nó ở một góc nhìn
khác đa diện, nhiều chiều hơn để khám phá những sự thật của cuộc dời. Đó là nghệ thuật vị
nhân sinh mà nhà văn Nguyễn Minh Châu và văn học cách mạng theo đuổi.
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Niềm vui của người này không phải là nỗi buồn của người kia. Chỉ có thể là thế khi mình
biết nghĩ đến người khác. Mình không nói cho hả giận khi người khác nhói lòng. Mình không
chỉ lo cho được việc mình mặc ai kia khổ sở. Tôi có đọc một truyện ngắn của Tổng Thư kí tòa
soạn Sinh Viên Việt Nam – Hoa Học Trò mang tên Huyền thoại phần mía ngọn. Câu chuyện
trả lời câu hỏi khi nào em lớn? Câu trả lời khi nào em biết nhận phần mía ngọn, đề phần mía
gốc cho người khác. Ấy là khi em lớn, vịt con xấu xí sẽ biến thành thiên nga.
Không ai muốn làm người xấu xí. Có phải vì thế mà ngày mùa, người dân nghèo quê tôi
có thể sống ấm bằng nghề mót lúa. Có phải vì thế mà mỗi khi thu hoạch khoai lang, mẹ tôi để
lại nhiều củ khoai nhỏ không vặt hết, để rồi chiều tối có đám trẻ con làng bên qua vặt lại.
Nhưng đứa trẻ con sau cơn mưa, cứ nhìn những chồi non nhú lên ruộng khoai là biết ngay
dưới lớp đất mỏng có những củ khoai sót mẹ tôi có tình để lại. Có phải vì thế mà truyện cố
tích nói rằng chỉ nên may túi 3 gang không là túi 7 gang?
Vô cảm với người khác là thiểu năng cảm xúc. Còn tệ hơn cả thiểu năng trí tuệ. Bởi vì
thiểu năng cảm xúc nghĩa là dù không phải trời bắt tội, em cũng đã bị tật nguyền ngay trong
cơ thể khỏẻ mạnh, đẹp đẽ của chính mình.
(Trích Huyền thoại phần mía ngọn, Đoàn Công Lê
Huy, dẫn theo http://santruyen.com/tuyen-tap-doan-cong-le-huy)
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản?
Câu 2. Tác giả câu chuyện "Huyền thoại phần mía ngọn " trả lời câu hỏi khi nào em lớn như
thế nào?
Câu 3. Tác giả kể lại câu chuyện mẹ mình để lại những củ khoai lang mỗi khi thu hoạch
nhằm mục đích gì?
Câu 4. Thông điệp nào trong đoạn trích có ý nghĩa nhất với anh/ chị? Vì sao?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Anh/ Chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) bày tỏ quan điểm của mình về ý
kiến của tác giả nêu trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu: Vô cảm với người khác là thiểu năng
cảm xúc. Còn tệ hơn cả thiểu năng trí tuệ.
Câu 2 (5,0 điểm)
Cảm nhận về bức ảnh nghệ thuật trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của
Nguyễn Minh Châu (Ngữ văn 12, Tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017).
Từ đó liên hệ với cảnh cho chữ trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
(Ngữ văn 11, Tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017) để nhận xét quan niệm về cái đẹp của
mỗi nhà văn.
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Câu 1. Đoạn trích trên thuộc phong cách ngôn ngữ chính luận/ Chính luận.
Câu 2. Đây là câu kiểm tra năng lực nắm bắt thông tin, HS dựa vào đoạn trích trả lời bằng
cách trích dẫn hoặc diễn dạt lại theo ý mình. Dưới dây là câu trả lời tham kháo
– Tác giả câu chuyện "Huyền thoại phần mía ngọn" trả lời câu hỏi khi nào em lớn như sau:
Câu trả lời khi nào em biết nhận phần mía ngọn, để phần mía gốc cho người khác.
– Hoặc diễn đạt lại theo ý mình: Trở thành người lớn là khi các em biết nhường nhịn, yêu
thương người khác, dành cho người khác phần tốt đẹp hơn bản thân mình nhận dược.
Câu 3. Mục đích của câu chuyện của tác giả là đưa ra ví dụ để chứng minh luận điểm: Không
ai muốn làm người xấu xí, bản chất của con người là lương thiện, tốt đẹp.
Câu 4. Học sinh có thể tham khảo các gợi ý thông điệp dưới đây:
– Sống, cần biết nhường nhịn sẻ chia.
– Sống vô cảm còn tệ hơn thiểu năng trí tuệ.
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
[Đ] Tác giả cho rằng Vô cảm với người khác là thiểu năng cảm xúc. Còn tệ hơn cả thiểu năng
trí tuệ, tôi hoàn toàn đồng tình là như vậy.
[G] Vì con người có phần khác với động vật ở chỗ biết yêu thương, chia sẻ với đồng loại. Đó
là phần tình cảm. Mà con người vô cảm, tức là thiếu đi cái vốn có của con người chẳng phải
là bị khiếm khuyết, thiểu năng cảm xúc hay sao? Thiểu năng trí tuệ (không có khả năng về trí
tuệ) thì có thể đã trở thành người vô ích, trở thành gánh nặng cho xã hội rồi. Nhưng vô cảm
còn hơn cả thiểu năng trí tuệ nữa. Ý kiến phê phán những con người tuy được sinh ra lành
lặn, đầy đủ nhưng tâm hồn lại thờ ơ, thiếu sự cảm thông, chia sẻ và yêu thương người khác.
Tôi cũng hiểu phần nào vì sao tác giả có ý kiến như vậy. Vì một con người vô cảm có thể gây
nên những hậu quả khủng khiếp cho xã hội. Nó có thể biến con người thành kẻ vô trách
nhiệm, vô lương tâm và vô văn hóa, thậm chí là kẻ tội đồ. Có thể nói hầu hết những vấn nạn
trong xã hội hiện nay như tham những, thực phẩm bẩn, phá hoại môi trường, gây chiến
tranh ... đều có nguyên nhân sâu xa từ sự vô cảm của con người. Do vậy, việc biết yêu thương
sẻ chia đồng cảm với những người xung quanh và lên án mạnh mẽ lối sống vô cảm là điều
hết sức cần làm.
Câu 2 (5,0 điểm)
1. Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Minh Châu, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
và ý nghĩa của bức ảnh nghệ thuật
2. Yêu cầu cơ bản: Cảm nhận về bức ảnh nghệ thuật:
a) Hoàn cảnh sáng tác bức ảnh nghệ thuật:
– Phùng được trưởng phòng giao cho nhiệm vụ đi chụp một bức ảnh cảnh biển để bổ sung
vào bộ lịch Thuyền và Biển. Sau mấy buổi sáng phục kích, anh đã phát hiện ra một cảnh đắt
trời cho là cảnh chiếc thuyền lưới vó thu lưới lúc bình minh trên mặt biển mờ sương. Tất cả
bức khung cảnh đó từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản
và toàn bích khiến đứng trước nó, người nghệ sĩ trở nên bối rối trong trái tim như có cái gì
bóp thắt vào. Đặc biệt hơn, Phùng còn khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá
thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.
– Phùng đã bấm máy hết cả cuộn phim để thu vào ống kính cảnh đẹp tuyệt vời đó của tạo
hóa.
b) Sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh nghệ thuật:
– Khi con thuyền tiến vào bờ, nghệ sỹ Phùng phải chứng kiến một cảnh tượng đầy nghịch lý.
Trên con thuyền ngư phủ bước ra hai vợ chồng người thuyền chài, gã đàn ông vũ phu đánh
đập vợ một cách dã man, đứa con trai nhỏ để bảo vệ mẹ đã chống lại bố.
– Tất cả những cảnh đó khiến Phùng cay đắng nhận ra: đằng sau cái toàn bích toàn thiện
toàn mĩ là cái xấu, cái ác, cái trái ngang. Có thể nói, chính những bi kịch trong gia đình
thuyền chài kia là thứ thuốc rửa ảnh quái đản làm bức hình kì diệu anh mới dày công chụp
được bỗng hiện hình một cách khủng khiếp, ghê rợn.
c) Vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài:
– Sau khi chứng kiến cảnh gã chồng vũ phu đánh đập vợ một lần nữa, nghệ sỹ Phùng cùng
bạn là chánh án Đẩu đã mời người đàn bà lên tòa án huyện để thuyết phục chị ly hôn với gã
chồng vũ phu. Nhưng qua những lời giãi bày của chị ở tòa án huyện, nghệ sỹ Phùng và bạn
mới nhận ra nhiều vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài.
– Đó là vẻ đẹp của tình mẫu tử, của đức hy sinh, sự trải đời. Chị không sống cho mình mà
sống cho các con, vì các con mà chị van xin được sống với gã chồng vũ phu để có người chèo
chống con thuyền mỗi khi giông bão đặng nuôi nấng các con. Trong đau khổ chị vẫn chắt lọc
được những niềm vui, niềm hạnh phúc giản dị vui nhất là nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn
no...
d) Cảm nghĩ của nghệ sỹ Phùng khi ngắm bức ảnh nghệ thuật:
– Tấm ảnh Chiếc thuyền ngoài xa được những người yêu nghệ thuật đánh giá cao. Không
những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau nó vẫn còn giữ nguyên giá trị. Có thể nói
cách khác, tấm ảnh ấy cũng được treo trong những phòng khách sang trọng của những người
sành nghệ thuật. Sự đánh giá cao ấy xứng đáng với công sức mà Phùng đã bỏ ra để "phục
kích" nhiều ngày mới chộp được nó. Đó là vẻ đẹp mà có khi cả đời Phùng chỉ nắm bắt được
một lần. Những người yêu nghệ thuật trân trọng tấm ảnh ấy cũng là điều dễ hiểu. Song, có
khi họ là những người yêu nghệ thuật thuần túy, cảm nhận cái đẹp trên bình diện của một tấm
ảnh toàn bích, đáng thưởng thức, đáng treo ở những nơi sang trọng nhất.
– Nhưng với nghệ sỹ Phùng nó không chỉ là bức ảnh nghệ thuật mang vẻ đẹp lãng mạn mà
mỗi khi nhìn kỹ anh lại thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai và như thấy
người đàn bà ấy bước ra khỏi tấm ảnh tấm lưng áo bạc phếch, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn
mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm...
– Ý nghĩa:
+ Màu hồng hồng của ánh sương mai là biểu tượng cho cái đẹp lãng mạn của bức ảnh nghệ
thuật.
+ Hình ảnh người đàn bà hàng chài lam lũ bước ra khỏi bức ảnh là biểu tượng cho một vẻ đẹp
khác của hiện thực cuộc sống. Đó là vẻ đẹp của con người trong cuộc sống tần tảo mưu sinh,
nhọc nhằn, đa đoan nhưng vẫn ẩn chứa nhiều vẻ đẹp khuất lấp cần đc người nghệ sỹ tiếp tục
khám phá.
+ Qua hai chi tiết này, Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm thông điệp về cái đẹp nghệ thuật:
Cái đẹp, nghệ thuật đích thực không bao giờ tách rời khỏi cuộc sống của con người; người
nghệ sỹ chân chính không thể chỉ phản ánh cái đẹp lãng mạn như con thuyền ngoài xa mà
phải khám phá được chiều sâu của cái đẹp trong cuộc sống và con người dù còn bộn bề ngang
trái và cả những bi kịch đớn đau.
3. Yêu cầu phân hóa - nâng cao: Liên hệ với cảnh cho chữ trong truyện ngắn Chữ người tử
tù của Nguyễn Tuân.
– Cảnh cho chữ là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có vì nó diễn ra trong một hoàn cảnh
không gian và thời gian đặc biệt, giữa những con người cũng vô cùng đặc biệt:
+ Người cho chữ và người xin chữ có mối quan hệ đặc biệt. Trên phương diện xã hội, đó là
những con người đối lập nhau, thậm chí không đội trời chung với nhau: Một người chống lại
trật tự xã hội đương thời bị kết án tử hình, bị giam giữ trong nhà lao tử tù; còn hai người kia
là ngục quan, đại diện cho cái xã hội mà Huấn Cao chống lại. Nhưng trên bình diện nghệ
thuật họ lại là những người tri âm tri kỉ với nhau, ông Huấn Cao là người nghệ sỹ sáng tạo cái
đẹp còn quản ngục và thư lại là những người biết trân trọng và nâng niu cái đẹp.
+ Cảnh cho chữ, một hành động sáng tạo nghệ thuật thanh cao lại diễn ra vào lúc đêm khuya
giữa nhà ngục tối tăm chật hẹp ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, mặt đất vương vãi phân gián,
phân chuột. Đối lập với những những thứ tối tăm hôi hám ấy là ánh sáng rừng rực của ngọn
đuốc, tấm lụa bạch tinh khiết và mùi mực thơm tỏa khắp buồng giam.
+ Cảnh cho chữ được nhà văn khắc họa đầy ấn tượng, dưới ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc,
một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang dậm tô những nét chữ trên tấm lụa trắng;
quản ngục và thơ lại thì run run bê chậu mực, khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô
chữ...
– Sau khi cho chữ, ông Huấn còn đưa ra những lời khuyên bảo chí tình với những người đang
canh giữ mình: Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay đổi chốn ở đi. Chỗ này không
phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông tươi tắn... Ngục quan nghe lời
khuyên thì cảm động, khóc mà bái lạy.
– Cảnh cho chữ trong nhà ngục thể hiện quan niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp: Cái đẹp và
thiên lương cao cả có thể tỏa sáng cả ở những chốn hôi hám, nhơ bẩn, ở ngay chính nơi mà
cái xấu, cái ác ngự trị. Cái đẹp có thể được sinh ra từ trong tăm tối, trong môi trường mà cái
xấu, cái ác ngự trị nhưng cái đẹp phải được sống trong môi trường của cái đẹp, cái đẹp không
thể chung sống lẫn lộn với cái xấu, cái ác. Cái đẹp một khi được tỏa sáng nó có tác dụng khơi
dậy cái thiện bên trong con người, thèm một nét chữ đẹp của ông Huấn, quản ngục và thơ lại
đã từ bỏ chốn tù ngục nhơ nhớp để giữ cho lành cho vững thiên lương của mình.
– Hai tác phẩm, hai chi tiết nghệ thuật đều thể hiện quan niệm về cái đẹp của mỗi nhà văn,
quan niệm ấy có những nét tương đồng và khác biệt. Cả hai nhà văn đều quan niệm cái đẹp
phải gắn với cái thiện. Với Nguyễn Minh Châu thì bản thân cái đẹp chính là đạo đức; còn
Nguyễn Tuân thì quan niệm muốn chơi chữ trước hết phải giữ thiên lương cho lành vững.
Tuy nhiên, do quan niệm nghệ thuật khác nhau nên mỗi nhà văn cũng có những quan điểm
riêng về cái đẹp. Với Nguyễn Tuân, cái đẹp có thể được sinh ra giữa chốn tù ngục, nơi cái
xấu, cái ác ngự trị nhưng cái đẹp là một phạm trù tách bạch, đối lập hoàn toàn với cái lem
luốc của cuộc đời. Tới Nguyễn Minh Châu cái đẹp hòa lẫn trong cuộc đời xù xì, lấm láp và
còn nhiều ngang trái đớn đau. Cái đẹp đích thực không bao giờ tách rời khỏi cuộc sống đời
thường; người nghệ sỹ chân chính phải biết nâng niu cái đẹp đó, để nó có thể tỏa sáng ngay
cả trong bóng tối của sự khổ đau.
4. Đánh giá chung
Hai nhà văn đã có những đóng góp lớn về quan niệm nghệ thuật tiến bộ, mới mẻ đối với nền
văn học nước nhà.Đồng thời, quan niệm ấy là biểu hiện nét đẹp tâm hồn và tài năng của họ.
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Để giữ cho xã hội đi lên, chúng ta có một thách thức chung của thế hệ: không chỉ tạo ra
những việc làm mới, mà còn phải khơi dậy những ý thức mới về mục đích.
Tôi vẫn còn nhớ buổi đêm tôi cho khởi động Facebook từ căn phòng kí túc nhỏ của mình ở
Kirkland House. Tôi đã nói với Noch’s cùng với người bạn KX của tôi. Tôi nhớ mình đã nói
với cậu ấy rằng tôi đã rất phấn khích khi được kết nối cộng đồng Harvard, nhưng một ngày
ai đó sẽ kết nối cả thế giới này.
Vấn đề là, khi ấy chúng tôi chưa từng nghĩ rằng “ai đó” có thể là chính chúng tôi. Chúng tôi
chỉ là những sinh viên trẻ. Chúng tôi không biết tí gì về điều đó. Bên ngoài kia vẫn có đủ các
công ty công nghệ với nguồn lực khổng lồ. Tôi chỉ mặc định rằng công việc kết nối ấy thuộc
về một trong số họ. Nhưng chúng tôi biết rõ một điều – rằng ai cũng muốn kết nối. Vì thế nên
chúng tôi cứ tiến về phía trước, mỗi ngày.
Tôi biết rất nhiều trong các bạn sẽ có câu chuyện của riêng mình giống như thế. Rằng bạn tin
thế giới này cần một thay đổi rõ ràng đến mức hẳn ai đó khác sẽ làm nó. Nhưng không ai
đâu. Chính bạn mới là người thực hiện điều ấy.
(Theo Mark Zuckerberg, Bài phát biểu tại lễ tốt nghiệp sinh viên
Đại học Harvard khóa 2017, Tramdoc.vn dịch)
Câu 1. Chỉ ra một phép liên kết có trong đoạn trích trên.
Câu 2. Vì sao tác giả lại có suy nghĩ: khi ấy chúng tôi chưa từng nghĩ rằng "ai đó" có thể là
chính chúng tôi?
Câu 3. Anh/Chị hiểu như thế nào về lời tâm sự của tác giả: Nhưng chúng tôi biết rõ một điều
- rằng ai cũng muốn kết nối. Vì thế nên chúng tôi cứ tiến về phía trước, mỗi ngày.
Câu 4. Trong đoạn trích trên, thông điệp nào có ý nghĩa nhất với anh/ chị?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Từ những gợi ý trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn (khoảng
200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về ý kiến của Mark Zuckerberg: Mục đích chính là cảm
giác khi mà ta được là một phần của điều gì đó lớn lao hơn chính ta, khi mà ta được cần đến,
ta được lao động cho một điều gì đó tốt đẹp sẽ có trong tương lai.
Câu 2 (5,0 điểm)
Phân tích bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba trong đoạn trích vở kịch Hồn Trương
Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ (Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017).
Từ đó, liên hệ với bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô trong đoạn trích Vĩnh biệt Cửu
Trừng Đài (trích vở kịch Vũ Như Tô) của Nguyễn Huy Tường (Ngữ văn 11, Tập một, NXB
Giáo dục Việt Nam, 2017) để rút ra bài học ứng xử của con người khi bị rơi vào nghịch cảnh.

I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)


Câu 1. Dạng câu hỏi nhận biết: Học sinh chỉ cần chỉ ra 01 phép liên kết trong các phép liên
kết sau:
- Phép nối: Vấn đề là…
- Hoặc phép lặp: Tôi, chúng tôi, kết nối…
Câu 2. Đây là câu kiểm tra năng lực nắm bắt thông tin, do vậy HS có thể dựa vào đoạn trích
trích dẫn thông tin câu hỏi yêu cầu. Đây là câu trả lời tham khảo:
Tác giả có suy nghĩ: khi ấy chúng tôi chưa từng nghĩ rằng "ai đó" có thể là chính chúng tôi là
vì: Chúng tôi chỉ là những sinh viên trẻ. Chúng tôi không biết tí gì về điều đó. Bên ngoài kia
vẫn có đủ các công ty công nghệ với nguồn lực khổng lồ.
Câu 3. Ý nghĩa lời tâm sự của tác giả:
- Nhưng chúng tôi biết rõ một điều – rằng ai cũng muốn kết nối: Hiểu rõ ý nghĩa lớn lao của
công việc mình làm là kết nối mọi người, đưa mọi người lại gần với nhau hơn.
- Vì thế nên chúng tôi cứ tiến về phía trước, mỗi ngày: Cố gắng nỗ lực mỗi ngày trong cuộc
sống sẽ giúp bạn đạt được thành công to lớn trong tương lai.
Câu 4. HS đựa vào đoạn trích lựa chọn một thông điệp tác giả gửi gắm có ý nghĩa nhất với
mình. Và đồng thời, HS phải lí giải được vì sao thông điệp đó lại có ý nghĩa với bản thân.
Dưới đây là một vài gợi ý:
– Khi đã có một mục đích tốt đẹp bạn hãy nỗ lực tiến lên, tin công việc của mình, tin vào
chính mình.
– Chính bạn (bản thân mỗi người) là tác giả làm nên điều kì diệu cho cuộc sống này (niềm tin
vào bản thân).
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
[Đ] Trong bài diễn văn của Mark Zuckerberg có một câu nói khiến tôi vô cùng ấn tượng, đó
là: Mục đích chính là cảm giác khi mà ta được là một phần của điều gì đó lớn lao hơn chính
ta, khi mà ta được cần đến, ta được lao động cho một điều gì đó tốt đẹp sẽ có trong tương lai.
Nghĩa là mỗi người đều xác định cho mình những mục đích trong cuộc sống. Khi xác định
được một mục đích đúng đắn, tích cực thì cuộc sống của chúng ta sẽ tươi đẹp, có ý nghĩa;
ngược lại nếu ta không xác định được mục đích đúng đắn thì cuộc sống sẽ trở nên nghèo nàn,
bế tác, không có động lực để vương lên.
[G] Đây là quan niệm mới mẻ, thú vị về mục đích trong cuộc sống của ông chủ Facebook:
mỗi người cần ý thức được về sự đóng góp của mình để cùng nhau làm nên những điều lớn
lao, đẹp đẽ cho cuộc sống. Như tổng thống Mỹ John Fitzgerald Kennedy kể lại một lần đến
thăm trạm điều khiển không gian ở NASA: Ông tình cờ thấy một người lao công đang thực
hiện công việc của mình. Ông bước lại gần và hỏi: Anh cảm thấy công việc của mình như thế
nào? Lúc đó, người lao công trả lời đầy tự hào: Tôi đang giúp một người lên mặt trăng.
Chúng ta có thể cảm nhận được rằng, người lao công ấy không chỉ xem công việc quét dọn
của mình là chỉ để làm sạch mọi ngóc ngách, mà ý nghĩa hơn, nâng tầm công việc và mục
đích của mình lớn hơn. Đó là giúp một người bay lên mặt trăng để khám phá vũ trụ. Ông ấy
đã hiểu và có cho mình một mục đích công việc, không chỉ vậy, ông ấy đã nâng tầm mục đích
lên khiến cho công việc của mình trở nên có ý nghĩa và cao đẹp hơn bao giờ hết. Trong cuộc
sống hiện nay, rất nhiều người đã xác định đúng đắn mục đích của cuộc đời mình và có nhiều
đóng góp tích cực để góp phần tạo nên một xã hội tốt đẹp. Dù đó là những người nổi tiếng,
thành công trong sự nghiệp hay những con người bình dị nhưng họ đều đã có một cuộc sống
đẹp và có ý nghĩa.
[M] Bên cạnh những con người xác định được mục đích sống tốt đẹp thì còn một bộ phận
không nhỏ xác định sai mục đích sống của đời mình, chạy theo danh vọng, quyền lực hay
đồng tiền mà đánh mất đi cơ hội được sống một cuộc sống có ý nghĩa.
[B] Trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 thì việc xác định mục đích sống đúng đắn
càng trở nên vô cùng quan trọng. Chúc các bạn trẻ sớm tìm thấy được mục đích cao đẹp của
mình.
Câu 2 (5,0 điểm)
1. Giới thiệu đôi nét về nhà viết kịch Lưu Quang Vũ, vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng
thịt và bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba.
2. Yêu cầu cơ bản: Phân tích bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba (Ngữ văn 12, tập hai,
NXB Giáo dục, 2007):
a) Hoàn cảnh dẫn đến bi kịch: Ông Trương Ba là một người làm vườn có lối sống thanh
cao, thích đọc sách, đánh cờ, yêu công việc của mình là ươm những mầm xanh cho cuộc
sống. Do một việc làm tắc trách của Nam Tào, ông Trương Ba bị chết oan, để được tiếp tục
cuộc sống, ông bắt buộc phải trú nhờ vào thân xác anh hàng thịt, một con người thô lỗ, phàm
tục. Hoàn cảnh đó nảy sinh bi kịch của Hồn Trương Ba: không được sống như mình mong
muốn, phụ thuộc vào thân xác anh hàng thịt, bị những nhu cầu bản năng của thân xác chi
phối.
b) Bi kịch của Hồn Trương Ba là phải sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo:
– Qua cuộc đối thoại với xác hàng thịt:
+ Bị xác hàng thịt chi phối, sai khiến: Nhờ có tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới,..., Xác
thịt có tiếng nói đấy, ông biết tiếng nói của tôi rồi, đã luôn bị tiếng nói ấy sai khiến... Chính
vì âm u, đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả cái linh hồn cao khiết của ông
đấy.
+ Đau đớn nhất là chính ông Trương Ba cũng cảm nhận được sự tha hóa của mình, ông ngày
càng ngả theo những thói xấu của anh hàng thịt mà tự đánh mất mình.
+ Trong cuộc đối thoại này Hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lý vì dù muốn hay không ông
cũng phải thừa nhận những điều xác hàng thịt nói là sự thật: Đó là ông càng ngày càng cảm
thấy xao xuyến trước những món ăn mà trước đây mình cho là phàm; là cái lần ông tát thằng
con tóe máu mồm, máu mũi; là cái đêm ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt, tay chân run rẩy, hơi
thở nóng rực, cổ nghẹn lại và suýt nữa thì... Xác hàng thịt thắng thế tuôn ra những lời thoại
dài, khi thì mỉa mai châm chọc, khi thì lên mặt dạy đời. Hồn Trương Ba chỉ nói những lời
thoại ngắn bằng giọng nhát gừng, kèm theo những tiếng kêu, than.
+ Như vậy, Hồn Trương Ba bị lâm vào nghịch cảnh, dù tiếp tục được sống nhưng phải sống
nhờ trong thân xác thô lỗ, phũ phàng của anh hàng thịt, bị những nhu cầu bản năng của thân
xác chi phối, làm cho tha hóa. Hồn Trương Ba muốn đấu tranh để thoát khỏi nghịch cảnh
nhưng đành bất lực. Kết thúc màn đối thoại, Hồn đành chấp nhận quay trở lại thân xác. Bi
kịch của nhân vật Hồn Trương Ba chính là lời cảnh báo: khi con người phải sống trong sự
dung tục thì tất yếu cái dung tục sẽ chế ngự, lấn át và hủy hoại những giá trị đẹp đẽ, cao quý.
– Bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba khi đối thoại với những người thân:
+ Người vợ mà ông nhất mực yêu thương giờ nhất quyết đòi bỏ đi, với bà đi đâu cũng được,
còn hơn là thế này. Bà đã nói ra cái điều mà chính ông cũng cảm nhận được: Ông đâu còn là
ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa nữa.
+ Cái Gái cháu nội ông thì một mực chối bỏ tình thân: Ông nội tôi chết rồi. Trước đây nó yêu
quý ông nội nó bao nhiêu thì giờ đây nó căm ghét con người thô lỗ phũ phàng trước mắt bấy
nhiêu. Sự căm ghét của cái Gái biến thành sự xua đuổi quyết liệt: Ông xấu lắm, ác lắm. Cút
đi! Lão đồ tể, cút đi!
+ Chị con dâu là người sâu sắc, hiểu điều hơn lẽ thiệt, hiểu và thương ông Trương Ba nhất,
chị hiểu rằng giờ thầy khổ hơn xưa nhiều lắm. Nhưng nỗi đau trước cảnh gia đình như tan
hoang ra cả khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã nói ra nỗi đau ấy: Thầy bảo con:
Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con
cảm thấy, đau đớn thấy mỗi ngày thầy một đổi khác dần… đến nỗi có lúc chính con cũng
không nhận ra thầy nữa.
+ Những người thân của ông Trương Ba, bằng những cử chỉ và lời nói khác nhau nhưng đều
bộc lộ nỗi đau khổ tột cùng trước sự thay đổi của ông. Điều đó khiến ông Trương Ba không
thể chịu đựng được, nỗi cay đắng với bản thân đã lên đến đỉnh điểm muốn đứt tung, vọt trào.
Đó là tác động tâm lý cuối cùng, như giọt nước tràn ly khiến ông đi đến quyết định dứt khoát:
Châm hương gọi Đế Thích, trả lại thân xác anh hàng thịt, xin cho cu Tỵ được sống còn mình
thì mãi mãi ra đi không nhập hồn vào thân xác của bất kỳ một ai nữa. Quyết định sáng suốt
đầy tính nhân văn này đã giúp Hồn Trương Ba thoát khỏi bi kịch và khẳng định nhân cách
cao đẹp của nhân vật.
– Nhận xét, đánh giá: Lưu Quang Vũ đã thành công trong việc thể hiện bi kịch của nhân vật
Hồn Trương Ba khi phải sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo. Qua đó nhà văn gửi
đến người đọc những thông điệp sâu sắc:
+ Con người sẽ rơi vào bi kịch khi phải sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, sống lệ thuộc vào
người khác và tự đánh mất mình. Cuộc sống của con người chỉ thực sự hạnh phúc và có ý
nghĩa khi được sống là chính mình.
+ Cuộc sống là quý giá nhưng không thể sống bằng mọi giá.
+ Khi bị đẩy vào nghịch cảnh thì con người cần phải có bản lĩnh, ý chí và một tâm hồn nhân
văn để có thể thoát khỏi nghịch cảnh, giữ vững bản chất tốt đẹp của mình...
3. Yêu cầu phân hóa: Liên hệ với bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô trong đoạn trích Vĩnh biệt
Cửu Trùng Đài (trích vở kịch Vũ Như Tô) của Nguyễn Huy Tưởng từ đó rút ra bài học về sự
ứng xử của con người khi bị rơi vào nghịch cảnh:
– Cũng như nhân vật Hồn Trương Ba, nhân vật Vũ Như Tô trong đoạn trích Vĩnh biệt Cửu
Trùng Đài của Nguyễn Huy Tưởng cũng gặp bi kịch khi bị đẩy vào nghịch cảnh. Nhưng lựa
chọn của Vũ Như Tô có sự khác biệt so với Hồn Trương Ba vì vậy mà nhân vật này không
thể thoát khỏi bi kịch bế tắc.
+ Vũ Như Tô là một kiến trúc sư thiên tài ngàn năm chưa có một, có thể sai khiến gạch đá
như ông tướng cầm quân, có thể xây những tòa lâu đài cao cả nóc vờn mây mà không hề tính
sai một viên gạch… Ông cũng là người có ước mơ hoài bão cao cả, muốn xây cho đất nước
một tòa lâu đài vĩ đài bền như trăng sao, để dân ta nghìn thu còn hãnh diện…Ông còn là
người có tấm lòng thiện lương biết đồng cảm với nỗi đau khổ làm than của nhân dân nên khi
Lê Tương Dực bắt xây Cửu Trùng Đài làm nơi ăn chơi sa đọa thì Vũ Như Tô đã kiên quyết
cự tuyệt và chửi mắng tên hôn quân vô đạo.
+ Sai lầm của Vũ Như Tô là ở chỗ đã không kìm nén được khát khao nghệ thuật cháy bỏng
của bản thân nên đã nghe theo lời khuyên của Đan Thiềm lợi dụng vương quyền của Lê
Tương Dực xây Cửu Trùng Đài để thỏa mãn giấc mộng nghệ thuật của mình bất chấp những
đau khổ, lầm than của nhân dân. Nếu quan niệm sáng tạo nghệ thuật là thực hiện mệnh lệnh
của cái Đẹp và việc bảo vệ quyền sống của con người là thực hiện mệnh lệnh của cái Thiện
thì Vũ Như Tô đã có một lựa chọn sai lầm là đặt cái đẹp lên trên cái thiện, vì cái đẹp mà hy
sinh cái thiện. Sai lầm này đã đẩy nhân vật đến chỗ bản thân bị diệt vong, công trình bị phá
hủy. Vũ Như Tô cho đến lúc chết vẫn không tự nhận xây Cửu Trùng Đài là sai lầm, ông vẫn
tin là mình chính đại quang minh. Đến khi ông và Đan Thiềm bị bắt, Cửu Trùng Đài bị thiêu
hủy thì ông mới bừng tỉnh: Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài!.
- Nhận xét về ứng xử của con người khi bị đẩy vào nghịch cảnh: Hồn Trương Ba và Vũ Như
Tô đều bị đẩy vào nghịch cảnh, Hồn Trương Ba thì không được sống là chính mình còn Vũ
Như Tô thì không được thực hiện hoài bão lớn lao của cuộc đời mình. Trước nghịch cảnh đó
Hồn Trương Ba đã có một sự lựa chọn dũng cảm và đầy chất nhân văn nên dù nhân vật phải
chết nhưng đã giữ trọn vẹn được tâm hồn cao đẹp của mình, để lại tình yêu mến và cảm phục
của mọi người. Vũ Như Tô là người nghệ sỹ tài năng và ôm hoài bão lớn lao nhưng cuối cùng
đã có sự lựa chọn sai lầm là đặt khát vọng nghệ thuật của cá nhân lên trên quyền lợi trực tiếp
và thiết thân của nhân dân nên không thoát khỏi bi kịch.
4. Đánh giá chung
Có thể khẳng định, hai nhà văn đã cho bạn đọc một bài học về giá trị của nghịch cảnh và nghị
lực sống. Các tác giả Lưu Quang Vũ và Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng thành công hai
nhân vật bi kịch và gửi gắm trong đó những thông điệp mang ý nghĩa tư tưởng và nhân văn
sâu sắc. Cả hai tác phẩm đều để lại những bài học về lẽ sống và cách ứng xử của con người
đặc biệt là khi bị lâm vào nghịch cảnh.
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Trong rất nhiều tin tức, những câu chuyện tiêu cực đầy rẫy trên báo chí, mạng xã hội
trong năm qua, trong đó có nhiều tội ác đáng sợ, những vụ cướp của, giết người, những vụ
hành hạ trẻ nhỏ… xuất phát từ những người có lòng dạ độc ác, bất lương, trong đó phần lớn
là thanh niên, thì hành động quên mình, cứu người của Hoàng Đức Hải sẽ khiến người ta
phần nào quên đi những tin tức đó và duy trì niềm tin về những điều tốt đẹp sẽ còn mãi trong
đời thường.
Chỉ cách đây 3 tháng, trên Dân trí đã có bài viết về một giám đốc doanh nghiệp trẻ,
Nguyễn Bá Luân cũng đã tự huy động, tổ chức tàu bè cứu thoát được tới 200 người dân bị
nạn, trôi dạt trên biển ở Vạn Ninh-Khánh Hòa trong tâm cơn bão số 12 […]
Trước đó nữa, báo chí cũng đã từng đăng một bản tin cảm động về một thanh niên tên
Trần Hữu Hiệp (Thạch Thành, Thanh Hóa) đã ra tay cứu thoát 5 người trong một vụ tai nạn
đường thủy trên sông Soài Rạp (huyện Cần Giờ-TPHCM). Anh tử nạn do nhường áo phao
của mình cho một thai phụ bị đuối nước, còn chính mình thì đuối sức và chìm trong dòng
nước.
Không dễ kể hết những gương dũng cảm, cứu người trong thời gian gần đây và điều đó
cũng cho thấy, ở ta, những người tốt như những thanh niên trên không phải là hiếm. Rõ ràng
là họ đều ý thức được rất rõ những nguy hiểm rất lớn cho bản thân mình và thực tế, đã có
nhiều người mất mạng vì cứu người, nhưng đúng lúc nguy hiểm nhất thì họ dường như chỉ
nghĩ đến việc cứu người. Đó là những phút giây sinh tử, không phải ai cũng làm được, đó
thực sự là những hành động của những người anh hùng- những anh hùng trong đời thực.
Đã có nhiều hình thức khen thưởng, vinh danh xứng đáng cho những người quên mình,
cứu người nói trên, nhưng cá nhân người viết bài này vẫn mong muốn có những cách thức
vinh danh họ đặc biệt hơn nữa: Phong tặng danh hiệu anh hùng, hay tạc tượng, đặt tên cho
những con đường... để người dân sẽ nhớ mãi, ghi lòng những hành động nghĩa hiệp, phi
thường của họ.
(Trích Những anh hùng trong đời thực, Mạnh Quân,
dẫn theo báo Dân Trí, 12/02/2018)

Câu 1. Đoạn trích trên thuộc phong cách ngôn ngữ chính nào?
Câu 2. Theo tác giả, trong hoàn cảnh xã hội hiện nay, hành động quên mình, cứu người của
Hoàng Đức Hải có ý nghĩa gì?
Câu 3. Tại sao tác giả khẳng định những người như Hoàng Đức Hải, Nguyễn Bá Luân, Trần
Hữu Hiệp là những anh hùng trong đời thực?
Câu 4. Anh / chị có đồng ý với ý kiến: Phong tặng danh hiệu anh hùng, hay tạc tượng, đặt
tên cho những con đường… để người dân sẽ nhớ mãi, ghi lòng những hành động nghĩa hiệp,
phi thường của họ? Vì sao?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Từ nội dung văn bản phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình
bày quan niệm về người anh hùng trong thời đại ngày nay.
Câu 2 (5,0 điểm)
Cảm nhận của anh/ chị về vẻ đẹp của hình tượng người lính Tây Tiến qua đoạn trích thơ sau:
Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
(Trích Tây Tiến – Quang Dũng, Ngữ văn 12)
Từ đó liên hệ với hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc,
Nguyễn Đình Chiểu, Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017) để làm rõ sự kế
thừa và đổi mới của nội dung yêu nước trong văn học Việt Nam qua các thời kỳ.

I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)


Câu 1. Phong cách ngôn ngữ báo chí/ Báo chí.
Câu 2. Theo tác giả, trong hoàn cảnh xã hội hiện nay, “hành động quên mình, cứu người của
Hoàng Đức Hải sẽ khiến người ta phần nào quên đi những tin tức đó và duy trì niềm tin về
những điều tốt đẹp sẽ còn mãi trong đời thường”.
Câu 3. Học sinh dựa vào nội dung phần đọc – hiểu và sự trải nghiệm của bản thân để lí giải
thuyết phục. Dưới đây là câu trả lời tham khảo.
Tác giả khẳng định những người như Hoàng Đức Hải, Nguyễn Bá Luân, Trần Hữu Hiệp là
những anh hùng trong đời thực vì họ là những người tốt bụng, dũng cảm cứu người, không
màng sự hiểm nguy đến tính mạng của mình (họ đều ý thức được rất rõ những nguy hiểm rất
lớn cho bản thân mình và thực tế, đã có nhiều người mất mạng vì cứu người, nhưng đúng lúc
nguy hiểm nhất thì họ dường như chỉ nghĩ đến việc cứu người). Trong cuộc sống đời thường,
những người như vậy ta không hiếm gặp.
Câu 4. HS có thể đồng ý/ không đồng ý/ vừa đồng ý, vừa không đồng ý nhưng cần đưa ra lý
lẽ thuyết phục. Dưới đây là gợi ý tham khảo.
– Đồng ý: Đúng là Phong tặng danh hiệu anh hùng, hay tạc tượng, đặt tên cho những con
đường… để người dân sẽ nhớ mãi, ghi lòng những hành động nghĩa hiệp, phi thường của họ..
Vì dũng cảm hy sinh tính mạng của mình để cứu người gặp nạn thực sự là hành động của
người anh hùng. Hành động đó xuất phát từ lòng tốt, sự nghĩa hiệp vô tư, chân thành, không
vụ lợi, không đòi hỏi sự đáp đền. Nhằm giáo dục nêu gương những tấm gương cao đẹp như
vậy, để bày tỏ lòng biết ơn, ngưỡng mộ chân thành với những anh hùng trong đời thực đó và
để người dân sẽ nhớ mãi, ghi lòng những hành động nghĩa hiệp, phi thường của họ, xã hội
cần có hình thức khen thưởng, vinh danh họ một cách xứng đáng. Việc khen thưởng, vinh
danh ý nghĩa nhất không thể đo đếm bằng những giá trị vật chất bình thường mà còn phải
bằng những danh hiệu có giá trị tinh thần bền vững như Phong tặng danh hiệu anh hùng, hay
tạc tượng, đặt tên cho những con đường...
– Không đồng ý: Quả là những hành động cứu người gặp nạn của một số thanh niên hiện nay
là rất đáng khâm phục, đáng được biểu dương, khen thưởng và vinh danh. Nhưng trong xã
hội hiện nay, những tấm gương dũng cảm cứu người như vậy không hiếm gặp. Mặt khác,
Phong tặng danh hiệu anh hùng, hay tạc tượng, đặt tên cho những con đường... là cách vinh
danh đặc biệt, có ý nghĩa lớn lao của Nhà nước, nhân dân dành cho những người anh hùng có
sức ảnh hưởng rộng lớn, cống hiến vĩ đại cho cộng đồng, dân tộc. Khen thưởng, vinh danh
những tấm gương anh hùng trong đời thực là việc làm rất nên làm nhưng chúng ta cần chọn
hình thức phù hợp.
– Vừa đồng ý, vừa không đồng ý: (Kết hợp cả hai ý kiến trên).
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
[Đ] Trong xã hội hiện nay, thời đại nào cũng vậy, rất cần có những người anh hùng.
[G] Anh hùng là người có những hành động phi thường, phẩm chất cao đẹp, có đóng góp lớn
lao cho nhân dân, đất nước. Trước kia, khi đất nước bị ngoại xâm, quan niệm về người anh
hùng chủ yếu giới hạn ở lĩnh vực chiến đấu đánh giặc, cứu nước. Ngày nay, khi đất nước hòa
bình, toàn Đảng, toàn dân tập trung trí tuệ, sức lực để xây dựng và phát triển đất nước giàu
mạnh, hội nhập quốc tế (bên cạnh nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc) thì quan
niệm người anh hùng đã được mở rộng hơn rất nhiều. Không chỉ có anh hùng trong chiến
đấu, còn có anh hùng trong lao dộng; không chỉ anh hùng trên mặt trận lao động sản xuất trực
tiếp như nông nghiệp, công nghiệp mà còn có anh hùng trong hoạt động lao động trí tuệ; và
cũng có rất nhiều những anh hùng trong đời thực - những người dân thường có hành dộng
dũng cảm cứu người gặp nạn... Tuy khác nhau về công việc, địa vị xã hội, nghề nghiệp, lứa
tuổi nhưng những người được gọi là anh hùng trong xã hội hiện nay đều là những tấm gương
cao đẹp về hành động dũng cảm xả thân vì việc nghĩa, vì lợi ích của cộng đồng, dân tộc mà
không hề tính toán, vụ lợi; họ đều có những đóng góp, cống hiến lớn cho xã hội, được cộng
đồng tôn vinh.
[M] Tuy nhiên trong xã hội hiện nay, cũng có không ít kẻ mưu mô, tính toán làm việc nghĩa
để trục lợi; không ít kẻ tự phụ có chút tài năng, đóng góp cho cộng đồng mà ngộ nhận, hoặc
giả danh anh hùng; đồng thời cũng còn những loại người "phi anh hùng" sống ích kỷ, vô tâm
trước nỗi đau của đồng loại. Những kẻ như vậy đều đáng bị lên án. Bản thân mỗi người cần
tích cực tu dưỡng nhân cách, có những việc làm thiết thực, ý nghĩa cho gia đình, xã hội. Bắt
đầu từ những việc làm nhỏ nhất để chúng ta trở thành người anh hùng trong tình cảm của
chính những người thân yêu và mọi người xung quanh.
Câu 2 (5,0 điểm)
1. Giới thiệu đôi nét Quang Dũng, bài thơ Tây Tiên và vấn đề nghị luận:
– Quang Dũng (1921-1988) là một nghệ sĩ đa tài, nhưng trước hết là một hồn thơ tinh tế, lãng
mạn, tài hoa.
– Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947, với phần đông là thanh niên,
học sinh, sinh viên Hà thành, có nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào chống thực dân Pháp.
Địa bàn hoạt động của Tây Tiến rất rộng, từ tỉnh Sơn La, Lai Châu Hòa Bình, miền Tây
Thanh Hóa, Sầm Nứa (Lào). Mặc dù sống trong điều kiện vô cùng gian khổ, thiếu thốn, bệnh
sốt rét hoành hành dữ dội, nhưng họ vẫn lạc quan yêu đời và dũng cảm chiến đấu. Quang
Dũng tham gia binh đoàn Tây Tiến được một thời gian thì chuyển sang đơn vị khác. Năm
1948, tại làng Phù Lưu Chanh, ông nhớ đồng đội và viết bài thơ Tây Tiến.
– Tây Tiến là tác phẩm tiêu biểu cho đời thơ và hồn thơ Quang Dũng. Bằng cảm hứng lãng
mạn, bài thơ đã dựng lên bức tượng đài nghệ thuật bất hủ về người lính Tây Tiến với vẻ đẹp
bi tráng, trên nền thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở mà nên thơ. Vẻ đẹp chân
dung người lính Tây Tiến được tập trung thể hiện ở đoạn thứ 3 của bài thơ:
Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
2. Yêu cầu cơ bản: Cảm nhận của anh/ chị về người lính Tây Tiến qua đoạn trích: Tây Tiến
đoàn binh không mọc tóc/ .../ Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
– Những hình ảnh tả thực trần trụi về người lính Tây Tiến: không mọc tóc, quân xanh màu lá.
Đây là một sự thật bi thương: Trong thời kì đầu kháng chiến chống Pháp, họ phải sống, chiến
đấu trong hoàn cảnh cực kì khó khăn, thiếu thốn vật chất, đối diện với căn bệnh sốt rét rừng.
Những yếu tố ngoại cảnh này ảnh hưởng trực tiếp đến ngoại hình của họ: da dẻ xanh xao như
màu lá, tóc rụng do bệnh sốt rét, hoặc cạo trọc để tiện cho chiến đấu. Trong hoàn cảnh ấy,
chân dung người lính vẫn toát lên vẻ đẹp hùng tráng: đoàn binh, oai hùm, mắt trừng. Ấn
tượng nhất là ánh mắt (mắt trừng): ánh mắt ánh lên lòng quyết tâm, ý chí chiến đấu (gửi
mộng qua biên giới).
– Thành phần xuất thân của binh đoàn Tây Tiến đa phần là học sinh, sinh viên Hà Nội, tuổi
đời còn rất trẻ với tâm hồn lãng mạn, hào hoa. Do vậy, dù sống và chiến đấu trong hoàn cảnh
khắc nghiệt nhưng họ vẫn có những đêm mơ mộng về Hà Nội, nhớ về những cô gái duyên
dáng, yêu kiều của đất Hà Thành.
– Dù còn rất trẻ, tuổi đời còn xanh thắm nhung những người lính Tây Tiến ý thức được trách
nhiệm, nghĩa vụ của mình với quê hương đất nước, hòa không khí của thời đại: "Quyết tử cho
tổ quốc quyết sinh". Họ hiểu được nghĩa lí mình tồn tại trên đời và quyết liệt sống và chết vì
điều đó. Đó chẳng phải là lý tưởng cao đẹp hay sao? Điểm đặc sắc trong hai câu thơ Rải rác
biên cương mồ viễn xứ/ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh là khi nói về chết chóc, hi sinh
nhung tác giả lại dùng lớp từ Hán - Việt như biên cương, mồ, viễn xứ. Mà từ Hán - Việt vốn
gợi sự trang trọng. Cũng vì vậy mà sự hi sinh của những người lính trở nên trang trọng, tôn
cao tầm quan trọng cho lý tưởng sống của họ. Tóm lại nói những dòng thơ trên miêu tả cái
"bi" nhung nhờ lớp từ Hán - Việt (như đòn bẩy) mà ý nghĩa của sự hi sinh được tôn cao: sự hi
sinh được ghi nhận trang trọng và gợi ở người đọc lòng tự hào về những điều mà họ đã làm
cho quê hương, đất nước.
– Sự hi sinh của những người lính Tây Tiến không hề bi lụy mà mang vẻ đẹp hùng tráng:
Những người lính Tây Tiến khi mất được đồng đội bọc trong một chiếc Áo bào (loại áo vua
mặc, rất sang trọng) chứ không phải trong manh chiếu thông thường. Và cách nói giảm anh
về đất - sự hi sinh được hiểu là sự trở về, trở về nằm trọn trong lòng đất mẹ. Cũng vì thế mà
khi đọc câu thơ nói về cái chết nhưng không hề bi lụy, ngược lại lại gọi không khí trang
trọng, bình yên và tinh thần lạc quan của những người lính. Trong không khí đó, sông Mã
xuất hiện đưa tiễn những người lính trong âm hưởng hào hùng, dữ dội: gầm lên khúc độc
hành đầy tiếc thương. Điểm đặc sắc về nghệ thuật ở hai câu thơ: Áo bào thay chiếu anh về
đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành là lớp từ Hán - Việt lại tiếp tục xuất hiện (áo bào, khúc
độc hành) gợi không khí trang trọng, làm mờ nhạt đi cái bi thương trần trụi của sự hi sinh,
chết chóc. Giọng điệu thơ trang trọng, âm hưởng hào hùng gợi không khí hùng tráng, ý chí
bất khuất của những người lính Tây Tiến. Bàn về những dòng thơ trên, có ý kiến cho rằng:
Chính tinh thần lãng mạn là một điểm tựa giúp nhà thơ nói lên được một vấn đề mà nhiều
người lúc đó né tránh. Đã là chiến tranh thì phải có mất mát, hi sinh. Vấn đề là không rơi
vào bi quan, là nhìn ra từ sự mất mát tầm vóc cao đẹp của sự hi sinh. Bằng ngòi bút tài hoa,
tấm lòng nhớ nhung, tiếc thương và ngưỡng mộ, tự hào về đồng đội, Quang Dũng đã vẽ
thành công chân dung người lính Tây Tiến hào hoa, anh dũng, bi tráng.
3. Yêu cầu nâng cao: Yêu cầu nâng cao là liên hệ với hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Nguyễn Đình Chiểu) nhằm mục đích làm rõ sự kế thừa và đổi
mới của nội dung yêu nước trong văn học Việt Nam qua các thời kỳ văn học.
– Liên hệ với hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Nguyễn
Đình Chiểu)
+ Người nghĩa sĩ Cần Giuộc xuất thân từ nông dân nghèo khổ. Tuy họ không xuất thân từ
tầng lớp trí thức như người lính Tây Tiến, không được giáo dục lòng yêu nước từ những trang
sách nhưng khi đất nước bị ngoại xâm, triều đình bạc nhược, đầu hàng giặc, họ đã thể hiện
lòng yêu nước, căm thù giặc nồng nàn, mãnh liệt mà vô cùng giản dị, hồn nhiên. Nguyễn
Đình Chiểu đã dựng lên bức tượng đài bi tráng, bất tử về người nghĩa sĩ nông dân. Vẻ đẹp bi
tráng của người nghĩa sĩ Cần Giuộc được thể hiện ở chỗ: Họ có lòng tự hào dân tộc, quan
niệm sống đẹp đẽ, ý thức tự nguyện, quyết tâm đánh giặc, tinh thần chiến đấu anh dũng, sẵn
sàng hy sinh cho đất nước, vượt lên những khó khăn, thiếu thốn về trang phục, vũ khí. Người
nghĩa sĩ Cần Giuộc cũng như những người lính Tây tiến hy sinh khi sự nghiệp dang dở.
Nhưng họ đã để lại lý tưởng sống cao đẹp, tiếng thơm ngàn đời, cùng lòng tiếc thương và sự
ngưỡng mộ vô hạn của đất trời, vạn vật và nhân dân.
+ Nếu vẻ đẹp bi tráng ở người lính Tây Tiến còn toát lên từ sự hào hoa, lãng mạn, trẻ trung
của những chàng trai trí thức Hà thành, mang âm hưởng của thời đại Hồ Chí Minh trong giai
đoạn đầu kháng chiến chống Pháp (Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh) thì vẻ đẹp bi tráng của
người nghĩa sĩ Cần Giuộc lại có nét riêgn toát lên từ sự chân chất, mộc mạc của người nông
dân nghèo khó, bộc trực của đất Nam Bộ thế kỷ XIX.
+ Hình tượng người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc và người lính Tây Tiến đều mang vẻ đẹp
sử thi; đều được tác giả dành cho tình cảm tự hào, ngưỡng mộ và tiếc thương vô hạn và qua
đó thể hiện nội dung yêu nước sâu sắc.
- Làm rõ sự kế thừa và đổi mới của nội dung yêu nước trong văn học Việt Nam qua các thời
kỳ văn học.
+ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu và Tây Tiến của Quang Dũng đều là
những tác phẩm tiêu biểu mang nội dung yêu nước sâu sắc và phong phú. Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc được sáng tác 1861, thuộc về văn học trung đại, còn Tây Tiến sáng tác 1948 là tác
phẩm thuộc thời kỳ văn học hiện đại (sau Cách mạng tháng Tám năm 1945). Qua hai tác
phẩm này, ta có thể thấy được sự kế thừa và đổi mới của nội dung yêu nước trong văn học
Việt Nam qua các thời kỳ.
+ Sự kế thừa nội dung yêu nước của văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám 1945 thể
hiện ở chỗ, lòng yêu nước vẫn là nội dung lớn, kế thừa nội dung yêu nước trong văn học
trung đại về cả nội dung cảm xúc và giọng điệu. Tây Tiến có nhiều điểm gặp gỡ với Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc: yêu nước là tình yêu quê hương, lòng căm thù giặc, ý thức trách nhiệm
với đất nước, quyết tâm đánh giặc, ca ngợi những anh hùng xả thân vì đất nước,...; yêu nước
được thể hiện bằng nhiều giọng điệu (tự hào, ngợi ca, xót thương, tiếc nuối, bi tráng, anh
hùng ca,...).
+ Sự đổi mới trong nội dung yêu nước của văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám
1945 so với văn học trung đại: Trong văn học hiện đại, yêu nước không còn gắn với lý tưởng
trung quân (ở Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, tác giả thể hiện quan niệm Sống thờ vua, thác cũng
thờ vua). Một trong những biểu hiện của tình yêu nước là lòng tự hào dân tộc, ý thức về một
giang sơn toàn vẹn, thống nhất, thiêng liêng. Nhưng nếu trong văn học trung đại, hình tượng
đất nước được cảm nhận một cách cao siêu trừu tượng (Một môi xa thư đồ sộ... Hai vầng nhật
nguyệt chói lòa - Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc) thì trong văn học hiện đại, dáng hình đất nước
hiện lên rất cụ thể; thân thuộc tình yêu đất nước xuất phát từ tình yêu cụ thể, riêng tư như tình
yêu đôi lứa, tình yêu gia đình, quê hương (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm- Tây Tiến).
+ Nguyên nhân của sự kế thừa và đổi mới đó là do quy luật phát triển của văn học.
4. Đánh giá chung
Ý nghĩa của sự kế thừa và đổi mới nội dung yêu nước trong văn học Việt Nam qua các thời
kỳ: Nội dung yêu nước ngày càng phát triển phong phú, mạnh mẽ, là dòng chủ lưu xuyên
suốt lịch sử văn học dân tộc, góp phần quan trọng trong việc ghi lại gương mặt tinh thần của
dân tộc và bồi dưỡng tình yêu nước cho người dân Việt Nam.
I. ĐỌC HIỂU
Anh chị hãy đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi từ 1 đến 4:
(1)”Nhắc tới Lê Yên Thanh, sẽ có rất nhiều cụm từ ưu ái dành cho 9x này: “Gương mặt
trẻ tiêu biểu”, “Nhân tài đất Việt 9x”, “Chàng trai được Google trả mức lương 6.000USD”.
Thế nhưng, điều khiến người được mệnh danh là chàng trai vàng của Tin học Việt được nhắc
tới nhiều nhất chính là hoài bão trong công việc, tính cầu tiến và không ngừng học hỏi.
(2)Yên Thanh từng từ chối lời mời làm việc tại Google trụ sở Singapore với mức lương
khủng 6.000 đô (tương đương với khoảng 130 triệu đồng) để trở về Việt Nam làm việc cho
một công ty startup (*) thuê văn phòng ở quận 7, TP.HCM với mức lương thấp hơn Google
10 lần.
(3)Chia sẻ về lý do có quyết định đầy táo bạo này, Thanh khiến mọi người nể phục khi nói:
“Mình muốn học hỏi. Đó là lý do duy nhất. Nhiều bạn trẻ đặt ra mục tiêu sau khi tốt nghiệp
đi làm cho công ty nào đó đến tháng nhận lương là xong, không muốn phát triển mình thêm
nữa thì các bạn có thể chọn phương án an toàn. Bản thân mình vẫn muốn phát triển thêm
nữa nên mình chấp nhận một mức lương chỉ đủ sống thôi, miễn là làm việc vui”.
(4) Mỗi sáng thức dậy ở Google mình có lương cao, công việc nhiều người mơ ước, có thể
vừa làm vừa chơi, đồ ăn miễn phí, môi trường thân thiện. Nhưng, tất cả những chế độ tuyệt
vời đó không giúp mình phát triển hơn được nữa. Google đã là một “ông lớn”, tồn tại trong
tập thể đó mình chỉ là một thành phần nhỏ đến rất nhỏ, mình không có sức ảnh hưởng, không
có tiếng nói và mãi mãi mình cũng chẳng làm được điều gì lớn lao…”

(Theo Hồng Đăng, Cafebiz.vn, ngày 23/2/2018)


(*) Công ty Startup: thuật ngữ để chỉ những công ty trong giai đoạn bắt đầu kinh doanh.
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên.
Câu 2. Chỉ ra các phép liên kết được sử dụng trong đoạn 1.
Câu 3. Vì sao Yên Thanh từ chối lời mời làm việc tại Google? Anh/chị đánh giá như thế
nào về quyết định đó của Yên Thanh?
Câu 4. Từ quyết định của Yên Thanh (trong phần đọc hiểu), theo anh/chị “Tuổi trẻ có cần
sống khác biệt”? Vì sao?
II. LÀM VĂN
Câu 1.
Từ nội dung phần đọc hiểu, anh/chị hãy viết đoạn văn (200 chữ) bàn về vai trò của “tính
cầu tiến và không ngừng học hỏi” trong cuộc sống.
Câu 2.
“Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ
như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng
như không phải.
Hắn chắp hai tay sau lưng, lững thững bước ra sân. Ánh nắng buổi sáng màu hè sáng lóa
xói và hai con mắt còn cay sè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗngvừa chợt
nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn, hôm
nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt
khươn mươn niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong
ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rá mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch.
Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái
sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường
nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó
với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy.
Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập
trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho
vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần
tu sửa lại căn nhà.”
(Trích Vợ nhặt – Kim Lân, Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dục, 2008, tr.30)
Cảm nhận của anh/chị về sự thay đổi của nhân vật Tràng trong đoạn trích trên. Liên hệ với
sự thay đổi của Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở (Chí Phèo – Nam Cao, Ngữ văn 11, tập một,
NXB Giáo dục Việt Nam, 2016) để thấy được tấm lòng của các nhà văn dành cho những
người dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Câu 1:phương thức biểu đạt chính: Nghị luận
Câu 2:Phép liên kết được dùng trong đoạn 1:
+ Phép nối: Thế nhưng
+ Phép thế: Chàng trai vàng của tin học Việt thế cho Lê Yên Thanh.
Câu 3:
_ Lê Yên Thanh từ chối làm việc ở Google vì: muốn học hỏi, muốn phát triển bản thân hơn nữa.
_ Nhận xét:
+ Đây là một quyết định táo bạo.
+Đây là quyết định đầy bản lĩnh, thể hiện sự tự tin, sẵn sàng đương đầu và chinh phục mọi
khó khăn thử thách.
+ Cho thấy Lê Yên Thanh là mổ con người có hoài bão trong công việc, tinh thần cầu tiến cao, không
ngừng học hỏi để nâng cao giá trị bản thân.
Câu 4:
_ Tuổi trẻ cần sống khác biệt.
_ Vì:
+ Sống khác biệt giúp chúng ta có những suy nghĩ độc lập, táo bạo, thể hiện được cá tính của bản
thân.
+ Mỗi cá nhân là một thực thể với những màu sắc đa dạng. Sống khác biệt để tránh dập khuôn, một
màu một cách sáo rỗng.
+ Những suy nghĩ khác, góc nhìn về thế giới và mọi vật xung quanh sẽ tạo điều kiện con người tìm
kiếm cơ hội vươn lên.
Câu 1:
 Giới thiệu vấn đề
 Giải thích vấn đề
_ Cầu tiến là gì? Là thái độ luôn mong muốn bản thân mình được hoàn thiện hơn trong bất cứ công
việc nào. Cầu tiến là thái độ sống tích cực, giúp bản thân mỗi chúng ta ngày càng phát triển theo
chiều hướng tích cực.
_ Học hỏi là gì? Chủ động tìm tòi, hỏi han người khác để kết quả học tập tiến bộ.
=> Tính cầu tiến và không ngừng học hỏi là một phẩm chất, đức tính quan trọng mà mỗi chúng ta cần
có trong cuộc sống. Hai đức tính này không chỉ giúp ta hoàn thành xuất sắc công việc mà còn nâng
tầm giá trị bản thân.
Bàn luận vấn đề
_ Biểu hiện của người có tính cầu tiến và tinh thần học hỏi:
+ Luôn tìm cách khắc phục điểm yếu bản thân.
+ Khi thất bại không nản lòng, mất niềm tin, rút ra cho mình những kinh nghiệm để lần sau không
mắc phải.
+ Luôn luôn học hỏi từ những người xung quanh, và học hỏi từ chính thất bại của mình.
+ Không ngừng tư duy, suy nghĩ, tìm ra những hướng đi khác.
_ Vai trò của tinh thần cầu tiến và lòng ham học hỏi:
+ Tinh thần cầu tiến và lòng ham học hỏi sẽ giúp mỗi chúng ta tích lũy được tri thức, kinh nghiệm.
+ Chấp nhận sự thất bại và tìm ra hướng đi mới đúng đắn hơn.
+ Luôn vững vàng, kiên định trước mọi hoàn cảnh.
+ Người có tinh thần cầu tiến và ham học hỏi nhất định sẽ đạt được thành công.
+Những người mang trong mình phẩm chất tốt đẹp như vậy sẽ luôn được mọi người tôn trọng, yêu
quý.
 Mở rộng vấn đề và liên hệ bản thân
_ Bên cạnh những người luôn có tinh thần cầu tiến, ham học hỏi lại có một bộ phận lười biếng, luôn
an phận với những gì mình có được. Điều đó làm cho bản thân ngày càng tụt lùi và mất giá trị.
_ Liên hệ bản thân
Câu 2:
 Giới thiệu tác giả, tác phẩm
_ Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Thế giới nghệ thuật của ông là khung cảnh làng quê và
hình tượng người nông dân. Đó là mảng hiện thực mà ông gắn bó và hiểu biết sâu sắc. Ông viết chân
thực và xúc động về đời sống người dân quê mà ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ - những
con người gắn bó tha thiết, thủy chung với quê hương và cách mạng. Sáng lên trong các tác phẩm của
ông là vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam, những người sống cực nhọc, lam lũ, nghèo khổ
nhưng vẫn yêu đời, chất phác, lạc quan, hóm hỉnh và tài hoa.
_ Vợ nhặt của Kim Lân xứng đáng thuộc loại những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện
đại. Có nhà nghiên cứu văn học đã xếp Vợ nhặt vào loại gần như “thần bút”.
 Giới thiệu nhân vật Tràng
a. Chân dung, lai lịch
_ Lai lịch: dân ngụ cư – tha phương cầu thực, không sống được ở quê mình nên tìm đến một vùng đất
khác ->bị kì thị, phân biệt, đối xử.
+ Không được chia ruộng đất.
+ Không được sống cùng trong không gian của ngôi làng, phải sống ở rìa làng hoặc ngoài đê.
+ Không được tham gia sinh hoạt bất cứ sinh hoạt cộng đồng nào của làng xã. _Gia cảnh: nghèo.
+ Gia đình chỉ có mẹ góa con côi, bố mất sớm.
+Công việc bấp bênh, không ổn định: kéo xe bò thuê.
_Chân dung ngoại hình:
+ Hai mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều.
+Hai bên quai hàm bạnh ra.
+ Thân hình to lớn vập vạp.
+ Vừa đi vừa lảm nhảm những điều mình nghĩ.
+ Ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch.
=> Có sức hấp dẫn với lũ trẻ con trong xóm
=> Hội tụ đầy đủ các yếu tố bất lợi để có thể lấy được vợ.
b.Sự kiện mang tính bước ngoặt cuộc đời: Tràng “nhặt”vợ:
_ Xuất phát từ những câu bông đùa: “Muốn ăn cơm trắng với giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh”
_ Sự chia sẻ, thương cảm giữa những người đồng cảnh. _Từ lời nói đùa của Tràng, thị theo về thật.
 Phân tích sự thay đổi của nhân vật Tràng trong đoạn trích trên
_ Hạnh phúc đã khơi dậy ý thức bổn phận của người đàn ông trong gia đình.
+ Tràng tỉnh dậy muộn -> trong người cảm thấy dễ chịu, êm ái, lửng lơ như người từ trong giấc mơ đi
ra
-> Tâm trạng ngỡ ngàng trước hạnh phúc mình đang nắm giữ.
+ Tràng quan sát khung cảnh đang bày ra trước mắt mình, nhận thấy cảnh tượng thay đổi mới mẻ,
khác lạ:
++Nhà cửa được dọn sạch sẽ hẳn.
++Không khí gia đình: mẹ và vợ chung tay dọn dẹp, vun vén nhà cửa.
-> Thức dậy trong Tràng nhiều cảm xúc:
+ Thấm thía cảm động
+ Bỗng thấy thương yêu, gắn bó
+ Vui sướng, phấn chấn
-> Nhận thức mới mẻ: nhận thấy có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này.
-> Hành động: Xăm xăm chạy ra sân, muốn chung tay tu sửa căn nhà.
-> Muốn chung tay để nghênh đón tương lai tươi sáng đến với gia đình.
_ Có lẽ chính những hạnh phúc khi có một gia đình khiến Tràng có những khát khao đổi đời ở phần
cuối truyện. Tràng bắt đầu quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội; hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới
lần khuất, ẩn hiện trong tâm trí Tràng. Đó là dấu hiệu của một tương lai tươi sáng.
_ Nghệ thuật:
+Khả năng khám phá và phân tích diễn biến tâm lí nhân vật điêu luyện, tài tình.
+ Sử dụng ngôn ngữ người nông dân rất tự nhiên, đưa ngông ngữ đời sống của người dân vào trang
văn. Vì vậy nhân vật hiện lên chân thực, sống động.

 Liên hệ với sự thay đổi của nhân vật Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở
* Giới thiệu nhà văn Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo:
_ Nam Cao là cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam. Phải đến Nam Cao, trào lưu văn học hiện thực
chủ nghĩa mới thực sự tự giác về những nguyên tắc sáng tác của nó.
_ Chí Phèo thuộc thể loại truyện ngắn nhưng có dung lượng của tiểu thuyết. Tác phẩm này
đã đưa Nam Cao lên vị trí là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất trước Cách mạng tháng
Tám năm 1945.
* Giới thiệu nhân vật Chí Phèo:
_ Xuất thân: là đứa trẻ mồ côi bị bỏ rơi ở lò gạch cũ, được anh đi thả ống lươn nhặt được, mang về
cho một bà góa mù, bà góa mù bán cho bác phó cối không con, bác phó cối mất đi thì sống trong sự
đùm bọc của dân làng.
-> Mồ côi, bị trao qua đổi lại, lớn lên trong sự cưu mang của cộng đồng.
_Khi lớn lên (20 tuổi): Chí Phèo làm canh điền cho nhà lí Kiến, lành như đất
-> lương thiện đích thực:
+ Cày cấy thuê để kiếm sống.
+ Khi bị bà ba gọi vào bóp chân, Chí chỉ thấy nhục -> có lòng tự trọng.
+ Mơ ước về mái ấm hạnh phúc, giản dị: chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải…
=> Là một người lương thiện.
_ Sau đó chính cái xã hội tàn ác đã đẩy Chí vào con đường tha hóa, biến Chí thành thằng lưu manh.
* Phân tích sự đổi thay của Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở:
Chính cuộc gặp gỡ giữa Thị Nở và Chí Phèo đã đánh thức Chí khỏi những cơn say triền miên:
_ Thức tỉnh tính người qua giọt nước mắt:
+Khi đón nhận bát cháo hành và những cử chỉ săn sóc của Thị Nở, Chí Phèo bâng khuâng.
+ Ngạc nhiên và cảm động (“mắt ươn ướt”) vì đây là lần đầu tiên được đàn bà cho, đây là lần đầu tiên
Chí Phèo được ăn cháo, lần đầu được săn sóc bởi bàn tay đàn bà.
_ Thức tỉnh tình người – biểu hiện cao nhất là tình yêu:
+ Thấy Thị Nở có duyên -> bản chất của tình yêu.
+ Khao khát chung sống với Thị Nở -> đích đến của tình yêu chân chính.
+ Không còn kinh rượu nữa nhưng cố uống cho thật ít; trở nên hiền lành đến khó tin.
-> Sức mạnh cảm hóa của tình yêu.
_ Thức tỉnh khát vọng người:
+ Khát vọng hoàn lương -> Thị Nở sẽ là người mở đường cho hắn.
_ Cuối cùng, định kiến xã hội cũng đã giết chết Chí, Chí không có cơ hội được sống một cuộc đời tử
tế mà hắn tự liễu đời mình.
 Nét tương đồng và khác biệt
* Tương đồng:
_ Đều viết sự thay đổi của hai người nông dân.
_ Tình yêu thương chính là nguyên nhân làm thức tỉnh những cảm xúc, cảm giác của các nhân vật.
* Khác biệt:
_ Mỗi nhân vật lại có chiều hướng phát triển số phận theo các cách khác nhau: Tràng là dấu hiệu của
sự đổi đời còn Chí Phèo lại đi vão ngõ cụt của sự tuyệt vọng, bi kịch.
* Lí giải khác nhau:
_ Chí Phèo là sáng tác chịu ảnh hưởng của cảm quan hiện thực trước Cách mạng của nhà văn Nam
Cao. Nhân vật chưa tìm được lối thoát cho mình.
_ Vợ nhặt là sáng tác chịu ảnh hưởng của cảm quan hiện thực sau Cách mạng của nhà văn Kim Lân.
Nhân vật đã tìm được lối thoát cho chính mình
 Tổng kết
I. ĐỌC HIỂU
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
“Đứng lên em bốn mươi phút đủ rồi,
Bốn mươi phút nén dồn bao buồn tủi,
Bốn mươi phút giảng bài sao ngắn ngủi,
Bốn mươi phút quỳ… Dài lắm phải không em?
Đứng lên đi để thấy rõ trắng đen,
Nào ai thắng thua giữa bên tình bên lý.
Nghề cao quý trong những nghề cao quý,
Đến lúc này mạt vận đến thế sao?
Kẻ hàm ơn vênh váo đứng ngôi cao,
Bắt người thầy cúi đầu quỳ phía dưới.
Ôi, lịch sử qua mấy ngàn năm tuổi,
Đã bao giờ có chuyện thế này chưa?”
(Trích Đứng lên em!, Phong Du, theo Baomoi.com)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích?
Câu 2. Theo anh/chị vì sao tác giả lại cho rằng: “Bốn mươi phút giảng bài sao ngắn
ngủi./Bốn mươi phút quỳ… Dài lắm phải không em?”?
Câu 3. Chỉ ra và phân tích hiệu quả của biện pháp tu từ trong câu thơ: “Ôi, lịch sử qua
mấy ngàn năm tuổi,/Đã bao giờ có chuyện thế này chưa?”.
Câu 4. Anh/chị suy nghĩ gì trước hành động: “Kẻ hàm ơn vênh váo đứng ngôi cao,/Bắt
người thầy cúi đầu quỳ phía dưới.”?
II. PHẦN LÀM VĂN
Câu 1.
Từ nội dung đoạn trích của phần Đọc – hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng
200 chữ) trình bày suy nghĩ về truyền thống “Tôn sư trọng đạo” trong xã hội hiện nay.
Câu 2.
Cảm nhận của anh/chị về hình tượng nhân vật Tràng trong cảnh “sáng hôm sau” và “bữa
cơm ngày đói” (Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ Văn 12, Tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016). Từ
đó liên hệ với nhân vật Chí Phèo trong cảnh xách dao đến nhà Bá Kiến đòi “làm người lương
thiện” (Chí Phèo, Nam Cao, Ngữ văn 11, Tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016) để nhận xét
cái nhìn của hai nhà văn về người dân lao động trong xã hội cũ.

Câu 1: Phương thức biểu đạt chính: biểu cảm


Câu 2: Tác giả cho rằng “Bốn mươi phút giảng bài sao ngắn ngủi/ Bốn mươi phút quỳ … Dài lắm
phải không em?” vì:
_Bốn mươi phút trên bục giảng là 40 phút được cống hiến, được sống với niềm đam mê, nhiệt
huyết.
_Bốn mươi phút quỳ là bốn mươi phút chịu đựng những nhục nhã, tủi hờn. Điều đó sẽ tạo nên một
quy luật tâm lí thấy thời gian trôi qua dài hơn. Ở đây, câu thơ có hàm ý xót xa, thương cho thân
phận của những nhà giáo.
Câu 3:
_ Biện pháp tu từ: câu hỏi tu từ
_ Hiệu quả: Nhằm nhấn mạnh, khẳng định trong bốn nghìn năm lịch sử chưa bao giờ có chuyện
giáo viên phải quỳ gối trước học sinh. Qua đó thể hiện nỗi xót thương với người giáo viên.
“Kẻ hàm ơn vênh váo đứng ngôi cao/ Bắt người thầy cúi đầu quỳ phía dưới”.
Đối với kẻ hàm ơn – được người giáo viên dạy dỗ bảo ban nên người thì hành động vênh váo đứng
trên cao cho thấy thái độ vô lễ, thiếu tôn trọng với giáo viên. Đồng thời còn cho thấy sự tha hóa,
tụt dốc về đạo đức, về truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc.
Câu 1:
* Giới thiệu vấn đề
 Giải thích vấn đề
_ Tôn sư trọng đạo là gì?
_ Tôn sư: (tôn: là tôn trọng, kính trọng và đề cao; sư: là thầy dạy học, dạy người, dạy chữ). Vậy
tôn sư là người học trò thì phải biết tôn trọng, kính trọng và đề cao vai trò của người thầy trong
quá trình học tập và trong cuộc sống.
_ Trọng đạo: (trọng: coi trọng, tôn trọng; đạo: đạo lí, con đường làm người, đạo đức, đạo lí truyền
thống tốt đẹp của con người): Vậy trọng đạo: là người học trò phải biết tôn trọng, lễ phép, kính
trọng người thầy, vì người thầy đã giảng dạy, truyền dạy cho chúng ta biết thế nào là đạo nghĩa,
đạo đức, đạo học làm người và những tri thức khác về mọi mặt của đời sống tự nhiên, đời sống xã
hội,...
 Bàn luận vấn đề
_ Vì sao phải tôn sư trọng đạo:
+ Thầy cô là người trao truyền cho ta tri thức để sau này làm người có ích.
+ Thầy cô dạy cho ta những bài học đạo lí, hoàn thiện nhân cách mỗi cá nhân, để sau này làm
người tốt cho xã hội.
_ Thực trạng:
+ Học sinh không tôn trọng thầy cô giáo, có thái độ vô lễ với thầy cô (dẫn chứng)
+ Văn hóa ứng xử của học sinh với giáo viên còn kém (dẫn chứng)
+ Thậm chí có học sinh sẵn sàng chửi bởi, hành hung giáo viên (dẫn chứng).
=> Đây là thực trạng hết sức đáng buồn và đáng báo động về sự xuống cấp đạo đức của một bộ
phận học sinh.
_ Nguyên nhân:
+ Cha mẹ quá yêu chiều con, mải mê kiếm tiền mà quên đi nhiệm vụ giáo dục.
+ Nhà trường tập trung giáo dục tri thức và giảm nhẹ phần giáo dục nhân cách cho học sinh.
_ Giải pháp:
+ Cha mẹ cần có sự phối hợp với nhà trường để giáo dục con cái.
+ Giáo viên cần nghiêm khắc với những sai phạm của học sinh, ngoài ra còn phải có tấm lòng độ
lượng, khoan dung, biết động viên, khuyến khích kịp thời những tiến bộ (dù nhỏ) của học trò.
_ Liên hệ bản thân
Câu 2:
 Giới thiệu tác giả, tác phẩm
_ Kim Lân là cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại, là nhà văn chuyên viết truyện ngắn.
Ông có những trang viết đặc sắc về phong tục và đời sống làng quê: những thú chơi và đời sống
làng quê: những thú chơi và sinh hoạt văn hóa cổ truyền của người nông dân vùng đồng bằng Bắc
Bộ được gọi là những “thú đồng quê” hay “phong lưu đồng ruộng” như chơi non bộ, thả chim,
đánh vật, chọi gà,… Sáng lên trong các tác phẩm của ông là vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân
Việt Nam, những người sống cực nhọc, lam lũ, nghèo khổ nhưng vẫn yêu đời, chất phác, lạc quan,
hóm hỉnh và tài hoa.
_ Vợ nhặt của Kim Lân xứng đáng thuộc loại những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam
hiện đại. Truyện được xây dựng trên cái nền hiện thực của nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu
(1945). Truyện được in trong tập Con chó xấu xí (1962). Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu
thuyết
 Giới thiệu nhân vật
_ Lai lịch: dân ngụ cư: tha phương cầu thực, không sống được ở quê mình nên tìm đến một vùng
đất khác -> bị kì thị, phân biệt đối xử.
+ Không được chia ruộng đất.
+ Không được sống cùng trong không gian của ngôi làng, phải sống ở rìa làng hoặc ngoài đê.
+ Không được tham gia bất cứ sinh hoạt cộng đồng nào của làng xã.
_ Gia cảnh: nghèo.
+ Gia đình chỉ có mẹ góa con côi, bố mất sớm.
+ Công việc bấp bênh, không ổn định: kéo xe bò thuê.
_ Chân dung ngoại hình:
+ Hai mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều.
+ Hai bên quai hàm bạnh ra.
+ Thân hình to lớn vập vạp.
+ Vừa đi vừa lảm nhảm những điều mình nghĩ.
+ Ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch.
 Có sức hấp dẫn với lũ trẻ con trong xóm chứ không phải các cô gái.
 Hội tụ đầy đủ các yếu tố bất lợi để có thể lấy được vợ.
_ Sự kiện mang tính bước ngoặt cuộc đời: Tràng “nhặt” vợ:
+ Xuất phát từ những câu bông đùa: “Muốn ăn cơm trắng với giò. Lại đây mà đẩy xe bò với anh”
+ Sự chia sẻ, thương cảm giữa những người đồng cảnh.
+ Từ lời nói đùa của Tràng thị theo về thật.
 Phân tích diễn biến tâm trạng của Tràng trong cảnh “sáng hôm sau” và “bữa cơm ngày đói”
(+) Hạnh phúc đã khơi dậy ý thức bổn phận của người đàn ông trong gia đình.
_ Tràng tỉnh dậy muộn -> dễ chịu, êm ái, lửng lơ như người từ trong giấc mơ đi ra -> ngỡ ngàng
trước hạnh phúc mình đang nắm giữ.
_ Tràng tỉnh dậy muộn -> dễ chịu, êm ái, lửng lơ như người từ trong giấc mơ đi ra -> ngỡ ngàng
trước hạnh phúc mình đang nắm giữ.
_ Tràng quan sát khung cảnh đang bày ra trước mắt mình, nhận thấy cảnh tượng thay đổi mới mẻ,
khác lạ,
+Nhà cửa được dọn dẹp sạch sẽ hẳn.
+ Không khí gia đình: mẹ và vợ chung tay dọn dẹp, vun vén nhà cửa.
 Thức dậy trong Tràng nhiều cảm xúc:
_ Thấm thía cảm động
_ Bỗng thấy thương yêu, gắn bó.
_ Vui sướng, phấn chấn.
 Nhận thức mới mẻ: nhận thấy có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này.
 Hành động: Xăm xăm chạy ra sân, muốn chung tay tu sửa căn nhà
 Muốn chung tay để nghênh đón tương lai tươi sáng đến với gia đình.
(+) Khao khát đổi đời:
_Quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội: mạn Thái Nguyên Bắc Giang không đóng thuê mà còn
phá kho thóc Nhật cha cho người đói.
 Nghĩ ngợi -> Nhớ lại -> Ân hận, tiếc rẻ.
_Hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới lẩn khuất, ẩn hiện trong trí óc Tràng. Hình
ảnh lá cờ chính là tín hiệu cho tương lai tươi sáng.
 Người đọc tin tưởng Tràng sẽ đi theo Việt minh, theo cách mạng.
(*) Tổng hợp đánh giá:
_ Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
+ Khả năng khám phá và phân tích diễn biến tâm lí nhân vật điêu luyện, tài tình.
+ Sử dụng ngôn ngữ người nông dân rất tự nhiên, nhuần nhuyễn, đưa ngôn ngữ đời sống của
người dân vào trang văn -> nhân vật hiện lên chân thực, sống động.
_ Giá trị nội dung tư tưởng mà nhân vật truyền tải:
+ Giá trị hiện thực: Phơi bày, phản ánh tình trạng khổ sở của người nông dân Việt Nam trong
nạn đói năm 1945 trong tình cảnh 1 cổ 3 tròng.
+ Giá trị nhân đạo:
++ Cảm thông, thương xót trước nỗi khổ tận cùng của người dân Việt Nam trong nạn đói năm
1945
++ Lên án, tố cáo những thế lực đã gây ra thảm cảnh cho người dân Việt Nam: phong kiến tay sai,
thực dân Pháp, phát xít Nhật.
++ Phát hiện và trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của người dân Việt Nam trong tình cảnh khốn cùng:
tấm lòng nhân hậu, khát khao hạnh phúc, tin tưởng vào tương lai.
++ Tìm thấy tia sáng cuối đường hầm, lối thoát đổi đời cho người dân.
 Liên hệ với nhân vật Chí Phèo trong cảnh xách dao đến nhà Bá Kiến đòi “làm người lương
thiện”
*Giới thiệu về tác giả Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo:
_ Nam Cao là nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Hình tượng trung tâm trong
các tác phẩm của ông là người nông dân nghèo và người trí thức nghèo. Họ hiện lên không chỉ là
con người thiếu thốn về vật chất, bị áo cơm ghì sát đất mà còn mang tấn bi kịch về tinh thần. Nam
Cao viết về họ với tấm lòng nhân đạo sâu sắc.
_ Chí Phèo là một trong những kiệt tác của ông. Chí Phèo thuộc thể loại truyện ngắn nhưng có
dung lượng của tiểu thuyết. Tác phẩm này đã đưa Nam Cao lên vị trí là một trong những nhà văn
hiện thực xuất sắc nhất trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.
*Giới thiệu về nhân vật Chí Phèo và tóm tắt truyện ngắn “Chí Phèo”.
*Phân tích nhân vật Chí Phèo trong cảnh xách dao đến nhà Bá Kiến.
(+) Nhận diện và trừng trị kẻ thù:
_ Trong nỗi đau tột cùng, Chí Phèo xách dao đi với ý định đâm chết cả nhà Thị Nở nhưng rồi
không đến nhà Thị Nở mà lại đến nhà Bá Kiến. Vì:
+ Chí Phèo đang say.
+ Chí Phèo quen chân.
+ Chí Phèo mơ hồ nhận ra kẻ thù đích thực, nhận ra nguyên nhân gốc rễ đẩy mình vào bi kịch
không phải cô cháu Thị Nở mà là Bá Kiến.
_ Chí Phèo đến khi Bá Kiến đang ghen -> cả giận mất khôn.
(+) Tự hủy hoại mạng sống của chính mình:
_ Chí Phèo có hai lựa chọn:
_ Chí Phèo có hai lựa chọn:
+ Sống:
Là người lương thiện: xã hội làng Vũ Đại không chấp nhận Chí -> không được.
Làm quỷ dữ -> không thể vì con quỷ dữ chỉ tồn tại khi có Bá Kiến giật dây; hơn hết là Chí Phèo
không muốn.
+ Chết: được chết cái chết của người lương thiện.
-> Chỉ có một lựa chọn duy nhất là cái chết.
=> Lên án, tố cáo xã hội đương thời một cách sâu sắc, đanh thép.
 Nhận xét về cách nhìn người nông dân trong xã hội cũ của hai nhà văn:
*Giống nhau:
_Họ là nạn nhân của xã hội thực dân, nửa phong kiến bị đẩy đến bước đường cùng.
_Người nông dân với những khổ cực, khó khăn trong đời sống vật chất.
_Người nông dân mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp: lương thiện, tình yêu thương.
*Khác nhau:
_Kim Lân:
Hình ảnh người nông dân trong tác phẩm của ông hiện lên với vẻ dí dỏm, hài ước và họ có một
tươi lai tươi sáng khi tìm thấy con đường để giải phóng chính mình.
_Nam Cao:
Người nông dân hiện lên với tấn bi kịch tinh thần và họ không tìm được lối thoát mà phải tự kết
liễu cuộc đời mình.
 Tổng kết

I. ĐỌC HIỂU
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4:
Ở nhiều điểm đến tham quan, du lịch khác cũng diễn ra các hành vi thiếu văn hóa của
những vị khách thiệu ý thức. Ngay cả những nơi linh thiêng như khu tượng đài danh nhân,
tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ và di tích văn hóa – lịch sử mang tính biểu tượng, họ cũng
không tha khi trèo bám, đánh đu, phô diễn hình thể, thậm chí còn ngồi cả lên đầu rùa Văn
Miếu, hôn môi tượng danh nhân, leo lên hiện vật trong bảo tàng để chụp ảnh. Điều đáng buồn
là số đông trong các vị khách du lịch, tham quan ấy lại là giới trẻ và có cả một vài diễn viên
hài vốn được coi là “người của công chúng”. Các hình ảnh phản cảm được họ hả hê, khoái
chí tung khoe trên Facebook hoặc các diễn đàn mạng, coi đó như một kỉ niệm của mình trong
chuyến đi. Tại nhiều điểm đến đáng lẽ được bảo vệ nghiêm ngặt thì sự vô ý thức của một bộ
phận du khách cũng hủy hoại và làm hoen ố vẻ đẹp của các di tích, danh thắng bởi những
hành vi như dùng dao, dùng bút, than, phấn để khắc hình, ký tên, vẽ nhăng cuội, chi chít trê
di tích. Có những hang động với hệ thống nhũ đá tuyệt đẹp hình thành từ hàng nghìn năm,
vậy mà sau vài mùa đón khách tham quan đã bị rơi rụng hay vỡ nát do các du khách đau nhau
lén lấy đá đập đề nghe âm thanh hoặc tìm kiếm một mẩu nhũ mang về. Tình trạng rác rưởi do
khách vô ý thức vứt ra bừa bãi cũng làm dâu đầu ban quản lý các khu di tích, danh thắng
trong công tác xử lí. Ngay cả di sản và kỳ quan thế giới Vịnh Hạ Long cũng bị du khách vô
tư xả rác xuống mặt biển, mặc dù ban quản lí đã tăng cường nhắc nhở, xử phạt. Không thể đổ
hết trách nhiệm lên đầu các cơ quan chức năng địa phương, bởi có những lúc số lượng khách
đổ về quá đông mà lực lượng bảo vệ thu gom rác lại mỏng, có làm việc hết công suất cũng
không xuể.
(Nâng cao ý thức khách tham quan, du lịch, Theo http://nhandan.com.vn, ngày
09.11.2013)
Câu 1. Chủ đề của đoạn trích trên là gì? (thông hiểu)
Câu 2. Đoạn trích được trình bày theo phong cách ngôn ngữ nào? (nhận biết)
Câu 3. Anh/chị dựa vào những đặc trưng nào để xác định phong cách ngôn ngữ của đoạn
trích? (thông hiểu)
Câu 4. Theo anh/chị, cần làm gì để hạn chế các hành vi thiếu ý thức của khách du lịch tại
các khu di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh? (vận dụng)
II. LÀM VĂN
Câu 1.
Dựa vào một nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết đoạn văn ngắn
(khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về trách nhiệm của tuổi trẻ đối với việc bảo vệ
các di sản văn hóa của dân tộc. (vận dụng cao)
Câu 2.
Cảm nhận vẻ đẹp phẩm hạnh của nhân vật “thị” trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà
văn Kim Lân (Ngữ Văn 12, tập hai, NXB Giáo dục, 2017). Từ đó, liên hệ với nhân vật
thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao (Ngữ Văn 11, tập một, NXB
Giáo dục, 2017) để thấy điểm gặp gỡ trong quan niệm về vẻ đẹp con người của nhà văn
Kim Lân và Nam Cao qua hai nhân vật này. (vận dụng cao)
Câu 1:
Chủ đề: Tình trạng thiếu ý thức của các khách du lịch hiện nay.
Câu 2:
Phong cách ngôn ngữ: Báo chí
Câu 3:
_ Tính thông tin thời sự: phản ánh thực trạng thiếu ý thức của các khách du lịch tại các điểm tham
quan, các danh lam thắng cảnh.
_ Tính sinh động, hấp dẫn: thể hiện trong cách lấy dẫn chứng phong phú, cách dùng từ đặt câu: “người
của công chúng”,…
Câu 4:
Biện pháp:
_ Tuyên truyền để khách du lịch thấy được những tác hại do hành vi thiếu ý thức của mình gây ra.
_ Có biện pháp xử phạt nghiêm minh.
_ Tự mỗi cá nhân cần có ý thức bảo vệ cảnh quan du lịch, các danh lam thắng cảnh.
Câu 1:
 Giới thiệu vấn đề
 Giải thích vấn đề
_ Di sản văn hóa: là di sản của các hiện vật vật lý và các thuộc tính phi vật thể của một nhóm hay xã
hội được kế thừa từ các thế hệ trước, đã duy trì đến hiện nay và dành cho các thế hệ mai sau. Di sản
văn hóa bao gồm tài sản văn hóa (như các tòa nhà, cảnh quan, di tích, sách, tác phẩm nghệ thuật, và
các hiện vật), văn hóa phi vật
thể (như văn hóa dân gian, truyền thống, ngôn ngữ và kiến thức) và di sản tự nhiên (bao gồm cảnh
quan có tính văn hóa quan trọng và đa dạng sinh học).
=> Giữ gìn, bảo tồn những di sản văn hóa là trách nhiệm của tất cả mọi người đặc biệt là giới trẻ,
những người chủ nhân tương lai của đất nước.
 Bàn luận vấn đề
_ Thực trạng di sản văn hóa hiện nay:
Hiện nay, công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa cũng còn nhiều bất cập:
+ Nguy cơ thất truyền, mai một của nhiều loại hình di sản văn hóa phi vật thể và sự xuống cấp của các
di tích lịch sử ở mức báo động;
+ Việc phát huy giá trị các lễ hội truyền thống còn nhiều hạn chế, hiện tượng thương mại hóa trong lễ
hội chưa được ngăn chặn một cách có hiệu quả;
+ Nạn trộm cắp, buôn bán cổ vật vẫn diễn biến phức tạp, tình trạng lấn chiếm di tích, danh lam, thắng
cảnh;
+ Hiện tượng xây dựng trái phép, tu bổ di tích sai nguyên tắc chưa có biện pháp ngăn chặn kịp thời…
+ Thực trạng phá hoại di sản như trèo bám, ngồi lên, đánh đu,… lên các di sản diễn ra phổ biến. Hiện
tượng vứt rác bừa bãi ở những khu du lịch diễn ra ngày càng nghiêm trọng.
_ Trách nhiệm của giới trẻ:
+ Giới trẻ cần ứng xử với di sản văn hóa bằng lòng tự hào dân tộc, bằng hiểu biết và niềm đam mê cái
đẹp - di sản văn hóa.
+ Chúng ta cần tăng cường giáo dục thẩm mỹ, giáo dục sự hiểu biết các tri thức văn hóa nói chung và
di sản văn hóa dân tộc nói riêng, từ đó khơi dậy và nhân lên niềm đam mê, ý thức bảo vệ di sản trong
thế hệ trẻ.
+ Có những hành động thiết thực bảo vệ di sản văn hóa như: tuyên truyền đến mọi người, …
_ Liên hệ bản thân: em đã làm gì để bảo vệ di sản tại quê hương mình
Câu 2:
 Giới thiệu tác, tác phẩm
_ Kim Lân là cây bút xuất sắc của văn học hiện đại Việt Nam và nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Thế
giới nghệ thuật của ông là khung cảnh làng quê và hình tượng người nông dân – mảng hiện thực mà
ông gắn bó và hiểu biết sâu sắc. Ông viết chân thực và xúc động về đời sống người dân quê mà ông
hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ - những con người gắn bó tha thiết, thủy chung với quê hương
và cách mạng. Sáng lên trong tác phẩm của ông là vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam,
những người sống cực nhọc, lam lũ, nghèo khổ nhưng vẫn yêu đời, chất phác, lạc quan, hóm hỉnh và
tài hoa.
_ Vợ nhặt là một trong những sáng tác xuất sắc của ông. Có nhà nghiên cứu văn học đã xếp Vợ nhặt
vào loại gần như “thần bút”.
_ Truyện ngắn được xây dựng trên cái nền hiện thực của nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu (1945) và
được in trong tập Con chó xấu xí (1962). Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết Xóm ngụ cư –
được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và thất lạc bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại
(1954), ông dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này.
 Cảm nhận vẻ đẹp của nhân vật “thị”
 Giới thiệu chân dung, lai lịch:
* Lai lịch: không rõ ràng:
_ Không tên tuổi.
_ Không gia đình, quê hương.
_ Không nghề nghiệp.
_ Không tài sản
_ Không quá khứ.
-> Trong nạn đói khủng khiếp, thân phận con người trở nên hết sức vô nghĩa.
* Chân dung:
_ Ngoại hình:
+ Áo quần tả tơi như tổ đỉa
+ Gầy sọp
+ Mặt lưỡi cày xám xịt
+ Ngực gầy lép
+ Hai con mắt trũng hoáy
=> Ngoại hình thảm hại do cái đói tạo ra.
_ Ngôn ngữ, cử chỉ, hành động:
+ “Điêu! Người thế mà điêu!”, “Ăn thật nhá”, “Hà, ngon. Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố” -> đanh
đá, chua ngoa, chao chát, chỏng lỏn.
+ “Ton ton chạy lại”, “liếc mắt cười tít”, “sầm sập chạy đến”, “xưng xỉa nói”, “cong cớn”, “cắm
đầu ăn”, “ăn xong lấy đũa quẹt một cái”, bám lấy câu nói đùa của người ta để theo về làm vợ thật ->
vô duyên, táo bạo đến mức trơ trẽn.
 Vẻ đẹp nhân vật:
* Khát vọng sống mãnh liệt:
_ Khi nhìn dưới góc độ nhân bản thì tất cả hành động, cử chỉ trơ trẽn, vô duyên của thị lại là biểu hiện
của khát vọng sống mãnh liệt -> khâm phục thị.
* Vẻ đẹp nữ tính:
_ Trên đường về nhà chồng:
+ Rón rén, e thẹn: “Thị cắp cái thúng con, cái đầu hơi cúi xuống; cái nón rách tả tơi nghiêng nghiêng
che khuất đi nửa mặt”
+ Ngượng nghịu: “Chân nọ ríu vào chân kia”.
-> Bẽn lẽn, thẹn thùng như bất kì cô dâu mới nào.
_ Khi về đến nhà chồng:
+ Thấy gia cảnh nhà chồng: “nén tiếng thở dài”
+ “Ngồi mớm ở mép giường”
_ Khi gặp gỡ mẹ chồng:
+ Đứng dậy nghênh đón, lễ phép chào.
+ Ngượng nghịu cúi đầu, tay vân vê vạt áo.
+ Đứng im lắng nghe bà cụ Tứ dặn dò.
_ Sáng hôm sau:
+ Dọn dẹp, vun vén nhà cửa.
+ Bưng bát cháo khoán điềm nhiên và vào miệng.
-> Hiền hậu đúng mực
* Niềm tin vào tương lai:
_ Đưa đến thông tin mang tính chất như định hướng để mở ra lối thoát.
* Nghệ thuật xây dựng nhân vật: chú trọng khắc họa cử chỉ, hành động, ngoại hình để người đọc nhận
ra vẻ đẹp của thị.
 Liên hệ với nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo – Nam Cao
 Giới thiệu tác giả Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo
_ Nam Cao là cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam. Tác phẩm của ông xoay quanh đề tài về người
trí thức nghèo và người nông dân.
_ Chí Phèo là một trong số những sáng tác đặc sắc làm nên tên tuổi của ông và đưa ông lên vị trí là
một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.
 Khái quát nhân vật Thị Nở
* Chân dung, lai lịch:
_ Chân dung thảm hại: xấu ma chê quỷ hờn.
_ Dở hơi, “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích”.
_ Nghèo.
_ Có dòng giống mả hủi.
-> Không có cơ hội tìm kiếm hạnh phúc cho bản thân.
-> Bi đát, thảm hại, đáng thương, tội nghiệp.
* Vẻ đẹp tâm hồn:
_ Biết yêu thương, quan tâm, chăm sóc.
+ Trong đêm gặp gỡ ăn nằm với Chí Phèo, Chí Phèo bị cảm lạnh nôn mửa, Thị Nở chăm sóc ân cần
cho Chí: dìu vào lều -> đặt nằm lên chõng -> nhặt nhạnh những manh chiếu rách đắp cho Chí Phèo
cho khỏi lạnh rồi mới ra về.
+ Khi ra về vẫn nghĩ đến Chí Phèo, không ngủ được, thương -> thức dậy ý thức trách nhiệm.
+ Sáng sớm hôm sau nấu một nồi cháo hành mang cho Chí Phèo -> nhìn hắn toe toét cười, giục hắn ăn
nóng….
-> Ân cần, tình tứ.
-> Thức tỉnh Chí Phèo.
_ Biết khát khao hạnh phúc.
+ Sau khi ăn nằm với Chí Phèo, Thị Nở về nhà và lăn lộn không ngủ được, nghĩ đến những chuyện đã
qua, nghĩ đến hai chữ “vợ chồng” và thức dậy cho mình bản năng, khát vọng hạnh phúc đã ấp ủ từ
lâu.
+ Sẵn sàng vượt qua định kiến, đến ở với Chí Phèo suốt năm ngày.
+ Về hỏi ý kiến bà cô để hợp thức hóa mối quan hệ với Chí Phèo, để có hạnh phúc bình dị như bao
con người bình thường khác.
 Nhận xét về quan niệm về vẻ đẹp của con người
Kim Lân và Nam cao đều nhìn nhận con người trên vẻ đẹp về nhân phẩm, về tâm hồn. Đây cũng là
chủ nghĩa nhân đạo trong sáng tác của hai nhà văn.
 Tổng kết

I. ĐỌC HIỂU
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Tuổi trẻ - tự bản thân nó đã là một tài sản, tự bản thân nó đã hàm chứa ánh sáng và hạnh
phúc, khi bị dúi xuống bùn, cơ hội để nó vẫn tỏa sáng và thăng hoa sẽ lớn hơn so với khi bạn
già đi. Lúc đó là lúc phép thử còn màu nhiệm, con tốt đó trong tay có thể còn phong Hậu;
bạn có thời gian làm hậu thuẫn và chân trời vẫn còn gợi nhiều thôi thúc. Còn khi bạn đã lớn
tuổi hơn, những xây xước đằng trước sẽ làm cho bạn ngần ngại, nếu bạn bị dúi xuống bùn thì
rất có thể bạn sẽ tặc lưỡi nằm đó một mình, hoặc sẽ cố gắng vùng vẫy sao cho người khác
cũng vấy bẩn lêm luốc giống với bạn.
Tuổi trẻ có một thứ vốn ngầm rất đáng quý mà không phải ai cũng biết: sự cô đơn. Trái
tim là một giống loài dễ hư hỏng. Nếu nó được no đủ, nó sẽ đổ đốn ngay lập tức. Hạnh phúc
làm cho con người ta mềm yếu, người ta vui tươi với mọi thứ, người ta quên mất việc phải
làm, người ta còn bắt đầu tặc lưỡi nhiều hơn với những thói quen xấu. Tình yêu là một giống
dây leo khó chiều. Nó cần được thử thách và bị tấn công. Nếu bạn mớm cơm cho nó hàng
ngày, chăm sóc nó quá no đủ, nó sẽ chết yểu.
(Theo Kênh14.vn)
Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của văn bản. (nhận biết)
Câu 2. Vì sao tác giả lại cho rằng: Tuổi trẻ - tự bản thân nó đã là một tài sản? (thông hiểu)
Câu 3. Anh/Chị hiểu như thế nào về ý kiến: …khi bạn đã lớn tuổi hơn, những xây xước
đằng trước sẽ làm cho bạn ngần ngại?(thông hiểu)
Câu 4. Anh/Chị có đồng tình với quan niệm: Trái tim là một giống loài dễ hư hỏng. Nếu
nó được no đủ, nó sx đổ đốn ngay lập tức?(thông hiểu)
II. LÀM VĂN
Câu 1.
Từ nội dung văn bản phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ)
trình bày suy nghĩ về giá trị của tuổi trẻ.(vận dụng cao)
Câu 2.
Cảm nhận của anh chị về vẻ đẹp tình người qua chi tiết: Thị Nở đem bát cháo hành cho
Chí Phèo (Chí Phèo – Nam Cao) và Mị cắt dây cởi trói thả A Phủ (Vợ chồng A Phủ - Tô
Hoài). (vận dụng cao)
Câu 1:
Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận
Câu 2:
Tác giả cho rằng “Tuổi trẻ - tự bản thân nó đã là một tài sản” vì:
- Khị bị dúi xuống bùn, cơ hội để nó vẫn tỏa sáng và thăng hoa sẽ lớn hơn so với khi bạn già
đi.
- Khi vấp ngã, tuổi trẻ có thời gian hậu thuẫn và chân trời vẫn còn nhiều thôi thúc.
Câu 3:
Có thể hiểu ý kiến đó là: Khi lớn tuổi con người ta thích sự ổn định, ngại thay đổi, không còn
nhiều nhiệt tình, thời gian của họ ngày một ít dần. Bởi vậy, khi gặp những sóng gió trong cuộc
sống người ta dễ dàng buông xuôi chấp nhận.
Câu 4:
Đồng ý với quan điểm của tác giả bài viết.
Câu 1:
1. Giải thích
Tuổi trẻ – đầu tiên, đó là những người trẻ tuổi. Họ có đầy đủ cả những ưu điểm về thể chất lẫn
tinh thần. Họ đang trong thời gian sung sức nhất, chưa nhiều trải nghiệm, nên họ muốn được
thử, được dấn thân. Họ dám theo đuổi đam mê của mình, và nếu như họ có khả năng, có kiên
trì, họ sẽ thành công.
2. Bàn luận vấn đề
- Giá trị của tuổi trẻ:
+ Tuổi trẻ là tuổi dám thử, dám trải nghiệm. Đây là thời gian sung sức nhất, năng động nhất,
bởi trong giai đoạn này, những người trẻ luôn sống trong bầu nhiệt huyết cháy bỏng.
+ Tuổi trẻ với đầy mơ ước hoài bão, họ có năng lực, sự sáng tạo, nếu kiên trì nhất định sẽ đạt
được thành công.
+ Tuổi trẻ là tương lai của đất nước, tiếp bước cha anh, đưa tổ quốc vươn ra thế giới.
- Tuổi trẻ cần làm gì?
+ Xác định đúng mục tiêu, mục đích học tập.
+ Không ngừng nỗ lực, phấn đấu.
+ Tự tin thể hiện mình để khẳng định bản thân.
- Chứng minh: Học sinh lấy dẫn chứng phù hợp, có phân tích ngắn gọn.
- Bàn luận:
+Trong cuộc sống hôm nay, có nhiều bạn trẻ chìm đắm trong thế giới ảo, với những trò chơi
vô bổ mà không biết rằng mình cần làm gì để những năm tháng tuổi trẻ thực sự có ý nghĩa. Họ
như những người thừa trong xã hội vì lối sống vô trách nhiệm của bản thân.
+ Không chỉ vậy, có những người còn sống ích kỷ, đề cao cái tôi để rồi không có lấy một tình
bạn đẹp. Đó thậm chí còn là những con người chỉ biết nhận mà không biết cho đi.
- Liên hệ bản thân và tổng kết vấn đề
Câu 2:
 Giới thiệu về tác giả Nam Cao, tác phẩm Chí Phèo và chi tiết Thị Nở đem bát cháo hành cho
Chí Phèo.
_ Nam Cao là cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Những sáng tác của ông xoay
quanh người trí thức nghèo và người nông dân nghèo. Ông luôn dành cho những con người
mang bi kịch về cả đời sống vật chất và tinh thần đó niềm cảm thương sâu sắc.
_ Chí Phèo là một trong những tác phẩm tiêu biểu làm nên tên tuổi của ông. Ban đầu truyện
có tên là Cái lò gạch cũ, khi lần đầu thành sách (1941), nhà xuất bản tự ý đổi tên thành Đôi
lứa xứng đôi. Đến khi in lại trong tập Luống cày (1946), Nam Cao đổi tên thành Chí Phèo.
_ Chi tiết Thị Nở đem bát cháo hành cho Chí Phèo là một chi tiết đặc sắc mang nhiều ý nghĩa.
 Giới thiệu về tác giả Tô Hoài, tác phẩm Vợ chồng A Phủ, chi tiết Mị cởi trói giải thoát cho A
Phủ.
_ Tô Hoài là cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Ông có vốn hiểu biết phong
phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta. Ông cũng là
nhà văn luôn hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của người từng trải,
vốn từ vựng giàu có.
_ Vợ chồng A Phủ (1952) là một trong những thiên truyện đặc sắc của Tô Hoài. Tác phẩm
được in trong tập “Truyện Tây Bắc”.
_ Chi tiết Mị cắt dây trói cứu A Phủ trong thiên truyện là chi tiết thấm đẫm tình người.
 Phân tích hai chi tiết:
* Giới thiệu chung về nhân vật Chí Phèo và Thị Nở
* Phân tích chi tiết Thị Nở đem bát cháo hành cho Chí Phèo:
_ Hoàn cảnh: Chí Phèo ốm dậy sau một cơn say triền miên. Chí Phèo chỉ có một mình, không
ai chăm sóc.
_ Ý nghĩa chi tiết:
+ Thể hiện sự quan tâm, chăm sóc của Thị dành cho Chí và cũng là khát khao được yêu
thương
của Thị Nở.
+ Đánh thức cảm giác khao khát được yêu thương, đánh thức khao khát được làm người lương
thiện – đánh thức nhân tính trong Chí.
+ Biểu hiện của tình yêu giữa hai con người bất hạnh trong xã hội cũ.
* Chi tiết Mị cởi trói thả A Phủ:
_ Hoàn cảnh (tình huống gặp gỡ)
+ A Phủ: trong khi đi chăn bò cho nhà thống lí Pá Tra do mải bẫy nhím nên để hổ vồ mất một
con bò, nên bị bắt tội, bị trói đứng.
+ Mị: Sau đêm tình mùa xuân, Mị rơi vào trạng thái tê liệt về tinh thần. Hàng đêm ngồi cạnh
bếp lửa (cạnh chỗ A Phủ bị trói hơ chân hơ tay).
_ Ý nghĩa chi tiết: Thể hiện sự thức tỉnh của nhân vật Mị với tình người sâu sắc.
++ Mị thức tỉnh khi nhìn thấy “giọt nước mắt lấp lánh” của A Phủ “bò xuống hai hõm má đã
xám đen lại”. Những giọt nước mắt đó đã chạm đến tâm can Mị. Mị từ cõi quên trở về cõi
nhớ, nhớ về những kí ức đau khổ, Mị thương mình và xót người.
++ Mị từ cõi vô thức dần sống lại ý thức, nhận ra dấu hiệu của cái chết đang đến gần, Mị càng
cho A Phủ
=> Hành dộng của Mị là hành động thấm đẫm tình người. Tình người ở đây là sự đồng cảm
với nỗi đau, thấu cảm với cảm xúc và hoàn cảnh của nhau. Tình người chính là sức mạnh dẫn
đến kết quả: cắt dây cởi trói A Phủ.
 Vẻ đẹp tình người thương A Phủ hơn, thương người lấn át cả thương mình và quyết định cắt
dây cởi trói qua hai chi tiết:
_ Tình người là tình yêu thương giữa con người với con người có thể là tình yêu, là sự đồng
cảm.
_ Hai chi tiết xuất hiện trong hai tác phẩm khác nhau nhưng đều cho ta thấy sức mạnh của tình
người. Nó giúp đánh thức những thứ đã ngủ sâu trong con người, giúp con người mạnh mẽ và
dũng cảm hơn.
 Tổng kết

I. ĐỌC HIỂU
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Chúng ta thường tự nhủ mình không hề phán xét mà chỉ quan sát người khác thôi. Nhưng
đó chẳng khác nào một lời nói dối. Tập trung chú ý vào thất bại, sự hèn hạ của người khác
đồng nghĩa với việc ta đang thổi phồng chúng lên quá mức, từ đó, làm tổn thương họ.
Tất nhiên, điều ngược lại cũng có tác dụng tương tự. Nếu lựa chọn nhìn vào điểm tốt vốn
dĩ luôn tồn tại trong người khác, chúng ta sẽ củng cố thêm điểm tốt ấy cho họ, cho bản thân
chúng ta cũng như cho cả cộng đồng; chúng ta sẽ giúp những điều tốt đẹp, dù nhỏ bé nhất,
lan tỏa khắp nơi. Chúng ta luôn có quyền lựa chọn nhìn vào điểm tốt trong mọi người. Đó là
lối tư duy ta nên rèn luyện vì lợi ích của xã hội.
Thật may mắn vì chúng ta có thể cảm nhận được lợi ích của sự chuyển biến này ngay lập
tức. Đôi khi ta cần phải quyết định lại; nhưng mỗi khi lựa chọn nhìn nhận điều tốt đẹp ở
người khác, thay vì chú tâm vào khuyết điểm, chúng ta sẽ cảm thấy mình trở nên tốt bụng
hơn, khoan dung hơn. Và điều đó sẽ tiếp sức cho hy vọng. Sự tự tin, hạnh phúc và lòng nhiệt
thành của ta càng tăng lên bao nhiêu thì chúng ta càng cảm thấy thanh thản bấy nhiêu.
Một vài người còn tin rằng, khi nhìn nhận điều tốt đẹp ở người khác là chúng ta đã làm
trọn ý nguyện của Thượng đế, bởi lẽ đó chính là cách Thượng đế nhìn nhận con người. Dù ý
tưởng này phù hợp với niềm tin của bạn hay không cũng chẳng quan trọng. Lời khuyên mấu
chốt tôi muốn đề cập ở đây là cần ý thức được rằng, tâm trạng của mình sẽ thay đổi khi ta cư
xử hòa nhã và nhiệt tình với mọi người xung quanh, thay vì hạ thấp họ bằng phán xét. Bạn
nên biết con người luôn cảm nhận được sự phán xét dù họ có thể không nhìn thấy hay nghe
thấy. Nói một cách đơn giản, thái độ phán xét khiến thế giới của chúng ta nhỏ hẹp. Phương
pháp dễ dàng nhất để thay đổi tư duy của chúng ta là nhờ đến tình yêu thương và lòng bao
dung.
(Theo Khi ta thay đổi thế giới sẽ đổi thay – Karen Casey,
NXB tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh)
Câu 1. Xác định phong cách chức năng ngôn ngữ của văn bản trên. (nhận biết)
Câu 2. Theo tác giả, vì sao chúng ta nên nhìn vào điểm tốt của người khác? (thông hiểu)
Câu 3. Tác giả cho rằng: Phương pháp dễ dàng nhất để thay đổi tư duy của chúng ta là
nhờ đến tình yêu thương và lòng bao dung. Anh/chị có đồng ý không? Tại sao? (thông hiểu)
Câu 4. Trong xã hội hiện đại, nhiều bạn trẻ có thói quen chê bai, chỉ trích người khác trên
các trang mạng xã hội. Lời khuyên nào anh/chị muốn dành cho những bạn này? (vận dụng)
II. LÀM VĂN
Câu 1.
Từ phần đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trả lời cho câu hỏi:
Phải chăng sự phán xét giam hãm bạn? (vận dụng cao)
Câu 2.
Cảm nhận anh/chị về hình tượng Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ (Vợ chồng A Phủ - Tô
Hoài, Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016). Từ đó liên hệ với nhân vật Chí
Phèo trong lần đến nhà Bá Kiến ở đoạn cuối truyện (Chí Phèo – Nam Cao, Ngữ Văn 11, tập
1, NXB Giáo dục Việt Nam 2016), cho biết thông điệp mới mẻ của Tô Hoài về cuộc sống,
con người. (vận dụng cao)
Câu 1:
Phong cách ngôn ngữ: Chính luận.
Câu 2:
Chúng ta nên nhìn vào điểm tốt của người khác vì:
_ Chúng ta sẽ cảm thấy mình trở nên tốt bụng, khoan dung hơn.
_ Tiếp cho chúng ta hi vọng.
_ Sự tự tin, hạnh phúc và lòng nhiệt thành của ta càng tăng lên bao nhiều thì chúng ta càng cảm
thấy cuộc sống thanh thản bấy nhiêu.
_ Nhìn nhận điều tốt đẹp của người khác là chúng ta làm trọn ý nguyện của Thượng đế.
Câu 3:
“Phương pháp dễ dàng nhất để thay đổi tư duy của chúng ta là nhờ đến tình yêu thương và lòng
bao dung”.
_ Đồng ý với quan điểm của tác giả.
_ Vì:
+ Với tấm lòng bao dung, độ lượng chúng ta sẽ nhìn nhận khuyết điểm của người khác một cách
nhẹ nhàng hơn, không chỉ trích, lên án họ.
+ Đồng thời với tấm lòng bao dung còn giúp chúng ta tập trung vào những ưu điểm, bỏ qua những
khuyết điểm, động viên họ để họ không ngừng cố gắng.
+ Bên cạnh đó dùng tấm lòng bao dung đối đãi với người xung quanh sẽ đem lại sức mạnh lan tỏa
lơn, khiến cho cả cộng đồng tin tưởng và yêu thương nhau nhiều hơn. Từ đó sẽ làm thay đổi tư duy
của mọi người.
Câu 4:
_ Nên có thái độ khoan hòa, bao dung hơn với mọi người xung quanh.
_ Chúng ta không phải người trong cuộc nên không có quyền phán xét câu chuyện của họ.
_ Suy nghĩ theo nhiều chiều hướng khác nhau, tìm hiểu kĩ vấn đề trước khi đưa ra bất cứ một quan
điểm, một đánh giá nào với mọi người.
_ Chê bai, chỉ trích người khác không phải là cách thể hiện quan điểm, thể hiện cái tôi của bản thân
mà đó chính là cách hạ nhục người khác, đồng thời cũng làm mất đi giá trị của chính mình.
Câu 1:
 Giới thiệu vấn đề
 Giải thích vấn đề
_ Phán xét là gì? Là cách nhìn nhận xem xét, đánh giá về một con người, sự vật, hiện tượng nào đó
xung quanh mình.
=> Những lời phán xét tiêu cực như một nhà tù giam hãm tâm hồn mỗi chúng ta.
 Bàn luận vấn đề
_ Vì sao phán xét lại giam hãm con người?
+ Khi phán xét người khác tự bản thân bạn sẽ chỉ nhìn nhận đến những vấn đề tiêu cực, không có
tâm trí làm việc.
_ Làm thế nào để thoát khỏi tình trạng phán xét người khác:
+ Suy nghĩ theo nhiều chiều hướng khác nhau, tìm hiểu kĩ vấn đề trước khi đưa ra bất cứ một quan
điểm, một đánh giá nào với mọi người.
+ Trước mọi vấn đề nên có cái nhìn bao dung, độ lượng.
+ Dùng cả tri thức và tình cảm để nhìn nhận bất cứ vấn đề nào trong cuộc sống.
+ Cảm thông, tha thứ trước những sai lầm, tội lỗi của người khác.
 Chứng minh: học sinh lấy dẫn chứng phù hợp có phân tích ngắn gọn.
 Mở rộng vấn đề và liên hệ bản thân
_ Phán xét người khác là một hành động xấu, khiến hình ảnh bản thân trong mắt mọi người ngày
càng trở nên xấu xí. Cần phải có sự thay đổi.
_ Nhục mạ, nói xấu người khác chứng tỏ bản thân là một kẻ có nền tảng văn hóa yếu kém.
_ Liên hệ bản thân.
Câu 2:
 Giới thiệu tác giả, tác phẩm
_Tô Hoài là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học hiện đại Việt Nam, là nhà
văn có biệt tài nắm bắt rất nhanh nhạy những nét riêng trong phong tục, tập quán của những miền
đất mà ông đã đi qua. Ông có giọng văn kể chuyện hóm hỉnh, rất có duyên và đầy sức hấp dẫn; có
vốn ngôn ngữ bình dân phong phú và sử dụng nó rất linh hoạt, đắc địa.
_Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ được sáng tác năm 1952, in trong tập Truyện Tây Bắc – tập truyện
được tặng giải Nhất – Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Tập Truyện Tây Bắc gồm
ba truyện: Mường Giơn, viết về dân tộc Thái; Cứu đất cứu Mường, viết về dân tộc Mường; Vợ
chồng A Phủ, viết về dân tộc Mèo (Mông) – mỗi truyện có một dáng vẻ, sức hấp dẫn riêng, nhưng
đọng lại lâu bền trong kí ức của nhiều người đọc là truyện Vợ chồng A Phủ.
 Giới thiệu nhân vật
Tô Hoài là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học hiện đại Việt Nam, là nhà
văn có biệt tài nắm bắt rất nhanh nhạy những nét riêng trong phong tục, tập quán của những miền
đất mà ông đã đi qua. Ông có giọng văn kể chuyện hóm hỉnh, rất có duyên và đầy sức hấp dẫn; có
vốn ngôn ngữ bình dân phong phú và sử dụng nó rất linh hoạt, đắc địa.
_Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ được sáng tác năm 1952, in trong tập Truyện Tây Bắc – tập truyện
được tặng giải Nhất – Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Tập Truyện Tây Bắc gồm
ba truyện: Mường Giơn, viết về dân tộc Thái; Cứu đất cứu Mường, viết về dân tộc Mường; Vợ
chồng A Phủ, viết về dân tộc Mèo (Mông) – mỗi truyện có một dáng vẻ, sức hấp dẫn riêng, nhưng
đọng lại lâu bền trong kí ức của nhiều người đọc là truyện Vợ chồng A Phủ.
 Giới thiệu nhân vật
_Nhan sắc: “trai đến đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị” -> nhan sắc rực rỡ ở tuổi cập kê.
_Tài năng: thổi sáo, thổi lá. Hay đến mức có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo
Mị.
_Phẩm chất tốt đẹp: Khi bố mẹ Mị hết đời chưa trả được món nợ cho thống lí Pá Tra, thống lí Pá
Tra định bắt Mị về làm con dâu gạt nợ:
+ Hiếu thảo:“ Con sẽ làm nương ngô giả nợ thay cho bố”
+ Tự tin vào khả năng lao động: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô”
+ Khao khát tự do: “Bố đừng bán con cho nhà giàu”
-> Xứng đáng được hưởng hạnh phúc nhưng lại bị xã hội của tiền quyền, cường quyền và thần
quyền vùi dập, đẩy vào ngã rẽ tăm tối.
 Phân tích vẻ đẹp nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ: vẻ đẹp của sức phản kháng
mạnh mẽ, của lòng thương người
* Tình huống gặp gỡ:
_A Phủ: trong khi đi chăn bò cho nhà thống lí Pá Tra do mải bẫy nhím nên để hổ vồ mất một con
bò -> bị trói đứng.
_Mị: Sau đêm tình mùa xuân Mị rơi vào trạng thái tê liệt về tinh thần. Hàng đêm ngồi cạnh bếp lửa
(cạnh chỗ A Phủ bị trói) hơ tay hơ chân.
-> Hai người gặp gỡ nhau.
* Sự thức tỉnh của Mị:
_Nguyên nhân:
+ Giọt nước mắt A Phủ “giọt nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”.
_Diễn biến tâm trạng:
+ Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ, nhớ về kí ức đau khổ -> thương mình -> thương người.
+ Mị từ cõi vô thức dần sống lại ý thức, nhận ra dấu hiệu về cái chết -> càng thương hơn -> thương
người lấn át cả thương thân -> Hành động cắt dây cởi trói.
+ Mị hốt hoảng, sợ hãi -> thúc đẩy bản năng tự vệ tích cực của Mị -> Mị vùng chạy theo A Phủ.
=> + Đồng cảm, xót thương với số phận khổ đau của nhân vật A Phủ dưới ách áp bức của giai cấp
thống trị miền núi.
+ Lên án, phê phán mạnh mẽ giai cấp thống trị miền núi đã đẩy con người vào tình cảnh khốn cùng.
+ Phát hiện, trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của A Phủ.
+ Tìm hướng giải thoát cho cuộc đời nhân vật: dũng cảm đứng lên chống lại cường quyền, tiền
quyền, thần quyền để giải phóng bản thân; tham gia du kích.
=> Mị là hiện thân của sức sống, của tình yêu thương trong mỗi con người.
 Liên hệ với nhân vật Chí Phèo trong lần đến nhà Bá Kiến ở đoạn cuối truyện
_Giới thiệu tác giả Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo, nhân vật Chí Phèo.
_Tóm tắt ngắn gọn cuộc đời Chí Phèo và lí do dẫn đến hành động cuối truyện.
_Phân tích hành động:
+ Trong nỗi đau tột cùng, Chí Phèo xách dao đi với ý định đâm chết cả nhà Thị Nở nhưng rồi
không đến nhà Thị Nở mà lại đến nhà Bá Kiến. Vì:
++ Chí Phèo đang say.
++ Chí Phèo quen chân.
++ Chí Phèo mơ hồ nhận ra kẻ thù đích thực, nhận ra nguyễn nhân gốc rễ đẩy mình vào bi kịch
không phải cô cháu Thị Nở mà là Bá Kiến.
+Chí Phèo đến khi Bá Kiến đang ghen -> cả giận mất khôn.
(+) Tự hủy hoại mạng sống của chính mình:
+Chí Phèo có hai lựa chọn:
++ Sống:
Là người lương thiện: xã hội làng Vũ Đại không chấp nhận Chí -> không được.
Làm quỷ dữ -> không thể vì con quỷ dữ chỉ tồn tại khi có Bá Kiến giật dây; hơn hết là Chí Phèo
không muốn.
++ Chết: được chết cái chết của người lương thiện.
-> Chỉ có một lựa chọn duy nhất là cái chết.
=> Lên án, tố cáo xã hội đương thời một cách sâu sắc, đanh thép.
 Thông điệp mới mẻ của nhà văn Tô Hoài về cuộc sống, con người
_Trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người cũng hiện lên với những vẻ đẹp lạ thường.
_Con người được giải phóng và tìm được cách giải phóng chính mình.
_Lí giải:
+Tác phẩm Chí Phèo viết trước Cách mạng, Nam Cao tuân thủ nghiêm ngặt bút pháp sáng tác của
chủ nghĩa hiện thực, con người chưa tìm được cách để giải thoát chính mình.
+Tác phẩm Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài viết sau Cách mạng, con người đã tìm được con đường giải
phóng cho mình.
 Tổng kết
I. ĐỌC HIỂU
Lòng nhân ở mỗi con người, luôn tiềm ẩn và nếu nó được dung dưỡng và bồi đắp thì sẽ
tạo ra những nhân cách sống đẹp và giúp ích cho xã hội. Câu chuyện bé gái Hải An 7 tuổi
mấy vì bệnh hiểm nghèo để lại giác mạc cho người sống đang tiếp tục loan tỏa, và đặc biệt là
nó đã đánh thức lòng nhân trong nhiều người chúng ta.
Những ngày qua, hàng trăm cuộc gọi điện và email hoặc trực tiếp đến nhờ tư vấn và đăng
kí hiến tặng mô tạng tại Trung tâm Điều phối hiến ghép mô tạng quốc gia. Điều đó không
phải bỗng dưng, nó được bắt đầu từ “đốm lửa nhỏ” mang tên Hải An. Một sự mất mát dù
đau đớn nhưng lan truyền được cái đẹp, thậm chí tạo nên được một nguồn cảm hứng. Lòng
nhân con người trong xã hội đầy bộn bề lo toan cơm áo gạo tiền dễ bị “ngủ yên”, nếu không
được đánh thức thì nó sẽ mãi “ngủ yên”.
Đời người trải qua sinh – bệnh – lão – tử và thường ngẫm rằng chết là hết. Nhưng với y
học ngày càng phát triển, con người chết đi không chỉ để lại tiếng mà còn có thể để lại một
phần cơ thể, giúp ích cho những người khác đang sống.
Không chỉ ở Việt Nam mà cả tại những quốc gia phát triển và văn minh bậc nhất thể giới
như ở châu Âu và Bắc Mỹ, không phải cá nhân nào, gia đình nào cũng dễ dàng chấp nhận
một thực tế hiến tặng mô tạng khi người thân mình mất đi. Các trường hợp hiến tặng chỉ
chiếm một tỉ lệ nhỏ nhoi nhưng cũng chẳng thể trách móc vì đó là quyền của mỗi cá nhân,
quyền con người.
Thế mà một bé gái 7 tuổi, trong cơn bệnh hiểm nghèo, đã đồng ý hiến tặng mô tạng, đó
mới là câu chuyện hiếm có. Chính vì thế, nó đã tạo ra được sự xúc động lan truyền trong xã
hội, thúc đẩy sự mạnh dạn trong suy nghĩ của nhiều người về việc đăng kí hiến tặng mô tạng.
Và hơn thế nữa, “đốm lửa nhỏ” Hải An cùng người mẹ của bé dã gợi cảm hứng về một suy
nghĩ khác cho nhiều người: Trong cái chết nghĩ về sự sống, ta tiếp tục được sống trong một
sự sống khác với tình yêu và sự chở che.
Sự đánh thức lòng nhân và gợi cảm hứng về một cách sống đẹp luôn là điều mà mỗi con
người hướng đến, qua đó chúng ta mới tạo được những giá trị sống về mặt tinh thần mạnh
mẽ có thể lay động bao người.
THẾ LÂM
(http://laodong.vn/dien-dan/tu-be-hai-an-long-nhan-duoc-danh-thuc-593337.ldo)
Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn trích? (nhận biết)
Câu 2. Theo tác giả vì sao “một bé gái 7 tuổi, trong cơn bệnh hiểm nghèo, đã đồng ý hiến
tặng mô tạng, đó mới là câu chuyện hiếm có”? (thông hiểu)
Câu 3. Anh/chị hiểu như thế nào về ý kiến “Lòng nhân ở mỗi con người, luôn tiềm ẩn và
nếu nó được dung dưỡng và bồi đắp thì sẽ tạo ra những nhân cách sống đẹp và giúp ích cho
xã hội”? (thông hiểu)
Câu 4. Qua đoạn trích anh/chị rút ra được bài học gì cho mình? (vận dụng)
II. LÀM VĂN
Câu 1.
Từ nội dung phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một bài văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy
nghĩ về sự cần thiết phải lan tỏa những việc tử tế trong xã hội ngày nay. (vận dụng cao)
Câu 2.
Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Mị trong “Vợ chồng A Phủ” (Tô
Hoài). Từ đó liên hệ nhân vật Liên trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” (Thạch Lam) để nhận xét về
tư tưởng nhân đạo của hai nhà văn.
Câu 1.
* Cách giải: Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận
Câu 2.
Vì: “Không chỉ ở Việt Nam mà cả những quốc gia phát triển và văn minh bậc nhất thế giới
như ở Châu Âu và Bắc Mỹ, không phải cá nhân nào, gia đình nào cũng dễ dàng chấp nhận
một thực tế hiến tặng mô tạng khi người thân mình mất đi. Các trường hợp hiến tặng chỉ
chiếm một tỉ lệ nhỏ nhoi nhưng cũng chẳng thể trách móc vì đó là quyền của mỗi cá nhân,
quyền con người”.
Câu 3.
“Lòng nhân ở mỗi con người, luôn tiềm ẩn và nếu nó được dung dưỡng và bồi đắp thì sẽ tạo
ra những nhân cách sống đẹp và giúp ích cho xã hội”
_ Lòng nhân
_ Tình yêu thương con người là cái bản chất, cái vốn có trong mỗi con người.
_ Lòng nhân không phải lúc nào cũng được biểu lộ rõ ràng, dễ thấy mà đôi khi nó bị khuất lấp
bởi những bộn bề cuộc sống, bởi vậy cần có những hành động cụ thể để đem tình yêu thương
đó vào thực tiễn.
_ Khi cả xã hội đối xử với nhau tràn ngập tình yêu thương cuộc sống sẽ trở nên đẹp đẽ hơn,
hạnh phúc hơn.
Câu 4.
Mỗi học sinh có thể tự rút ra cho mình những bài học khác nhau từ nội dung đoạn trích. Sau
đây là một vài gợi ý:
_ Tình yêu thương khi được lan tỏa sẽ đem lại những tác động tích cực cho cộng đồng xã hội
_ Mỗi chúng ta cần sống một cách tử tế, luôn yêu thương, sẵn sàng giúp đỡ những người
xung quanh bằng sự chân thành
Câu 1:
* Giới thiệu vấn đề
* Giải thích vấn đề
- Sống tử tế: là sống tốt với những người xung quanh, sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ mọi người,
không chỉ biết đến cá nhân mình, những việc tử tế làm phục hồi các giá trị đạo đức chân
chính, hướng tới xây dựng một cộng đồng xã hội tốt đẹp.
=> Sống tử tế là lối sống tốt đẹp, cần có trong mỗi con người để làm xã hội ngày một tốt đẹp
hơn.
* Bàn luận vấn đề
- Sự cần thiết của việc lan tỏa lối sống tử tế:
+ Lối sống tử tế đem lại niềm vui, sự hạnh phúc cho chính bản thân mình. Tố Hữu đã từng
nói: “Đã là con chim, chiếc lá Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh Lẽ nào vay mà không có
trả ống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”
+ Lối sống tử tế khi được lan tỏa sẽ khiến cho xã hội trở nên tốt đẹp hơn.
+ Biết yêu thương những người xung quanh, cho đi – nhận lại yêu thương là điều đẹp đẽ và
tuyệt vời nhất đối với chúng ta.
+ Trong xã hội ngày càng phát triển, con người ngày một vô cảm, tình yêu thương giữa con
người với con người ngày càng trở thành món quà xa xỉ thì việc lan truyền những người tử tế,
việc tử tế càng trở nên quan trọng hơn.
- Những hành động cần thiết để thực hiện điều tử tế:
+ Luôn quan tâm, giúp đỡ những người quanh mình mà trước hết là giúp đỡ người thân: ông
bà, cha mẹ,…
+ Sống chân thành, mở rộng tấm lòng, cho đi bằng sự chân thật, không nghĩ đến những lợi ích
khác.
+ Lên án những kẻ sống hời hợt, ích kỉ, chỉ suy nghĩ cho riêng mình.
- Mở rộng vấn đề và liên hệ bản thân
+ Trong một môi trường sống đầy rẫy những việc không tử tế thì câu chuyện thực hành sự tử
tế gặp không ít những thách thức. Tuy nhiên, tất cả đều có thể vượt qua nếu ta còn biết nghĩ
đến mọi người. Tất cả chúng ta, dù ít dù nhiều, đều từng được hưởng sự tử tế hay ân huệ của
cuộc đời. Lẽ nào ý thức về sự đáp đền không mảy may xuất hiện trong ta?
+ Em đã làm gì để thực hiện lối sống tử tế.
Câu 2:
 Giới thiệu tác giả, tác phẩm
_ Tô Hoài là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học hiện đại Việt Nam,
là nhà văn có biệt tài nắm bắt rất nhanh nhạy những nét riêng trong phong tục, tập quán của
những miền đất mà ông đã đi qua. Ông có giọng văn kể chuyện hóm hỉnh, rất có duyên và đầy
sức hấp dẫn; có vốn ngôn ngữ bình dân phong phú và sử dụng nó rất linh hoạt, đắc địa
_ Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ được sáng tác năm 1952, in trong tập Truyện Tây Bắc – tập
truyện được tặng giải Nhất – Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Tập Truyện
Tây Bắc gồm ba truyện: Mường Giơn, viết về dân tộc Thái; Cứu đất cứu Mường, viết về dân
tộc Mường; Vợ chồng A Phủ, viết về dân tộc Mèo (Mông) – mỗi truyện có một dáng vẻ, sức
hấp dẫn riêng, nhưng đọng lại lâu bền trong kí ức của nhiều người đọc là truyện Vợ chồng A
Phủ.
 Giới thiệu nhân vật
_ Nhan sắc: “trai đến đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị” -> nhan sắc rực rỡ ở tuổi cập kê.
_ Tài năng: thổi sáo, thổi lá. Hay đến mức có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi
theo Mị.
_ Phẩm chất tốt đẹp: Khi bố mẹ Mị hết đời chưa trả được món nợ cho thống lí Pá Tra, thống lí
Pá Tra định bắt Mị về làm con dâu gạt nợ:
+ Hiếu thảo:“ Con sẽ làm nương ngô giả nợ thay cho bố”
+ Tự tin vào khả năng lao động: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô”
+ Khao khát tự do: “Bố đừng bán con cho nhà giàu”
-> Xứng đáng được hưởng hạnh phúc nhưng lại bị xã hội của tiền quyền, cường quyền và thần
quyền vùi dập, đẩy vào ngã rẽ tăm tối.
 Phân tích nhân vật
1. Số phận bi kịch: Bị biến thành con dâu gạt nợ:
a. Nguyên nhân:
_ Do món nợ truyền kiếp.
_ Vì Mị bị A Sử lừa bắt về do hủ tục cướp vợ của người dân tộc thiểu số.
b. Thân phận bi kịch: Con dâu gạt nợ:
* Khi mới về làm dâu:
_ Xuất hiện ý thức phản kháng:
+ “Có đến mấy tháng trời đêm nào Mị cũng khóc” -> phản kháng yếu ớt.
+ Muốn tự tử -> phản kháng mạnh mẽ.
* Khi làm dâu đã quen:
_ Nỗi khổ về thể xác:
+ Thời gian của Mị chỉ được tính bằng công việc, các công việc nối tiếp nhau, việc này chồng
lên việc kia. Mị trở thành một cỗ máy, công cụ lao động, mất hết ý niệm về thời gian.
+ Mị tưởng mình cũng là con trâu, con ngựa; thậm chí còn không bằng con trâu con ngựa.
_ Nỗi khổ về tinh thần:
+ Thể hiện qua những câu văn tả thực trầm buồn mở đầu tác phẩm: “Ai có việc ở xa về…”,
“lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.
+ Biện pháp so sánh: Mị - con trâu, con ngựa; Mị - con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa. -> vật
hóa nặng nề.
+ Hình ảnh ẩn dụ: căn buồng Mị ở “kín mít, chỉ có một cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào
nhìn ra cũng chỉ thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng” -> giống như ngục
thất giam cầm cuộc đời Mị, giống như nấm mồ chôn vùi tuổi thanh xuân, chôn vùi hạnh phúc
của Mị.
 Giá trị hiện thực và nhân đạo:
_ Giá trị hiện thực : Phơi bày thực trạng xã hội phong kiến miền núi lúc bấy giờ.
_ Giá trị nhân đạo:
+ Bày tỏ sự đồng cảm, xót thương cho những số phận dưới ách thống trị của bọn phong kiến
miền núi.
+ Lên án, phê phán những thế lực tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống của con người.
2. Vẻ đẹp tâm hồn:
a. Sức sống tiềm tàng trong đêm tình mùa xuân:
* Nguyên nhân thức dậy sức sống tiềm tàng:
_ Khung cảnh ngày xuân:
+ Màu sắc rực rỡ: cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy phơi trên mỏm đá xòe rộng ra như
những cánh bướm sặc sỡ.
+ Âm thanh náo nhiệt, tưng bừng: tiếng trẻ con chờ tết chơi quay cười ầm trên sân chơi trước
nhà …
_ Tiếng sáo: có sự dịch chuyển, vận động:
+ Từ xa đến gần (Từ ngoài vào trong, từ khách thể nhập vào chủ thể):
Lấp ló ngoài đầu núi vọng lại.
Văng vẳng ở đầu làng.
Lửng lơ bay ngoài đường.
Rập rờn trong đầu Mị.
+ Từ hiện tại đến quá khứ (Từ cõi thực đến cõi mộng).
+ Tiếng sáo rủ bạn đi chơi đầy háo hức -> tiếng sáo gọi bạn yêu trong tuyệt vọng.
=> Dìu hồn Mị bềnh bồng sống lại với những khát khao yêu thương hạnh phúc của ngày xưa,
dẫn Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ.
_ Hơi rượu:
+ Uống cả hũ rượu
+ Uống ực từng bát
-> Say lịm mặt ngồi đấy -> Lãng quên hiện tại -> Sống lại quá khứ.
* Diễn biến tâm lí
– Hành trình vượt thoát khỏi hoàn cảnh hiện tại để tìm lại chính mình:
(+) Tương tranh, mẫu thuẫn giữa sức sống tiềm tàng và thực tại hiện hữu:
_ Sức sống tiềm tàng:
+ Mị thấy “phơi phới” trở lại, “vui sướng”
+ Thức dậy ý thức và khát vọng: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”.
_ Thực tại hiện hữu: Mị muốn đi chơi nhưng lại không đi chơi, Mị đi vào buồng.
(+) Trong hơi rượu -> sức sống tiềm tàng lại trỗi dậy
_ Mị như ở trạng thái mộng du, vượt thoát hoàn cảnh để tìm lại chính mình.
+ Lấy ống mỡ sắn một miếng để thắp đèn lên cho sáng. -> thắp sáng căn buồng cũng là thắp
sáng khát vọng giải thoát cuộc đời mình.
+ Chuẩn bị đi chơi: quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa, rút thêm cái áo. (+) Hành động vượt
thoát khỏi hoàn cảnh bị chặn đứng:
_ Mị bị A Sử trói vào cột, không cho đi chơi.
-> A Sử chỉ trói được thân xác Mị chứ không trói được ý muốn đi chơi, không trói được khát
vọng, sức sống của Mị.
-> Mị vẫn thả hồn theo tiếng sáo đến với những cuộc chơi.
(+) Sáng hôm sau Mị tỉnh lại, quay về thực tại, nhận ra tình thế bi đát của mình:
_ Những dây trói xiết lại, đau dứt từng mảnh thịt.
-> Thấy mình không bằng con ngựa ở bên kia vách.
b. Sức phản kháng mạnh mẽ trong đêm mùa đông: Mị cắt dây cởi trói cứu A Phủ và tự
chạy trốn:
* Tình huống gặp gỡ:
_ A Phủ: trong khi đi chăn bò cho nhà thống lí Pá Tra do mải bẫy nhím nên để hổ vồ mất một
con bò -> bị trói đứng.
_ Mị: au đêm tình mùa xuân Mị rơi vào trạng thái tê liệt về tinh thần. Hàng đêm ngồi cạnh bếp
lửa (cạnh chỗ A Phủ bị trói) hơ tay hơ chân.
-> Hai người gặp gỡ nhau.
* Sự thức tỉnh của Mị:
_ Nguyên nhân:
+ Giọt nước mắt A Phủ “giọt nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”.
_ Diễn biến tâm trạng:
+ Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ, nhớ về kí ức đau khổ -> thương mình -> thương người.
+ Mị từ cõi vô thức dần sống lại ý thức, nhận ra dấu hiệu về cái chết -> càng thương hơn ->
thương người lấn át cả thương thân -> Hành động cắt dây cởi trói.
+ Mị hốt hoảng, sợ hãi -> thúc đẩy bản năng tự vệ tích cực của Mị -> Mị vùng chạy theo A
Phủ.
3. Tổng hợp, đánh giá
a. Giá trị nội dung:
_ Giá trị hiện thực:
+ Phơi bày, phản ánh một cách chân thực số phận cực khổ của người dân lao động Tây Bắc
dưới ách áp bức của giai cấp thống trị miền núi.
_Giá trị nhân đạo:
+ Đồng cảm, xót thương với số phận khổ đau của nhân vật Mị dưới ách áp bức của giai cấp
thống trị miền núi.
+ Lên án, phê phán mạnh mẽ giai cấp thống trị miền núi đã đẩy con người vào tình cảnh khốn
cùng.
+ Phát hiện, trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của tâm hồn Mị: sức sống tiềm tàng trong đêm tình
mùa xuân và sức sống mạnh mẽ trong đêm mùa đông.
+ Tìm hướng giải thoát cho cuộc đời nhân vật: dũng cảm đứng lên chống lại cường quyền,
tiền quyền, thần quyền để giải phóng bản thân; tham gia du kích.
b. Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
_ Ít tả hành động, chủ yếu khắc họa tâm tư.
_ Giọng kể của nhà văn đan xen, hòa vào dòng tâm tư của nhân vật.
 Liên với nhân vật Liên trong tác phẩm “Hai đứa trẻ”.
* Điểm tương đồng: Hai nhân vật đều có một tâm hồn nhạy cảm và sự khát khao một cuộc
sống tươi đẹp.
* Khác nhau:
_ Hoản cảnh sống:
+ Mị là cô gái miền núi trong hoàn cảnh bị thống trị bởi cả thần quyền lẫn cường quyền, mang
thân phận bi kịch của cô dâu gạt nợ.
+ Liên là một cô bé mới lớn, từng có những khoảnh khắc hạnh phúc tại thành phố. Nay do gia
đình sa sút mà chuyển về sống nơi phố huyện.
_ Con đường vượt thoát:
+ Mị cuối cùng tìm được con đường vượt thoát khỏi nghịch cảnh éo le.
+ Liên cùng với em trai vẫn chỉ gửi tất cả mong mỏi vượt thoát đó vào những chuyến tàu đêm
và niềm hoài niệm về một Hà Nội xa hoa và xa xăm.
 Nhận xét về tấm lòng nhân đạo của nhà văn
Cả Tô Hoài và Thạch Lam đều gửi gắm tấm lòng nhân đạo sâu sắc của mình vào hai tác
phẩm. Đó là:
+ Lòng thương cảm, đồng cảm với số phận và hoàn cảnh của những người dân lao động.
+ Phát hiện, trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của họ.
+ Ủng hộ với những ước mơ, khát vọng của họ về một cuộc sống tươi đẹp.
 Tổng kết
I. ĐỌC HIỂU
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Mỗi người đều phải leo lên những bậc thang đời mình. Có những mơ ước xa: đến đỉnh
cao nhất. Có người ước mơ gần: một hai bậc, rồi sau đó, một hai bậc tiếp theo. Có người cứ
lặng lẽ tiến bước theo mục tiêu của mình, gạt bỏ mọi thị phi. Có người đi chu du một vòng
thiên hạ, nếm đủ đắng cay rồi mới chịu trở về với ước mơ ban đầu. Nhưng cũng có người lỡ
bay xa quá và không thể điều khiển đời mình được nữa, chỉ còn buông xuôi và tiếc nuối. Tôi
nhận ra rằng, ước mơ chẳng đưa ta đến đâu cả, chỉ có cách thức mà bạn thực hiện ước mơ
mới đưa bạn đến nơi bạn muốn.
Có lẽ chúng ta cần một cái nhìn khác. Rằng chẳng có ước mơ nào tầm thường. Và chúng
ta học không phải để thoát khỏi nghề rẻ rúng này, để được làm nghề danh giá kia. Mà học để
có thể làm điều mình yêu thích một cách tốt nhất và từ đó mang về cho bản thân thu nhập cao
nhất có thể, một cách xứng đáng và tự hào.
Mỗi một người đều có vai trò trong cuộc đời này và đều đáng được ghi nhận. Đó là lí do
để chúng ta không thèm khát vị thế cao sang này mà rẻ rúng công việc bình thường khác. (…)
Phần đông chúng ta cũng sẽ là người bình thường. Nhưng điều đó không thể ngăn cản
chúng ta vươn lên từng ngày. Bởi luôn có một đỉnh cao cho mỗi nghề bình thường.
(Trích Nếu biết trăm năm là hữu hạn; Phạm Lữ Ân, NXB Hội nhà văn; 2017)
Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn trích. (nhận biết)
Câu 2. Theo tác giả, vì sao chúng ta “không thèm khát vị thế cao sang này rẻ rúng công
việc bình thường khác”? (thông hiểu)
Câu 3. Anh/Chị hiểu thế nào về ý kiến: học để có thể làm điều mình yêu thích một cách tốt
nhất và từ đó mang về cho bản thân thu nhập cao nhất có thể, một cách xứng đáng và tự
hào? (thông hiểu)
Câu 4. Anh/chị có đồng tình với quan niệm: Phần đông chúng ta cũng sẽ là người bình
thường. Nhưng điều đó không thể ngăn cản chúng ta vươn lên từng ngày. Bởi luôn có một
đỉnh cao cho mỗi nghề bình thường? Vì sao? (thông hiểu)
II. LÀM VĂN
Câu 1.
Từ nội dung phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy
nghĩ về ý kiến: Chỉ có cách thức mà bạn thực hiện ước mơ mới đưa bạn đến nơi bạn muốn.
(vận dụng cao)
Câu 2.
Cảm nhận của anh/chị về nhân vật người vợ trong truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân, Ngữ
Văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam). Từ đó, liên hệ với nhân vật thị Nở trong truyện
ngắn Chí Phèo (Nam Cao, Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam) để nhận xét về
nghệ thuật xây dựng nhân vật của hai nhà văn Kim Lân và Nam Cao. (vận dụng cao)
Câu 1: Phướng thức biểu đạt chính: Nghị luận
Câu 2: Vì: mỗi người đều có vai trò trong cuộc đời này và đều đáng được ghi nhận.
Câu 3: “Học để có thể làm điều mình yêu thích một cách tốt nhất và từ đó mang về cho bản
thân thu nhập cao nhất có thể, một cách xứng đáng và tự hào”
_ Học là phương tiện tốt nhất để mỗi chúng ta có được công việc mình yêu thích và mong muốn.
_ Khi tích lũy đủ tri thức, lại có thêm những kĩ năng khác tất yếu ta sẽ nhận được mức thu nhập
cao nhất, xứng đáng với công sức mình bỏ ra.
Câu 4: _ Đồng ý với quan điểm của tác giả
_ Vì:
+ Mỗi nghề đều có một vị trí, ý nghĩa trong xã hội, không có nghề nào là cao quý, nghề nào là
thấp hèn. Chỉ cần chúng ta lao động chân chính bằng sức của mình thì ấy chính là nghề cao quý
nhất.
+ Phải quyết tâm, tâm huyết với nghề mình đã chọn, nỗ lực không ngừng để đạt được thành quả
cao nhất, vươn đến đỉnh cao của nghề
Câu 1:
 Giới thiệu vấn đề
 Giải thích vấn đề
_ Ước mơ là gì?
Ước mơ là những gì đó vượt ngoài tầm với, ngoài khả năng của bản thân mà chúng ta mong
muốn đạt tới. Nhưng nếu nỗ lực, cố gắng hết mình ước mơ sẽ thành hiện thực.
=> Ước mơ là điều quan trọng với mỗi người, nó là mục tiêu phấn đấu, giúp chúng ta không
ngừng nỗ lực, cố gắng để đạt được mong ước đó. Và chỉ có ước mơ không thôi chưa đủ, cần phải
có cách thức hành động đúng đắn thì ước mơ đó mới thành hiện thực.
 Bàn luận vấn đề
_ Vì sao chỉ có cách thức mà bạn thực hiện ước mơ mới đưa bạn đến nơi bạn muốn:
+ Ước mơ mà không hành động thì ước mơ đó chỉ nằm trong ý nghĩa, đó là ước mơ chết nên
“chẳng đưa ta đến đâu cả”.
+ Bởi vậy cần phải hành động để thực hiện ước mơ của chính mình:
Nếu cách thức hành động đứng đắn, nhân văn thì sẽ khẳng định được giá trị bản thân, sẽ đem lại
những điều tốt đẹp cho chính mình và cuộc đời.
Nếu cách thức thực hiện mưu mô, vụ lợi sẽ đánh mất giá trị của chính mình, bị mọi người xa
lánh, bị xã hội loại trừ.
_ Cách thức thực hiện ước mơ:
+ Xác định được ước mơ của mình, ước mơ phải mang tính lành mạnh, nhân văn, phục vụ cho
cộng đồng, xã hội.
+ Đưa ra những mục tiêu, dự định và không ngừng nỗ lực phấn đấu.
+ Không nản chí, bỏ cuộc khi chưa làm hết năng lực của bản thân.
+ Tin tưởng vào chính mình.
 Mở rộng vấn đề và liên hệ bản thân
_ Bên cạnh những người có mơ ước và cách thức thực hiện đúng đắn lại có bộ phận các bạn trẻ
lười biếng, chỉ mơ ước và để đấy, không có bất cứ hành động nào thực hiện ước mơ của mình.
Các bạn đang tự hủy hoại tương lai chính mình và trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội.
_ Liên hệ bản thân: em ước mơ gì? Em đã thực hiện những hành động nào để thực hiện mơ ước
của mình.
Câu 2:
 Giới thiệu tác, tác phẩm
_Kim Lân là cây bút xuất sắc của văn học hiện đại Việt Nam và nhà văn chuyên viết truyện
ngắn. Thế giới nghệ thuật của ông là khung cảnh làng quê và hình tượng người nông dân – mảng
hiện thực mà ông gắn bó và hiểu biết sâu sắc. Ông viết chân thực và xúc động về đời sống người
dân quê mà ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ - những con người gắn bó tha thiết, thủy
chung với quê hương và cách mạng. Sáng lên trong tác phẩm của ông là vẻ đẹp tâm hồn của
người nông dân Việt Nam, những người sống cực nhọc, lam lũ, nghèo khổ nhưng vẫn yêu đời,
chất phác, lạc quan, hóm hỉnh và tài hoa.
_Vợ nhặt là một trong những sáng tác xuất sắc của ông. Có nhà nghiên cứu văn học đã xếp Vợ
nhặt vào loại gần như “thần bút”.
_Truyện ngắn được xây dựng trên cái nền hiện thực của nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu (1945)
và được in trong tập Con chó xấu xí (1962). Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết Xóm
ngụ cư – được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và thất lạc bản thảo. Sau khi
hòa bình lập lại (1954), ông dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này.
 Cảm nhận vẻ đẹp của nhân vật “thị”
Giới thiệu chân dung, lai lịch:
Lai lịch: không rõ ràng:
_ Không tên tuổi.
_ Không gia đình, quê hương.
_ Không nghề nghiệp.
_ Không tài sản
_ Không quá khứ.
-> Trong nạn đói khủng khiếp, thân phận con người trở nên hết sức vô nghĩa.
* Chân dung:
_ Ngoại hình:
+ Áo quần tả tơi như tổ đỉa
+ Gầy sọp
+ Mặt lưỡi cày xám xịt
+ Ngực gầy lép
+ Hai con mắt trũng hoáy
Ngoại hình thảm hại do cái đói tạo ra.
_ Ngôn ngữ, cử chỉ, hành động:
+ “Điêu! Người thế mà điêu!”, “Ăn thật nhá”, “Hà, ngon. Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố” ->
đanh đá, chua ngoa, chao chát, chỏng lỏn.
+ “Ton ton chạy lại”, “liếc mắt cười tít”, “sầm sập chạy đến”, “xưng xỉa nói”, “cong cớn”,
“cắm đầu ăn”, “ăn xong lấy đũa quẹt một cái”, bám lấy câu nói đùa của người ta để theo về làm
vợ thật -> vô duyên, táo bạo đến mức trơ trẽn.
Vẻ đẹp nhân vật:
* Khát vọng sống mãnh liệt:
_ Khi nhìn dưới góc độ nhân bản thì tất cả hành động, cử chỉ trơ trẽn, vô duyên của thị lại là biểu
hiện của khát vọng sống mãnh liệt -> khâm phục thị.
* Vẻ đẹp nữ tính:
_ Trên đường về nhà chồng:
+ Rón rén, e thẹn: “Thị cắp cái thúng con, cái đầu hơi cúi xuống; cái nón rách tả tơi nghiêng
nghiêng che khuất đi nửa mặt”
+ Ngượng nghịu: “Chân nọ ríu vào chân kia”.
-> Bẽn lẽn, thẹn thùng như bất kì cô dâu mới nào.
_ Khi về đến nhà chồng:
+ Thấy gia cảnh nhà chồng: “nén tiếng thở dài”
+ “Ngồi mớm ở mép giường”
_ Khi gặp gỡ mẹ chồng:
+ Đứng dậy nghênh đón, lễ phép chào.
+ Ngượng nghịu cúi đầu, tay vân vê vạt áo.
+ Đứng im lắng nghe bà cụ Tứ dặn dò.
_ Sáng hôm sau:
+ Dọn dẹp, vun vén nhà cửa.
+ Bưng bát cháo khoán điềm nhiên và vào miệng.
-> Hiền hậu đúng mực
* Niềm tin vào tương lai:
_ Đưa đến thông tin mang tính chất như định hướng để mở ra lối thoát.
*Nghệ thuật xây dựng nhân vật: chú trọng khắc họa cử chỉ, hành động, ngoại hình để người đọc
nhận ra vẻ đẹp của thị.
 Liên hệ với nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo – Nam Cao
Giới thiệu tác giả Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo

_Nam Cao là cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam. Tác phẩm của ông xoay quanh đề tài về
người trí thức nghèo và người nông dân.
_Chí Phèo là một trong số những sáng tác đặc sắc làm nên tên tuổi của ông và đưa ông lên vị trí
là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Khái quát nhân vật Thị Nở
*Chân dung, lai lịch:
- Chân dung thảm hại: xấu ma chê quỷ hờn.
- Dở hơi, “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích”.
- Nghèo.
- Có dòng giống mả hủi.
-> Không có cơ hội tìm kiếm hạnh phúc cho bản thân.
-> Bi đát, thảm hại, đáng thương, tội nghiệp.
*Vẻ đẹp tâm hồn:
_ Biết yêu thương, quan tâm, chăm sóc.
+ Trong đêm gặp gỡ ăn nằm với Chí Phèo, Chí Phèo bị cảm lạnh nôn mửa, Thị Nở chăm sóc ân
cần cho Chí: dìu vào lều -> đặt nằm lên chõng -> nhặt nhạnh những manh chiếu rách đắp cho
Chí Phèo cho khỏi lạnh rồi mới ra về.
+ Khi ra về vẫn nghĩ đến Chí Phèo, không ngủ được, thương -> thức dậy ý thức trách nhiệm.
+ Sáng sớm hôm sau nấu một nồi cháo hành mang cho Chí Phèo -> nhìn hắn toe toét cười, giục
hắn ăn nóng….
-> Ân cần, tình tứ.
-> Thức tỉnh Chí Phèo.
_ Biết khát khao hạnh phúc.
+ Sau khi ăn nằm với Chí Phèo, Thị Nở về nhà và lăn lộn không ngủ được, nghĩ đến những
chuyện đã qua, nghĩ đến hai chữ “vợ chồng” và thức dậy cho mình bản năng, khát vọng hạnh
phúc đã ấp ủ từ lâu.
+ Sẵn sàng vượt qua định kiến, đến ở với Chí Phèo suốt năm ngày.
+ Về hỏi ý kiến bà cô để hợp thức hóa mối quan hệ với Chí Phèo, để có hạnh phúc bình dị như
bao con người bình thường khác.
 Nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật của hai nhà văn:
*Giống: Khắc họa vẻ đẹp con người qua vẻ đẹp về nhân phẩm, về tâm hồn. Đây cũng là chủ
nghĩa nhân đạo trong sáng tác của hai nhà văn.
*Khác:
_Kim Lân: Nhân vật của ông tìm được con đường sống cho mình.
_Nam Cao: Xây dựng nhân vật bằng bút pháp điển hình, nhân vật bị đặt ra ngoài rìa của xã hội.
Nhân vật được khắc họa rõ nét qua diễn biến tâm lí.
 Tổng kết
I. ĐỌC HIỂU
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Các chàng các nàng yểu điệu bây giờ ăn rau sống là ăn cả cây húng cây kinh giới um tùm
sum suê... Rau thơm ăn hương ăn hoa thì thành món chính rậm rạp... Nói thế biết thế, nhưng
miếng ngon Hà Nội vẫn còn đó. Trong những người sành, thanh tao. Hiếm lắm. Nhưng hồn
cốt văn hóa bao giờ cũng được bảo tồn nhờ một số ít. Dường như vậy. Gia phong trong
những nhà số ít ấy giờ đây ngẫm lại thực ra lại mang tính toàn cầu. Trọng trung hiếu lễ
nghĩa. Biết lắng nghe người đối thoại, biết đàm phán và biết thuyết phục. Không thuyết phục
được thì khôn khéo biết để cho đối tượng ra đi trong danh dự. Ăn thanh tao, mặc thanh lịch,
bước đi dáng đứng thanh nhã. Chữ thanh thường làm đầu. Bao giờ xử sự cũng tự nhiên, tự
nhiên như người Hà Nội. Thoải mái. Tự tin. Không thích kiểu thu mình. Ăn uống không xô bồ
hấp tấp nhưng cũng không cảnh vẻ kiểu cách. Bát cơm bát phở phải ăn bằng hết, không được
bỏ thừa một chút làm phép. Chúng tôi ngày ấy được giáo dục bằng chữ thanh, vào đời làm
ăn là ổn. Ra nước ngoài bỡ ngỡ chưa rõ tập quán địa phương, chỉ việc xử sự như cha ông
dạy bảo là hòa nhập tự tin được. Không bị sốc văn hóa. Không bị mặc cảm mình vụng về quê
mùa.
(Trích Hà Nội, con thuyền, phù sa, Hồ Anh Thái,
Văn nghệ quân đội, số 699, tháng 6- 2009, tr 18-19)
Câu 1. Theo tác giả, cồn cốt văn hóa thường được bảo tồn bởi những người như thế nào?
Câu 2. Vì sao lớp người như tác giả có thể vào đời làm ăn là ổn, ra nước ngoài bỡ ngỡ
nhưng vẫn hòa nhập tự tin được?
Câu 3. Anh/Chị hiểu như thế nào về chữ "thanh" trong đoạn trích?
Câu 4. Anh/Chị có đồng tình với ý kiến cho rằng: Biết lắng nghe người đối thoại, biết
đàm phán và biết thuyết phục là một trong những cốt cách văn hóa không? Vì sao?
II. LÀM VĂN
Câu 1. Từ đoạn trích thuộc phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình
bày suy nghĩ của anh/chị về câu hỏi: Làm thế nào để chúng ta không bị sốc văn hóa trong
thời đại ngày nay?
Câu 2. Phân tích hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn
Minh Châu). Từ quá trình nhận thức của nhân vật Phùng, hãy liên hệ đến lời khuyên nhân vật
Huấn Cao dành cho viên quản ngục trong cảnh cho chữ (Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân), hãy
nhận xét về vai trò, sứ mệnh của nghệ thuật đích thực.

I. ĐỌC HIỂU
Câu 1. Theo tác giả, hồn cốt văn hóa thường được bảo tồn bởi những người sành, thanh
tao.
Câu 2. Lớp người như tác giả có thể vào đời làm ăn là ổn, ra nước ngoài bỡ ngỡ nhưng
vẫn hòa nhập tự tin được là bởi vì họ được cha ông giáo dục bằng chữ thanh.
Câu 3. Chữ Thanh được hiểu là nhẹ nhàng, lịch lãm, tự nhiên, không xô bồ nhưng không
kiểu cách, cảnh vẻ.
Câu 4. Thí sinh có thể trả lời đồng tình hoặc không đồng tình và lí giải lí do đồng tình
hoặc không đồng tình.
II. LÀM VĂN
Câu 1 Trên cơ sở những hiểu biết về văn bản đọc hiểu, thí sinh có thể trình bày suy nghĩ
của mình về vấn đề cần nghị luận (giải pháp để không sốc văn hóa) theo nhiều cách nhưng
phải hợp lí, có sức thuyết phục. Thí sinh có thể viết đoạn văn (khoảng 200 chữ, tương đương
2/3 trang giấy thi) theo hướng:
- Giải thích khái niệm sốc văn hóa.
- Nêu giải pháp chống sốc văn hóa.
Câu 2
Trên cơ sở hiểu biết về tác giả Nguyễn Minh Châu và tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, thí
sinh có thể phân tích hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng, từ đó liên hệ đến lời khuyên nhân vật
Huấn Cao dành cho viên quản ngục trong cảnh cho chữ (Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân),
nhận xét về vai trò, sứ mệnh của nghệ thuật đích thực theo nhiều cách nhưng phải hợp lí, có
sức thuyết phục. Dưới đây là một số gợi ý:
* Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm, vấn đề cần nghị luận
* Phân tích hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng
Là người kể chuyện; vốn là một người lính giải ngũ, giờ là một nghệ sĩ nhiếp ảnh, đến
vùng biển này để chụp một bức ảnh bổ sung cho bộ lịch năm ấy. Truyện được kể bởi chính
Phùng, người tham gia câu chuyện nên sẽ xác thực hơn và giúp cho việc thể hiện chủ đề (liên
quan đến nghệ thuật) tốt hơn.
Phát hiện thứ nhất
- Giây phút ấy đã tới, đôi mắt nhà nghề của người nghệ sĩ đã phát hiện ra một cảnh đắt trời
cho trên mặt biển sớm mờ sương, một cảnh đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ anh chỉ bắt gặp
được một lần. Nó đẹp như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ:
+ Một con thuyền ngư phủ đang từ từ hướng vào bờ. Mũi thuyền chạm vào bầu sương mù
trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào.
+ Vài bóng người ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum.
+ Tất cả khung cảnh được Phùng nhìn qua những cái mắt lưới của tấm lưới nằm giữa hai
gọng vó như cánh một con dơi.
 Vẻ đẹp của bức tranh: hài hòa (thiên nhiên - con người, bóng tối - ánh sáng, màu sắc -
đường nét - chuyển động, tĩnh - động), giản dị, bình yên.
- Cảm nhận của Phùng trước bức ảnh nghệ thuật của tạo hóa:
+ Đứng trước một sản phẩm nghệ thuật tuyệt vời của hóa công, người nghệ sĩ trở nên bối
rối và trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào - niềm xúc động mãnh liệt, cảm xúc thẩm mĩ
trong tâm hồn người nghệ sĩ.
+ Nhận ra chân lí: Bản thân cái đẹp chính là đạo đức.
 Quan niệm của Nguyễn Minh Châu về tác động của nghệ thuật của cái đẹp cũng tương
đồng với quan niệm của nhiều nhà văn khác: Cái đẹp đã có tác dụng thanh lọc tâm hồn con
người.
 Phát hiện thứ nhất - phát hiện về cái đẹp trong cuộc đời: Con thuyền ngư phủ trong
buổi sớm mờ sương trên biển.
Phát hiện thứ hai
- Từ chính chiếc ngư phủ đẹp như trong mơ ấy bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi,
cam chịu; một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc ác, coi việc đánh vợ là một phương thức để
giải tỏa những uất ức, đau khổ; đứa con vì thương mẹ đã đánh lại cha để rồi nhận lấy hai cái
bạt tai của bố ngã dúi xuống cát…
 Cảnh tượng đầy rẫy trong thực tế cuộc sống hiện nay, gợi đến vấn đề bạo lực trong gia
đình.
- Chứng kiến cảnh đó, anh kinh ngạc đến sững sờ, không tin vào những gì đang nhìn thấy
trước mắt trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn.
Sở dĩ anh có thái độ như vậy vì lúc trước anh từng có cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn
ngập tâm hồn do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh mang lại, anh đã từng chiêm nghiệm bản
thân cái đẹp chính là đạo đức vậy mà cảnh anh vừa bắt gặp trên mặt biển lại chẳng phải là
đạo đức, là chân lí của sự toàn thiện. Đó là cảnh tượng thật xấu, thật ác.
 Phát hiện thứ hai: Cuộc đời không chỉ có cái đẹp, cái thiện mà còn có cái xấu, cái ác;
cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lí.
- Khoảng cách của Phùng với con thuyền ngư phủ trong hai phát hiện:
+ Phát hiện thứ nhất: khoảng cách xa, lại bị gián cách bởi lớp sương mù trắng như sữa.
+ Phát hiện thứ hai: khoảng cách gần sát.
Khoảng cách đó cùng với trình tự của hai phát hiện (phát hiện về cái đẹp trước, phát hiện
về cái ác, cái xấu sau) góp phần chuyển tải thông điệp của truyện một cách sâu sắc:
+ Cuộc sống luôn tồn tại những mặt đối lập, những mâu thuẫn: đẹp - xấu, thiện - ác…
Nghệ thuật không chỉ phản ánh cái đẹp mà còn phải vạch trần cái xấu, cái ác. Nghệ thuật
không thể vị nghệ thuật mà phải vị nhân sinh.
+ Nhà văn có dụng ý khi để cảnh tượng trời cho hiện ra trước như là vỏ bọc bên ngoài
hòng che giấu cái bản chất thực của đời sống ở bên trong.  Nghệ sĩ chỉ có thể thấy được cái
xấu, cái ác khi đến gần hơn với cuộc đời.
* Liên hệ đến lời khuyên nhân vật Huấn Cao dành cho viên quản ngục trong cảnh
cho chữ, nhận xét về vai trò, sứ mệnh của nghệ thuật đích thực
- Trong Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân), Huấn Cao sau khi cho chữ viên quản ngục còn
khuyên quản ngục nên thay chốn ở đi để giữ thiên lương cho lành vững. Ông cho rằng, nhà tù
tăm tối, tàn ác không phải là nơi treo những con chữ vuông, tươi tắn, nói lên cái hoài bão
tung hoành của một đời con người. Trước lời khuyên của Huấn Cao, viên quản ngục đã xúc
động, cúi xuống vái lạy, dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh!".
Như vậy, Huấn Cao không chỉ cho chữ (trao gửi lại cái đẹp) mà còn cứu giữ "thiên lương"
của quản ngục. Người nghệ sĩ, dù cận kề cái chết vẫn cố công thực hiện sứ mệnh của mình là
truyền bá cái đẹp và cái thiện.
 Thông điệp nghệ thuật: Cái Đẹp không bao giờ chung sống với cái Xấu, cái Ác. Cái
Đẹp luôn gắn liền với cái Thiện.
- Cả Nguyễn Tuân và Nguyễn Minh Châu nhận thức sâu sắc về vai trò, sứ mệnh của nghệ
thuật trong cuộc đời: Nghệ thuật phải phản ánh cái Đẹp và dùng chính cái Đẹp để thanh lọc
tâm hồn con người, để làm cuộc đời trở nên tốt đẹp hơn.  Quan niệm đúng đắn của những
người nghệ sĩ chân chính.

You might also like