Kỷ Yếu Hội Thảo CNXH Tập 1

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 638

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

KỈ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA


XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Tập 1

NXB ĐÀ NẴNG
MỤC LỤC

Nguyễn Dũng Anh 1


SỰ PHÁT TRIỂN QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ
TỔNG QUÁT TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM

Lương Hữu Bắc, Trần Thị Lệ Thanh 14


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
VÀ VẬN DỤNG VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN NAY

Trần Trương Gia Bảo, Nguyễn Minh Quân 26


QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC
TRONG CÔNG TÁC CÁN BỘ

Đinh Thị Thủy Bình, Hoàng Mạnh Cường 40


BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC - NHIỆM VỤ
QUAN TRỌNG TRONG CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY

Đinh Thị Thủy Bình, Nguyễn Tiến Dũng 52


NHẬN THỨC MỚI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
(TỪ ĐẠI HỘI VII ĐẾN ĐẠI HỘI XIII) VÀ NHIỆM VỤ XÂY DỰNG CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI HIỆN NAY

Hoàng Mạnh Cường, Trần Đức Hà 64


BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON ĐƯỜNG
ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Hoàng Trung Dũng 79


ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM XÁC LẬP, HOÀN THIỆN LÝ LUẬN VỀ
MÔ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Lê Văn Đính 90
XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ THEO TINH THẦN NGHỊ QUYẾT
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XIII CỦA ĐẢNG

i
Phạm Văn Giang 103
TÍNH TẤT YẾU CỦA CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM TRONG TÁC PHẨM “MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI Ở VIỆT NAM” CỦA TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG

Lưu Thị Hà 114


QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ TÍNH TẤT YẾU CỦA
THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Phan Thị Hà, Trần Văn Viễn, Lê Trọng Hưng 127


TÍNH TẤT YẾU, MỤC TIÊU, ĐẶC TRƯNG, BẢN CHẤT, NHIỆM VỤ XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Lương Đình Hải 141


GIÁ TRỊ TRƯỜNG TỒN CỦA HỌC THUYẾT MÁC - LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI VÀ VIỆC BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO HỌC THUYẾT ĐÓ
TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY

Nguyễn Thị Minh Hải 155


SỰ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ
CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Trương Thị Thu Hạnh 165


QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
TRONG TÁC PHẨM “THƯỜNG THỨC CHÍNH TRỊ” - GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN

Dương Thị Hậu 178


QUÁN TRIỆT TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT HUY NHÂN TỐ
CON NGƯỜI TRONG XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Trần Thúy Hiền 192


QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ NHIỆM VỤ
XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

ii
Nguyễn Đình Hòa 211
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ SỰ VẬN DỤNG
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII

Phạm Văn Hòa 224


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ SỰ KIÊN ĐỊNH, VẬN DỤNG, PHÁT TRIỂN CỦA
ĐẢNG TA TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC

Nguyễn Thị Hương 232


LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ SỰ VẬN DỤNG SÁNG TẠO
CỦA ĐẢNG TA VÀO THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Nguyễn Thị Hương 247


NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO TÍNH ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Nguyễn Quốc Khánh 263


SỰ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG VỀ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Lê Trung Kiên 276

GIÁ TRỊ BỀN VỮNG CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY

Nguyễn Thị Liên 289

QUAN NIỆM CỦA LÊNIN VỀ QUYỀN LỰC, KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC VÀ
SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Phạm Thị Loan 300


HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC VẬN DỤNG SÁNG TẠO LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC - LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI

iii
Lê Thị Hiền Lương 313
VÀI Ý KIẾN VỀ GIẢNG DẠY MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
THEO CHƯƠNG TRÌNH, GIÁO TRÌNH MỚI CỦA BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

Phạm Trần Quỳnh Mai 324


QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN VỀ QUÁ ĐỘ GIÁN TIẾP LÊN CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI VÀ SỰ VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Trần Nhật Minh 338


MẤY SUY NGHĨ VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TỪ CÁCH TIẾP CẬN DI SẢN
KINH ĐIỂN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

Đinh Thị Phượng 353


MÔ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: TẤT YẾU CỦA LỊCH SỬ VÀ
THÀNH TỰU

Nguyễn Việt Phương, Võ Anh Tuấn 367


“DÂN THỤ HƯỞNG” - MỘT GIÁ TRỊ CỐT LÕI TRONG LÝ LUẬN CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ PHÁT HUY DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Nguyễn Minh Quân, Nguyễn Lập Duy 376

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC VÀ SỰ VẬN DỤNG


CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Nguyễn Duy Quý 390


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ SỰ
VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Nguyễn Hạnh Quyển 402

THÀNH TỰU LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ VAI TRÒ
CỦA VĂN HÓA, CON NGƯỜI TRONG XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Trần Thị Như Quỳnh 417


NHẬN THỨC MỚI CỦA ĐẢNG VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG
ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

iv
Hồ Tấn Sáng, Ngô Thị Hiền Trang 427
CHỦ NGHIÃ XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM - TỪ NHẬN THỨC ĐẾN HÀNH ĐỘNG

Nguyễn Hồng Sơn, Phùng Nam 441


MỘT SỐ VẤN ĐỀ RÚT RA TỪ MÔ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ĐẶC SẮC
TRUNG QUỐC TRONG THỜI ĐẠI MỚI

Trần Thị Tâm 455


MỘT VÀI MÔ HÌNH, TRÀO LƯU XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRÊN THẾ GIỚI VÀ
MỘT SỐ GỢI Ý CHO VIỆT NAM HIỆN NAY

Dương Nhật Thái 471


BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ SỰ SỤP ĐỔ MÔ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở LIÊN XÔ VÀ ĐÔNG ÂU ĐỐI VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN
ĐẢNG TA HIỆN NAY

Nguyễn Thị Hoài Thanh, Nguyễn Phương Thủy, Hồ Thị Thủy, Nguyễn 490
Phạm Nguyệt Linh
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP DÂN TỘC
GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Trịnh Hùng Thanh 499


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG
ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI - SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Lê Văn Thủ 513


XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA - TỪ TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH ĐẾN SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG

Phạm Thanh Thủy 526


GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Phạm Thu Trang 538


BƯỚC CHUYỂN TRONG QUAN NIỆM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỀ MÔ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

v
An Thị Ngọc Trinh 555
VAI TRÒ THẾ GIỚI QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN KHOA HỌC CỦA
HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA CÁC MÁC ĐỐI VỚI
CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Đào Duy Tùng 569


GÓP PHẦN TÌM HIỂU QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG
VỀ ĐỐI NGOẠI TRONG 35 NĂM ĐỔI MỚI (1986 - 2021)

Phạm Thị Thúy Vân 582


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ PHÁT HUY
NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Trương Văn Viên 596


ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LÀ SỰ LỰA CHỌN ĐÚNG ĐẮN

Nguyễn Thị Thanh Xuân 610


GIÁ TRỊ THỜI ĐẠI CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI VÀ CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

vi
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

SỰ PHÁT TRIỂN QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG


VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ TỔNG QUÁT TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Nguyễn Dũng Anh
Học viện Chính trị Khu vực III
Tác giả liên hệ: Nguyễn Dũng Anh, email: dunganhnguyen73@gmail.com

Tóm tắt: Trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thành tựu của văn
minh nhân loại và thực tiễn quá trình đổi mới ở nước ta, Đảng ta đã nhận thức, vận
dụng sáng tạo về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam - Mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Bài viết khái quát quan điểm về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam trước Đại hội XIII của Đảng; đồng thời, đánh giá kết quả và
những hạn chế về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam thời gian qua. Từ đó làm rõ một số quan điểm mới của Văn kiện Đại hội XIII về
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ khóa: mô hình kinh tế tổng quát; kinh tế thị trường; thời kỳ quá độ; quan điểm mới;
Văn kiện Đại hội XIII.

1. MỞ ĐẦU
Quá trình đổi mới nền kinh tế ở nước ta có đặc điểm nổi bật là chuyển từ nền
kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa
(XHCN), với nội hàm quan trọng nhất là phát triển mạnh mẽ nền kinh tế hàng hóa
với nhiều thành phần kinh tế có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN. Đại
hội VI của Đảng xác định: “Xuất phát từ thực tiễn của nước ta và là sự vận dụng quan
điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá
độ” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1987, 56). Đại hội VII khẳng định: “Tiếp tục xây dựng
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và đổi mới quản lý kinh tế” (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 1991, 66). Đại hội VIII tổng kết chặng đường đổi mới 10 năm có rút ra một
số bài học chủ yếu, trong đó có bài học: “Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường phải đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996, 14).

1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Yêu cầu đổi mới đó bắt nguồn từ thực tiễn nền kinh tế, từ khát vọng nội tại của nhân
dân, cùng với đổi mới tư duy kinh tế của Đảng. Sự chuyển đổi sang mô hình kinh tế
mới ở nước ta đã đem lại những biến đổi sâu sắc, toàn diện, đặc biệt là trên lĩnh vực
kinh tế - xã hội theo hướng ngày càng tiến bộ, đúng quy luật, hội nhập ngày càng
hiệu quả hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
2. QUAN ĐIỂM VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM TRƯỚC ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG
Thực tiễn 35 năm đổi mới khẳng định bước tiến quan trọng trong quá trình
nhận thức về vai trò của sở hữu và các thành phần kinh tế qua những đóng góp đối
với phát triển nền kinh tế quốc dân. Từ chỗ dựa trên loại hình sở hữu công hữu với
hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể; đến thừa nhận đa hình thức sở hữu,
tồn tại khách quan nền kinh tế nhiều thành phần; và thừa nhận tất cả các thành
phần kinh tế là những bộ phận cấu thành của nền KTTT định hướng XHCN, các
thành phần kinh tế đều được bình đẳng trước pháp luật.
Mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ (TKQĐ) đi lên chủ nghĩa xã
hội (CNXH) ở Việt Nam được Đại hội IX (năm 2001) của Đảng Cộng sản Việt Nam
khái quát là KTTT định hướng XHCN, từng bước được bổ sung, phát triển qua các
kỳ đại hội của Đảng trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn phát triển
KTTT ở nước ta, vận dụng sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm từ thực tiễn phát
triển KTTT hiện đại của các nước trên thế giới. Đại hội IX của Đảng khẳng định:
“Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc” (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 2001, 87). “Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp
giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Đó là mô
hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, 88).
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (năm 2006) chỉ rõ: Trên cơ sở ba
chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và
“các thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể,
2
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006, 27-28). Đại hội XI của Đảng có những khái quát
mới về lý luận “Phát triển nền KTTT định hướng XHCN với nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân
phối” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 73). Đây là một bước phát triển mới trong
nhận thức lý luận của Đảng về nền KTTT định hướng XHCN và tiếp tục khẳng định
“Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố
và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động
lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển.
Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế
đa dạng ngày càng phát triển” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 73-74). Đại hội XII
của Đảng đã chỉ ra những nội hàm cơ bản của nền KTTT định hướng XHCN là “nền
kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của KTTT, đồng thời bảo đảm
định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền
KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN,
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 102); “có nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc
các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật;….” (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 2016, 103). Định hướng XHCN của nền kinh tế được nhất quán
xác lập và tăng cường thông qua sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự
quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, lấy con người làm trung tâm, vì mọi
người và do con người; phát huy đầy đủ vai trò làm chủ của nhân dân, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển,
nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam có thể khái quát ở ba điểm sau:
Thứ nhất, tuân thủ những đặc trưng của KTTT, bởi vì, KTTT là một phương
thức, một kiểu tổ chức kinh tế mà xã hội loài người sáng tạo ra, là thành quả của
văn minh nhân loại, có thể tồn tại ở các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, các chế
độ chính trị - xã hội khác nhau. KTTT ra đời, phát triển phụ thuộc vào các điều kiện

3
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

như phân công lao động xã hội, sự phát triển của lực lượng sản xuất,… Tuân theo
các quy luật kinh tế khách quan như: quy luật giá trị, cạnh tranh, cung cầu, lưu
thông tiền tệ,… tạo động lực phát triển kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất, nâng
cao năng suất lao động xã hội. Thực tiễn thế giới đã minh chứng, nhiều quốc gia
không theo chế độ chính trị - xã hội tư bản chủ nghĩa vẫn sử dụng KTTT làm
phương tiện tạo lập cơ sở kinh tế, sức mạnh kinh tế cho sự phát triển của mỗi quốc
gia như: Trung Quốc, Lào…
Thứ hai, giữa KTTT và định hướng XHCN, thể hiện hai khía cạnh chủ yếu là
sử dụng “phương tiện” KTTT để đạt “mục đích” định hướng XHCN của nền KTTT
định hướng XHCN ở Việt Nam. Về mặt lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn
của thế giới đã được kiểm chứng và khẳng định, KTTT là “phương tiện tốt nhất”
tạo lập cơ sở kinh tế, sức mạnh kinh tế cho sự phát triển của mỗi quốc gia. KTTT
càng hiện đại và được vận hành có hiệu quả thì cơ sở kinh tế, sức mạnh kinh tế do
nó tạo ra càng có điều kiện gia tăng mạnh mẽ thế và lực. Còn “mục đích” KTTT
bao giờ cũng gắn với một chế độ chính trị - xã hội nhất định, phục vụ cho mục tiêu
và lợi ích của chế độ đó. Nền KTTT định hướng XHCN mục đích là phát triển, giải
phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho
CNXH, nâng cao hiệu quả kinh tế, phục vụ lợi ích của nhân dân và hoàn thiện
quan hệ sản xuất nhằm xây dựng chế độ chính trị xã hội của CNXH. Giữa “mục
đích” định hướng XHCN và “phương tiện” KTTT ở Việt Nam không có sự loại
trừ, mâu thuẫn nhau mà là sự dung hợp, gắn kết, hỗ trợ lẫn nhau trong chỉnh thể
thống nhất “KTTT định hướng XHCN”. Điều đó có nghĩa rằng, tính định hướng
XHCN của nền KTTT hay tính định hướng trong phát triển nền KTTT là hoàn toàn
đúng đắn, phản ánh mục tiêu, phương thức phát triển, phân phối của cơ chế quản
lý kinh tế ở nước ta; nhờ đó khai thác tốt nhất mặt tích cực của thị trường, đồng
thời khắc phục và hạn chế mức thấp nhất những khuyết tật, rủi ro của nó nhằm
hướng đến các mục tiêu của CNXH.
Thứ ba, phát triển KTTT định hướng XHCN là kiểu tổ chức kinh tế xã hội phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam. Trước hết phải thấy rằng, Việt
Nam xây dựng CNXH từ xuất phát điểm rất thấp về kinh tế và con đường xây dựng
CNXH là con đường quá độ, trải qua nhiều giai đoạn, bước đi khác nhau. Tất yếu
khách quan Việt Nam phải phát triển KTTT với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành

4
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

phần kinh tế; trong đó có sở hữu tư nhân, thành phần kinh tế tư nhân và các hình
thức sở hữu hỗn hợp khác còn phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Tất cả các thành phần kinh tế trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN,
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
3. KẾT QUẢ VÀ NHỮNG HẠN CHẾ VỀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
Đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện trên
hầu hết các lĩnh vực (kinh tế, xã hội, môi trường…). Thành quả đạt được trong thực
hiện Chiến lược 10 năm 2011 - 2020 đã góp phần quan trọng tô đậm thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử của 35 năm đổi mới, làm cho đất nước ta chưa bao giờ có được
cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
được duy trì ở mức độ khá cao, bình quân 2011 - 2015 đạt 5,9%/năm; 2016 - 2020 đạt
6%/năm; tính chung 10 năm 2011 - 2020 đạt 5,95%/năm, Việt Nam thuộc nhóm các
nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới; chất lượng tăng trưởng được cải
thiện, năng suất lao động được nâng lên rõ rệt; kinh tế vĩ mô ổn định vững chắc hơn,
lạm phát được kiểm soát ở mức thấp (ổn định dưới 4%/năm trong nhiệm kỳ 2016-2020).
Các cân đối lớn của nền kinh tế được cải thiện đáng kể như: tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu tăng gần 3,5 lần, từ 157,1 tỉ USD năm 2010 lên 543,9 tỉ USD năm 2020,
trong đó xuất khẩu khoảng 281,5 tỉ USD; cán cân thương mại được cải thiện rõ rệt
(chuyển từ thâm hụt 12,6 tỉ USD năm 2010 sang thặng dư liên tục và mức độ ngày càng
tăng trong 5 năm 2016-2020); dự trữ ngoại hối tăng kỷ lục (đạt gần 100 tỉ USD năm
2020); bội chi ngân sách nhà nước so với GDP giảm mạnh (từ 5,4% giai đoạn 2011 -
2015 xuống còn 3,5% giai đoạn 2016 - 2019; năm 2020 mặc dù chịu ảnh hưởng lớn của đại
dịch Covid-19 nhưng vẫn dưới 4%); tỷ lệ nợ công so với GDP giảm (chỉ còn 55,3% vào
cuối năm 2020, trần là 65%) (X. P. Nguyễn, 2021).
Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh
Covid-19, tăng trưởng kinh tế năm 2020 đạt 2,91% là mức tăng thấp nhất của các
năm trong giai đoạn 2011 - 2020, một trong số ít quốc gia trên thế giới duy trì được
khả năng chống chịu của nền kinh tế; năm 2021 tăng trưởng kinh tế chỉ ở mức 2,58%
mức thấp nhất trong 35 năm Đổi mới (1986 - 2020). Nhưng trong bối cảnh đại dịch
Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới mọi mặt kinh tế - xã hội thì đây

5
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

là thành công lớn của Việt Nam so với thế giới và thuộc nhóm nước có tăng trưởng
cao nhất thế giới. Tăng trưởng xuất, nhập khẩu là gam màu sáng nhất trong bức
tranh kinh tế vĩ mô năm 2021, với tổng kim ngạch kỷ lục 668,5 tỷ USD, tăng 22,6%
so với năm 2020; trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 336,25 tỷ USD, tăng
19% so với năm 2020, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 332,25 tỷ USD, tăng
26,5% so với năm trước (Bùi & Hà, 2022, 68).
Với chủ trương phát triển KTTT nên đã huy động các nguồn lực cho đầu tư
phát triển được đẩy mạnh, đầu tư khu vực ngoài nhà nước tăng nhanh và chất
lượng, hiệu quả được cải thiện như: Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai
đoạn 2011-2020 đạt gần 15,7 triệu tỉ đồng (tương đương 673 tỉ USD), tăng bình quân
10,1%/năm; vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước ở trong nước chiếm tỉ trọng
ngày càng lớn trong tổng đầu tư xã hội, tăng từ 36,1% năm 2010 lên 44,9% năm 2020;
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh (thu hút được nhiều dự án quy mô lớn,
công nghệ cao), tổng số vốn đăng ký giai đoạn 2011 - 2020 đạt 268,2 tỉ USD, vốn thực
hiện đạt 152,3 tỉ USD, chiếm 22,6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội (X. P. Nguyễn, 2021).
Cơ cấu kinh tế ngành và nội ngành chuyển biến tích cực; tỷ trọng công nghiệp
chế biến, chế tạo và ứng dụng công nghệ cao tăng lên; tỷ trọng khu vực nông nghiệp
trong GDP giảm từ 18,9% năm 2010 còn 15,2% năm 2020; các khu vực công nghiệp, xây
dựng và dịch vụ tăng từ 81,1% lên 84,8%; cơ cấu nội ngành chuyển dịch tích cực (tỉ
trọng ngành khai khoáng giảm từ 9,5% GDP xuống còn 5,5%; tỉ trọng hàng hoá xuất khẩu qua
chế biến tăng từ 65% năm 2011 lên 85% năm 2020) (X. P. Nguyễn, 2021).
Thể chế KTTT định hướng XHCN từng bước được hoàn thiện theo hướng hiện
đại, đồng bộ và hội nhập; ban hành Hiến pháp năm 2013 và sửa đổi, hoàn thiện các
luật, pháp lệnh và văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành; vị trí xếp hạng
môi trường kinh doanh toàn cầu của Việt Nam tăng từ 88/183 năm 2010 lên 70/190
năm 2019 (X. P. Nguyễn, 2021).
Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đánh giá: Việt Nam là
một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới; là điểm sáng trên toàn cầu
trong việc thực hiện thành công “mục tiêu kép”, vừa phòng chống dịch, vừa phục
hồi và phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống nhân dân.

6
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Thành quả đạt được trong 35 năm đổi mới và thực hiện chiến lược 10 năm
2011 - 2020 về phát triển văn hoá, xây dựng con người Việt Nam đạt kết quả tích
cực; tỉ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 40% năm 2010 lên 64,5% năm 2020, trong
đó, tỉ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ tăng từ 14,6% năm 2010 lên
24,1% vào năm 2020; chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam tăng vượt bậc, năm
2020 xếp thứ 42/131 nước và vùng lãnh thổ, tăng 17 bậc so với năm 2016, dẫn đầu
nhóm quốc gia, nền kinh tế cùng mức thu nhập; đời sống văn hoá của nhân dân
ngày càng phong phú, nhiều giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp được đề cao và
phát huy; tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh: còn dưới 3% vào năm 2020 (theo chuẩn nghèo
đa chiều); đời sống người dân được cải thiện, chú trọng, tạo sinh kế và nâng cao
khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản (thu nhập bình quân đầu người tăng 3,1
lần, từ 16,6 triệu đồng năm 2010 lên 51,5 triệu đồng năm 2019). Thực hiện tốt các chính
sách bảo đảm an sinh xã hội (tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng từ 60,9% dân số năm
2010 lên 90,7% vào năm 2020) (X. P. Nguyễn, 2021). Công tác bảo vệ, chăm sóc và
nâng cao sức khoẻ nhân dân được quan tâm. Việt Nam kiểm soát tốt đại dịch
Covid-19, được nhân dân cả nước và cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Chỉ số phát
triển con người (HDI) của Việt Nam được cải thiện, thuộc nhóm các nước có mức
phát triển con người cao của thế giới.

Công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu
ngày càng được chú trọng hơn; các nguồn lực tài nguyên từng bước được quản lý,
khai thác, sử dụng hiệu quả hơn, đặc biệt là đất đai, khoảng sản; công tác phòng
ngừa, kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, ngăn ngừa suy thoái, cải thiện chất lượng môi
trường đạt kết quả tích cực; nhiều giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng,
tránh thiên tai được triển khai tích cực và đạt nhiều kết quả.

Tuy nhiên, nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam còn một số hạn chế, yếu
kém sau:

Một là, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa đạt mục tiêu đề ra (tốc độ tăng GDP bình
quân đạt 5,95%/năm giai đoạn 2011 - 2020 so với mục tiêu Chiến lược là 7-8%/năm); cơ cấu
lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm; chưa phát huy được
đầy đủ, hiệu quả các tiềm năng, lợi thế phát triển; hoạt động sản xuất kinh doanh
trong nhiều lĩnh vực vẫn chủ yếu đang ở phân khúc thấp trong chuỗi giá trị; tỷ lệ

7
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

tham gia vào các chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu chưa cao. Khoa học, công nghệ và
đổi mới sáng tạo trong một số lĩnh vực còn chưa được phát huy; trình độ khoa học,
công nghệ quốc gia nhìn chung còn khoảng cách so với nhóm đầu khu vực. Thực
hiện ba đột phá chiến lược còn chậm: Một số quy định pháp luật, cơ chế, chính sách
còn bất cập; thực thi pháp luật có nơi chưa nghiêm; nguồn nhân lực chất lượng cao
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển; kết cấu hạ tầng chưa theo kịp yêu cầu phát
triển, chất lượng chưa cao. Do đó, chưa tạo được nền tảng để đến năm 2020 cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Hai là, khoảng cách phát triển và chênh lệch thu nhập giữa các vùng chậm
được thu hẹp; việc thực hiện các mục tiêu phát triển văn hoá, xã hội và con người
còn hạn chế; kết quả giảm nghèo đa chiều chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo còn
cao ở nhiều nơi.

Ba là, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu
còn bất cập: Hiệu quả quản lý, sử dụng và huy động nguồn lực từ đất đai, tài
nguyên chưa cao, chưa bền vững; tình trạng ô nhiễm môi trường có nơi còn diễn
biến phức tạp; tác động, ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu ngày
càng nặng nề nhưng nguồn lực còn hạn hẹp; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
trên một số lĩnh vực chưa cao.

Những hạn chế, yếu kém nêu trên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan,
trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu: Một là, nhận thức về KTTT định hướng
XHCN ở một số nội dung còn chưa thực sự sâu sắc, thống nhất. Hai là, tính thượng
tôn pháp luật chưa cao, kỷ luật, kỷ cương có lúc, có nơi chưa nghiêm; công tác đánh
giá, kiểm tra, giám sát, theo dõi, đôn đốc thực thi công vụ có nơi còn buông lỏng.
Ba là, chưa phát huy đầy đủ tiềm năng, năng lực của con người Việt Nam trong
phát triển đất nước. Bốn là, phương thức lãnh đạo quản lý kinh tế, quản lý xã hội
trong thực tiễn ở một số lĩnh vực, một số nơi chưa thực sự phù hợp, hiệu lực, hiệu
quả chưa cao. Còn có biểu hiện cơ chế “xin - cho”, “tư duy nhiệm kỳ”, “lợi ích
nhóm”; năng lực, ý thức trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức có mặt còn
hạn chế. Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, giữa các cơ quan quản lý nhà nước
trong nhiều trường hợp còn thiếu chặt chẽ, hiệu quả chưa cao.

8
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

4. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM MỚI CỦA VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII VỀ NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận phát triển kinh tế và quá trình
đổi mới của đất nước, Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra những nội
hàm cơ bản về nền KTTT định hướng XHCN như sau:
“Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng
bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với
từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được
củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế
hoạch phát triển kinh tế xã - hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 128-129).
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung, phát triển một số quan điểm mới
về phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam:
Một là, kế thừa những nội dung về phát triển KTTT định hướng XHCN trong
Văn kiện Đại hội XII, Báo cáo chính trị Đại hội XIII nhấn mạnh cần phải tiếp tục thống
nhất và nâng cao nhận thức về KTTT định hướng XHCN. Điểm mới của Văn kiện
Đại hội XIII ở nội dung này là ngay từ đầu Văn kiện đã nêu rõ nội hàm của KTTT
định hướng XHCN của nước ta và trên cơ sở đó nhấn mạnh những nội dung quan
trọng của nội hàm này, để từ đó thống nhất nhận thức và thực hiện. Trong đó, vai
trò, vị trí, chức năng của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân được xác
định rõ hơn: (1) Kinh tế nhà nước được khẳng định là công cụ, lực lượng vật chất
quan trọng để Nhà nước giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn
dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường.
Đây là chức năng quan trọng của kinh tế nhà nước, đồng thời cũng là đặc điểm đặc
trưng khác biệt, tiến bộ của KTTT định hướng XHCN. (2) Kinh tế tập thể, kinh tế hợp
tác, các hợp tác xã, tổ hợp tác có vai trò cung cấp dịch vụ cho các thành viên; liên kết,
phối hợp sản xuất kinh doanh, bảo vệ lợi ích và tạo điều kiện để các thành viên nâng
cao năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững. Tăng cường liên

9
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

kết giữa các hợp tác xã, hình thành các hiệp hội, liên hiệp hợp tác xã. (3) Kinh tế tư
nhân được khẳng định là một động lực quan trọng của nền kinh tế và được khuyến
khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, nhất là trong
lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ được hỗ trợ thành các công ty, tập đoàn kinh
tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao. (4) Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một
bộ phận quan trọng của kinh tế quốc dân, có vai trò to lớn trong huy động nguồn vốn
đầu tư, công nghệ, phương thức quản lý hiện đại, mở rộng thị trường xuất khẩu (Hội
đồng Lý luận Trung ương, 2021, 134).
Hai là, nêu rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Điểm
mới nổi bật chính là trong mối quan hệ này bổ sung thêm nhân tố xã hội. Trong đó
cũng nêu rõ vai trò của Nhà nước, thị trường và xã hội trong mối quan hệ chung. Nhà
nước thực hiện chức năng xây dựng và quản lý thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, cơ chế, chính sách, phân bổ nguồn lực phát triển theo cơ chế thị trường. Đổi mới
mạnh mẽ phương thức quản lý nhà nước về kinh tế theo hướng chuyển giao những
công việc Nhà nước không nhất thiết phải làm cho các tổ chức xã hội. Thị trường đóng
vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động lực huy động,
phân bổ hiệu quả các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt động
của doanh nghiệp, thanh lọc những những doanh nghiệp yếu kém. Các tổ chức xã hội
có vai trò tạo sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những vấn đề phát sinh giữa
các thành viên; đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành viên trong quan hệ với các chủ
thể, đối tác; cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các thành viên; phản ánh nguyện vọng, lợi ích
của các tầng lớp nhân dân với Nhà nước và tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính
sách của Nhà nước, giám sát các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong
việc thực thi pháp luật, công vụ.
Ba là, xác định hoàn thiện đồng bộ thể chế KTTT nói chung, nhưng tập trung vào
tháo gỡ những điểm nghẽn đang cản trở sự phát triển KTTT của nước ta và nâng cao chất
lượng thể chế. Cụ thể là hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế KTTT định hướng
XHCN, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; nâng
cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia, xây dựng và thực thi pháp luật, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch. Thực tiễn phát triển KTTT ở nước ta đã xác định một
trong những cản trở chính là hệ thống pháp luật còn chưa hoàn thiện, chồng chéo,
ảnh hưởng đến phát triển nói chung. Đồng thời, trước yêu cầu phát triển mới, đặc
biệt tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhiều ngành nghề mới ra
10
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

đời cần phải có môi trường pháp lý bảo đảm cho sự phát triển. Mặt khác, tiếp tục
đẩy mạnh cải cách hành chính một cách quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, cải thiện,
nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình
đẳng, minh bạch. Phấn đấu đến năm 2030 môi trường kinh doanh của Việt Nam
được xếp trong nhóm 30 quốc gia hàng đầu. Văn kiện Đại hội XIII đề cập nội dung
hoàn thiện thể chế để tháo gỡ các điểm nghẽn, các rào cản của KTTT như thể chế
xây dựng và hoàn thiện pháp luật, thể chế hình thành thị trường các yếu tố thị
trường, các loại thị trường, thể chế thúc đẩy phát triển doanh nghiệp… Mục tiêu
quan trọng là nâng cao chất lượng thể chế.
Bốn là, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh
tế quốc tế. Điểm mới nổi bật ở nội dung này là xác định rõ mối quan hệ biện chứng
giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Thực tiễn 35 năm đổi mới đã khẳng định
mở cửa, hội nhập quốc tế, trong đó, hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần quan
trọng vào những thành tựu to lớn mà đất nước đã đạt được. Đồng thời, chính mở
cửa, hội nhập quốc tế sâu rộng đã tạo ra áp lực để Việt Nam cải cách, đổi mới thành
công. Tuy nhiên, quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế cũng cho thấy cần giải quyết
tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Đặc biệt, qua các cuộc
khủng hoảng, hoặc những biến động của thế giới cho thấy, để hội nhập thành công
phải có nội lực mạnh, đồng thời phải đa phương hóa, đa dạng hóa các đối tác, các
thị trường để tránh những rủi ro và lệ thuộc. Vì vậy, phải nâng cao năng lực nội tại
nền kinh tế quốc dân mới có thể hội nhập thành công, tránh lệ thuộc vào một đối
tác, một thị trường.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đưa ra quan niệm phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và
sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường
lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm
của thế giới” (Nguyễn, 2022, 25).
Từ thực tiễn quá trình đổi mới, nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam về cơ
bản đã hội đủ các yếu tố của nền KTTT hiện đại theo các chuẩn mực quốc tế, như đa
dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, tự do sản xuất, kinh doanh, lưu
thông những hàng hóa mà pháp luật không cấm, các chủ thể kinh tế cạnh tranh bình
đẳng, hệ thống các loại thị trường phát triển ngày càng đồng bộ…; vai trò của nhà

11
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

nước về quản lý kinh tế đã được đổi mới, như quản lý bằng luật pháp, chính sách,
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và sử dụng nguồn lực kinh tế của nhà nước, không
can thiệp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh tế, ổn định kinh
tế vĩ mô, hạn chế, khắc phục khuyết tật của cơ chế thị trường,… Trong điều kiện đó,
các quy luật của KTTT vận hành đồng bộ, các chủ thể kinh tế cạnh tranh để tồn tại và
phát triển; giá cả hàng hóa cơ bản do thị trường quyết định; sản xuất và lưu thông
hàng hóa phải chú ý đến tín hiệu giá cả, quan hệ cung - cầu trên thị trường; thị trường
đóng vai trò trực tiếp điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa, điều tiết hoạt động
của các chủ thể kinh tế, huy động và phân bổ các nguồn lực của sản xuất,… Các yếu
tố bảo đảm định hướng XHCN của nền KTTT gắn với vai trò quản lý của Nhà nước
pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo để hạn chế, khắc phục
những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh
tế, ổn định xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên và môi trường, phát triển nhanh và bền vững đất nước,…
5. KẾT LUẬN
“Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã chứng minh rằng, phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết
được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển
kinh tế. Những kết quả, thành tích đặc biệt đạt được của Việt Nam trong bối cảnh đại
dịch Covid-19 và suy thoái kinh tế toàn cầu bắt đầu từ đầu năm 2020 được nhân dân
và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta” (Nguyễn, 2022, 33). Thực tế đó đã chứng minh và khẳng định sự
đúng đắn, khoa học, hiệu quả của việc sử dụng KTTT định hướng XHCN làm
“phương tiện” và “mục đích” để xây dựng CNXH ở Việt Nam trên cả phương diện
lý luận và thực tiễn. Những thành tựu này tạo tiền đề, điều kiện, nền tảng quan trọng
để nước ta tiếp tục công cuộc đổi mới và phát triển trong thời gian tới; càng khẳng
định chủ trương, quan điểm, nhận thức về phát triển mô hình kinh tế tổng quát trong
TKQĐ đi lên CNXH ở Việt Nam, đặc biệt là những điểm mới trong Văn kiện Đại hội
XIII, thể hiện nhất quán, sáng tạo ba nguyên tắc cơ bản trong xây dựng các văn kiện
của Đảng là: kế thừa và phát triển, kiên định và đổi mới, kết hợp nhuần nhuyễn thực tiễn và
lý luận phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại mới.

12
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Bùi, Q. T., & Hà, H. N. (2021). Kinh tế Việt Nam năm 2020 và triển vọng năm
2021. Tạp Chí Cộng Sản, 958, 77-83.
[2]. Bùi, Q. T., & Hà, H. N. (2022). Kinh tế Việt Nam năm 2021 và triển vọng năm
2022. Tạp chí Cộng sản, 983, 66-71.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1987). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
Chính trị Quốc gia.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII.
Chính trị quốc gia.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1996). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII. Chính trị quốc gia.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
Chính trị quốc gia.
[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
Chính trị quốc gia.
[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Chính trị quốc gia.
[9]. Đảng Cộng sản Việt Nam,. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
Chính trị Quốc gia.
[10]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
(Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[11]. Hội đồng Lý luận Trung ương. (2021). Những điểm mới trong các Văn kiện Đại
hội XIII của Đảng. Chính trị quốc gia.
[12]. Nguyễn, P. T. (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính trị quốc gia - Sự thật.
[13]. Nguyễn, X. P. (2021, March 28). Đánh giá tình hình thực hiện Chiến lược phát triển
kinh tế xã hội 10 năm 2011 - 2020 và phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế xã
hội 5 năm 2016 - 2020. Hội nghị trực tuyến toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán
triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Hà Nội.

13
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI


Ở VIỆT NAM VÀ VẬN DỤNG VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN NAY

Lương Hữu Bắc, Trần Thị Lệ Thanh


Trường Đại học Nguyễn Huệ
Tác giả liên hệ: Trần Thị Lệ Thanh, email: tranlethanhlq2@gmail.com

Tóm tắt: Trong di sản Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta, tư tưởng về chủ nghĩa xã hội
và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là nội dung đặc biệt quan trọng, giữ vị trí
xuyên suốt trong các bài viết, bài nói của Người; đây cũng chính là mục tiêu, con
đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta lựa chọn. Những thắng lợi của
toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam kể từ năm 1930 đến nay đã khẳng định tính
đúng đắn của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội
phù hợp với đặc điểm của Việt Nam. Tất nhiên, trong điều kiện mới, nhất là bối cảnh
trong nước và quốc tế có những đổi thay nhanh chóng, diễn biến phức tạp, khó lường
thì việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
cần được nghiên cứu và thực hiện một cách khoa học, sáng tạo.
Từ khóa: Hồ Chí Minh; chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; đổi mới.

1. ĐI THEO CON ĐƯỜNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA - KẾT QUẢ QUÁ TRÌNH
HỒ CHÍ MINH KHẢO CỨU, LỰA CHỌN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU DÂN TỘC VÀ
THỜI ĐẠI
Từ nửa cuối thế kỷ XIX đến trước khi thành lập Đảng, nhiều phong trào
đấu tranh kiên cường chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta nổ ra nhưng lần lượt
bị thất bại. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Từ ngày bị đế quốc xâm chiếm, nước
ta là một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót
sắt của kẻ thù hung ác. Trong mấy mươi năm khi chưa có Đảng, tình hình đen
tối như không có đường ra” (Hồ, 2011j, 401). Đất nước ta vẫn chìm trong “màn
đen tối”, nhân dân vẫn chịu kiếp lầm than nô lệ của kẻ thù ngoại bang, Tổ quốc
đang khẩn thiết có được con đường vừa giải phóng dân tộc, đồng thời giải
phóng giai cấp.

14
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Để tìm được con đường cách mạng đáp ứng yêu cầu dân tộc và thời đại,
Nguyễn Ái Quốc đã khảo cứu, lựa chọn con đường giải phóng dân tộc Việt Nam.
Năm 1920, tại nước Pháp, Nguyễn Ái Quốc đọc “Sơ thảo Luận cương của Lênin về vấn
đề dân tộc và thuộc địa” đăng Báo L'Humanité (Báo Nhân đạo, số ra ngày 16 và 17
tháng 7 năm 1920), làm cho Người “rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết
bao”, “vui mừng đến phát khóc lên”. Ngồi một mình trong phòng mà Người nói to
như nói trước đông đảo quần chúng: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái
cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Từ đó, Nguyễn Ái
Quốc hoàn toàn tin theo V.I.Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba” (Hồ, 2011j, 562), quyết
đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Sau này, trong tác phẩm
Đường Cách mạng, Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều,
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa
Lênin” (Hồ, 2011b, 289) và “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách
nô lệ” (Hồ, 2011j, 563).
Sau thời gian chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức và cán bộ, Nguyễn Ái
Quốc chủ trì thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng 2 năm 1930 tại Cửu
Long - Hương Cảng - Trung Quốc, bước đầu vạch ra đường lối cách mạng để sau
này Đảng từng bước bổ sung hoàn thiện, đó là: (1) Cách mạng Việt Nam trải qua
hai giai đoạn: cách mạng tư sản kiểu mới, tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa mà
theo ngôn ngữ của Người thì “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” (Hồ, 2011c, 1). (2) Trước hết là thực hiện
nhiệm vụ cách mạng tư sản dân quyền, chủ yếu là vấn đề dân tộc và dân chủ, tiếp
đó làm các nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa, hướng đất nước đi lên chế độ
cộng sản. (3) Lực lượng của cách mạng Việt Nam lấy công - nông làm nòng cốt,
đồng thời tập hợp, lôi kéo các tầng lớp khác trong xã hội như trí thức, trung nông,
địa chủ yêu nước, tư sản có cảm tình với cách mạng, thực hiện chính sách đại đoàn
kết toàn dân tộc. (4) Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo là nhân tố quyết định thắng
lợi của cách mạng Việt Nam. (5) Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới, có mối quan hệ chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Đó chính
là kết quả của quá trình Hồ Chí Minh khảo cứu, đi đến lựa chọn con đường chủ
nghĩa xã hội cho dân tộc Việt Nam.

15
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

2. NHỮNG LUẬN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA


XÃ HỘI VÀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Lần đầu tiên Người dùng thuật ngữ chủ nghĩa là ở bài “Chính sách thuộc địa”
viết năm 1920 và lần cuối trong bài “Nói chuyện với các đồng chí lãnh đạo Tổng
công đoàn Việt Nam” ngày 19 tháng 7 năm 1969. Trong 15 tập Hồ Chí Minh toàn tập
thuật ngữ “chủ nghĩa xã hội” xuất hiện 1065 lần, “xây dựng chủ nghĩa xã hội” xuất
hiện 573 lần. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã
hội nổi lên ở một số luận điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về khái niệm, bản chất, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh không
định nghĩa về chủ nghĩa xã hội với những tiêu chí đầy đủ, hoàn chỉnh của một mô
hình lý tưởng được xây dựng sẵn trong tư tưởng để từ đó bắt thực tiễn phải đi theo
khuôn theo, mà Người chỉ gợi ra cái cốt lõi rồi dần theo yêu cầu cách mạng để tiếp
tục bổ sung.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là một xã hội “dân giàu nước mạnh”, trong đó
“mọi người dân được ăn no mặc ấm, sung sướng, tự do”, một “xã hội ngày càng tiến, vật
chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt” (Hồ, 2011h, 390). Xây dựng chủ nghĩa xã
hội là một cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử loài người, làm “thay đổi cả xã
hội, thay đổi cả thiên nhiên, làm cho xã hội không còn người bóc lột người, không
còn đói rét, mọi người đều được ấm no và hạnh phúc” (Hồ, 2011e, 28). Theo Người,
chủ nghĩa xã hội không chỉ là ước mơ, lý tưởng mà cần phải thực hiện từng bước
ngay ở nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân
lao động” (Hồ, 2011k, 30). Mục tiêu “trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động
thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống
một đời hạnh phúc”, “làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng,
ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những
phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ”, về lâu dài thì “tất cả mọi người
các dân tộc ngày càng ấm no, con cháu chúng ta ngày càng sung sướng” (Hồ, 2011j,
415). Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật
chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, xây dựng nền công nghiệp và nông nghiệp
hiện đại, văn hoá và khoa học tiên tiến; “cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh
tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài” (Hồ, 2011j, 411-412).

16
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Về động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội: quyết định nhất là con người, vì con người
- nhân dân lao động là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, quyết định sự thành bại của mọi
cuộc cách mạng. Trong thực hiện, phải kết hợp giữa cá nhân (sức mạnh cá thể) với
xã hội (sức mạnh cộng đồng), cần kết hợp nguồn lực bên trong với nguồn lực bên
ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nội lực là quyết định nhất, ngoại
lực là rất quan trọng. Theo Người, “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần
có những con người xã hội chủ nghĩa”. Truyền thống yêu nước của dân tộc, sự cố
kết cộng đồng, sức lao động sáng tạo của nhân dân là sức mạnh tổng hợp tạo nên
động lực quan trọng của chủ nghĩa xã hội. Người luôn xây đắp khối đoàn kết dân
tộc và nhấn mạnh: đoàn kết, đại đoàn kết toàn dân là nguồn sức mạnh vô địch.
Cùng với động lực tinh thần, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh tế,
sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất vì ích nước, lợi nhà.
Thứ hai, về bước đi, lộ trình xây dựng chủ nghĩa xã hội: khi thành lập Đảng năm
1930, Người vạch rõ lộ trình cách mạng Việt Nam đi từ cách mạng tư sản dân quyền
tiến lên xã hội cộng sản. Tháng 8 năm 1944, Người khẳng định: “Chủ nghĩa cộng
sản sẽ chưa được thực hiện ở Việt Nam trong vòng 50 năm tới” (Nguyễn, 2012, 158).
Giai đoạn 1945 -1954, Hồ Chí Minh và Đảng ta đưa ra khẩu hiệu “kháng chiến, kiến
quốc”: kháng chiến để hoàn thành giải phóng dân tộc, kiến quốc nhằm xây dựng chế
độ mới - chế độ dân chủ nhân dân. Từ năm 1946, khi đang ở thăm nước Pháp, có
nhà báo phỏng vấn về thời gian Việt Nam đạt đến chủ nghĩa cộng sản, Hồ Chí Minh
trả lời: “Muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần phải có kỹ nghệ, nông
nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình. Ở nước
chúng tôi, những điều kiện ấy chưa có đủ” (Hồ, 2011d, 315). Tháng 1 năm 1949, tại
Hội nghị cán bộ Đảng lần thứ 6, Người nói: “Những vấn đề thảo luận thì nhiều,
nhưng đều hướng vào một đường đi: kháng chiến thắng lợi, xây dựng dân chủ mới
để tiến tới chủ nghĩa xã hội” (Hồ, 2011e, 15).
Năm 1953, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp sắp kết thúc, Người
chỉ rõ: “Tùy hoàn cảnh mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau. Có
nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) như Liên Xô. Có nước thì phải
kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản) như các nước
Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam ta…”. Đối với nước ta, “mục đích kháng chiến
để đập tan ách đế quốc, phong kiến, giải phóng dân tộc, làm cho nước Việt Nam

17
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

độc lập, thống nhất thực sự, thực hiện chế độ dân chủ mới, tiến tới chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản” (Hồ, 2011f, 216). Với diễn đạt đó của Người, chúng ta có thể
hiểu chế độ dân chủ mới là một chế độ dân chủ do chính nhân dân xây dựng, quyền
lực quản lý xã hội thuộc về nhân dân được đảm bảo bằng pháp luật của Nhà nước
xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta chính thức bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc từ năm 1954, trong điều kiện miền Nam chưa được giải phóng, đất
nước chưa thống nhất. Người viết: “Từ khi kháng chiến thắng lợi và hòa bình lập
lại, cách mạng Việt Nam đã chuyển sang một giai đoạn mới. Miền Bắc nước ta
hoàn toàn giải phóng dưới chế độ dân chủ nhân dân, đã bước vào thời kỳ quá độ tiến
lên chủ nghĩa xã hội” (Hồ, 2011a, 367). Đến năm 1961, sau khi Đại hội III của Đảng đề
ra phương châm: tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Phải thiết thực đi từng bước, phải tiến vững chắc. Phải
nắm vững quy luật phát triển của cách mạng, phải tính toán cẩn thận những điều
kiện cụ thể, những biện pháp cụ thể. Kế hoạch phải chắc chắn, cân đối. Chớ đem chủ
quan của mình thay cho điều kiện thực tế. Phải chống bệnh chủ quan, tác phong quan
liêu, đại khái. Phải xây dựng tác phong điều tra, nghiên cứu trong mọi công tác cũng
như trong khi định ra mọi chính sách của Đảng và của Nhà nước” (Hồ, 2011k, 70).
Thứ ba, nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Về chính trị, đó là xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và phú cường. Dân chủ về chính trị được thể hiện ở việc bảo đảm quyền
công dân trong bầu cử, ứng cử, lựa chọn và bãi miễn các đại biểu trong cơ quan dân
cử, và cán bộ do cơ quan dân cử bầu; quyền kiểm tra và giám sát hoạt động của cơ
quan nhà nước; quyền được tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến vào các chính sách,
chủ trương, những quyết định quan trọng và được trả lời kịp thời những vấn đề do
nhân dân nêu ra, bao gồm cả trưng cầu ý kiến nhân dân, nhân dân trực tiếp bỏ phiếu
quyết định các vấn đề trọng đại, sống còn của đất nước; quyền tham gia xây dựng
luật pháp và đòi hỏi nhà nước thực hiện đúng pháp luật; quyền bảo vệ chế độ chính
trị, xã hội, bảo vệ hệ thống quyền lực của nhân dân, chống lại mọi hành động phá
hoại của các thế lực thù địch.
Theo Hồ Chí Minh, để thực hiện tốt nội dung dân chủ về chính trị cần phải
giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đáp ứng
18
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

yêu cầu, nhiệm vụ mới. Củng cố, mở rộng mặt trận thống nhất, nòng cốt là liên
minh công - nông - trí thức do Đảng lãnh đạo; củng cố và tăng cường sức mạnh toàn
bộ hệ thống chính trị và các thành tố của nó. Người chỉ rõ: “Cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa đòi hỏi đảng viên và cán bộ phải có lập trường giai cấp vô sản thật vững
chắc, giác ngộ về chủ nghĩa xã hội cao”, “rửa sạch chủ nghĩa cá nhân, rèn luyện chủ
nghĩa tập thể”, “khắc phục các bệnh quan liêu và cô độc hẹp hòi”, “phát huy được
đầy đủ tính sáng tạo của hàng triệu quần chúng nhân dân” (Hồ, 2011i, 93). Ở
phương diện tổ chức xã hội, nhiệm vụ chính trị của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt
Nam “chỉ lo làm lợi cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, ngày càng được
tiến bộ về vật chất và tinh thần, làm cho trong xã hội không có người bóc lột người”.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải đoàn kết được dân tộc, “phát triển quyền dân chủ
và sinh hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sức sáng tạo của
nhân dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công
việc Nhà nước, ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội” (Hồ, 2011j, 374).
Về kinh tế, Người chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều
hình thức sở hữu, ưu tiên phát triển nông nghiệp nhưng phải xây dựng hợp lý cơ
cấu công - nông nghiệp, khuyến khích lợi ích cá nhân hợp pháp, mở cửa nền kinh
tế. Năm 1953, Hồ Chí Minh chỉ rõ ở vùng tự do của ta còn tồn tại 6 thành phần kinh
tế là: (1) Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô. (2) Kinh tế quốc doanh có tính
chất chủ nghĩa xã hội. (3) Các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp, có tính
chất nửa chủ nghĩa xã hội. (4) Kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ,
họ thường tự túc, ít có gì bán và cũng ít khi mua gì. (5) Kinh tế tư bản của tư nhân.
Họ bóc lột công nhân, nhưng đồng thời họ cũng góp phần vào xây dựng kinh tế. (6)
Kinh tế tư bản quốc gia là Nhà nước hùn vốn với tư nhân để kinh doanh và do Nhà
nước lãnh đạo. Trong loại này, “tư bản của tư nhân là chủ nghĩa tư bản. Tư bản của
Nhà nước là chủ nghĩa xã hội” (Hồ, 2011f, 266).
Nhưng về lâu dài, để phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội, Hồ Chí Minh chỉ ra 5 loại kinh tế khác nhau, đó là: “A- Kinh tế quốc doanh
(thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân dân). B- Các hợp tác xã (nó là
nửa chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội). C- Kinh tế của cá nhân, nông
dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội).
D- Tư bản của tư nhân. E- Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản

19
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

tư nhân để kinh doanh). Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển
mau hơn cả. Cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không
theo hướng chủ nghĩa tư bản” (Hồ, 2011f, 293-294 ). Đây chính là nền kinh tế nhiều
thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang thực hiện.
Đến năm 1959, Người chỉ rõ trong nước ta hiện nay có những hình thức sở
hữu chính về tư liệu sản xuất như sau: (1) Sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân.
(2) Sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động. (3) Sở hữu
của người lao động riêng lẻ. (4) Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản.
Người cũng căn dặn, “mục đích của chế độ ta là xoá bỏ các hình thức sở hữu không
xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế gồm nhiều thành phần phức tạp trở thành
một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể”.
Trong đó, “kinh tế quốc doanh là hình thức sở hữu của toàn dân, nó lãnh đạo nền
kinh tế quốc dân và Nhà nước phải đảm bảo cho nó phát triển ưu tiên”. Còn “kinh
tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động; nhà nước đặc biệt
khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ cho nó phát triển” (Hồ, 2011j, 372-373).
Để xây dựng và phát triển nền kinh tế có nhiều thành phần, Hồ Chí Minh đưa
ra bốn chính sách mấu chốt là: (1) Công tư đều lợi. (2) Chủ thợ đều lợi. (3) Công
nông giúp nhau. (4) Lưu thông trong ngoài (Hồ, 2011f, 267). Đồng thời, Người cũng
có quan điểm khách quan với kinh tế tư bản tư nhân trong nước vì nhìn thấy “giai
cấp tư sản ở ta thì họ có xu hướng chống đế quốc, có xu hướng yêu nước”, cho nên,
“nếu mình thuyết phục khéo, lãnh đạo khéo, họ có thể hướng theo chủ nghĩa xã hội”
(Hồ, 2011h, 391). Bên cạnh đó, Người cũng rất quan tâm đến đầu tư về nước của
Việt kiều: “Các bạn, người buôn bán, kinh doanh, tiểu thương, tiểu chủ, công nhân
và trí thức, đã chung sống với nhân dân Việt Nam. Các bạn đã khai cơ lập nghiệp ở
Việt Nam. Những hoạt động chính đáng về kinh tế và văn hóa của các bạn cũng có
lợi cho Việt Nam. Vì vậy tôi khuyên các bạn: Các bạn cứ yên lòng làm ăn như thường.
Nhân dân và Chính phủ Việt Nam sẽ giúp đỡ và bảo hộ các bạn”(Hồ, 2011g, 80).
Về văn hóa - xã hội, thực hiện công bằng xã hội, dần xóa bỏ bóc lột, nhấn mạnh
việc xây dựng con người, đề cao vai trò văn hóa, giáo dục và khoa học kỹ thuật,
“văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Theo Người, muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội nhất định phải có học thức, cần học cả văn hóa, chính trị, kỹ thuật vì “chủ nghĩa
xã hội cộng với khoa học, chắc chắn đưa loại người đến hạnh phúc vô tận”. Người

20
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

coi trọng nâng cao dân trí, sử dụng nhân tài, giữ gìn và phát huy truyền thống văn
hóa dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại, xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có
tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng (Hồ, 2011j, 604). Từ năm 1947, Người viết tác
phẩm Đời sống mới, có ý nghĩa về xây dựng văn hóa, con người Việt Nam với nhiều
vấn đề thiết thực như: “sửa đổi cách ăn, mặc, ở, đi lại, làm việc”, xây dựng văn hóa
học đường, văn hóa công sở, văn hóa quân nhân, văn hóa ứng xử nơi công cộng,
văn hóa gia đình - dòng họ - làng nước, văn hóa sản xuất kinh doanh, nhất là đối
với việc xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh hiện nay.
Về xây dựng con người, Người khẳng định muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải
có người xã hội chủ nghĩa và muốn thành người xã hội chủ nghĩa, phải có tư tưởng
và tác phong xã hội chủ nghĩa. Do đó, phải có tinh thần làm chủ đất nước, đặt lợi ích
của giai cấp và dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, chống thói kèn cựa, suy bì, ích kỷ; phải
có lề lối làm việc xã hội chủ nghĩa tức là siêng năng, khẩn trương, khiêm tốn, luôn
luôn cố gắng tiến bộ làm tròn nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao cho. Phải chống
chủ nghĩa cá nhân vì “tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại.
Lúa phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ dại không cần chăm sóc
cũng mọc lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có được. Còn tư
tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ”. Phải thực hiện phương
châm “khổ trước, sướng sau”. Vì hạt nhân của xã hội là gia đình nên muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội thì phải chú ý hạt nhân cho tốt, phải thật sự giải phóng phụ nữ và
tôn trọng quyền lợi của phụ nữ (Hồ, 2011j, 123, 222,705, 300).
Thứ tư, về phương châm, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Xuất phát từ thực tiễn đất nước để đề ra phương châm, biện pháp, mục tiêu
thiết thực; xây dựng chủ nghĩa xã hội “phải có kế hoạch, biện pháp, đặc biệt là quyết
tâm (chỉ tiêu 1, biện pháp 10, quyết tâm 20) để thực hiện thắng lợi kế hoạch đã đề ra”
(Hồ, 2011e, 286).
- Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng: “Mục đích của Đảng là lãnh
đạo nhân dân kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công, thực hiện dân chủ mới,
tiến đến chủ nghĩa xã hội, rồi đến chủ nghĩa cộng sản” (Hồ, 2011f, 290). Vì “muốn
xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà xa rời sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và của
Đảng, là một điều không thể tưởng tượng” (Hồ, 2011g, 273). “Để làm tròn nhiệm
vụ vẻ vang ấy, mỗi cán bộ, đảng viên và đoàn viên thanh niên lao động cần phải:
21
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Tuyệt đối phục tùng lợi ích của Đảng và của nhân dân; gột rửa cho sạch hết chủ
nghĩa cá nhân, bồi dưỡng tư tưởng xã hội chủ nghĩa; thấm nhuần sâu sắc đạo đức
cách mạng là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tác phong phải thật dân chủ,
phải tin tưởng sâu sắc và chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và chính sách của
Đảng; quyết tâm vượt mọi khó khăn làm tròn nhiệm vụ” (Hồ, 2011j, 197).
- Phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, tránh rập khuôn theo các nước. Hiện nay,
đứng về mặt xây dựng không thể giống Liên Xô vì Liên Xô có phong tục tập quán,
lịch sử địa lý khác. Người chỉ rõ: “Đảng ta nhờ kết hợp được chủ nghĩa Mác - Lênin
với tình hình thực tế của nước ta, cho nên đã thu được nhiều thắng lợi trong công
tác. Tuy vậy, việc kết hợp chân lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn của cách
mạng Việt Nam chưa được hoàn toàn. Có nhiều sai lầm là do sự thiếu kết hợp đó.
Ví dụ những sai lầm trong cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức, xây dựng kinh tế,
tuy chúng ta đã có những kinh nghiệm dồi dào của các nước anh em, nhưng chúng
ta cũng không thể áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách máy móc, bởi vì nước
ta có những đặc điểm riêng của ta. Không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình
trong khi học tập kinh nghiệm của các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là
phạm chủ nghĩa giáo điều. Nhưng nếu quá nhấn mạnh đặc điểm dân tộc để phủ
nhận giá trị phổ biến của những kinh nghiệm lớn, cơ bản của các nước anh em, thì
sẽ mắc sai lầm nghiêm trọng của chủ nghĩa xét lại. Vì vậy, song song với việc nhấn
mạnh sự quan trọng của học tập lý luận, chúng ta phải luôn luôn nhấn mạnh
nguyên tắc lý luận liên hệ với thực tế” (Hồ, 2011i, 97-98).
- Dựa vào sức dân, “lấy cần làm gốc”, phát triển khoa học kỹ thuật: Đảng cầm quyền
phải tập hợp lực lượng, đề ra đường lối nhằm huy động và khai thác các nguồn lực
trong dân để phát triển đất nước vì lợi ích của nhân dân, “đem tài dân, sức dân, của
dân làm lợi cho dân”. “Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải lấy CẦN làm gốc. CẦN là
lao động: Lao động cần cù và sáng tạo. Năng suất lao động ngày càng tăng là nguồn
no ấm của chúng ta”; “nhất định phải có học thức. Cần phải học văn hóa, chính trị,
kỹ thuật”, “học đi đôi với hành” (Hồ, 2011j, 431). “Mọi ngành, mọi người đều phải
tham gia công tác khoa học, kỹ thuật, để nâng cao năng suất lao động, sản xuất ra
nhiều của cải vật chất, để xây dựng chủ nghĩa xã hội thắng lợi (Hồ, 2011l, 97).
- Tăng sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống tham ô lãng phí: Người dạy: “Chủ nghĩa
xã hội là làm cho mọi người dân sung sướng ấm no. Muốn đạt mục đích đó, thì

22
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

trước hết phải tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm, “phải tiết kiệm, phải thắt
lưng buộc bụng”. “Muốn tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm thì phải quản lý
tốt. Muốn quản lý tốt thì cán bộ và công nhân phải thông suốt tư tưởng, phải có thái
độ làm chủ nước nhà, làm chủ xí nghiệp. Muốn quản lý tốt, phải nâng cao tinh thần
trách nhiệm, phải làm đến nơi đến chốn, làm tốt, vượt mọi khó khăn. Phải thực hiện
cán bộ tham gia lao động, công nhân tham gia quản lý”, “nâng cao ý thức trách
nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế tài chính, đồng thời kiên quyết chống tham ô,
lãng phí, quan liêu” (Hồ, 2011j, 433). “Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho
việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể
tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân” (Hồ, 2011i, 609).

3. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI


VÀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
ĐẤT NƯỚC GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Trên thực tế, nhờ chủ động, sáng tạo trong tư duy và hành động, Hồ Chí Minh
và Đảng do Người sáng lập và lãnh đạo đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam
đạt được nhiều thắng lợi. Tiếp tục vận dụng tư tưởng của Người trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN ở nước ta hiện nay, tất nhiên có nhiều nội dung cần
quán triệt và triển khai thực hiện. Trong đó, từ những quan điểm được xác định trong
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng ta, phải chăng cần quan tâm, một số điểm nổi bật sau:
Một là, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, luôn nhận
thức nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất đúng nhằm giải phóng dân
tộc, xã hội và con người như Hồ Chí Minh vạch ra. Nhiệm vụ của chúng ta là làm sáng
rõ hơn nữa lộ trình, nội dung, phương thức thực hiện con đường đó. Dù tình hình thế
giới và trong nước có khó khăn, phức tạp đến mấy, dù thế lực thù địch chống phá như
thế nào, thì trước sau như một, chúng ta vẫn kiên định mục tiêu mà Người đã vạch,
bảo đảm cho dân tộc ta có nền độc lập thật sự, đất nước ta phát triển ổn định, phồn
vinh, nhân dân ta có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Hai là, luôn bổ sung, phát triển, hoàn thiện đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội
cho phù hợp với thực tế Việt Nam và tình hình mới. Nhìn thẳng vào thực lực, đánh giá
đúng sự thật, lựa chọn bước đi phù hợp với điều kiện của mình, không nóng vội, không
nhụt chí; thẳng thắn chỉ ra những điểm về lý luận không còn phù hợp với thực tiễn để

23
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

điều chỉnh cho phù hợp. Vì như Người dạy: “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung
“cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa C.Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác
ở thời mình không thể có được...” (Hồ, 2011a, 509) và như Lênin khẳng định: “Chúng
ta không hề coi lý luận của C.Mác như một cái gì đã xong xuôi hẳn, luôn bất khả xâm
phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà
những người xã hội chủ nghĩa cần phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn
trở thành lạc hậu đối với cuộc sống” (Lênin, 1978, 232). Theo tư duy đó, chúng ta hoàn
toàn có cơ sở để bổ sung và nhất thiết phải bổ sung, phát triển được những “cơ sở lịch
sử” cho lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ba là, có kế hoạch, bước đi cụ thể, chắc chắn dựa trên thực tế Việt Nam; trên nền
tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để đổi mới đồng bộ tư duy lý
luận, kinh tế, văn hóa, xã hội... cho phù hợp với tình hình mới. Mọi chính sách của đổi
mới đều phải xuất phát từ lợi ích của dân, mọi lực lượng đều dựa vào dân, chăm lo đời
sống cho dân, tin dân, gần dân, tạo điều kiện cho dân đóng góp ý kiến. Đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, coi trọng và tạo điều kiện hơn nữa để phát huy sức mạnh kinh tế tư
nhân. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Bốn là, vừa đấu tranh với các thế lực thù địch bên ngoài, đồng thời phải kiên
trì tiêu diệt “giặc nội xâm” - chống tiêu cực, tham ô, lãng phí, chăm lo xây dựng
Đảng, làm trong sạch bộ máy Nhà nước, thực hiện cần kiệm để xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức, năng lực, có sức chiến đấu cao. Chú trọng tổng kết thực tiễn
về đổi mới và nghiên cứu lý luận để tiếp tục làm rõ những vấn đề do cuộc sống
đặt ra.

24
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Hồ, C. M. (2011a). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 1). Chính trị quốc gia.
[2]. Hồ, C. M. (2011b). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 2). Chính trị quốc gia.
[3]. Hồ, C. M. (2011c). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 3). Chính trị quốc gia.
[4]. Hồ, C. M. (2011d). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 4). Chính trị quốc gia.
[5]. Hồ, C. M. (2011e). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 6). Chính trị quốc gia.
[6]. Hồ, C. M. (2011f). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 8). Chính trị quốc gia.
[7]. Hồ, C. M. (2011g). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 9). Chính trị quốc gia.
[8]. Hồ, C. M. (2011h). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 10). Chính trị quốc gia.
[9]. Hồ, C. M. (2011i). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 11). Chính trị quốc gia.
[10]. Hồ, C. M. (2011j). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 12). Chính trị quốc gia.
[11]. Hồ, C. M. (2011k). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 13). Chính trị quốc gia.
[12]. Hồ, C. M. (2011l). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 14). Chính trị quốc gia.
[13]. Lênin, V. I. (1978). Toàn tập (Vol. 4). Tiến bộ.
[14]. Nguyễn, V. T. (2012). Góp phần nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh. Công an Nhân dân.

25
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC TRONG CÔNG TÁC CÁN BỘ

Trần Trương Gia Bảoa, Nguyễn Minh Quânb


a
Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh
b
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên hệ: Trần Trương Gia Bảo, email: baottg@hcmue.edu.vn

Tóm tắt: Công tác cán bộ được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là then chốt của then
chốt, chính vì thế trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn
nhận thức những nguy cơ và hậu quả khôn lường của sự tha hóa, mất kiểm soát
quyền lực trong công tác cán bộ. Bài viết sử dụng phương pháp phân tích nội dung
từ các văn kiện, nghị quyết, quy định của Đảng và các công trình đã công bố về kiểm
soát quyền lực và công tác cán bộ. Kết quả nghiên cứu sẽ hệ thống hóa các quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và vai trò
chủ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm
soát quyền lực trong công tác cán bộ. Từ đó, cung cấp những luận cứ khoa học giúp
nâng cao vai trò, sự lãnh đạo toàn diện của Đảng với công tác cán bộ, góp phần xây
dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có đầy đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, đạo
đức, hết lòng phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân; đáp ứng yêu cầu củng cố, tăng
cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Từ khóa: công tác cán bộ; kiểm soát quyền lực; xây dựng Đảng; Đảng Cộng sản Việt
Nam; giai đoạn hiện nay.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng công tác cán bộ vì “cán bộ là gốc của
mọi công việc” (Hồ, 2011, 309) và “muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán
bộ tốt hoặc kém” (Hồ, 2011, 280). Chính vì thế công tác cán bộ là vấn đề sống còn
của Đảng ta, tuy nhiên hiện nay, có một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên suy
thoái, biến chất và bị tha hóa bởi quyền lực. Nhận thức được những nguy cơ này,
Đảng ta đã và đang có những hành động quyết liệt để chấn chỉnh và từng bước xây
dựng tiến tới hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ.

26
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được về công tác cán bộ thì một số cán bộ
đã lợi dụng những kẻ hở của pháp luật, quy định về kiểm soát quyền lực trong công
tác cán bộ để trục lợi từ công tác cán bộ và làm cho cán bộ ngày càng thoái hóa, biến
chất. Chính vì thế việc đi sâu vào nghiên cứu và hệ thông hóa quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ sẽ củng cố cơ sở
lý luận cho việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong công tác
cán bộ trong giai đoạn hiện nay.

2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU


2.1. Lý luận về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ
Trong văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta đã đặt vấn đề: “Xây dựng quy định về
thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán
bộ; thực hiện tốt quy định về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy
chức, chạy quyền; xử lý nghiêm minh, đồng bộ kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính và
xử lý bằng pháp luật đối với cán bộ có vi phạm, kể cả khi đã chuyển công tác hoặc
nghỉ hưu.” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 178-179). Điều này cho thấy rằng
Đảng ta đã khẳng định tầm quan trọng của việc kiểm soát quyền lực trong công tác
cán bộ, xem đó là một trong những nội dung quan trọng của nhiệm vụ xây dựng,
chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay.
Kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ là một khái niệm lần đầu tiên được
Đảng ta đưa ra trong nhiệm kỳ Đại hội XII và cụ thể tại Quy định số 205-QĐ/TW
ngày 23/9/2019 của Bộ Chính trị về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ
và chống chạy chức, chạy quyền, Đảng ta xác định: “Kiểm soát quyền lực trong
công tác cán bộ là việc sử dụng cơ chế, biện pháp nhằm thực hiện nghiêm túc các
quy định về công tác cán bộ; phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện, xử lý các hành vi
vi phạm các quy định của Đảng, Nhà nước, nhất là các hành vi lợi dụng chức vụ,
quyền hạn, lạm quyền, lộng quyền hoặc không thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và những việc phải làm trên cương vị được giao trong công tác cán
bộ” (Bộ Chính trị, 2019).
Để hiểu rõ khái niệm kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, cần phải tìm
hiểu các khái niệm cán bộ và quyền lực trong công tác cán bộ. Theo Luật Cán bộ,
công chức: Cán bộ là những người được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức

27
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của hệ thống chính trị các cấp và được hưởng lương từ
ngân sách nhà nước (Quốc hội, 2008). Còn theo Từ điển tiếng Việt định nghĩa: “cán
bộ là người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước hoặc là
người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người
thường, không có chức vụ” (Hoàng, 2003, 109). Như vậy, từ những định nghĩa trên
có thể xác định cán bộ là những người đang làm việc hoặc đang giữ các chức vụ
trong các cơ quan Đảng, nhà nước và các đoàn thể. Tuy nhiên ở trường nghĩa rộng
hơn và khi nhắc đến cán bộ có nghĩa đang đề cập đến vấn đề nguồn nhân lực. Chính
vì thế, quyền lực trong công tác cán bộ được định nghĩa là: “thẩm quyền của tổ chức,
cá nhân trong việc tuyển dụng, bố trí, quản lý, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, phong, thăng cấp bậc hàm, giới thiệu ứng cử, điều
động, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật, kiểm tra, giám sát, giải quyết khiếu nại,
tố cáo và thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ” (Bộ Chính trị, 2019).
Để hình thành được khái niệm kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ nhằm
góp phần phát huy hơn nữa những mặt tích cực và khắc phục những hạn chế, yếu
kém trong công tác cán bộ Đảng ta đã phải trải qua một quá trình phát triển tư duy
lý luận từ khi chính thức cầm quyền ở nước ta cho đến nay.
2.2. Quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về kiểm soát
quyền lực trong công tác cán bộ
2.2.1. Giai đoạn trước đổi mới
Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới được thành lập, Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến vấn đề kiểm soát quyền lực trong công
tác cán bộ nhằm ngăn chặn, phòng ngừa nguy cơ suy thoái, tha hóa của đội ngũ cán
bộ, đảng viên. Bằng tư duy chính trị nhạy bén, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nguyên nhân
của sự suy thoái, tha hóa quyền lực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên đó chính là từ
chủ nghĩa cá nhân, vì nó mà một số cán bộ, đồng chí đã lạm dụng quyền lực mà
nhân dân giao phó để trục lợi, tham ô, hủ hóa. Ngoài ra, Người đã chỉ rõ bốn nhiệm
vụ trọng tâm của của công tác bộ gồm: “Huấn luyện cán bộ; dạy và dùng cán bộ;
lựa chọn cán bộ và chính sách cán bộ” (Hồ, 2011, 309).
Vận dụng những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác cán bộ,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện quan điểm, chủ trương xây

28
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

dựng, chỉnh đốn, chăm lo bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đại hội đại biểu
lần thứ III năm 1960 của Đảng đã khẳng định: “Vấn đề cán bộ là một vấn đề rất
quan trọng trong công tác tổ chức của Đảng, bởi vì cán bộ là người có nhiệm vụ
đem đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng tuyên truyền, giáo dục quần chúng
và tổ chức quần chúng thực hiện. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong giai
đoạn cách mạng hiện nay, nhất định Đảng ta phải làm tốt công tác cán bộ, phải ra
sức nâng cao trình độ hiểu biết và năng lực công tác của cán bộ” (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 2002, 647-648).
2.2.2. Giai đoạn sau đổi mới
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đại hội VI đặt ra nhiệm vụ phải đổi mới về công tác
cán bộ và đội ngũ cán bộ; kiên quyết chống lại những hiện tượng tiêu cực, lạm dụng
chức quyền trong việc quản lý, đánh giá, bổ nhiệm cán bộ và thực hiện dân chủ hóa
công tác cán bộ. Báo cáo chính trị Đại hội khẳng định: “Chống tệ quan liêu, cửa
quyền trong công tác lựa chọn, bố trí cán bộ. Dân chủ hóa công tác cán bộ bằng
những quy chế rõ ràng… Cơ chế quản lý cán bộ có đúng thì sự đánh giá cán bộ mới
chính xác, mới phát hiện, đề bạt được cán bộ tốt, thay đổi những người xấu và yếu
kém, loại trừ những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi và những động cơ không lành mạnh
trong công tác cán bộ” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006, 469).
Kế thừa những quan điểm của Đại hội VI, Đại hội VII của Đảng đã yêu cầu
phải tiếp tục đẩy mạnh xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh và đồng bộ bằng
những quy định, tiêu chuẩn cho từng loại, từng chức danh cán bộ để đào tạo, bố trí
và sử dụng cán bộ, “chấm dứt tình trạng bố trí cán bộ theo kiểu thân quen, cảm tính
chủ quan” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2007, 123).
Tại Đại hội VIII, Đảng đã đề ra nhiệm vụ xây dựng chiến lược cán bộ thời kỳ
đổi mới. Đảng phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, có quy chế rõ ràng, chặt chẽ
về công tác cán bộ, đổi mới quan niệm và phương pháp đánh giá, bố trí cán bộ một
cách khách quan, công tâm, phải “căn cứ vào những việc làm cụ thể của mỗi người
cả ưu điểm và khuyết điểm, trong từng thời gian nhất định. Những nhận xét, kết
luận về cán bộ, mọi công việc về nhân sự nhất thiết phải do tập thể có thẩm quyền
quyết định. Khắc phục cách làm đơn giản, thành kiến, thiếu công tâm, dân chủ hình
thức” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2015b, 421). Tiếp sau đó, Hội nghị Trung ương lần
thứ ba khóa VIII đã ban hành Nghị quyết về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công
29
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nghị quyết đã khẳng định mục tiêu của chiến lược
cán bộ thời kỳ mới là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức các cấp từ trung ương
đến cơ sở, đặc biệt là cán bộ đứng đầu, có phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh chính
trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, đủ về số lượng, đồng bộ về
cơ cấu…” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2015a, 343). Đồng thời, Nghị quyết còn đề cập
những nhiệm vụ, phương hướng, giải pháp trọng tâm để khắc phục những hạn chế,
yếu kém, nguy cơ tha hóa, lạm quyền trong công tác cán bộ. Theo đó, công tác quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải có tầm nhìn xa, lấy tiêu chuẩn cán bộ làm căn
cứ xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng. Chú trọng đánh giá cán bộ bằng tiêu
chuẩn, hiệu quả công việc thực tế. Công tác bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ phải
được thực hiện theo đúng pháp luật của Nhà nước và Điều lệ của Đảng, xây dựng
và thực hiện quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm một cách khách quan, công bằng. Công
tác kiểm tra, giám sát cán bộ phải tạo điều kiện để nhân dân giám sát các công việc,
phẩm chất của cán bộ và bảo đảm thực hiện quyền khiếu nại của nhân dân đối với
cán bộ.
Những chủ trương của Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung
ương khóa VIII, chính là cơ sở để Đại hội IX và Đại hội X của Đảng tiếp tục hoàn
thiện, đổi mới toàn diện về công tác cán bộ, bảo đảm dân chủ, khoa học trong mọi
khâu của công tác cán bộ, để từ đó tuyển chọn, đào tạo những cán bộ có năng lực,
đạo đức, “thay thế kịp thời những người kém năng lực và kém phẩm chất, có khuyết
điểm nghiêm trọng. Khắc phục những biểu hiện cá nhân, cục bộ, không công tâm,
nể nang, tuỳ tiện trong công tác cán bộ” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2018, 228).
Đến đại hội XI, Đảng đã quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức,
mỗi cấp, người đứng đầu về công tác cán bộ, hoàn thiện các tiêu chí đánh giá, kiểm
tra, giám sát cán bộ để kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ. Báo cáo chính trị
Đại hội khẳng định: “Đánh giá và sử dụng đúng cán bộ trên cơ sở những tiêu chuẩn,
quy trình đã được bổ sung, hoàn thiện, lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín nhiệm
của nhân dân làm thước đo chủ yếu… Có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp
chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tội, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy huân
chương” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 261). Nhận thức được những nguy cơ tha
hóa quyền lực trong đội ngũ cán bộ đảng viên, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4
khóa XI về Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay đã yêu cầu phải thực

30
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

hiện đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái trong đội ngũ cán bộ, đảng
viên và tập trung xây dựng đội ngũ lãnh đạo cán bộ quản lý các cấp đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ. Đồng thời, phải tạo được chuyển biến mạnh mẽ trong công tác cán
bộ bằng việc hoàn thiện cơ chế chính sách, thay thế, loại bỏ những chính sách cũ,
lạc hậu tạo ra kẻ hở cho việc lạm dụng quyền lực, Nghị quyết khẳng định: “sửa đổi,
bổ sung hoặc ban hành mới các quy định của Đảng và Nhà nước theo hướng đề cao
hơn trách nhiệm và quyền hạn của người đứng đầu trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc
tập thể, vừa phải phát huy vai trò cá nhân người đứng đầu; Xây dựng, bổ sung,
hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch trong
công tác cán bộ; loại trừ khả năng để cán bộ và người thân của cán bộ lợi dụng chức
vụ, vị trí công tác để trục lợi” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2012, 34-35).
Đại hội lần thứ XII của Đảng đánh dấu sự đột phá trong quan điểm, chủ
trương của Đảng về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ khi vấn đề này
được đề cập trực tiếp trong Báo cáo chính trị Đại hội: “Đổi mới, kiện toàn tổ chức
bộ máy phải gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức; xác định rõ quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ
trách; quyền hạn đi đôi với trách nhiệm và đề cao trách nhiệm của người đứng
đầu. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự
lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 203).
Trong nhiệm kỳ này, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết chuyên đề liên quan đến
kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, đầu tiên là Hội nghị lần thứ tư Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết về Tăng cường xây
dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, Nghị quyết đã đặt
ra nhiệm vụ nâng cao hiệu quả công tác cán bộ và đề ra các giải pháp đẩy lùi tình
trạng suy thoái, lạm dụng, tha hóa quyền lực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên,
“kiên quyết khắc phục những yếu kém trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ;
xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có
bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, trách nhiệm, năng lực và động cơ đúng
đắn, thực sự tiên phong, gương mẫu, luôn đặt lợi ích của tập thể, quốc gia, dân tộc
lên trên lợi ích cá nhân, thực sự là cán bộ của dân, phục vụ nhân dân” (Đảng Cộng
sản Việt Nam, 2021a, 20). Cấp ủy Đảng phải lãnh đạo, thực hiện những giải pháp

31
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

về công tác chính trị tư tưởng, tự phê bình và phê bình và giải pháp cơ chế, chính
sách nhằm kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ việc thực thi quyền lực. Rà soát, hoàn thiện
các quy định, về quản lý, điều hành bảo đảm công khai, minh bạch, xóa bỏ cơ chế
xin - cho, duyệt - cấp; ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực, lợi ích nhóm trong sử dụng, quản lý
cán bộ. Kế thừa và phát triển những quan điểm về đổi mới công tác cán bộ gắn với
việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực, Nghị quyết Hội nghị lần
thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Tập trung xây dựng đội ngũ
cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ
đã xác định một trong những nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trong công
tác cán bộ đó là do “chưa có cơ chế đủ mạnh để kiểm soát chặt chẽ quyền lực” (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 2021a, 210) và yêu cầu phải có những giải pháp hữu hiệu để
kiểm soát quyền lực theo hướng ở đâu có quyền lực ở đó có sự kiểm soát “mọi
quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế; quyền hạn, phải được ràng
buộc bằng trách nhiệm… Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân vi
phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lợi dụng quyền lực để thực hiện
những hành vi sai trái trong công tác cán bộ hoặc tiếp tay cho chạy chức, chạy
quyền” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 223).
Trên tinh thần đó, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 205-QĐ/TW về việc
kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền. Đây chính là
lần đầu tiên Đảng ta đưa ra khái niệm kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ.
Quy định yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo địa phương, cơ quan,
đơn vị và người đứng đầu chịu trách nhiệm lãnh đạo, thực hiện, kiểm tra giám sát
việc thực hiện các nguyên tắc, quy định, quy chế về công tác cán bộ. Những trường
hợp vi phạm, bao che, tiếp tay cho hành vi chạy chức, chạy quyền thì sẽ bị xử lý kỷ
luật đảng, truy cứu theo quy định của pháp luật.
Như vậy, trong tiến trình đồng hành cùng với dân tộc và sau hơn 35 năm lãnh
đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng đã rút ra khái niệm kiểm soát quyền lực trong công
tác cán bộ và tiếp tục xây dựng tiến tới hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong
công tác cán bộ ở những nhiệm kỳ sau. Đây chính là sự quan tâm của Đảng ta đối
với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn đội ngũ cán bộ xem đó là then chốt của then chốt
đối với sự nghiệp đổi mới và phát triển của quốc gia, của dân tộc.

32
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

2.3. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát
quyền lực trong công tác cán bộ
Quan điểm về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ chính là cơ sở để hình
thành cơ chế kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ. Việc xây dựng cơ chế kiểm
soát quyền lực nói chung cần phải lưu ý đến một số vấn đề: Chủ thể kiểm soát
quyền lực; Đối tượng thực hiện quyền lực bị kiểm soát; Thể chế pháp lý, nội dung
kiểm soát quyền lực; Phương thức, quy trình vận hành của các yếu tố trong cơ chế
pháp lý kiểm soát quyền lực và giải quyết kết quả kiểm soát quyền lực,… Tuy nhiên,
cơ chế kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ hiện nay chưa được quy định rõ
ràng và cụ thể.
Thực trạng đặt ra cho vấn đề kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ phải
xây dựng được một cơ chế chặt chẽ để nhốt quyền lực bằng cơ chế, pháp luật. “Không
thể kêu gọi suông, giáo dục suông mà phải bằng luật pháp, phải nhốt quyền lực vào
trong lồng pháp luật, phải có đòn roi để làm sao cho anh không dám làm, không
muốn làm, nhúng tay vào rồi thì phải sửa” (Nam Việt, 2018). Chính vì thế, với vị trí
là lực lượng duy nhất lãnh đạo toàn diện Nhà nước và xã hội, Đảng Cộng sản Việt
Nam thể hiện rõ vai chủ đạo trong việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát
quyền lực trong công tác cán bộ trên một số mặt công tác sau:
2.3.1. Về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng
Nhằm tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên góp phần kiểm soát quyền lực trong công
tác cán bộ. Những nhiệm kỳ gần đây, Ban Chấp hành Trung ương đều ban hành
Nghị quyết chuyên đề về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó tập trung
vào những giải pháp, nhiệm vụ nhằm nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng, tạo sự chuyển biến trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng
viên. Nếu như Hội nghị Trung ương 4 khoá XI mới chỉ tập trung bàn về những giải
pháp đổi mới, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo
đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên thì đến Hội nghị Trung ương 4 khoá XII đã có
sự bổ sung toàn diện, căn bản về phạm vi, nội dung các giải pháp về chính trị tư
tưởng, tự phê bình và phê bình, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy
thoái về tư tưởng chính trị, suy thoái đạo đức, lối sống.

33
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện
đạo đức của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh,
toàn hệ thống chính trị đã triển khai thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh một cách toàn diện, đồng bộ. Lan tỏa thành phong
trào trong toàn xã hội, phát huy, nhân rộng những tấm gương người tốt việc tốt; lên
án, bài trừ những hành vi tiêu cực, lạm dụng chức quyền, cá nhân chủ nghĩa. Những
kết quả tích cực từ việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh đã góp phần đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả tình trạng suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và
người đứng đầu các tổ chức cơ quan đơn vị; xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh
chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có trách nhiệm và động cơ
đúng đắn, tiên phong, gương mẫu, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần
tạo ra những đột phá trong việc phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ đất
nước” (Thông tấn xã Việt Nam, 2021).
2.3.2. Về tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ
Trên cơ sở những chủ trương của Đảng các cơ quan nhà nước đã tập trung rà
soát, nghiên cứu, ban hành mới các thể chế, chính sách về tuyển dụng, bổ nhiệm
cán bộ. Các bộ luật, quy định cụ thể về cán bộ, công chức, viên chức đã được sửa
đổi, bổ sung nhằm tháo gỡ những sự bất hợp lý, vướng mắc trong quy trình, thủ
tục tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ. Tạo ra hệ thống pháp lý chặt chẽ, đầy đủ về công
tác tuyển dụng, quản lý, bổ nhiệm cán bộ trong các cơ quan nhà nước, phòng chống,
ngăn chặn tình trạng tiêu cực, xin cho, chạy thành tích, chạy tiêu chuẩn, chạy bằng
cấp trong công tác cán bộ.
Năm 2014, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 165-QĐ/TW về việc lấy phiếu
tín nhiệm hằng năm đối với thành viên lãnh đạo cấp ủy và cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan
đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Việc lấy phiếu tín
nhiệm chính là cơ sở sàng lọc, đánh giá, bổ nhiệm cán bộ và được thực hiện định kỳ
hằng năm, vào năm thứ 3 giữa nhiệm kỳ đại hội đảng bộ các cấp trong các cơ quan
Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội từ Trung ương đến
cấp có đơn vị trực thuộc, “Những đồng chí có tín nhiệm thấp, tùy theo mức độ sẽ
xem xét không quy hoạch chức vụ cao hơn hoặc cho từ chức, cho thôi giữ chức vụ,
không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác” (Bộ Chính trị, 2014).
34
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Phát huy dân chủ, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia kiểm tra, giám sát quá
trình tuyển dụng, quản lý cán bộ, các cơ quan nhà nước đều đã đăng tải công khai,
minh bạch thông tin các kỳ thi tuyển dụng, bổ nhiệm viên chức, công chức trên các
phương tiện truyền thông. Cùng với đó, bằng sự quyết tâm, quyết liệt của toàn đảng
và toàn hệ thống chính trị, thời gian qua hàng loạt các vụ việc sai phạm, lạm dụng
chức quyền trong tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ đã được phát hiện xử lý kịp thời.
Trong giai đoạn 2016 - 2020, qua các đợt kiểm tra, rà soát xử lý các trường hợp chưa
thực hiện đúng các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình, thủ tục trong công
tác quy hoạch, luân chuyển, điều động, đề bạt, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, giới thiệu
ứng cử đã phát hiện 55.697/2.169.908 trường hợp thiếu tiêu chuẩn, điều kiện và
2.827/2.169.908 trường hợp sai về quy trình, thủ tục (Đảng Cộng sản Việt Nam,
2021c, 194). Riêng ở Trung ương đã rà soát thẩm định, kết luận về tiêu chuẩn chính
trị 9.682 lượt hồ sơ cán bộ; qua thẩm định đã đề nghị không phê duyệt quy hoạch
bổ nhiệm 106 trường hợp (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021c, 195).
2.3.3. Về quản lý cán bộ
Thực hiện chủ trương của Đảng về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ
thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 108/2014/NĐ-CP về Chính sách tinh giản biên chế và Nghị định số 113/2018/NĐ-CP
về Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 108/2014/NĐ-CP về Chính sách tinh
giản biên chế để chỉ đạo các bộ ngành, các cơ quan hành chính trong cả nước thực
hiện sắp xếp, kiện toàn bộ máy, tổ chức và thực hiện tinh giản biên chế, cắt giảm
những thủ tục phiền hà, dễ tạo ra nguy cơ tiêu cực, tham nhũng, lạm quyền. Với sự
nỗ lực của Chính phủ, các bộ ngành và toàn hệ thống hành chính, số lượng biên chế
đã được tinh giản, tinh gọn, nếu trong giai đoạn 2011 - 2016 tổng biên chế công chức
trong các cơ quan hành chính nhà nước từ cấp huyện trở lên giảm được 4.131 biên
chế (Thủ tướng Chính phủ, 2016, 5) thì đến năm 2021 số biên chế công chức trong các
cơ quan, tổ chức hành chính nhà nước đã giảm 27.504 biên chế (Bộ Nội vụ, 2021, 3).
Khắc phục tình trạng chồng chéo tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho
các bộ, ngành, địa phương trong quản lý và sử dụng cán bộ, công chức, viên chức
các cơ quan nhà nước đã thực hiện rà soát xây dựng và ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật, bảo đảm sự thống nhất, liên thông với các quy định của Đảng về
sử dụng, quản lý cán bộ; đẩy mạnh phân cấp quản lý, tổ chức các chương trình đào

35
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. Phát huy thẩm quyền, trách nhiệm của
người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ chống chạy chức, chạy
quyền; xử lý nghiêm minh, đồng bộ kỷ luật đảng và xử lý bằng pháp luật đối với
cán bộ có vi phạm, kể cả khi đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu.
2.3.4. Về kiểm tra, giám sát và đánh giá cán bộ
Nhận thức tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát đối với việc kiểm
soát quyền lực trong công tác cán bộ, Đảng đã ban hành nhiều quy định, quy chế
cụ thể về kiểm tra, giám sát, đánh giá cán bộ, nhất là cán bộ cấp lãnh đạo quản lý
như: Quy định số 214-QĐ/TW, ngày 02/01/2020 của Bộ Chính trị về khung tiêu
chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương,
Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; Quy định số 179-QĐ/TW ngày 25/02/2019 của Bộ
Chính trị về chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán bộ; Quy định số 89-QĐ/TW ngày
4/8/2017 của Bộ Chính trị về khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu
chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp,… Đồng thời, thực hiện kiện toàn các
cơ quan chuyên trách về công tác kiểm tra giám sát trong đảng và bộ máy nhà nước
như: Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Ban Nội chính Trung ương, Ban Chỉ
đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng,…
Phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể trong
công tác kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bộ Chính trị đã ban hành
Quyết định 218-QĐ/TW về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã
hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, nhằm quy định
cụ thể về nội dung, phương thức góp ý của nhân dân, Mặt trận và các tổ chức đoàn
thể đối với tổ chức, cá nhân đang làm việc trong các cơ quan đảng, nhà nước, vai
trò của cấp ủy đảng, các cơ quan chính quyền trong việc cung cấp thông tin về các
chủ trương, chính sách, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, đảng viên và tổ chức
lấy ý kiến nhận xét của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên.
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự vào cuộc quyết liệt của toàn hệ thống
chính trị và sự tham gia tích cực của quần chúng nhân dân, Mặt trận và các đoàn
thể đã tạo điều kiện cho công tác kiểm tra, giám sát quyền lực trong công tác cán bộ
được thực hiện hiệu quả, góp phần giữ vững kỷ luật, kỷ cương của Đảng, pháp luật
của nhà nước. Trong nhiệm kỳ Đại hội XI của Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các
cấp ủy Đảng đã kiểm tra 243.681 tổ chức đảng, qua kiểm tra, phát hiện 5.941 tổ chức
36
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

đảng có vi phạm, thi hành kỷ luật 144 tổ chức đảng. Kiểm tra 1.167.693 đảng viên,
phát hiện 8.485 vi phạm và thi hành kỷ luật 2.057 trường hợp, trong số phải thi hành
kỷ luật có gần 14% là lạm dụng, lợi dụng quyền lực để trục lợi, lợi ích nhóm (Mai,
2019, 192). Đến nhiệm kỳ Đại hội XII, Bộ Chính trị, Ban Bí và cấp ủy các cấp đã kiểm
tra 264.091 tổ chức đảng và 1.124.146 đảng viên. Qua kiểm tra, cấp ủy các cấp đã thi
hành kỷ luật 1.329 tổ chức đảng và 69.600 đảng viên; ủy ban kiểm tra các cấp đã thi
hành kỷ luật 17.610 đảng viên. Riêng Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư đã thi hành kỷ luật 10 tổ chức đảng và 60 đảng viên; Ủy ban Kiểm tra Trung
ương đã thi hành kỷ luật 169 đảng viên (trong đó có 53 đồng chí là cán bộ diện Bộ
Chính trị, Ban Bí thư quản lý) (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021c, 200).
Cùng với kiểm tra, giám sát của Đảng, các cơ quan nhà nước cũng đã thực
hiện các đợt thanh, kiểm tra trong toàn hệ thống hành chính nhà nước, phát hiện,
xử lý những trường hợp cán bộ sai phạm, tiêu cực, tham nhũng trong hoạt động
công vụ, trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, Chính phủ đã triển khai 39.742 cuộc
thanh tra hành chính và hơn 834.640 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành; kiến
nghị thu hồi 124.125 tỷ đồng, 19.744 ha đất; phát hiện 441 vụ, 696 người có dấu hiệu
tham nhũng; kiến nghị xử lý hành chính 23 tập thể, 596 cá nhân, xử lý trách nhiệm
157 người đứng đầu; chuyển cơ quan điều tra 162 vụ, 272 đối tượng (Thủ tướng
Chính phủ, 2016, 16), đến nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV số cuộc thanh tra hành chính
được triển khai là gần 33 nghìn cuộc, cùng với trên 1,1 triệu cuộc thanh tra, kiểm tra
chuyên ngành; kiến nghị thu hồi 235.522 tỷ đồng, 8.823 ha đất; kiến nghị xử lý kỷ
luật hành chính 9.772 tập thể, cá nhân; chuyển cơ quan điều tra 462 vụ, 671 đối
tượng (Thủ tướng Chính phủ, 2021, 14).

3. KẾT LUẬN
Điểm lại quá trình lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng đổi
mới, hoàn thiện tư duy lý luận về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và luôn
thể hiện vai trò chủ đạo của mình trong việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát
quyền lực trong công tác cán bộ. Chính điều đó đã nâng cao vai trò, hiệu quả lãnh
đạo của Đảng đối với công tác cán bộ trong thời kỳ mới; tạo ra cơ sở pháp lý chặt
chẽ để kiểm soát quyền lực, phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức đoàn thể trong việc tham gia kiểm tra, giám sát cán bộ; góp phần nâng cao

37
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đáp ứng yêu cầu củng cố, tăng cường
niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa;… đẩy
mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn
đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021c, 326).

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Bộ Chính trị. (2014). Quy định về việc lấy phiếu tín nhiệm đối với thành viên lãnh
đạo cấp ủy và cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị - Xã hội (No. 262-QĐ/TW).
[2]. Bộ Chính trị. (2019). Quy định về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và
chống chạy chức, chạy quyền (No. 205-QĐ/TW).
[3]. Bộ Nội vụ. (2021). Báo cáo tổng kết công tác giai đoạn 2016 - 2020 và triển khai
nhiệm vụ công tác năm 2021 ngành Nội vụ (135/BC-BNV).
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2002). Văn kiện Đảng Toàn tập (Vol. 21). Chính trị
quốc gia.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2006). Văn kiện Đảng Toàn tập (Vol. 47). Chính trị
quốc gia.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Chính trị quốc gia.
[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2012). Văn kiện Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI. Chính trị quốc gia Sự thật.
[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2015a). Văn kiện Đảng Toàn tập (Vol. 56). Chính trị
quốc gia.
[9]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2015b). Văn kiện Đảng toàn tập 55 (Vol. 55). Chính
trị quốc gia.
[10]. Đảng Cộng sản Việt Nam,. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
Chính trị Quốc gia.
[11]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2018). Văn kiện Đảng toàn tập (Vol. 65). Chính trị
quốc gia.

38
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

[12]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021a). Các Nghị quyết Trung ương Đảng 2016 - 2022.
Chính trị quốc gia Sự thật.
[13]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021b). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[14]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021c). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII (Vol. 2). Chính trị quốc gia Sự thật.
[15]. Hồ, C. M. (2011). Hồ Chí Minh toàn tập (Vol. 5). Chính trị quốc gia - Sự thật.
[16]. Hoàng, P. (2003). Từ điển tiếng Việt. Đà Nẵng.
[17]. Mai T. (2019). Kiểm soát quyền lực ở nước ta qua công tác kiểm tra, giám sát và kỷ
luật của Đảng. Chính trị quốc gia Sự thật.
[18]. Nam Việt. (2018, December 29). Chống tham nhũng đi cùng xây dựng bộ máy.
Báo Điện tử Đại đoàn kết. http://daidoanket.vn/chong-tham-nhung-di-cung-
xay-dung-bo-may-426432.html
[19]. Quốc hội. (2008). Luật Cán bộ, công chức. Chính trị quốc gia.
[20]. Thông tấn xã Việt Nam. (2021, December 6). Phát biểu của Tổng Bí thư về 5
năm thực hiện Chỉ thị số 05. VietnamPlus. https://www.vietnamplus.vn/phat-
bieu-cua-tong-bi-thu-ve-5-nam-thuc-hien-chi-thi-so-05/719534.vnp
[21]. Thủ tướng Chính phủ. (2016). Báo cáo công tác nhiệm kỳ 2011 - 2016 của Chính
phủ (82/BC-CP).
[22]. Thủ tướng Chính phủ. (2021). Báo cáo công tác nhiệm kỳ 2016 - 2021 của Chính
phủ (99/BC-CP).

39
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC -


NHIỆM VỤ QUAN TRỌNG TRONG CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Đinh Thị Thủy Bình, Hoàng Mạnh Cường
Trường Đại học Nguyễn Huệ
Tác giả liên hệ: Đinh Thị Thủy Bình, email: dinhthuybinh1983@gmail.com

Tóm tắt: Chủ nghĩa xã hội khoa học là vũ khí lý luận để toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân tham gia có hiệu quả trên mặt trận tư tưởng, lý luận. Do đó, bảo vệ và phát triển
chủ nghĩa xã hội khoa học là nhiệm vụ quan trọng của công tác tư tưởng, lý luận.
Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch điên cuồng chống phá chủ nghĩa
xã hội trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Vì vậy, công tác tư tưởng, lý luận
phải chủ động, nhạy bén, kịp thời định hướng tư tưởng, tích cực đấu tranh với các
quan điểm sai trái góp phần để bảo vệ, phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học; tham
gia tích cực và hiệu quả vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Bài viết làm rõ tính tất yếu và một số nhiệm vụ cơ bản công tác tư tưởng
lý luận, tập trung làm rõ để đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học
trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay.
Từ khóa: công tác tư tưởng; lý luận; chủ nghĩa xã hội; Đảng Cộng sản Việt Nam; giai
cấp công nhân.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Lý luận và thực tiễn đã khẳng định quá trình hình thành, phát triển chủ nghĩa
xã hội khoa học luôn gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại
trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, cùng các học giả tư sản chống
cộng. Ở mỗi thời kỳ lịch sử cuộc đấu tranh bảo vệ, phát triển chủ nghĩa xã hội khoa
học lại có cách thức khác nhau. Ngày nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch
điên cuồng chống phá cách mạng Việt Nam, xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin nói
chung và chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng với trăm ngàn âm mưu, thủ đoạn tinh
vi, xảo quyệt; do vậy, bảo vệ, phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học đã trở thành
nhiệm vụ cơ bản, lâu dài, nhưng vô cùng cấp thiết, đối với toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân ta, trong đó công tác tư tưởng, lý luận giữ vị trí hết sức quan trọng.
40
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

2. NỘI DUNG
2.1. Tính tất yếu phải đấu tranh bảo vệ, phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học hiện nay
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, trong cuộc đời hoạt động của mình, đã
phải thường xuyên đấu tranh bảo vệ và liên tục phát triển lý luận chủ nghĩa xã
hội khoa học (bao gồm cả việc sửa chữa các luận điểm cũ và cả việc phát triển
những luận điểm mới khi thực tiễn đã có sự thay đổi). Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản (năm 1848) do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo, là cuốn sách “gối đầu giường”
của những người cộng sản, nhưng chính bản thân C.Mác, đặc biệt là Ph.Ăngghen
khi viết lời tựa cho những lần xuất bản sau đó, mặc dù các ông vẫn giữ nguyên
các quan điểm đã nêu trong Tuyên ngôn vì tôn trọng lịch sử, nhưng lại cho rằng
có nhiều điểm trong Tuyên ngôn nếu viết lại thì phải thay đổi, vì tình hình đã có
nhiều thay đổi, vì “đại công nghiệp đã có bước tiến hết sức lớn”.
V.I.Lênin cũng đã từng kiên quyết đấu tranh chống lại mọi biểu hiện chống
cộng, bảo vệ chủ nghĩa Mác, đã từng phát triển rất nhiều luận điểm lý luận mới của
chủ nghĩa xã hội khoa học, mà trước đó do hạn chế của lịch sử, C.Mác và
Ph.Ăngghen chưa đề cập đến hoặc đề cập chưa đầy đủ. Luận điểm của C.Mác rằng,
cách mạng vô sản chỉ có thể nổ ra đồng loạt ở các nước, chí ít là ở những nước tư
bản tiên tiến đã được V.I.Lênin phát triển trong điều kiện lịch sử mới khi cho rằng
cách mạng vô sản có thể nổ ra và giành thắng lợi ở một nước tư bản trung bình, là
một ví dụ sinh động về việc bảo vệ và phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa xã hội
khoa học khi tình hình đã thay đổi.
V.I.Lênin đã từng nói, “chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì
mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong” (V.I.Lênin toàn tập, 2005a, 32).
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng chỉ rõ: “không có lý luận thì lúng túng như nhắm
mắt mà đi” (Hồ, 2011b, 274). Chúng ta đã có “một lý luận tiền phong” là chủ nghĩa
xã hội khoa học, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng lý luận đó
không nghĩ thay, không làm thay cho chúng ta. “Lý luận tiền phong” ấy là nền tảng
tư tưởng, vũ trang cho những người cộng sản thế giới quan, phương pháp luận cách
mạng và khoa học, phương pháp tiếp cận, xem xét, phân tích, luận giải các sự kiện,
hiện tượng muôn màu, muôn vẻ của đời sống xã hội, hình thành chiến lược chính
trị, sách lược đấu tranh đúng đắn để cải tạo xã hội, để vận dụng và phát triển sáng
tạo trong thực tiễn, đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.
41
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu những quy luật và tính quy luật chính
trị - xã hội của quá trình phát sinh, hình thành và phát triển hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa; những nguyên tắc cơ bản, những điều kiện, con đường,
hình thức và phương pháp đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân để thực
hiện sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Những nội dung lý luận khoa học chung nhất của chủ nghĩa xã hội khoa học cần
được nhận thức, vận dụng cụ thể, đúng đắn và phát triển sáng tạo ở mỗi nước, trong
những giai đoạn và hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Nếu ở đâu biến những lý luận của chủ
nghĩa xã hội khoa học thành những công thức giáo điều thì ở đó đã làm mất tính
cách mạng, khoa học cũng như giá trị và sức sống của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Thực tiễn gần một thế kỷ ở một số nước xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt
được nhiều thành tựu về mọi mặt, song cũng mắc phải những sai lầm, khuyết điểm
và lâm vào khủng hoảng, thoái trào nghiêm trọng. Các nước xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu và Liên Xô sụp đổ là do đảng cộng sản ở các nước đó vừa sai lầm về đường
lối, xa rời lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa có cả sự phản bội từ cấp cao nhất;
đồng thời có sự phá hoại nhiều mặt của chủ nghĩa đế quốc... Một trong những sai
lầm, khuyết điểm của các đảng cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa mấy thập kỷ
qua là bệnh chủ quan duy ý chí, giản đơn, biến chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó có
chủ nghĩa xã hội khoa học thành những công thức máy móc, giáo điều, khô cứng…
làm suy giảm, thậm chí mất sức sống trong thực tiễn. Các nước xã hội chủ nghĩa
còn lại đã rút ra được những kinh nghiệm quý, vẫn kiên định mục tiêu, con đường
xã hội chủ nghĩa, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, chú trọng sửa chữa những sai
lầm, khuyết điểm, đồng thời giữ vững và phát huy những thành quả đã đạt được,
đổi mới, cải cách phù hợp để đến nay, công cuộc đổi mới và cải cách, các nước xã
hội chủ nghĩa (trong đó có Việt Nam) đã đạt được nhiều thành quả to lớn: ổn định
chính trị - xã hội, phát triển về mọi mặt và nâng cao đời sống nhân dân. Những
thành tựu đó được nhân dân trong nước và nhân loại tiến bộ thừa nhận, tin tưởng.
Vận dụng, bổ sung và phát triển đúng đắn chủ nghĩa xã hội khoa học chắc chắn sẽ
làm cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội phát triển đúng mục tiêu, bản chất tốt
đẹp của chế độ xã hội mới - một chế độ thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân.

42
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Thế giới đương đại đang có rất nhiều vấn đề cơ bản và cấp bách đòi hỏi chủ
nghĩa xã hội khoa học phải luận giải, làm sáng rõ và bổ sung, phát triển lý luận mới.
Ví dụ: việc nhận thức về chủ nghĩa tư bản hiện đại và về cách mạng vô sản đã có rất
nhiều vấn đề cần được luận giải đến nơi đến chốn. Chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ
toàn cầu hóa là như thế nào, có gì giống và khác với nó như trong thời C.Mác, thời
V.I.Lênin không? Chủ nghĩa tư bản có còn khả năng thích ứng hay không, đâu là giới
hạn của chủ nghĩa tư bản? Bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản hiện đại hiện nay
biểu hiện thế nào? Những tiến bộ của chủ nghĩa tư bản hiện đại, đặc biệt trong vấn
đề xã hội, đảm bảo an sinh xã hội nói lên điều gì về lý luận?... Luận giải những vấn
đề thực tiễn - lý luận đó, chúng ta không thể chỉ trích dẫn những nhận định, những
luận điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa xã hội khoa học để làm luận chứng, mà
phải nắm bắt được tinh thần cách mạng, bản chất khoa học, linh hồn sống, phương
pháp luận khoa học mà các nhà kinh điển đã cung cấp cho chúng ta trong quá trình
đấu tranh đưa ra những nhận định, luận điểm đó; đồng thời phải đặt nó trên “mảnh
đất hiện thực” của thế giới đương đại, bổ sung cho nó những “cơ sở lịch sử” mới. Vì
vậy, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học luôn được đặt ra trong mọi giai
đoạn cách mạng, nhất là trong thời đại hiện nay. Nếu không nghiên cứu sâu sắc, phát
triển chủ nghĩa xã hội khoa học sẽ dẫn đến chệch hướng bản chất, mục tiêu là xây
dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, giải phóng hoàn toàn xã hội và con người
khỏi áp bức, bất công, chiến tranh, nghèo nàn lạc hậu và mọi tai họa xã hội khác.
Bảo vệ, phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học giúp chúng ta luôn cảnh giác,
phân tích đúng đắn và đấu tranh có hiệu quả chống lại những nhận thức sai lệch,
những tuyên truyền chống phá của chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động đối với
Đảng, Nhà nước, chế độ ta, đi ngược lại xu thế và lợi ích của nhân dân, dân tộc và
nhân loại tiến bộ. Trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, cần phải bình tĩnh và sáng
suốt, kiên định và chủ động, sáng tạo tìm ra những nguyên nhân cơ bản và bản chất
của những sai lầm, khuyết điểm, khủng hoảng, đổ vỡ cũng như những thành tựu
to lớn trước đây. Những thành quả đổi mới, cải cách ở các nước xã hội chủ nghĩa
hiện nay cho thấy rằng: Không phải do bản chất của chủ nghĩa xã hội, cũng không
phải do chủ nghĩa xã hội khoa học,... làm các nước xã hội chủ nghĩa khủng hoảng.
Nguyên nhân chính là do các nước xã hội chủ nghĩa đã nhận thức và hành động
trên nhiều vấn đề chưa đúng với lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, còn giáo điều,

43
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

chủ quan duy ý chí, bảo thủ, kể cả việc đố kỵ, xem nhẹ những thành quả chung của
nhân loại, trong đó có chủ nghĩa tư bản; cùng với đó là sự xuất hiện chủ nghĩa cơ
hội - xét lại trong một số đảng cộng sản và sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc thực
hiện âm mưu “diễn biến hoà bình” đã làm cho chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào
thoái trào. Thực tiễn đó giúp chúng ta càng củng cố bản lĩnh kiên định, tự tin tiếp
tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam theo con đường xã
hội chủ nghĩa mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn.
Trong thời đại hiện nay, tình hình quốc tế, khu vực có những biến động rất
nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo liên quan đến những vấn đề an ninh phi truyền
thống, cùng với đó là sự tác động của mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế; những khó khăn, yếu kém về kinh tế - xã hội của đất nước; tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên;
tình trạng tham nhũng, quan liêu trong bộ máy công quyền chưa được ngăn chặn,
đẩy lùi; các thế lực thù địch chống phá quyết liệt con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội; tình trạng “tự diễn biến“, “tự chuyển hóa” trong nội bộ phức tạp; tình hình xâm
lấn biển, đảo của nước ngoài với Việt Nam trở nên nóng bỏng... Tình hình trên đây
đã và đang tác động hằng ngày, hằng giờ đến tư tưởng, nhận thức, niềm tin của cán
bộ, đảng viên và nhân dân ta, làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân
suy giảm niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin; mơ hồ, dao động, xa rời nền tảng tư
tưởng, lý tưởng xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Một số
người cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ phù hợp với bối cảnh của thế kỷ XIX và
đầu thế kỷ XX, thời đại văn minh công nghiệp, còn giờ là thế kỷ XXI, là thời đại văn
minh hậu công nghiệp, văn minh trí tuệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế nên nó không còn thích hợp nữa. Một số khác cho rằng, chủ nghĩa Mác -
Lênin không phải là sản phẩm của Việt Nam mà là ngoại nhập từ phương Tây nên
không phù hợp với Việt Nam!...
Ở tầm quan điểm liên quan đến một số vấn đề lớn, nhận thức của không ít cán
bộ, đảng viên còn có sự khác biệt nhất định như: đánh giá về bản chất của thời đại,
về chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội; về thời kỳ quá độ, về kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta... Nguyên nhân của tình trạng trên trước hết
do nhận thức về nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học có phần hạn chế, chưa đi
sâu nghiên cứu làm rõ bản chất, lý giải một cách thật sự khoa học, có tính thuyết

44
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

phục; không ít vấn đề chưa được kết luận, làm cho cán bộ, đảng viên nói và làm,
nói và nghĩ còn khác nhau, dẫn đến những hạn chế, thiếu sự thống nhất về chính
trị, tinh thần trong nội bộ Đảng.
Bên cạnh đó, có một thực tế hiện nay là: sự hiểu biết về lý luận chủ nghĩa xã
hội khoa học của một bộ phận cán bộ, đảng viên, cán bộ làm công tác giảng dạy,
nghiên cứu khoa học chưa thực sự sâu sắc nên việc đấu tranh bảo vệ và phát triển
nhiều nguyên lý, luận điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học chưa thực sự rõ nét và
chưa có nhiều đột phá. Trong nghiên cứu khoa học còn có biểu hiện nặng về lý luận,
lý luận chưa kết hợp chặt chẽ với thực tiễn nên sức thuyết phục và giá trị chưa cao.
Sự hạn chế, yếu kém về lý luận; sự hiểu biết không đến nơi đến chốn và việc vận
dụng chưa đúng, máy móc, giáo điều làm cho chủ nghĩa xã hội khoa học trở nên xơ
cứng, méo mó, nhàm chán và đó là một điều kiện, một “nguyên cớ” để các thế lực
thù địch lợi dụng công kích, xuyên tạc, phủ định chủ nghĩa xã hội khoa học. Vì vậy,
tăng cường công tác tư tưởng, lý luận trong điều kiện mới, xây dựng niềm tin trong
nhân dân, làm rõ những vấn đề lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học đang đặt ra hiện
nay là nhiệm vụ rất quan trọng của công tác tư tưởng, lý luận hiện nay.
Đại hội X của Đảng đã xác định, phải “nâng cao trình độ trí tuệ, chất lượng
nghiên cứu lý luận của Đảng; tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta; làm rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn đường lối, chính sách của Đảng trong thời kỳ mới” (Đảng Cộng sản Việt Nam,
2006, 131). Đại hội XI của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Tăng cường nghiên cứu lý
luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa
xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và những vấn đề mới nảy sinh
trong quá trình đổi mới, không ngừng phát triển lý luận, đề ra đường lối và chủ
trương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; khắc phục một số mặt lạc hậu, yếu
kém của công tác nghiên cứu lý luận” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 255-256).
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục yêu cầu: “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu
lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Gắn kết tổng kết thực tiễn với nghiên
cứu lý luận, định hướng chính sách. Thực hiện nghiêm Quy định dân chủ trong
nghiên cứu lý luận chính trị, tạo môi trường dân chủ, khuyến khích tìm tòi, sáng
tạo, phát huy trí tuệ của các tổ chức và cá nhân. Chú trọng cập nhật kết quả tổng

45
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; sớm kết luận những vấn đề lý luận đã chín, đã rõ
để phát triển, hoàn thiện đường lối, chủ trương xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Đảng
Cộng sản Việt nam, 2021, 181-182). Còn trong cuốn sách: “Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, đồng chí
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh, chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một đề tài lý luận và thực tiễn rất cơ bản, quan
trọng, nội dung rất rộng lớn, phong phú và phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác
nhau. Vì vậy, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu rất công phu, nghiêm túc, tổng kết thực
tiễn một cách sâu sắc, khoa học.
2.2. Những nhiệm vụ công tác tư tưởng, lý luận cần làm để bảo vệ và phát triển
chủ nghĩa xã hội khoa học hiện nay
C.Mác, Ph.Ăngghen là người đã có công trong việc làm cho chủ nghĩa xã hội
từ không tưởng trở thành khoa học, khai sáng ra học thuyết cách mạng khoa học.
V.I.Lênin đã có công trong việc phát triển và hiện thực hoá những nguyên lý của
chủ nghĩa Mác trên một phần rộng lớn của trái đất. Các thế hệ những người cộng
sản trong thế kỷ XXI phải bảo vệ, tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và vận
dụng sáng tạo vào thực tiễn, thúc đẩy cách mạng phát triển. Tình hình đã bức thiết
đặt ra đối với công tác tư tưởng, lý luận là phải tập trung đấu tranh bảo vệ và phát
triển chủ nghĩa xã hội khoa học, tạo ra sự “đột phá” để có thể đáp ứng được yêu
cầu. Do vậy, cần tập trung vào một số vấn đề sau:
Một là, kiên định và phát triển sáng tạo chủ nghĩa xã hội khoa học, tư tưởng Hồ Chí
Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm
1991 và được bổ sung, phát triển năm 2011 đã khẳng định Đảng ta lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng của Đảng, “kim chỉ
nam” cho hành động.
Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, khi nào Đảng giữ vững sự độc
lập, tự chủ và sáng tạo về đường lối thì phong trào cách mạng phát triển thuận lợi
và thắng lợi, ngược lại nếu chủ quan, duy ý chí thì phong trào cách mạng gặp khó
khăn, thậm chí thất bại. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta không
ngừng đi sâu nhận thức và nắm vững bản chất, quan điểm tư tưởng, phương pháp

46
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam và đã đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo,
phù hợp với thực tiễn Việt Nam” (Đảng Cộng sản Việt nam, 2021, 40-41). Đây là
vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng tư
tưởng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động.
Trong thời đại mới hiện nay, tư tưởng, đường lối chính trị của Đảng phải
thường xuyên được bổ sung, phát triển, hoàn thiện để không chỉ phù hợp với xu
hướng phát triển của thời đại, tức là phải trên cơ sở chủ nghĩa xã hội khoa học,
nhưng được vận dụng sáng tạo, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt
Nam. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, công tác tư tưởng, lý luận cũng phải bám sát và
phục vụ đắc lực nhiệm vụ chính trị của Đảng.
Hai là, công tác tư tưởng, lý luận hướng vào đổi mới nội dung, phương pháp, hình
thức nâng cao chất lượng, hiệu quả tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa xã hội khoa học trong
cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.
Công tác tư tưởng, lý luận phải thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức
biện pháp tuyên truyền chủ nghĩa xã hội khoa học. Song, để đổi mới tuyên truyền
có hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa xã hội khoa học phải
kế thừa hạt nhân hợp lý của những nội dung, hình thức cách làm trước đây, kiên
quyết gạt bỏ những nội dung, hình thức, biện pháp lỗi thời, lạc hậu thay vào đó là
những nội dung, hình thức đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng hiện
nay; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện nhân danh đổi mới phủ nhận tất cả
những thành tựu, những giá trị tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội trong các giai đoạn
trước, hoặc bảo thủ trì trệ không chịu suy nghĩ tìm tòi đổi mới nội dung, hình thức,
biện pháp đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa
xã hội khoa học trong thời kỳ mới. Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: phải “tiếp tục đổi
mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết
thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục
trong tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước” (Đảng Cộng sản
Việt nam, 2021, 181); “tiếp tục đổi mới việc học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng
47
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Đổi mới căn bản chương trình, nội dung, phương
pháp giáo dục lý luận chính trị theo phương châm khoa học, thực tiễn, sáng tạo
và hiện đại” (Đảng Cộng sản Việt nam, 2021, 182-183); “tăng cường giáo dục
truyền thống văn hoá, lịch sử và cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc; không
ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên” (Đảng Cộng sản
Việt nam, 2021, 41); đưa việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán
bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược đi vào nền
nếp, nhất quán từ Trung ương đến cơ sở, phù hợp với từng đối tượng, chú trọng
chất lượng, hiệu quả…
Đây là việc khó, phức tạp; muốn làm tốt thì công tác tư tưởng, lý luận phải
được tổ chức chu đáo, chặt chẽ, khoa học, từ khâu lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực
hiện đến khâu kiểm tra sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm và được đầu tư thỏa đáng
về thời gian, công sức, tiền của; mọi sự áp đặt nóng vội chủ quan không chỉ phản
tác dụng, mà còn gây ra những hậu quả khó lường đối với toàn bộ sự nghiệp cách
mạng Việt Nam.
Ba là, công tác tư tưởng, lý luận tập trung đấu tranh với những biểu hiện sai trái
trong nhận thức, vận dụng chủ nghĩa xã hội khoa học vào thực tiễn.
Nhận thức, vận dụng chủ nghĩa xã hội khoa học sáng tạo vào điều kiện cụ thể
của từng giai đoạn cách mạng là thể hiện sức sống tính khoa học của chủ nghĩa xã
hội khoa học trong hiện thực. Vì thế, những nhận thức sai trái, sự vận dụng không
đúng đắn lý luận trong thực tiễn ảnh hưởng rất lớn đến uy tín, sức sống của chủ
nghĩa xã hội khoa học. Ảnh hưởng tiêu cực này càng lớn nếu nhận thức, vận dụng
sai trái ở qui mô lớn, thời gian dài, với những cán bộ giữ những trọng trách lớn
trong bộ máy của Đảng, Nhà nước.
Hiện nay, ngoài cách hiểu chủ nghĩa xã hội một cách giáo điều máy móc,
không ít cán bộ, đảng viên hiểu chủ nghĩa xã hội còn đơn giản, cảm tính, tư duy
kinh nghiệm. Họ quy chủ nghĩa xã hội vào một số nguyên lý, quy luật, phạm trù.
Nguy hại hơn, bệnh thành tích, báo cáo sai sự thật, thực chất là bệnh nói dối, trở
thành căn bệnh trầm kha trong xã hội ta hiện nay. Nếu tình trạng này không được
khắc phục thì không chỉ lòng tin của quần chúng nhân dân vào Đảng, Nhà nước,
chế độ bị suy giảm, nền kinh tế xã hội tiếp tục bùng nhùng; vì một điều đơn giản

48
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

chúng ta không bao giờ biết đúng thực trạng nền kinh tế, xã hội. Hậu quả sẽ làm
suy giảm nghiêm trọng uy tín, sức mạnh của Đảng, chế độ, tạo điều kiện để các thế
lực thù địch tấn công, xuyên tạc chủ nghĩa xã hội khoa học. Vì vậy, phải “không
ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên; thường xuyên đấu
tranh ngăn chặn âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động,
đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng” (Đảng Cộng sản Việt nam, 2021, 41).
Bốn là, công tác tư tưởng, lý luận phải phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng,
phương tiện với kế hoạch triển khai tiến công cùng những phương pháp phù hợp.
Hiện nay, các thế lực thù địch tăng cường chống phá chủ nghĩa xã hội khoa
học với những lực lượng, phương tiện phong phú cùng các thủ đoạn ngày càng tinh
vi xảo quyệt. Chúng sử dụng cả những chuyên gia bậc thầy về lý luận, và cả lực
lượng bồi bút trên các tờ báo lá cải; chúng kết hợp chặt chẽ giữa dùng các thành tựu
tiên tiến, hiện đại nhất của khoa học công nghệ thông tin với những phương cách
cổ truyền như rỉ tai, phao tin đồn nhảm; kết hợp xuyên tạc thường xuyên với tổ
chức chống phá tập trung theo đợt nhân những sự kiện chính trị, xã hội; chúng kết
hợp cả lực lượng phản động ở ngoài nước và lực lượng cơ hội, bất mãn trong nước…
Để chủ động đối phó với tình hình trên, công tác tư tưởng, lý luận cần xây
dựng, tổ chức các lực lượng chuyên trách, trở thành lực lượng thường trực, những
“quả đấm thép” làm xoay chuyển tương quan so sánh lực lượng trên mặt trận đấu
tranh tư tưởng, lý luận. Lực lượng này cần có phẩm chất và năng lực, khả năng
chuyên môn và bản lĩnh chính trị, trình độ lý luận và trình độ ngoại ngữ, đủ sức
làm tham mưu cho Đảng, Nhà nước trong việc định ra những chủ trương, chính
sách, kế hoạch cơ bản lâu dài chủ động làm thất bại sự chống phá của các thế lực
thù địch đối với chủ nghĩa xã hội khoa học; có khả năng thường xuyên nắm chắc
âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, từ đó trực tiếp triển khai các chiến dịch
nhằm đập tan sự chống phá của các chuyên gia lý luận tư sản và các thế lực thù
địch; đồng thời có trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng các lực lượng đấu tranh, bảo vệ
chủ nghĩa xã hội khoa học trong phạm vi toàn quốc.
Cùng với lực lượng chuyên trách, cần khơi dậy, quy tụ, sử dụng có hiệu quả
các nhà nghiên cứu, các giảng viên khoa học xã hội nhân văn trong các học viện,

49
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

nhà trường, các viện nghiên cứu, các cán bộ lãnh đạo của tổ chức Đảng, chính quyền
các cấp, cùng toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân, tạo nên thế trận vững chắc,
tích cực chủ động tham gia vào cuộc đấu tranh chống lại sự chống phá, xuyên tạc
chủ nghĩa xã hội khoa học của các thế lực thù địch.
Trên cơ sở lực lượng phong phú, cần đa dạng hoá hình thức đấu tranh bảo vệ,
phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học. Ngoài những bài luận chiến, những công trình
khoa học được đăng tải, tuyên truyền trên các báo, tạp chí, sách chuyên khảo, cần
tăng cường sử dụng đài phát thanh, truyền hình, báo điện tử, mạng internet, các
trang mạng xã hội như: facebook, các blog cá nhân để đăng tải phát hành nhanh
chóng, kịp thời, sâu rộng các công trình nghiên cứu đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa xã
hội khoa học. Đặc biệt, cần coi nội dung đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái,
thù địch chống phá chủ nghĩa xã hội khoa học là một bộ phận cơ bản, không thể
thiếu trong giáo trình môn học Chủ nghĩa xã hội khoa học. Đồng thời, trong điều
kiện cho phép, chủ động mời các nhà lý luận tư sản tham gia các hội thảo, các buổi
giao lưu, trao đổi về chủ nghĩa xã hội khoa học và xúc tiến việc cử cán bộ tham gia
các hội thảo quốc tế, giảng dạy về chủ nghĩa xã hội khoa học nhằm tăng cường bản
lĩnh, khả năng đấu tranh trực diện với các học giả tư sản, bảo vệ chủ nghĩa xã hội
khoa học trong tình hình mới.

3. KẾT LUẬN
Từ bối cảnh trong nước và thế giới ngày nay cùng các biến cố chính trị, kinh tế
đặc thù của nó làm cho cuộc đấu tranh bảo vệ, phát triển những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa xã hội khoa học tiếp tục diễn ra hết sức phức tạp. Chủ nghĩa xã hội là
xu thế tất yếu của thời đại, nhưng xu thế ấy chỉ có thể trở thành hiện thực khi giai cấp
công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới đoàn kết, tập trung trí tuệ để tiếp tục
kế thừa sáng tạo và không ngừng phát triển tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, vừa biến tư tưởng lý luận đó thành lực lượng vật chất để xây dựng và bảo vệ
xã hội mới, vừa sử dụng tư tưởng lý luận đó như công cụ sắc bén trong cuộc đấu
tranh quyết liệt với tư tưởng lý luận của giai cấp tư sản. Đấu tranh bảo vệ, phát triển
chủ nghĩa xã hội khoa học luôn luôn là vấn đề thời sự và có tính quy luật trong cuộc
đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản. Thông qua đấu tranh chống lại những quan
điểm sai trái, thù địch, bảo vệ, phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa

50
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

học góp phần củng cố, bảo vệ và phát triển hệ tư tưởng của giai cấp vô sản, thực hiện
mục tiêu cuối cùng là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Chủ nghĩa xã hội không phải là một khuôn mẫu máy móc, có sẵn, chủ nghĩa
xã hội sinh động và sáng tạo trong đời sống hiện thực. V.I.Lênin đã từng nói:
“Chúng ta chỉ biết phương hướng của con đường đó và những lực lượng giai cấp
nào dẫn đến con đường đó, còn như về cụ thể và trên thực tế con đường đó ra sao
thì kinh nghiệm của hàng triệu con người sẽ chỉ rõ, khi họ bắt tay vào hành động”
(V.I.Lênin, 2005b, 152-153). Xuất phát từ thực tế khách quan, vận dụng sáng tạo và
phát triển lý luận là yêu cầu quan trọng bảo đảm sức sống và phát huy vai trò của
chủ nghĩa xã hội khoa học trong thực tiễn cách mạng. Đó cũng là quy luật của cuộc
đấu tranh bảo vệ và phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Ban Bí thư Trung ương Đảng. (2018). Chỉ thị “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất
lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới”, số 23-CT/TW, ngày 9-2-2018. Hà Nội.
[2]. Bộ Chính trị. (2018). Nghị quyết về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, số
35-NQ/TW ngày 22/10/2018. Hà Nội.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
Chính trị quốc gia.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Chính trị quốc gia.
[5]. Đảng Cộng sản Việt nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.
Chính trị quốc gia.
[6]. Hồ, C. M. (2011a). Hồ Chí Minh toàn tập (Vol. 2). Chính trị quốc gia - Sự thật.
[7]. Hồ, C. M. (2011b). Hồ Chí Minh toàn tập (Vol. 5). Chính trị quốc gia - Sự thật.
[8]. Nguyễn, P. T. (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính trị quốc gia - Sự thật.
[9]. V.I.Lênin. (2005a). Toàn tập (Vol. 6). Chính trị quốc gia - Sự thật.
[10]. V.I.Lênin. (2005b). Toàn tập (Vol. 34). Chính trị quốc gia - Sự thật.

51
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

NHẬN THỨC MỚI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (TỪ ĐẠI HỘI VII ĐẾN ĐẠI HỘI XIII)
VÀ NHIỆM VỤ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN NAY
Đinh Thị Thủy Bình, Nguyễn Tiến Dũng
Trường Đại học Nguyễn Huệ
Tác giả liên hệ: Đinh Thị Thủy Bình, email: dinhthuybinh1983@gmail.com

Tóm tắt: Trong suốt chặng đường lãnh đạo cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua,
Đảng ta luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lãnh
đạo nhân dân ta giành được những thắng lợi hết sức to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Trên
cơ sở vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
chủ nghĩa xã hội, tham khảo kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, nhất là trong thời kỳ đổi mới, nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã
hội ngày càng sáng rõ. Trong phạm vi bài viết, nhóm tác giả tập trung làm rõ sự phát
triển nhận thức mới của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội từ Đại hội VII
đến Đại hội XIII và nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Từ khóa: Đảng Cộng sản Việt Nam; chủ nghĩa xã hội; tư tưởng Hồ Chí Minh.

1. MỞ ĐẦU
Hơn một phần tư thế kỷ đổi mới (Đại hội lần thứ VI của Đảng 12/1986) và sau
này Đảng ta đã không ngừng bổ sung, phát triển đường lối, đề ra Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, từ Đại hội VII
(tháng 6-1991) cho đến nay. Với Cương lĩnh đúng đắn, cùng hoạt động thực tiễn sôi
động, phong phú, sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã đạt được những
thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Một trong những thành tựu đó là nhận thức về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn, thành
tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới của Việt Nam không những
được nhân dân ta ghi nhận, mà còn được cộng động quốc tế đánh giá cao. Theo Bác,
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của toàn dân, do đó cần phát huy
tính tích cực, chủ động của toàn dân, của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể
nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân thực

52
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

hiện đầy đủ vai trò của mình trong công cuộc xây dựng đất nuớc, bảo vệ Tổ quốc,
góp phần hiện thực hóa mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.

2. NỘI DUNG
2.1. Sự phát triển nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ Đại hội
Đảng lần thứ VII đến nay
* Sự phát triển nhận thức của Đảng về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ
đổi mới
Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội là sự vận dụng
những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ
nghĩa xã hội gắn với quá trình phát triển đất nước qua các thời kỳ. Thời kỳ trước
đổi mới, nhận thức về xã hội xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta phác thảo ban đầu
trong các văn kiện Đại hội từ năm 1954 đến năm 1986. Nhìn một cách tổng thể, thời
kỳ này, chúng ta chưa xác định được mô hình và những đặc trưng cụ thể của xã hội
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Lần đầu tiên trong lịch sử xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, mô hình xã
hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng đã được Đảng ta chỉ ra trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm
1991). Cương lĩnh năm 1991 xác định: Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội gồm 6
đặc trưng: “Do nhân dân lao động làm chủ. Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên
lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Có
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Con người được giải phóng khỏi áp
bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các dân tộc trong nước
bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị và hợp
tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991, 8-9).
Có thể nói, những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội được nêu trong Cương lĩnh
năm 1991 là những đặc trưng bản chất để nhận biết về chủ nghĩa xã hội. Những đặc
trưng này ở một phương diện nào đó cũng đã chỉ rõ động lực và mục tiêu của quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

53
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Đến Đại hội X, tổng kết hơn 20 năm đổi mới, Đảng ta đã có nhận thức mới sâu
sắc hơn về bản chất, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Đại hội X xác định, xã hội xã
hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng gồm 8 đặc trưng cơ bản: “dân giàu, nước
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát
triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình
đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế
giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006, 68).
So với Cương lĩnh năm 1991, nhận thức về bản chất, đặc trưng của chủ nghĩa
xã hội ở Đại hội X có những điểm mới. Hệ mục tiêu chung “dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được xác định là đặc trưng thứ nhất trong 8
đặc trưng. Mục đích của chủ nghĩa xã hội được xác định rõ nét, cụ thể hơn. Các đặc
trưng của chủ nghĩa xã hội mặc dù có những thay đổi về mặt ngôn từ nhưng về bản
chất cơ bản vẫn được giữ nguyên và bổ sung thêm một đặc trưng mới. Đây là một
bổ sung quan trọng về đặc trưng bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng và
nhân dân ta xây dựng. So với Cương lĩnh năm 1991, nhận thức này đầy đủ hơn,
toàn diện hơn.
Tổng kết 25 năm đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011) đã nêu rõ: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là
một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm
chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các
dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau
cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với
các nước trên thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 70).

54
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã làm rõ một số vấn đề về nội
dung xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Thứ nhất, khẳng định đặc trưng hàng đầu là xây dựng một xã hội: dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chủ nghĩa xã hội phải là dân giàu, nước
mạnh. Dân có giàu nước mới mạnh, nước mạnh tạo điều kiện cho dân giàu có chính
đáng. Dân giàu không chỉ giàu về của cải vật chất mà giàu cả về trí tuệ, văn hóa, tinh
thần, đạo đức. Sức mạnh của đất nước bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân. Nước
mạnh dựa trên nền tảng kinh tế phát triển cao, chế độ chính trị tiến bộ, dân chủ, ổn
định quốc phòng, an ninh vững mạnh, xã hội đoàn kết, đồng thuận, trong ấm ngoài
êm, không gây thù oán trong quan hệ quốc tế. Nước mạnh còn thể hiện ở ý chí độc
lập, tự lực, tự cường, ở bản lĩnh vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức.
Thứ hai, đề cao dân chủ, nội dung dân chủ được đặt lên trước công bằng, văn
minh. Đây là một điểm mới trong nhận thức và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội
của Đảng ta. Dân chủ là bước tiến, là khát vọng của con người, của mỗi dân tộc.
Dân chủ tư sản là bước tiến bộ so với chế độ phong kiến. Dân chủ xã hội chủ nghĩa
là sự phát triển chưa từng có, giải phóng triệt để con người khỏi mọi áp bức, bất
công để tạo dựng một xã hội tốt đẹp.
Thứ ba, điểm nhấn mới trong đặc trưng về kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam: Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Nói quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với lực
lượng sản xuất hiện đại là phản ánh đúng quy luật về quan hệ sản xuất phải phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp đặt ra nhiệm vụ phải không ngừng hoàn thiện quan hệ sản xuất
với sự đồng bộ của tất cả các yếu tố (chế độ sở hữu tư liệu sản xuất, chế độ quản lý
và chế độ, phương thức phân phối sản phẩm), chứ không chỉ về chế độ sở hữu về
tư liệu sản xuất.
Thứ tư, về vấn đề xã hội và con người, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm
2011) diễn đạt khái quát: Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện. Việc xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công chỉ là giải pháp để
đạt tới mục đích vì cuộc sống tốt đẹp của con người. Mục tiêu xây dựng, phát triển
con người trong chế độ xã hội chủ nghĩa cần xác định con người, nhân dân Việt
Nam là chủ thể xây dựng, tạo dựng xã hội tốt đẹp và được hưởng chính những
55
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

thành quả đó. Con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải là những
người năng động, có trí tuệ, học vấn cao, vươn tới đỉnh cao của tri thức nhân loại.
Để làm rõ và cụ thể hóa những nội dung của Cương lĩnh, Văn kiện Đại hội
XIII của Đảng xác định 4 trụ cột phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới: Thời kỳ
đổi mới đòi hỏi phải phát triển đất nước toàn diện, đồng bộ hơn về chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, trong đó phát triển kinh tế - xã
hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; xây dựng văn hóa, con người là nền
tảng tinh thần; tăng cường quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Điểm
mới nổi bật là: Văn kiện Đại hội XIII của Đảng không chỉ xác định xây dựng văn
hóa là nền tảng tinh thần mà cả xây dựng con người là nền tảng tinh thần. Đây chính
là mục tiêu, bản chất chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng.
* Sự phát triển nhận thức của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
hiện nay
Thứ nhất, nhận thức rõ hơn về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tại Đại hội VI - Đại hội của đổi mới, Đảng ta xác định, từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ và độ dài của thời kỳ đó
phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể của mỗi nước. Đối với nước
ta, thời kỳ quá độ rất lâu dài và khó khăn. Đó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu
sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng
sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng; trong đó, bao hàm nhiều chặng
đường, nhiều bước quá độ nhỏ với những nhiệm vụ tương ứng. Phải có “những
hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất, luôn luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của
lực lượng sản xuất” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 70). Đây là những cơ sở lý
luận quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra đường lối phát triển nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng - tiền...; trong đó,
thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo và chi phối các thành phần kinh
tế khác. Với đường lối đổi mới của Đảng, trước hết là đổi mới kinh tế, lực lượng sản
xuất được giải phóng khỏi những trói buộc cũ, có những bước phát triển quan trọng,
có những chuyển biến tích cực thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển, tạo nên sắc
thái mới trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Đường lối phát triển kinh tế
đúng đắn này đã được Đảng tiếp tục phát triển và hoàn thiện dần qua các kỳ đại
56
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

hội sau đó, tạo điều kiện cho sự phát triển mới về chất trong toàn bộ đời sống kinh
tế - xã hội của đất nước. Nhận thức này khắc phục được tư tưởng chủ quan, nóng
vội, giản đơn về thời kỳ quá độ.
Thứ hai, nhận thức đầy đủ hơn về cách thức bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Việc “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” được giải thích rõ về hai phương diện:
Một là, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa”. Hai là, trong khi bỏ
qua những mặt đó, cần “tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Đương nhiên, việc kế
thừa những thành tựu này phải trên quan điểm phát triển, có chọn lọc. Nhận thức
này đã góp phần khắc phục tư duy giáo điều, siêu hình về sự tương đồng và khác
biệt của hai hình thái kinh tế - xã hội mà trước đây chúng ta đã mắc phải. Thực tế
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và ở các nước khác đã khẳng định luận điểm
của V.I. Lênin: “chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh như thế nào từ tổng số những kiến
thức của nhân loại” (Lênin, 2006a, 360).
Thứ ba, về các phương hướng quá độ lên chủ nghĩa xã hội và những vấn đề
đặt ra cần phải giải quyết trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh năm 1991 đã vạch ra 7 phương hướng cơ bản của quá trình xây
dựng xã hội mới theo những đặc trưng được xác định. Sau 25 năm thực hiện Cương
lĩnh năm 1991, từ việc tổng kết thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung, phát triển nhận thức về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thể hiện ở 8 phương hướng cơ bản nhằm thực hiện
thành công mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng được về cơ
bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội và kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư
tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để đưa Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ
nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 71-72).
Trong quá trình phát triển ở Việt Nam, thị trường đóng vai trò chủ yếu trong
huy động và phân bổ các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng
sức sản xuất. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế

57
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng
các công cụ, chính sách và nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền
kinh tế, thúc đẩy sức sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường. Chính vì vậy, mối
quan hệ giữa nhà nước và thị trường, được bổ sung mới trong Văn kiện Đại hội XII
của Đảng.
Tiếp tục khẳng định đường lối phát triển của đất nước, Đại hội XIII của Đảng
làm rõ thêm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; chỉ rõ: “Con đường đi
lên CNXH của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực
tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021,
16). Điểm mới của Đại hội XIII về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
được thể hiện tập trung vào các vấn đề sau:
Một là, xác định mục tiêu và tầm nhìn phát triển.
Nghị quyết nhấn mạnh mục tiêu tổng quát là: Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng
lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh
thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định;
phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Mục tiêu cụ thể: Đến năm 2025 là nước đang phát triển, có công nghiệp theo
hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030: là nước
đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045:
trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Hai là, xác định nhiệm vụ trọng tâm.
Đại hội XII của Đảng xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm, Đại hội XIII của Đảng cũng
xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm. Tuy nhiên, so với Đại hội XII, nội dung từng nhiệm
vụ trọng tâm có những điểm mới. Về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, Báo cáo chính
trị bổ sung yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, đẩy mạnh
đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”,

58
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; nhấn mạnh củng cố lòng tin, sự
gắn bó của Nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Về phát triển kinh
tế, bổ sung, nhấn mạnh xây dựng hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển phù hợp với
nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập; phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên
kết giữa các khu vực, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất và công
nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số… Về quốc phòng, an
ninh, đối ngoại, Báo cáo chính trị nhấn mạnh: Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực
quốc phòng, an ninh, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định
để phát triển đất nước. Về văn hóa, xã hội, bổ sung, nhấn mạnh: Khơi dậy khát vọng
phát triển đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức
mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập
quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống, hạnh phúc của Nhân dân. Về dân chủ xã hội
chủ nghĩa, đại đoàn kết toàn dân tộc: hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế,
chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của
nhân dân; đồng thời tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là sự
gương mẫu tuân theo pháp luật, kỷ cương, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa của
cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội các
cấp, của cán bộ, đảng viên. Về tài nguyên, môi trường, biến đổi khí hậu: quản lý chặt chẽ,
sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; bảo vệ, cải thiện môi trường; chủ động,
tích cực triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu.
2.2. Phương hướng, nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Hiện nay, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, bên cạnh thững thuận
lợi là cơ bản thì chúng ta cũng đang đứng trước những khó khăn, thách thức to lớn,
đe dọa sự tồn vong của chế độ. Trong bối cảnh đó, việc kiên định và vận dụng sáng
tạo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân ta phải thực hiện tốt các phương hướng và nhiệm vụ cơ bản sau:
Một là, phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức là nhiệm vụ trung tâm để từng buớc xây

59
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; không ngừng nâng cao năng suất
lao động xã hội, chất lượng, hiệu quả, khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế và
cải thiện đời sống nhân dân. Trong đó, phát triển mạnh các ngành, các sản phẩm
kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; phát triển công nghiệp và xây
dựng theo hướng hiện đại, nhất là những ngành có lợi thế so sánh và có ý nghĩa
chiến lược đối với sự phát triển nhanh, bền vững, nâng cao tính độc lập tự chủ của
nền kinh tế, có khả năng tham gia có hiệu quả vào dây chuyền sản xuất và mạng
lưới phân phối toàn cầu. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn; phát triển nông - lâm - ngư nghiệp một cách toàn diện, hiệu quả, bền
vững gắn với giải quyết đồng bộ các vấn đề của nông dân, nông thôn. Phát triển
nhanh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ tài chính, ngân hàng, thương mại, du
lịch, các dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Tập trung xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng
giao thông, điện, nuớc, các công trình xử lý chất thải, bảo vệ môi trường, đáp ứng
yêu cầu phát triển của đất nước. Phát triển kinh tế - xã hội hài hòa giữa các vùng
đồng bằng, trung du và miền núi, ven biển, đảo và hải đảo, thành thị và nông thôn.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó,
cơ chế thị trường được vận dụng đầy đủ để phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn
lực nhằm phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế. Phát triển các hình thức sở hữu, các
thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể, kinh tế nhà nước ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, xã hội,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa
đói, giảm nghèo. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước để giữ vững
ổn định kinh tế vĩ mô; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế…
Ba là, chăm lo phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nền
tảng, giữ vai trò chỉ đạo trong đời sống tinh thần, xã hội. Kế thừa và phát huy những
truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh
hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích
chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ
ngày càng cao. Đấu tranh chống tư tưởng, văn hoá phản tiến bộ, trái với những truyền
thống tốt đẹp của dân tộc.

60
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Bốn là, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân,
thế trận an ninh nhân dân vững chắc; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an
ninh; xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại, lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ hùng hậu, có
sức chiến đấu cao; xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh bảo đảm cho các
lực lượng vũ trang được trang bị ngày càng hiện đại; để bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, an ninh
quốc gia và trật tự an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu
và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta.
Năm là, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp
tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho sự phát triển
đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, nâng
cao vị thế của đất nước; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong
cộng đồng quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện và phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Dân chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc
sống ở tất cả các cấp, trên tất cả các lĩnh vực; bảo đảm tất cả quyền lực đều thuộc về
nhân dân, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, luật pháp, cơ chế, chính sách của
Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; mọi cán bộ, công chức đều là công bộc của
nhân dân. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. Lấy mục tiêu xây dựng nước Việt
Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh để tập hợp, đoàn kết các giai cấp, tầng lớp nhân dân,
đồng bào các dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Bảy là, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; bảo đảm Nhà nước thực sự là
của nhân dân, nhà nước làm tốt chức năng quản lý kinh tế và đời sống xã hội, thực
hiện các cam kết quốc tế; giữ nghiêm trật tự, kỷ cương xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước và nhân dân; nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và
nhân dân.

61
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng;
thật sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc; có năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu cao, thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ,
năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng, bảo
đảm đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt đảng. Thường xuyên tự phê bình và
phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội và mọi hành động
chia rẽ, bè phái. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức, năng lực, có sức chiến đấu cao. Đảng lãnh đạo hệ thống chính
trị, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của
các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật, liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân.

3. KẾT LUẬN
Sự phát triển tư duy của Đảng trong việc xác định mô hình chủ nghĩa xã hội
từ Đại hội VII đến nay vừa là sự trung thành và vận dụng sáng tạo những quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Mô hình ấy biểu hiện như một kết cấu tổng thể, ổn định tương đối, nó
không phải là một mô hình khép kín và cứng nhắc mà nó chứa đựng khả năng mở
rộng nội hàm, tiếp tục bổ sung những nét mới là kết quả của việc không ngừng
nâng cao trình độ lý luận và tổng kết thực tiễn phong phú, đa dạng. Nó là kết quả
của sự kết hợp hài hòa cái phổ biến và cái đặc thù, cái chung và cái riêng để tạo nên
một mô hình có tên gọi: mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Nó thể hiện xu hướng
gắn kết hợp lý tiến trình phát triển của chủ nghĩa xã hội với sự vận động không
ngừng của nhân loại đi lên phía trước, kế thừa những thành tựu tiến bộ của loài
người để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vì vậy, trên cương vị
chức trách nhiệm vụ được giao, mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân cần
nhận thức sâu sắc và có những hành động thiết thực, hiệu quả, góp phần hiện thực
hóa mô hình đó trong cuộc sống.

62
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập (Vol. 19). (1995a). Chính trị quốc gia.
[2]. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập (Vol. 37). (1995b). Chính trị quốc gia.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính trị quốc gia.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
Chính trị quốc gia.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
Chính trị quốc gia.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Chính trị quốc gia.
[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.
Chính trị quốc gia.
[8]. Hồ, C. M. (2011a). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 4). Chính trị quốc gia.
[9]. Hồ, C. M. (2011b). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 8). Chính trị quốc gia.
[10]. Hồ, C. M. (2011c). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 9). Chính trị quốc gia.
[11]. Hồ, C. M. (2011d). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 10). Chính trị quốc gia.
[12]. Lênin, V. I. (2006a). Toàn tập (Vol. 41). Chính trị quốc gia.
[13]. Lênin, V. I. (2006b). Toàn tập (Vol. 30). Chính trị quốc gia.
[14]. Lênin, V. I. (2006c). Toàn tập (Vol. 36). Chính trị quốc gia.

63
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


VỀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Hoàng Mạnh Cường, Trần Đức Hà
Trường Sỹ quan Lục quân 2
Tác giả liên hệ: Trần Đức Hà, email: tranducha87@gmail.com

Tóm tắt: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam được hình thành, từng bước phát triển từ thập kỷ 20 của thế kỷ 20,
nhưng vẫn vẹn nguyên giá trị, mở đường đổi mới, soi sáng tương lai, trường tồn cùng
dân tộc và nhân loại. Qua hơn 35 năm đổi mới, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đất nước đã tiến những bước dài chưa từng có, đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Ðại hội XIII của Ðảng khẳng định: "Ðất nước ta
chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay" (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 2021, 25). Và khẳng định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 109).

Từ khóa: Đại hội XIII; chủ nghĩa xã hội; tư tưởng Hồ Chí Minh.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nhằm cung cấp thêm những luận cứ khoa học để
củng cố niềm tin vững chắc cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trên con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện khát vọng phát triển một nước Việt Nam phồn vinh,
hạnh phúc, hùng cường, cùng nhịp bước với thời đại, sánh vai với các cường quốc
năm châu, thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh và ước vọng
của toàn dân tộc ta. Bài viết tập trung đi sâu, làm rõ những vấn đề cần thực hiện
theo tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ, phát triển Chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện
nay, góp phần xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.

64
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

2. NỘI DUNG
2.1. Nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân kiên định bảo vệ con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Thứ nhất, nâng cao nhận thức đầy đủ, đúng đắn và toàn diện lý luận về con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội
Hiện nay, các thế lực thù địch đưa ra quan điểm: Đảng Cộng sản Việt Nam
cần phải bỏ cụm từ “nền tảng tư tưởng” mà cứ lấy “lý thuyết nào đúng thì theo”.
Như vậy, các thế lực thù địch đã tập trung vào nội dung chống phá trực tiếp về hệ
tư tưởng, ý thức hệ chính trị của Đảng và chúng cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh đã lỗi thời, lạc hậu, “vừa phi lịch sử, vừa phi lôgíc”, hoặc chỉ
đúng trong quá khứ và không phù hợp trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt kể từ khi
Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, đề cao những lý thuyết chính trị hiện đại trên thế giới.
Thậm chí, có những luận điệu khẳng định không cần kiên trì lý luận Mác-xít, mà
còn phủ nhận tất cả mọi thứ có liên quan đến cộng sản. Do đó, việc luận giải khoa
học, tuyên truyền, giác ngộ và nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân
dân về kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là vấn đề phải được
tiến hành thường xuyên, liên tục, có chất lượng và hiệu quả thiết thực, đồng thời
cần phải luận giải thấu đáo và phù hợp theo lý luận kinh điển đối với thực tiễn ở
Việt Nam.
Nhận thức đúng quan niệm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là bảo vệ chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng và hệ thống chính trị cần phải vận
dụng sáng tạo những di sản Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản cầm quyền
và những điều kiện phát triển, về Nhà nước xã hội chủ nghĩa và con đường quá độ
đi lên chủ nghĩa xã hội, về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, về đại đoàn
kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, về đạo đức cách mạng, về đổi mới và đối ngoại...
Như Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 7 khóa VI nhấn mạnh: “Giáo dục trong
Đảng và trong nhân dân kiên trì mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở
quán triệt năm nguyên tắc và những chính sách đổi mới của Đảng” (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 1989, 11).
Đồng thời, chủ thể lãnh đạo, quản lý các cấp, cán bộ, đảng viên và nhân dân
cần phải thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là

65
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

tính kế thừa, tính đúng đắn và phản ánh đúng quy luật phát triển của lịch sử xã hội
loài người được thể hiện trong lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin. Những tư tưởng, luận
thuyết nào đó ra đời đều là tri thức, kết tinh giá trị, trí tuệ của dân tộc và thời đại
trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Thực tiễn, các đảng phái chính trị đều phải lựa
chọn những tư tưởng, lý luận cụ thể để tổ chức, lãnh đạo và cầm quyền một xã hội
phát triển. Việc chọn lựa một hệ tư tưởng là một tất yếu, nó đại diện cho tầng lớp
hay một giai cấp nhất định và phản ánh sự kế thừa đi lên tiến bộ trên nền tảng đặc
trưng của mỗi quốc gia, dân tộc. “Mọi triết học chân chính đều là tinh hoa về mặt
tinh thần của thời đại mình... Triết học hiện đại chỉ tiếp tục cái công việc mà Heraclit,
Arixtot đã mở đầu mà thôi” (C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập 1, 1995, 157). Đó là giá
trị phổ quát của việc lựa chọn tư tưởng, lý luận để phát triển đất nước. Vì vậy, Đảng
là lực lượng đại diện cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã chọn lựa và
kiên định “chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động của Đảng” là một tất yếu khách quan theo đúng quy
luật tiến hóa của lịch sử.
Do điều kiện thực tế của lịch sử, bằng nhiều biện pháp cụ thể cần tiếp tục
nghiên cứu, nắm chắc bản chất, giá trị của các trào lưu tư tưởng trong lịch sử nhân
loại, từ đó tham chiếu, so sánh và rút ra kết luận khách quan, đúng đắn về thế giới
quan, phương pháp luận, tính thực tiễn, tính khoa học và nhân văn của lý luận Mác
- Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ tư tưởng của chính đảng vô sản cách mạng,
đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động. Chủ
nghĩa Mác - Lênin là hệ thống lý luận mở, bản thân các nhà Mác - xít đã chỉ dẫn yêu
cầu cần phải vận dụng linh hoạt và bổ sung phát triển trong điều kiện mới. “Chúng
ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm
phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà
những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ
không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống. Chúng tôi nghĩ rằng những người
xã hội chủ nghĩa ở Nga đặc biệt cần phải tự mình phát triển hơn nữa lý luận của
Mác, vì lý luận này chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạo chung, còn việc áp dụng
nguyên lý ấy thì xét riêng từng nơi, ở Anh không giống ở Pháp, ở Pháp không giống
ở Đức, ở Đức không giống ở Nga” (Lênin, 1974). Thực tiễn ở các quốc gia vận dụng
sáng tạo và đúng đắn phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin thì sẽ phát triển;

66
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

trái lại đảng chính trị nào thực hiện giáo điều, rập khuôn, máy móc thì sẽ thất bại.
Vì vậy, Hồ Chí Minh khẳng định việc học chủ nghĩa Mác - Lênin không phải nhắc
như con vẹt “vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại” mà phải
thống nhất chủ nghĩa Mác - Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Nói đến chủ
nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam là nói đến chủ trương, chính sách của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Qua đó, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân cần phải thấm nhuần sâu sắc nền
tảng tư tưởng của Đảng và có biện pháp đấu tranh ngăn chặn những quan điểm sai
trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch. Theo Hồ Chí Minh, cần phải quán triệt làm
cho “ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy” để họ vận dụng trong thực
tiễn công tác và đời sống. Thực tiễn đã chứng minh chủ nghĩa Mác - Lênin không
lỗi thời bởi vì những giá trị có ý nghĩa bền vững không thể phủ nhận về: Phương
pháp biện chứng duy vật trong lý luận kinh điển là sự kết tinh toàn bộ những giá
trị tinh hoa của lịch sử phát triển quan điểm duy vật của nhân loại. Phương pháp
này phản ánh đúng bản chất, quy luật và những mối liên hệ cơ bản trong tự nhiên,
xã hội và tư duy của con người. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã kiến giải sự phát triển
các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên, trong đó, chủ nghĩa
xã hội không chỉ là sự phát triển tất yếu theo quy luật mà còn là ước vọng ngàn đời
của nhân dân các dân tộc trên thế giới về một xã hội phồn vinh, hạnh phúc như Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày
một giàu mạnh thêm” (Hồ, 2011b, 563), vì thế mà lý luận này có giá trị bền vững
hiển nhiên, không thể phủ nhận. Những di sản về tư tưởng Hồ Chí Minh đã tạo nên
hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc, “bao hàm nội dung rất rộng, liên quan
đến toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, 83-84).
Đúng như đánh giá của Giáo sư Singô Sibata (người Nhật Bản) đã khẳng định:
“Cống hiến nổi tiếng của Cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi
của con người thành quyền lợi của dân tộc” (Shibata, 1979, 76).
Thứ hai, không ngừng tổng kết thực tiễn, bổ sung phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới.
Nhìn lại hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kiên định và vận
dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và

67
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Nhà nước ta có cơ sở lý luận để thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong đó:
“Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn
hoá là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 33). Ngoài ra, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là cơ sở lý luận để tổng kết rút kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội
trước đây, từ đó Đảng ta đưa ra “Mục tiêu, đặc trưng, những phương hướng cơ bản
và những quan hệ lớn mang tính quy luật trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc tiếp tục được bổ sung, cụ thể hoá, phát triển với những nhận
thức quan trọng” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 99). Đây là phương pháp luận để
giải quyết tốt quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa tuân thủ các quy luật thị trường và
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa;... Như vậy, chính chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là thế giới quan, phương pháp luận cho chúng ta thực hiện công
cuộc đổi mới thành công và định vị cho tương lai của dân tộc phát triển hùng cường.
Do đó, để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta cần
tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, cung cấp thêm sức sống mới cho chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển
nhanh và bền vững đất nước. Thường xuyên gắn lý luận với giải quyết những vấn
đề của thực tiễn đất nước và xuất phát từ thực tiễn để bổ sung, phát triển lý luận.
Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải luôn xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng
và hành động theo đúng quy luật khách quan; không được phủ nhận nền tảng tư
tưởng mà Đảng và dân tộc ta đã kiên định; không được chủ quan, nóng vội, duy ý
chí, rập khuôn máy móc, giáo điều, bảo thủ trong nhận thức lý luận và hành động
thực tiễn. Đồng thời phải chống việc tuyệt đối hóa những điều kiện cụ thể của dân
tộc, quốc gia và hạ thấp những nguyên lý chung của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh để tránh rơi vào dân tộc cực đoan, xét lại. Luôn luôn trau dồi
tri thức lý luận và rút ra những bài học kinh nghiệm thực tiễn trong nước và quốc
tế. Tôn trọng và phát huy tối đa quyền làm chủ của nhân dân, lắng nghe ý kiến và
nguyện vọng của nhân dân. Không ngừng tìm tòi, đổi mới nội dung, phương thức,
hình thức tuyên truyền, giáo dục nền tảng tư tưởng của Đảng cho phù hợp với từng
đối tượng cụ thể, đảm bảo hiệu quả thiết thực và chất lượng tốt nhất. Từ đó làm cho

68
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân không chỉ hiểu rõ mà còn tin tưởng làm theo và
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Kiên định và
không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn” (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 2021, 180). Như vậy, những luận cứ khoa học và thực tiễn nêu trên đã
chứng minh nền tảng tư tưởng của Đảng là một hệ thống chỉnh thể thống nhất các
quan điểm sâu sắc, toàn diện, khoa học được đúc kết bởi trí tuệ, tinh hoa của nhân
loại luôn luôn được bổ sung, phát triển cùng thời đại và thực tiễn Việt Nam.
2.2. Phản bác những luận điệu sai trái và không ngừng vận dụng, phát triển sáng
tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Thứ nhất, nhận diện và phản bác những luận điệu cho rằng con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam là sai lầm
Công cuộc đổi mới toàn diện hiện nay đã và đang diễn ra trong bối cảnh và
yêu cầu mới, các thế lực thù địch không ngừng thay đổi phương thức, thủ đoạn
chống phá, tuyên truyền, xuyên tạc, phủ nhận những thành quả Cách mạng Tháng
Tám năm 1945, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của dân tộc
Việt Nam. Chúng cho rằng: “Cách mạng Tháng Tám là một sai lầm lịch sử, là sự
thay thế chế độ “đảng trị” cho “vua trị” hay là sự ăn may từ khoảng trống quyền
lực tại thời điểm năm 1945 do phát xít Nhật thua quân đồng minh” (S. H. Nguyễn,
2020). Những phương thức, thủ đoạn tuyên truyền, xuyên tạc, bịa đặt con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội là sai lầm của lịch sử như trên cần phải được đấu tranh loại
bỏ. Quá trình Nguyễn Ái Quốc sau gần 30 năm bôn ba, khảo sát, tìm tòi, khảo
nghiệm tìm đường cứu nước ở khắp các châu lục và các nước Tư bản, Người đã tìm
thấy con đường giải phóng cho dân tộc. Người khẳng định: Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Từ đó,
Người đã có sự chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Đây là cơ sở để Đảng ta lãnh đạo xây dựng, tổ chức lực lượng và
từng bước đấu tranh qua ba cao trào cách mạng làm tiền đề cho Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 thành công. Năm 1941, Người về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, Người đã chủ động, tích cực theo dõi tình hình, dự đoán chính xác tình
thế cách mạng, nắm bắt thời cơ cách mạng và kiên quyết lãnh đạo nhân dân đứng
lên chớp thời cơ chín muồi, phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, xóa bỏ

69
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

sự thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật và bọn phong kiến, tay sai, giành độc
lập hoàn toàn. Nhà nghiên cứu William J.Duiker (người Mỹ) đã đánh giá chính xác
nhân tố chủ quan mang tính quyết định, bên cạnh những yếu tố ngẫu nhiên thuận
lợi tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. William J.Duiker phân tích rằng:
“Nhưng chỉ riêng các điều kiện khách quan thì không làm nên một cuộc cách mạng,
và ở đây công lao thuộc về những người Cộng sản. Họ đã có thể chớp lấy thời cơ
được mở ra vô cùng thuận lợi vào lúc kết thúc cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương.
Ở các xứ thuộc địa khác, khoảng trống ấy có thể được lấp đầy bởi lực lượng dân tộc
chủ nghĩa không Cộng sản. Nhưng ở Việt Nam, các phần tử dân tộc chủ nghĩa đã
không thể đứng lên chấp nhận thách thức. Ngay lúc đó, chỉ có Đảng Cộng sản Đông
Dương sở hữu ý thức về sự kịp thời và thấu hiểu được sự tinh tế có tính chiến lược
của hoàn cảnh để vùng lên đúng lúc. Điểm cuối cùng này mới là quan trọng”
(Duiker, 1981, 100-101). Lịch sử đã chứng minh thành quả của Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 đã xây dựng nên Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên trong lịch sử
dân tộc Việt Nam, nhân dân có địa vị làm chủ và có đời sống ấm no, tự do, hạnh
phúc; cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là cuộc đấu tranh chính
nghĩa, chống lại kẻ thù đã xâm chiếm, bóc lột, giết hại đồng bào ta, chúng không
chịu trao trả nền độc lập cho dân tộc ta; đập tan âm mưu biến nước ta là thuộc địa,
sân sau phục vụ cho mưu đồ chính trị của chúng. Nhưng đất nước ta đã “giành lại
hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Có
thắng lợi ấy là nhờ lòng nồng nàn yêu nước, tình đoàn kết nhất trí và tinh thần hy
sinh chiến đấu của toàn thể quân và dân ta từ Nam đến Bắc” (Hồ, 2011a, 36).
Trong xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển hiện nay, Đảng ta tiếp tục khẳng
định tư tưởng Hồ Chí Minh là bộ phận quan trọng cấu thành nền tảng tư tưởng của
Đảng. Trong đó cống hiến lớn lao của Hồ Chí Minh cho cách mạng Việt Nam là tư
tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh lựa chọn con
đường cách mạng vô sản tức là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây
là một đột phá về lý luận của Hồ Chí Minh về con đường, mục tiêu và phương thức
phát triển của cách mạng Việt Nam. Đột phá vì trên thế giới chưa có một lý luận
nào như thế. Di sản Hồ Chí Minh cho thấy từ cách mạng giải phóng dân tộc phải đi
tới cách mạng xã hội chủ nghĩa và trong khi tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa
vẫn tiến hành giải phóng dân tộc theo phương thức thực hiện đồng thời hai nhiệm

70
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

vụ chiến lược cách mạng: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội. Theo Người, trong hoàn cảnh một nước thuộc địa thì trước hết phải
giành cho kỳ được độc lập dân tộc. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng
hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. Muốn có độc lập tự do thì
phải xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người chỉ rõ: “Từng bước một, trong cuộc đấu
tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi
hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được
các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ” (Hồ,
2011b, 563). Về lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội trong di sản Hồ Chí Minh, Giáo
sư Singô Sibata đã từng nhận xét rằng: Một trong những cống hiến quan trọng của
Cụ Hồ Chí Minh và của Đảng Lao động Việt Nam là đã đề ra lý luận về chủ nghĩa
xã hội trong khi vẫn tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân. Theo tôi được biết, Đảng
Lao động Việt Nam là đảng đầu tiên trong các đảng Mác- xít trên thế giới áp dụng
lý luận này.
Thứ hai, đấu tranh phản bác những quan điểm phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội hiện nay ở Việt Nam của các thế lực thù địch
Thời gian qua trên một số diễn đàn, nhất là các trang mạng xã hội xuất hiện
các quan điểm sai trái, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trước
tình hình đó, để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải có trách nhiệm phản bác các
luận điệu cho rằng: Hồ Chí Minh có quan điểm sâu sắc về giải phóng dân tộc, nhưng
hoàn toàn không có tư tưởng về chủ nghĩa xã hội. Lý sự của loại quan điểm này là
toàn bộ sự nghiệp cách mạng do Hồ Chí Minh lãnh đạo tập trung cho giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước; lúc Người qua đời, nhiệm vụ này chưa giải quyết
xong và trong Di chúc, Người viết về mong muốn cuối cùng là xây dựng một nước
Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, không có cụm từ
“chủ nghĩa xã hội”. Các luận điệu xuyên tạc cho rằng: Khi Hồ Chí Minh còn sống
đã không có chủ nghĩa xã hội, thì ngày nay chủ nghĩa xã hội chỉ là “cái vỏ bề ngoài”
bao bọc một xã hội tư bản và nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Điển hình là
các bài viết như: “Chủ nghĩa xã hội đối lập với độc tài cộng sản Việt Nam” và một
số phát ngôn của Lê Trung Khoa, Trương Quốc Huy, Nguyễn Văn Đài (trên Bloger

71
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

của hoianhemdanchu, ngày 20/5/2021); “Lãnh tụ” của Sơn Nghị đăng ngày
29/5/2020; “Bài cuồng ca lãnh tụ” (của Vũ Đông Hà, đăng ngày 10/8/2020); bài viết
“Lênin và đám mù lòa” (của Đỗ Ngà, đăng trên Chantroimoi media, ngày 18/5/2021)
rêu rao rằng “đám cộng sản đời sau là một đám mù nối đuôi nhau từ những năm
70 của thế kỷ trước đến nay, đứa đi sau ca tụng đứa đi trước là sáng suốt nhưng
thực tế cả đám đều mù lòa như nhau”; bài viết “Ông Trọng - Tín đồ cuồng tín cuối
cùng Mác-xít” (của Phạm Minh Vũ, đăng trên Chantroimoi media, ngày 18/5/2021)
nêu lên rằng vị Tổng Bí thư của Đảng là “một tín đồ cuồng tín cuối cùng bám vào
một tư tưởng mà nơi sinh ra nó đã vứt vào sọt rác”, không có “ai hiểu” mà lại “bắt”
cả dân tộc “Việt Nam kiên định, kiên trì theo đuổi chủ nghĩa xã hội”; bài viết
“Nguyễn Phú Trọng và con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa” (của Trung Điền - Việt
Tân, đăng trên Chantroimoi media, ngày 19/5/2021) nói về Tổng Bí thư của Đảng là
“nhà lý thuyết về chủ nghĩa xã hội” mà Hồ Chí Minh và Đảng đã lựa chọn là “sai
lầm”, vì nền kinh tế “bị phá sản kinh tế và phải xoay qua dựa vào các nền kinh tế
tư bản giàu có để sống còn và phát triển”... Những luận điệu nêu trên tuy không
mới nhưng được thực hiện theo kiểu “xào đi xáo lại”, “mưa dầm thấm lâu”, lại
thường xuyên đưa lên mạng xã hội, Blog cá nhân, Youtube... vào những thời điểm
đất nước có những sinh hoạt chính trị quan trọng nên rất độc hại, nguy hiểm, dễ
gây hoang mang, dao động, mất niềm tin vào Đảng và chế độ trong mỗi cán bộ,
đảng viên và nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên cần tỉnh táo nhận diện và đấu tranh
kịp thời, hiệu quả với những luận điệu sai trái này, bảo vệ con đường đi lên Chủ
nghĩa xã hội mà Đảng, nhân dân ta đang tiến hành.
Bằng sự nghiên cứu, tìm tòi, khảo nghiệm, thấu hiểu được hoàn cảnh dân tộc,
kinh qua thực tiễn và học hỏi lý luận, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo, bổ sung,
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, coi đó là “cẩm nang” cho dân tộc tiến bước trên
con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tuyệt nhiên không phải là sự nhập
khẩu, “sao chép” hay áp đặt lý luận này cho dân tộc Việt Nam mà với tình yêu giai
cấp và thấu cảm tình cảnh của nhân loại, Người đã tìm đường, Người mở đường
và Người dẫn đường cho cách mạng Việt Nam giành độc lập, xây dựng xã hội mới,
cuộc sống mới. Thế nhưng có nhiều luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, sai trái của
các thế lực thù địch chống phá con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã

72
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

hội ngay từ khi Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo cuộc kháng chiến, kiến
quốc cho đến ngày nay.
Trước khi về cõi vĩnh hằng, Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng và dân tộc bản
Di chúc lịch sử có giá trị trường tồn, đặc biệt trong đó nói về khát vọng xây dựng
đất nước kiên định theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Di chúc có tới ba lần
viết về cụm từ chủ nghĩa xã hội. Người viết về Đảng cần phải chăm lo đào tạo thanh
niên “thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa
“chuyên”. Viết về những chiến sĩ trẻ tuổi trong lực lượng vũ trang và thanh niên
xung phong, sau khi căn dặn Đảng và Chính phủ chọn một số ưu tú nhất cho đi học
thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật
giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc, Người khẳng định: Đó là đội
quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Di
chúc còn cho biết Người có ý định “thay mặt nhân dân đi thăm và cảm ơn các nước
anh em trong phe xã hội chủ nghĩa và các nước bầu bạn khắp năm châu”. Điều quan
trọng không phải nằm ở cụm từ “chủ nghĩa xã hội”, mà ở chỗ toàn bộ Di chúc chứa
đựng tinh thần, tầm nhìn đổi mới, hội nhập, phát triển đất nước theo con đường xã
hội chủ nghĩa. Người nói đến xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất,
dân chủ, giàu mạnh; nói đến “thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay”.
Cái đích của chủ nghĩa xã hội được khẳng định trong Di chúc là “Đảng cần phải có
kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời
sống của nhân dân” (Hồ, 2011c, 612).
Lịch sử đã chứng minh, trong suốt quá trình hơn 90 năm lãnh đạo đất nước,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua nhiều bước ngoặt và thử thách của lịch sử
nhưng Đảng vẫn khẳng định: “Kiên định chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng tư tưởng là bài học kinh nghiệm quý báu của cách mạng Việt Nam.
Sự vận động và không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam” (Vũ, 2020,
344). Qua hơn 35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về chủ nghĩa xã hội ngày càng
được hoàn thiện và từng bước hiện thực hóa. Chúng ta đã đạt được những thành

73
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm
trước đổi mới. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả
của quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
ta. Điều đó chứng tỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn đúng đắn, phù
hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời
đại. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định việc kiên định và vận dụng, phát
triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng;
kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tóm lại, việc tổng kết lý luận và thực tiễn trong quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng là luận cứ khoa học nhằm chứng
minh con đường độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn đúng đắn
và phù hợp với xu thế của thời đại, với đặc điểm lịch sử - cụ thể của cách mạng Việt
Nam, đáp ứng khát vọng của nhân dân ta.
Thứ ba, cần có quan điểm đầy đủ, khách quan và chính xác về bản chất của chủ nghĩa
tư bản và những tồn tại không thể điều hòa được
Hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát
triển mạnh mẽ, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với nước ta. Chủ nghĩa tư bản có
nhiều điều chỉnh để thích ứng, che dấu bản chất, làm cho nhiều người nhầm tưởng
nó là một xã hội tiến bộ. Nhà khoa học Terry Eagleton (người Anh) đã đánh giá
rằng: Những nước tư bản hiện đại là kết quả của một lịch sử nô dịch, diệt chủng,
bạo lực và bóc lột một cách ghê tởm. Sự vận động không ngừng từ khi ra đời đến
nay của chủ nghĩa tư bản luôn gắn liền với chiến tranh, tất nhiên, không thể phủ
nhận hoàn toàn lịch sử tư bản là xấu xa, đen tối và càng không thể ảo tưởng về một
viễn cảnh thế giới tư bản đầy tốt đẹp như một số quan điểm chưa hiểu rõ bản chất
của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Trên thế giới, chủ nghĩa tư bản đang
chiếm đại đa số các quốc gia và có nhiều thành tựu to lớn, tác động thay đổi kinh tế
- xã hội của nhân loại, không thể phủ nhận những giá trị của tư bản mang lại cho
thế giới, nhưng bản thân chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại những mâu thuẫn không thể
điều hòa được. “Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản
chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn
có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao

74
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng
những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế,
chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 68). Chính từ
mâu thuẫn trên dẫn tới những mâu thuẫn giữa các giai tầng trong xã hội với giai
cấp tư sản, giữa các tập đoàn tư bản và các công ty xuyên quốc gia, các trung tâm
quyền lực tư bản với nhau. Mặc dù đã có sự điều chỉnh để thích nghi với điều kiện
ngày nay nhưng chủ nghĩa tư bản với bản chất bóc lột vẫn mang tính cố hữu đồng
thời những hạn chế, khuyết tật về sự xung đột, khủng bố, bạo lực và bất ổn xã hội,
khủng hoảng kinh tế, bất bình đẳng xã hội,... của chủ nghĩa tư bản vẫn không thay
đổi mà còn diễn ra hết sức gay gắt và phức tạp. Như đánh giá của giáo sư Paul
Mishler (Trường Đại học Indiana, Mỹ) cho rằng chế độ tư bản đã sinh ra “mọi đói
nghèo, thất nghiệp, thất học và bạo lực” (X. T. Nguyễn, 2018). Thậm chí, như đánh
giá của giáo sư Jefferey Sachs cho rằng: Thực chất của chế độ tư bản là “của 1%, do
1% và vì 1%” (Lam Anh & Văn Hiếu, 2021) (của số người chiếm 1% dân số, do số
người chiếm 1% dân số và vì số người chiếm 1% dân số). Với những mâu thuẫn
mang tính bản chất như trên, cùng sự vận động của quy luật xã hội, xu hướng diệt
vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản vẫn là vấn đề thời sự từ thời Mác sống tới nay.
Do đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011), Đảng ta một lần nữa khẳng định việc đi lên chủ nghĩa
xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.
Quá trình vừa tiến hành đổi mới toàn diện đất nước, vừa tổng kết kinh
nghiệm, khái quát lý luận về chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã chủ động tham khảo, học
hỏi kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý của các đảng chính trị và các thể chế trên thế giới
nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đảng đã nêu ra những tồn tại, thách
thức đang đặt ra hiện hữu trong lòng dân tộc: Về tham nhũng, lãng phí, quan liêu;
về chệch hướng xã hội chủ nghĩa; tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong
khu vực và trên thế giới; về “diễn biến hòa bình”; về phân hóa giàu nghèo;... Đảng
cũng đã đề ra phương hướng chiến lược, giải pháp trọng tâm để giải quyết những
thách thức trên, đảm bảo sự hài hòa, phát triển nhanh và bền vững. Đó là thúc đẩy
hợp tác sâu rộng, toàn diện, song phương và đa phương, thực hiện quan hệ đối
ngoại Đảng, đối ngoại Nhà nước và đối ngoại nhân dân với mọi tổ chức, cá nhân

75
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

trên thế giới trên cơ sở “đôi bên cùng có lợi”, đảm bảo lợi ích quốc gia và tôn trọng
pháp luật Việt Nam. Tranh thủ sự giúp đỡ, hợp tác cùng phát triển để đất nước tiến
nhanh, tiến kịp, tiến vững chắc trên con đường xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục thúc đẩy
phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình kinh tế, khuyến khích phát triển kinh
tế tư nhân và khích lệ đóng góp cho xã hội; có chính sách quan tâm ưu tiên, thu hút
đầu tư phát triển kinh tế vùng núi, vùng cao, biên giới, vùng đặc biệt khó khăn,
đảm bảo sự hài hòa trong sự phát triển vùng miền, rút ngắn khoảng cách đô thị với
vùng sâu, vùng xa. Đẩy mạnh việc xây dựng chương trình nông thôn mới, xây dựng
văn hóa ở khu dân cư, đảm bảo an ninh, trật tự thôn xóm. Phát triển kinh tế gắn với
thực hiện tốt chính sách xã hội và phúc lợi cộng đồng, tiến bộ và công bằng xã hội,
đặc biệt quan tâm đồng bào dân tộc thiểu số, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, với
phương châm “không để ai bị bỏ lại phía sau”.
Hiện nay, tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn,
thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới đối với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh đó, Đại hội XIII của Đảng đã xác định rõ
được tầm nhìn và định hướng phát triển đất nước đến giữa thế kỷ XXI, thể hiện sự
khát vọng lớn lao của Đảng và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, của dân tộc;
“phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 112). Đồng thời, xác định
các mục tiêu cụ thể: đến năm 2025: là nước đang phát triển, có công nghiệp theo
hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030: là nước
đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045:
trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Đây là những định hướng, mục tiêu lớn,
thể hiện rõ trách nhiệm, niềm tin và cũng là khát vọng của Đảng, là ước nguyện của
nhân dân, của dân tộc Việt Nam về một tương lai tươi đẹp.
3. KẾT LUẬN
Chủ nghĩa xã hội không phải là một cái gì siêu phàm, mà là từ chính hiện thực
cuộc sống của chúng ta và đi lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lâu dài, vừa đi
vừa tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận. Đó là xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày
càng tăng, tinh thần ngày càng tốt. Điều đó thể hiện rõ trong mỗi bước đi của cách
mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng thông qua các văn kiện Đại hội Đảng
toàn quốc; đồng nghĩa theo thời gian ngày càng cho thấy rõ ràng hơn về mô hình

76
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

chủ nghĩa xã hội mà Việt Nam đã, đang, sẽ xây dựng. Trong đó, Đại hội XIII sẽ là
dấu mốc quan trọng đưa Việt Nam tiến thêm một bước tới gần đích chủ nghĩa xã
hội hơn. Hiểu được tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội để thấy sự lựa chọn
con đường chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, nhằm thực hiện
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh - mục tiêu cao cả hướng tới
của văn minh nhân loại. Từ đó, sẽ thêm tin tưởng vào con đường chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam, biết trân trọng giá trị và bảo vệ thành quả cách mạng, đấu tranh phản
bác những luận điệu xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ,
góp phần xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc
năm châu như Bác Hồ hằng mong muốn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập (Vol. 1). (1995). Chính trị quốc gia.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1989). Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khóa VI. Sự thật.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
Chính trị quốc gia.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Chính trị quốc gia.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
(Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[6]. Duiker, W. J. (1981). The Communist Road To Power In Vietnam. BoulderCo.
[7]. Hồ, C. M. (2011a). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 9). Chính trị quốc gia.
[8]. Hồ, C. M. (2011b). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 12). Chính trị quốc gia.
[9]. Hồ, C. M. (2011c). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 15). Chính trị quốc gia.
[10]. Lam Anh & Văn Hiếu. (2021). Hưởng ứng bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng: 10 năm nhìn lại phong trào “Chiếm lấy phố Wall” và mặt trái của chủ nghĩa
tư bản (tiếp theo và hết). Báo Quân Đội Nhân Dân. https://www.qdnd.vn/chinh-
tri/cac-van-de/huong-ung-bai-viet-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-10-
nam-nhin-lai-phong-trao-chiem-lay-pho-wall-va-mat-trai-cua-chu-nghia-tu-
ban-tiep-theo-va-het-660345
[11]. Lênin, V. I. (1974). Toàn tập (Vol. 4). Tiến bộ.

77
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

[12]. Nguyễn, S. H. (2020, August 22). Không thể phủ nhận thành quả Cách mạng Tháng
Tám. Trang Tin Điện Tử Đảng Bộ Thành Phố Hồ Chí Minh.
https://www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/khong-the-phu-nhan-thanh-qua-cach-
mang-thang-tam-1491868755
[13]. Nguyễn, X. T. (2018). Việt Nam không cần và không chấp nhận đa Đảng. Tạp Chí
Tuyên Giáo. https://tuyengiao.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/viet-
nam-khong-can-va-khong-chap-nhan-da-dang-113557
[14]. Shibata, S. (1979). Hồ Chí Minh trong lòng nhân dân thế giới. Sự thật.
[15]. Vũ, V. H. (2020). Một số luận cứ phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống
phá Đại hội XIII của Đảng (Vol. 1). Chính trị Quốc gia sự thật.

78
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM XÁC LẬP, HOÀN THIỆN LÝ LUẬN
VỀ MÔ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Hoàng Trung Dũng


Trường Đại học Xây dựng Hà Nội
Tác giả liên hệ: Hoàng Trung Dũng, email: Dunght@nuce.edu.vn

Tóm tắt: Thực tiễn quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cho thấy việc
nhận thức, vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam gặp không ít khó
khăn và thách thức. Trong bài viết tác giả tập trung làm rõ một số nội dung như:
Những nhân tố tác động đến quá trình đổi mới nhận thức của Đảng về những đặc
trưng của chủ nghĩa xã hội; Quá trình xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội; Đề xuất
cho việc xây dựng con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh mới ở Việt Nam
dưới ánh sáng của Đại hội XIII của Đảng. Việc làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn về chủ nghĩa xã hội, về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vừa là đòi hỏi
khách quan của lịch sử, nhằm giải quyết tốt các vấn đề đang đặt ra cho Đảng và dân
tộc ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Đảng Cộng sản Việt Nam; xác lập; hoàn thiện; mô hình chủ nghĩa xã hội.

1. MỞ ĐẦU
Trong hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, dù trong hoàn cảnh nào
Đảng ta vẫn luôn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là “sợi chỉ
đỏ” xuyên suốt đường lối cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi mới ra đời và trong
suốt quá trình đấu tranh cách mạng đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng
định: Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt
Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách
mạng Việt Nam. Năm 1930, trong Cương lĩnh chính trị của mình, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã chủ trương: “Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do giai
cấp công nhân lãnh đạo, tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ
nghĩa”. Vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội hiện
thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không còn,

79
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

phong trào xã hội chủ nghĩa đang trong giai đoạn khủng hoảng, thoái trào, gặp rất
nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân
dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa
trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”, và đã được khẳng
định điều này tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI (tháng 01-2011) trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Lịch sử dân tộc ta đã
chứng tỏ con đường xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn đúng đắn, nhất quán của Chủ
tịch Hồ Chí Minh kính yêu và cũng chính là sự lựa chọn của nhân dân ta. Từ tổng
kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng sáng tỏ hơn. Nhận thức ngày càng sâu sắc
hơn, đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội là vấn đề có tính quy luật về nhận thức hiện
thực khách quan. Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác lập, hoàn thiện lý luận về mô
hình chủ nghĩa xã hội, đây là cơ sở khoa học cho đường lối của Đảng, góp phần bổ
sung và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU


2.1. Những nhân tố tác động đến quá trình đổi mới nhận thức của Đảng về xây
dựng mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Một là, cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực và vấn đề thời đại đã làm
bộc lộ những hiện tượng, những quy luật, những nhân tố và những xu hướng mới.
Công cuộc cải tổ ở Liên Xô và Đông Âu không thành công là bằng chứng về
sự sai lầm về đường lối cải tổ. Mọi ý định tốt đẹp đã không thể diễn ra trên thực tế,
do không có những cơ sở lý luận được luận chứng một cách khoa học và cương lĩnh
thực thi hiệu quả. Kết cục là chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước sụp đổ. Trong khi
đó các nước xã hội chủ nghĩa Trung Quốc, Việt Nam, Cuba tiến hành cải cách, đổi
mới lại theo một mô thức và giải pháp khác.
Con đường đi lên của Trung Quốc không rập khuôn máy móc mô hình nước
ngoài, lấy chủ nghĩa Mác làm tư tưởng chỉ đạo, xuất phát từ tình hình cụ thể của
mình, Trung Quốc xác định họ đang ở giai đoạn chủ nghĩa xã hội và giai đoạn này
kéo dài cả trăm năm. Cuộc cải cách “vì chân lý và lẽ phải” ở Cuba được bứt phá từ
điểm xuất phát của “năm chạm đáy”, “năm ở cuối đường hầm” - 1993. Đảng và nhà

80
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

nước Cu Ba nhạy cảm đối với những vấn đề cốt lõi: Giải phóng sức sản xuất, thừa
nhận vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh và sự linh hoạt trong chính trị cũng như
ngoại giao.
Thời kỳ trước đổi mới, nhận thức về xã hội xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta
phác thảo ban đầu trong các văn kiện Đại hội từ năm 1954 đến năm 1986. Nhìn một
cách tổng thể, thời kỳ này, chúng ta chưa xác định được mô hình và những đặc
trưng cụ thể của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tuy nhiên, về cơ bản trong
nhận thức và chịu ảnh hưởng trực tiếp của cơ chế quản lý kế hoạch hóa, tập trung
quan liêu và bao cấp, chịu ảnh hưởng trực tiếp của hoàn cảnh và quy luật của chiến
tranh và có sự tác động của tình hình quốc tế. Các nước xã hội chủ nghĩa tuy có
nhiều thành tựu xong vẫn còn đang trong quá trình khảo nghiệm, các hình thức,
bước đi và yêu cầu khách quan phải cải tổ, cải cách, mở cửa. Sự chuyển biến trong
tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cùng những
chính sách, chủ trương đổi mới bước đầu đã được khẳng định tại Đại hội VI của
Đảng. Qua mỗi chặng đường, Đảng và nhân dân ta kịp thời phát hiện vấn đề, sơ
kết, tổng kết kinh nghiệm, điều chỉnh bước đi phù hợp nhằm tăng cường năng lực
nội sinh, thu hút sức mạnh bên ngoài, từng bước tiến lên vững chắc theo con đường
xã hội chủ nghĩa. Như vậy, nhân tố cơ bản sâu xa và trực tiếp quy định quá trình
đổi mới nhận thức của Đảng ta về những đặc trưng chủ nghĩa xã hội chính là sự
khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực và vấn đề thời đại. Sự khủng hoảng
đó đã chứng minh rằng, nhiều nhận thức cũ của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã
không còn phù hợp với thực tiễn và phải thay đổi nhận thức về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Hai là, bối cảnh kinh tế và chính trị quốc tế tác động đến quá trình đổi mới tư duy lý
luận của Đảng.
Sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ làm cho chủ nghĩa xã
hội trên thế giới tạm thời lâm vào tình trạng thoái trào, còn các nước tư bản đã tận
dụng được những thành tựu phát triển của khoa học - công nghệ và kinh nghiệm tổ
chức quản lý điều hành nền kinh tế thị trường, làm cho kinh tế tư bản phát triển mạnh
mẽ cả về năng suất, chất lượng và hiệu quả. Bên cạnh đó các nước tư bản đã điều
chỉnh một số chính sách xã hội như giải quyết việc làm, chế độ tiền lương, trợ cấp
thất nghiệp... nhờ đó đã làm dịu bớt làn sóng đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân

81
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

dân lao động trong các nước tư bản. Đặc biệt các nước tư bản hiện đại đã điều chỉnh
chính sách đối ngoại, chiến lược quốc phòng, an ninh để tăng cường khả năng chống
phá cách mạng thế giới, từ “ngăn chặn” chuyển sang “vượt trên ngăn chặn”. Mặt
khác khu vực Châu Á Thái Bình Dương mà hầu hết các nước lớn đều có chiến lược
riêng của mình ở khu vực này. Chính bối cảnh kinh tế và chính trị quốc tế đó đã tác
động đến nhận thức của Đảng ta về đổi mới tư duy lý luận. Vừa là để thoát khỏi
những sai lầm do cơ chế, chính sách cũ đã kìm hãm nền kinh tế, vừa là cách thức duy
nhất để Đảng Cộng sản Việt Nam giữ quyền lãnh đạo đưa đất nước tiếp tục đi lên
theo đúng mục tiêu và con đường đã lựa chọn một cách hiệu quả và vững chắc hơn.
Cùng với đó, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ, tác
động đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của tất cả các nước, trong đó có Việt
Nam. Một mặt cách mạng khoa học và công nghệ tạo điều kiện cho các nước phát
triển kinh tế, củng cố quốc phòng, an ninh để bảo vệ độc lập và chủ quyền quốc gia.
Mặt khác cách mạng khoa học và công nghệ cũ tạo sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các
nước ngày càng tăng và khoảng cách phát triển giữa các nước ngày càng bị đẩy ra
xa thêm, mâu thuẫn thời đại ngày càng trở nên gây gắt hơn. Điều này tác động
mạnh mẽ đến công cuộc đổi mới ở nước ta. Trước một thế giới đổi thay và phát
triển như vậy phải làm thế nào để nước ta ra khỏi khủng hoảng, trì trệ, lạc hậu, kém
phát triển để bắt kịp nhịp sống chung của thế giới hiện đại, bước vào sự phát triển
năng động, thích ứng với những đòi hỏi mới của thời đại. Câu trả lời chỉ có thể là
đổi mới, đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống, cùng với đổi mới là mở cửa
và chủ động hội nhập quốc tế.
Ba là, toàn cầu hóa kinh tế gắn liền với quá trình tiếp xúc, giao lưu, đối ngoại giữa các
nền văn hóa, từ đó yêu cầu nhận thức đúng về vấn đề độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia.
Thế giới ngày nay bị tác động bởi hai nhân tố trái ngược nhau. Về kinh tế, do
bị thúc ép bởi nhu cầu lợi nhuận, nhu cầu mở rộng phân công lao động để phát triển
lực lượng sản xuất nên có xu hướng toàn cầu hóa. Các quan hệ kinh tế, phân công
lao động quốc tế đang làm lu mờ dần vai trò của biên giới quốc gia. Nhưng về mặt
chính trị, văn hóa và xã hội lại đang có xu hướng nhấn mạnh độc lập và chủ quyền
của mỗi quốc gia, dân tộc. Mỗi quốc gia có lợi ích chính trị, kinh tế độc lập với lợi
ích của các quốc gia khác, có bản sắc văn hóa và truyền thống lịch sử riêng.

82
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Vì vậy trong quá trình mở cửa, hội nhập với thế giới toàn cầu, việc chuẩn bị
tiềm lực và trữ lượng văn hóa, việc thường xuyên chăm lo bảo vệ và phát huy bản
sắc dân tộc là vấn đề ở tầm chiến lược chính trị thông qua các quyết sách, chính sách
phát triển. Nói cách khác, nâng chính trị đến tầm văn hóa chính trị, nâng cao năng
lực bản lĩnh văn hóa của lãnh đạo, quản lý để đồng thời giải quyết các vấn đề phát
triển trong nước cũng như trong quan hệ quốc tế, khu vực và thế giới. Chính yêu
cầu này của văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa và các vấn đề toàn cầu nói chung
đã tác động tới sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Đây không chỉ là tác động ở thời kỳ
đầu đổi mới mà còn tác động lâu dài trong suốt tiến trình đổi mới.
Bốn là, bản lĩnh chính trị vững vàng và sự sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Vào những năm 80 của thế kỷ 20, Việt Nam là một trong những nước gặp rất
nhiều khó khăn về kinh tế. Đất nước trải qua nhiều cuộc chiến tranh với tổn thất hết
sức nặng nề. Kẻ thù bao vây, cấm vận từ nhiều phía, cơ chế kế hoạch tập trung quan
liêu, bao cấp đã làm cho nền kinh tế bị trì trệ và đất nước rơi vào tình trạng khủng
hoảng kinh tế xã hội. Với bản lĩnh chính trị vững vàng và với kinh nghiệm lãnh đạo
cách mạng phong phú và phương pháp luận khoa học, đảng đã phân tích nguyên
nhân xấu xa của những sai lầm đó là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành
động đơn giản, nóng vội, không tôn trọng quy luật khách quan, nhận thức về chủ
nghĩa xã hội không đúng với thực tế Việt Nam.
Đại hội VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm nhận
thức đúng và thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại
hội VI là một cột mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng
ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Có thể nói
có được sự đổi mới tư duy lý luận thành công, Đảng ta đã xứng đáng là một Đảng
được vũ trang bằng lý luận cách mạng tiền phong và đã được thử thách qua phong
trào cách mạng đầy cam go và phức tạp. Đó là một trong những nhân tố cơ bản tác
động đến quá trình phát triển nhận thức lý luận của Đảng ta về những đặc trưng
chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay.
2.2. Đảng Cộng sản Việt Nam xác lập, hoàn thiện lý luận về mô hình chủ nghĩa xã hội
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội chính là: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao
cho dân giàu, nước mạnh”, “mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng
cao mức sống của nhân dân”, “chủ nghĩa xã hội là mọi người cùng ra sức lao động
83
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

sản xuất để được ăn no, mặc ấm và có nhà ở sạch sẽ”. Người khẳng định xã hội xã
hội chủ nghĩa là “một thế giới không có người bóc lột người, mọi người sung
sướng,vẻ vang, tự do, bình đẳng, xứng đáng là thế giới của loài người”. Có thể nói,
chủ nghĩa xã hội theo Hồ Chí Minh là làm cho dân giàu, nước mạnh, mọi người ai
cũng có công ăn, việc làm, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, được
phát triển toàn diện.
Trong cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh:
Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng
chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân
Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan
hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới" (Nguyễn, 2022, 24-25).
Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi ra đời đã xác định rõ ràng trong Chánh
cương vắn tắt của Đảng là: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2005, 2). Từ
mục tiêu khái quát ấy, Đảng Cộng sản đề ra những mục tiêu cụ thể về các phương
diện xã hội, chính trị, kinh tế hướng đến đánh đổ đế quốc chủ nghĩa và phong kiến,
cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, mang lại tự do, bình đẳng cho nhân dân. Đồng
thời, “Đảng liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới
nhất là với quần chúng vô sản Pháp” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2005, 6). Như vậy,
đường lối cách mạng dân tộc của Đảng ngay từ đầu đã gắn bó chặt chẽ giữa mục
tiêu độc lập dân tộc với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, giữa xây dựng lực
lượng trong nước kết hợp với sức mạnh của các lực lượng cách mạng trên thế giới.
Đường lối ấy đã trở thành ngọn cờ tập hợp lực lượng, thành cơ sở vững chắc, ngọn
nguồn quyết định cho sức mạnh dời non lấp biển của cách mạng. Trong suốt quá
trình đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, trên cơ sở nền tảng ban đầu ấy, đường

84
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

lối cách mạng của Đảng ta đã không ngừng bổ sung, hoàn thiện, cụ thể hóa thành
các chủ trương, chính sách, giải pháp cụ thể, để lãnh đạo nhân dân ta làm nên Cách
mạng Tháng Tám vĩ đại, chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động
địa cầu”, Đại thắng mùa Xuân 1975 làm sụp đổ hệ thống thực dân mới, bảo vệ độc
lập, thống nhất Tổ quốc, cùng với các cuộc chiến tranh bảo vệ vững chắc biên cương
của Tổ quốc, đưa đất nước tiến vào thời kỳ mới, thời kỳ xây dựng, phát triển theo
con đường xã hội chủ nghĩa.Tuy nhiên, chúng ta bắt tay vào công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội với hành trang quá nghèo nàn và trong điều kiện khó khăn chồng
chất khó khăn.
Đất nước bị tàn phá nặng nề sau hơn 30 năm chiến tranh. Nền kinh tế nông
nghiệp vốn đã lạc hậu, manh mún lại thiếu thốn về giống, phân bón, công cụ sản
xuất, đất sản xuất thì ô nhiễm bom, mìn, chất độc. Công nghiệp nhỏ bé lại lâm vào
khó khăn về điện, vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu, máy móc, phụ tùng thay thế. Gánh
nặng hậu quả chiến tranh về con người với hàng triệu người bị nhiễm chất độc hóa
học màu da cam, thương tật do chiến tranh cùng sự chia rẽ phức tạp trong mối quan
hệ xã hội đè nặng lên cả đất nước. Bên ngoài, các thế lực đế quốc cấu kết với một số
kẻ phản bội thực hiện bao vây cấm vận. Đặc biệt, sau khi chủ nghĩa xã hội hiện thực
ở Liên Xô và các nước Đông và Trung Âu sụp đổ, chúng ta không chỉ mất đi những
nguồn hỗ trợ quan trọng về kinh tế, kỹ thuật, mà khó khăn, phức tạp hơn lại làm
suy giảm niềm tin vào chủ nghĩa xã hội. Bằng sự kiên định mục tiêu chủ nghĩa xã
hội, dựa vào thành trì nhân dân, lấy lòng dân làm cơ sở chính trị, Đảng ta đã “luôn
luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi” để vận dụng và phát triển sáng tạo những nguyên
lý của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, trong bối cảnh đã
thay đổi của thế giới, dần dần hoàn thiện đường lối đổi mới, xây dựng, phát triển
đất nước. Trung tâm của đường lối đổi mới là mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam
đã được xác định cơ bản từ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991) và được bổ sung, hoàn thiện thêm trong
Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011.
Lần đầu tiên trong Cương lĩnh 1991 đã đưa ra 6 đặc trưng cơ bản của xã hội
xã hội chủ nghĩa đó là: “Do nhân dân lao động làm chủ; Có một nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản
xuất chủ yếu; Có nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Con người được

85
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động,
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân;
Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; Có quan
hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”. Những đặc trưng
đó vừa thể hiện tính phổ biến theo học thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội, vừa
thể hiện tính đặc thù dân tộc, có tính đến những đặc điểm của thời đại; có quan hệ
mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Những đặc trưng này là những đặc
trưng bản chất để nhận biết về chủ nghĩa xã hội và là những nét phác thảo cơ bản
vê mô hình chủ nghĩa nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Từ sáu đặc trưng trên có thể thấy nhận thức mới của Đảng ta về mô hình xã
hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã thể hiện những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, xác định vai trò làm chủ của xã hội xã hội chủ nghĩa là nhân dân lao
động. Nhân dân lao động không chỉ có vị thế mà còn có năng lực để làm chủ xã hội.
Trong chủ nghĩa xã hội, quần chúng nhân dân lao động được giải phóng và có điều
kiện phát triển toàn diện.
Thứ hai, lực lượng sản xuất phát triển cao là điều kiện, tiền đề để tăng năng
suất lao động, tạo cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống của nhân
dân. Tuy nhiên, để nhân dân lao động được hưởng những thành quả do sức lao
động của mình đòi hỏi phải thực hiện chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ
yếu. Bởi vì, đó là điều kiện để thực hiện những lợi ích kinh tế cơ bản.Chế độ công
hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu là bản chất kinh tế của chủ nghĩa xã hội, là cơ
sở bảo đảm cho nhân dân lao động làm chủ về kinh tế.
Thứ ba, khi xác định xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đặt con người vào trung tâm của sự phát
triển. Vì về bản chất, văn hóa là những hoạt động sáng tạo của con người hướng tới
những giá trị nhân văn, nhân bản, là khát vọng hướng tới cái Chân, Thiện, Mỹ nhằm
hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Nói tới văn hóa là nói tới con người, do
vậy phát huy vai trò của văn hóa trong phát triển chính là phát huy những năng
lực, bản chất của con người. Đó là cơ sở cho việc hoạch định chiến lược phát triển
bền vững của đất nước.
Thứ tư, Đảng ta coi xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, vì chỉ có đoàn kết
chúng ta mới tập trung được con người với sức mạnh trí tuệ, sức sáng tạo, ý chí tự
86
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

lực, tự cường, nhân cách cao đẹp,... vào quá trình phát triển đất nước. Điều này có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nước ta, khi nguồn lực tài chính và nguồn lực
vật chất cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội còn hạn hẹp, trong khi đó nguồn
lực con người Việt Nam lại vô cùng phong phú, nếu biết phát huy nó sẽ trở thành
nguồn lực to lớn cho sự phát triển bền vững. Đảng ta coi đoàn kết là chiến lược cách
mạng vì mục tiêu chung của dân tộc chứ không nhằm phục vụ cho lợi ích của riêng
một giai cấp, tầng lớp nào. Vì vậy, xây dựng khối đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn
dân tộc, của cả hệ thống chính trị.
Theo Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, mô hình chủ nghĩa xã hội Việt
Nam được xác định theo ba mảng nội dung:
Thứ nhất, mục tiêu chung, khái quát của chủ nghĩa xã hội Việt Nam là “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là 5 giá trị căn cốt, quan hệ
gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo nên nền tảng và sự bảo đảm bền vững cho hạnh phúc
của nhân dân, hạnh phúc của con người. Đó là sự tiếp thu chọn lọc những giá trị
tiến bộ nhất của những cuộc cách mạng trên thế giới kết hợp với khát vọng ngàn
đời của dân tộc ta. Đó cũng là mục đích cao cả, tối thượng của chủ nghĩa xã hội và
của cuộc cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ hai, nội dung “nội trị” hay đường lối đối nội. Đó là một chế độ xã hội “do
nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và
giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo” (Đảng Cộng sản Việt Nam,
2011, 70). Những đặc trưng “nội trị” trên phản ánh sự nhận thức đúng đắn của Đảng
ta về những quy luật chung của lịch sử phát triển xã hội loài người, nhất là những
thay đổi mạnh mẽ và những vấn đề lớn đang đặt ra trong thế giới đương đại. Cùng
với đó là sự vận dụng hợp lý, sáng tạo vào điều kiện, tình hình cụ thể của Việt Nam
theo tinh thần “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Điểm hội tụ trung tâm của toàn bộ nội
dung “nội trị” là nhân dân, nhân dân là chủ nhân của chế độ, chủ thể của công cuộc
xây dựng và hạnh phúc của nhân dân là mục đích tối thượng. Mọi bộ phận, thành
tố trong xã hội dù có xây dựng, vận hành theo hình thức và cơ chế nào cũng đều

87
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

hướng tới hạnh phúc của nhân dân và sự phát triển tự do, toàn diện của con người.
Với ý nghĩa đó, nội dung “nội trị” trong mô hình chủ nghĩa xã hội mang đặc trưng
riêng có của Việt Nam và chỉ có ở Việt Nam.
Thứ ba, nội dung đối ngoại của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam là: “có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam,
2011, 70). Đây là cơ sở cho đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa
dạng hóa, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, có hiệu quả cao. Mục đích của đường
lối ngoại giao là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, nâng cao vị thế, uy tín đất
nước trên trường quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, tiến bộ của cả thế giới.
Đó cũng chính là điều kiện bảo đảm cho sự thành công của công cuộc xây dựng,
phát triển đất nước, thể hiện tính chất tốt đẹp của chế độ, vai trò tích cực, có trách
nhiệm của Nhà nước ta với cộng đồng quốc tế. Đường lối đối ngoại này là sự phát
triển sáng tạo riêng của Việt Nam, không lệ thuộc và không lặp lại đường lối của
bất cứ nhà nước nào khác, nhất là những quốc gia tự nhận là chủ nghĩa xã hội nhưng
lại thực hiện những chính sách đối ngoại bá quyền đối với các dân tộc khác.
Mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam là thành tựu nhận thức lý luận quan trọng
của Đảng, đồng thời là kết quả đúc kết từ thực tiễn sáng tạo sinh động của nhân
dân, thể hiện tư tưởng, nguyện vọng và ý chí của cả dân tộc. Cơ đồ, tiềm lực, vị thế
và uy tín quốc tế chưa từng có mà đất nước ta đạt được sau 35 năm thực hiện đường
lối đổi mới của Đảng là minh chứng thuyết phục nhất cho sự đúng đắn, sáng tạo
của mô hình đó. Những thành tựu to lớn đó cũng là minh chứng không thể rõ ràng
hơn cho vai trò lãnh đạo của Đảng, người đã sáng suốt hoạch định và tổ chức thắng
lợi đường lối xây dựng, phát triển đất nước.

3. KẾT LUẬN
Tính cách mạng khoa học, đúng đắn, sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh trong
xác định con đường cách mạng Việt Nam đã được lịch sử kiểm chứng. Sau chiến
thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc đi lên CNXH, sau chiến thắng 30/4/1975 cả nước đi
lên CNXH. Sự phát triển không ngừng của đất nước trước những cam go, thử thách
và biến động thăng trầm của lịch sử, những thành quả to lớn của cách mạng Việt
Nam trong gần thế kỷ qua càng chứng minh giá trị và sức sống mãnh liệt của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Trong thời kỳ cải cách, đổi mới, dù mới chỉ qua khoảng gần

88
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

nửa thế kỷ nhưng chúng ta đã thấy một chủ nghĩa xã hội mới với diện mạo và sức
sống đầy sinh động, sáng tạo. Lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học đã được làm mới,
cập nhật và phát triển thêm rất nhiều theo hướng ngày càng gần gũi với “mảnh đất
hiện thực” của từng nước và xu thế thời đại. Thành tựu thực tiễn là thước đo của
nhận thức lý luận, chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là thành tựu lớn nhất của
cải cách, đổi mới. Tương lai không thuộc về chủ nghĩa tư bản, mà sự quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2005). Văn kiện Đảng toàn tập (Vol. 2). Chính trị quốc gia.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Chính trị quốc gia.
[3]. Nguyễn, P. T. (2001). Về định hướng xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. Chính trị quốc gia.
[4]. Nguyễn, P. T. (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính trị quốc gia - Sự thật.
[5]. Tạ, N. T. (2021, May 20). Mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam vừa theo đúng quy
luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Tạp chí của ban tuyên
giáo Trung ương. https://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/mo-hinh-chu-
nghia-xa-hoi-viet-nam-vua-theo-dung-quy-luat-chung-vua-phu-hop-voi-
dieu-kien-cu-the-cua-viet-nam-133535
[6]. Vũ, V. P. (2009). Lý luận và thực tiễn về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính
trị quốc gia.

89
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ THEO TINH THẦN NGHỊ QUYẾT
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XIII CỦA ĐẢNG

Lê Văn Đính
Học viện Chính trị khu vực III
Tác giả liên hệ: Lê Văn Đính, email: levandinhhvkv3@gmail.com

Tóm tắt: Trong những năm qua, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành và lãnh
đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, nghị quyết, kết luận về xây dựng tổ
chức bộ máy, tinh giản biên chế của hệ thống chính trị và đã đạt được những kết quả
quan trọng, góp phần vào thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 30 năm đổi mới;
nhưng nghiêm túc nhìn lại vẫn chưa đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu đề ra; tổ chức
bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, chồng chéo, nhiều tầng nấc, hoạt
động kém hiệu lực, hiệu quả. Do đó, việc tiếp tục đổi mới, kiện toàn, sắp xếp tổ chức
bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xác định rõ
chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức; nghiên cứu việc hợp nhất một số cơ quan, tổ
chức có chức năng, nhiệm vụ tương đồng và thực hiện kiêm nhiệm một số chức danh,
gắn với tinh giản biên chế trong hệ thống chính trị, vừa là đòi hỏi tất yếu khách quan,
vừa là yêu cầu, nhiệm vụ cấp thiết trong tình hình hiện nay, vừa góp phần thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Từ khóa: hệ thống chính trị; xây dựng hệ thống chính trị; hệ thống chính trị Việt Nam.

1. MỞ ĐẦU
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã luôn căn cứ vào quy luật
khách quan và xuất phát từ tình hình thực tế của đất nước để kịp thời điều chỉnh,
chuyển đổi mô hình tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị cho thích nghi, phù hợp
với yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của từng giai đoạn cách mạng. Tuy nhiên, bên cạnh
những kết quả đạt được, Ban Chấp hành Trung ương cũng thẳng thắn chỉ rõ rằng:
Thứ nhất, mặc dù đã qua nhiều lần kiện toàn, sắp xếp, nhưng tổ chức bộ máy của
hệ thống chính trị vẫn còn nhiều hạn chế, khuyết điểm, chưa đáp ứng được mục
tiêu, yêu cầu đề ra. Thứ hai, công cuộc đổi mới đất nước và sự phát triển nhanh
chóng của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới, nhất là công nghệ

90
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

thông tin và cuộc cách mạng 4.0, đòi hỏi chúng ta phải đổi mới tổ chức bộ máy để
thích ứng với điều kiện mới và tinh giản biên chế của hệ thống chính trị, góp phần
thúc đẩy hội nhập. Trong bối cảnh đó, nếu chúng ta không đổi mới, ứng dụng mạnh
mẽ những thành tựu khoa học của nhân loại để góp phần xây dựng tổ chức bộ máy
tinh gọn và tinh giản biên chế của hệ thống chính trị thì đất nước ta sẽ ngày càng bị
tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Thứ ba, tình hình thế
giới đang có những diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó lường với những
thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen: sự cạnh tranh gay gắt và mặt trái của
kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tác động mạnh mẽ, nhiều chiều
đến đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bên cạnh đó, sự chống phá điên cuồng, quyết liệt
của các thế lực thù địch, tổ chức phản động đối với Đảng, Nhà nước ta với những
âm mưu, hoạt động "diễn biến hòa bình” ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn. Chúng
đã và đang lợi dụng triệt để những hạn chế, khuyết điểm, yếu kém của Đảng và
Nhà nước, trong đó những hạn chế, yếu kém, bất cập về tổ chức bộ máy của hệ
thống chính trị ngày càng phình to ra, biên chế ngày càng tăng lên để tuyên truyền
xuyên tạc, chống phá ta. Thứ tư, việc tiếp tục đổi mới tổ chức bộ máy, tinh giản biên
chế của hệ thống chính trị nhằm cụ thể hóa và thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại
hội XII, XIII của Đảng, đưa chủ trương, Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Để
đáp ứng yêu cầu, nhịêm vụ của thời kỳ phát triển mới, đòi hỏi tiếp tục đổi mới, sắp
xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và
phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước
và chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội; phát
huy quyền làm chủ của nhân dân.
2. TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC ĐỔI MỚI TIẾP TỤC ĐỔI MỚI, SẮP XẾP TỔ
CHỨC BỘ MÁY CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TINH GỌN, HOẠT ĐỘNG
HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ
Hệ thống chính trị Việt Nam về mặt thiết chế bao gồm Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các tổ chức chính trị - xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai
cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc
Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động

91
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân;
tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng
cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà
nước, hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Từ Đại hội khóa VIII đến Đại hội khóa XII, Ban Chấp hành Trung ương đã ban
hành các Nghị quyết liên quan đến đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị như: Nghị
quyết Trung ương 7 (khóa VIII): “Một số vấn đề về tổ chức, bộ máy của hệ thống
chính trị và tiền lương, trợ cấp xã hội thuộc ngân sách Nhà nước”; Nghị quyết Trung
ương 5 (khóa IX) về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở xã,
phường, thị trấn”; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X) về “Đổi mới, kiện toàn tổ
chức bộ máy các cơ quan đảng, định hướng đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các
cơ quan Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội”; Kết luận số
64-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Một số vấn đề về
tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở”. Ngoài ra,
Bộ Chính trị (khóa XI) đã ban hành Nghị quyết số 39-NQ/TW về tinh giản biên chế,
cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các ban
đảng Trung ương cũng đã ban hành nhiều văn bản để cụ thể hóa các chủ trương,
nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương. Đặc biệt gần đây có các Nghị quyết:
Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá XII về “Một số
vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả”; Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khoá XII “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp
chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”; Kết luận Hội
nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về đẩy mạnh xây dựng,
chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm
cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hoá”…

92
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Hoạt động xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị thời gian qua đã
đạt được những kết quả quan trọng, góp phần vào thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử của đất nước sau 35 năm đổi mới: “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ
thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy
nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm
thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, vận
động đông đảo nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, phát huy ngày
càng tốt hơn vai trò chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn
viên, hội viên và nhân dân; chủ động tham gia giám sát và phản biện xã hội, làm tốt
vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, tham gia xây dựng Đảng, Nhà
nước và hệ thống chính trị, góp phần tích cực vào những thành tựu chung của đất
nước… Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố; dân chủ xã hội chủ nghĩa
tiếp tục được phát huy” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 70-73). Tuy nhiên, bên
cạnh kết quả đạt được, việc đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị vẫn chưa đáp
ứng được mục tiêu, yêu cầu đề ra; tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn
cồng kềnh, chồng chéo, nhiều tầng nấc, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả: “Công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn một số hạn chế. Xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản
lý đất nước trong tình hình mới. Việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội chưa theo kịp yêu cầu của tình
hình mới, chưa thật sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở; chất lượng, hiệu quả
hoạt động giám sát, phản biện xã hội chưa đều. Một bộ phận cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức chưa gương mẫu, chưa thực sự tôn trọng ý kiến, kiến nghị của
nhân dân và giải quyết kịp thời những quyền, lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính
đáng của người dân. Quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm;
vẫn còn biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật…”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 88-90).
Hiện nay, công cuộc đổi mới đất nước và sự phát triển nhanh chóng của cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới, nhất là công nghệ thông tin và cuộc
cách mạng 4.0, đòi hỏi chúng ta phải đổi mới tổ chức bộ máy để thích ứng với điều

93
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

kiện mới và tinh giản biên chế của hệ thống chính trị, góp phần thúc đẩy hội nhập.
Có thể nói rằng, việc tiếp tục đổi mới, kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ
thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xác định rõ chức năng, nhiệm
vụ của từng tổ chức; nghiên cứu việc hợp nhất một số cơ quan, tổ chức có chức
năng, nhiệm vụ tương đồng và thực hiện kiêm nhiệm một số chức danh, gắn với
tinh giản biên chế trong hệ thống chính trị, vừa là đòi hỏi tất yếu khách quan; vừa
là yêu cầu, nhiệm vụ cấp thiết trong tình hình hiện nay, vừa góp phần thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đưa nước ta trở thành nước phát triển,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG VỀ ĐỔI MỚI,
HOÀN THIỆN HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
Cơ chế vận hành của hệ thống chính trị nước ta được nhấn mạnh trong Văn
kiện Đại hội XIII của Đảng là “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ” (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 2021, 173). Mọi hoạt động của hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên,
công chức xét đến cùng “phải phục vụ lợi ích của nhân dân, giải quyết hài hoà các
quan hệ lợi ích trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân
dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân” (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 2021, 165-166). Đồng thời, “Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung
tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 173).
Chủ đề của Đại hội XIII là “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy
ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục
đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI nước
ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 2021, 57). Các thành tố trong chủ đề Đại hội XIII so với Đại hội XII có một
số điểm mới, bao gồm: Bổ sung “xây dựng hệ thống chính trị” vào nội dung xây dựng
Đảng thành “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh”. Mục tiêu tổng quát được nêu trong Văn kiện Đại hội XIII là: “Nâng cao
năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và

94
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của
nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát
triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi
mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước
phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 111-112).
Mục tiêu tổng quát trong Báo cáo chính trị tại Ðại hội XIII xác định mục tiêu
tổng quát có những điểm mới là:
Một là, bổ sung "năng lực cầm quyền" vào nội dung "nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của Ðảng" thành "Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền
và sức chiến đấu của Ðảng". Sau khi Ðảng giành được chính quyền, Ðảng ta trở thành
Ðảng cầm quyền. Trong 5 năm tới và những năm tiếp theo, tình hình thế giới có
nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Ðất nước ta bên cạnh những
thời cơ thuận lợi phải đương đầu với những khó khăn, thách thức. Ðiều đó, đòi hỏi
Ðảng ta không chỉ nâng cao năng lực lãnh đạo, mà cần phải nâng cao năng lực cầm
quyền. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là những yêu cầu đối
với Đảng để Đảng làm tốt vai trò lãnh đạo của Đảng đối với mọi mặt hoạt động…
Cầm quyền là lãnh đạo nhưng thông qua Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính
trị - xã hội. Nội dung và phương thức cầm quyền có điểm chung, nhưng cũng có
điểm khác với phương thức lãnh đạo: Chủ yếu đề cập đến việc Đảng nắm, định
hướng, kiểm soát hoạt động của Nhà nước trong thực hiện đường lối, chủ trương của
Đảng; khắc phục tình trạng tình trạng Đảng làm thay hoặc buông lỏng Nhà nước.
Đảng phải chịu trách nhiệm chính về hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội. Đảng định hướng cơ chế vận hành của
hệ thống chính trị sao cho đảm bảo tính hoàn thiện, đồng bộ trong cơ cấu; tính khoa
học và hợp lý trong cấu trúc; tính hiệu quả trong việc kiểm soát quyền lực; tính kỷ
luật, kỷ cương nghiêm minh nhằm đảm bảo đẩy lùi mọi hiện tượng tha hóa quyền
lực (tham nhũng, lãng phí, quan liêu) ra khỏi hệ thống chính trị để củng cố niềm tin
của nhân dân đối với Đảng và chế độ. Cơ chế vận hành của hệ thống chính trị nước
ta được nêu trong Văn kiện Đại hội XIII là “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”. Cùng

95
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, thành tố Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội được xác định rõ chức năng “làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 173).
Hai là, bổ sung "hệ thống chính trị" vào nội dung "xây dựng Ðảng" thành "xây
dựng Ðảng và hệ thống chính trị" và nêu yêu cầu xây dựng Ðảng và hệ thống chính
trị "trong sạch, vững mạnh toàn diện". Yêu cầu xây dựng Đảng gắn liền với “xây dựng
hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh” chính là đặt thành tố (thiết chế) Đảng
Cộng sản Việt Nam cầm quyền trong cơ cấu thống nhất của hệ thống chính trị, đòi
hỏi đảm bảo tính đồng bộ của các thành tố (thiết chế) cấu thành hệ thống chính trị,
tất nhiên trong đó Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền đóng vai trò hạt nhân lãnh
đạo, cầm quyền.
Ba là, đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược
phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 2021, 173).
Cơ chế vận hành của hệ thống chính trị ở nước ta hiện là “Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân
làm chủ” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 173). Một điểm mới trong định hướng,
nhiệm vụ, giải pháp trên lĩnh vực xây dựng Đảng và hệ thống chính trị là “Phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ
của nhân dân. Thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 173). So
với Văn kiện các Đại hội trước, Văn kiện Đại hội lần này bổ sung nội dung, phương
châm thực hiện dân chủ “dân giám sát, dân thụ hưởng” (Đảng Cộng sản Việt Nam,
2021, 173). Bởi vì “Mọi hoạt động của hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công
chức xét đến cùng phải phục vụ lợi ích của nhân dân. Giải quyết hài hoà các quan hệ
lợi ích trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân;
không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân” (Đảng Cộng
sản Việt Nam, 2021, 173).
Nhấn mạnh “quyền làm chủ và vai trò tự quản của nhân dân” là nhấn mạnh việc
phát huy hiệu quả tích cực, thực tế vai trò là chủ và làm chủ của người dân trong
đời sống xã hội, thể hiện đúng và đầy đủ hơn bản chất tốt đẹp của chế độ ta là chế
độ của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Ngoài việc “Phát huy tính tích cực chính
96
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức chính trị - xã hội…” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 173-174); Văn kiện Đại
hội XIII cũng yêu cầu trách nhiệm của “Cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ
thống chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức nêu gương thực
hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức xã hội” (Đảng Cộng sản Việt
Nam, 2021, 173).
4. ĐỊNH HƯỚNG GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI, HOÀN THIỆN HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
Một trong 06 nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện trong nhiệm kỳ Đại hội XIII là “Tiếp
tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đổi mới phương thức lãnh
đạo, cầm quyền của Đảng. Xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan
liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, "lợi ích nhóm", những biểu hiện "tự diễn biến",
"tự chuyển hoá". Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm
chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Củng cố lòng tin, sự gắn bó của nhân
dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021,
199-200); đây là những nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp xây
dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Để xây dựng tổ chức bộ máy của hệ
thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả cần tập trung vào các nhiệm
vụ, giải pháp sau:
Thứ nhất, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức của các bộ phận cấu
thành của hệ thống chính trị: Cụ thể hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm
chủ”. Trong đó trọng tâm là tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong
điều kiện mới. Đảm bảo sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng, đồng thời phát
huy mạnh mẽ vai trò, tính tự chủ, năng động, sáng tạo của các cơ quan, tổ chức
trong hệ thống chính trị: “Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền” đi đôi với việc “kiểm
tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện phân cấp, phân quyền, chống tha
hóa quyền lực”; “có cơ chế để các địa phương phát huy quyền chủ động, sáng tạo”
gắn với “đề cao trách nhiệm” và “đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý thống nhất
của trung ương” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 198). Đồng thời, tiếp tục tổng kết

97
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, cầm
quyền của Đảng trong điều kiện mới.
Thứ hai, xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh
đạo, cầm quyền của Đảng; phát huy sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Văn kiện Đại hội XIII chỉ rõ trong những năm đến, tình hình thế giới và trong
nước sẽ tác động mạnh, nhiều chiều đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đội
ngũ, cán bộ, đảng viên, đặc biệt là các nguy cơ: “Các thế lực thù địch tiếp tục tăng
cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta… Tham nhũng, lãng phí, quan
liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ cũng như mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp” (Đảng Cộng
sản Việt Nam, 2021, 108); do vậy cần đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh. Xây dựng Đảng là công việc
cơ bản, thường xuyên của một đảng cầm quyền; chỉnh đốn Đảng được đặt ra cấp
bách khi xuất hiện tình hình đặc biệt cần có giải pháp đặc biệt - chỉnh đốn Đảng là
nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh (khi gặp thuận lợi không chủ quan,
tự mãn, ngủ quên trên vòng nguyệt quế; khi gặp khó khăn không được dao động,
ngả nghiêng…). Cụ thể cần tập trung thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các nhiệm vụ,
giải pháp: Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, về tư tưởng, về đạo đức, về tổ
chức. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động
của hệ thống chính trị. Củng cố, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ
đảng viên. Tăng cường xây dựng Đảng về cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và
người đứng đầu. Tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát,
kỷ luật đảng. Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân,
dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng
trong điều kiện mới (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 180-198). Đặc biệt là phát huy
trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, theo phương châm chức vụ càng cao
càng phải gương mẫu.
Thứ ba, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam; nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn sau 35 năm đổi mới, đặc biệt là sau 10 năm thực
hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
98
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

nhấn mạnh việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là
nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Những nội dung cơ bản của
việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là: (1) “xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực
nhà nước. Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai,
minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân,
doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển
nhanh, bền vững”. (2) Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm
Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất. (3) Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng
tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. (4) Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên
nghiệp, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
(5) Tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm ở
nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt theo luật định. (6)
Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín
phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong bối cảnh mới. (1) Phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường
đồng thuận xã hội; nâng cao nhận thức của cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên
về vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. (2) Làm tốt hơn nữa
vai trò giám sát và phản biện xã hội theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, Luật Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 và các quy định của Bộ Chính trị. (3) Đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị -
xã hội. (4) Tăng cường kiểm tra, giám sát đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội. (5) Xây dựng kiện toàn tổ chức bộ máy Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội gắn với xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách có phẩm chất,
năng lực, uy tín. (6) Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, nâng cao
trách nhiệm của đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội,
99
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư; thực hiện tốt và có hiệu quả phương châm
“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Giải pháp
tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, nâng cao trách nhiệm của đội
ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, hướng mạnh về cơ sở,
địa bàn dân cư được xem như một trong những nhiệm vụ trọng tâm: Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội với nhiệm vụ bao trùm là tập hợp, tuyên truyền,
vận động, thuyết phục nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Do đó, phải bám sát nhiệm vụ chính trị,
công tác xây dựng Đảng, những bức xúc, kiến nghị của nhân dân để lựa chọn nội
dung cho phù hợp. Cần hướng vào các nội dung, như chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, xây dựng cơ sở hạ tầng điện, đường,
trường, trạm, chợ... để tập hợp, vận động đoàn viên, hội viên. Nhận diện chính xác
những bức xúc trong nhân dân, như: quy hoạch, đất đai, giải tỏa, đền bù, tái định
cư… để có phương thức giải thích, tuyên truyền, vận động hiệu quả. Thường xuyên
quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của đoàn viên, hội viên, tạo sự phấn khởi
đồng thuận, động lực khát vọng trong nhân dân. Đổi mới phương thức, phương
pháp hoạt động theo hướng sát với thực tiễn, mềm dẻo, linh hoạt, “đối tượng nào
phương pháp đó” để vận động, thuyết phục nhân dân có hiệu quả. Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội phải bám sát thực tiễn, hóa thân vào các phong
trào, thực hiện “ba cùng” với nhân dân để vận động, thuyết phục nhân dân tham
gia tích cực, hiệu quả các phong trào. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội đề cao tính tự quản, dám chịu trách nhiệm trước Đảng, trước dân về các phong
trào hoạt động của mình. Để hoạt động có hiệu quả, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội phải tiếp tục rà soát, bổ sung điều chỉnh quy chế phối hợp cho phù
hợp với thực tiễn mới, nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn
hiện nay. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay đòi hỏi hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội phải thay đổi sao cho phù
hợp với những yêu cầu mới. Lợi ích kinh tế là cơ sở để người lao động có thể bảo
đảm và cải thiện dần điều kiện sinh hoạt, học tập, bảo vệ sức khoẻ, vui chơi, giải trí,
nâng cao dần chất lượng cuộc sống… Quần chúng chỉ gắn bó với đoàn thể, khi họ
tìm thấy ở đó những lợi ích chính đáng và được đoàn thể bảo vệ những lợi ích đó.
Lâu nay, hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội dựa vào nguồn kinh phí của
Nhà nước là chủ yếu. Trong thời gian tới, các tổ chức chính trị - xã hội phải có
100
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

phương án tự chủ kinh phí một phần, giảm tải gánh nặng nguồn lực tài chính của
Nhà nước. Đây là vấn đề khá nhạy cảm, khó khăn nhưng không thể không làm.
Kinh nghiệm của Singapore đã cho thấy: Liên đoàn Lao động Quốc gia Singapore
(NTUC) đóng vai trò to lớn trong việc thực hiện sự đồng thuận xã hội trong cộng
đồng - lấy đối thoại thay cho đối đầu, lấy hòa giải thay cho tranh chấp - để giữ vững ổn
định chính trị - xã hội và phát triển bền vững. Các loại doanh nghiệp xã hội và các
tổ chức liên quan của NTUC có vai trò rất lớn trong việc tạo công ăn việc làm, giải
quyết vấn đề nhà ở thu nhập thấp, dịch vụ vay ưu đãi và cung cấp các mặt hàng
thiết yếu giá rẻ cho người lao động; thực hiện các dịch vụ chăm sóc bệnh nhân hậu
phẫu, chăm sóc người già, ký túc xá và dạy nghề cho sinh viên. Với các hoạt động
này họ đã phần nào đáp ứng các nhu cầu, lợi ích thiết thực cho đoàn viên, hội viên;
đồng thời, thông qua cán bộ của Đảng Hành động Nhân dân PAP có môi trường để
trải nghiệm thực tiễn. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội bên cạnh việc
tìm mô thức phát triển kinh tế, tổ chức các phong trào gây quỹ, cần chủ động huy
động nguồn lực tài chính từ các doanh nghiệp, nhà hảo tâm trong và ngoài nước để
hỗ trợ nguồn lực tài chính phục vụ cho các hoạt động an sinh xã hội có hiệu quả.
Thứ năm, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược có phẩm chất, năng
lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII chỉ rõ
công tác cán bộ thực sự là “then chốt của then chốt”, do vậy tập trung xây dựng đội
ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm
nhiệm vụ. Cụ thể là cần nâng cao nhận thức, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng,
đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác cán bộ. Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất, năng lực, uy
tín, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp
chiến lược ngang tầm nhiệm vụ. Kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán
bộ; chống chạy chức, chạy quyền. Phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng
đội ngũ cán bộ. Nâng cao chất lượng công tác tham mưu, coi trọng tổng kết thực
tiễn, nghiên cứu lý luận về công tác tổ chức, cán bộ. Đặc biệt, chú trọng việc khuyến
khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung theo tinh thần Kết luận số 14-
KL/TW ngày 22/9/2021 của Bộ Chính trị.

101
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

5. KẾT LUẬN
Thực hiện tốt những điểm mới về đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị theo
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng sẽ đem lại một số kết quả cụ thể như sau: (1) Góp
phần nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; hiệu lực,
hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước; chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. (2) Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
được tinh gọn, nhất là việc tinh gọn đầu mối bên trong của từng cơ quan, tổ chức;
khắc phục được sự chồng chéo, trùng lắp về nhiệm vụ giữa các tổ chức; giảm được
một số đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và thôn, tổ dân phố quá nhỏ. (3) Đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức được cơ cấu lại, sắp xếp, bố trí hợp lý hơn và hiệu
quả sử dụng đội ngũ cán bộ sẽ cao hơn. (4) Tạo lập cơ chế vận hành đồng bộ của
các thiết chế trong hệ thống chính trị.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
(Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
(Vol. 2). Chính trị quốc gia Sự thật.
[3]. Hội đồng lý luận Trung ương. (2021). Những điểm mới trong các Văn kiện Đại hội
XIII của Đảng. Chính trị quốc gia Sự thật.
[4] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Học viện Chính trị khu vực III (30th
September 2022). Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Vận dụng quan điểm, đường lối Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng vào giảng dạy, nghiên cứu khoa học ở Học
viện Chính trị khu vực III.

102
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

TÍNH TẤT YẾU CỦA CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM TRONG TÁC PHẨM “MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG
ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM”
CỦA TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG

Phạm Văn Giang


Học viện Chính trị khu vực III
Tác giả liên hệ: Phạm Văn Giang, email: phamgiang.hvct3@gmail.com

Tóm tắt: Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam luôn là một trong những chủ
đề thu hút rất nhiều nhà nghiên cứu lý luận trong và ngoài nước quan tâm. Vấn đề
này một lần nữa được đề cập và phân tích sâu sắc, đầy sức thuyết phục trong cuốn
sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Đây là nghiên cứu có
giá trị và ý nghĩa rất lớn về lý luận và thực tiễn, là những định hướng chiến lược cho
quá trình xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Bài viết là suy ngẫm
của tác giả sau khi đọc và nghiên cứu chủ đề này trong cuốn sách.
Từ khóa: chủ nghĩa xã hội; xã hội chủ nghĩa; Việt Nam; con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội; thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ


Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là chưa có
tiền lệ trong lịch sử. Đây là vấn đề rộng lớn, phức tạp, luôn được Đảng ta nhận thức,
bổ sung, phát triển phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. Thực tiễn đổi mới hơn
35 năm qua đã khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo trong vận dụng, phát triển chủ
nghĩa xã hội khoa học phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đảng ta đã hình
thành được một hệ thống quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội, làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách phát
triển đất nước. Những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực của đời sống xã hội tạo
tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những
năm tới. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, còn nhiều vấn đề lý luận
và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
103
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

chưa được làm sáng tỏ và hiện thực hóa trong thực tiễn. Để luận giải làm rõ và đưa
ra những định hướng phát triển đất nước trong điều kiện mới, Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng đã có bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Trong bài viết này, Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng đã làm rõ nhiều vấn đề quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam là tất yếu khách quan, đó là sự lựa chọn của của chính lịch sử dân
tộc và xu thế phát triển khách quan của thời đại. Nội dung nghiên cứu dưới đây xin
được làm rõ vấn đề này trong bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
2. NỘI DUNG
2.1. Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội?
Trên cơ sở tổng kết lịch sử phát triển của nhân loại, và từ bản chất của chế độ
tư bản chủ nghĩa, C. Mác cho rằng: chủ nghĩa tư bản là chế độ áp bức bóc lột, tất
yếu sẽ bị lịch sử vượt qua, thay thế nó bằng chủ nghĩa cộng sản, mà giai đoạn đầu
là chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở đó, C. Mác, Ph. Ănghen, và sau này là V.I. Lênin đã
chỉ rõ quy luật ra đời của chủ nghĩa xã hội trong những điều kiện lịch sử cụ thể.
Vậy, Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nào? Vì sao Việt Nam lại lựa
chọn con đường quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để đi lên chủ nghĩa xã hội?
Về vấn đề này, trong cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Trước
đây, khi còn Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới thì vấn đề đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dường như không có gì phải bàn, nó mặc nhiên coi
như đã được khẳng định. Nhưng từ sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và
nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi
lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo,
thậm chí tranh luận gay gắt. Các thế lực chống cộng, cơ hội chính trị hí hửng, vui
mừng, thừa cơ dấn tới để xuyên tạc, chống phá. Trong hàng ngũ cách mạng cũng
có người bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã
hội, quy kết nguyên nhân tan rã của Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông
Âu là do sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự lựa chọn con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Từ đó họ cho rằng chúng ta đã chọn sai đường, cần phải đi con đường
khác. Có người còn phụ họa với các luận điệu thù địch, công kích, bài bác chủ nghĩa
xã hội, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản. Thậm chí có người còn sám hối về một

104
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

thời đã tin theo chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường xã hội chủ nghĩa! Thực tế có
phải như vậy không? Thực tế có phải hiện nay chủ nghĩa tư bản, kể cả những nước
tư bản chủ nghĩa già đời vẫn đang phát triển tốt đẹp không? Có phải Việt Nam
chúng ta đã chọn con đường đi sai không?” (Nguyễn, 2022, 18).
Xã hội Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là chế độ nửa phong kiến,
nửa thuộc địa, đã thối nát và lạc hậu. Mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc hết
sức sâu sắc, không thể điều hòa, điều kiện cho một cuộc cách mạng xã hội đang đến
gần. Trong bối cảnh đó, đã có rất nhiều phong trào yêu nước chống thực dân Pháp
diễn ra sôi nổi khắp Bắc, Trung, Nam. Từ phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX,
cuộc khởi nghĩa Yên Thế kéo dài đến đầu thế kỷ XX, phong trào cách mạng có xu
hướng bạo động của Phan Bội Châu, phong trào có xu hướng cải cách của Phan Chu
Trinh, đến cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thái Học. Các phong trào này đều sáng
ngời tinh thần yêu nước theo những ý thức hệ khác nhau, từ những phong trào theo
hệ tư tưởng phong kiến, theo lập trường nông dân, hoặc theo hệ tư tưởng tư sản, đều
đã được lịch sử kiểm nghiệm, song tất cả đều lâm vào bế tắc và cuối cùng thất bại.
Thực tiễn đó cho thấy, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc phải tìm con đường
khác, phù hợp với thực tiễn dân tộc và xu thế phát triển khách quan của thời đại.
Trong bối cảnh lịch sử đó, Nguyễn Ái Quốc (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh)
ra đi tìm đướng cứu nước (5/6/1911), theo tiếng gọi của ngọn cờ “Tự do, bình đẳng,
bác ái” của cách mạng tư sản, với mong muốn sang các nước tư bản phát triển để
học hỏi những tinh hoa và tiến bộ từ các nước phương Tây để về giúp đồng bào
thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Vì vậy, Người đã đến các nước tư bản
phát triển như: Pháp, Anh, Mỹ và nhiều nước thuộc địa của các nước đế quốc, quan
sát và tìm hiểu chủ nghĩa tư bản, tìm hiểu cuộc sống của người dân ở chính quốc và
các nước thuộc địa. Từ đó, Người nhận ra rằng, các cuộc cách mạng dân chủ tư sản
là không triệt để, vì cách mạng thành công nhưng chỉ đem lại lợi ích cho thiểu số
giai cấp tư sản, còn đông đảo quần chúng lao động vẫn chịu cảnh áp bức bóc lột. Vì
vậy, nếu đi theo con đường dân chủ tư sản cùng lắm chỉ giải phóng được dân tộc.
Điều đó không đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Khi Cách mạng tháng Mười Nga thành công đã mở ra thời đại mới - quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới. Chính từ “tiếng vang”
của Cách mạng tháng Mười, Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến với chủ nghĩa Mác - Lênin.

105
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Sau này như Người nói: giống như một mặt trời chói lọi, cách mạng Nga đã chiếu
rọi khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người đứng lên đấu tranh giải phóng dân
tộc. Chính vì vậy, chỉ khi Nguyễn Ái Quốc đến với Cách mạng tháng Mười, đến với
chủ nghĩa Mác - Lênin, từ đó Người tin rằng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Trong bối cảnh
lịch sử đó, khi chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào Việt Nam, mục tiêu độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được cả dân tộc đón nhận như là hệ quả
tất yếu. Bởi vì, “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con
người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người.
Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ
không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần
một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân
văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé”, vì lợi ích vị kỷ của
một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa
với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và
tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất
vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và, chúng ta cần một hệ thống chính trị mà
quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân,
chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có” (Nguyễn, 2022, 18).
Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã giáng một
đòn nặng nề không chỉ vào mô hình chủ nghĩa xã hội của Liên Xô và các nước Đông
Âu, mà còn vào cả chính học thuyết Mác - Lênin và hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ này. Trong đó, có nguyên nhân chủ yếu và
trực tiếp là, trong cải tổ, Ðảng Cộng sản Liên Xô đã mắc những sai lầm rất nghiêm
trọng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Ðó là đường lối xét lại, phản bội chủ nghĩa
Mác - Lênin của một số nhân vật lãnh đạo Đảng. Chủ nghĩa đế quốc đã lợi dụng
những khó khăn và sai lầm về đường lối của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
ở Ðông Âu, chúng đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” cực kỳ thâm độc, can
thiệp toàn diện, vừa tinh vi, vừa trắng trợn vào nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa.
Cuối cùng, chủ nghĩa đế quốc đã “không đánh mà thắng”. Dĩ nhiên, chúng không
thể làm được điều này, nếu cải tổ có đường lối đúng đắn, nếu hơn 20 triệu đảng
viên cộng sản Liên Xô có tinh thần cảnh giác cách mạng và sức chiến đấu cao, không

106
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

để nội bộ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” khiến cho bọn cơ hội, xét lại và phản bội
thao túng cơ quan lãnh đạo của Ðảng, nếu có sự cố kết chặt chẽ giữa Ðảng, Nhà
nước và nhân dân Liên Xô.
Trước hiện thực đó, Đảng ta chỉ rõ, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô
và Đông Âu đó là sự sụp đổ của một mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực,
chứ không phải là sự lạc hậu hay sụp đổ của một học thuyết khoa học và cách mạng,
của chủ nghĩa xã hội khoa học. Tại Đại hội lần thứ VII của Đảng (tháng 6/1991),
trước những khó khăn và phức tạp của tình hình trong nước và quốc tế, Đảng ta
vẫn tiếp tục khẳng định con đường cách mạng của nước ta là “nắm vững ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Đây là lần đầu tiên trong Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Đảng ta phác thảo ra mô hình chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đảng ta đã đưa ra quan niệm, cách thức, biện pháp, bước
đi phù hợp với điều kiện cụ thể đất nước. Để từ đó, chúng ta định hướng con
đường, để không mắc phải những sai lầm, đồng thời khẳng định Việt Nam kiên
định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa
chọn. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011), trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011), chúng ta một lần nữa khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của
nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ
Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử” (Nguyễn, 2022, 23).
2.2. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh mới
Một vấn đề rất quan trọng được đề cập trong cuốn sách là, nhận thức về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như thế nào cho đúng
và đầy đủ? Như V.I.Lênin từng nhắc nhở: các dân tộc sẽ tùy vào điều kiện cụ thể sẽ
có những hình thức và bước đi khác nhau, song sớm hay muộn tất cả các dân tộc sẽ
đi lên chủ nghĩa xã hội. Nếu chủ nghĩa xã hội trước Mác nó chỉ là mơ ước, khó trở
thành hiện thực, thì chủ nghĩa xã hội khoa học đã chỉ ra con đường, lực lượng, biện
pháp, cách thức, bước đi để thực hiện được mục tiêu. Vấn đề đặt ra là, chúng ta phải
nhận thức đúng bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin trong
quá trình vận dụng và phát triển sáng tạo vào điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam. Vì vậy, sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông
Âu, những hạn chế, khó khăn của quá trình đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước

107
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

ta không phải là bắt nguồn từ bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà là do cách
thức xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực không tuân theo những nguyên lý chỉ
dẫn của chủ nghĩa xã hội khoa học và sự nhận thức của chúng ta về chủ nghĩa xã
hội chưa đầy đủ. Vì vậy, “trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng
kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức
ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như:
đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn
trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân,
không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ,
không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường
với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản...”
(Nguyễn, 2022, 23-24).
Từ quá trình đổi mới đất nước cho thấy, bên cạnh những thành tựu đạt được,
còn có nhiều khó khăn, thách thức. “Càng đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta càng
nhận thức được rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng
khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc
hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy
chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm
cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen
nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là
bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu,
những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không
phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong
thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu
này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển” (Nguyễn, 2022, 25). Chính
điều đó, Đảng ta đã đưa ra đường lối lãnh đạo đúng đắn, đưa đất nước phát triển
nhanh và bền vững, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, “nhờ thực hiện đường lối
đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối
cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm.

108
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỉ đôla Mỹ (USD),
trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng
khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập
thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay, Việt Nam
không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất
khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển
khá nhanh, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng
85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỉ
USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỉ USD. Dự trữ ngoại hối tăng
mạnh, đạt 100 tỉ USD vào năm 2020. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt
gần 395 tỉ USD vào cuối năm 2020. Về cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện quan
hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh
tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong
nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài… Như vậy, có thể nói, việc thực
hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích
cực ở Việt Nam: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói
giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được
giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại
và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng
cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố” (Nguyễn,
2022, 31). Những thành tựu đạt được đó đã chứng minh tính đúng đắn của đường
lối đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vậy, chẳng lẽ chúng ta từ bỏ con đường cách mạng đúng đắn mà Đảng, Bác
Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn? Câu trả lời là không bao giờ! Đó chỉ là âm mưu của
các thế lực thù địch nhằm chống phá con đường cách mạng nước ta, của một bộ
phận cá nhân nhận thức không đúng, chưa đầy đủ về chủ nghĩa xã hội; hoặc lập
trường và bản lĩnh chính trị không vững vàng, biểu hiện sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, “tự diễn biến”. Vậy, có con đường khác không? Không có con đường nào
khác, hoặc chủ nghĩa tư bản, hoặc chủ nghĩa xã hội dân chủ, nhưng thực chất nó chỉ
là một. Xét đến cùng, cả hai mô hình này sẽ không bao giờ đem lại lợi ích cho quần
chúng nhân dân lao động, mà chỉ đem lại lợi ích cho thiểu số giai cấp tư sản.

109
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Hơn nữa, hiện thực lịch sử đã và đang xác nhận, trong số hơn 200 quốc gia và
vùng lãnh thổ, chỉ có 20 quốc gia là nước tiên tiến (G20). Ngoài 5 nước phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa (Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Cuba, Triều Tiên),
thì gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới còn lại hiện đang đi theo con
đường tư bản chủ nghĩa. Vì sao đối với các quốc gia này phát triển vẫn là mục tiêu
xa vời? Những nước tư bản phát triển xuất phát điểm ra sao? (đã hơn 500 năm ra
đời và phát triển) và nguồn gốc của sự giàu có đó là gì? (xâm lược, vơ vét tài nguyên
các nước thuộc địa). Liệu đó có phải là ưu việt của chủ nghĩa tư bản hay không?
Câu trả lời là không. Trong khi, các nước phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa nói chung, Việt Nam nói riêng chỉ có vài chục năm đi lên xây dựng chế độ
mới - chế độ xã hội chủ nghĩa, mang lại quyền lực thực sự thuộc về nhân dân.
Chủ nghĩa tư bản hiện nay có điểm chung là sự phát triển không đều, không
phải cứ quốc gia nào đi theo chủ nghĩa tư bản thì đều phát triển, mà phần lớn là đói
nghèo, xã hội bất ổn. Chính chủ nghĩa tư bản đang tạo ra khoảng cách giàu nghèo
ngày càng lớn, phân hóa xã hội ngày càng sâu sắc, dựa trên bóc lột người lao động,
đó là bản chất của chủ nghĩa tư bản. Mặc dù, “từ giữa thập kỷ 70 của thế kỷ XX và
nhất là từ sau khi Liên Xô tan rã, để thích ứng với điều kiện mới, chủ nghĩa tư bản
thế giới đã ra sức tự điều chỉnh, thúc đẩy các chính sách “tự do mới” trên quy mô
toàn cầu, nhờ đó hiện vẫn còn tiềm năng phát triển. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản
vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó… Kinh tế
suy thoái đã làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã hội tư bản
chủ nghĩa: Đời sống của đa số dân cư lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất
nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu - nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm
những mâu thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc. Những tình huống “phát triển xấu”,
những nghịch lý “phản phát triển”, từ địa hạt kinh tế - tài chính đã tràn sang lĩnh
vực xã hội, làm bùng nổ các xung đột xã hội và ở không ít nơi từ tình huống kinh tế
đã trở thành tình huống chính trị với các làn sóng biểu tình, bãi công, làm rung
chuyển cả thể chế… Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do”
mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để
quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân - yếu tố bản chất
nhất của dân chủ…” (Nguyễn, 2022, 19-20). Vì thế, chủ nghĩa tư bản không phải là
mục tiêu của nhân loại, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải quyết được những tồn tại,
bất công mà chủ nghĩa tư bản đã và đang tạo ra, đưa xã hội loài người đến dân chủ,
công bằng, văn minh.
110
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quá độ bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội. Nghĩa là, chỉ bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, hay nói cách khác là
bỏ qua việc xác lập thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa, còn những thành tựu nhân loại
đạt được dưới chủ nghĩa tư bản chúng ta phải kế thừa để xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta, nhất là những thành tựu về kinh tế, khoa học và công nghệ. Do đó,
chúng ta chỉ bỏ qua chế độ chính trị áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Cho đến
nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng chúng ta
đã hình thành nhận thức tổng quát về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu
xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân
làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng
Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. Để thực hiện được mục tiêu đó,
chúng ta phải: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển
kinh tế tri thức; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người mới xã hội
chủ nghĩa, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng
hóa, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính
trị trong sạch, vững mạnh toàn diện (Nguyễn, 2022, 24-25).
Đặc biệt, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: hiện nay Việt Nam đang trong
quá trình xây dựng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các nhân tố xã hội chủ nghĩa được
hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ
nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực. Sự đan xen, cạnh

111
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

tranh này càng phức tạp và quyết liệt trong điều kiện cơ chế thị trường và mở cửa,
hội nhập quốc tế. Bên cạnh các mặt thành tựu, tích cực, sẽ luôn có những mặt tiêu
cực, thách thức cần được xem xét một cách tỉnh táo và xử lý một cách kịp thời, hiệu
quả. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ, đòi hỏi phải có tầm nhìn mới, bản
lĩnh mới và sức sáng tạo mới. Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá
trình không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa để
các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công hay thất bại
là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng… Và điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn
kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin - học
thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính khoa
học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
những giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực
hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng
như trong thực tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách
có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và
khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp
thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu
so với cuộc sống (Nguyễn, 2022, 35-38).
Dù thời thế có đổi thay, nhưng mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội ở nước ta là không bao giờ thay đổi. Độc lập dân tộc là điều kiện để đi lên
chủ nghĩa xã hội, ngược lại chủ nghĩa xã hội là điều kiện để đảm bảo độc lập dân
tộc. Vì đây là mục tiêu đem lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Đương nhiên, vấn đề không chỉ là mục tiêu, lý tưởng, mà điều không kém phần
quan trọng là phải tìm ra giải pháp, bước đi, cách làm khoa học, sáng tạo nhằm thực
hiện cho bằng được mục tiêu, lý tưởng đã xác định. Chủ nghĩa xã hội của chúng ta
xây dựng không phải là chủ nghĩa xã hội bị hiểu sai và làm sai, mà là chủ nghĩa xã
hội khoa học, chủ nghĩa xã hội đổi mới đúng đắn trên tinh thần phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn đất nước. Những đặc trưng và phương
hướng, nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cuốn sách “Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”
của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có giá trị khoa học và thực tiễn rất to lớn, là

112
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

định hướng chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Mỗi cán bộ, đảng
viên cần quán triệt, tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân để tạo sự
thống nhất trong nhận thức và hành động, phát huy sức mạnh tổng hợp trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
3. KẾT LUẬN
Từ lý luận và thực tiễn cho thấy con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
là tất yếu khách quan. Tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn
Phú trọng là sự tổng kết quá trình phát triển nhận thức và thực tiễn xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tác phẩm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, như một luận
cương về con đường phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Những thành tựu đạt
được của quá trình đổi mới cho thấy tính đúng đắn của con đường phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Dù bối cảnh trong nước và thế giới hiện có
nhiều thay đổi, các thế lực thù địch đang tìm và làm mọi cách chống phá con đường
phát triển của đất nước, nhưng Đảng và nhân dân ta vẫn luôn kiên định con đường
đã lựa chọn, tiếp tục vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp bối cảnh phát triển mới, thực hiện mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII.
Sự thật.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
Chính trị quốc gia.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Chính trị quốc gia - Sự thật.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
Chính trị quốc gia Sự thật.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
(Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[6]. Nguyễn, P. T. (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính trị quốc gia Sự thật.

113
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ TÍNH TẤT YẾU
CỦA THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Lưu Thị Hà
Học viện Kỹ thuật quân sự
Tác giả liên hệ: Lưu Thị Hà, email: luuha2308@gmail.com

Tóm tắt: Công cuộc đổi mới hơn 35 năm qua ở Việt Nam đã thu được nhiều thành
tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, tạo ra thế và lực mới cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn,
thách thức cả trên bình diện trong nước và quốc tế. Để đưa đất nước phát triển nhanh,
bền vững cần phải nghiên cứu một cách thấu đáo những quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Bài
viết tập trung làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ đó, làm rõ quá trình nhận
thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Đảng ta đã lựa chọn mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ khi ra
đời; đến nay đã luôn kiên định con đường đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội và
khẳng định con đường đó là lâu dài và rất khó khăn. Những thắng lợi mà chúng ta
đạt được trong hơn 92 năm qua đã chứng minh sự lựa chọn của Đảng là hoàn toàn
đúng đắn. Đảng đã nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ và cụ thể hơn về con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Con đường phát triển “gián tiếp rút ngắn” ấy
đã và đang được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo và có kết quả vào công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: thời kỳ quá độ; chủ nghĩa xã hội; tính tất yếu; đường lối cách mạng; Đảng
Cộng sản Việt Nam.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Đó là sự
biến đổi và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp. Nghiên cứu tiến trình vận động của lịch sử, các nhà sáng
lập chủ nghĩa Mác khẳng định, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chắc chắn
sẽ bị thay thế bằng phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Đó là quy luật khách

114
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

quan của lịch sử và thời đại ngày nay chính là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội. Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác, Đảng ta khẳng
định: Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa
xã hội. Thực tiễn lịch sử cho thấy, từ khi cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười
thành công ở nước Nga năm 1917, nhân loại đã thực sự bước vào một thời kỳ phát
triển mới - thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Mặc dù sự phát triển, thay thế của
các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên, nhưng sự thay thế ấy
bao giờ cũng trải qua một quá trình biến đổi, chuyển đổi lâu dài. Đó chính là thời
kỳ quá độ.

2. NỘI DUNG
2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tính tất
yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH)
Phạm trù thời kỳ quá độ được C.Mác nêu ra trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh
Gôtha là: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ
cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời
kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là gì khác hơn là nền chuyên
chính cách mạng của giai cấp vô sản” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995, 47). Đây là một
định nghĩa nổi tiếng về thời kỳ quá độ. Trong tác phẩm này, C.Mác chỉ rõ thời kỳ quá
độ có một số điểm đáng lưu sau: xã hội thời kỳ quá độ là xã hội vừa thoát thai từ xã
hội tư bản chủ nghĩa, do đó, mọi mặt của nó đều mang dấu ấn sâu sắc của xã hội tư
bản chủ nghĩa; thời kỳ quá độ là thời kỳ cải biến cách mạng một cách sâu sắc từ xã
hội tư bản chủ nghĩa sang xã hội xã hội chủ nghĩa; công cụ để thực hiện sự cải biến
đó là nhà nước, đó là nhà nước chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản; thời kỳ
quá độ là thời kỳ sinh đẻ lâu dài và đau đớn (Nguyễn et al., 1997, 155).
Kế thừa và phát triển những tư tưởng của C.Mác, V.I. Lênin đã nói một cách
cụ thể hơn về thời kỳ quá độ: “Danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh
tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ
phận, những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai
cũng thừa nhận là có” (Lênin, 1977a, 362). Và, V.I.Lênin đã nói rõ hơn: “về lý luận,
không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có
một thời kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ đó không thể không bao gồm những đặc

115
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

điểm hoặc những đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế - xã hội ấy. Thời kỳ quá độ ấy
không thể nào lại không phải là một thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang
giãy chết và chủ nghĩa cộng sản đang phát sinh, hay nói một cách khác, giữa chủ
nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn, và chủ nghĩa cộng sản đã
phát sinh nhưng vẫn còn rất non yếu” (Lênin, 1977b, 309-310).
Như vậy, theo các nhà kinh điển, thời kỳ quá độ là thời kỳ cải biến cách mạng
sâu sắc, toàn diện từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. Đó là thời điểm mà,
đồng thời cùng tồn tại những đặc điểm, đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế - xã hội
tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa và diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa
tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn và chủ nghĩa cộng sản đã phát
sinh nhưng còn rất non yếu.
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lịch sử
cần thiết để giai cấp công nhân sử dụng chính quyền, tác động và hoàn thành về
căn bản toàn bộ sự chuyển biến, quá độ từ các yếu tố, các tiền đề còn mang tính chất
tư bản chủ nghĩa từng bước quá độ trở thành các yếu tố, các tiền đề xã hội chủ nghĩa,
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đều
khẳng định tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chỉ
rõ vị trí lịch sử, nhiệm vụ đặc thù của nó trong quá trình vận động, phát triển của
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Cũng theo các nhà kinh điển tính tất
yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được lý giải từ các căn cứ sau:
Thứ nhất, bất kỳ quá trình chuyển biến từ một xã hội này lên một xã hội khác
đều nhất định trải qua một thời kì gọi là thời kì quá độ. Đó là thời kì còn có sự đan
xen lẫn nhau giữa các yếu tố mới và cũ trong cuộc đấu tranh với nhau. Có thể nói
đây là thời kì của cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa cái cũ và cái mới mà nói chung
theo tính tất yếu phát triển lịch sử thì cái mới thường chiến thắng cái cũ, cái lạc hậu.
Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội không là ngoại lệ lịch sử. Hơn nữa, từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là một bước nhảy lớn và căn bản về chất so với
các quá trình thay thế từ xã hội cũ lên xã hội mới đã từng diễn ra trong lịch sử thì
thời kì quá độ lại càng là một tất yếu, thậm chí có thể kéo dài.
Thứ hai, sự ra đời của một xã hội mới bao giờ cũng có những sự kế thừa nhất
định từ những nhân tố do xã hội cũ tạo ra. Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là sự kế
thừa đối với chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là trên phương diện kế thừa cơ sở vật chất
116
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

kỹ thuật, đã được tạo ra bởi sự phát triển của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa.
Tuy nhiên, cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội mặc dù là nền sản xuất đại công
nghiệp nhưng đó là nền sản xuất đại công nghiệp xã hội chủ nghĩa chứ không phải
là nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Do đó, nó cũng cần phải có thời kỳ quá độ
của bước cải tạo, kế thừa và tái cấu trúc nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa.
Đối với những nước chưa từng trải qua quá trình công nghiệp hóa tiến lên chủ
nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ cho việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội càng có thể kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm của nó là tiến hành công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đó là một nhiệm vụ vô cùng to lớn và đầy khó khăn,
không thể “đốt cháy giai đoạn” được.
Thứ ba, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh trong
lòng chủ nghĩa tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội
chủ nghĩa. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, dù ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo
ra những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội mới xã hội chủ
nghĩa, do vậy cũng cần phải có thời gian nhất định để xây dựng và phát triển những
quan hệ đó.
Thứ tư, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc mới mẻ, khó
khăn và phức tạp. Với tư cách là người chủ của xã hội mới, giai cấp công nhân và
nhân dân lao động không thể ngay lập tức có thể đảm đương được công việc ấy, nó
cần phải có thời gian nhất định. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước có
trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau có thể diễn ra trong khoảng thời gian
dài, ngắn khác nhau. Đối với những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển ở
trình độ cao khi tiến lên chủ nghĩa xã hội thì thời kỳ quá độ có thể tương đối ngắn.
Những nước đã trải qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản ở trình độ trung bình,
đặc biệt là những nước còn ở trình độ phát triển tiền tư bản, có nền kinh tế lạc hậu
thì thời kỳ quá độ thường kéo dài với rất nhiều khó khăn, phức tạp.
Trên cơ sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tế Việt Nam, Hồ Chí Minh đã
khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành giải phóng dân tộc, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan của cách mạng Việt
Nam. Người viết: “Cách sản xuất và sức sản xuất phát triển mãi, do đó mà tư tưởng
117
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

của con người, chế độ xã hội, cũng phát triển và biến đổi. Chúng ta đều biết từ xưa
đến đời nay, cách sản xuất từ chỗ dùng cành cây, búa đá phát triển dần dần đến
máy móc, sức điện, sức nguyên tử. Chế độ xã hội cũng phát triển từ cộng sản
nguyên thủy đến chế độ nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản chủ nghĩa
và ngày nay gần một nửa loài người đang tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng
sản chủ nghĩa. Sự phát triển và tiến bộ đó không ai ngăn cản được” (Hồ, 2002b, 282).
Người tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ nhiều phương diện từ lập trường yêu nước và
khát vọng giải phóng dân tộc, đạo đức, truyền thống lịch sử, văn hóa và con người
Việt Nam và từ những điều kiện đó cùng với bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội,
Hồ Chí Minh đã đi tới khẳng định tính tất yếu sự lựa chọn chủ nghĩa xã hội và con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thể
thế giới” (Hồ, 2002a, 180). Tuy nhiên, việc lựa chọn con đường quá độ lên chủ nghĩa
xã hội trong bối cảnh một nước thuộc địa nửa phong kiến vừa thoát khỏi xiềng xích
tư bản, gánh chịu hậu quả nặng nề do chiến tranh, cơ sở hạ tầng vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu xây dựng một nền kiến trúc thượng tầng của xã hội mới, đã đặt ra rất
nhiều những khó khăn, thách thức, nhưng với bản lĩnh và niềm tin, Hồ Chí Minh
đã luôn kiên định vào con đường đã chọn: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. Người cũng đã góp phần làm cụ thể và bổ sung vào kho tàng lý luận Mác -
Lênin về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một đất nước vốn là thuộc địa nửa
phong kiến như ở nước ta.
Bên cạnh đó, Người cũng chỉ ra những hạn chế và khó khăn trên con đường
quá độ từ xuất phát điểm của một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã
hội không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Theo đó, quá độ lên
CNXH là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài chứ không
thể một sớm một chiều. Bởi vì, chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới
xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những
nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ hàng ngàn năm... biến nước ta
từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp. Tuy nhiên, muốn “tiến lên
chủ nghĩa xã hội” thì không phải “cứ ngồi mà chờ” là sẽ có được chủ nghĩa xã hội.
Nếu nhân dân ta mọi người cố gắng, phấn khởi thi đua xây dựng, thì thời kỳ quá
độ có thể rút ngắn hơn.

118
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

2.2. Quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về tính tất yếu của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng ta khẳng định: “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ
tiến tới chủ nghĩa xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 69). Sở dĩ nói thời đại
ngày nay là thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là vì thực tiễn
lịch sử cho thấy, từ khi cách mạng tháng Mười thành công ở nước Nga năm 1917,
nhân loại đã thực sự bước vào một giai đoạn phát triển mới - giai đoạn quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. “Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử là kết tinh sức sáng
tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng
định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động nhanh,
phức tạp, Cương lĩnh của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn
cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a).
Theo quan niệm của Đảng ta, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp
giữa cái cũ và cái mới. Cái cũ ở đây không chỉ là những tàn dư của xã hội tiền tư
bản mà xã hội ta mới thoát ra mấy chục năm qua, mà còn là những yếu tố tư bản
chủ nghĩa đã, đang và sẽ hiện diện trong đời sống kinh tế - xã hội. Những nhân tố
này có thể là mới so với thực trạng xã hội ta (chẳng hạn như sở hữu tư nhân, kinh
tế thị trường...) nhưng lại cũ so với những nhân tố xã hội chủ nghĩa mà chúng ta
đang xây dựng để tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Sự biến đổi về chất nghĩa là sự biến đổi mang tính chất bản chất, căn bản, toàn
diện khác với sự biến đổi về lượng, sự biến đổi của từng bộ phận. Nghĩa là trong
thời kỳ quá độ, ở nước ta sẽ diễn ra sự biến đổi mang tính bản chất, căn bản và toàn
diện ở tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; và, quá trình đó phải diễn ra lâu dài
với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Đó là do
xuất phát điểm của nước ta thấp và xã hội ta cũng chưa trải qua sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản vì vậy, thời kỳ quá độ phải diễn ra lâu dài là một tất yếu lịch sử.
Đồng thời, thời kỳ quá độ phải trải qua nhiều bước phát triển khác nhau với nhiều

119
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

hình thức tổ chức kinh tế, xã hội cùng phát triển hội nhập, đan xen lẫn nhau. Có thể
khẳng định, khi bước vào thời kỳ quá độ, chúng ta gặp rất nhiều khó khăn. Đó là
do, đất nước ta trải qua hai cuộc chiến tranh, phải gánh chịu những hậu quả nặng
nề, chưa kinh qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa, cho nên hầu như chưa có
những tiền đề thực tiễn cơ bản cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội; trong khi hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới lâm vào khủng hoảng; phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế đang ở thời kỳ thoái trào. Bên cạnh đó, “các thế lực thù địch tiếp tục
chống phá, tìm cách xóa bỏ chủ nghĩa xã hội”. Trong bối cảnh khó khăn đó, Đảng
ta vẫn lạc quan khẳng định, “Chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản: có sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dặn kinh nghiệm lãnh đạo; dân tộc ta
là một dân tộc anh hùng; nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, có truyền thống
đoàn kết và nhân ái, cần cù lao động và sáng tạo, luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự
lãnh đạo của Đảng; chúng ta đã từng bước xây dựng được những cơ sở vật chất -
kỹ thuật rất quan trọng; cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự hình
thành và phát triển của kinh tế tri thức cùng với quá trình toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế là một thời cơ để phát triển” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 70-71).
Đảng ta cũng chỉ rõ mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta
là, chúng ta xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến
trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp tạo cơ sở để nước ta trở
thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Cụ thể là, đến
giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Đây là những nhiệm vụ nặng nề bởi trước hết “xây dựng được về
cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội” nghĩa là nền kinh tế của chúng ta phải
liên tục phát triển vượt bậc để đến khi kết thúc thời kỳ quá độ chúng ta đạt được
nền kinh tế phát triển rất cao đủ cơ sở hiện thực để đưa xã hội ta bước vào thời kỳ
phát triển xã hội xã hội chủ nghĩa; thứ hai, phải xây dựng được kiến trúc thượng
tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp với hạ tầng cơ sở phát triển cao như
thế. Đây quả là vấn đề không đơn giản như các nhà kinh điển đã chỉ ra. Bởi vì, thời
kỳ quá độ là thời kỳ diễn ra những cuộc biến đổi hết sức sâu sắc và căn bản, nó diễn
ra cuộc đấu tranh quyết liệt giữa cái cũ và cái mới, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa xã hội, giữa giai cấp tư sản, những thế lực phản động và giai cấp công nhân,

120
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

nhân dân lao động. Nghĩa là, ở đó chúng ta không chỉ có xây dựng mà cơ bản hơn
là phải đấu tranh quyết liệt để giữ chính quyền, bảo vệ chế độ và xây dựng được
những cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh,
hạnh phúc.
Nhận thức đúng những thời cơ và thách thức đang đặt ra để thực hiện được
mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ, Đảng ta chỉ rõ chúng ta phải quán
triệt và thực hiện tốt các phương hướng, nhiệm vụ cơ bản là: Đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên,
môi trường; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Xây dựng con người, nâng cao
đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc
phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại
độc lập, dân chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết
toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; Xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Chủ nghĩa tư bản mặc dù vẫn còn tiềm năng tồn tại và phát triển nhưng những
mâu thuẫn nội tại của nó ngày càng trở nên gay gắt không thể dung hòa được,
những cuộc khủng hoảng trầm trọng về kinh tế, chính trị và xã hội những năm đầu
thế kỷ XXI báo hiệu chủ nghĩa tư bản đang ở thời kì suy thoái toàn diện. Hơn nữa,
nhiều nước tư bản phát triển theo xu hướng xã hội dân chủ cũng cho thấy nhiều
dấu hiệu thực tế của một xã hội tương lai thay thế chủ nghĩa tư bản đang hình thành
và ra đời ở chính trong lòng những nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Với những ý
nghĩa trên, rõ ràng, xã hội loài người đang chuyển mình mạnh mẽ sang một xã hội
mới - xã hội chủ nghĩa như một tiến trình phát triển lịch sử tự nhiên.
Trong bối cảnh hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã, phong
trào xã hội chủ nghĩa thế giới khủng hoảng, tại Đại hội VII (năm 1991) với Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta khẳng
định: nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từ một
xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua
hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân,

121
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ
xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của nhân dân ta. Trên thế giới, chủ nghĩa
dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy đang nổi lên, các vấn đề an ninh phi truyền
thống vẫn đang tiếp diễn. Trong nước, sự nghiệp đổi mới tuy được đẩy mạnh toàn
diện nhưng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn như: “Sự chống phá
của các thế lực thù địch, tổ chức phản động ngày càng tinh vi hơn; những biểu hiện
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ và tình hình tham nhũng, lãng phí, tiêu cực... còn diễn biến phức tạp”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 164). Nghiêm trọng hơn, Đảng ta còn chỉ rõ: “Một
bộ phận cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị không vững vàng, suy thoái về tư
tưởng chính trị, còn hoài nghi, mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; một số ít hoang mang, dao động, mất lòng tin; cá
biệt còn phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi
mới của Đảng” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 168). Trong bài phát biểu bế mạc
tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, đồng chí Tổng Bí thư chỉ rõ: “Từ suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là
một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường”, có thể dẫn tới tiếp tay
hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, cơ hội, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp
cách mạng của Đảng, của dân tộc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 135-136).
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong tình hình đất nước và thế giới như trên,
chúng ta phải nâng cao ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và
trí tuệ của dân tộc, đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình
thức và biện pháp thích hợp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Có thể nói, Đảng ta luôn luôn kiên định con đường đưa đất nước tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Sự kiên định ấy thực chất chính là sự nhất quán lý tưởng xã hội chủ
nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Dù bất cứ
hoàn cảnh lịch sử nào Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán, không dao động,
luôn kiên trì đường lối xã hội chủ nghĩa: “kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; tiếp tục nghiên cứu phát triển, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam” (Đảng Cộng
sản Việt Nam, 1991, 135). Thực tiễn 92 năm ra đời, phát triển của Đảng và hơn 35

122
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

năm đổi mới đất nước với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử khiến cho
“Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày
nay” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, 20). Những thành tựu đó đã chứng tỏ sự
kiên định, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn, vừa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn,
vừa phù hợp với xu thế khách quan đúng như Đảng ta nhận định: “Những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử là kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta,
khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực
tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, 21).
Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đường lối tiến lên
chủ nghĩa xã hội của Đảng ta cũng thường xuyên được điều chỉnh, bổ sung và hoàn
thiện cho phù hợp tiến trình phát triển và điều kiện lịch sử nhất định của thời đại.
Thật vậy, với Chánh cương vắn tắt (năm 1930) Đảng ta mới chỉ vạch ra một cách
chung chung con đường để đưa đất nước đi tới xã hội cộng sản; tại Đại hội III (năm
1960), Đảng ta xác định cách mạng nước ta đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ: giải
phóng miền Nam và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; và Đảng ta xác định
đưa cả nước tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa. Nhưng đến Đại hội VI (năm 1986), Đảng ta khẳng định: từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua thời kì quá độ lâu dài là một tất yếu khách quan.
Thời kì quá độ ở nước ta do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất
nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất
khó khăn. Và đến Đại hội VII (năm 1991) Đảng ta khẳng định: nước ta quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Đến các Đại hội sau này, mặc dù có nhiều sự bổ sung và điều chỉnh, nhưng
nhìn chung, về cơ bản Đảng ta đều nhất quán với Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội VII thông qua (Cương lĩnh
1991) Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ
hơn với quan điểm cơ bản: “Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân; lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức
làm nền tảng” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 70-71). Đại hội IX khi nói về con

123
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã thể hiện quyết tâm: “Đảng và nhân
dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa
trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 2021a, 25). Đại hội tiếp tục khẳng định: “Con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu
mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học
và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện
đại” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 104).
Tại Đại hội XI, trên cơ sở bổ sung và hoàn thiện Cương lĩnh 1991, (Cương lĩnh
2011 bổ sung và phát triển) lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã có
một bước hoàn thiện: “Xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;
do nhân dân làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và
giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp
tác với các nước trên thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021c, 9). Đại hội XIII của
Đảng tiếp tục khẳng định: “Kiên định và không ngừng vận dụng, phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam
trong từng giai đoạn. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kiên
định đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 180).
Từ quan điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng ta trong nhiều thập kỷ qua
có thể nhận thấy rằng:
Một là, kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa của Đảng ta nhưng ngày càng
được Đảng ta nhận thức sâu sắc, đầy đủ và cụ thể hơn.
Hai là, đã có sự điều chỉnh và hoàn thiện căn bản con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội: từ làm cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản, đến quá độ lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
124
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

nghĩa” và hiện nay là quá độ lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa”. Rõ ràng, giai đoạn tư bản chủ nghĩa và chế độ tư bản chủ nghĩa là hoàn
toàn khác nhau.
Ba là, hình thức đi lên chủ nghĩa xã hội là từ “tiến nhanh”, “tiến mạnh”, “tiến
vững chắc”, “tiến thẳng” lên chủ nghĩa xã hội (Đại hội III và IV) có một “thời kì quá
độ, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” với các “bước đi”, “chặng đường” phù hợp và
với thời gian “lâu dài”.
Bốn là, từ sự giúp đỡ của các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa và các
lực lượng tiến bộ trên thế giới đến “tự lực tự cường”, “quan hệ hữu nghị”, “là bạn
và là đối tác tin cậy” của tất cả các nước nhằm phát huy và khai thác, tận dụng các
cơ hội, lực lượng và nguồn lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội.

3. KẾT LUẬN
Có thể khẳng định, trong thời đại ngày nay, mọi quốc gia, dân tộc đều có thể
và cần phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa theo những phương thức, con
đường, bước đi không nhất thiết phải giống nhau, nhưng phải phù hợp với quy
luật khách quan và điều kiện lịch sử cụ thể. Với những mục tiêu chung, cơ bản của
chủ nghĩa xã hội dù ở các trình độ khác nhau, mọi quốc gia, dân tộc cuối cùng sẽ
đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản thông qua bước chuyển tiếp tất yếu
và biện chứng. Đó là bước quá độ trực tiếp hay gián tiếp từ chủ nghĩa tư bản hay
tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đảng Cộng sản
Việt Nam kiên định mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, trải qua các thời
kì lịch sử, mặc dù nhất quán với mục tiêu chủ nghĩa xã hội, nhưng đã có sự thay
đổi, điều chỉnh về bước đi, cách thức, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội hết
sức căn bản. Sự thay đổi này vừa thể hiện sự đổi mới nhận thức về lý luận xây
dựng chủ nghĩa xã hội, vừa là thành quả tất yếu của sự tác động tích cực của thời
đại. Những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội sau hơn 35 năm đổi mới toàn diện
đất nước đã khẳng định sự đúng đắn, tính kiên định mục tiêu, con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; đồng thời, khẳng định những thành quả bổ sung và
phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
Đảng ta.

125
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (1995). Toàn tập (Vol. 19). Chính trị quốc gia.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII.
Chính trị quốc gia.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
Chính trị quốc gia.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Chính trị quốc gia.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam,. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
Chính trị Quốc gia.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021a). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021b). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII (Vol. 2). Chính trị quốc gia Sự thật.
[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021c). Văn kiện Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành
Trung ương khóa XIII. Chính trị quốc gia Sự thật.
[9]. Hồ, C. M. (2002a). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 8). Chính trị quốc gia.
[10]. Hồ, C. M. (2002b). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 9). Chính trị quốc gia.
[11]. Lênin, V. I. (1977a). Toàn tập (Vol. 36). Chính trị quốc gia.
[12]. Lênin, V. I. (1977b). Toàn tập (Vol. 39). Chính trị quốc gia.

126
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

TÍNH TẤT YẾU, MỤC TIÊU, ĐẶC TRƯNG, BẢN CHẤT, NHIỆM VỤ
XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Phan Thị Hà, Trần Văn Viễn, Lê Trọng Hưng


Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh (Phân hiệu Vĩnh Long)
Tác giả liên hệ: Phan Thị Hà, email: hapht@ueh.edu.vn

Tóm tắt: Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu và lý tưởng của toàn Đảng và toàn dân ta. Từ
khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo
toàn dân đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, dựng nên nhà nước dân chủ
cộng hòa, tiến hành công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhằm thực hiện lý tưởng
cao đẹp của toàn Đảng, toàn dân: xây dựng Việt Nam thành một nước xã hội chủ
nghĩa phồn vinh. Trong bài viết này chúng tôi làm rõ tính tất yếu, mục tiêu cũng như
đặc trưng, bản chất và nhiệm vụ của con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Trên cơ sở đó phân tích những định hướng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam trong tương lai.
Từ khóa: Chủ nghĩa xã hội; tính tất yếu; mục tiêu; đặc trưng; bản chất.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong công cuộc đổi mới của đất nước ta, việc định hướng con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam do Đảng ta lãnh chỉ đạo đã đạt được những thắng lợi này đến
đến những thắng lợi khác có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của đất
nước. Bắt đầu từ khi Đảng ta tiến hành đổi mới và tổ chức thành công Đại hội VI,
sự đổi mới đó cho đến bây giờ có rất nhiều các hội thảo nhìn nhận và bàn luận về
con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, có nhiều ý kiến thể hiện sự hoài nghi, dao
động về con đường đi lên CNXH mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Đặc biệt vào giai
đoạn những năm cuối của thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, lúc này
CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Tuy nhiên
với bản lĩnh chính trị vững vàng và kiên định mục tiêu lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin
làm kim chỉ nam cho hành động, từ đó để Đảng ta thực hiện mục tiêu, lý tưởng về
độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, với sự kiên trì đó Đảng ta đã tin tưởng rằng:
“Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng
nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử” (Đảng

127
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Cộng sản Việt Nam, 1991a, 8). Như vậy, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước ở thời
kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta tiếp tục quán triệt:
“Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển
của lịch sử” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 24).
Do đó, chúng ta có thể thấy rằng ngay trong quan điểm của chủ nghĩa duy vật
lịch sử Mác cũng đã khẳng định rằng: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái
kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1993, 21).
Từ quan điểm trên, chúng ta có thể hiểu rằng ở góc độ “tiệm tiến” vấn đề phát triển
một cách tuần tự hay là bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội đã lỗi thời, đã lạc hậu
để tiến hành kiến tạo một hình thái kinh tế - xã hội mới tiến bộ hơn phải chăng là
phù hợp với quy luật phát triển của xã hội loài người. Điều đó cho thấy rằng cả về
mặt thực tiễn cũng như về mặt lý luận đều minh chứng cho con người, loài người
thấy được chủ nghĩa tư bản chưa phải là giới hạn phát triển cao nhất của xã hội loài
người. Hiện nay, các dân tộc, quốc gia chỉ có hai con đường lựa chọn là phát triển
đất nước, quốc gia mình theo Chủ nghĩa tư bản hoặc theo Chủ nghĩa Cộng sản, sự
lựa chọn theo hướng nào là phụ thuộc vào nhận thức cũng như điều kiện lịch sử
của dân tộc đó. Đồng chí Nguyễn Đức Kiên - Tổ trưởng Tổ tư vấn kinh tế của Thủ
tướng Chính phủ khẳng định: “Mỗi một dân tộc họ chọn một con đường khác nhau
và chúng ta lựa chọn con đường xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
CNXH. Ở đây nó sáng tạo ở chỗ chúng ta tận dụng được tất cả những thành tựu
của trí tuệ con người để chúng ta đạt được mục tiêu. Trong bài viết của Tổng bí thư
Nguyễn Phú Trọng “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” cho rằng: “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”. Bỏ qua chủ nghĩa tư bản, bỏ qua những vấn đề bất cập
để tiến thẳng lên CNXH thì nó chính là ở khía cạnh ấy và khi người đứng đầu”
(Nguyễn, 2021) mà tuyên bố như thế thì nó giúp cho người điều hành trực tiếp có
động lực và có niềm tin để họ có thể đi tắt, đón đầu”. Đại hội lần thứ XIII của Đảng
tiếp tục có những nhận thức mới được bổ sung, cụ thể hóa nhằm làm rõ hơn mục
tiêu, phương hướng và các mối quan hệ lớn cần giải quyết trong quá trình đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.

128
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU


2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác về tính tất yếu đi lên CNXH
Con đường đi lên CNXH của mỗi dân tộc đã được Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ
rõ là không phân biệt chủng tộc, màu da, trình độ phát triển. Họ có quyền tự quyết,
tự lựa chọn con đường phát triển của dân tộc, bất khả xâm phạm của các quốc gia
dân tộc khác. Các quốc gia, dân tộc dựa vào yếu tố lịch sử và hoàn cảnh quốc tế, đặc
thù từng dân tộc để điều chỉnh hoặc bổ sung phát triển những nhận thức mới hay
vận dụng các phương pháp các bước xây dựng CNXH làm sao cho phù hợp với
thực tiễn. Trên cơ sở đó Lênin đã nêu luận điểm hết sức có ý nghĩa rằng: “Các dân
tộc đi lên CNXH là tất yếu, nhưng có thể đi bằng nhiều con đường, cách thức khác
nhau, phụ thuộc vào đặc thù kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội cụ thể của quốc gia
mình” (Lênin, 2006a, 160).
Quan niệm cũng như nhận thức về mô hình và con đường đi lên CNXH có
liên quan trực tiếp đến sự thành hay bại trong quá trình xây dựng CNXH. Do đó
các nhà kinh điển Mác - Lênin đã đề cao đến vấn đề này, cụ thể Mác đã từng phê
phán những sai lầm về mô hình xã hội tương lai của các nhà CNXH không tưởng
trước đó đặc biệt là quan điểm mang nhiều ảo tưởng về mô hình XHCN của công
nhân Pháp thời kỳ 1848 - 1850 của phái Látxan Ăngghen đã phê phán gay gắt về
“bệnh phóng họa lịch sử” xa rời “mảnh đất hiện thực” của những người cộng sản
có quan niệm về CNXH. Để không lập lại điều đó, các ông yêu cầu: “... ngày nay,
vấn đề trước hết là phải nghiên cứu thêm, trong mọi chi tiết và mọi mối liên hệ của
nó” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995, 305).
Từ khi có mục tiêu cao nhất của cách mạng nước ta là thực hiện độc lập dân
tộc phải gắn liền với CNXH, thực hiện bằng con đường đi lên CNXH bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa tránh cho nhân dân ta không phải tiếp tục sống trong một chế độ
xã hội có áp bức, bóc lột và bất công. Lựa chọn phát triển đất nước theo con đường
XHCN không phải là do ý muốn chủ quan của Đảng, hoặc cá nhân nào, mà là sự
tổng hợp các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của các mặt đời sống xã hội
như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong nước và quốc tế, thể hiện khát vọng của
cả đất nước. Con đường đi lên CNXH, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
gắn liền với CNXH, thực tiễn của cách mạng thế giới cũng như cách mạng Việt Nam
hơn 90 năm qua là những cơ sở lý luận, thực tiễn quan trọng nhất.
129
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

2.2. Quan điểm của Lênin trong việc phát triển, bổ sung hoàn chỉnh mô hình xây
dựng CNXH ở Liên Xô
Sau khi Mác và Ăng ghen qua đời, V.I.Lênin đã kế thừa và phát triển các quan
điểm lý luận của chủ nghĩa Mác về xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Liên Xô. Vì vậy,
những luận điểm của Lênin cũng như kết quả đạt được về con đường xây dựng
CNXH rất có ý nghĩa cho cách mạng Việt Nam hiện nay.
Thứ nhất, đối với nước ta có nền nông nghiệp lạc hậu, thì không thể quá độ
trực tiếp lên CNXH mà phải trải qua con đường gián tiếp với nhiều bước quá độ.
Thứ hai, thực hiện nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần khi tiến lên
CNXH. Lênin cho rằng trong nền kinh tế hàng hóa sản xuất nhỏ, cá thể nhất định
sẽ trở thành thành kinh tế TBCN, đây là sự cần thiết để xây dựng CNXH. Hơn nữa,
ông cho rằng cần phải thực hành “tô nhượng” để thu hút vốn và công nghệ của các
nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ ba, Lênin cho rằng cần tổ chức lại và không ngừng nâng cao hiệu quả
thành phần kinh tế toàn dân. Theo ông chỉ giữ lại những cơ sở kinh tế quốc dân chủ
yếu quan trọng nhất, còn lại thì cho thuê, sáp nhập, cổ phần hóa.
Thứ tư, theo Lênin nhân tố quyết định thành công của nền kinh tế hàng hóa
có nhiều thành phần khi tiến lên CNXH đó là công tác tổ chức chỉ đạo của đảng và
nhà nước, Lênin cho rằng “Nếu không có sự thống trị của giai cấp vô sản trong nhà
nước thì không thể nói đến chủ nghĩa xã hội được” (Lênin, 2006b, 253).
Thứ năm, tiến hành công nghiệp hóa, ra sức xây dựng nền tảng cơ sở vật chất
của CNXH.
Lênin cho rằng: “công nghiệp đại cơ khí là cơ sở duy nhất có thể có của chủ
nghĩa xã hội. Người nào quên điểm này thì không phải là đảng viên cộng sản. Chủ
nghĩa cộng sản là chính quyền Xô Viết cộng với điện khí hóa toàn quốc” (Lênin,
2006c, 60).
Đảng ta vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sau chiến thắng Điện biên phủ năm 1954 miền Bắc tiến
lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục kháng chiến. Đánh giá về đặc điểm của
nước ta lúc bấy giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Đặc điểm to nhất của ta trong
thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội
130
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” và “Nhiệm vụ quan
trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội... tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện
đại, có văn hóa, khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng XHCN, chúng ta
phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ
chủ chốt và lâu dài” (Hồ, 2011, 13). Trong khi đó, đất nước đang rơi vào chiến tranh
khốc liệt, miền Bắc phải thực hiện nhiệm vụ hậu phương chi viện cho miền Nam
đánh giặc để thống nhất đất nước, vì vậy nền kinh tế buộc phải vận hành theo mô
hình kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp, chính mô hình này đã tạo nên sức mạnh
to lớn để góp phần chiến thắng ngoại xâm thống nhất tổ quốc. Tuy vậy, do việc duy
trì lâu dài mô hình kinh tế này đã làm cho đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế.
2.3. Mục tiêu xây dựng CNXH ở Việt Nam
Trong cương lĩnh chính trị tháng 02 năm 1930, Đảng ta khẳng định: cả nước
sẽ tiến lên xã hội XHCN sau khi cách mạng giải phóng dân tộc thành công, đó là
niềm mong mỏi của Nhân dân ta, của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nó phù
hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Mục tiêu xã hội XHCN mà Nhân dân ta đang
phấn đấu xây dựng là một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”. Từ đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã chủ trương đổi mới tư duy
về con đường đi lên CNXH, nhiều luận điểm của Lênin đã được phân tích áp dụng
vào thực tiễn nước ta một cách thích hợp.
Trong cương lĩnh năm 1991 của đảng chỉ rõ: “nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một nước vốn là nước thuộc địa nửa phong kiến, lực
lượng sản xuất rất thấp” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991a, 8).
Về quá trình xây dựng CNXH đã thể hiện rõ trong cương lĩnh (bổ sung, phát
triển năm 2011) như sau: “nước ta nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu
dài với nhiều bước phát triển, nhiều lĩnh vực tổ chức kinh tế, xã hội đan xen” (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 2011, 70). Tại đại hội lần thứ XII, Đảng ta một lần nữa nhấn
mạnh nước ta vẫn tiếp tục mô hình kinh tế thị trường, vận hành theo quy luật của
kinh tế thị trường, do đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhằm thực hiện mục tiêu:
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh là một hệ thống yêu cầu hoàn chỉnh được tạo nên bởi 5

131
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

mục tiêu tồn tại trong mối quan hệ thống nhất. Đó là kết quả của quá trình kế thừa
lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam hiện nay.
2.4. Đặc trưng cơ bản của CNXH ở Việt Nam
Tại hội nghị tổng kết 5 năm đổi mới vào năm 1991, Đảng ta đã nêu lên 6 đặc
trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta đó là xã hội: “Do nhân dân lao
động làm chủ; Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; Có nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công,
làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết
và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả
các nước trên thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991b, 111).
Đến năm 2011 đảng ta tiếp tục bổ sung hoàn chỉnh các đặc trưng của xã hội xã
hội chủ nghĩa nước ta thành 8 đặc trưng thể hiện trong “Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011) đó
là xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm
chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các
dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau
cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với
các nước trên thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 70).
Các đặc trưng này chính là kết quả của quá trình đổi mới tư duy về CNXH của
đảng, nó phù hợp với đặc điểm nước ta trong thời kỳ hội nhập thế giới, là kết quả
của sự kết hợp hài hòa giữa cái chung và cái riêng ở Việt Nam. Cụ thể:
- Đặc trưng thứ nhất: Thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Đây là đặc trưng chủ yếu và toàn diện nhất, nó đã thể hiện đầy đủ nội hàm
của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh là làm sao đời sống
của nhân dân ngày càng nâng cao, ấm no hạnh phúc.

132
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

- Đặc trưng thứ hai: do nhân dân lao động làm chủ.
Điều này đã thể hiện một xã hội mà Bác và nhân dân ta mong đợi, quyền làm
chủ của nhân dân luôn luôn được đề cao; theo Bác “dân chủ tức là dân là chủ, dân
làm chủ”. Hiện nay đảng ta không ngừng hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
nhằm đảm bảo quyền lực của Nhà nước luôn thuộc về nhân dân, mặt khác dân chủ
phải gắn liền với kỷ cương phép nước và được thể hiện ở mọi lúc mọi nơi trong
cuộc sống.
- Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển dựa trên nền tảng lực lượng sản xuất
tiên tiến và chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất.
Trình độ phát triển của nền kinh tế CNXH luôn luôn cao hơn chế độ trước,
điều này thể hiện quy luật phát triển của chế độ xã hội loài người. Trong cương lĩnh
chính trị bổ sung năm 2011 đảng ta chỉ rõ: mâu thuẫn trong lòng của chủ nghĩa tư
bản giữa tính chất xã hội hóa và lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa ngày càng cao. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta có nhiều hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế thích hợp, trong đó
thành phần kinh tế toàn dân là chủ đạo.
- Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Tính tiên tiến của nền văn hóa ở nước ta thể hiện sự hòa nhập phát triển với
văn hóa thế giới, đồng thời vẫn giữ gìn bản sắc dân tộc như các truyền thống yêu
nước, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc đã có từ ngàn xưa. Nền văn hóa của
nước ta thể hiện sự thống nhất trong đa dạng, từng bước làm cho văn hóa dân tộc
là động lực phát triển đất nước.
- Đặc trưng thứ năm: con người luôn luôn có đời sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện.
Mục đích của chế độ XHCN không chỉ xây dựng nền kinh tế phát triển cao mà
còn từng bước giải phóng, phát triển con người. Mục tiêu phát triển con người phải
vươn tới tính nhân văn, nhân đạo, toàn diện. Để sự nghiệp đổi mới thành công thì
trước hết phải có đội ngũ những người có đủ đức và tài, đây chính là quan điểm
của chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc đào tạo con người, đồng thời phản ánh nhu
cầu của nhân dân mong muốn có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc hiện nay.

133
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

- Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam sống bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.
Truyền thống đoàn kết dân tộc ở nước ta đã có từ hàng nghìn năm nay, với
chính sách đoàn kết dân tộc đúng đắn của đảng thì tinh thần đoàn kết dân tộc được
nâng lên tầm cao mới, điều này được thể hiện rõ nét trong giai đoạn diễn ra dịch
bệnh Covid-19 của nhân dân cũng như bà con Việt kiều trên thế giới hướng về đất
nước. Ngoài ra trong quá trình xây dựng đất nước cũng như hội nhập quốc tế đã
chứng minh tính đúng đắn về chính sách đoàn kết dân tộc của Đảng, vì vậy chúng
ta đã thành công trong việc chống lại âm mưu “ Diễn biến hòa bình” của địch.
- Đặc trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân do Đảng lãnh đạo.
Nước ta đang hướng tới mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
nhằm thực hiện nguyện vọng của nhân dân. Nền dân chủ XHCN ở nước ta luôn
gắn bó chặt chẽ với bản chất của nhà nước, vì vậy nhà nước đã đề ra biện pháp ngăn
ngừa và xử lý tham nhũng, lãng phí, cũng như vi phạm quyền làm chủ của nhân
dân, đồng thời hoạt động của nhà nước phải chịu sự giám sát của nhân dân.
- Đặc trưng thứ tám: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Trong quá trình hội nhập thế giới toàn diện trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội, đảng ta luôn luôn thực hiện phương châm: Việt Nam là bạn, là đối tác
tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế trên tinh thần bình đẳng, cùng có lợi. Đến
nay, nước ta đã chính thức tham gia, ký kết thực hiện 14 FTA có hiệu lực và 01 FTA đã
chính thức ký kết, sắp có hiệu lực, hiện đang đàm phán 02 FTA. Trong số 14 FTA thì
hiệp định CPTPP là FTA thế hệ mới đầu tiên mà Việt Nam tham gia, tiếp theo đó là
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Châu Âu (EVFTA) đã khẳng định
trí tuệ của Đảng ta trong quan hệ đối ngoại với thế giới đa cực hiện nay.
2.5. Bản chất xây dựng CNXH ở Việt Nam
Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ra
ngày 16 tháng 5 năm 2021 đã thể hiện cụ thể bản chất của chế độ xã hội xã hội chủ
nghĩa ở nước ta.

134
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta là ưu việt vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân, không
tồn tại những mâu thuẫn cơ bản đối kháng như trong chế độ TBCN. Điều này giúp
ta hiểu được nguyên nhân sâu xa dẫn đến phong trào “99 chống lại 1” diễn ra ở Mỹ
vào đầu năm 2011 và nhanh chóng lan rộng ở nhiều nước tư bản khác.
Xã hội nước ta đang xây dựng là do nhân dân làm chủ, có nền kinh tế phát
triển; nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; các dân tộc chung sống hòa
bình, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Nước ta đang thực hiện nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tuân theo hệ thống quy luật kinh tế thị trường
dưới sự quản lý của Nhà nước XHCN do Đảng lãnh đạo. Mô hình kinh tế này mang
đậm màu sắc của Việt Nam, nó phù hợp với bản chất chế độ XHCN ở nước ta; nó
vừa kế thừa thành tựu của nhân loại vừa tuân theo quy luật khách quan.
Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bản chất chế độ chính trị ở
nước ta là “của dân, do dân, vì dân”, vì vậy việc giữ gìn truyền thống văn hóa dân
tộc như chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, truyền thống lao động… luôn
được đảng ta giữ gìn phát triển nhằm đem lại hạnh phúc cho nhân dân đó là mục
tiêu phấn đấu của cách mạng Việt Nam.
Bản chất chế độ còn thể hiện tính ưu việt ở việc con người có cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Xã hội phát triển hài hòa, tiến
bộ, công bằng cho mọi người, nó thể hiện rõ tính nhân văn, nhân đạo để mọi người
cùng phát triển toàn diện. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công thì phải có
con người có đủ đức và tài, phải “vừa hồng vừa chuyên”. Hiện nay Đảng ta đẩy
mạnh công tác xóa đói giảm nghèo, chăm lo y tế, giáo dục để không ngừng nâng
cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân.
Chính sách dân tộc đúng đắn của Đảng ta đã tạo điều kiện tốt để các dân tộc
trong nước luôn có cuộc sống đoàn kết, bình đẳng, cùng phát triển trên tinh thần
“cương lĩnh dân tộc” của chủ nghĩa Mác - Lênin. Bản chất ưu việt của xã hội ở nước
ta đã thể hiện thông qua kết quả đời sống các dân tộc ngày càng nâng cao, cùng
chung sống hòa bình, hữu nghị trên cả nước. Kết quả này đã góp phần xây dựng

135
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

truyền thống đoàn kết toàn dân, lấy đoàn kết làm “mẫu số chung” cho tính đồng
thuận của các dân tộc.
Có Nhà nước XHCN do Đảng lãnh đạo ngày càng phát triển và luôn gắn bó
mật thiết với nhân dân. Quyền làm chủ xã hội của nhân dân đã góp phần to lớn vào
việc ngăn chặn tệ nạn quan liêu, hách dịch, tham nhũng, lãng phí.
Có quan hệ hợp tác và hữu nghị với các nước trên thế giới. Xã hội chúng ta
đang xây dựng đã thể hiện hình ảnh “ngoại giao cây tre”một cách toàn diện, hiệu
quả trên tất cả các lĩnh vực theo phương châm: “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy
của các nước trong cộng đồng quốc tế”dựa trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi
không phân biệt chế độ chính trị - xã hội.
2.6. Những nhiệm vụ chủ yếu xây dựng CNXH ở Việt Nam
Phát huy kết quả đạt được và khắc phục hạn chế hiện nay, trong Văn kiện Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã nêu lên những nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã
hội có một số điểm như sau:
Về phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi
trường. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã chỉ rõ “Đẩy mạnh nghiên
cứu, chuyển giao, ứng dụng, phát triển, làm chủ công nghệ hiện đại; phát triển một
số sản phẩm chủ lực có thương hiệu mạnh, có uy tín trong khu vực và thế giới.
Nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực của đất nước,
tạo cơ sở đẩy mạnh chuyển đổi số nền kinh tế quốc gia và phát triển kinh tế số”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 123).
Tập trung thực hiện đồng bộ một số biện pháp để hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường theo hướng XHCN, đồng thời xử lý tốt mối liên hệ giữa các loại thị trường
theo tiêu chuẩn của thế giới hiện nay. Không ngừng hoàn thiện nền tài chính, tiền
tệ và ngân hàng, thực hiện linh hoạt các chính sách kinh tế vĩ mô, cũng như kết hợp
hài hoà với các chính sách khác nhằm ổn định tăng trưởng nền kinh tế, hạn chế lạm
phát. Đại hội lần thứ XIII của Đảng yêu cầu thống nhất và nâng cao nhận thức về
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là “nền kinh tế thị
trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo quy luật của kinh
tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng

136
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của đất nước” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 128).
Hoàn thiện cơ cấu nền kinh tế cho phù hợp với tiêu chuẩn đổi mới mô hình
tăng trưởng, áp dụng tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng suất và tính cạnh tranh
trong khu vực và thế giới. Đẩy mạnh liên kết kinh tế khu vực nhằm phát huy lợi thế
địa phương, hiện các vùng kinh tế trọng điểm đều có một lợi thế riêng và có sự kết
nối chặt chẽ, vì vậy việc liên kết vùng sẽ tạo ra sức mạnh cạnh tranh to lớn ở trong
nước và quốc tế. Không ngừng đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao đi đôi với
việc đổi mới sáng tạo, áp dụng tiến bộ kỹ thuật để tạo sự đột phá về hiệu quả nhằm
giành lợi thế cạnh tranh trong khu vực và thế giới. Đẩy mạnh tập trung và tích tụ
tư bản trong xây dựng cơ sở hạ tầng đặc biệt là hàng không, đường cao tốc, đường
thủy. Huy động và sử dụng tốt vốn đầu tư của xã hội, thay đổi chính sách thu hút
vốn FDI từ số lượng sang chất lượng, có mô hình quản trị hiện đại, có chuỗi cung
ứng rộng khắp, ít hủy hoại môi trường và kết nối với khu vực trong nước.
Trên lĩnh vực xã hội không ngừng phát huy giá trị nền văn hoá, con người và
sức mạnh của dân tộc, tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội, khuyến
khích người dân làm giàu chính đáng đồng thời giảm nghèo triệt để; chú trọng đầu
tư nâng cao chất lượng hoạt động ngành y tế chăm lo sức khỏe nhân dân; tiếp tục
đổi mới nền giáo dục một cách căn bản, toàn diện, đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế” (Nghị quyết số: 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013 khóa XI) đồng thời
nâng cao hiệu quả các dịch vụ công ích khác; nâng cao đời sống vật chất tinh thần
cho nhân dân. Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục nhất quán các phương hướng
và có bổ sung mới về phát triển văn hóa, con người, quản lý phát triển xã hội, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đó là “xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn
hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam
trong thời kỳ mới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 143), “Tăng cường quản lý phát
triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính
sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, an ninh con người” (Đảng Cộng
sản Việt Nam, 2021, 147-148). Điều này bảo đảm sự phát triển bền vững của con

137
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

người và xã hội, thể hiện bản chất của chế độ ta là lấy con người làm mục tiêu của
sự phát triển.
Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai kịp thời, ra
sức quản lý và khai thác tài nguyên hiệu quả, bảo vệ tốt môi trường tự nhiên theo
các mục tiêu phát triển của Liên hợp quốc đề ra đến năm 2030.
Thực hiện tốt công tác phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm theo
tinh thần Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” trong toàn xã hội để phát huy
cái tốt và ngăn chặn cái xấu.
Nhà nước tiếp tục thực hiện tốt công tác quản lý nền kinh tế và phát triển xã
hội, ra sức kiện toàn bộ máy quản lý hành chính theo hướng tinh gọn, thực hiện
tinh giản biên chế. Phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cấp các ngành.
Không ngừng củng cố quốc phòng, an ninh; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo
vệ và giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ
vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Thực hiện tốt công tác đối ngoại, giữ
gìn môi trường hoà bình để phát triển kinh tế; coi trọng đối ngoại đi đôi với quốc
phòng, an ninh; tiếp tục đường lối độc lập, tự chủ, cùng có lợi; từng bước làm sâu
sắc hơn các mối quan hệ với các nước theo hướng bền vững.
Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng tiếp tục có những nhận thức, bổ sung mới về
các mối quan hệ lớn. Đó là điều chỉnh, bổ sung mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh
tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” thành “giữa tăng
trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ
môi trường”; điều chỉnh mối quan hệ “giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” thành “giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa”; điều chỉnh mối quan hệ “giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ” thành “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ”. Đặc biệt,
bổ sung thêm mối quan hệ “giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo
đảm kỷ cương xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 119).
Nêu tầm nhìn và định hướng phát triển, quan điểm chỉ đạo, Nghị quyết Đại
hội nhấn mạnh mục tiêu tổng quát là: "Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực
cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị

138
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân
đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển
đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc
đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc,
giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta
trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa" (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 2021, 326).
3. KẾT LUẬN
Những kết quả to lớn mà nước ta đạt được trong thời gian đổi mới do Đảng
lãnh đạo là minh chứng đầy thuyết phục cho sự khẳng định con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta là đúng đắn, phù hợp với thực tế khách quan của lịch sử và
quyền lựa chọn con đường phát triển của mỗi dân tộc, mặc dù con đường đó còn
nhiều khó khăn. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới
chủ nghĩa xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 69). “Lý luận về đường lối đổi
mới, về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và
từng bước được hiện thực hóa… Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực,
vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 25).
Hiện nay nước ta đang tiếp tục con đường đi lên CNXH với những đặc trưng,
mô hình tốt đẹp dưới sự lãnh đạo của Đảng thì tính khoa học, tất yếu của con đường
đó cũng sẽ trở thành hiển nhiên. Những mục tiêu phát triển đất nước do Đại hội đại
biểu lần thứ XIII của Đảng đưa ra có đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn; việc thực
hiện thắng lợi những mục tiêu đó là những nấc thang đưa dân tộc ta đến với chủ
nghĩa xã hội, cho nên mọi quan điểm coi nhẹ, xuyên tạc những mục tiêu đó đều là
những quan điểm sai trái, phục vụ cho mục đích hướng lái, thực hiện "tự diễn biến,
tự chuyển hóa trong nội bộ" của các thế lực thù địch.
Với ý nghĩa đó, chúng ta tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng cũng như
sự đồng lòng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta sẽ đoàn kết một lòng, phát huy
những thành tựu đã đạt được, khắc phục những hạn chế, yếu kém để sự nghiệp đổi
mới của Đảng thành công rực rỡ .

139
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (1995). Toàn tập (Vol. 19). Chính trị quốc gia.
[2]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (2002). Toàn tập (Vol. 23). Chính trị quốc gia.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991a). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính trị quốc gia.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991b). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII. Chính trị quốc gia.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Chính trị quốc gia.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[7]. Hồ, C. M. (2011). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 10). Chính trị quốc gia.
[8]. Lênin, V. I. (2006a). Toàn tập (Vol. 30). Chính trị quốc gia.
[9]. Lênin, V. I. (2006b). Toàn tập (Vol. 43). Chính trị quốc gia.
[10]. Lênin, V. I. (2006c). Toàn tập (Vol. 44). Chính trị quốc gia.
[11]. Nguyễn, T. B. (2021, 41 16/05). Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về
con đường đi lên CNXH. Cổng Thông tin Điện tử Bộ Nội vụ.
https://www.moha.gov.vn/tin-noi-bat/bai-viet-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-
trong-ve-con-duong-di-len-cnxh-46173.html

140
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

GIÁ TRỊ TRƯỜNG TỒN CỦA HỌC THUYẾT MÁC - LÊNIN


VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ VIỆC BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN
SÁNG TẠO HỌC THUYẾT ĐÓ TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY
Lương Đình Hải
Hội đồng Khoa học VASS, Thư ký Dự án Từ điển Bách khoa Việt Nam
Tác giả liên hệ: Lương Đình Hải, email: tskhldh@yahoo.com

Tóm tắt: Chủ nghĩa xã hội không phải là phát kiến của các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác - Lênin, nhưng các ông đã có công biến chủ nghĩa xã hội thành một lý luận có
giá trị khoa học, giá trị tư tưởng, giá trị cách mạng và giá trị nhân văn sâu sắc. Điểm
cốt lõi, nền tảng và cơ sở đầu tiên tạo nên các giá trị đó chính là phương pháp biện
chứng duy vật. Điểm cốt lõi, nền tảng và cơ sở thứ hai là lý luận duy vật biện chứng
về lịch sử. Điểm cốt lõi, nền tảng và cơ sở thứ ba là các tư tưởng về con người và giải
phóng con người, giải phóng xã hội. Điểm cốt lõi, nền tảng và cơ sở thứ tư là các tư
tưởng về xã hội xã hội chủ nghĩa, xã hội cộng sản chủ nghĩa và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội. Bối cảnh mới của thế giới bao hàm nhiều nội dung mới: nền kinh tế thị
trường chuyển sang giai đoạn phát triển mới; các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
(KHKT), cách mạng khoa học công nghệ (KHCN), CMCN, toàn cầu hóa và những
vấn đề toàn cầu, những đặc điểm mới về phương diện chính trị, văn hóa, xã hội, an
ninh... Sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ đất nước, công cuộc đổi mới hơn 35 năm
qua với những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử là tất yếu và phù hợp với quy luật phát
triển xã hội và xu thế phát triển chung của nhân loại. Đồng thời là thể hiện nổi bật,
sáng chói việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, chủ nghĩa xã hội
nói riêng. Những thắng lợi vĩ đại đó cũng là minh chứng sáng chói sức mạnh tinh
thần và sức sống mãnh liệt, giá trị trường tồn của chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự phát
triển đất nước trong bối cảnh mới đang đòi hỏi phải tiếp tục vận dụng sáng tạo, hoàn
thiện, bổ sung, phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội nói riêng và chủ nghĩa Mác - Lênin
nói chung. Đó đang là xu hướng cấp thiết, rất có ý nghĩa và giá trị trong bối cảnh mới
hiện nay.
Từ khóa: lý luận Mác - Lênin; chủ nghĩa xã hội; bối cảnh mới; Triết học con người;
Triết học xã hội.

141
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Khái niệm “chủ nghĩa xã hội” không phải do các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin sáng tạo ra. Giống như nhiều thuật ngữ khác trong lịch sử tư tưởng
nhân loại, nó được các nhà tư tưởng tạo ra trước khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời
rất lâu. Khi chủ nghĩa Mác ra đời, chủ nghĩa xã hội đã trở thành một học thuyết có
cơ sở khoa học, dựa trên thế giới quan duy vật biện chứng, là sự tổng kết, khái quát
lý luận không chỉ các thành tựu của các ngành khoa học, các tư tưởng tiến bộ của
nhân loại. Lý luận đó còn là kết quả của sự tổng kết, khái quát thực tiễn lịch sử toàn
thế giới. Học thuyết về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin bao hàm nhiều
nội dung, tư tưởng cốt lõi, quan trọng về chủ nghĩa xã hội, về sự phát triển của các
hình thái kinh tế - xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ,
về đấu tranh giai cấp, về nhà nước và nhà nước chuyên chính vô sản, về sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân, về sở hữu và các thành phần kinh tế; về con người,
về văn hóa, dân tộc, tôn giáo, gia đình,…
Học thuyết về chủ nghĩa xã hội vừa là kết quả phân tích và khái quát lý luận sâu
sắc, khoa học, lịch sử phát triển của xã hội loài người, đặc biệt những mâu thuẫn và cơ
chế vận hành của xã hội đương thời mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin
sống và hoạt động. Nó đồng thời bao chứa cả những kết luận logic từ những phân tích,
khái quát đó tạo nên những dự báo thiên tài về xã hội xã hội chủ nghĩa tương lai mà
nhân loại khát khao từ xưa đến nay. Những dự báo ấy có đầy đủ căn cứ lý luận, thực
tiễn và logic chặt chẽ. Toàn bộ các nội dung tư tưởng, các nguyên lý, luận điểm và dự
báo về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin tạo thành một học thuyết có cấu
trúc khoa học chặt chẽ, có giá trị khoa học và cách mạng, có tính tư tưởng lớn lao. Học
thuyết ấy thống nhất hữu cơ trong mình nó tính chất thế giới quan duy vật biện chứng
và phương pháp luận biện chứng duy vật vững chắc. Bởi vậy nó là kim chỉ nam cho tư
tưởng và hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam, là một trong những cấu phần căn
bản và quan trọng nhất trong nền tảng tư tưởng của Đảng ta.
Thực tiễn thế giới gần hai thế kỷ qua cho thấy học thuyết về chủ nghĩa xã hội
nói riêng, chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung đã có ảnh hưởng to lớn đến lịch sử nhân
loại. Toàn bộ những thành tựu trong sự phát triển xã hội của thế giới, kể từ khi xuất
hiện chủ nghĩa Mác, từ cuộc cách mạng tháng Mười Nga, đến chủ nghĩa xã hội hiện
thực trong thế kỷ XX, từ phong trào công nhân đến phong trào giải phóng dân tộc,
cả sự thay đổi, tiến bộ của chủ nghĩa tư bản, trực tiếp hoặc gián tiếp, đều gắn liền

142
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

với chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin với học
thuyết về chủ nghĩa xã hội là lý luận có ảnh hưởng lớn nhất, sâu sắc nhất trong lịch
sử nhân loại và sẽ còn tiếp tục ảnh hưởng sâu rộng mãi mãi trong tương lai.
Trên thế giới, từ khi V.I.Lênin mất đến nay đã gần một thế kỷ trôi qua, lịch sử
nhân loại đã có những đổi thay vô cùng lớn lao. Những thành tựu to lớn trong tất cả
các lĩnh vực, từ kinh tế đến văn hóa, từ chính trị đến tư tưởng, từ tồn tại xã hội đến
ý thức xã hội, từ cơ sở vật chất đến đời sống tinh thần, cả xã hội lẫn con người, từ
các cá nhân đến cộng đồng quốc gia - dân tộc và toàn thể nhân loại, đã làm thế giới
thay đổi nhanh chóng. Trong nước ta, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành
lập và nắm trong tay ngọn cờ giải phóng dân tộc, đến nay đã gần 100 năm. Đặc biệt,
sự nghiệp xây dựng xã hội mới từ khi Đổi mới đến nay, đã hơn 35 năm, đất nước ta
đã có nhiều đổi thay kỳ diệu. Trong suốt hành trình gần 100 năm qua, chủ nghĩa
Mác - Lênin, trong đó có học thuyết về chủ nghĩa xã hội, luôn là nền tảng tư tưởng,
là kim chỉ nam cho hành động, là thế giới quan và phương pháp luận của các hoạt
động của Đảng và dân tộc, là nhân tố đảm bảo cho mọi thắng lợi của đất nước.
Những biến động trong gần 200 năm lịch sử thế giới và gần 100 lịch sử Việt
Nam vừa qua đã khẳng định ngày càng vững chắc các giá trị khoa học, giá trị tư
tưởng, giá trị cach mạng và giá trị nhân văn sâu sắc của chủ nghĩa Mác - Lênin và
chủ nghĩa xã hội. Điểm cốt lõi, nền tảng và cơ sở đầu tiên tạo nên các giá trị đó chính
là phương pháp biện chứng duy vật. Phương pháp biện chứng duy vật là phương
pháp khoa học của triết học Mác - Lênin, tạo nên toàn bộ các hệ thống lý luận trong
chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó có lý luận về chủ nghĩa xã hội. Bằng phương pháp
đó các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã xây dựng và không ngừng hoàn thiện
lý luận về chủ nghĩa xã hội cũng như các hệ thống lý luận khác trong học thuyết
của mình. Phương pháp biện chứng duy vật này cũng tạo nên giá trị trường tồn,
sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác - Lênin, làm cho nó luôn là hệ thống mở, luôn
đòi hỏi sự hoàn thiện, phát triển chứ không phải là hệ thống đóng kín, bất biến, bảo
thủ, giáo điều1. Trên tinh thần đó cả C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lênin đều luôn bổ
sung, hoàn thiện và phát triển học thuyết của mình.

1
Về điểm này chính Ph. Ăng-ghen đã viết: “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ
không phải là giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”; (C.Mác và
Ph.Ăngghen Toàn Tập, 1999, 796).
143
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Điểm cốt lõi, nền tảng và cơ sở thứ hai tạo nên các giá trị khoa học, giá trị tư
tưởng, giá trị cách mạng và giá trị nhân văn sâu sắc của chủ nghĩa Mác - Lênin và
chủ nghĩa xã hội là lý luận duy vật biện chứng về lịch sử. Với lý luận duy vật biện
chứng về lịch sử các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã tạo nên cuộc cách
mạng không chỉ trong triết học, mà còn trong tất cả các ngành khoa học xã hội, biến
chủ nghĩa xã hội từ không tưởng thành học thuyết có căn cứ, nền tảng khoa học và
thực tiễn vững chắc, lô gic chặt chẽ. Điều mà trước đó không học thuyết, lý luận nào
có được. Lý luận duy vật biện chứng về lịch sử đã cung cấp cho nhân loại 2, không
chỉ cho các thế hệ đã và đang sống hôm nay mà cả các thế hệ tương lai, một cách
nhìn mới, lý luận mới, một phương pháp khoa học mới để nghiên cứu lịch sử đời
sống xã hội. Lý luận đó xác định các quy luật, các mối quan hệ căn bản, rường cột,
quyết định toàn bộ sự vận động, biến đổi của lịch sử loài người, của các quan hệ xã
hội. Nó là cơ sở, nền tảng lý luận, khoa học trực tiếp của chủ nghĩa xã hội, của đường
lối, chủ trương của các Đảng cộng sản và phong trào công nhân thế giới trong suốt
gần hai thế kỷ qua và của Đảng Cộng sản Việt Nam trong gần 100 năm qua. Lý luận
duy vật biện chứng về lịch sử là một phát kiến khoa học vĩ đại của C. Mác và Ph.
Ăngghen, được V.I. Lênin bổ sung, phát triển, khi tổng kết thực tiễn phong trào giải
phóng dân tộc từ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Phát kiến khoa học đó đã cung
cấp một trong những lập trường, quan điểm, cách nhìn nhận đánh giá sự phát triển
lịch sử xã hội rất khoa học, khách quan, chưa từng có trong lịch sử. Nó cũng là
phương pháp khoa học để xem xét và giải quyết khoa học các hiện tượng lịch sử xã
hội, không thể thay thế và có giá trị trường tồn cùng nhân loại.
Điểm cốt lõi, nền tảng và cơ sở thứ ba tạo nên các giá trị khoa học, giá trị tư tưởng,
giá trị cách mạng và giá trị nhân văn sâu sắc của chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa
xã hội là các tư tưởng về con người và giải phóng con người, giải phóng xã hội. Trong lịch
sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều học thuyết bàn về con người và giải phóng con
người. Nhưng, chỉ có trong lý luận duy vật về lịch sử và chủ nghĩa xã hội thì các tư
tưởng về con người và giải phóng con người, giải phóng xã hội mới có căn cứ duy
vật, khoa học và thực tiễn vững chắc. Cùng với các bộ phận cấu thành khác của chủ
nghĩa Mác - Lênin lý luận về chủ nghĩa xã hội chỉ ra cho giai cấp vô sản, nhân dân
lao động và các dân tộc bị áp bức, bóc lột con đường, phương thức giải phóng con

2 chứ không chỉ riêng cho giai cấp công nhân, như một số người vẫn hiểu không đầy đủ.
144
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

người, xã hội, dân tộc, thoát khỏi bất công, áp bức, bóc lột, đấu tramh cho tiến bộ
xã hội.
Thời kỳ C. Mác và Ph. Ăngghen sống và hoạt động là thời kỳ chủ nghĩa tư bản
tự do cạnh tranh và đang tiếp tục phát triển, nhưng những mâu thuẫn xã hội, những
đặc điểm và bản chất lỗi thời của nó đã bộc lộ tất cả và rõ nét. Tư sản ngày càng
giàu có, vô sản ngày càng bị bần cùng hóa, phân hóa giai cấp ngày càng sâu sắc,
mâu thuẫn đối kháng trong xã hội ngày càng ác liệt, đấu tranh giai cấp ngày càng
quyết liệt. Cách mạng vô sản để xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, thủ tiêu bất công,
áp bức, bóc lột, giải phóng con người, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội là tất
yếu. Đến thời kỳ V.I.Lênin sống và hoạt động, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa, những mâu thuẫn xã hội đó, đặc biệt là mâu thuẫn giữa
chủ nghĩa đế quốc và các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc, càng thêm gay gắt và có
thêm những biểu hiện mới. V.I. Lênin, trung thành, nhất quán với lý luận duy vật
về lịch sử và lý luận về chủ nghĩa xã hội, đã tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận,
vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác, lãnh đạo Cách mạng tháng Mười
Nga thành công. Người đã nhấn mạnh nhiều tư tưởng mới về các vấn đề như: dân
tộc độc lập, dân tộc bình đẳng, dân tộc tự quyết, liên hiệp giai cấp vô sản và các dân
tộc bị áp bức…
Chủ nghĩa Mác - Lênin và lý luận về chủ nghĩa xã hội của các nhà kinh điển
chỉ ra con đường, phương thức giải phóng con người triệt để nhất, đầy đủ nhất và
toàn diện nhất, trên tất cả các phương diện, từ chính trị đến tư tưởng, văn hóa, từ
kinh tế đến xã hội, từ lao động đến phân phối, từ các quan hệ sở hữu đến các lực
lượng sản xuất, từ điều kiện sống đến năng lực cá nhân, từ tồn tại xã hội đến ý thức
xã hội và cá nhân. Chủ nghĩa đó cũng chỉ ra rằng giải phóng con người về phương
diện chính trị - xã hội bằng việc thủ tiêu chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
là chưa đầy đủ, chưa triệt để. Giải phóng con người và xã hội triệt để phải bằng việc
phát triển các lực lượng sản xuất đạt tới trình độ rất cao, để thoát khỏi sự phụ thuộc
vào các điều kiện sống về tự nhiên và xã hội trái với bản chất và cản trở sự phát
triển của con người.
“Vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức” (C.Mác và
Ph.Ăngghen, 2004, 11-12). Đây là một trong những tư tưởng căn bản, cốt lõi của các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người. Đấu tranh giai cấp để thay

145
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

thế chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa, để giải phóng con người về phương diện chính trị là nội dung
quan trọng hàng đầu. Khắc phục sự tha hóa của con người và của lao động của họ,
biến lao động sáng tạo trở thành chức năng thực sự của con người là nội dung có ý
nghĩa then chốt.
“Xã hội không thể nào giải phóng cho mình được, nếu không giải phóng cho mỗi
cá nhân riêng biệt” ((C.Mác và Ph.Ăngghen, 1994, 406). Việc giải phóng những con
người cụ thể là để đi đến giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và tiến tới giải phóng
toàn thể nhân loại. Giải phóng con người được quan niệm một cách toàn diện, đầy đủ,
ở tất cả các nội dung và phương diện của con người, cộng đồng, xã hội và nhân loại
với tính cách là các chủ thể ở các cấp độ khác nhau. Mục tiêu cuối cùng trong tư tưởng
về con người của chủ nghĩa Mác - Lênin là giải phóng con người trên tất cả các nội
dung và các phương diện: con người cá nhân, con người giai cấp, con người dân tộc,
con người nhân loại, … (Lương, 2021, 462-463).
“Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất
cả mọi người” ((C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995a, 628). Con người là sự thống nhất
giữa cá nhân và xã hội, cá nhân với giai cấp, dân tộc và nhân loại, bản chất của con
người là tổng hòa các quan hệ xã hội. Do vậy, sự phát triển tự do của mỗi người tất
yếu là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người. Điều đó cũng có nghĩa là sự
phát triển tự do của mọi người, sự phát triển của xã hội là tiền đề cho sự phát triển
của mỗi cá nhân trong đó. Sự phát triển tự do của mỗi người chỉ có thể đạt được khi
con người thoát khỏi sự bất công, áp bức, bóc lột, thoát khỏi tha hóa, thoát khỏi sự nô
dịch, khi chế độ tư hữu các tư liệu sản xuất bị thủ tiêu triệt để, khi sự khác biệt giữa
thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động chân tay không còn, khi con
người không còn bị trói buộc bởi sự phân công lao động xã hội....
Những tư tưởng về con người và giải phóng con người trong chủ nghĩa Mác,
trong lý luận về chủ nghĩa xã hội, được nói trên đây, là những tư tưởng cơ bản,
đóng vai trò là “kim chỉ nam”, là cơ sở lý luận khoa học, định hướng cho các hoạt
động chính trị, xã hội văn hóa và tư tưởng trong gần hai thế kỷ qua. Những tư tưởng
đó, còn là tiền đề lý luận và phương pháp luận đúng đắn cho sự phát triển của các
khoa học xã hội. Ngày nay, chúng vẫn tiếp tục là cơ sở, tiền đề cho các quan điểm,
lý luận về con người và về xã hội, cho các khoa học hiện đại về con người nói chung.

146
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Lý luận về con người, giải phóng con người của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
- Lênin là lý luận duy vật biện chứng triệt để, mang tính khoa học và cách mạng triệt
để. Nó tạo nên một trong những nội dung cơ bản của lý luận về chủ nghĩa xã hội, góp
phần tạo nên cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Lý luận đó ngày càng
được khẳng định tính đúng đắn, khoa học trong bối cảnh hiện nay và nó vẫn tiếp tục
là “kim chỉ nam” cho hành động, là nền tảng lý luận cho việc nghiên cứu, giải phóng
và phát triển con người, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hiện thực và tương lai
(Lương, 2021, 464-465).
So với các học thuyết khác trong lịch sử tư tưởng nhân loại về con người, giải
phóng con người đây là học thuyết cách mạng nhất, triệt để nhất, khoa học nhất và
nhân văn nhất cho đến nay. Bởi vậy nó có giá trị và ý nghĩa trường tồn cùng nhân
loại tiến bộ. Mô hình chủ nghĩa xã hội Xô-viết là một mô hình hiện thực cụ thể. Hệ
thống xã hội chủ nghĩa hiện thực sụp đổ không có nghĩa là lý luận về chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa Mác - Lênin sụp đổ. Hệ thống đó sụp đổ do nhiều nguyên nhân
khác nhau. Nếu quy việc sụp đổ của hệ thống ấy chỉ cho lý luận về chủ nghĩa xã hội
của chủ nghĩa Mác - Lênin là phi lý, thiếu căn cứ khoa học và thực tiễn. Lý luận về
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn luôn là kim chỉ nam, là ngọn cờ soi
đường cho các giai cấp, dân tộc bị áp bức, bóc lột trên toàn thế giới đấu tranh tự giải
phóng mình, giải phóng con người và xã hội.
Điểm cốt lõi, nền tảng thứ tư trong lý luận về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa
Mác - Lênin tạo nên các giá trị khoa học, giá trị tư tưởng, giá trị cách mạng và giá trị nhân
văn sâu sắc, làm cho nó có giá trị trường tồn là các tư tưởng về xã hội xã hội chủ nghĩa, xã
hội cộng sản chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Sự thay thế của các hình
thái kinh tế - xã hội tất yếu đi đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đó là xã
hội ngày càng tốt đẹp hơn, tự do hơn, con người và xã hội ngày càng được giải
phóng, không có áp bức, bóc lột, là xã hội công bằng, dân chủ, tự do, con người phát
triển toàn diện, sức sản xuất phát triển không ngừng và đạt tới trình độ cao trong
chủ nghĩa cộng sản. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa mọi người làm theo năng lực,
hưởng theo lao động; còn trong xã hội cộng sản chủ nghĩa làm theo năng lực, hưởng
theo nhu cầu. Nhiệm vụ của giai cấp vô sản sau khi giành được chính quyền là
nhanh chóng tăng nhanh các lực lượng sản xuất, biến nền sản xuất thành sự liên
hợp tự nguyện của các cá nhân được giải phóng, các cá nhân là những chủ thể thực

147
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

sự của xã hội. Hàng loạt các biện pháp xây dựng xã hội mới có giá trị lâu dài đã
được các nhà kinh điển phân tích sâu sắc, có căn cứ khoa học và thực tiễn từ các xã
hội trong lịch sử. V.I. Lênin, qua thực tiễn lãnh đạo trực tiếp cách mạng tháng Mười
Nga, đã bổ sung và phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội bằng nhiều luận điểm tư
tưởng rất căn bản và quan trọng. Khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản, công
nghiệp hóa trong chủ nghĩa xã hội, phát triển nông nghiệp và các hợp tác xã, quyền
dân tộc tự quyết,… là những tư tưởng như vậy. Lý luận về chủ nghĩa xã hội của chủ
nghĩa Mác - Lênin không phải là một lý luận giáo điều, khô cứng, bất biến, tuyệt
đối, đóng kín. Trái lại, cũng như lý luận duy vật về lịch sử, nó luôn là hệ thống mở,
luôn tiếp thu, phát triển, hoàn thiện, đổi mới, để phù hợp với thực tế và xu thế biến
đổi của đời sống xã hội. Chính điều đó đã góp phần tạo nên sức sống và giá trị
trường tồn của lý luận về chủ nghĩa xã hội.
Không chỉ lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và lý luận về chủ nghĩa xã hội làm kim
chỉ nam cho hành động, làm nền tảng tư tưởng của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, chủ nghĩa xã
hội nói riêng, trong bối cảnh đặc thù Việt Nam. Nhờ đó cách mạng Việt Nam đã đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cách mạng Việt Nam càng trong khó khăn,
thách thức, càng cho thấy vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã
hội được Đảng giương cao, trung thành và sử dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển.
“Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới,
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được
hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”. Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên
tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên
tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. “Đây là vấn đề mang tính
nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng
ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động” (Ban Thời sự, 2022).

148
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Từ khi Lênin mất, đã một thế kỷ trôi qua, thế giới có rất nhiều đổi thay lớn lao
và đang biến đổi với tốc độ ngày càng nhanh chóng. Thứ nhất, sau khi hệ thống xã
hội xã hội chủ nghĩa sụp đổ, sự đối lập hai hệ thống kinh tế - xã hội trên thế giới đã
không còn. Nền kinh tế thế giới đã bước sang giai đoạn phát triển mới với những
đặc điểm và tính chất mới. Chẳng hạn: đó là nền kinh tế thị trường toàn cầu phát
triển cao, ngày càng gắn kết và phụ thuộc chặt chẽ vào nhau. Mô hình kinh tế kim
tự tháp đang chuyển sang mô hình kết nối mạng lưới toàn cầu. Vòng đời các sản
phẩm hàng hóa ngày càng bị rút ngắn tương ứng với vòng đời các công nghệ sản
xuất và dịch vụ ngày càng ngắn. Đó là tính quy luật của sự phát triển sản xuất trong
nền kinh tế thị trường hiện đại. Hao mòn vô hình nhanh hơn hao mòn hữu hình.
Giá trị hàng hóa hao mòn nhanh hơn giá trị sử dụng. Vòng đời công nghệ trở một
trong những thước đo đặc thù, quan trọng trong sự phát triển các lực lượng sản
xuất; nền kinh tế thị trường toàn cầu có vai trò định hướng nhu cầu tiêu dùng ngày
càng lớn. Các công ty đa quốc gia, siêu quốc gia, toàn cầu, xuất hiện ngày càng nhiều
và vị thế, quyền lực kinh tế lẫn chính trị, xã hội ngày càng lớn;…
Thứ hai, hai cuộc cách mạng rất lớn trên phạm vi toàn cầu là cách mạng khoa học
- kỹ thuật trước đây và cách mạng khoa học - công nghệ hiện nay đang diễn ra ngày
càng mạnh mẽ kéo theo cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba và hiện đang bắt đầu
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, làm cho các lực lượng sản xuất toàn cầu phát
triển nhanh chóng, đạt tới trình độ cao hơn rất nhiều thời kỳ các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin sống và hoạt động. Quá trình điện tử hóa nền sản xuất bắt đầu trong
cách mạng khoa học kỹ thuật và khoa học công nghệ 3.0 vẫn đang tiếp tục hiện nay
cùng với quá trình trí tuệ nhân tạo hóa đang bắt đầu trong một số nền kinh tế và xã hội
hiện nay, đã và đang tạo ra rất nhiều thay đổi nhanh chóng và khó đoán định sự biến
đổi xã hội trong tương lai để chuẩn bị các điều kiện và tiền đề phát triển cho các xã hội
và các nền kinh tế quốc gia dân tộc. Không chỉ khoa học biến thành lực lượng sản xuất
trực tiếp, mà các cuộc cách mạng trong khoa học đã trở thành nguyên nhân và động
lực thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của các lực lượng sản xuất và đời sống xã hội.
Ngày càng nhiều sản phẩm tiêu dùng và sản xuất, các loại công nghệ hiện đại trực tiếp
đi thẳng từ các phòng thí nghiệm vào đời sống xã hội,…
Thứ ba, quá trình toàn cầu hóa, khác biệt với quá trình quốc tế hóa thế kỷ XIX
và đầu thế kỷ XX, ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Một mặt nó thúc đẩy quá trình phát

149
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

triển nền kinh tế toàn cầu bước sang giai đoạn phát triển mới nói trên, thúc đẩy cuộc
cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng khoa học công nghệ và các cuộc cách mạng
công nghiệp khác nhau đang diễn ra trong các quốc gia. Mặt khác, nó đưa đến
những thay đổi mới cho đời sống kinh tế - xã hội toàn cầu và trong từng quốc gia.
Hai thập kỷ vừa qua chủ nghĩa dân tộc đang trỗi dậy mạnh mẽ và có nhiều biểu
hiện phức tạp. Nhưng toàn cầu hóa là xu thế không thể đảo ngược và cũng không
hề giảm nhẹ, khiến cho hội nhập quốc tế trở thành phương thức phát triển của các
quốc gia trong thế giới đương đại. Chưa bao giờ cấm vận lại trở thành công cụ trừng
phạt kinh tế có tác động mạnh mẽ đến các quốc gia như trong thời đại hiện nay.
Toàn cầu hóa làm cho nền kinh tế và cả đời sống xã hội toàn cầu càng nhanh chóng
chuyển qua mô hình kết nối mạng phụ thuộc lẫn nhau chặt chẽ hơn. Quan hệ quốc
gia từ kinh tế, chính trị, đến văn hóa, quốc phòng, an ninh,… trong bối cảnh toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế mang những đặc điểm khác biệt so với thời kỳ quốc tế
hóa trước đây. Thế giới vẫn tiếp tục “lồi lõm” thêm sâu sắc, nhưng thế giới cũng
đang “phẳng hóa” mạnh mẽ theo sự phát triển của kinh tế, của công nghiệp và công
nghệ mới do các cuộc cách mạng trong khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại
mang lại. Môi trường thông tin thông minh, mạng xã hội xuất hiện đóng vai trò đặc
biệt, chưa từng có. Các quan hệ xã hội, quan hệ quốc tế, trong đó có các quan hệ sản
xuất, đang thay đổi nhanh chóng với những khác biệt lớn so với thời kỳ C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I. Lênin sống, hoạt động.
Thứ tư, cùng với toàn cầu hóa, thế giới đang phải đối mặt với những vấn đề
toàn cầu chưa từng có cả về quy mô, mức độ và tốc độ thay đổi. Đại dịch, dịch bệnh
toàn cầu SARS 2003, Ebola 2014, Covid-19 hiện nay là những thí dụ. Rác thải, ô
nhiễm môi trường, cả đất, nước, không khí, vũ trụ, đang ngày càng nghiêm trọng.
Không gian sống của con người đang bị thu hẹp do quy mô dân số ngày càng lớn.
Tình trạng cạn kiệt tài nguyên ngày càng nghiêm trọng. Cùng với ô nhiễm môi
trường, dịch bệnh, nó đang đe dọa sự sống còn của loài người. Vũ khí hạt nhân,
xung đột vũ trang, khủng bố, phân hóa giàu nghèo gay gắt,… đang là những vấn
đề toàn cầu nan giải. Dù có sự cố gắng và nỗ lực cao độ của cộng đồng quốc tế nhiều
thập kỷ qua, nhưng, chúng chưa hề thuyên giảm, đang đe dọa nhiều quốc gia, các
khu vực và nhân loại nói chung.

150
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Thứ năm, hàng loạt những thay đổi, những đặc điểm mới của thế giới đương
đại về phương diện chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh xuất hiện trong khoảng 100
năm gần đây, đặc biệt là 50 năm vừa qua, cũng góp phần tạo nên diện mạo khác
biệt của đời sống nhân loại trên quy mô toàn cầu. Phong trào công nhân đang lắng
dịu, dù mâu thuẫn xã hội, mâu thuẫn giai cấp không hề giảm bớt. Thế giới từ hai
cực đối lập chuyển thành đơn cực ngay sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa sụp đổ
và hiện đang chuyển dần thành đa cực. Diện mạo an ninh thế giới thay đổi, các hình
thái phi truyền thống mới xuất hiện, chưa từng có trong lịch sử. Văn hóa trở thành
sức mạnh mềm ngày càng có vai trò to lớn. Công nghiệp văn hóa, sản xuất của cải
tinh thần trở thành lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận cao hơn sản xuất vật chất. Mâu
thuẫn giữa xu thế dân tộc chủ nghĩa đang trỗi dậy và toàn cầu hóa đang ngày càng
gay gắt. Các xu thế dân chủ hóa, tự do hóa, tự quyết dân tộc, chính trị đa nguyên
đang có những điều kiện và tiền đề kinh tế, kỹ thuật, công nghệ, văn hóa, xã hội,…
để biểu hiện và phát triển chưa từng có. Khủng hoảng không chỉ kinh tế mà cả chính
trị, văn hóa, tư tưởng trên phạm vi thế giới vẫn xuất hiện nhiều hơn, gay go hơn,
khó giải quyết hơn. Thời cơ cho các quốc gia phát triển nhanh, mạnh là rất lớn,
nhưng thách thức, khó khăn với các nước đi sau, đi chậm cũng cực kỳ khó vượt qua.
Thế giới hiện nay, ở thập niên thứ ba của thế kỷ XXI, trên nhiều phương diện,
đang đi vào tương lai với tốc độ một thập niên bằng một thế kỷ ở đầu thế kỷ XVIII
- XIX trước đây. Sự phát triển nhanh với những thay đổi lớn lao trong 100 năm qua
đang đòi hỏi phải được tổng kết toàn diện và đầy đủ, khái quát lý luận khoa học
khách quan. Với tính cách là một học thuyết khoa học, cách mạng, nhân văn, luôn
luôn mở, chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải được bổ sung,
phát triển bằng những khái quát lý luận, tổng kết thực tiễn lịch sử 100 năm qua để
luôn là ngọn cờ tiên phong, là nền tảng lý luận khoa học và cách mạng của các đảng
mác xít chân chính, của các tầng lớp xã hội tiến bộ.
Ở nước ta, như đã nói ở trên, qua gần 4 thập niên đổi mới nhiều mô hình, cách
làm hay, hiệu quả, nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra, chưa được đồng thuận, nhiều vấn
đề chưa được kết luận, tổng kết, khái quát lý luận. Bối cảnh quốc tế lẫn trong nước
đang có những thay đổi nhanh và mạnh mẽ. Nền kinh tế thị trường gần 4 thập niên
qua đã hình thành và có những bước phát triển ngoạn mục, đặt ra nhiều vấn đề về
mô hình phát triển, về quan hệ thị trường với nhà nước, với xã hội dân sự. Công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa có nhiều thành tựu to lớn làm thay đổi nền sản
151
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

xuất và đời sống kinh tế quốc gia. Đời sống nhân dân được cải thiện căn bản, các
mặt khác nhau của đời sống xã hội đều có những bước phát triển vượt bậc được
cộng đồng thế giới thừa nhận và đánh giá cao. Bối cảnh mới trong nước cũng đòi
hỏi sự tổng kết, khái quát lý luận thực tiễn của thành tựu và những vấn đề đang đặt
ra trong quá trình xây dựng đất nước theo lý luận chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa
Mác - Lênin.
Trước hết, phải khẳng định rằng những tư tưởng, nguyên lý, luận điểm cụ thể
của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội vẫn đúng đắn, vẫn nguyên giá trị,
phản ánh đúng thực tiễn lịch sử thời đại. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
Mác - Lênin vẫn luôn mang giá trị khoa học, giá trị tư tưởng, giá trị cách mạng và giá trị
nhân văn sâu sắc, và do vậy, vẫn có giá trị trường tồn. Trên một số diễn đàn lý luận,
đang có thực tế là một số luận điểm, nguyên lý, tư tưởng đã bị cho là lạc hậu, lỗi
thời, hoặc sai. Nhưng thực chất là do nhận thức không chính xác, không đầy đủ, cố
ý hoặc vô tình thêm, bớt chủ quan, luận giải sai lầm. Nhiều luận điểm, tư tưởng lại
bị vận dụng một cách giáo điều, máy móc, phi thực tế, đưa đến những hậu quả
không mong muốn. Điều đó đòi hỏi phải nhận thức lại, hiểu đúng hơn tinh thần và
thực chất lý luận và chủ nghĩa xã hội, vận dụng phù hợp và sáng tạo các tư tưởng,
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội vào điều kiện lịch sử cụ
thể, “phân tích cụ thể trong tình hình cụ thể” một cách sát hợp, khoa học.
Chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội được các nhà kinh điển thường
xuyên bổ sung, chỉnh lý, hoàn thiện, làm vũ khí lý luận, là nền tảng tư tưởng, là
công cụ đấu tranh của tầng lớp elite trong giai cấp vô sản và nhân dân lao động, là
thế giới quan và phương pháp luận cho việc giải quyết các vấn đề cụ thể trong thời
đại các ông. Vì thế các tư tưởng, luận điểm, nguyên lý luôn có mục tiêu, sứ mệnh
cụ thể, gắn với những điều kiện lịch sử xác định. Như đã nói trên đây, bối cảnh
ngày nay đã thay đổi đòi hỏi chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội cũng phải
được bổ sung, phát triển. Thực tế là có những vấn đề đương đại thời đại các nhà
kinh điển chưa có, chưa được đặt ra, chưa được các ông giải quyết. Có những vấn
đề đã được các ông đề cập. Nhưng ngày nay có những biểu hiện khác, do đó các
luận điểm, tư tưởng về nó, dù còn giá trị, nhưng cũng cần được tiếp cận, vận dụng
dưới góc nhìn mới, với những nội dung mới phù hợp hơn, sát, đúng, trúng với
những biểu hiện mới đó.

152
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Thực tiễn Việt Nam hơn 100 năm qua đang đòi hỏi việc vận dụng, bổ sung,
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học, tổng kết
thực tiễn, khái quát lý luận để xác định mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội của Việt Nam, các phương thức, phương pháp, các nguồn lực và nguyên tắc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh ngày nay. Rất nhiều vấn đề, nội
dung mà thực tiễn đặt ra đang cần được giải đáp trước hết về phương diện lý luận
của chủ nghĩa xã hội.
Ở một phương diện khác, sự vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam trong gần 100
năm qua trên phương diện đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ đất nước không
chỉ là một đóng góp vĩ đại về mặt thực tiễn mà còn đặt ra yêu cầu phải khái quát,
bổ sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội. Công cuộc đổi mới hơn 35 năm qua
với những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử là tất yếu và phù hợp với quy luật phát triển
xã hội và xu thế phát triển chung của nhân loại. Những thành tựu có ý nghĩa lịch
sử đó là thể hiện nổi bật, sáng chói việc vận dụng sáng tạo thành công chủ nghĩa
Mác - Lênin nói chung, chủ nghĩa xã hội nói riêng. Nhưng việc giải đáp, khái quát
lý luận, bổ sung, phát triển lý luận con người xã hội cho hàng loạt vấn đề vẫn chưa
đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Cả hai sự nghiệp thực tiễn vĩ đại đó của Đảng và
dân tộc ta cũng là minh chứng sáng chói sức mạnh tinh thần và sức sống mãnh liệt,
giá trị trường tồn của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay. Nhưng cũng
là minh chứng và yêu cầu việc hoàn thiện, bổ sung, phát triển lý luận chủ nghĩa xã
hội nói riêng và chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung đang rất cấp thiết, rất có ý nghĩa
và giá trị trên nhiều phương diện. Ở phương diện này, bối cảnh và yêu cầu hoàn
thiện, bổ sung phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội nói riêng, chủ nghĩa Mác - Lênin
đang đặt lên vai của Đảng Cộng sản, của các nhà lý luận Mác-xít sứ mệnh cao cả,
mà rất khó khăn. Đảng ta đã và vẫn đang tiếp tục không chỉ vận dụng mà còn sáng
tạo, bổ sung, hoàn thiện lý luận mác xít về chủ nghĩa xã hội. Công việc đó hiện đang
trở thành nhiệm vụ lý luận trọng tâm cực kỳ quan trọng có ý nghĩa nâng tầm vóc,
nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng. Thành công trong lĩnh vực này
sẽ là đóng góp lớn cho dòng chảy của trào lưu tư tưởng về chủ nghĩa xã hội chưa
bao giờ dừng trong lịch sử nhân loại.

153
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Ban Thời sự. (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Emagazine. https://vietnamnet.vn/mot-
so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-
chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-818098.html
[2]. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập (Vol. 4). (1995a). Chính trị quốc gia.
[3]. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập (Vol. 20). (1994). Chính trị quốc gia.
[4]. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập (Vol. 21). (2004b). Chính trị quốc gia.
[5]. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập (Vol. 36). (1999). Chính trị quốc gia.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam,. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
Chính trị Quốc gia.
[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
(Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[8]. Lương, Đ. H. (2011a). Góp thêm ý kiến về đổi mới mô hình và lý luận chủ
nghĩa xã hội. Tạp chí Triết học, 9–2011.
[9]. Lương, Đ. H. (2011b). Mô hình chủ nghĩa xã hội một số vấn đề lý luận và thực
tiễn. Tạp chí triết học, 4–2011.
[10]. Lương, Đ. H. (2012). Khủng hoảng kinh tế và lý luận trong khủng hoảng toàn
cầu hiện nay. Tạp chí khoa học xã hội Việt Nam, 5(54).
[11]. Lương, Đ. H. (2017). Cách mạng KHCN và tác động của nó đến con người và
xã hội Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu con người, 5(92), 3–14.
[12]. Lương, Đ. H. (2021). Triết học về con người. In Giáo trình triết học Mác-Lênin.
Chính trị quốc gia sự thật.

154
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

SỰ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI


VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Nguyễn Thị Minh Hải


Trường Đại học An Giang, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Minh Hải, email: ntminhhai@agu.edu.vn

Tóm tắt: Sau hơn 35 năm đổi mới, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam phát triển lên tầm cao mới. Trên cơ sở
kiên định và vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh vào điều kiện thực tiễn Việt Nam; cùng với nghiên cứu, tổng kết thực
tiễn đổi mới, học hỏi kinh nghiệm quốc tế, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước
phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội, đồng thời khẳng định đi lên chủ nghĩa xã hội
là sự lựa chọn đúng đắn của lịch sử Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Từ khóa: Phát triển lý luận của Đảng; con đường; chủ nghĩa xã hội; thời kỳ đổi mới;
nghị quyết.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong bài viết Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam viết ngày 15/5/2021, Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng đã tái khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân
ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử” (Ban Tuyên Giáo Trung ương Đảng, 2021,
16). Cũng trong bài phát biểu này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: “Chủ
nghĩa xã hội thường được hiểu dưới ba tư cách: chủ nghĩa xã hội là một học thuyết;
chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ. Mỗi tư cách ấy
lại có nhiều biểu hiện khác nhau, tùy theo thế giới quan và trình độ phát triển ở mỗi
giai đoạn lịch sử cụ thể. Chủ nghĩa xã hội đề cập ở đây là chủ nghĩa xã hội khoa học
dựa trên học thuyết Mác - Lênin trong thời đại ngày nay” (Ban Tuyên Giáo Trung
ương Đảng, 2021, 11).
Sau khi đất nước thống nhất, nền kinh tế Việt Nam đã đi một đoạn đường dài
với những phát triển vượt bậc về tăng trưởng kinh tế, cải thiện an sinh xã hội và hội
nhập toàn cầu. Hiện nay Việt Nam vẫn còn đang trong giai đoạn quá độ tiến lên mô
155
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

hình phát triển chủ nghĩa xã hội toàn diện. Nhưng thế giới và nền kinh tế Việt Nam
vừa đi vào một khúc quanh mới khi đại dịch Covid-19 ập đến vào đầu năm 2020 và
đang tác động như chưa từng có đến sự thịnh vượng của toàn thế giới và những
thành quả kinh tế của Việt Nam trong 46 năm qua. Trong bối cảnh này, con đường
tiến lên chủ nghĩa xã hội cần được nhận định như thế nào cho phù hợp với hoàn
cảnh mới? Đây là điều mà không những các nhà lý luận, các nhà làm chính sách và
tất cả các thành phần kinh tế đều đang quan tâm.
2. SỰ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ
CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
2.1. Sự phát triển lý luận của Đảng về Chủ nghĩa xã hội
Trong bài viết Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có
nêu: “Trước đây, khi còn Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới thì
vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dường như không có gì phải bàn, nó mặc
nhiên coi như đã được khẳng định. Nhưng từ sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì
vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự
bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt” (Ban Tuyên Giáo Trung ương Đảng, 2021,
12). Đứng trước tình hình cải tổ của Liên Xô có những biểu hiện chệch hướng xã hội
chủ nghĩa, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6/1991) đã thông
qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Điều
này cho thấy, Đảng ta sớm nhận ra rằng phải xây dựng một mô hình chủ nghĩa xã
hội Việt Nam để tránh giáo điều như mô hình Xô viết lúc bấy giờ.
Tổng kết hơn 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011) đã có những bổ sung, phát triển về đặc trưng chủ nghĩa xã hội Việt
Nam: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng

156
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng
Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 70). Với những đặc trưng này, chứng tỏ chủ nghĩa
xã hội mà nhân dân Việt Nam xây dựng sẽ đáp ứng mục tiêu “một xã hội mà trong
đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và
chà đạp lên phẩm giá con người, sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công
bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã
hội (...), một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến
bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị
kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm, sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên
nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai,
chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ
và hủy hoại môi trường, một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân
dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một
thiểu số giàu có” (Ban Tuyên Giáo Trung ương Đảng, 2021, 14-15). Đồng thời, mô
hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam cũng chính là: “Xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ,
nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính
đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi
ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự
đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội” (Ban Tuyên Giáo Trung ương
Đảng, 2021, 20).
Từ Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam qua hơn 35 năm đổi mới cho thấy, mô hình chủ nghĩa xã hội Việt
Nam có những trụ cột rất quan trọng:
Một là, trụ cột kinh tế. Đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với tư cách là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ sở để
xây dựng nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan
hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
luôn gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

157
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Hai là, trụ cột chính trị. Với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là
nhân tố quyết định mọi thắng lợi của công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc; Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là hình thức tối ưu để thực hiện quyền lực của
nhân dân; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ba là, trụ cột tinh thần. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội với chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đóng vai trò chủ đạo; xây dựng nền văn hóa
hiện đại, dân chủ, phục vụ nhân dân.
Hạt nhân các trụ cột của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự lãnh đạo của Đảng
và vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân. Nhân dân là chủ thể, là động lực,
cùng với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
2.2. Sự phát triển lý luận của Đảng về con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Về phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Để đi lên chủ nghĩa xã hội thành công, Cương lĩnh năm 1991 đề ra bảy phương
hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tổng kết 25 năm đổi mới, 20
năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đã
đưa ra tám phương hướng cơ bản trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: “(1)
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; (2) Phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; (3) Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội; (4) Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội; (5) Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp
tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; (6) Xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng Mặt
trận thống nhất; (7) Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân; (8) Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 2011, 72). Thực hiện được tám phương hướng này, chúng ta sẽ
thực hiện thành công tám đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội Việt Nam.

158
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Về quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Xuất phát từ thực tiễn đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên định và vận
dụng sáng tạo tư tưởng của V.I. Lênin về quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội theo hình
thức gián tiếp. Nghĩa là, chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa. Trong công cuộc đổi mới, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đã sử dụng cụm từ “bỏ qua chế độ tư bản”
và xác định: “Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã
hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp” (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 2010, 133). Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (năm 2001), Đảng
ta đã bổ sung, hoàn thiện một cách cụ thể hơn: “Con đường đi lên của nước ta là sự
phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua
việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản
chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới
chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực
lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2010a,
130-131). Đây là bước phát triển quan trọng về lý luận của Đảng ta về con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Tất nhiên, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa phải được nhận thức như đồng chí Tổng Bí thư đã nhấn mạnh: “Nói
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản
chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không
phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu,
giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản.
Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm
khoa học, phát triển” (Ban Tuyên Giáo Trung ương Đảng, 2021, 17-18).
Từ tổng kết thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam, sau hơn 35 năm đổi mới
mà Đảng ta đã nhận thức sâu sắc rằng “Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một
nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất
thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù
địch thường xuyên tìm cách phá hoại, cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất
thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ
chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới” (Ban
Tuyên Giáo Trung ương Đảng, 2021, 17). Vì vậy “quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một

159
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc
về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội” (Ban Tuyên Giáo Trung ương
Đảng, 2021, 18). Do đó, không thể chủ quan, nóng vội được.
Về các mối quan hệ lớn cần giải quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (năm 2011) nhấn mạnh, khi
thực hiện tám phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phải đặc biệt
chú trọng nắm vững và giải quyết tốt tám mối quan hệ lớn là những mâu thuẫn nảy
sinh trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội từ thực tiễn của Việt Nam. Đó là: “quan
hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị;
giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng
sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa
tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập,
tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ...” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 72-73). Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII (năm 2016), Đảng ta điều chỉnh mối quan hệ “giữa kinh tế thị trường và
định hướng xã hội chủ nghĩa” thành quan hệ “giữa tuân theo các quy luật thị trường
và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa” và bổ sung mối quan hệ “giữa Nhà nước
và thị trường” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 80). Nghị quyết Trung ương 5 khóa
XII đã bổ sung mối quan hệ “giữa Nhà nước và thị trường” thành mối quan hệ “Nhà
nước, thị trường và xã hội”. Tổng kết 10 năm nhận thức và giải quyết các mối quan
hệ lớn, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã điều chỉnh “quan hệ
giữa đổi mới, ổn định và phát triển” thành “quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát
triển”, đồng thời bổ sung thêm mối quan hệ “giữa thực hành dân chủ và tăng cường
pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội” (Ban Tuyên Giáo Trung ương Đảng, 2021, 119).
Đây là những mối quan hệ phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn
đề lý luận và thực tiễn cốt lõi trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xem như công cụ, phương
tiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đúng như đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng đã khẳng định: “Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành
quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực

160
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới” (Ban Tuyên Giáo
Trung ương Đảng, 2021, 18). Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân. Kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách,…, do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân
phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức
độ đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh, thông qua an sinh
xã hội và phúc lợi xã hội. Đây chính là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Mô hình kinh tế này “gắn kinh tế với xã hội,
thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong
suốt quá trình phát triển” (Ban Tuyên Giáo Trung ương Đảng, 2021, 19).
Về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa - hình thức tối ưu để thực hiện quyền
lực của nhân dân. Tổng kết việc xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa và quá trình
đổi mới, Đảng ta nhận thấy sự cần thiết phải khai thác những giá trị của lý luận Nhà
nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc
giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994), lần đầu tiên Đảng ta sử dụng thuật
ngữ Nhà nước pháp quyền khi khẳng định: “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật” (Đảng Cộng sản Việt
Nam, 2010b, 224). Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đánh dấu bước phát triển
rõ rệt trong quan điểm của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam: Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân,
quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công rành mạch và phối hợp
chặt chẽ giữa các cơ quan quyền lực nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp. Quan điểm này đã được thể hiện trong khi sửa đổi một
số điều của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và tiếp tục được khẳng
định ở Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng với chủ trương: “Xây dựng
cơ chế vận hành của Nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều

161
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp
giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 2010c, 59). Với tinh thần này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI đã có bước phát triển thêm khi khẳng định phải nâng cao nhận thức về xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Kế thừa tinh thần của các kỳ Đại hội
trước đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, XIII đề ra nhiệm vụ xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển đất nước.
Đồng chí Nguyễn Phú Trọng cũng chỉ rõ: “Chúng ta nhận thức rằng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ:
pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục
vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là
công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi
ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các
điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính
với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân” (Ban Tuyên Giáo
Trung ương Đảng, 2021, 20-21).
Về phát triển văn hóa với tư cách nền tảng tinh thần của xã hội. Quan điểm “Văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội” được nêu ra lần đầu tiên trong Nghị quyết Hội
nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (tháng 01/1993). Sau đó
luận điểm này tiếp tục được khẳng định trong các văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII, IX, X, XI, XII, XIII của Đảng và Nghị quyết Hội nghị Trung ương
5 khóa VIII, Hội nghị Trung ương 10 khóa IX. Đây là thành tựu lớn về lý luận của
Đảng, là kết quả của sự tổng kết thực tiễn và tiếp thu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như những thành tựu của tư duy nhân
loại về văn hóa. Với tính chất là nền tảng tinh thần của xã hội, văn hóa vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của
xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2010d, 513). Theo quan niệm
của Đảng ta, phát triển văn hóa với tư cách nền tảng tinh thần của xã hội, là “sức
mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển
văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là

162
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền
văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn;
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống
tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả
các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn
đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá
con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng
cao” (Ban Tuyên Giáo Trung ương Đảng, 2021, 19).
3. KẾT LUẬN
Qua những đánh giá trên chúng ta thấy tổng kết thực tiễn có vai trò to lớn
trong bổ sung, phát triển lý luận về CNXH. Tuy nhiên, đúng như Tổng Bí thư cũng
khẳng định: “Đất nước ta đã qua 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta đã
qua 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, song hiện vẫn còn không ít vấn đề lý
luận, thực tiễn chưa được luận giải thấu đáo và làm sáng tỏ; vẫn còn những vấn đề
mới mà thực tiễn phát triển của thế giới, nhất là của Việt Nam đặt ra cần được
nghiên cứu, tổng kết để góp phần phát triển, hoàn thiện đường lối, quan điểm, chủ
trương của Đảng, làm cơ sở tăng cường sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận
trong xã hội, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm
sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động” (Nguyễn, 2022, 276-277). Do
vậy chúng ta phải không ngừng đẩy mạnh tổng kết thực tiễn nâng tầm lý luận của
Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội định hướng đúng
đắn cho Việt Nam trước bối cảnh hội nhập hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Ban Tuyên Giáo Trung ương Đảng. (2021). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính trị quốc
gia - Sự thật.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2010). Văn kiện Đảng toàn tập (Vol. 51). Chính trị
quốc gia.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2010a). Văn kiện Đảng toàn tập (Vol. 60). Chính trị
quốc gia.

163
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2010b). Văn kiện Đảng toàn tập (Vol. 53). Chính trị
quốc gia.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2010c). Văn kiện Đảng toàn tập (Vol. 65). Chính trị
quốc gia.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2010d). Văn kiện Đảng toàn tập (Vol. 52). Chính trị
quốc gia.
[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Chính trị quốc gia.
[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam,. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
Chính trị Quốc gia.
[9]. Nguyễn, P. T. (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính trị quốc gia - Sự thật.

164
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA


XÃ HỘI TRONG TÁC PHẨM “THƯỜNG THỨC CHÍNH TRỊ” -
GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Trương Thị Thu Hạnh
Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Tác giả liên hệ: Trương Thị Thu Hạnh, email: ttthanh@vnua.edu.vn

Tóm tắt: Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Đảng ta luôn khẳng định chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi
hành động của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam, với “ham muốn tột bậc” làm
cho nước nhà độc lập, nhân dân tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc. Người đặc biệt
quan tâm đến công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Theo Người, con
đường để xây dựng xã hội mới là Đảng lãnh đạo nhân dân: “Kháng chiến thắng lợi,
kiến quốc thành công, thực hiện dân chủ mới, tiến đến chủ nghĩa xã hội, rồi đến chủ
nghĩa cộng sản.” Dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của Hồ Chí
Minh, bài viết tập trung khái quát quan điểm của Người về xây dựng chủ nghĩa xã
hội trong tác phẩm “Thường thức chính trị” từ đó chỉ ra giá trị lý luận và thực tiễn
đối với Đảng ta trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
hiện nay.
Từ khóa: Hồ Chí Minh; cộng sản chủ nghĩa; chủ nghĩa xã hội; nền dân chủ mới; nhân dân.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngay từ buổi bình minh của lịch sử nhân loại, con người đã luôn thể hiện ước
mơ về một xã hội phồn vinh, hạnh phúc, bình đẳng. Từ khi xã hội có đối kháng giai
cấp ra đời, nhân loại lại có thêm khát vọng độc lập, tự do, xã hội không có áp bức,
bóc lột, bất công. Đặc biệt, trong thời đại chủ nghĩa tư bản phát triển, giai cấp tư sản
chiếm đoạt các tư liệu sản xuất và “thuê công nhân sản xuất” (Hồ, 2011c, 248) để
bóc lột nên càng làm gia tăng khát vọng về một xã hội hạnh phúc, bình đẳng và no
ấm. Những học thuyết về chủ nghĩa xã hội đã được hình thành theo nhiều trào lưu
khác nhau dựa trên những ý tưởng tốt đẹp, những mong muốn về một xã hội tương
lai không còn tình trạng người bóc lột người. Kế thừa và phát triển tinh hoa tư tưởng

165
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

nhân loại vào bối cảnh của xã hội tư bản ở thế kỷ XIX, C. Mác - Ph. Ăngghen đã
phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên cơ sở thực tiễn để chỉ ra con
đường, lực lượng, phương pháp, chiến lược của cách mạng vô sản nhằm xây dựng
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Với tư duy chính trị nhạy bén, sự tìm tòi và nghiên cứu lý luận cách mạng
nghiêm túc nhằm tìm ra con đường thực hiện khát vọng độc lập cho tổ quốc, tự do
cho nhân dân, Nguyễn Ái Quốc đã từng bước giác ngộ được chủ nghĩa Mác - Lênin,
coi đó là “cẩm nang thần kỳ” để giải phóng đất nước, giành độc lập dân tộc. Đồng
thời Người xác định con đường cách mạng tất yếu của Việt Nam: làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản (Hồ, 2011a, 1). Đây
cũng chính là sự lựa chọn đúng đắn nhất phù hợp với xu thế khách quan của thời
đại và khát vọng của toàn dân tộc.
Sau cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Đảng
cộng sản Đông dương tiếp tục lãnh đạo công cuộc vừa kháng chiến chống Pháp
xâm lược, vừa xây dựng nền dân chủ mới để kiến thiết đất nước. Trong giai đoạn
cách mạng đầy khó khăn, gian khổ, Người luôn nhận thấy sức mạnh của lý luận
trong tập hợp và phát huy động lực cách mạng. Với nhận thức: “Yêu Tổ quốc, yêu
nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì
nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm.”
(Hồ, 2011a, 6) thì mọi người phải hiểu chủ nghĩa xã hội là gì? Mục tiêu, động lực
của chủ nghĩa xã hội? Con đường để xây dựng chủ nghĩa xã hội?. Theo Người, cán
bộ Đảng viên và quần chúng nhân dân muốn nhận thức được Chủ nghĩa xã hội, từ
đó xây dựng thành công xã hội mới tốt đẹp thì phải hiểu và thực hiện lý luận cách
mạng, nên trong giai đoạn từ 1945 đến 1969 nhiều tác phẩm lý luận của Hồ Chí
Minh được xuất bản để phục vụ công tác giáo dục, bồi dưỡng tư tưởng cho cán bộ
đảng viên và quần chúng nhân dân, trong đó có tác phẩm “ Thường thức chính trị”.
“Thường thức chính trị” là tác phẩm gồm 50 bài viết được đăng trên báo Cứu
quốc năm 1953 với bút danh Đ.X và nhà xuất bản Sự thật xuất bản lần đầu tiên năm
1954. Đây là một trong những tác phẩm lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày
cụ thể, toàn diện những quan điểm về chính trị bao gồm vấn đề giai cấp, động lực
cách mạng, chế độ dân chủ cộng hòa, chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ, xã
hội mới, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, dân chủ mới… Đó là những vấn đề

166
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

có tính lý luận cơ bản về con đường cách mạng Việt Nam trong thời đại mới với
mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Trong khuôn khổ bài viết này, tác
giả chỉ tập trung trình bày những quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng chủ
nghĩa xã hội, từ đó chỉ ra giá trị lý luận và thực tiễn của tác phẩm đối với công cuộc
đổi mới đất nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam.
2. NỘI DUNG
2.1. Khái quát quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa
2.1.1. Về sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
Xuất phát từ quan niệm duy vật lịch sử và học thuyết về hình thái kinh tế - xã
hội, C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ ra sự phát triển của xã hội loài người là quá trình
phát triển lịch sử tự nhiên, từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Sự
ra đời của xã hội mới luôn bắt nguồn từ tất yếu kinh tế và được thai nghén trong
lòng xã hội cũ. Căn cứ khoa học trên là cơ sở để hai ông nghiên cứu về hình thái
kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa và chỉ ra sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản, sự
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là tất yếu như nhau. Tính tất yếu
này được bắt nguồn từ những mâu thuẫn giữa tính xã hội hóa của lực lượng sản
xuất với quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa. Theo đó, C. Mác và Ph.
Ăngghen chỉ rõ lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản ngày càng phát triển đến
trình độ xã hội hóa cao sẽ làm cho mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển của lực lượng
sản xuất với sự kìm hãm của quan hệ sản xuất mang tính tư nhân tư bản chủ nghĩa
về tư liệu sản xuất càng thêm sâu sắc. Tính mâu thuẫn gay gắt trong lĩnh vực kinh
tế của chủ nghĩa tư bản biểu hiện trên lĩnh vực chính trị - xã hội là mâu thuẫn giữa
giai cấp vô sản và giai cấp tư sản (ngày nay là mâu thuẫn giữa tư bản và lao động).
Qua thực tiễn đấu tranh chống lại sự áp bức của giai cấp tư sản, giai cấp công nhân
đã nhận thức được sứ mệnh lịch sử của mình, từng bước tổ chức và thành lập chính
đảng cách mạng. Thông qua sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, giai cấp công nhân
cùng với các tầng lớp nhân dân đấu tranh lật đổ nhà nước tư sản, thiết lập nhà nước
chuyên chính vô sản, bước vào thời kỳ quá độ xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa mở
đầu hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.

167
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

2.1.2. Các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
Khi phân tích hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, C. Mác và Ph.
Ăngghen cho rằng, hình thái này sẽ phát triển từ thấp lên cao, trải qua hai giai đoạn:
giai đoạn thấp và giai đoạn cao, giữa xã hội tư bản và xã hội cộng sản là thời kỳ quá
độ. Trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Goota (1875), C. Mác đã viết: “Giữa xã hội
tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ
xã hội nọ, sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị
và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng
của giai cấp vô sản” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 2004, 47). Về mặt xã hội, thời kỳ quá
độ chính là giai đoạn xã hội chưa phát triển trên cơ sở của chính nó, nên còn mang
nhiều dấu vết của xã hội cũ: “... là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ
xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức,
tinh thần - còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra” (C.Mác và
Ph.Ăngghen, 2004, 33). Sau này, từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga,
V. I. Lênin cũng đã thừa nhận: “cần phải có một thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội” (Lênin, 2005, 464) để cải tổ sản xuất, để tạo ra
những chuyến biến trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để tạo tiền đề xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
C. Mác - Ph. Ăngghen cũng đã dự báo xã hội cộng sản chủ nghĩa chỉ xuất hiện
khi con người không còn phụ thuộc có tính chất nô dịch vào sự phân công lao động
của họ; không còn sự đối lập giữa lao động trí óc và lao động chân tay; lao động
không những trở thành một phương tiện để sinh sống mà bản thân nó còn là nhu
cầu bậc nhất của đời sống; sự phát triển toàn diện của các cá nhân, sức sản xuất của
họ ngày càng tăng lên; con người có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp
quyền tư sản.. (C.Mác và Ph.Ăngghen, 2004).
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, hình thái kinh tế xã hội
cộng sản chủ nghĩa ra đời là một tất yếu khách quan và nó trải qua giai hai đoạn
phát triển chủ yếu là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Nhưng từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội nhất định phải có một thời kỳ quá độ khá lâu dài để cải
biến xã hội, xây dựng các tiền đề vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, từ đó từng
bước giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, ngày càng được tự do, bình đẳng
và hạnh phúc.

168
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tác phẩm
“Thường thức chính trị”
2.2.1. Tiến lên chủ nghĩa xã hội phải kinh qua chế độ dân chủ mới
Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược nước ta, chúng “cướp hết quyền
kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa”, “ thu hút hết mồ hôi, nước mắt của nhân dân
ta” (Hồ, 2011). Trong “đêm đen nô lệ” ấy, người thanh niên Nguyễn Tất Thành, hơn
ai hết, thấu hiểu sâu sắc đời sống bị áp bức nặng nề của nhân dân, yêu cầu bức thiết
cũng như sức mạnh cách mạng to lớn của dân tộc. Vì vậy, ý chí độc lập cho dân tộc
và khát vọng tự do cho nhân dân đã trở thành điểm xuất phát của tư tưởng cách
mạng sau này của Người. Trải qua cuộc sống lao động, học tập, nghiên cứu lý luận,
nhất là qua thực tiễn đấu tranh cách mạng phong phú ở nhiều nước đã làm giàu
văn hóa, mở rộng tầm nhìn và nâng cao trí tuệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người
đã nhận thấy vấn đề giải phóng dân tộc và con người không chỉ là nhu cầu cấp thiết
của dân tộc Việt Nam mà là đòi hỏi của các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc và nhân
dân bị áp bức trên toàn thế giới. Tiếp thu thế giới quan, phương pháp luận cách
mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, bằng thiên tài trí tuệ, nhận thức đúng
xu thế phát triển tất yếu của loài người và tính chất của thời đại mới, Người đã
khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản” (Hồ, 2011f, 30).
Ngay sau ngày 2.9.1945, với tư cách là người đúng đầu chính phủ lâm thời
cách mạng, Người đã khẩn trương tập trung xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân,
chú trọng công tác xây dựng Đảng để tăng cường vai trò lãnh đạo công cuộc kháng
chiến, kiến quốc trong điều kiện khó khăn của đất nước. Giai đoạn này, công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô cũng đang đạt được những thắng lợi lớn, từng
bước “tiến mạnh đến chủ nghĩa cộng sản” (Hồ, 2011c, 270) đồng thời với thế lực đế
quốc đang bị thu hẹp, phe dân chủ và chủ nghĩa xã hội ngày càng mạnh mẽ, vẻ
vang khi các nước Đông Âu, Việt Nam, Trung Quốc đã và đang trở thành những
nước dân chủ mới. Những thắng lợi to lớn này chính là kết quả của sự lãnh đạo của
các Đảng của giai cấp công nhân, sự hy sinh xương máu và mồ hôi của các tầng lớp
nhân dân trong công cuộc kháng chiến chống áp bức, bóc lột.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhận thức rõ, tùy vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể
mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau. Đối với Việt Nam, Người
169
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

khẳng định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Kinh qua chế độ dân chủ mới,
rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản)” (Hồ, 2011c, 293). Lựa chọn đi lên chủ nghĩa
xã hội là con đường duy nhất để nhân dân được tự do, ấm no và hạnh phúc nhưng
xuất phát điểm của nước ta thấp, nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng
nề bởi chiến tranh nên cần phải trải qua giai đoạn dân chủ mới (thời kỳ quá độ) để
khôi phục kinh tế, cải tạo văn hóa, xã hội. Ở thời kỳ này, nền kinh tế với nhiều loại
kinh tế khác nhau bao gồm cả kinh tế quốc doanh, các hợp tác xã, kinh tế của cá
nhận, tư bản chủ nghĩa và tư bản nhà nước trong đó kinh tế quốc doanh là kinh tế
lãnh đạo và phát triển nhanh hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng thời xác định Đảng
phải xây dựng chính quyền nhà nước dân chủ; củng cố chính quyền mới. Nhà nước
dân chủ nhân dân có nhiệm vụ xây dựng kinh tế, phát triển nông nghiệp, công nghệ,
thủ công nghệ, thương nghiệp nhằm cải thiện đời sống nhân dân; phát huy vai trò
của nhân dân; tẩy sạch các bệnh quan liêu, mệnh lệnh, ngăn ngừa và trừng trị mọi
hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch. Trong quá trình lãnh đạo nhân dân
thực hiện nền dân chủ mới, Đảng lao động Việt Nam phải dựa trên nền tảng tư
tưởng Mác - Lênin, kiên quyết lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động,
thông qua các đoàn thể cách mạng nhân dân hăng hái thi đua sản xuất, đoàn kết
chặt chẽ, kiên trì đấu tranh, xây dựng xã hội thì chủ nghĩa xã hội sẽ thành công.
Như vậy, trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, xuất phát từ đặc điểm, điều kiện của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định nước ta phải kinh qua nền dân chủ mới bỏ qua chủ nghĩa tư
bản tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Người cũng chỉ rõ, đây chính là thời kỳ quá độ
gián tiếp, là cuộc chiến đấu “khổng lồ” chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng để tạo
ra những cái mới mẻ, tốt tươi nên phải trải qua một thời gian đấu tranh lâu dài và
gian khổ. Để giành được thắng lợi trong công cuộc cải biến triển kinh tế và thay đổi
triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ hàng ngàn năm
này thì Đảng “cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào
lực lượng vĩ đại của toàn dân” (Hồ, 2011g, 617).
2.2.2. Một số đặc điểm của chủ nghĩa xã hội
Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về hình thái kinh tế
xã hội cộng sản chủ nghĩa phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước, Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn sử dụng cách diễn đạt đơn giản, mộc mạc, dung dị và dễ hiểu về

170
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội
thống nhất với mục tiêu phấn đấu là độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc, ấm no
cho nhân dân; là “làm sao cho dân giàu, nước mạnh” (Hồ, 2011a, 11). Trong tác
phẩm “Thường thức chính trị” Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc lại quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa cộng sản với hai giai đoạn, chỉ ra sự giống và khác
nhau của hai giai đoạn đó. Từ nhận thức chủ nghĩa xã hội tuy là giai đoạn thấp,
nhưng sức sản xuất đã phát triển, tư liệu sản xuất đều là của chung và căn cứ thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Hồ Chí Minh đã nêu lên những đặc điểm
của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Về kinh tế: Xuất phát từ mục tiêu chủ nghĩa xã hội là làm cho nhân dân ăn no,
mặc ấm, ai nấy được sung sướng. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng xây dựng
nền kinh tế quốc gia vững mạnh: “Phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh
tế mới” (Hồ, 2011f, 412) nhằm xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Theo
Người, bước vào giai đoạn chủ nghĩa xã hội dù vẫn còn “vết tích” xã hội cũ, nhưng
nền kinh tế được xây dựng dựa trên sở hữu chung về công cụ sản xuất và tư liệu
sản xuất như “nhà máy, xe lửa, ngân hàng,…, làm của chung.” (Hồ, 2011d, 390). Ở
nông thôn có nông trường chung để nông dân sản xuất tập thể. Công nghiệp và
nông nghiệp là “hai chân” của nền kinh tế phát triển theo hướng hiện đại khi khoa
học đã ngày càng phát triển. Máy móc ngày càng nhiều sẽ làm cho sức sản xuất của
công nhân và nông dân được thúc đẩy, năng suất lao động và hiệu quả kinh tế tăng,
làm cho của cải xã hội dồi dào từ đó thỏa mãn được nhu cầu vật chất và tinh thần
ngày càng cao của nhân dân (theo Hồ Chí Minh, 2011). Không chỉ đề cập đến các
ngành kinh tế chủ yếu của chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhận
định: chủ nghĩa xã hội kinh tế của cả nước phải có kế hoạch để xác định rõ nhu cầu,
mục đích, chỉ tiêu sản xuất nên kinh tế tránh được khủng hoảng, nạn thất nghiệp,
sức sản xuất thì phát triển mau chóng, từ đó ngày càng nâng cao đời sống của nhân
dân và sức mạnh dân tộc để củng cố quốc phòng của Tổ quốc.
Về xã hội: Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: chủ nghĩa xã hội là một xã hội do
nhân dân lao động làm chủ. Đây là giai đoạn mà xã hội không có chế độ bóc lột người,
mọi người đều được bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động, có quyền lao động và
có việc làm vì “Tư bản, địa chủ, phú nông không có nữa” (Hồ, 2011c, 290) nên không
có ai bóc lột công nhân và nông dân. Khác với xã hội cũ trong khi một số không người

171
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

lao động “ngồi mát ăn bát vàng” thì trong xã hội chủ nghĩa trên cơ sở thực hiện
“Nguyên tắc sinh hoạt là: “Ai không làm thì không được ăn” và “làm nhiều hưởng
nhiều”, “làm ít hưởng ít” (Hồ, 2011c, 290) nhưng vẫn đảm bảo: người già yếu hoặc
tàn tật sẽ được nhà nước giúp đỡ chăm nom, trẻ em luôn được chăm sóc, bảo vệ. Đó
mới là sự bình đẳng thực sự, khi xã hội quan tâm đến những người chưa có hoặc
không còn khả năng hay mất dần khả năng lao động. Cũng theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, chỉ có ở trong chủ nghĩa xã hội: “Mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời
sống riêng của mình, phát huy tính cách và sở trường riêng của mình” (Hồ, 2011a, 6).
Khi nền kinh tế phát triển mạnh dựa trên nền tảng khoa học kỹ thuật và tinh
thần lao động, hợp tác tự nguyện, tự giác của công, nông thì sự đối lập giữa thành
thị và thôn quê, giữa lao động trí óc và lao động chân tay sẽ không còn nữa. Khi đó
nông thôn ngày càng văn minh, “công nông ngày càng thông thái” (Hồ, 2011c, 290).
Đây thực chất là một quan niệm sâu săc về chủ nghĩa xã hội, thể hiện khát vọng xây
dựng xã hội dân chủ và giàu mạnh, giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, nghèo
đói, đau khổ và dốt nát. Trong quan niệm cơ bản của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã
hội, dù nói hay viết thế nào thì cũng đều chỉ hướng đến mục tiêu cao nhất là vì con
người và cho con người. Nếu ở xã hội có áp bức giai cấp con người bị bóc lột, bị tha
hóa thì trong chủ nghĩa xã hội con người lại có văn hóa, đạo đức phát triển cao, có
“đầu óc”, tư tưởng xã hội chủ nghĩa và quyết tâm đoàn kết để xây dựng chủ nghĩa
cộng sản thắng lợi.
Tóm lại, những quan niệm về đặc điểm của chủ nghĩa xã hội của Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong tác phẩm “Thường thức chính trị” nói riêng, trong hệ thống các tác
phẩm của Người nói chung thì đều thể hiện rõ sự vận dụng sâu sắc và sáng tạo lý
luận chủ nghĩa Mác - Lênin về mục tiêu, con đường, và động lực của Chủ nghĩa xã
hội vào tình hình cụ thể của đất nước, từ đó nêu lên những mục tiêu, đặc điểm cơ
bản, những bước đi và động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
2.2.3. Vai trò của Đảng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự là một xã hội vì con
người, do con người. Với tư cách là một nhà biện chúng, có tầm dự báo chiến lược
thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy trước nhiệm vụ xây dựng đất nước ta đàng
hoàng hơn, to đẹp hơn là rất khó khăn, gian khổ nên cần sự quyết tâm của Đảng và
quần chúng nhân dân. Theo Người, muốn xây dựng một xã hội vẻ vang mà ai cũng
172
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

no ấm, sung sướng, tự do, ai cũng thông thái, có đạo đức thì mọi người đều phải
hiểu rõ quy luật phát triển của xã hội, phát huy sức mạnh đoàn kết và tranh thủ sự
ủng hộ của các nước trong phe dân chủ. Người tin tưởng vào sức mạnh của chủ
nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết của quần chúng nhân dân, coi đây là “động lực
lớn” để dân tộc Việt Nam chiến thắng các đế quốc và xây dựng thành công chế độ
xã hội mới. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng con người là vốn quý
nhất và đoàn kết dân tộc là “lực lượng vô địch” do đó Người thường khẳng định:
“muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, phải xây dựng con người
xã hội chủ nghĩa, con người cộng sản chủ nghĩa” (Hồ, 2011f, 69). Theo đó, Đảng cần
có đường lối đúng đắn để đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân, phát huy tốt động lực
vĩ đại này thì chủ nghĩa xã hội nhất định sẽ thắng lợi.
Ngay từ khi giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức
vai trò quan trọng của Đảng trong lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao
động thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc. Trên cương vị người đứng đầu Đảng
và Chính phủ, trong thực tiễn lãnh đạo công cuộc kháng chiến, kiến quốc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh càng nhận thức sâu sắc vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng.
Ngay cả khi cách mạng thắng lợi rồi, quần chúng nhân dân vẫn cần có đảng lãnh
đạo vì phải xây dựng kinh tế, quốc phòng, văn hóa, xã hội; Đảng phải tổ chức, giáo
dục toàn dân để đưa nhân dân lao động đến thắng lợi hoàn toàn. Muốn vậy, theo
Người đảng viên luôn phải làm kiểu mẫu: “Ra sức đoàn kết đánh đổ thực dân và
phong kiến, kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, ra sức củng cố chính quyền nhân
dân” (Hồ, 2011c, 294). Sự đoàn kết của Đảng là cơ sở đoàn kết toàn dân. Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn đề cao mối quan hệ mật thiết, gắn bó của Đảng với nhân dân.
Người nhắc nhở cán bộ đảng viên phải liên hệ chặt chẽ với quần chúng, phải toàn
tâm, toàn ý phụng sự nhân dân, luôn đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên hàng
đầu. Như vậy Đảng mới đoàn kết được quần chúng đấu tranh xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chế độ xã hội chủ nghĩa là một xã hội tốt đẹp, vẻ
vang. Nhưng để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì Đảng viên và các tầng
lớp nhân dân phải ra sức: “Thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm” (Hồ, 2011c, 295)
để xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội. Người chỉ rõ: trong thực tiễn lãnh đạo,
đảng viên sẽ dễ bị quyền lực cám dỗ, dễ suy thoái, dễ mắc phải sai lầm với những

173
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

biểu hiện tiêu cực như cậy thế, trái phép, “quan liêu, tham ô, lãng phí” (Hồ, 2011c, 295).
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng phải luôn coi trọng công tác xây dựng
chỉnh đốn, tập trung rèn luyện đảng cách mạng, chân chính. Do đó, mỗi Đảng viên
và tổ chức đảng cần phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên đấu tranh tự phê
bình và phê bình, phải gìn giữ Đảng trong sạch, vững mạnh. Tổ chức Đảng muốn
vững mạnh thì mỗi cán bộ đảng viên phải luôn giữ phẩm chất đạo đức cách mạng
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; phải tự trau dồi tư tưởng, lý luận; “nâng cao
trình độ văn hóa và giác ngộ chính trị của nhân dân lao động.” (Hồ, 2011c, 295). Vì
vậy, công tác giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin cho đảng viên luôn được Người chú
trọng để mỗi cán bộ phải thấm nhuần lý luận, chí khí phải kiên quyết, có óc nhìn xa
trông rộng và tránh bị “lạc phương hướng”, xa rời cách mạng. Trong điều kiện thực
tiễn, phần đông Đảng viên của Đảng là nông dân và tiểu tư sản trí thức nên Đảng
phải chú ý gột rửa những tư tưởng phi vô sản, ra sức: “Cải tạo tư tưởng khiến cho
những đồng chí ấy thành những chiến sĩ của giai cấp công nhân” (Hồ, 2011c, 276).
Tóm lại, trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của Đảng cộng
sản trong quá trình thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, từ thực tiễn cách mạng
trong nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra vai trò to lớn của Đảng đối với vận
mệnh của nước nhà và dân tộc. Từ đó, Người nêu những nhiệm vụ quan trọng mà
Đảng phải thực hành trong công tác lãnh đạo quần chúng nhân dân kháng chiến và
kiến quốc thắng lợi để đi đến chủ nghĩa xã hội. Mặc dù con đường cách mạng có
nhiều gian khổ, nhưng có thêm s ự ủng hộ của các nước trong phe xã hội và dân
chủ, với quyết tâm vượt mọi khó khăn của Đảng và nhân dân, nhất định sẽ xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
2.3. Giá trị lý luận và thực tiễn của tác phẩm trong tình hình hiện nay
Những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Chủ nghĩa xã hội
ở nước ta qua tác phẩm “Thường thức chính trị” nói riêng và hệ thống tư tưởng của
Người nói chung có ý nghĩa lý luận lớn đối với Đảng và nhân dân trong quá trình
xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Thứ nhất, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là điểm cốt yếu trong
di sản tư tưởng của Hồ Chí Minh, và cũng chính là đường lối cơ bản của cách mạng
Việt Nam. Ngay từ khi Đảng ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng,
chủ nghĩa xã hội luôn là mục tiêu, lý tưởng của Đảng cộng sản và nhân dân Việt
174
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Nam. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, sự lựa chọn con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan và là con đường tất yếu của cách mạng. Trải qua
những khó khăn của đất nước, thử thách của thời đại, Đảng cộng sản và nhân dân
ta càng nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng tiếp tục coi đây là quan điểm chỉ đạo để
thực hiện đường lối đổi mới: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng…” (Đảng Cộng sản Việt Nam,
2021). Điều đó khẳng định quyết tâm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, thực
hiện mong muốn cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho toàn Đảng, toàn
dân trước lúc đi xa: xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Thứ hai, những quan niệm của Hồ Chí Minh về con đường xây dựng chủ nghĩa
xã hội phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam là phải kinh qua chế độ dân chủ
mới rồi mới tiến lên chủ nghĩa xã hội là cơ sở để Đảng quyết tâm thực hiện thời kỳ
quá độ xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa với những chặng
đường và bước đi thích hợp. Đặc biệt những chỉ dẫn của Người về năm loại hình
kinh tế trong giai đoạn xây dựng chế độ dân chủ mới (thời kỳ quá độ) đã trở thành
một trong những lý luận quan trọng để Đảng cộng sản Việt Nam nhận thức về nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu phát triển lực lượng
sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống của nhân
dân. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: Đổi mới mạnh mẽ và có hiệu quả
mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trên nền tảng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, “xây dựng, hoàn thiện
đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy
đủ, hiện đại, hội nhập” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021). Nhấn mạnh trên của Đảng
cũng thể hiện sự tiếp thu tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng nền kinh tế gắn
với khoa học và công nghệ hiện đại mà Người đã chỉ ra khi trình bày đặc điểm của
chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn 36 năm đổi mới cho thấy, kinh tế vĩ mô ổn định, tốc độ
tăng trưởng kinh tế được duy trì; doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp, tổ chức có
hiệu quả; kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế đất nước,
quy mô nền kinh tế được nâng lên; vấn đề lao động, việc làm được đảm bảo. Từ đó,
đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt vật chất và tinh thần. Đó cũng chính là hiện

175
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

thực hóa sinh động nhất mục tiêu của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
mà Đảng và nhân dân đang xây dựng.
Thứ ba, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc
biệt coi trọng vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quần chúng nhân dân. Nhân dân
là động lực cách mạng to lớn, vì vậy Đảng phải tổ chức, giáo dục và dựa vào lực
lượng vĩ đại ấy trong công cuộc xây dựng xã hội no ấm, bình đẳng và hạnh phúc.
Để giữ được vai trò lãnh đạo của mình, thì đảng phải là một tổ chức vững mạnh;
đẩy lùi được những tiêu cực; tẩy sạch tư tưởng “phi vô sản”; phải gắn bó máu thịt
với nhân dân. Cán bộ Đảng viên phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự
cần, kiêm, liêm, chính, chí công vô tư. Trong thực tiễn đổi mới đất nước, Đảng
Cộng sản Việt Nam nhận thức rõ trước những tác động của nền kinh tế thị trường
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và sự chống phá của các thế lực thù địch,
đã có không ít cán bộ Đảng viên suy thoái về lối sống đạo đức, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” gây mất niềm tin trong nhân dân. Vì vậy, cần tăng cường công tác
xây dựng chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thông qua việc triển khai và tiếp
tục thực hiện hiệu quả cuộc vận động “học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh”. Đại hội XIII của Đảng chủ trương phải gắn liền xây
dựng Đảng với xây dựng hệ thống chính trị. Nhận thức mới này cho thấy, công
tác đấu tranh chống tham nhũng và những biểu hiện tiêu cực trong Đảng và các
tổ chức khác trong hệ thống chính trị có quan hệ mật thiết với nhau. Trong xây
dựng chỉnh đốn Đảng, cần tập trung nâng cao bản lĩnh chính trị; coi trọng sự đoàn
kết, thống nhất ý chí và hành động trong Đảng; đảng phải giữ mối liên hệ mật
thiết với nhân dân; luôn quan tâm đến lợi ích chính đáng của nhân dân, hết lòng
phụng sự Tổ quốc và nhân dân.
Thành tựu của 36 năm đổi mới đã đưa nước ta phát triển, ngày càng khẳng
định vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Những nỗ lực trong tư duy và thực
tiễn đổi mới đường lối lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh đoàn kết của nhân
dân chính là minh chứng rõ nhất cho sự vận dụng và phát triển tư tưởng của Hồ
Chí Minh về mục tiêu, con đường và quyết tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội.
3. KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa lý luận quan trọng đối
với công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay ở Việt
176
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Nam. Từ năm 1986 đến nay, Đảng luôn vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh trong đổi mới đường lối kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, trong quyết tâm xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính
trị trong sạch, vững mạnh, nhất quán với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Những quyết tâm của Đảng và nhân dân đang làm cho vị thế của đất nước
ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Thực hiện lời dạy của Người,
phát huy vai trò lãnh đạo sáng suốt của Đảng và của Chính phủ với đường lối,
chính sách đúng đắn, dựa vào lực lượng vô cùng to lớn của nhân dân nhất định
chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (2004). Toàn tập (Vol. 19). Chính trị quốc gia.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
(Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[3]. Hồ, C. M. (2011a). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 1). Chính trị quốc gia.
[4]. Hồ, C. M. (2011b). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 7). Chính trị quốc gia.
[5]. Hồ, C. M. (2011c). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 8). Chính trị quốc gia.
[6]. Hồ, C. M. (2011d). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 10). Chính trị quốc gia.
[7]. Hồ, C. M. (2011e). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 11). Chính trị quốc gia.
[8]. Hồ, C. M. (2011f). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 12). Chính trị quốc gia.
[9]. Hồ, C. M. (2011g). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 15). Chính trị quốc gia.
[10]. Lênin, V. I. (2005). Toàn tập (Vol. 38). Chính trị quốc gia Sự thật.

177
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

QUÁN TRIỆT TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


VỀ PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Dương Thị Hậu
Trường Đại học Đà Lạt
Tác giả liên hệ: Dương Thị Hậu, email: haudt@dlu.edu.vn

Tóm tắt: Phát huy nhân tố con người là động lực quan trọng nhất, quyết định đến
thành công của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, như Hồ Chí Minh
đã khẳng định “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa”
(Hồ, 2011g, 222), “Chủ nghĩa xã hội là do quần chúng nhân dân tự mình xây dựng
nên” (Hồ, 2011g, 568). Bài viết góp phần trình bày hệ thống quan điểm của Hồ Chí
Minh về những biện pháp phát huy nhân tố con người trong xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam và sự nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của con
người và phát huy nhân tố con người, trên cơ sở đó đề xuất một số những giải pháp
để tiếp tục phát huy nhân tố con người trong giai đoạn hiện nay.
Từ khóa: chủ nghĩa xã hội; Hồ Chí Minh; nhân tố con người; phát huy; Việt Nam.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, con người vừa là sản phẩm của lịch sử
vừa là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Kế thừa và phát triển quan điểm của Chủ nghĩa
Mác - Lênin về con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định, con người là
vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng. Theo
Người, “vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều
thế cả” (Hồ, 2011b, 281). Nói cách khác, con người chính là sự kết tinh những giá trị
vật chất và tinh thần cao nhất, có khả năng lao động, sáng tạo và do vậy, là động
lực thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nói tới nhân tố con người chính là nói tới con người với
tính cách là một thực thể hoạt động, là chủ thể cải tạo thế giới xung quanh, cải tạo
các quan hệ xã hội. Còn tích cực hóa nhân tố con người chính là phát hiện và làm
bộc lộ, hình thành và sử dụng những tiềm năng sáng tạo của con người, vì lợi ích
của xã hội, mà chủ yếu là phát hiện những tiềm năng tối đa của hoạt động sản xuất
của con người, các nguồn dự trữ và khả năng vật chất và tinh thần của hoạt động

178
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

đó, phát hiện các động cơ thúc đẩy con người hoạt động xây dựng xã hội mới và
khám phá các trở lực kìm hãm các hoạt động đó (Trịnh, 2019, 421).
Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đặc biệt chú ý đến việc phát hiện ra những động lực và những điều kiện để đảm
bảo cho những động lực đó thực sự trở thành sức mạnh thúc đẩy cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Trong đó, nhân tố con người được xác định là nguồn nội lực
quan trọng nhất, quyết định nhất. Xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động
lực trong cách mạng giải phóng dân tộc và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm chăm lo, tạo dựng mọi điều kiện,
môi trường và đề ra những chính sách kinh tế, xã hội cụ thể nhằm phát huy tối đa
năng lực và sức sáng tạo của con người để cống hiến cho sự nghiệp xây dựng đất
nước. Những tư tưởng ấy của Người đã trở thành những chỉ dẫn quan trọng để
Đảng ta tiếp tục vận dụng trong quá trình lãnh đạo nhằm phát huy tối đa nguồn
lực con người trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.
2. NỘI DUNG
2.1. Quan điểm Hồ Chí Minh về phát huy nhân tố con người
Một là, phải hết sức chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Quan tâm, tạo điều kiện để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của con
người là kế sách lâu dài nhằm “khoan thư sức dân”, bồi dưỡng sức dân để họ yên
tâm cống hiến và hưởng thụ. Đây cũng chính là mục tiêu xuyên suốt, nhất quán từ
tư tưởng cho đến hành động, từ lời nói đến việc làm của Hồ Chí Minh.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “nếu nước độc lập mà dân
không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” (Hồ, 2011a, 64),
chính vì lẽ đó, từ trong quan niệm về CNXH cho đến xác định mục tiêu của CNXH,
Hồ Chí Minh đã luôn đặt vấn đề đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân lên
hàng đầu. Khi trả lời câu hỏi: “Chủ nghĩa xã hội là gì”, Người đã diễn giải: “Chủ
nghĩa xã hội là làm cho mọi người dân sung sướng, ấm no” (Hồ, 2011g, 480), “xã
hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa
xã hội” (Hồ, 2011h, 438), “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao
mức sống của nhân dân” (Hồ, 2011g, 604).

179
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Để hiện thực hóa được mục tiêu đó, Hồ Chí Minh đã đưa ra hàng loạt các biện
pháp tác động từ các chính sách về kinh tế, văn hóa, chính sách xã hội… Hồ Chí
Minh chỉ rõ chính sách của Chính phủ ta “Đối với dân, Chính phủ phải thi hành
một nền chính trị liêm khiết như cải thiện đời sống của nhân dân, cứu tế thất nghiệp,
sửa đổi chế độ xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa,... Có như thế, dân chúng mới đoàn
kết chung quanh Chính phủ, mới vì quyền lợi thiết thân của mình mà hy sinh giết
giặc” (Hồ, 2011a, 258). Trong kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng đến các
biện pháp kích thích cho người lao động như chế độ thuế khóa, thưởng, phạt, tiền
lương phải tương xứng với công sức, hiệu quả công việc, Người khẳng định “Đối
với công nhân, phải cương quyết thưởng năng suất, nếu không thì những công nhân
hăng hái hao mòn dần đi” (Biên bản Hội đồng Chính phủ (Số A1Q 033-403), n.d., 14),
đối với nông dân “miễn thuế 1 năm đồng bào hỉ hả”, đối với trí thức, để trọng dụng
họ Hồ Chí Minh chú trọng đến môi trường, điều kiện làm việc, chính sách về lương,
thưởng… Trong Di chúc Hồ Chí Minh cũng đã chú trọng đến các chính sách an sinh
xã hội nhất là đối với những người có công, “những người đã dũng cảm hy sinh một
phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung
phong…), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn
ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có
thể dần dần “tự lực cánh sinh”; “Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ)
mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn
thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm
thích hợp, quyết không để họ bị đói rét” (Hồ, 2011j, 616). Đồng thời Bác cũng căn dặn
“miễn thuế nông nghiệp 1 năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ
hả, mát lòng mát dạ, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất” (Hồ, 2011j, 617).
Tóm lại, với tư duy của một nhà Mác-xít sáng tạo, Hồ Chí Minh đã luôn đặt
vấn đề ăn, mặc, ở, đi lại, học hành,... của con người lên hàng đầu nhằm đáp ứng
nhu cầu thiết yếu nhất về vật chất và tinh thần. Đây cũng chính là biện pháp quan
trọng hàng đầu để kích thích con người phấn khởi trong lao động, sản xuất, bởi như
Hồ Chí Minh đã khẳng định “thực túc thì binh cường!”.
Hai là, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm công dân
của mỗi cá nhân đối với tổ quốc.

180
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm công
dân của mỗi cá nhân con người là giải pháp quan trọng để mỗi cá nhân củng cố và
phát triển lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ra sức cống hiến cho tổ
quốc, vì nước quên mình, đặt lợi ích của quốc gia lên hàng đầu. Đây là động lực
tinh thần quan trọng hàng đầu đối với sự phát triển của mỗi quốc gia.
Hồ Chí Minh là người phát hiện và tổng kết sức mạnh của tinh thần yêu nước,
đó là truyền thống quý báu của dân tộc và yêu nước được ví “như các thứ của quý”,
như Người khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền
thống quý báu của ta” (Hồ, 2011d, 38). Truyền thống đó có sức mạnh to lớn và là
“động lực” cho sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước của dân tộc Việt Nam. Thực
tiễn trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã cho thấy, mặc dù kẻ
địch hơn hẳn ta về kinh tế, vũ khí, trang bị kĩ thuật,… nhưng nói về sức mạnh tinh
thần, về ý chí, nghị lực, lòng tự tôn dân tộc và sức mạnh đoàn kết thì ta đã hơn hẳn
chúng. Bởi vậy, trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Hồ Chí
Minh đã luôn căn dặn, cần phải không ngừng chăm lo “phát triển tinh thần yêu
nước của dân ta”, “Nhân dân ta sẵn có truyền thống tốt đẹp là lao động cần cù, sinh
hoạt giản dị, lại có tinh thần yêu nước nồng nàn. Chúng ta cần phát huy truyền
thống và tinh thần ấy” (Hồ, 2011e, 545).
Trong xây dựng CNXH Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn kêu gọi và
biểu dương tinh thần trách nhiệm công dân của tất cả mọi giai cấp, tầng lớp trong
xã hội mà nòng cốt là công nhân, nông dân và trí thức hãy sống và làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, luôn tự hào về truyền
thống cách mạng và tích cực đóng góp trí tuệ và tài năng để xây dựng thành công
CNXH hướng đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh”. Đối với giai cấp công nhân, là
giai cấp lãnh đạo, Hồ Chí Minh yêu cầu “cần phải gương mẫu trong sản xuất, gương
mẫu trong đời sống”, giai cấp Nông dân “là một lực lượng rất to lớn của dân tộc,
một đồng minh rất trung thành của giai cấp công nhân” (Hồ, 2011c, 248), tầng lớp
Trí thức là lực lượng yêu nước và bộ phận tinh hoa của dân tộc có vai trò vô cùng
quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến và kiến thiết nước nhà, xây dựng CNXH,
vì vậy Hồ Chí Minh luôn thu hút và kêu gọi họ nêu cao trách nhiệm để gánh vác
một phần cho tổ quốc “góp tài, góp sức để cải cải biến bộ mặt xã hội của nước ta,

181
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

làm cho nhân dân ta sản xuất và công tác theo khoa học và đời sống của nhân dân
ta văn minh” (Hồ, 2011i, 97).
Ba là, giáo dục, đào tạo là biện pháp quan trọng tạo tiền đề cho việc phát huy sức mạnh
của con người.
Muốn xây dựng thành công CNXH đòi hỏi con người phải có trình độ văn
hóa, trình độ nhận thức cao mới có thể giải quyết đúng đắn và kịp thời những vấn
đề thực tiễn nảy sinh và thâu tóm được những thành tựu về văn hóa, khoa học kĩ
thuật của nhân loại. Bởi vậy, Hồ Chí Minh luôn coi giáo dục - đào tạo - sự nghiệp
“trồng người” là một chiến lược cơ bản, lâu dài của cách mạng, một quốc sách hàng
đầu của Đảng và Nhà nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây. Vì
lợi ích trăm năm thì phải trồng người” (Hồ, 2011f, 528), “Một dân tộc dốt là một dân
tộc yếu”, “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất định phải có học thức” (Hồ,
2011h, 90). Ngay sau khi giành được chính quyền, Người đã chỉ rõ “một trong
những công việc phải thực hiện cấp tốc lúc này là nâng cao dân trí”, khi miền Bắc
đi lên chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện còn gặp nhiều khó khăn, Hồ Chí Minh vẫn
đặc biệt quan tâm và đề ra nhiều chủ trương, biện pháp để phát triển về mặt trí tuệ
cho con người Việt Nam.
Về mục tiêu của giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định là nhằm “đào tạo ra
những công dân tốt, cán bộ tốt cho nước nhà”, “Học để làm việc, làm người, làm
cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại. Muốn
đạt mục đích, thì phải: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” (Hồ, 2011c, 208). Về nội
dung giáo dục phải toàn diện “Trong việc giáo dục và học tập phải chú trọng đủ
các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động
và sản xuất” (Hồ, 2011g, 647), trong đó, Người chú trọng đến giáo dục lý tưởng cách
mạng lên hàng đầu, bởi lẽ nếu con người không có lý tưởng cách mạng vững vàng,
không có lập trường chính trị đúng đắn thì sẽ không thể sẵn sàng cống hiến, không
hăng hái trong công việc và tranh đấu thì sự nghiệp độc lập dân tộc và CNXH sẽ
khó có thể thành công. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng đặc biệt quan tâm đến giáo
dục kiến thức văn hóa, khoa học kĩ thuật, khoa học xã hội nhân văn và kĩ năng nghề
nghiệp,… Hồ Chí Minh khẳng định: Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ
giúp chúng ta đẩy mạnh khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ
182
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

văn hóa của nhân dân là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước
hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Bốn là, thực hành dân chủ rộng rãi, phát huy quyền làm chủ và ý thức làm chủ của
con người.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, dân chủ với tư cách là một hệ giá trị phản ánh
trình độ phát triển của cá nhân và cộng đồng nên nó cũng là kết quả của quá trình
đấu tranh lâu dài cho sự tự do, bình đẳng. Xã hội loài người càng phát triển thì nhu
cầu của con người về dân chủ càng cao, chính vì thế, trong xây dựng CNXH ở Việt
Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn đề cao thực hành dân chủ - coi đây là nhân tố
hàng đầu để tích cực hóa nhân tố con người, đồng thời thể hiện được bản chất ưu
việt của chế độ XHCN.
Để dân chủ được thực hành trong nhân dân, Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn các cơ
chế, biện pháp để phát huy được quyền làm chủ của con người trong các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh: Nước ta
là nước dân chủ; nghĩa là nước nhà do nhân dân lao động là chủ và do nhân dân
lao động làm chủ, “Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính
trị của toàn dân để phát huy tính tích cực và sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi
công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc của Nhà nước, ra sức xây
dựng chủ nghĩa xã hội” (Hồ, 2011g, 374). Quyền làm chủ đó của nhân dân phải
được Hiến Pháp, Pháp luật ghi nhận.
Thực hành dân chủ trong lĩnh vực kinh tế cũng được Hồ Chí Minh rất quan
tâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Chế độ kinh tế xã hội của chúng ta nhằm
thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, trên cơ sở kinh tế XHCN ngày càng
phát triển, cách bóc lột tư bản chủ nghĩa được xóa bỏ dần, đời sống vật chất và văn
hóa của nhân dân ngày càng được cải thiện. Do đó, nhân dân ta có điều kiện thực
sự tham gia quản lý nhà nước. Và như thế, nhân dân ta, “từ làm chủ tư liệu sản
xuất, họ phải được làm chủ việc quản lý kinh tế, làm chủ việc phân phối sản phẩm
lao động” (Hồ, 2011j, 682).
Cùng với những biện pháp phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Chủ tịch
Hồ Chí Minh cũng yêu cầu bản thân mỗi cá nhân con người phải tự làm chủ, phải
có ý thức làm chủ trong mọi công việc, không trông chờ, ỷ lại, Người căn dặn: Phải

183
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

làm sao cho nhân dân biết dùng quyền dân chủ, biết hưởng quyền dân chủ, dám
nói, dám làm. Vì vậy Người đặt ra yêu cầu: Chúng ta phải nâng cao, mở rộng dân
chủ ra, khuyên răn cán bộ và đảng viên, bày cho họ suy nghĩ, bày cho họ học hỏi
quần chúng, cổ động họ tìm tòi, đề nghị, làm những việc ích lợi cho quần chúng.
Khi họ đã có nhiều sáng kiến, thì giúp đỡ họ phát triển, khen ngợi họ cho thêm hăng
hái. Như thế thì những tính lười gặp chăng hay chớ ngày càng thêm bớt, mà sáng
kiến và tính hăng hái ngày càng nhiều thêm.
Tóm lại, nhất quán quan điểm “con người vừa là mục tiêu, là động lực trong
xây dựng Chủ nghĩa xã hội” Hồ Chí Minh đã đánh giá cao vị trí, vai trò quan trọng
của con người, coi con người là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất quyết định đến
sự nghiệp xây dựng CNXH, vì vậy việc đề ra hệ thống những giải pháp mang tính
toàn diện và sâu sắc chính là những chỉ dẫn rất quan trọng để Đảng, Nhà nước ta
tiếp tục quán triệt trong xây dựng đường lối, chính sách để phát huy nhân tố con
người trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nhân tố con người trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam
Quán triệt quan điểm của Hồ Chí Minh về phát huy nhân tố con người trong
xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đánh giá cao
vị trí, vai trò của con người, đồng thời luôn đặt con người vào vị trí trung tâm và là
chủ thể phát triển. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (1998) nêu rõ: “…
nguồn lực quý báu nhất, có vai trò quyết định nhất là nguồn lực con người Việt
Nam; là sức mạnh nội sinh của chính bản thân dân tộc Việt Nam. Con người Việt
Nam là tài sản quý báu nhất của Tổ quốc ta và chế độ xã hội chủ nghĩa chúng ta”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 1998, 93). Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực
tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng
định: “Con người là vốn quý nhất, phát triển con người với tư cách vừa là động lực,
vừa là mục tiêu của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới đất nước; gắn vấn đề nhân
tố con người với tinh thần nhân văn nhằm tạo điều kiện cho con người phát triển
toàn diện, sống trong một xã hội công bằng và nhân ái, với những quan hệ xã hội
lành mạnh. Con người và sự phát triển con người được đặt vào vị trí trung tâm của
chiến lược kinh tế - xã hội, mở rộng cơ hội, nâng cao điều kiện cho con người phát
triển” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2005, 78-79).

184
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Đất nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
sâu rộng quốc tế thì việc phát huy nhân tố con người bao gồm sức khỏe, tài năng,
trí tuệ, phẩm chất, khát vọng vươn lên,… để thúc đẩy cho tiến trình phát triển của
đất nước, nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức là một tất yếu. Bởi nguồn lực con
người chính là nguồn tài nguyên quý giá nhất, bền vững nhất, như nhà tương lai
học Alvin Tofler nói: Tiền bạc tiêu mãi cũng hết, quyền lực rồi sẽ mất; chỉ có trí tuệ
của con người thì khi sử dụng không những không mất đi mà còn lớn lên. Đảng ta
cũng đã phát triển nhận thức coi người là nguồn lực quan trọng quyết định sự phát
triển nhanh và bền vững của đất nước. Đại hội Đảng lần thứ VIII khẳng định: Lấy
việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát riển nhanh và bền
vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không ngừng tăng tích lũy
cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát
triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996, 85). Tiếp tục phát triển nhận thức và đưa phát huy
nhân tố con người trở thành một trong những nội dung quan trọng trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, Đảng ta khẳng định: “Phát huy tối đa
nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và
mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam làm nền tảng, sức
mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững”, đồng thời cũng đặt ra
yêu cầu “Phải có cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước; mọi
chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần và hạnh phúc của nhân dân” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 215-216).
Sau 35 năm đất nước đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về nhiều
mặt, nhờ đó “Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như
ngày hôm nay”, tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm 2016 - 2020 ước đạt khoảng
5,9% và thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới, đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao, con người được bình đẳng
về quyền lợi và hưởng thụ từ các chính sách xã hội của nhà nước ta. Trong tình hình
đất nước phải đối mặt với dịch bệnh Covid-19, Đảng và Nhà nước ta đã “không để
ai bị bỏ lại phía sau”, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 42/NQ-CP và Nghị
quyết số 154/NQ-CP ngày 19/10/2020, về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó
khăn do đại dịch Covid-19, kết quả đã thực hiện được hơn 33 nghìn tỷ đồng cho

185
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

gần 14,5 triệu đối tượng bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 và Nghị quyết số
68/NQ-CP ngày 01/7/2021 về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử
dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19; Việt Nam đã triển khai chiến
dịch tiêm vaccine toàn dân để bảo vệ sức khỏe, tính mạng cho con người và trở
thành một trong các quốc gia có tỉ lệ bao phủ vaccine cao nhất trên thế giới; An sinh
xã hội và phúc lợi xã hội được bảo đảm tốt hơn: tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, từ 70%
(1990) xuống còn 3% (2020). Tham gia bảo hiểm xã hội chiếm 31,9% lực lượng lao
động xã hội. Tham gia bảo hiểm thất nghiệp 27,2%. Môi trường sống của người dân
được cải thiện. Thu nhập liên tục tăng: 35 USD/ngày (1945), 159 USD (1985) lên 2.779
(2020)1; Dịch vụ y tế ngày càng được hoàn thiện về hệ thống, nâng cao về chất lượng
khám, chữa bệnh, thuận lợi về điều kiện tiếp cận. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế từ
60,9% năm 2010 đã tăng lên 90,7% năm 2020. Tỷ lệ bác sĩ trên 1 vạn dân tăng từ 3,5
người (1990) lên 9 người (2020). Số giường bệnh trên 1 vạn dân từ 21,9 giường bệnh
(2010) lên 28 (2020). Tuổi thọ trung bình từ 72,9 tuổi (2010) lên 73,7 (2020). Chỉ số
phát triển con người (HDI) hiện xếp 110/189 nước (2019); Đời sống văn hóa cũng
được cải thiện đáng kể, các lĩnh vực, loại hình, sản phẩm văn hóa phát triển ngày
càng đa dạng đáp ứng nhu cầu mới, nhiều mặt của đời sống xã hội, hiện nay Việt
Nam có khoảng 70% dân số sử dụng internet; Quy mô giáo dục và mạng lưới cơ sở
giáo dục ngày càng phát triển, đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Việt Nam
đã đạt kết quả tích cực trong công tác giáo dục phổ cập và xóa mù chữ: đã hoàn
thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000, phổ cập giáo dục trung
học cơ sở năm 2010, hiện nay Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết. Số sinh
viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua.
Có được kết quả đó là nhờ có tinh thần đoàn kết toàn thể dân tộc, trí tuệ của
tập thể lãnh đạo và cá nhân người lao động dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng
và Nhà nước ta trong thời gian qua, qua đó đã khẳng định được bản chất nhân văn
và ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa mà đất nước ta đang xây dựng, đồng thời
tạo dựng được niềm tin, sự ủng hộ của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tuy
vậy, hiện nay nguồn lực con người vẫn còn tình trạng sử dụng chưa hiệu quả, chưa
thu hút được nhiều nhân tài, nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu và yếu chưa
đáp ứng nhu cầu của quá trình phát triển đất nước, chính sách, cơ chế tài chính cho

1 Theo tính toán lại của Tổng cục Thống kê là 3.521 USD.
186
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

giáo dục và đào tạo chưa phù hợp. Chưa chú trọng đúng mức giáo dục đạo đức, lối
sống, kỹ năng làm việc (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 113-114), dân chủ chưa
được phát huy mạnh mẽ, chưa thực sự trở thành động lực khơi dậy và phát huy sức
sáng tạo của con người, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên xuống cấp
nghiêm trọng làm giảm sút niềm tin của con người vào chế độ, một bộ phận thanh
thiếu niên còn thiếu lý tưởng, ham hưởng thụ, thiếu trách nhiệm với bản thân, gia
đình và xã hội.
Trong thời gian tới, để tiếp tục khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát
huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Việt Nam, huy động mọi nguồn lực cho sự
phát triển nhanh và bền vững của đất nước, cần tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về phát huy nhân tố con người trên một số vấn đề sau:
Một là, đổi mới mạnh mẽ, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng nguồn nhân lực chất
lượng cao cho sự phát triển đất nước.
Đất nước ta đang trong thời kỳ tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước gắn với phát triển nền kinh tế tri thức, lấy khoa học, công nghệ, tri thức và
nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu thì giáo dục và đào tạo là một
trong những yếu tố căn bản quyết định. Đổi mới một cách căn bản, toàn diện nền
giáo dục quốc dân, làm cho giáo dục và đào tạo thực sự là phương tiện đắc lực để
phát triển trí tuệ, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, tạo ra nguồn nhân lực chất
lượng cao phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Có thể nhận thấy rằng, vấn đề trí lực của lao động Việt Nam còn hạn chế, chưa
đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Đến năm 2020, nước ta mới chỉ có 64,5% lao
động có qua đào tạo, tỉ lệ có bằng cấp chứng chỉ mới chỉ 24,5%. Năng lực vận hành,
làm chủ khoa học kỹ thuật chưa thực sự tốt, lao động Việt có nhận thức về lý thuyết
khá tốt song thiếu kỹ năng thực hành, tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” còn diễn ra
(Nguyễn, 2021, 541). Vì vậy để nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực (NNL),
trong thời gian tới cần phải tiếp tục tăng cường đầu tư cho công tác giáo dục và đào
tạo, đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân “Phát triển nhanh NNL
nhất là NNL chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền
giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển NNL với phát triển và ứng dụng
khoa học, công nghệ”. Tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình,
phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc
187
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

tế, phát triển con người toàn diện, đáp ứng những yêu cầu của phát triển kinh tế -
xã hội, khoa học và công nghệ, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư, quản lý chặt chẽ chất lượng đầu vào, đầu ra và đặc biệt là phải nâng cao từ chất
lượng nhà quản lý giáo dục, nhà giáo gắn với chính sách đãi ngộ xứng đáng với
danh hiệu “nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý” để họ yên tâm lao động
và cống hiến. Bên cạnh đó, cần phải chú trọng đào tạo con người phát triển toàn
diện “đức, trí, thể, mỹ”. Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ
cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc,
ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế
(công dân toàn cầu) (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2020, 49).
Hai là, thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội nhằm đảm bảo nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của con người.
An sinh xã hội được coi là mục tiêu, động lực để phát triển nhanh và bền vững,
Đảng ta khẳng định: “Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động
lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996, 28). Do vậy, ngày nay cần trong
thực hiện các chính sách xã hội phải đảm bảo sự công bằng, hợp lý, trong đó, ưu
tiên nhóm những người yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số, người dân di cư,… trong
xã hội; đảm bảo sự công bằng trong tiếp cận dịch vụ công, an sinh xã hội ở miền
núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nhà nước bảo đảm thực hiện chính sách ưu
đãi người có công giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách an
sinh xã hội; đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp và người
dân tham gia. Ðồng thời tạo điều kiện để người dân nâng cao khả năng tự bảo đảm
an sinh. Ngày nay trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 kéo dài làm cho đời sống kinh
tế - xã hội của đất nước và đời sống của con người gặp nhiều khó khăn, vì vậy đòi
hỏi các cấp chính quyền, doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân cần tiếp tục phát huy
tinh thần tương trợ giúp đỡ để “không bỏ lại ai ở phía sau”; đồng thời chống lại mọi
biểu hiện trục lợi chính sách làm ảnh hưởng đến lợi ích của nhân dân.
Ba là, tiếp tục phát huy dân chủ XHCN đảm bảo quyền làm chủ của con người là điều
kiện tất yếu để phát huy vai trò của nguồn lực con người trong mọi lĩnh vực.

188
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Dân chủ là phương tiện tất yếu để con người đạt tới tự do, giải phóng toàn
diện những năng lực vốn có của mỗi cá nhân, do đó cần phải tiếp tục thực hiện tốt
cơ chế dân chủ “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ
hưởng”; đảm bảo dân chủ phải từ trong Đảng là cơ sở thực hiện dân chủ trong xã
hội; Nhà nước cần tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho mỗi người được phát
huy năng lực, sở trường, tài năng, trí tuệ của mình cho sự phát triển đất nước; thực
hiện tốt pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở cơ sở để đảm bảo dân chủ được thực hiện
trong tất cả các cơ quan, doanh nghiệp, các địa phương.
Ngày nay cần thực hiện đẩy mạnh các biện pháp tuyên truyền, giáo dục nâng
cao hiểu biết của nhân dân về quyền và nghĩa vụ của công dân để đảm bảo dân chủ
đi vào thực tế của đời sống, khắc phục tình trạng dân chủ hình thức, dân chủ quá
trớn, tiếp tục nâng cao năng lực làm chủ để con người “biết hưởng quyền dân chủ,
dùng quyền dân chủ, dám nói, dám làm”.
Bốn là, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước hùng cường trong mỗi con người Việt Nam
Nhìn lại chặng đường dài của lịch sử, Việt Nam đã đi lên từ trong khói lửa,
chiến tranh, đã chiến thắng nỗi nhục mất nước, vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã
hội và sau 35 năm đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về mọi mặt của
đời sống xã hội, đất nước Việt Nam “Chưa bao có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy
tín như ngày hôm nay”. Tuy nhiên cũng phải nhìn nhận một thực tế rằng, Việt Nam
vẫn còn khoảng cách khá xa so với tốc độ phát triển thần kỳ của nhiều quốc gia trên
thế giới như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore… Tuy rằng “mọi sự so sánh là khập
khiễng”, nhưng chúng ta phải biết mình đang ở đâu trong biển lớn để bơi thật xa,
tiến thật mạnh, tới đích thật nhanh và kiên quyết không bao giờ được “ngủ quên
trên chiến thắng”. Muốn vậy, ngày nay cần phải khơi dậy khát vọng, ý chí vươn lên
khỏi cái nhục đói nghèo và lạc hậu, “cứa vào lòng tự trọng” và tâm trí của mỗi con
người Việt Nam để cho họ có ý chí vươn lên thoát khỏi tình trạng kém phát triển,
để “sánh vai với các cường quốc năm châu” như Bác Hồ đã từng mong ước; Tiếp
tục khơi dậy tinh thần dân tộc, lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm công dân đó là
cơ sở quan trọng để tạo động lực cho mỗi con người Việt Nam vươn lên tự bồi đắp
làm giàu tri thức, nhân cách đóng góp công sức, trí tuệ cho dân tộc, để rồi mỗi người
Việt Nam dù là đang ở đâu trong nước hay quốc tế cũng sẽ luôn hướng về tổ quốc
với niềm tự hào “tôi là người Việt Nam”; Đảng, Nhà nước cần phải xây dựng cơ

189
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

chế, chính sách đủ mạnh để phát huy được tinh thần cống hiến của con người, thu
hút được nhiều nhân tài cho đất nước bao gồm cả người Việt Nam đang sinh sống
và học tập ở nước ngoài; Tích cực tuyên truyền, giáo dục truyền thống lịch sử hào
hùng, văn hóa truyền thống của dân tộc, học tập và làm theo “tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước
phồn vinh, hạnh phúc” cho học sinh, sinh viên, cán bộ, đảng viên và tất cả mọi
người dân trong toàn xã hội; Đồng thời trong quá trình hội nhập cần phải luôn nâng
cao ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Tiếp
tục phát huy truyền thống đoàn kết, đấu tranh chống lại mọi biểu hiện tiêu cực,
tham nhũng, diễn biến hòa bình để bảo vệ quyền lợi của quốc gia.
3. KẾT LUẬN
Nhất quán quan điểm coi “Dân là gốc”, Dân là cội nguồn tạo nên sức mạnh
của dân tộc, cả cuộc đời Hồ Chí Minh đã giành hết tình yêu thương để quan tâm,
chăm lo về mọi mặt cho con người, đảm bảo cuộc sống hạnh phúc cho con người,
đồng thời lấy con người là mục tiêu, là động lực trong mọi đường lối của Đảng,
chính sách của Nhà nước ta. Ngày nay, để tiếp tục vận dụng sáng tạo quan điểm
Hồ Chí Minh về phát huy nhân tố con người tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát
triển đất nước nhanh và bền vững, cần quán quán triệt một số vấn đề: Thứ nhất, đổi
mới mạnh mẽ, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng nguồn nhân lực lực chất lượng
cao cho sự phát triển đất nước; Thứ hai, thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội
nhằm đảm bảo nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của con người; Thứ ba, tiếp
tục phát huy dân chủ XHCN đảm bảo quyền làm chủ của con người là điều kiện tất
yếu để phát huy vai trò của nguồn lực con người trong mọi lĩnh vực; Thứ tư, khơi
dậy khát vọng phát triển đất nước hùng cường trong mỗi con người Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Biên bản Hội đồng Chính phủ (Số A1Q 033-403). (n.d.). Văn phòng Hội đồng
Chính Phủ.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1996). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII. Chính trị quốc gia.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1998). Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành
Trung ương khóa VIII. Chính trị quốc gia.

190
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2005). Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - Thực
tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006). Chính trị quốc gia.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
Chính trị Quốc gia.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2020). Dự thảo Báo cáo Tổng kết thực hiện chiến lược
phát triển kinh tế - Xã hội 10 năm 2011-2020, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế
- Xã hội 10 năm 2021-2030.
[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
(Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[8]. Hồ, C. M. (2011a). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 4). Chính trị quốc gia.
[9]. Hồ, C. M. (2011b). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 5). Chính trị quốc gia.
[10]. Hồ, C. M. (2011c). Hồ Chí Minh toàn tập (Vol. 6). Chính trị quốc gia.
[11]. Hồ, C. M. (2011d). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 7). Chính trị quốc gia.
[12]. Hồ, C. M. (2011e). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 10). Chính trị quốc gia.
[13]. Hồ, C. M. (2011f). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 11). Chính trị quốc gia.
[14]. Hồ, C. M. (2011g). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 12). Chính trị quốc gia.
[15]. Hồ, C. M. (2011h). Hồ Chí Minh toàn tập (Vol. 13). Chính trị quốc gia Sự thật.
[16]. Hồ, C. M. (2011i). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 14). Chính trị quốc gia.
[17]. Hồ, C. M. (2011j). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 15). Chính trị quốc gia.
[18]. Nguyễn, Đ. T. (2021). Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập
quốc tế ở Việt Nam hiện nay. Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc gia “Quán triệt văn
kiện Đại hội XIII của Đảng cộng sản Việt Nam vào giảng dạy các môn lý luận chính
trị tại các cơ sở giáo dục đại học".

191
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỀ NHIỆM VỤ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Trần Thúy Hiền


Trường Chính trị thành phố Đà Nẵng
Tác giả liên hệ: Trần Thúy Hiền, email: thuyhienhoa@yahoo.com

Tóm tắt: Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội vào điều kiện thực
tiễn đất nước. Điều này thể hiện trong nhận thức của Đảng về việc xác định nhiệm
vụ, phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Quá trình nhận thức của
Đảng về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản bắt đầu ngay khi
Đảng mới ra đời, từng bước bổ sung, điều chỉnh linh hoạt trong mỗi giai đoạn cách
mạng, đặc biệt trong công cuộc đổi mới, phù hợp với những thay đổi của tình hình
trong nước và thế giới. Sự kết hợp lý luận và thực tiễn làm cho nhận thức của Đảng
về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn.
Từ khóa: nhận thức của Đảng; xây dựng chủ nghĩa xã hội; mô hình chủ nghĩa xã hội;
con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

1. MỞ ĐẦU
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trước sự xâm lược của thực dân Pháp, nhiều
phong trào yêu nước gắn với những khuynh hướng chính trị khác nhau đã liên tục
diễn ra nhưng đều thất bại, nguyên nhân là do thiếu một đường lối cứu nước đúng
đắn, mục tiêu đấu tranh không rõ ràng, không tập hợp được lực lượng toàn dân,
sai lầm trong phương pháp đấu tranh và thiếu một tổ chức cách mạng lãnh đạo.
Yêu cầu bức thiết đặt ra là phải tìm một con đường cứu nước đúng đắn, con đường
đó phải giải quyết yêu cầu cơ bản của sự nghiệp cách mạng là giải phóng dân tộc
phải gắn liền với giải phóng giai cấp. Trải qua gần 10 năm tìm đường cứu nước
(1911 - 1920), nghiên cứu thực tiễn cách mạng ở các nước tư bản, các nước thuộc địa
trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc đi đến khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” (Hồ, 2011, 30),
“Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải
phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế

192
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

giới” (Hồ, 2002, 416). Người đã lựa chọn con đường cách mạng Việt Nam là cách
mạng vô sản, con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga.
2. YÊU CẦU CỦA SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ NHẬN THỨC
CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Sau khi lựa chọn con đường cứu nước - con đường cách mạng vô sản cho dân
tộc Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã có nhiều hoạt động khẩn trương, tích cực
và đầy sáng tạo đối với quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu tháng
2/1930. Ngay khi mới ra đời, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng chủ
trương “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản”, “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến” (Đảng Cộng sản Việt
Nam, 2002b, 2). Lần đầu tiên, ở Việt Nam có một đảng chính trị đề ra cương lĩnh
cách mạng và khoa học, bao quát được nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc với
những giá trị đích thực của độc lập dân tộc và điều hết sức quan trọng là xác định
được phương hướng tiến lên của dân tộc, giải quyết được cả yêu cầu phát triển của
dân tộc và của xã hội Việt Nam tức là xác định mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản của cách mạng Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp đấu tranh giành chính
quyền (1930-1945), Đảng luôn coi trọng việc tuyên truyền định hướng cách mạng
xã hội chủ nghĩa trong nhân dân. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-
1954), Đảng chủ trương vừa kháng chiến, vừa xây dựng chế độ dân chủ mới. Ở
những vùng căn cứ kháng chiến, hậu phương của ta, Đảng và Chính phủ đã bước
đầu thực hiện những nhiệm vụ cơ bản của chế độ mới, tạo cơ sở cho chủ nghĩa xã
hội như: Kiện toàn hệ thống chính quyền các cấp, chia ruộng đất công, ruộng đất
của tư nhân bỏ hoang cho nông dân, phát triển thương nghiệp quốc doanh, công
nghiệp quy mô lớn phục vụ kháng chiến…
Sau Hiệp định Geneve (7/1954), đất nước tạm thời bị chia cắt thành 2 miền với
2 chế độ chính trị khác nhau. Trong hoàn cảnh lịch sử mới, tháng 12/1957, tại Hội
nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương khóa II, Đảng nhận định: “Ta đang
đồng thời chấp hành hai chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2002c, 771-772).
Đến Đại hội lần thứ III của Đảng (9/1960), đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc bước đầu được hình thành, trong đó nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội
193
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

được xác định lúc này là: “đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên
chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc và củng cố miền Bắc thành
cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2002a, 558-559). Miền Bắc thực hiện nhiệm vụ xây dựng
chủ nghĩa xã hội trong điều kiện có chiến tranh, nên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
mang đặc điểm là chủ nghĩa xã hội thời chiến. Nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ thắng lợi của cách mạng cả nước,
“Xây dựng chủ nghĩa xã hội lúc này cũng là để đánh thắng Mỹ”.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước độc lập thống nhất, bước
vào thời kỳ mới, Đại hội lần thứ IV của Đảng (12/1976) nhận thức sâu sắc rằng cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một quá trình biến đổi cách mạng toàn diện,
liên tục, sâu sắc và triệt để. Đó là quá trình kết hợp cải tạo với xây dựng, mà xây
dựng là chủ yếu. Đó là quá trình xóa bỏ cái lạc hậu, phát huy cái tiến bộ, cải tạo cái
cũ, xây dựng cái mới… Đó là quá trình đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp và lâu
dài giữa con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa.
Trải qua 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước (1975 - 1985),
đất nước đã đạt được một số thành tựu quan trọng trong sản xuất nông nghiệp,
công nghiệp, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật. Tuy nhiên, đời sống nhân dân còn
nhiều khó khăn, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội gay gắt. Trên bình
diện quốc tế, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũng xuất hiện những
dấu hiệu khủng hoảng kinh tế - xã hội. Mỹ và các nước phương Tây thực hiện chính
sách thù địch, bao vây, cấm vận Việt Nam. Trước tình hình trên, yêu cầu đặt ra đối
với Đảng và nhân dân ta là phải làm gì và làm như thế nào để đưa đất nước thoát
ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội? Mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn là hoàn toàn đúng đắn, nhưng con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội đối với một nước lạc hậu như nước ta như thế nào cho phù hợp?
Với bản lĩnh cách mạng vững vàng, Đại hội VI (12/1986) - Đại hội mở đường cho
quá trình đổi mới ở Việt Nam tiếp tục khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng nước ta là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội xác định: “Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu
tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình
hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh

194
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo” (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 2006a, 376).
Để đảm bảo công cuộc đổi mới đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, Hội nghị
Trung ương 6 (3/1989) của Đảng xác định một trong những nguyên tắc cơ bản chỉ
đạo công cuộc đổi mới đó là “đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ
nghĩa, mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan
niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, những hình thức, bước đi và biện pháp thích
hợp” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006b, 664).
Sau 5 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đại hội VI, trước những diễn biến
hết sức phức tạp của tình hình thế giới: chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Liên
Xô sụp đổ, phong trào cộng sản quốc tế khủng hoảng sâu sắc, nhiều Đảng Cộng sản
đã từ bỏ lập trường giai cấp, các thế lực thù địch ráo riết tấn công chủ nghĩa Mác -
Lênin, Đại hội VII của Đảng (6/1991) vẫn khẳng định phải kiên trì con đường xã hội
chủ nghĩa, tập trung xây dựng và phát triển nền kinh tế theo cơ cấu kinh tế và cơ
cấu quản lý mới. Chuyển mạnh nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung, hành chính,
bao cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) được
thông qua tại Đại hội VII của Đảng (6/1991) nêu rõ: “Chủ nghĩa xã hội hiện đứng
trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh
co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội, vì đó là quy
luật tiến hóa của lịch sử”. Cương lĩnh cũng xác định “Mục tiêu tổng quát phải đạt
tới khi kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là xây dựng xong về cơ bản
những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và
tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa
phồn vinh” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2007, 133-136).
Với bản lĩnh vững vàng, kiên định, trước những biến động của thời cuộc, Đảng
và nhân dân ta trước sau vẫn trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, với con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội đã được lựa chọn theo tinh thần Cương lĩnh (2/1930).
Sau 15 năm đổi mới, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và đạt
được nhiều thành tựu quan trọng. Từ thực tiễn đó, Đại hội IX của Đảng (4/2001)

195
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

khẳng định: Đảng và nhân dân Việt Nam quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam
theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng
Hồ Chí Minh (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2015b, 129-130).
Đại hội XI của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Cương lĩnh xác định, đến
giữa thế kỷ XXI: “toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta
trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 2011, 71).
Đại hội XIII của Đảng xác định mục tiêu tổng quát “đến giữa thế kỷ XIX, nước
ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 2021a, 112).
3. NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ NHIỆM VỤ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, miền Bắc đi
lên chủ nghĩa xã hội. Ngay trong những ngày đầu tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc, Đại hội III của Đảng (9/1960) xác định những nhiệm vụ cơ bản trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta đó là: tiến hành cách mạng
xã hội chủ nghĩa về kinh tế; đồng thời phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa về
tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2002a, 548).
Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đại hội chỉ rõ: cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa tiến hành ở miền Bắc là một quá trình cải biến cách mạng về
mọi mặt. Đó là quá trình đấu tranh gay go giữa hai con đường tư bản chủ nghĩa và
xã hội chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá nhằm
đưa miền Bắc từ một nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất
tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ
nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và xây dựng xã hội chủ nghĩa về
kinh tế được xem là hai mặt của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về quan hệ sản
xuất, 2 mặt này có quan hệ mật thiết, tác động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau cùng
phát triển, trong đó quan hệ sản xuất cần đi trước một bước để mở đường. Đại hội
III chủ trương thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng một cách hợp lý.

196
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, trên cơ sở kế thừa tư tưởng của Đại
hội III, Đại hội IV của Đảng (12/1976) xác định nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội
trên cả nước là “tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản
xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách
mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa
là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ
làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa…” (Đảng Cộng
sản Việt Nam, 1977, 8-9). Như vậy, cơ bản các nhiệm vụ về phát triển kinh tế, khoa
học - kỹ thuật, tư tưởng văn hóa vẫn tiếp tục được chú trọng. Tuy nhiên, Đại hội IV
nhấn mạnh thêm nhiệm vụ xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới. Vấn đề xây
dựng con người mới xã hội chủ nghĩa lần đầu tiên được đề cập trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội cho thấy Đảng ta nhận thức sâu sắc vai
trò của nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở
kế thừa tư duy về cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đại hội III, kế hoạch 5 năm 1976-
1980 tập trung thực hiện những nhiệm vụ cơ bản: “Tập trung cao độ sức của cả
nước, các cấp tạo ra một bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp, xây dựng nhiều
cơ sở mới về công nghiệp nặng, hoàn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền
Nam, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, ra sức phát triển sự
nghiệp giáo dục, văn hóa, y tế…” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2004, 656).
Từ Đại hội III đến Đại IV, đẩy mạnh công nghiệp hóa, ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng, xóa bỏ kinh tế nhiều thành phần vẫn được xem là một trong những
nhiệm vụ cơ bản được Đảng xác định trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hạn chế này sẽ được khắc phục khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới.
Do điều kiện chiến tranh, mặt khác xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và
cả nước là việc làm hoàn toàn mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử nước ta, vì vậy
đã dẫn đến một số hạn chế nhất định trong việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, đưa
quy mô lên quá cao, xóa bỏ kinh tế nhiều thành phần. Tuy nhiên, nhìn chung, nhận
thức về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội từ Đại hội III đến Đại hội VI của Đảng
là những bước khởi đầu, phản ánh một giai đoạn nhận thức nhất định của Đảng đối

197
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhận thức ấy sẽ được từng bước bổ sung,
hoàn chỉnh ở những giai đoạn kế tiếp.
Đại hội V của Đảng (3/1982) xác định cách mạng nước ta đồng thời thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược: Một là, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; Hai là, sẵn
sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Về nhiệm vụ
xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội V (1980) đã có một số tư duy mới:
Một là, chặng đường trước mắt bao gồm những năm 1981-1985 và kéo dài đến
1990 có tầm quan trọng đặc biệt, nhiệm vụ bức thiết là tập trung sức phát triển nông
nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng,
tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng.
Hai là, trong một thời gian nhất định ở miền Nam còn tồn tại 5 thành phần
kinh tế.
Như vậy, có thể thấy rằng Đại hội V đã bước đầu khắc phục những sai lầm
trong nhận thức về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đại hội III và Đại hội
IV. Trước đó, ta chủ trương thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành
phần kinh tế, xóa bỏ kinh tế nhiều thành phần thì đến Đại hội V, trong nhận thức
của Đảng về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội xuất hiện tư duy mới thông qua
việc coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu và thừa nhận sự tồn tại của 5 thành phần
kinh tế ở miền Nam. Đây là sự chuyển biến mới trong nhận thức của Đảng về lãnh
đạo phát triển kinh tế đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là cơ sở
góp phần hình thành đường lối đổi mới toàn diện của Đại hội VI.
Bước vào thời kỳ đổi mới, đối với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại
hội VI (1986) xác định: “Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm
còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp
tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006a, 376).
Để đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng sâu sắc về kinh tế - xã hội, từ
thực tiễn các mô hình đổi mới ở cơ sở thông qua hiện tượng “khoán chui” (Vĩnh
Phúc, Hải Phòng), “Xé rào” (Long An, Dệt Thành công, Công ty lương thực thành
phố Hồ Chí Minh...) Đại hội VI đã đề ra đường lối toàn diện trong đó thừa nhận sự
tồn tại của các thành phần kinh tế, thực hiện chính sách sử dụng và cải tạo đúng

198
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

đắn các thành phần kinh tế khác ngoài kinh tế xã hội chủ nghĩa theo quan điểm của
Lênin “coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là đặc trưng của thời kỳ quá độ”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 1987, 56). Việc thực hiện chính sách phát triển nền kinh
tế có cơ cấu nhiều thành phần là kết quả của quá trình đổi mới nhận thức về nhiệm
vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng qua các kỳ Đại hội III, IV, V. Đối với nhiệm
vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa, các kỳ đại hội trước của Đảng đều xác định là căn bản
hoàn thành trong nhiệm kỳ song đều không thực hiện được. Nguyên nhân là do
nóng vội, chủ quan, làm trái quy luật. Đại hội VI đã sửa sai bằng nhận thức đúng
đắn, trong đó xác định: “đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường
xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những hình thức
và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất, luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản
xuất” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1987, 58).
Trên cơ sở những kết quả đạt được sau 5 năm thực hiện đường lối Đại hội VI,
Đại hội VII đã đề ra một số nhiệm vụ mới trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội cần tập trung giải quyết đó là:
- Ra sức đẩy mạnh sản xuất, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước.
- Hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới.
- Về thực hiện chính sách xã hội: coi mục tiêu và động lực chính của sự phát
triển là vì con người, do con người, trước hết là người lao động.
- Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh
quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
- Đổi mới cán bộ và công tác cán bộ.
- Thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở: Việt Nam muốn là bạn với các nước
trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển (Đảng Cộng
sản Việt Nam, 1991a, 147).
Nhằm khắc phục những quan điểm sai lầm của các kỳ Đại hội trước đây là
thường chủ trương sớm xóa bỏ kinh tế nhiều thành phần để xác lập chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất, phủ nhận sản xuất hàng hóa, Đại hội VII đã nêu quan điểm
199
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

mới, đảm bảo định hướng trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội đó
là: Thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa
dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước.
Vấn đề dân chủ xã hội chủ nghĩa lần đầu tiên được Đại hội VII đề cập trên quan
điểm “Thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị ở nước ta là xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ là quy luật hình thành, phát triển và tự
hoàn thiện của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa; nó vừa là một mục tiêu vừa là một
động lực của công cuộc đổi mới xã hội ta” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991a, 125).
Từ những nội dung trên, có thể thấy rằng Đại hội VII đã tiếp tục phát triển
nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta lên một bước mới, mang tính toàn
diện, gắn với con người, lấy con người làm trung tâm, động lực, mục tiêu của sự
phát triển.
Sau mười năm đổi mới, đất nước đã cơ bản hoàn thành những nhiệm vụ đề ra
cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ và chuyển sang thời kỳ phát triển mới -
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, do vậy, Đại hội VIII của Đảng (6/1996)
xác định mục tiêu, nhiệm vụ của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta đến năm
2020 là “Xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ
thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng
và an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 2015a, 366). Để thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, đi đôi với việc tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ mà Đại hội VII đã đề ra
như: Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; Tăng cường tiềm lực quốc phòng và
an ninh của đất nước; Mở rộng quan hệ đối ngoại, nhận thức của Đảng về nhiệm
vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đại hội VIII đã được tiếp tục phát triển, mang
tính toàn diện với các nội dung mới: Phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và
đào tạo; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Xây dựng đại
đoàn kết toàn dân tộc, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân; Cải cách bộ máy hành
chính Nhà nước và hoàn thiện nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Xây

200
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

dựng Đảng ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới. Vấn đề cải cách bộ máy hành chính
Nhà nước; Công tác xây dựng Đảng được Đảng hết sức quan tâm. Điều này phản
ánh tầm nhìn, sự phát triển về nhận thức của Đảng đối với nhiệm vụ xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong thời kỳ mới. Nhờ đó, bộ máy Nhà nước, vai trò lãnh đạo của
Đảng ngày càng được đổi mới, hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng,
góp phần to lớn vào những thắng lợi của sự nghiệp đổi mới.
Đại hội IX tiếp tục khẳng định nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một quy
mô mới và trình độ mới. Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, Đảng xác định hai lĩnh
vực trung tâm và then chốt: Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì
dân. Từ Đại hội IX, vấn đề hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ngày
càng được chú trọng bởi lẽ, Nhà nước là trung tâm của hệ thống trị, có vai trò quản
lý mọi mặt của đời sống xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân. Nhận thức của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân là thành tựu về lý luận quan trọng của Đảng trong việc
thực hiện nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trên tinh thần tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ mà Đại hội IX đã đề ra về hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Nâng cao chất lượng,
hiệu quả giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực;
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách
phát triển; Phát triển văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội; tăng cường quốc phòng
và an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đại hội X của
Đảng bổ sung, phát triển nhấn mạnh thêm một số nội dung nhiệm vụ mới đó là:
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; Mở
rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Đổi mới, chỉnh đốn
Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và chiến đấu của Đảng. Đây là lần đầu tiên Đảng
ta đề cập đến vai trò của kinh tế tri thức trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Nhiệm vụ mở rộng quan hệ đối ngoại cũng được nhận thức ở một tầm
nhìn mới trên tinh thần “chủ động” “tích cực”. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
được chú trọng thể hiện qua các nội dung cấp thiết trong việc kiện toàn và đổi mới
hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng.

201
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Đại hội XI của Đảng chủ trương tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ về xây dựng
chủ nghĩa xã hội mà các kỳ đại hội trước đó đã đề ra về kinh tế, xã hội, đối ngoại,
an ninh, quốc phòng… Tuy nhiên, trước những diễn biến phức tạp của tình hình
thế giới, khu vực và những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối
sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong mục tiêu tổng quát của
giai đoạn 2011 - 2015, Đại hội XI đã đặc biệt nhấn mạnh vấn đề nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Xây dựng Đảng thực sự mạnh cả về chính trị,
tư tưởng, tổ chức. Việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng được
xác định là “nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng
của nhân dân ta hiện nay” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 56).
Đại hội XII của Đảng bổ sung, phát triển các nhiệm vụ trọng tâm trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội đó là: Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn
biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ; xây dựng tổ chức bộ máy toàn hệ thống chính trị
tinh gọn, hoạt động hiệu quả; Nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng xuất lao động,
sức cạnh tranh của nền kinh tế; Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; Thu hút, phát huy
mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân; phát huy nhân tố con người
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội… Có thể nói Đảng ta ngày càng nhận thức
sâu sắc hơn về vai trò quyết định của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, vai trò
của nhân tố con người đối với thắng lợi của công cuộc đổi mới.
Sau 35 năm đổi mới, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, vì
vậy Đại hội XIII (2021) tiếp tục khẳng định mục tiêu: “phấn đấu đến giữa thế kỷ
XIX, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 2021b, 326). Để đạt được các mục tiêu này, những nhiệm vụ
trọng tâm trên các lĩnh vực được Đảng xác định trong nhiệm kỳ là: Tiếp tục đẩy
mạnh xây dựng chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh; Tập trung kiểm soát đại
dịch Covid-19; Giữ vững độc lập tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh;
Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; Hoàn thiện đồng
bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội

202
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa; Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; bảo vệ
môi trường; chủ động, tích cực triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí
hậu, thiên tai khắc nghiệt (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 334-337). Có thể thấy
rằng nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn được đặt lên hàng đầu cùng với
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị.
Nhiệm vụ bảo vệ tài nguyên, môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, thiên tai
khắc nghiệt là nhiệm vụ mới mẻ được bổ sung trở thành một trong nhiệm vụ trọng
tâm trong công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội toàn diện. Đại hội XIII
đánh dấu bước phát triển mới về nhận thức của Đảng đối với nhiệm vụ xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, tùy theo mỗi giai đoạn cách mạng, nhận thức của Đảng về nhiệm vụ
xây dựng chủ nghĩa xã hội có sự điều chỉnh, bổ sung phù hợp với điều kiện thực tiễn.
4. NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ PHƯƠNG HƯỚNG, BIỆN PHÁP XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Sau hiệp định Geneve (20/7/1954), miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và
bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Bước vào thời kỳ thực hiện nhiệm vụ
cách mạng mới đối với cách mạng miền Bắc, Đại hội III của Đảng (9/1960) xác định
những biện pháp để tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội là: 1) Sử dụng chính quyền
nhân dân làm nhiệm vụ của chuyên chính vô sản; 2) Thực hiện cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương
nghiệp tư bản tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh; 3) Thực hiện
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; 4)
Đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hoá và kỹ thuật.
Từ kinh nghiệm thực tiễn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, sau
ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước hòa bình thống nhất và bước vào
thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, Đại hội IV của Đảng tiếp
tục áp dụng những biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đại hội III vào quá
trình xây dựng chủ nghĩa trên phạm vi cả nước, đặc biệt việc tiến hành đồng thời 3
cuộc cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách

203
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt,
đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
Nhìn chung, thời kỳ trước đổi mới, Đảng coi đẩy mạnh công nghiệp hóa, phát
triển công nghiệp nặng là nhiệm vụ trung tâm trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế tức là xóa bỏ các
hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất; xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung, quan liêu bao cấp, với hai hình thức là sở hữu tập thể và toàn dân. Hai
kỳ đại hội Đại hội IV, Đại hội V của Đảng đều xác định nhiệm vụ căn bản hoàn
thành cải tạo xã hội chủ nghĩa song đều chưa thể thực hiện được.
Bước vào thời kỳ đổi mới, với tinh thần thẳng thắn nhìn nhận những hạn chế,
yếu kém của mô hình cũ, cách làm cũ và sẵn sàng sửa sai, Đại hội VI của Đảng
(12/1986) đã đề ra những phương hướng cơ bản của chính sách kinh tế, xã hội trong
đó có những biện pháp mạnh mẽ, dứt khoát đó là: 1) Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều
chỉnh lớn cơ cấu đầu tư: tập trung thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về
lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; 2) Có chính sách sử
dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế; 3) Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ
nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn có tác dụng thúc đẩy sự
phát triển của lực lượng sản xuất” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1987, 47-58).
Những chủ trương, giải pháp đúng đắn của Đại hội VI đã đem lại hiệu quả
thiết thực trong đời sống xã hội, từ năm 1989, Việt Nam đã giải quyết thành công
vấn đề lương thực và trở thành nước xuất khẩu gạo thứ ba thế giới, lạm phát được
kềm chế, chính trị xã hội ổn định, vượt qua thách thức do tác động của khủng hoảng
và sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu.
Những thành tựu mà Đảng và nhân dân ta trong những năm đầu thực hiện
đường lối đổi mới đã tiếp thêm sức mạnh trí tuệ, tinh thần để Đại hội VII của Đảng
(6/1991) tiếp tục thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, trong đó xác định bảy phương hướng cơ bản trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta.

204
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Một là, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng
lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm
chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động
xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng
hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung
tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không
ngừng nâng cao năng xuất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Ba là, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở
hữu. Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu
quả kinh tế là chủ yếu.
Bốn là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn
hóa làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí
chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống
văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa
nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm
giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao.
Chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân
tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa
xã hội.
Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt
trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu,
nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất
cả các nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với
các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

205
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Sáu là, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất
nước, nhân dân ta luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng.
Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức
ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991b, 9-11).
Trên cơ sở yêu cầu thực tiễn đất nước, Đại hội IX và X của Đảng tiếp tục bổ
sung một số vấn đề mới về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011) do Đại hội XI của Đảng thông qua đã xác định tám phương
hướng cơ bản sau đây:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển
kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người mới, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp
tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc,
tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh (Phạm & Nguyễn, 2011, 40-41).
Đại hội XII của Đảng (1/2016) nhấn mạnh các giải pháp nhằm sớm đưa nước
ta “cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” đó là: Phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế
gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng xuất, hiệu quả và sức cạnh
tranh; Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng và đô thị; Nâng cao chất lượng nguồn

206
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

nhân lực và tăng cường tiềm lực khoa học, công nghệ; Phát triển văn hóa, xã hội,
nâng cao đời sống nhân dân; Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống
thiên tai, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; Phòng, chống tham
nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
nhà nước và bảo đảm quyền tự do, dân chủ của người dân trong phát triển kinh tế
- xã hội đi đôi với tuân thủ luật pháp; Tăng cường quốc phòng, an ninh, kiên quyết,
kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc
gia và bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; Nâng cao hiệu quả hoạt
động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình và tạo
điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2015b, 273-
313). Đây là những giải pháp mang tính toàn diện, tổng thể, thể hiện tầm nhìn mới
của Đảng trong thời kỳ đổi mới và hội nhập sâu với thế giới.
Với thế và lực mới của một quốc gia đang trên đà phát triển và hội nhập sâu
với thế giới, Đại hội XIII của Đảng đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, Việt
Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình
cao và định hướng đến 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Mục tiêu ấy
được xây dựng trên cơ sở những thành tựu to lớn của 35 năm đổi mới đất nước
đồng thời cũng thể hiện tầm nhìn, khát vọng của Đảng và nhân dân ta trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 -
2030 do Đại hội XIII thông qua xác định các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội: Tập
trung hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội;
Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; Phát triển nguồn
nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư và hội nhập quốc tế; Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ cấu
lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; thúc đẩy tăng trưởng nhanh,
bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô. Phát triển kết cấu hạ tầng, kinh tế vùng,
kinh tế biển; Phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện đồng bộ và công bằng xã hội.
Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường và ứng
phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai; Củng cố, tăng cường
quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội; Kiên trì đấu
tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc

207
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

gia; Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế; Tiếp tục xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động;
đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí đồng bộ, hiện đại… (Đảng Cộng
sản Việt Nam, 2021b, 222-284).
Để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng khẳng định “tiếp
tục đổi mới tư duy; có quyết tâm chính trị cao… chủ động ứng phó kịp thời với mọi
tình huống; nỗ lực hơn nữa để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi
mới; không ngừng gia tăng tiềm lực mọi mặt của quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc và những thành quả phát triển đã đạt được; đưa đất nước vững bước tiến lên,
phát triển nhanh và bền vững” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 323). Nhờ không
ngừng bổ sung lý luận đổi mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội mà nhận thức của Đảng về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội không ngừng
được đổi mới, hoàn thiện phù hợp với xu thế vận động của thế giới và thực tiễn
cách mạng Việt Nam. Thành tựu về lý luận có ý nghĩa hết sức quan trọng góp phần
đưa đất nước ngày càng phát triển, có được “cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín” chưa
từng thấy sau 35 năm đổi mới.
Những thành tựu đạt được của Đảng và nhân dân ta trong sự nghiệp đổi mới
và xây dựng chủ nghĩa xã hội là không gì có thể phủ nhận được. Tuy nhiên, đồng
chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo
một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự
nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng
đích lâu dài, không thể nóng vội” (Nguyễn, 2022, 36).Vì vậy, cùng với việc luôn luôn
kiên định lập trường tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, “chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán
và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học
thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang
hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống” (Nguyễn,
2022, 37). Với tinh thần đó, nhận thức của Đảng về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa
xã hội sẽ tiếp tục ngày càng sáng tỏ hơn.

208
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1977). Phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu
của kế hoạch 5 năm 1976-1980. Sự thật.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1987). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991a). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII. Chính trị quốc gia.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991b). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sự thật.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2002a). Văn kiện Đảng Toàn tập (Vol. 21). Chính trị
quốc gia.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2004). Văn kiện Đảng Toàn tập (Vol. 37). Chính trị
quốc gia.
[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2006a). Văn kiện Đảng Toàn tập (Vol. 47). Chính trị
quốc gia.
[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2006b). Văn kiện Đảng Toàn tập (Vol. 49). Chính trị
quốc gia.
[9]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2007). Văn kiện Đảng Toàn tập (Vol. 51). Chính trị
quốc gia.
[10]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Chính trị quốc gia.
[11]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2015a). Văn kiện Đảng Toàn tập (Vol. 55). Chính trị
quốc gia.
[12]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2015b). Văn kiện Đảng Toàn tập (Vol. 60). Chính trị
quốc gia.
[13]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021a). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[14]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021b). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII (Vol. 2). Chính trị quốc gia Sự thật.

209
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

[15]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2002b). Văn kiện Đảng Toàn tập (Vol. 2). Chính trị
quốc gia.
[16]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2002c). Văn kiện Đảng Toàn tập (Vol. 18). Chính trị
quốc gia.
[17]. Hồ, C. M. (2002). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 1). Chính trị quốc gia.
[18]. Hồ, C. M. (2011). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 12). Chính trị quốc gia.
[19]. Nguyễn, P. T. (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính trị quốc gia - Sự thật.
[20]. Phạm, V. L., & Nguyễn, T. H. (2011). Những nội dung chủ yếu và mới trong các
văn kiện đại hội XI của Đảng. Chính trị quốc gia.

210
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI


VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII
Nguyễn Đình Hòa
Viện Triết học, Viện Hàn lâm Khoa Học Xã hội Việt Nam
Tác giả liên hệ: Nguyễn Đình Hòa, email: nguyendinhhoa.vth@gmail.com

Tóm tắt: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội hết sức sâu sắc, về phương diện
chính trị, đó là xã hội do “dân là chủ” và “dân làm chủ”, mọi quyền lực đều thuộc về
nhân dân; về phương diện kinh tế, đó là xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dân giàu
nước mạnh; về phương diện văn hóa, đó là xã hội có nền văn hóa tiên tiến, dân tộc và
đại chúng; về phương diện xã hội, đó là xã hội không có áp bức, bất công và bảo đảm
sự tiến bộ, công bằng xã hội; về phương diện môi trường, đó là xã hội có quan hệ hài
hòa giữa con người và tự nhiên. Trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
đặc biệt là trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã luôn kiên trì vận
dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội. Phát huy những kết quả đạt được trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội, Đại hội XIII của Đảng tin tưởng chúng ta nhất định sẽ lập nên thành
tựu phát triển mới vì một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, cùng tiến bước, sánh
vai với các cường quốc năm châu, thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ
Chí Minh vĩ đại và ước vọng của toàn dân tộc ta.
Từ khóa: Hồ Chí Minh; Việt Nam; chủ nghĩa xã hội.

1. MỞ ĐẦU
Là một nhà tư tưởng lớn của dân tộc Việt Nam, đồng thời là danh nhân văn
hóa của thế giới, Hồ Chí Minh đã có những tư tưởng rất sâu sắc và đúng đắn về chủ
nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những phác họa của Người
về xã hội tốt đẹp đó hết sức bình dị, dễ hiểu và gần gũi với đời thường mà người
dân ai ai cũng đều có thể cảm nhận được. Trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã luôn
kiên trì vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Với những thành tựu to lớn và

211
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

có ý nghĩa lịch sử mà Đảng và nhân dân ta đã đạt được, như Đại hội XIII của Đảng
khẳng định, “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như
ngày nay” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 25).
2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là “xã hội ngày càng tiến,
vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt...” (Hồ, 2011d, 438), là "... mọi người
được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do” (Hồ, 2011c, 593), là “... làm cho mọi người
dân được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến bộ” (Hồ, 2011f, 521), là “... tất cả mọi
người các dân tộc ngày càng ấm no, con cháu chúng ta ngày càng sung sướng” (Hồ,
2011d, 78). Tựu trung lại, “chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh”
(Hồ, 2011c, 390). Từ góc nhìn lý luận hình thái kinh tế - xã hội, chủ nghĩa xã hội
trong quan niệm của Hồ Chí Minh là xã hội cao hơn, tốt đẹp hơn so với chủ nghĩa
tư bản.
Thứ nhất, về phương diện kinh tế, chủ nghĩa xã hội là xã hội có nền kinh tế phát
triển cao.
Với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là xã hội có nền kinh tế phát triển cao, bảo
đảm và từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Muốn
phát triển nền kinh tế của đất nước, theo Hồ Chí Minh, cần nhanh chóng phát triển
lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất mới, có cơ chế quản lý kinh tế phù
hợp và hiệu quả. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh chủ
trương phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, đẩy mạnh ứng dụng khoa học
kỹ thuật, thực hiện công nghiệp hoá nhằm xây dựng nền tảng vật chất - kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội. Người cho rằng cần xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ kết
hợp với mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Như vậy, Hồ Chí Minh đã
xác định và xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa nhân tố bên trong và bên ngoài, giữa
nội lực và ngoại lực trong phát triển kinh tế nhằm từng bước xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, về phương diện chính trị, chủ nghĩa xã hội là xã hội do nhân dân làm
chủ, mọi quyền hành đều thuộc về nhân dân.
Với Hồ Chí Minh, “dân là chủ” và “dân làm chủ”, quyền lực của nhân dân là
tối cao và phải được thể hiện, thực thi trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trách
nhiệm xuyên suốt của Nhà nước là vì dân, là phục vụ nhân dân. Bởi vậy, Người chủ
212
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

trương phải thực hành dân chủ rộng rãi, coi đó là biện pháp quan trọng để tích cực
hóa và phát huy nhân tố con người: “Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động
viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên” (Hồ, 2011f, 376).
Nếu quần chúng tích cực phát huy quyền dân chủ, cán bộ thực sự tôn trọng và thực
hành dân chủ thì mọi công việc từ nhỏ đến lớn, từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức
tạp… đều sẽ được giải quyết một cách nhanh chóng, hiệu quả và do vậy, công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ thực sự là một “phong trào hiện thực” (C.Mác) và
càng sớm thành công, bởi nó thu hút sự tham gia tự giác với những hoạt động sáng
tạo của đông đảo quần chúng nhân dân.
Thứ ba, về phương diện văn hóa, chủ nghĩa xã hội là xã hội văn hóa cao.
Văn hoá là một khái niệm rộng, bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Hồ Chí Minh quan niệm văn hoá “là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt
cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu
cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” (Hồ, 2011a, 458). Với Hồ Chí Minh, văn
hoá có ý nghĩa vô cùng to lớn và giữ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, nó không chỉ
biểu hiện cốt cách của một dân tộc mà còn là động lực của sự phát triển kinh tế - xã
hội, là nhân tố nội sinh “soi đường cho quốc dân đi”. Với quan niệm như vậy, Người
đã yêu cầu phải làm cho văn hóa thấm sâu vào đời sống xã hội, phải xây dựng xã
hội ta trở thành một xã hội có văn hoá cao, đưa nền văn hoá của dân tộc ta lên ngang
tầm thời đại. Tất cả mọi người phải không ngừng gìn giữ và phát huy những giá trị
truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc; đồng thời, phải hấp thụ một cách có chọn
lọc và sáng tạo những giá trị tinh hoa của văn hoá nhân loại phù hợp với đất nước
và con người Việt Nam.
Hồ Chí Minh khẳng định phải xây dựng nền văn hóa tiên tiến, dân tộc và đại
chúng thấm đậm bản sắc Việt Nam. Để xây dựng nước ta thành một nước văn hoá
cao và có đời sống tươi vui, hạnh phúc, theo Người, bên cạnh việc phát triển giáo
dục, chúng ta phải cải tạo, xoá bỏ triệt để những cái không tốt, lạc hậu, lỗi thời trong
xã hội cũ; phải giải phóng con người khỏi những thành kiến cũ kỹ, tẩy rửa những
thói quen, phong tục, tập quán xấu... Đặc biệt, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn
đề bồi dưỡng và phát triển con người, yêu cầu tất cả mọi người phải ra sức học tập,
rèn luyện về mọi mặt: Tư tưởng, văn hoá, đạo đức, lối sống... Đối với cán bộ và đảng
viên, phải tích cực chống bệnh quan liêu, tham ô, hống hách, cậy quyền cậy thế,

213
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

chống chủ nghĩa cá nhân; phải trau dồi, bồi dưỡng đạo đức cách mạng. Tiếp cận xã
hội xã hội chủ nghĩa với tính cách xã hội tốt đẹp nhất từ phương diện đạo đức, Hồ Chí
Minh đặt đạo đức cách mạng là cái gốc tạo nên nhân cách của con người, là nền tảng
tinh thần của xã hội.
Thứ tư, về phương diện xã hội, chủ nghĩa xã hội là xã hội công bằng, tiến bộ.
Công bằng xã hội là một giá trị nhân văn mà nhân loại luôn hướng đến, là một
tiêu chí cơ bản để đánh giá sự tốt đẹp, sự tiến bộ của xã hội. Hồ Chí Minh coi tiến
bộ, công bằng xã hội là một trong những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ
nghĩa. Đó là “một xã hội không có chế độ người bóc lột người, một xã hội bình đẳng,
nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều thì hưởng nhiều,
làm ít hưởng ít, không làm không hưởng” (Hồ, 2000, 241). Theo Người, công bằng
và bình đẳng xã hội cho tất cả mọi người chỉ có thể có được trong chế độ xã hội mới
- chế độ xã hội chủ nghĩa. Chỉ dưới chế độ xã hội tốt đẹp ấy, nhân dân lao động mới
được hưởng ngày càng nhiều hơn, đầy đủ hơn sự công bằng và bình đẳng, mới vừa
“có nghĩa vụ, đồng thời có quyền lợi” (Hồ, 2011b, 264).
Chăm lo cho hạnh phúc con người biểu hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội.
Ngay trong thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở:
Vấn đề con người là hết sức quan trọng, nhà máy cũng cần có, nhưng cần hơn là
con người, là sự phấn khởi của quần chúng; bởi con người làm nên tất cả. Do đó,
Người yêu cầu Nhà nước phải xây dựng và thực thi một hệ thống chính sách xã hội
phù hợp, bảo đảm sự công bằng, sao cho người dân ai cũng được hưởng thành quả
phát triển kinh tế - xã hội, hướng tới mục tiêu giữ vững ổn định chính trị, xã hội của
đất nước, sự an toàn cho đời sống của mọi người dân. Đó chính là những biện pháp
quan trọng để thực hiện công bằng xã hội, phản ánh bản chất của xã hội xã hội chủ
nghĩa, trong đó con người được đặt vào vị trí trung tâm, là mục tiêu và động lực
phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ năm, về phương diện môi trường, chủ nghĩa xã hội là xã hội có quan hệ hài
hòa giữa con người và tự nhiên.
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội không chỉ có sự phát
triển cao về kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội, mà còn có mối quan hệ hài hòa
giữa con người với tự nhiên. Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên là quan hệ
hữu cơ, gắn bó chặt chẽ và mang tính cộng sinh, cùng tồn tại. Đó là cơ sở vững chắc

214
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

nhằm vừa duy trì cuộc sống của thế hệ hiện tại, vừa bảo đảm lợi ích lâu dài của thế
hệ tương lai, đồng thời xây dựng nước nhà ngày càng tươi đẹp.
Xuất phát từ những nhận thức sâu sắc về vai trò của môi trường đối với cuộc
sống con người và sự phát triển bền vững của đất nước, Hồ Chí Minh khẳng định
chúng ta cần nắm được quy luật của tự nhiên, “cần phải hiểu biết tự nhiên để buộc
tự nhiên phục vụ hạnh phúc loài người”. Đặc biệt, bên cạnh việc khai thác hợp lý
còn phải coi trọng bảo vệ, giữ gìn và tái tạo tài nguyên thiên nhiên. Người nhấn
mạnh: “… cần hết sức chú ý vấn đề bảo vệ rừng (…). Phá rừng thì dễ, nhưng gây
dựng lại rừng phải mất hàng chục năm. Phá rừng nhiều như vậy sẽ ảnh hưởng đến
khí hậu, ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống rất nhiều” (Hồ, 2011e). Theo Hồ Chí
Minh, tất cả mọi người trong xã hội cần phải có ý thức bảo vệ tài nguyên, môi
trường; đồng thời có những hành động thiết thực, phù hợp và hiệu quả. Có thể nói,
Hồ Chí Minh đã thể hiện sự vượt trước trong tư tưởng về xây dựng mối quan hệ hài
hòa giữa con người với tự nhiên. Nếu phải đến năm 1972 Hội nghị quốc tế về môi
trường lần đầu tiên mới được tổ chức tại Helsinki (Phần Lan), thì ngay từ năm 1959,
Hồ Chí Minh đã đưa ra một sáng kiến vĩ đại về thực hiện rộng rãi và thường xuyên
phong trào trồng cây, gây rừng đem lại những nguồn lợi to lớn về vật chất, tinh thần
cho xã hội và con người. Xét từ góc độ sinh thái học hiện đại cũng như quan điểm
phát triển bền vững, đó là một biểu hiện độc đáo và sinh động về hệ giá trị văn hoá
sinh thái nhân văn của dân tộc Việt Nam.
Tóm lại, bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú và tầm nhìn, trí tuệ uyên bác
của mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin soi
đường, Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản mới có thể giải phóng các dân tộc, đem lại cuộc sống tự do, ấm no
và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người. Có thể nói, so với quan điểm của các
nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về chủ nghĩa xã hội, sự bổ sung và sáng tạo quan trọng
nhất của Hồ Chí Minh là ở chỗ, Người đã gắn kết chặt chẽ cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân với cách mạng xã hội chủ nghĩa, gắn liền độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội; đồng thời, nhấn mạnh nhân tố con người (nhân dân) với tính cách chủ
thể, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của chủ nghĩa xã hội. Với Người, dân tộc độc
lập, dân sinh hạnh phúc và dân quyền tự do là những giá trị nổi bật, bao trùm nhất
mà chủ nghĩa xã hội mang lại cho tất thảy mọi người Việt Nam. Đó cũng là ước

215
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

nguyện cao cả, đồng thời là mục tiêu đấu tranh, phấn đấu trong suốt cuộc đời và sự
nghiệp của Hồ Chí Minh.
3. SỰ VẬN DỤNG SÁNG TẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG
VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII
Trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng, đặc biệt là từ khi tiến hành công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước (1986), Đảng ta đã từng bước xây dựng, phát triển
lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc
điểm và điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước. Sau 35 năm đổi mới, “lý luận về
đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội của Việt
Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa" (Đảng Cộng sản Việt
Nam, 2021, 103).
Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh rằng, những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 và 10 năm thực hiện
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển
năm 2011) đã khẳng định chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đã và đang nỗ lực phấn đấu xây dựng,
như Cương lĩnh năm 2011 chỉ rõ, là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện;
các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng
phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Có thể khẳng định rằng, những đặc trưng cơ bản đó của chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam được Đảng ta khái quát trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện lịch sử cụ thể của đất
nước, đồng thời bổ sung và hoàn thiện trên cơ sở tổng kết, đúc rút kinh nghiệm thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta qua từng giai đoạn.
Muốn có chủ nghĩa xã hội thì việc định hình, định dạng rõ những nét cơ bản của
xã hội xã hội chủ nghĩa là hết sức cần thiết. Bên cạnh đó, điều quan trọng không kém,

216
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

thậm chí có ý nghĩa quyết định sự thành bại là còn phải hình thành một hệ thống quan
điểm chỉ đạo mang tính nguyên tắc. So với Đại hội XII, một điểm mới nổi bật của Đại
hội XIII là trình bày rõ hệ thống quan điểm chỉ đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hệ quan điểm chỉ đạo này có ý nghĩa quan trọng,
chứa đựng những nội dung mới về nhận thức lý luận. Đó là: Thứ nhất, quan điểm về
kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi
mới của Đảng và các nguyên tắc xây dựng Đảng… Thứ hai, quan điểm về chiến lược
phát triển tổng thể của đất nước, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây
dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng,
an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Thứ ba, quan điểm về khơi dậy và phát huy mạnh
mẽ các động lực quan trọng và phát huy các nguồn lực để phát triển đất nước. Thứ tư,
quan điểm về tăng cường xây dựng Đảng gắn liền với xây dựng hệ thống chính trị.
Thứ năm, quan điểm về mục tiêu tổng quát giai đoạn 2021-2025 và những năm tiếp theo
là phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 109-111).
Xây dựng thành công một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là mục tiêu xuyên suốt, lâu dài của sự nghiệp
cách mạng nước ta do nhân dân tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Mục tiêu lâu dài đó được cụ thể hóa một cách phù hợp qua các kỳ đại hội
Đảng dựa trên bối cảnh thế giới, đặc biệt là những điều kiện lịch sử cụ thể và trình
độ phát triển của đất nước. Đại hội XIII của Đảng đã xác định mục tiêu cụ thể: Đến
năm 2025, là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua
mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, là nước đang phát triển, có công
nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, trở thành nuớc phát triển,
thu nhập cao (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 112).
Để hiện thực hóa những mục tiêu cụ thể, qua đó thực hiện từng bước vững
chắc mục tiêu tổng quát, lâu dài trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, theo
tinh thần Đại hội lần thứ XIII của Đảng cần tập trung thực hiện một số biện pháp
cơ bản sau:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng khoa học công
nghệ và đổi mới sáng tạo.

217
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Thực hiện công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa nhằm thúc đẩy nền kinh tế -
xã hội được các Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới xem như là phương thức phát triển
rút ngắn của đất nước trong bối cảnh mới, trước hết là phát triển lực lượng sản xuất.
Điểm mới trong quan điểm của Đảng tại Đại hội XIII là nhấn mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa phải dựa trên nền tảng những tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi
mới sáng tạo, tận dụng những cơ hội thuận lợi mà cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư mang lại để tạo sự phát triển có tính đột phá trên một số ngành, lĩnh vực.
Những nội dung cốt lõi là điều chỉnh, bổ sung, nâng cao chất lượng chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển nền kinh tế, các ngành, các lĩnh vực và các vùng phù hợp
với thực tiễn đất nước và trình độ phát triển khoa học, công nghệ hiện đại trên thế
giới. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng, làm chủ công nghệ hiện đại; nâng cao tiềm
lực khoa học và công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực của đất nước, đẩy mạnh
chuyển đổi số nền kinh tế quốc gia và phát triển kinh tế số; ưu tiên phát triển những
nghành công nghiệp công nghệ cao, thân thiện với môi trường và những ngành có
lợi thế. Phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới
theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh. Phát
triển hệ thống kết cấu hạ tầng; phát triển các ngành dịch vụ trên nền tảng ứng dụng
những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại. Thực hiện tốt chiến lược phát
triển bền vững (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 122-126).
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhất quán với đường lối về hoàn thiện thể chế phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa của Đại hội XII, Đại hội XIII của Đảng khẳng định tiếp
tục hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa nhằm mục đích “tạo môi trường thuận lợi để huy động,
phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh
doanh” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 114). Điều đó có nghĩa là, nước ta đã
chuyển sang phát triển mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa –
mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ. Đó là nền kinh tế thị
trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của
kinh tế thị trường, đồng thời có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Do vậy, hoàn thiện toàn
diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
không chỉ nhằm nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế và quản lý nhà nước đối với kinh
218
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

tế như Đại hội XII đã xác định, mà rộng hơn và căn bản hơn - còn là tiền đề, điều kiện
quan trọng để thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, xây dựng kết cấu hạ tầng…; trước hết là góp phần tháo gỡ
các điểm nghẽn đang cản trở sự phát triển kinh tế, giải phóng các nguồn lực phát
triển và sử dụng chúng một cách hiệu quả, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước nhanh và bền vững.
Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người,
nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
So với Đại hội XII, quan điểm của Đảng tại Đại hội XIII về phát triển con người
và xây dựng văn hóa thể hiện sự nhận thức mới trong quan hệ giữa văn hóa và con
người. Đại hội XII chủ trương: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Tại Đại hội XIII,
luận điểm trên có một số điều chỉnh, cụ thể là: “Phát triển con người toàn diện và xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người
Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo
vệ Tổ quốc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 115-116). Điểm mới ở đây là “phát triển
con người toàn diện” được đặt trước “xây dựng nền văn hóa”, điều này không đơn
giản chỉ là sự hoán đổi vị trí các thuật ngữ, mà nó thể hiện sự nhấn mạnh hơn đến
nhân tố con người với tính cách chủ thể, trung tâm của công cuộc đổi mới, phát triển
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Văn hóa là hết sức quan trọng, thậm chí
được xem như “giá đỡ”, “bệ phóng” cho sự phát triển; song văn hóa cũng là do con
người sáng tạo nên. Vì vậy, định hướng “phát triển con người toàn diện và xây dựng
nền văn hóa Việt Nam…” là hoàn toàn đúng đắn, hợp lý.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Đối với Việt Nam, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa luôn gắn liền, song hành với
xây dựng chủ nghĩa xã hội, đây là một trong những quy luật phát triển căn bản của
đất nước; vì thế, Đại hội XIII nhất quán với quan điểm của Đại hội XII coi bảo đảm
an ninh, quốc phòng là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên; khẳng định kiên quyết, kiên
trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững an
ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Song, trên cơ sở đánh giá tình hình thế

219
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

giới và trong nước, cũng như sự phát triển của khoa học - công nghệ hiện đại, Đảng
ta đã có những nhận thức mới về an ninh và quốc phòng, chủ trương nâng cao cảnh
giác, chủ động ứng phó từ sớm, từ xa với các yếu tố, các nguy cơ có thể đe dọa độc
lập, chủ quyền, an ninh và sự phát triển của đất nước trong bối cảnh mới. Đại hội XIII
đã bổ sung một số nội dung cụ thể mới, nhấn mạnh phải giữ vững “… an ninh con
người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương. Chủ động
ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý
kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố, nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh
đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch,
phản động và cơ hội chính trị” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 117).
Năm là thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa,
hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Đại hội XIII của Đảng đã đề ra định hướng trong lĩnh vực này là: “Tiếp tục
thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt
Nam” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 117-118). Như vậy, về cơ bản, Đại hội XIII
đã kế thừa và tiếp tục phát triển đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ đã được Đảng
khẳng định từ Đại hội XII nêu trên. Điểm mới trong Văn kiện Đại hội XIII là đã nhấn
mạnh các yêu cầu toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả trong việc chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế. Bởi lẽ, cho đến nay, sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt
Nam đã mở cửa và thiết lập các mối quan hệ quốc tế rộng lớn, toàn diện trên tất cả
các lĩnh vực, là thành viên có uy tín của Liên hợp quốc và nhiều tổ chức quốc tế; có
quan hệ ngoại giao với 188 quốc gia và vùng lãnh thổ, có quan hệ thương mại với
hơn 220 nền kinh tế trên toàn cầu… Trong bối cảnh như vậy, việc chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả vừa là yêu cầu phát triển mới về
chất trong quan hệ đối ngoại, vừa là điều kiện để chúng ta tranh thủ tốt nhất các
nguồn lực ngoại sinh phục vụ công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại.
Đại hội XIII của Đảng xác định: “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã
hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; phát huy sức mạnh

220
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng
thuận xã hội; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 118). So
với Đại hội XII, quan điểm của Đảng tại Đại hội XIII đã nhấn mạnh việc thực hành
và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của
nhân dân với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám
sát, dân thụ hưởng”. Đây là phương thức hết sức quan trọng, hiệu quả để khắc phục
tình trạng dân chủ hình thức hay vi phạm quyền làm chủ của nhân dân ở một số
nơi thời gian qua, đồng thời tạo động lực thúc đẩy sự chủ động, sáng tạo, tinh thần
dám nghĩ, dám làm của nhân dân; qua đó giải phóng những tiềm năng to lớn trong
nhân dân tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân.
Cùng với việc tiếp tục thực hiện các yêu cầu về xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh và tinh gọn, cũng như đẩy mạnh cuộc
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội
mà Đại hội XII đã nêu ra, Đại hội XIII đã bổ sung, nhấn mạnh một số nội dung cụ
thể, nổi bật được xã hội đặc biệt quan tâm trong thời gian qua. Ngoài các tiêu chí
trong sạch, vững mạnh và tinh gọn, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam còn phải bảo đảm những yêu cầu rất cao và khắt khe khác, đó là
“hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước.
Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn
với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công
chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí,
quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 118). Những
yêu cầu trên, một mặt, thể hiện những đặc tính cần có của một nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng, mặt khác, phản ánh những đòi hỏi đối
với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Thực tiễn 35 năm đổi mới của Việt Nam đã chứng tỏ nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa là hình thức tối ưu thực hiện quyền lực của nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.

221
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

So với Đại hội XII, định hướng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng của Đại
hội XIII vừa có sự kế thừa, tiếp tục thực hiện những nội dung cơ bản đã được Đại
hội XII đề ra, vừa có một số nội dung thể hiện nhận thức mới, toàn diện và đồng bộ
hơn của Đảng về nhiệm vụ hết sức quan trọng này. Ngoài những nội dung đã được
xác định trong Văn kiện Đại hội XII, như tăng cường bản chất giai cấp công nhân
của Đảng; đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng;
làm tốt công tác tư tưởng, lý luận; chú trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị
nội bộ…, Đại hội XIII đề ra nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện (cả về
chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ); không chỉ nâng cao năng lực lãnh
đạo, mà còn nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng; không chỉ xây dựng Đảng mà
cả hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả;
xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên… có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm
nhiệm vụ, nhất là đối với đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và người đứng đầu.
Cùng với việc nhấn mạnh tập trung vào các biện pháp trên, Đại hội XIII của
Đảng còn khẳng định: Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn: Quan
hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị;
giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa;
giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh
tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường;
giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ
và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ;
giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội” (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 2021, 119).
Như vậy, nếu Đại hội XII đưa ra 9 mối quan hệ lớn, thì tại Đại hội XIII, ngoài
việc tiếp tục khẳng định các mối quan hệ đó, Đảng ta đã bổ sung thêm một quan hệ
mới - quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.
Việc bổ sung mối quan hệ này là hoàn toàn cần thiết và phù hợp với yêu cầu của
thực tiễn, vừa bảo đảm quyền làm chủ của người dân, vừa giữ cho cho xã hội luôn
trong trạng thái ổn định, trật tự. Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy rằng, thực
hiện dân chủ luôn phải song hành, gắn liền với tăng cường pháp chế và bảo đảm
kỷ cương; tự do phải gắn với trách nhiệm, quyền hạn phải gắn với nghĩa vụ. Nếu

222
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

không giải quyết tốt mối quan hệ này, xã hội sẽ trở nên rối loạn, bất ổn, thậm chí
đứng trước nguy cơ suy yếu, đổ vỡ.
Bên cạnh đó, Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung yếu tố bảo vệ môi trường vào
mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội” (Đại hội XII) thành mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và
phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”. Với sự
bổ sung đó, quan điểm của Đảng đã thể hiện sự bao quát đầy đủ, toàn diện các trụ
cột của phát triển bền vững - một chiến lược phát triển đúng đắn hiện nay. Đó là
những điểm mới của Đại hội XIII trong định hướng về nhận thức và giải quyết các
mối quan hệ lớn giai đoạn 2021 - 2025 và tầm nhìn đến 2030.
4. KẾT LUẬN
Tựu trung lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hết sức đúng đắn, khoa học và có ý nghĩa phương
pháp luận sâu sắc. Những di sản lý luận quý báu đó của Người được Đảng Cộng
sản Việt Nam kế thừa, vận dụng và phát triển một cách sáng tạo. Những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà Đảng và nhân dân ta đạt được đã minh chứng giá trị
bền vững của tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời, khẳng định con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực
tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
(Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[2]. Hồ, C. M. (2000). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 11). Chính trị quốc gia.
[3]. Hồ, C. M. (2011a). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 3). Chính trị quốc gia.
[4]. Hồ, C. M. (2011b). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 8). Chính trị quốc gia.
[5]. Hồ, C. M. (2011c). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 10). Chính trị quốc gia.
[6]. Hồ, C. M. (2011d). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 13). Chính trị quốc gia Sự thật.
[7]. Hồ, C. M. (2011e). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 14). Chính trị quốc gia.
[8]. Hồ, C. M. (2011f). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 12). Chính trị quốc gia.
[9]. Hội đồng Lý luận Trung ương. (2021). Những điểm mới trong các văn kiện Đại
hội XIII của Đảng. Chính trị Quốc gia Sự thật.

223
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ SỰ KIÊN ĐỊNH, VẬN DỤNG, PHÁT TRIỂN
CỦA ĐẢNG TA TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
Phạm Văn Hòa
Học viện Chính trị khu vực III
Tác giả liên hệ: Phạm Văn Hòa, email: hoaphamhv3@gmail.com

Tóm tắt: Ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội do Hồ Chí Minh và
Đảng ta lựa chọn đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Dưới ngọn cờ đó, mang lại “cơ đồ, vị thế và uy tín”. Thế nhưng, các thế lực
thù địch, phản động với nhiều âm mưu, thủ đoạn vẫn liên tục xuyên tạc, phủ nhận
lãnh tụ Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam. Vì vậy, việc khẳng định
những kết quả, thành tựu và giá trị của con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội nhằm phản bác, chống lại các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc,
phủ nhận Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam trong tình hình mới là
rất cần thiết, nhằm “bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, củng cố và tăng
cường niềm tin khoa học vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Từ khóa: tư tưởng Hồ Chí Minh; độc lập dân tộc; chủ nghĩa xã hội; đổi mới đất nước.

1. ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LÀ QUY LUẬT
TẤT YẾU CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM - MỘT CỐNG HIẾN XUẤT SẮC CỦA
HỒ CHÍ MINH
Điếu văn của Ban chấp hành trung ương Đảng Lao động Việt Nam tại lễ truy
điệu trọng thể Chủ tịch Hồ Chí Minh (9/9/1969) viết: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông
đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã
làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta” (Hồ, 1996e, 516). Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã có nhiều đóng góp to lớn cho cách mạng Việt Nam, một trong số
cống hiến xuất sắc là tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây
là vấn đề cơ bản nhất xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống lý luận của Người, là sự
lựa chọn tất yếu của cách mạng Việt Nam trên con đường giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải phóng con người.

224
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Trước khi chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào Việt Nam thì các phong
trào yêu nước của các tầng lớp nhân dân ta trong những năm cuối thế kỷ XIX và
đầu thế kỷ XX diễn ra sôi nổi, liên tục, rộng khắp nhưng cuối cùng đều bị bất bại.
Nguyên nhân sâu xa dẫn tới thất bại là do khủng hoảng, bế tắc về đường lối và
phương pháp cứu nước. Vì vậy, mục tiêu và phương pháp đấu tranh của các phong
trào ấy không phản ánh đúng xu thế vận động của lịch sử trong thời đại mới. Câu
hỏi đặt ra cho cả dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ là: bằng con đường nào để cứu nước,
giải phóng dân tộc thoát khỏi ách thống trị của thực dân Pháp và bọn phong kiến
tay sai?
Trước cảnh đau thương, bế tắc của dân tộc và nhu cầu bức thiết của lịch sử,
thanh niên Nguyễn Tất Thành với lòng yêu nước thương dân vô hạn quyết định đi
ra thế giới bên ngoài để tìm đường cứu nước. Trong hành trình đó, Người đã đến
với “những đất tự do, các trời nô lệ” ở châu Á, châu Phi, châu Âu và châu Mỹ để
khảo sát tìm hiểu sự thật thế giới. Hòa vào thực tiễn đầy cam go, thử thách, Nguyễn
Ái Quốc chứng kiến sự thật của thế giới là: ở đâu thì chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa
thực dân cũng tàn bạo và vô nhân đạo như nhau. Và ở đâu giai cấp công nhân, nhân
dân các dân tộc thuộc địa cũng chịu nỗi thống khổ như nhau. Tìm hiểu các cuộc
cách mạng dân chủ tư sản Mỹ (1776); Pháp (1789), Nguyễn Ái Quốc tìm thấy tư
tưởng vĩ đại trong các bản tuyên ngôn của các cuộc cách mạng này. Nhưng Người
nhận ra tư tưởng “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” chỉ dừng lại ở khẩu hiệu, không bao
giờ được thực hiện trong thực tế đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Người đã hòa mình trong cuộc sống lao động và đấu tranh của giai cấp công nhân
ở các nước tư bản và phong trào giải phóng của các dân tộc bị áp bức. Từ nhận thức
sâu sắc về sự thật thế giới, từ khát vọng cháy bỏng giải phóng dân tộc Việt Nam
cộng với nhãn quan chính trị nhạy cảm và tư duy độc lập tự chủ, Nguyễn Ái Quốc
đã tìm đến với cách mạng tháng Mười Nga, đến với chủ nghĩa Lênin như một tất
yếu lịch sử.
Sau khi đọc “Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa” của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã chuyển biến vượt bậc về lập trường chính
trị, thấy “sáng tỏ hơn” về xu thế của thời đại và con đường mới của nhân loại. Đó
là con đường cách mạng vô sản. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” (Hồ, 1996b, 314).

225
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Như vậy, công lao to lớn đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đối với sự
nghiệp cách mạng Việt Nam là đã tìm ra con đường cứu nước mới phù hợp với quy
luật của Việt Nam và xu thế của thời đại. Đó là con đường tất yếu mà dân tộc ta
phải trải qua từ độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Từ đây, chấm dứt sự
khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm và đưa cách mạng Việt
Nam vào dòng chảy của thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội. Theo Người, cách mạng giải phóng dân tộc giành được thắng lợi triệt
để sẽ tạo điều kiện và là tiền đề mở đường cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách
mạng xã hội chủ nghĩa sẽ tạo ra nhân tố quan trọng củng cố và bảo vệ thành quả
của cách mạng giải phóng dân tộc và để tiến tới giải phóng triệt để con người. Hai
cuộc cách mạng này là một quá trình liên tục đan xen nhau, không có bức tường
thành ngăn cách. Đối với dân tộc thuộc địa như Việt Nam, cách mạng giải phóng
dân tộc muốn tạo ra tiền đề đi lên chủ nghĩa xã hội thì phải giải phóng dân tộc bằng
con đường cách mạng vô sản. Ngược lại, “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế
giới thoát khỏi ách nô lệ” (Hồ, 2011d, 128). Sau khi giành độc lập về chính trị phải
chăm lo cuộc sống ấm no và hạnh phúc của nhân dân. Hồ Chí minh khẳng định:
“Nước độc lập rồi mà dân cứ chết đói chết rét, thì độc lập tự do cũng không làm gì.
Dân chỉ biết rõ giá trị của độc lập tự do khi dân được ăn no, mặc đủ” (Hồ, 1996b, 15).
Theo đó, Người khẳng định dứt khoát: “Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát
triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”
(Hồ, 1996e, 305). Như vậy, theo Hồ Chí Minh, từ độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa
xã hội là tất yếu, là con đường phát triển liên tục của cách mạng Việt Nam trong
thời đại mới.
2. ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ĐƯA CÁCH
MẠNG VIỆT NAM ĐI TỪ THẮNG LỢI NÀY ĐẾN THẮNG LỢI KHÁC, ĐÃ
BÁC BỎ CÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta (2/1930), do Hồ Chí Minh khởi thảo đã xác
định: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để tiến
tới xã hội cộng sản” (Hồ, 1996a, 1). Đây là đường lối gắn liền độc lập dân tộc với
chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, thời kỳ này Việt Nam đang là một nước thuộc địa, cho
nên nhu cầu đi lên chủ nghĩa xã hội chưa trực tiếp đặt ra, mà trước hết là phải làm

226
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

cách mạng giải phóng dân tộc giành độc lập tự do. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội lúc này được thể hiện đậm nét nhất là việc giải quyết mối quan hệ giữa
dân tộc và giai cấp hướng theo và mục tiêu chủ nghĩa xã hội. Từ thực tiễn cụ thể
của Việt Nam, Đảng chủ trương nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, coi đó là nhiệm
vụ hàng đầu, vấn đề giai cấp phải phụ thuộc và nằm trong vấn đề dân tộc. Hội nghị
Trung ương lần thứ tám (5/1941) khẳng định: “Nếu không giải quyết được vấn đề
dân tộc, không đòi được độc lập tự do cho cả dân tộc, thì chẳng những toàn thể dân
tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm
cũng không đòi lại được” (Đảng cộng sản Việt Nam, 2000, 113). Và như vậy “chính
lập trường và lợi ích của giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết phải giải phóng dân
tộc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991, 128). Từ đó, Đảng ta chủ trương vừa tiến hành
giảm tô, giảm tức vừa xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng lực lượng
chính trị và lực lượng vũ trang đưa tới thắng lợi vĩ đại của cách mạng tháng Tám
năm 1945.
Cách mạng tháng Tám thành công, vấn đề “tư sản dân quyền” đã được giải
quyết, lẽ ra sau đó Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng
thực dân Pháp cố tình đặt lại ách thống trị bằng một cuộc chiến tranh xâm lược. Vấn
đề độc lập dân tộc lại được đặt ra cấp thiết. Trong khi khẳng định cách mạng Việt
Nam lúc này vẫn là cách mạng dân tộc giải phóng, Đảng ta chủ trương kết hợp độc
lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước. Đường
lối vừa kháng chiến vừa kiến quốc; tiến hành kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu
dài, dựa vào sức mình là chính; xây dựng hậu phương, vùng tự do, vùng căn cứ,
vùng sau lưng địch; đẩy mạnh sản xuất “tấc đất tấc vàng”; phát động phong trào
bình dân học vụ để xóa nạn mù chữ, tiến hành cải cách ruộng đất trong kháng
chiến… chính là sự kết hợp giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong những
năm kháng chiến chống thực dân Pháp.
Năm 1954, khi cuộc kháng chiến thắng lợi, miền Bắc được giải phóng có nhu
cầu đi lên chủ nghĩa xã hội; miền Nam vẫn bị kẻ thù chiếm đóng. Căn cứ vào nhu
cầu của thực tiễn, Đảng ta chủ trương hai miền tiến hành đồng thời hai chiến lược
cách mạng. Cách mạng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam. Đây là chủ trương sáng tạo đặc biệt của Đảng và
Hồ Chí Minh về kết hợp giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà thời điểm lúc

227
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

bấy giờ trên thế giới chưa có tiền lệ. Thực tiễn những năm kháng chiến chống Mỹ
cho thấy: cách mạng giải phóng miền Nam vừa trực tiếp đánh Mỹ, vừa góp phần
bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
vừa nhằm ổn định, nâng cao đời sống nhân dân, vừa chiến đấu tự bảo vệ; vừa là
căn cứ địa và hậu phương vững chắc cho miền Nam. Tính ưu việt của chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc là một nhân tố tạo nên thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.
Cách mạng Việt Nam bao gồm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam
và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc do Đảng ta lãnh đạo chính là thắng lợi
của việc giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời điểm
lịch sử đặc biệt. Thực tiễn ấy khẳng định rằng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng.
Năm 1986, Đảng ta tiến hành đổi mới toàn diện đất nước, đưa đất nước bước
vào thời kỳ mới - thời kỳ thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Về xây dựng đất nước, Đảng chủ trương quyết tâm
xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ: “Trong quá trình đổi mới phải
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006, 124).
Cho nên đổi mới toàn diện nhưng không thay đổi mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà đổi
mới tư duy về chủ nghĩa xã hội; đổi mới về hình thức, bước đi, phương pháp, biện
pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội cho phù hợp với thực tiễn đất nước. Đổi mới là xây
dựng một xã hội thực sự do nhân dân làm chủ; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phát triển lực lượng sản xuất; phát triển nền văn hóa mới; không ngừng nâng
cao đời sống nhân dân, từng bước xóa bỏ bóc lột, bất công; xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc; chăm lo công tác xây dựng Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân
dân; mở rộng quan hệ hợp tác và chủ động hội nhập quốc tế… Về bảo vệ Tổ quốc,
Đảng ta chủ trương vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa bảo vệ đất nước. Nâng cao
cảnh giác, kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh; giữa hợp tác và đấu tranh;
giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại… sẵn sàng đập tan mọi sự chống phá
của kẻ thù bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, hải đảo, biên giới, thềm
lục địa. Đặc biệt, là sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động với những âm

228
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi đã xuyên tạc, phủ nhận con đường độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội.
3. TIẾP TỤC GIƯƠNG CAO NGỌN CỜ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG TÌNH HÌNH MỚI
- Văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Kiên định và vận
dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng
để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt
Nam, 2021, 27). Đây là định hướng thể hiện rất rõ quan điểm, đường lối của Đảng
ta về con đường đi đổi mới, phát triển đất nước.
- Kiên định với con đường mà Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn đó là độc
lập dân tộc không tách rời chủ nghĩa xã hội. Vấn đề này phải được quán triệt và
cụ thể hóa trong đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước. Trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng quan hệ đối ngoại hợp
tác quốc tế phải luôn luôn lấy độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội làm cốt lõi, đồng
thời phải tuyên truyền sâu rộng biến thành nhận thức sâu sắc đối với cán bộ, đảng
viên và nhân dân. Từ suy nghĩ đến việc làm của cộng đồng, của từng người đều
nhằm phục vụ cho mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay vấn đề dân
tộc vẫn phải giải quyết theo lập trường giai cấp công nhân và xây dựng chủ nghĩa
xã hội phải xuất phát từ đặc điểm dân tộc. Lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp phải
thống nhất và gắn chặt với nhau. Tán thành mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ văn minh, đồng thời cũng phải tán thành định hướng xã hội
chủ nghĩa.
- Quán triệt chủ trương lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của cả sự nghiệp
cách mạng. Xa rời nền tảng này thì không thể bảo vệ vững chắc độc lập thống nhất
của Tổ quốc cũng như xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trung
thành với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh phải đi liền với việc vận
dụng sáng tạo trong thực tiễn để xác định đúng chủ trương, biện pháp, hình thức,
xây dựng đất nước và bảo vệ đất nước trong điều kiện mới. Đề cao cảnh giác, kiên
quyết chống lại mọi sự xuyên tạc, chống phá của kẻ thù đối với chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
229
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

- Tăng cường công tác xây dựng Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể
nhân dân. Không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
vai trò tổ chức điều hành quản lý của Nhà nước. Phải làm trong sạch bộ máy của
Đảng và Nhà nước: không đặc quyền, đặc lợi; không tham nhũng, lãng phí và
quan liêu. Kiên quyết đấu tranh quét sạch chủ nghĩa cá nhân, đẩy lùi hiện tượng
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống và nhân cách của một bộ phận
không nhỏ cán bộ và đảng viên hiện nay. Phải làm cho Đảng ta thật sự là đạo đức,
là văn minh xứng đáng là đội ngũ tiên phong của giai cấp công nhân và của cả
dân tộc.
- Chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; mở rộng quan hệ và hợp
tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Phát huy chủ nghĩa yêu
nước, khơi dậy ý thức dân tộc của tất cả các giai cấp, tầng lớp, các thành phần kinh
tế ở trong nước và cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài cùng thống
nhất ý chí và hành động xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vững mạnh.
4. KẾT LUẬN
Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một sáng tạo độc
đáo, cống hiến xuất sắc của Hồ Chí Minh cho cách mạng nước ta. Hơn 90 năm qua,
từ khi ra đời đến nay, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân giành được những thắng lợi
to lớn có ý nghĩa lịch sử. Chính những thành tựu to lớn đó, là minh chứng hùng
hồn, là hiện thực sinh động bác bỏ, chống lại các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận con
đường cách mạng Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh. Thực tiễn cách mạng Việt
Nam đã khẳng định giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhằm góp phần thực hiện điều mong muốn cuối cùng
của Người là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt
Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng
vào sự nghiệp cách mạng thế giới” (Hồ, 1996e, 500).

230
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Ban Chấp hành Trung ương. (2018). Nghị quyết của Bộ Chính trị Về tăng cường
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù
địch trong tình hình mới (No. 35-NQ/TW).
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII.
Chính trị quốc gia.
[3]. Đảng cộng sản Việt Nam. (2000). Văn kiện kiện Đảng toàn tập (Vol. 7). Chính trị
quốc gia.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
Chính trị quốc gia.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
(Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[6]. Hồ, C. M. (1996a). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 3). Chính trị quốc gia.
[7]. Hồ, C. M. (1996b). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 4). Chính trị quốc gia.
[8]. Hồ, C. M. (1996c). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 9). Chính trị quốc gia.
[9]. Hồ, C. M. (1996d). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 10). Chính trị quốc gia.
[10]. Hồ, C. M. (1996e). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 12). Chính trị quốc gia.

231
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI


CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ SỰ VẬN DỤNG SÁNG TẠO
CỦA ĐẢNG TA VÀO THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Nguyễn Thị Hương
Trường Đại học Nguyễn Huệ
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Hương, email: huongtrang0502@gmail.com

Tóm tắt: Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời, lần
đầu tiên những nghiên cứu về lịch sử xã hội được trình bày một cách khoa học trên
cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng. Một trong những nội dung quan trọng của
học thuyết là lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, vấn đề có ý nghĩa
cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn là nhận thức và làm sáng tỏ những tư tưởng cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sự vận
dụng sáng tạo của Đảng ta vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Qua đó góp phần
tích cực trong việc đấu tranh, bảo vệ và phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Từ khóa: Hình thái kinh tế - xã hội; thời kỳ quá độ; chủ nghĩa Mác - Lênin; chủ nghĩa xã
hội; Đảng Cộng sản Việt Nam.

1. MỞ ĐẦU
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời, lần đầu
tiên những nghiên cứu về lịch sử xã hội được trình bày một cách khoa học trên cơ
sở thế giới quan duy vật biện chứng. Một trong những nội dung quan trọng của
học thuyết là lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là hệ thống những
quan điểm, sâu sắc toàn diện trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, cơ sở để các
Đảng Cộng sản lãnh đạo quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Hệ thống lý luận đó đã
được Mác - Ăngghen vạch ra những nét cơ bản và Lênin đã tiếp thu, bảo vệ, vận
dụng và phát triển sáng tạo trong điều kiện lịch sử mới, khi chủ nghĩa tư bản đã
trở thành chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa xã hội trở thành hiện thực ở nước Nga.
Hiện nay, lợi dụng sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội hiện thực ở các nước Đông Âu
và Liên Xô, các thế lực phản động, các học giả tư sản ra sức tập trung chống phá,
232
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và lý luận về thời kỳ quá độ
nói riêng. Họ cho rằng lý luận về hình thái kinh tế - xã hội, về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội đã mất ý nghĩa không thể áp dụng vào thế giới hiện đại, rằng chủ
nghĩa xã hội hiện thực là sự nhầm lẫn của lịch sử, do vậy lý luận này đã lỗi thời,
không còn giá trị. Đồng thời, sau sự kiện đó không ít người hoài nghi lý luận thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, họ coi đó là sự cáo chung của lý luận Mácxít về chủ
nghĩa xã hội nói chung và về lý luận hình thái kinh tế - xã hội nói riêng, từ đó đi
đến phủ nhận bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Ở nước
ta sau hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện do Đảng ta khởi xướng
và lãnh đạo, đã thu được những thành tựu hết sức to lớn trên nhiều lĩnh vực. Tuy
nhiên, hiện nay “dù đạt được những thành tựu rất quan trọng, rất tự hào, nhưng
đất nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức và hạn chế (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 2021, 31). Do đó, vấn đề đặt lên hàng đầu là phải tích cực, chủ động
tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng
bộ hơn, phát triển nhanh và bền vững hơn. Thực tiễn đó đòi hỏi chúng ta phải nhận
thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
của chủ nghĩa Mác - Lênin, để đề ra đường lối chiến lược sách lược đúng đắn cho
tiến trình cách mạng nước ta.
2. NỘI DUNG
2.1. Quan điểm Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Trong quá trình hoạt động thực tiễn phong phú, sôi động của mình, Mác -
Ăngghen đã áp dụng triệt để phép biện chứng duy vật vào nghiên cứu xã hội và
đã hình thành những tư tưởng hết sức cơ bản về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Mác và Ăngghen không những phân chia lịch sử phát triển của xã hội loài
người qua các hình thái kinh tế - xã hội, mà còn phân chia mỗi hình thái kinh tế -
xã hội thành các giai đoạn phát triển nhất định. Theo Mác, mỗi hình thái kinh tế -
xã hội đều có tính chất quá độ và tính chất lịch sử. Bằng cách phân tích khoa học
quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ
nghĩa và những vấn đề gắn liền với các giai đoạn của quá trình ấy, các ông đã chứng
minh chủ nghĩa tư bản tất yếu phải nhường chỗ cho chủ nghĩa cộng sản, đó là một
quá trình lịch sử tự nhiên. Mác và Ăngghen đã nhìn thấy xã hội mới phải trải qua
nhiều giai đoạn, nhiều thời kỳ trên con đường đi tới xã hội cộng sản chủ nghĩa.

233
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, Mác và Ăngghen đã nói rõ tính khách
quan sự vận động phát triển của lịch sử xã hội loài người tất yếu sẽ đi lên chủ nghĩa
cộng sản, các ông gọi chủ nghĩa cộng sản là một trào lưu hiện thực. Trong tác phẩm
“Phê phán Cương lĩnh Gôta” Mác đã đưa ra định nghĩa kinh điển về thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Mác viết: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản
chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng
với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không
phải là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản” (C.Mác
và Ph.Ăngghen, 1995a, 47). Thời kỳ quá độ “là xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư
bản chủ nghĩa do đó là một xã hội, về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần
còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra” ( C.Mác và
Ph.Ăngghen, 1995a, 33), đó là xã hội còn chưa phát triển trên cơ sở của chính nó.
Mác - Ăngghen đã nêu tư tưởng về hai giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản, giai đoạn
thấp là xã hội - xã hội chủ nghĩa, xã hội vừa thoát thai từ xã hội cũ, trong xã hội ấy
tất yếu còn đấu tranh giai cấp và vì vậy còn cần đến nhà nước của giai cấp vô sản,
nó tồn tại đến khi xây dựng xong cơ sở vật chất cho chủ nghĩa cộng sản. Giai đoạn
cao là chủ nghĩa cộng sản, xã hội không còn phân biệt giữa lao động trí óc và lao
động chân tay, làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu. Như vậy, thời kỳ quá độ là
thời kỳ sinh đẻ lâu dài và đau đớn để loại bỏ dần cái cũ, xây dựng và củng cố dần
những cái mới, là thời kỳ tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần để hình thành
một xã hội mới cao hơn xã hội tư bản.
Trong điều kiện mới, chủ nghĩa tư bản phát triển thành chủ nghĩa đế quốc,
cách mạng xã hội chủ nghĩa đã trở thành vấn đề trực tiếp, Lênin đã kế thừa và phát
triển tư tưởng của Mác và Ăngghen về phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội, về thời
kỳ quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội. Ông đã đề cập đến
khả năng giành thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một số nước, kể cả
những nước tư bản phát triển trung bình, thậm chí còn lạc hậu nhiều mặt. Cuộc
Cách mạng tháng Mười Nga (1917), cùng với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước Nga đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu về lý luận và thực tiễn
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, làm cho lý luận đó ngày càng sáng tỏ hơn.
Trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” Lênin đã phân chia hình thái kinh tế -
xã hội cộng sản chủ nghĩa qua ba giai đoạn: Giai đoạn một: “những cơn đau đẻ kéo

234
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

dài”, gọi là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Giai đoạn hai: “giai đoạn đầu của
xã hội cộng sản chủ nghĩa”, gọi là chủ nghĩa xã hội; Giai đoạn ba: “giai đoạn cao
của xã hội cộng sản chủ nghĩa” gọi là chủ nghĩa cộng sản. Qua sự phân kỳ của
Lênin, thời kỳ quá độ có vị trí độc lập tương đối, không nằm trong giai đoạn đầu
của xã hội cộng sản chủ nghĩa, nhận thức như vậy thì mới xác định được vị trí,
phạm vi, đặc điểm, tính chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa
Mác - Lênin còn chỉ rõ: “Những thời kỳ của lịch sử xã hội cũng giống như những
thời kỳ của lịch sử trái đất đều không có ranh giới trừu tượng nào thật rành mạch
cả” ( C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995, 537). Hoặc “dĩ nhiên là những cách phân giới
hạn đó, cũng giống như những cách phân giới hạn trong giới tự nhiên hoặc trong
xã hội, đều chỉ có tính chất quy ước và không cố định, đều là tương đối chứ không
phải là tuyệt đối” (Lênin, 1978a, 175). Qua đó ta thấy được tư tưởng biện chứng của
Mác-Ăngghen và Lênin, khi nhận biết được vị trí, giới hạn của thời kỳ quá độ, thì
ngay trong vị trí, giới hạn đó còn hàm chứa cả những đặc điểm, nội dung của thời
kỳ quá độ và còn của cả giai đoạn xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin là thời kỳ chuyển biến cách mạng từ xã hội cũ sang xã hội mới xã hội
xã hội chủ nghĩa, được bắt đầu khi giai cấp vô sản giành chính quyền, thiết lập
chuyên chính vô sản và kết thúc khi xây dựng xong cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội.
Trong thời kỳ quá độ, theo quan điểm của Mác - Ăngghen, chính quyền tư bản
chủ nghĩa đã bị đánh bại nhưng chế độ tư hữu vẫn còn tồn tại, việc cải tạo và đi đến
xoá bỏ nó phải tiến hành dần dần, đó là quá trình mà giai cấp vô sản phải tạo ra được
khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết, thì lúc đó mới xoá bỏ được chế độ tư hữu. Về
quan hệ phân phối còn chưa thể bình đẳng. Tóm lại, trong thời kỳ quá độ không riêng
gì lĩnh vực kinh tế mà các lĩnh vực khác của đời sống xã hội còn mang những tàn dư,
dấu vết của xã hội cũ chưa thể xoá bỏ ngay lập tức. Trong thời kỳ quá độ còn nhà nước,
còn giai cấp và tất yếu còn đấu tranh giai cấp.
Kế thừa quan điểm của Mác - Ăngghen, Lênin đã chỉ ra đặc điểm của thời kỳ
quá độ là: sự cùng tồn tại, vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau của những yếu tố,
thuộc tính của cả xã hội cũ và xã hội mới, là thời kỳ đan xen, thâm nhập vào nhau
giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, là thời kỳ mà cái cũ còn tồn tại và thậm

235
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

chí còn phát triển lấn áp những mầm mống của cái mới. Thời kỳ quá độ còn là thời
kỳ lâu dài khó khăn, phức tạp, để vượt qua những khó khăn phức tạp ấy giai cấp vô
sản phải sẵn sàng đón đợi và phải trải qua nhiều lần thử nghiệm, vừa làm vừa rút
kinh nghiệm, có như vậy mới tìm ra được hướng đi đúng đắn, hiệu quả. Theo Lênin:
“Thời kỳ đó không thể không bao gồm những đặc điểm hoặc đặc trưng của cả hai
kết cấu kinh tế xã hội ấy. Gọi là thời kỳ quá độ ấy không thể nào lại không phải là
thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang giãy chết và chủ nghĩa cộng sản đang
phát sinh, hay nói một cách khác, giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa
bị tiêu diệt hẳn và chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh nhưng vẫn còn rất non yếu”
(Lênin, 1978a, 309 - 310). Người còn chỉ rõ: về phương diện kinh tế, thời kỳ quá độ
tồn tại những thành phần, những bộ phận của cả chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã
hội, các thành phần kinh tế cùng tồn tại đan xen, thâm nhập lẫn nhau, vừa hợp tác,
vừa đấu tranh với nhau; về chính trị - xã hội đây là thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa
tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt tận gốc, chủ nghĩa xã hội đã phát sinh
nhưng còn non yếu, do đó nhất thiết phải thiết lập chuyên chính vô sản, củng cố nền
dân chủ của nhân dân; thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại cơ cấu giai cấp
xã hội phức tạp, với các giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau mà lợi ích cơ bản của
họ khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Mặt khác, trong thời kỳ quá độ các thế lực phản
động bên ngoài luôn luôn tìm cách móc nối phá hoại công cuộc cải tạo và xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, thời kỳ quá độ là thời kỳ đấu tranh giai cấp, dân tộc diễn
ra gay go phức tạp, nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ diễn
ra trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội, quốc phòng - an ninh…
với nhiều hình thức phong phú, đa dạng.
Trong điều kiện lịch sử mới, sau Cách mạng tháng Mười vĩ đại, Lênin khẳng
định: “Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể
tiến lên tới chế độ Xô viết, và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ
nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” (Lênin,
1978b, 295). Lênin đã đưa ra quan điểm hai hình thức quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
đó là quá độ trực tiếp và quá độ gián tiếp. Theo Lênin, những nước chủ nghĩa tư bản
phát triển cao, giai cấp công nhân đã trưởng thành mới có đủ những tiền đề xã hội,
kinh tế và chính trị cho sự chuyển tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Còn những nước lạc hậu
chỉ có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bằng quá độ gián tiếp, điều kiện để quá độ gián

236
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

tiếp. C. Mác cũng chỉ ra, khi một số nước tư bản chủ nghĩa ở châu Âu có trình độ
công nghiệp khác nhau tác động qua lại, thì mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất ở nước có trình độ thấp vẫn có thể gây xung đột chính trị gay gắt,
khiến cho cách mạng vô sản sớm nổ ra. Khi quan tâm đến tình hình nước Nga Sa
hoàng đương thời, C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng, không chỉ nước tư bản chủ
nghĩa tiên tiến phương Tây có thể làm cách mạng vô sản thành công rồi bước vào
thời kỳ quá độ, mà nước Nga và các nước tiền tư bản chủ nghĩa nói chung cũng có
thể thực hiện điều đó. Điều kiện quan trọng ở đây là, các nước này được nước
phương Tây phối hợp cùng làm cách mạng vô sản thành công, tiếp tục giúp đỡ về
vật chất khi bước vào thời kỳ quá độ. Lúc ấy nước phương Tây thực hiện thời kỳ quá
độ trực tiếp. Nước được giúp đỡ “không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa”, “rút ngắn tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội”, có nghĩa là rút ngắn chính
lịch trình vận động, phát triển của xã hội tư bản chủ nghĩa. Nhưng nó vẫn phải thực
hiện thời kỳ quá độ từ tiền đề vật chất không tự tạo ra ở bên trong, mà được giúp đỡ
từ bên ngoài.
Tóm lại, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu
sắc, toàn diện trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, nhằm cải tạo xã hội cũ, tạo ra
những tiền đề vật chất, tinh thần của xã hội mới, xã hội - xã hội chủ nghĩa. Đó là
quá trình đấu tranh để giải quyết vấn đề ai thắng ai giữa chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa xã hội, mọi biểu hiện chủ quan duy ý chí, nôn nóng hoặc trì trệ bảo thủ, thụ
động đều gây hậu quả tiêu cực, ngăn cản quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội.
2.2. Đảng ta vận dụng sáng tạo lý luận thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ
nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Lý luận thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác - Lênin đề cập đến một cách sâu sắc toàn diện trong học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội. Trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận đó vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng ta khẳng định: độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau - đó là quy luật phát triển của cách
mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối của Đảng. Quá trình vận
dụng sáng tạo và bổ sung, phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
thể hiện trong từng giai đoạn với các nhận thức nhất định và ngày càng rõ hơn.

237
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Thứ nhất, về tính chất lâu dài, khó khăn và phức tạp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh xác định rõ con đường cách mạng của nước ta là “làm tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” (Lênin, 1978c, 197). Đối với
nhiệm vụ tiến lên xã hội cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, do điều kiện
đặc thù của nước ta nên “tiến lên chủ nghĩa xã hội, không thể một sớm một chiều”,
mà cần thực hiện từng bước trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên,
sau hòa bình lập lại ở miền Bắc (1954), do chủ quan, duy ý chí và mong muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội một cách nhanh chóng ở miền Bắc, Hội nghị Trung ương 13
khóa II (12/1957), đã nhấn mạnh quan điểm quá độ trực tiếp thay thế cho quan
điểm quá độ dần dần, từng bước. Quan điểm này được duy trì trong giai đoạn
trước đổi mới và đạt được những thành tựu nhất định trong xây dựng chủ nghĩa
xã hội, nhất là huy động được sức người, sức của trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, nhưng do duy trì quá lâu nên đã phát sinh những hệ quả tiêu cực.
Đến cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 thế kỷ XX, Việt Nam rơi vào khủng hoảng kinh
tế - xã hội nghiêm trọng.
Bằng việc nhìn thẳng vào sự thật, Đại hội VI đã rút ra 4 bài học kinh nghiệm,
trong đó khẳng định “Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan”; và nhận định thời kỳ quá độ ở nước ta “là một thời kỳ
cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ
xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
Nhận thức này đã khắc phục được tư tưởng chủ quan, nóng vội, giản đơn về thời
kỳ quá độ. Tại Đại hội VII năm 1991, Đảng ta chỉ ra, trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội, chúng ta “đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật
khách quan: nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều
thành phần; có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng; duy trì
quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp;...” (Đảng Cộng sản Việt
Nam, 1991, 1). Cương lĩnh nêu rõ, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong
hoàn cảnh quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu sắc nên cần phải trải qua quá
trình lâu dài với nhiều chặng đường. Cương lĩnh 2011 khẳng định: “Nước ta quá

238
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu sắc”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, 67), trong đó, đặc điểm nổi bật của thời đại là “các
nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác
vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của
nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã
hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo
quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, về nội dung quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
Trước Đại hội IX (2001), các văn kiện của Đảng nhấn mạnh, Việt Nam đi lên
chủ nghĩa xã hội “bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” hoặc “không trải
qua chủ nghĩa tư bản”. Từ nhận định này dẫn đến tư duy chủ quan, duy ý chí, tách
biệt hoàn toàn mối quan hệ giữa các hình thái kinh tế - xã hội, giữa các chế độ xã
hội; phủ nhận thành quả mà nhân loại đã đạt được qua các chế độ xã hội, các hình
thái kinh tế - xã hội trước đó. Điều này trên thực tế đã cản trở sự phát triển xã hội.
Đến Đại hội IX, trên cơ sở đổi mới tư duy, rút ra những bài học kinh nghiệm,
Đảng ta đã khẳng định, để đi lên chủ nghĩa xã hội, loài người cần tiếp thu các thành
tựu về mọi mặt mà nhân loại đã đạt được trong các chế độ xã hội trước đó. Con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quá độ “bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân
loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ,
để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại” (Đảng Cộng
sản Việt Nam, 2001, 70). Đây thực chất là bước phát triển mới về nhận thức bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa. Nhận thức này đã trực tiếp khẳng định trên hai phương
diện: Một là, xét trên cơ sở lý luận hình thái kinh tế - xã hội thì việc bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Hai là, xét theo dòng chảy và tiến bộ lịch sử thì
chủ nghĩa xã hội là nấc thang cao hơn chủ nghĩa tư bản nên cần tiếp thu, kế thừa
những thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản.

239
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Trong thực tiễn, Đảng ta đã thể hiện rõ nhận thức về bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua thể chế
chính trị, luật pháp không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không bỏ qua
cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát
triển chủ nghĩa xã hội .
Thứ ba, về mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể của chặng đường đầu thời kỳ quá độ.
Sau năm 1975, chủ trương, đường lối được Đại hội IV xác định là nắm vững
chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến
hành đồng thời 3 cuộc cách mạng, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then
chốt; công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa,... Mục tiêu tổng quát trong giai đoạn đầu
của thời kỳ quá độ được xác định là: “Ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội,
tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1986, 42).
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc chủ quan, duy ý chí trong việc đề ra đường lối,
mục tiêu mà không tuân theo quy luật, thiếu những đánh giá khách quan về tình
hình cụ thể đã đem lại kết quả không như mong đợi.
Từ sự nhìn nhận lại tính chất và đặc điểm của thời kỳ quá độ, đánh giá các
thành quả và hạn chế trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh 1991
xác định rõ mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở Việt Nam là “xây dựng
xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng
về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã
hội chủ nghĩa phồn vinh” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991, 13-14). Trong đó, mục
tiêu của chặng đường đầu thời kỳ quá độ ở nước ta là thông qua đổi mới toàn diện,
xã hội đạt tới trạng thái ổn định, vững chắc tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau.
Tổng kết việc thực hiện mục tiêu của Đại hội VII, Cương lĩnh 1991 và căn cứ
vào tình hình thực tế đất nước, Đại hội VIII (1996) khẳng định, nước ta đã ra khỏi
cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng, kết thúc chặng đường đầu
tiên và bắt đầu bước vào chặng đường tiếp theo của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội với nội dung trọng tâm là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Điều này cũng
240
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

được nhấn mạnh lại ở Đại hội IX (2001) và Đại hội X (2006). Đây thực chất là việc
cụ thể hóa mục tiêu chung, đồng thời trực tiếp thực hiện mục tiêu của chặng đường
đầu thời kỳ quá độ mà Cương lĩnh đã xác định.
Phát triển nhanh và bền vững để sớm kết thúc thời kỳ quá độ , với mục tiêu
tổng quát là“xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với
kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta
trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc là định
hướng mà Đại hội XI (2011) đề ra. Theo đó, đến giữa thế kỷ XXI, Việt Nam cần phấn
đấu trở thành “một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu này được Đại hội XII (2016), tiếp tục khẳng định, đồng thời chỉ rõ 12 nhiệm
vụ tổng quát. Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII Về hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục làm rõ hơn quan điểm, mục tiêu tổng
quát và nhiệm vụ cụ thể cho từng giai đoạn hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đại hội XIII Đảng ta khẳng định: "Nhận thức về nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống
pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với các yêu cầu xây
dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường và
các loại thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và thế
giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 59-60).
Thứ tư, về mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội; thể chế kinh tế; mô hình Nhà nước
trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
Từ 6 đặc trưng trong Cương lĩnh 1991, đến 8 đặc trưng ở Đại hội X (2006) và
8 đặc trưng trong Cương lĩnh 2011, mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân
ta tập trung xây dựng, hướng tới đã được bổ sung, toàn diện và hoàn chỉnh hơn.
Trong đó, đặc trưng bao trùm, tổng quát là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.
Trong các đặc trưng về xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta tập trung xây
dựng, hướng tới, việc kế thừa những thành tựu mà xã hội loài người đã đạt được
dưới chủ nghĩa tư bản thể hiện rõ qua các đặc trưng về thể chế kinh tế và mô hình
nhà nước, hai lĩnh vực quan trọng, ảnh hưởng quyết định nhất đến cấu trúc của
một hình thái kinh tế - xã hội.

241
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Đổi mới thể chế kinh tế được Đại hội VI chính thức nêu ra qua yêu cầu cần
trở lại quan điểm của V.I.Lênin về một “nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần”
trong thời kỳ quá độ. Quan điểm này được bổ sung, phát triển qua nhiều kỳ đại
hội và được Đại hội XII khẳng định, cần tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành đầy đủ, đồng bộ, hiệu quả theo quy
luật kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp
với từng giai đoạn phát triển của đất nước; được Nghị quyết Trung ương 5, khóa
XII nhấn mạnh là một nhiệm vụ quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ
thống chính trị, là nhiệm vụ chiến lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo động lực
để phát triển nhanh và bền vững.
Cũng như vậy, quan niệm về mô hình nhà nước của xã hội xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta tập trung xây dựng đã được nhận thức, bổ sung và phát triển qua
nhiều kỳ đại hội. Từ khái niệm “dân chủ” và “hệ thống chính trị” được chính thức
đưa vào văn kiện của Đảng ở Hội nghị Trung ương 3, khóa VI (1989), đến khái niệm
Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, trong
Cương lĩnh 1991 và khái niệm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chính thức
được khẳng định ở Đại hội X (2006) là những bước phát triển trong nhận thức về
mô hình nhà nước ở Việt Nam. Điều này được tiếp tục khẳng định trong Đại hội
XII (2016), theo đó cần “Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và định hướng phát triển của Nhà nước; tạo môi
trường thuận lợi cho sáng tạo, phát huy dân chủ, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 21).
Quá trình vận dụng sáng tạo lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, là quá trình vận dụng, bổ sung, phát triển,
làm phong phú thêm lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn cách mạng Việt
Nam đã chứng minh sau hơn 35 năm đổi mới chúng ta đã thu được những thành
tựu vô cùng to lớn đó là:
Quy mô nền kinh tế tăng nhanh. Trong suốt 35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã
đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 -
1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991 -
1995, GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có
mức tăng trưởng khá cao; giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8%. Mặc dù

242
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

năm 2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 nhưng tốc độ
tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực,
thế giới.
Qua 35 năm, từ chỗ thiếu ăn, Việt Nam đã trở thành một trong những nước
xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng
nông sản, như cà phê, gạo, hạt điều, rau quả, tôm, gỗ và sản phẩm từ gỗ... luôn duy
trì ở mức cao. Các mặt hàng xuất khẩu khác cũng có bước tiến lớn. Đặc biệt, trong
bối cảnh bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19 khiến hoạt động thương mại và
đầu tư thế giới suy giảm, thì tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt
Nam năm 2020 vẫn đạt 543,9 tỷ USD, tăng 5,1% so với năm 2019; xuất siêu 19,1 tỷ
USD, cao nhất trong 5 năm liên tiếp xuất siêu kể từ năm 2016. Với kim ngạch xuất
nhập khẩu ấn tượng đã đưa Việt Nam xếp thứ 22 thế giới về quy mô kim ngạch và
năng lực xuất khẩu, đứng thứ 26 về quy mô thương mại quốc tế.
Phát triển gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa - xã hội. Trong suốt quá trình
35 năm đổi mới, việc tăng trưởng kinh tế đã cơ bản gắn kết hài hòa với phát triển
văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và
môi trường. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước phát triển. Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải
quyết việc làm đã dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các
thành phần kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc làm; từ chỗ không chấp
nhận có sự phân hóa giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp
pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã
khẳng định: “Công tác giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn
tượng. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm
1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo tiêu chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3%
năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước). Đến nay, hơn 60% số
xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nông thôn đều có đường ô tô đến trung
tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện
thoại” (Nguyễn, 2022, 31-32). Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển, cơ sở vật
chất được nâng cao, chất lượng đào tạo từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân
lực. Bên cạnh đó, công tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được Đảng và Nhà nước
quan tâm thực hiện. Đến nay, diện thụ hưởng chính sách an sinh xã hội ngày càng

243
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của người dân,
đặc biệt là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số.
Hiện nay đối với đất nước ta cần thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ
trọng tâm: Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ theo Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XII gắn với việc thực hiện Chỉ
thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, lãnh đạo đủ
năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ theo Nghị quyết Trung ương 7 Khóa
XII. Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả, theo Nghị quyết Trung ương 6 Khóa XII, đẩy mạnh đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu có hiệu quả theo sự chỉ đạo của
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng về cuộc đấu tranh này “Không có
ngoại lệ”, “Không có vùng cấm”, “Không ngừng nghỉ”. Tiếp tục đẩy mạnh thực
hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động. Thực
hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược được đề ra trong Nghị quyết Đại hội XII
của Đảng là: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
Phát triển nhanh nguồn lực, nhất là nguồn lực chất lượng cao. Xây dựng kết cấu
hạ tầng đồng bộ, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trước hết là công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với phát triển kinh tế nông thôn, xây dựng
nông thôn mới trên phạm vi cả nước. Chú trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại
doanh nghiệp nhà nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn nợ công. Bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Mở rộng và đưa vào chiều
sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu
quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của
đất nước trên trường quốc tế. Thu hút và phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, sức
sáng tạo của nhân dân; chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam và con người Việt Nam đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững đất nước. Coi trọng phát huy nhân tố con người trong

244
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân
cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành
mạnh. Giải quyết tốt những vấn đề xã hội bức xúc, trong đó chú trọng bốn vấn
đề: An toàn thông tin mạng, an toàn giao thông, an toàn môi trường, an toàn vệ
sinh thực phẩm đang hằng ngày, hằng giờ tác động, ảnh hưởng đến tư tưởng, sức
khỏe, tính mạng của nhân dân; tăng cường quản lý phát triển xã hội; bảo đảm an
sinh, phúc lợi xã hội.
3. KẾT LUẬN
Lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một nội dung cơ bản trong
học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin, lý luận đó đã đáp
ứng những nhu cầu và nhiệm vụ cách mạng của thời đại. Trong quá trình hoạt
động cách mạng Mác - Ăngghen, Lênin đã không ngừng phát triển lý luận về thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đây là cơ sở, phương pháp luận để các Đảng cộng
sản vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lý luận
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin đã được Đảng Cộng
sản Việt Nam vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam và thành tựu
của hơn 35 năm đổi mới đã chứng minh cho tính đúng đắn của sự vận dụng sáng
tạo đó.
Trong giai đoạn hiện nay, trước sự biến động phức tạp của tình hình trong
nước và thế giới, đòi hỏi Đảng ta phải kiên định nguyên tắc định hướng xã hội chủ
nghĩa, đổi mới sáng tạo; phải nhận thức đúng đắn, đầy đủ hơn về đặc điểm, tình
hình, điều kiện khả năng của đất nước và thời đại để có đường lối chiến lược sách
lược đúng; đẩy mạnh cải cách tổ chức, quản lý và hoạt động của Nhà nước, phát
huy dân chủ, tăng cường pháp chế; xây dựng củng cố khối liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức vững chắc; phải không ngừng xây
dựng củng cố khối đại đoàn kết dân tộc; tăng cường và phát huy vai trò lãnh đạo
của Đảng trong suốt tiến trình cách mạng, xem đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược
trong sự nghiệp cách mạng. Lý luận thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ
nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ nam, ánh sáng soi đường cho nhân loại tiến lên chủ
nghĩa xã hội.

245
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (1995a). Toàn tập (Vol. 19). Chính trị quốc gia.
[2]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (1995b). Toàn tập (Vol. 23). Chính trị quốc gia.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1987). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính trị quốc gia.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
Chính trị quốc gia.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
Chính trị Quốc gia.
[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.
Chính trị quốc gia.
[8]. Lênin, V. I. (1978a). Toàn tập (Vol. 39). Tiến bộ.
[9]. Lênin, V. I. (1978b). Toàn tập (Vol. 41). Tiến bộ.
[10]. Lênin, V. I. (1978c). Toàn tập (Vol. 44). Tiến bộ.
[11]. Nguyễn, P. T. (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính trị quốc gia - Sự thật.

246
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO TÍNH ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI


CHỦ NGHĨA TRONG PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Nguyễn Thị Hương
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Hương, email: nthuong_gdct@ued.udn.vn

Tóm tắt: Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn phù
hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam. Kinh tế thị trường và định hướng
xã hội chủ nghĩa là hai mảnh ghép có mối liên hệ mật thiết với nhau, có nghĩa là sử
dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bài viết đã
trình bày nhận thức về tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam. Trên cơ sở khái quát thành tựu đạt được và vấn đề đặt ra đối
với nền kinh tế thị trường ở nước ta, bài viết đã đưa ra một số điều kiện cơ bản nhằm
tiếp tục đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam.
Từ khóa: Định hướng xã hội chủ nghĩa; kinh tế thị trường; phát triển; điều kiện; chủ
nghĩa xã hội.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Khái niệm “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” được khẳng
định tại Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001). Từ đó đến nay, nhận thức của Đảng ta
về kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ngày càng được
bổ sung, phát triển phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. KTTT định hướng XHCN ở
nước ta vừa mang những đặc trưng chung của KTTT, vừa mang tính đặc thù định
hướng XHCN ở Việt Nam.
Thực tiễn hơn 35 năm đổi mới đã chứng tỏ việc phát triển KTTT định hướng
XHCN là một sự lựa chọn đúng đắn của Đảng và cách mạng Việt Nam. Sự kết hợp
này vừa là mục tiêu, vừa là động lực gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với phát
triển văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường; bảo đảm kinh tế Việt Nam phát triển
nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô, không ngừng nâng cao năng suất,
chất lượng, hiệu quả và sức canh tranh, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng

247
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn
thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Mặc dù vậy,
hiện tại vẫn có một số người không hiểu (hoặc cố tình không hiểu), thậm chí xuyên
tạc, tiếp tục phủ nhận đường lối, quan điểm của Đảng ta về vấn đề này. Họ cho
rằng: KTTT và chủ nghĩa xã hội (CNXH) là hai khái niệm không thể trộn lẫn, CNXH
không thể dung nạp KTTT nên không thể có KTTT định hướng XHCN, đó chỉ là
khái niệm mơ hồ; thêm định hướng XHCN sau KTTT là một sự chắp vá gượng ép,
sự bảo thủ ý thức hệ,…
Do vậy, tiếp tục thống nhất và làm rõ hơn nhận thức về KTTT định hướng
XHCN, nhất là các đặc trưng và điều kiện để bảo đảm tính định hướng XHCN là
việc cần thiết.
2. NỘI DUNG
2.1. Nhận thức về tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam
Trong quá trình hơn 35 năm đổi mới, Đảng ta đã bước đầu hình thành hệ thống
lý luận cơ bản về CNXH và con đường xây dựng CNXH, đặc biệt là nhận thức về
mô hình KTTT định hướng XHCN - mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ
lên CNXH ở Việt Nam.
Từ tổng kết thực tiễn cách mạng và nghiên cứu lý luận, Đảng ta nhận thức
ngày càng rõ, hoàn chỉnh, sát thực tế hơn về tính tất yếu, bản chất, đặc trưng, thể
chế và cơ chế vận hành của mô hình KTTT định hướng XHCN. Theo đó, tại Đại hội
VI, Đảng ta dứt khoát từ bỏ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp để
chuyển sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần do kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo. Đến Đại hội VII, Đảng ta đã có bước tiến rất dài về tư duy quản lý kinh
tế, Đại hội chủ trương “phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước” (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 1991). Như vậy, tại Đại hội VII, lần đầu tiên Đảng đã đề cập
đến tính "định hướng XHCN" trong việc phát triển kinh tế. Nhưng phải đến Đại hội
IX của Đảng (4/2001) mới khẳng định: Phát triển KTTT định hướng XHCN là mô
hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 2001). Như vậy, phải sau 15 năm thực hiện đổi mới, khái niệm
“KTTT định hướng XHCN” mới chính thức được xác định.

248
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Từ đó đến nay, nhận thức của Đảng ta về KTTT định hướng XHCN ngày càng
được bổ sung, phát triển phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. KTTT định hướng
XHCN Việt Nam thể hiện là một kiểu nền KTTT phù hợp với Việt Nam, phản ánh
trình độ phát triển và điều kiện lịch sử của Việt Nam và đã được Nghị quyết Đại
hội lần thứ XIII (2/2021) của Đảng xác định rõ nội hàm như sau: “KTTT định hướng
XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Đó là nền KTTT hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy
luật của KTTT, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng XHCN vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a).
KTTT được thừa nhận là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển
nhất định của văn minh nhân loại. KTTT không phải là cái riêng của chủ nghĩa tư
bản và KTTT không đồng nhất với chủ nghĩa tư bản. Thực tiễn đã chứng minh một
điều chắc chắn, KTTT tư bản chủ nghĩa không thể và không phải là liều thuốc vạn
năng cho các quốc gia. Bên cạnh mặt tích cực, KTTT tư bản chủ nghĩa còn có những
khuyết tật từ chính trong bản chất của nó do chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa chi phối.
Từ việc nhận thức vấn đề trên, lựa chọn KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
không phải là sự gán ghép chủ quan giữa KTTT với CNXH, mà là nắm bắt và vận
dụng sáng tạo xu thế khách quan của KTTT trong thời đại ngày nay, là sự kết tinh
trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân trong quá trình xây dựng đất nước. Nền KTTT định
hướng XHCN ở Việt Nam vừa chứa đựng những đặc điểm của KTTT nói chung
(tính phổ biến) vừa chứa đựng những đặc điểm của định hướng xã hội dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh một cách tự giác, xuyên suốt quá
trình phát triển KTTT ở Việt Nam (tính đặc thù).
KTTT và định hướng XHCN không tách rời nhau, có mối liên hệ mật thiết với
nhau. Nếu chỉ có định hướng XHCN mà không có KTTT thì không thể có CNXH;
nếu chỉ có KTTT mà không có định hướng XHCN, lại càng không có CNXH. KTTT
tạo cơ sở vật chất cho sự định hướng XHCN; ngược lại, định hướng XHCN giữ vai
trò định hướng cho nền KTTT. Xét tổng thể, KTTT định hướng XHCN là việc sử
dụng KTTT để thực hiện mục tiêu xây dựng CNXH, tức là vừa phát triển kinh tế

249
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

vừa gắn kết giải quyết các mục tiêu của CNXH. Phát triển nền KTTT có sự quản lý
của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, vì lợi ích
của đại đa số nhân dân, hướng vào con người, vì con người, lấy con người làm trung
tâm của sự phát triển, mọi người được tham gia và mọi người được hưởng lợi. Đây
chính là thuộc tính nhân văn của nền kinh tế, đặc trưng riêng có của nền KTTT định
hướng XHCN Việt Nam.
Tính định hướng XHCN trong phát triển KTTT ở Việt Nam được thể hiện trên
các phương diện sau:
Thứ nhất, định hướng trong mục tiêu phát triển, đó là: xây dựng thành công
CNXH, phát triển xã hội và con người Việt Nam, thực hiện "dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh".
Thứ hai, định hướng trong phương thức phát triển, đó là việc phát triển nền
kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo, chi phối, định hướng hoạt động của nền kinh tế, khắc phục
những hạn chế, khuyết tật và thất bại của thị trường, đảm bảo thực hiện thành công
các mục tiêu kinh tế - xã hội.
Thứ ba, định hướng trong phương thức phân phối, đó là việc nhà nước thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển; hoàn
thiện chế độ phân phối chủ yếu theo hiệu quả kinh tế, đồng thời thông qua phúc lợi
xã hội, thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội đối với toàn dân, đặc biệt quan tâm và hỗ
trợ người nghèo, những nhóm xã hội yếu thế, dễ bị tổn thương.
Thứ tư, định hướng trong phương thức quản trị và quản lý nền kinh tế, đó là
việc thực hiện dân chủ hóa trong đời sống kinh tế; phát huy vai trò làm chủ của
nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo vai trò quản lý nền kinh tế của
Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Tóm lại, tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường không
phủ nhận các quy luật kinh tế thị trường, mà là cơ sở để xác định sự khác nhau giữa
kinh tế thị trường ở Việt Nam với kinh tế thị trường ở các quốc gia khác. Tính định
hướng XHCN nhằm góp phần đảm bảo cho nền kinh tế thị trường ở Việt Nam phát
triển nhanh, bền vững, nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của
công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội.
250
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

2.2. Thành tựu đạt được và vấn đề đặt ra đối với việc bảo đảm tính định hướng
xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam
2.2.1. Khái quát thành tựu đạt được
Qua mỗi thời kỳ, nhận thức của Đảng ta về KTTT định hướng XHCN ngày
càng được bổ sung, phát triển phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Đường lối đổi mới
được thể chế hóa thành các quy định trong hệ thống pháp luật, các cơ chế, chính
sách, tiếp tục được hoàn thiện tạo hành lang pháp lý cho nền KTTT định hướng
XHCN hình thành và phát triển. Các chủ thể kinh tế được tự do kinh doanh và cạnh
tranh lành mạnh theo quy định của pháp luật, ngày càng phát huy vai trò tích cực
trong nền kinh tế quốc dân. Trong 35 năm đổi mới, Quốc hội Việt Nam đã ba lần
sửa đổi và ban hành Hiến pháp, sửa đổi và ban hành trên 150 bộ luật và luật, trên
70 pháp lệnh (Nguyễn, 2015). Đặc biệt, trong giai đoạn từ ngày 01/7/2016 (ngày Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 có hiệu lực) đến khi kết thúc nhiệm
kỳ Quốc hội khóa XIV đã có 72 luật, 02 pháp lệnh và nhiều Nghị quyết có chứa quy
phạm pháp luật được ban hành, qua đó kịp thời đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế
- xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường; đổi mới và nâng cao hiệu
lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người dân, doanh nghiệp; thúc đẩy phát triển KTTT định hướng XHCN
(Dự thảo Báo cáo công tác Nhiệm kỳ Khóa XIV của Quốc hội, 2021).
Nhờ phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN mà từ một nền kinh tế
nông nghiệp, lạc hậu, quy mô nhỏ bé, từ chỗ chỉ đạt 6,3 tỷ USD vào năm 1989 (Công
Trí, 2018) đã không ngừng tăng lên và đến năm 2019, quy mô nền kinh tế của đất
nước lần đầu tiên cán mốc hơn 262 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người hiện tại
khoảng 2.800 USD/người/năm (nếu tính cả quy mô nền kinh tế bị bỏ sót thì đã trên
3.000 USD), trong khi ngưỡng quốc gia có thu nhập trung bình cao (theo chuẩn giá
2019 của WB) là 3.996 USD (Đức Tuân, 2019). Lực lượng sản xuất có nhiều tiến bộ
cả về số lượng và chất lượng. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP)
vào tăng trưởng kinh tế ở giai đoạn 2001-2005 chỉ tăng bình quân 21,4%/năm
(Nguyễn, 2014), đến giai đoạn 2011-2015 đã đạt 33,6% và lên khoảng 45,7%/năm
giai đoạn 2016 - 2020, vượt mục tiêu Đại hội XII của Đảng đề ra (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 2021b). Năm 2020, quy mô xuất nhập khẩu khoảng 543,9 tỷ USD, cán cân
thương mại hàng hóa đạt thặng dư kỷ lục là 19,1 tỉ USD (Đảng Cộng sản Việt Nam,

251
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

2021b), dự trữ ngoại hối tăng từ 12,4 tỉ USD năm 2010 (Đức Tuân, 2019), đạt 28 tỉ
USD năm 2015 và lên gần 100 tỉ USD năm 2020 (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b).
Thực tiễn đổi mới, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã
từng bước hoàn thiện, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh, bình đẳng, thúc
đẩy cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô,
giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Các thành phần kinh tế cơ bản, chủ yếu đã
có những bước chuyển biến mạnh mẽ và đóng góp quan trọng vào sự phát triển
chung của kinh tế nước nhà. Cho đến nay, cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện
quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27%
từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân
trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (Nguyễn, 2021).
Nền kinh tế quốc gia hội nhập ngày càng sâu rộng vào thị trường quốc tế với
nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, từng bước thích ứng với nguyên tắc và chuẩn
mực của thị trường thế giới. Tính đến 12/2020, Việt Nam đã có quan hệ thương mại
với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ; là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới;
71 nước đã công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường; nước ta cũng đã ký 14
hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với các nước, trong đó 11 hiệp định đã có
hiệu lực. Hiện nay, Việt Nam đang cùng các nước tích cực thúc đẩy đàm phán Hiệp
định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Gần đây nhất, ngày 12/2/2020, Nghị
viện châu Âu (EP) đã chính thức bỏ phiếu phê chuẩn Hiệp định Thương mại tự do
(EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ đầu tư (EVIPA) giữa Việt Nam và Liên minh châu
Âu (Hồ & Nguyễn, 2020).
Năm 2020, với độ mở về kinh tế và sự hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới, kinh tế Việt Nam bị tác động nặng nề bởi đại dịch Covid-19. Việt Nam là một
trong số ít quốc gia trên thế giới không dự báo suy thoái kinh tế, nhưng tốc độ tăng
trưởng dự kiến năm nay thấp hơn nhiều so với dự báo trước khủng hoảng (6-7%).
Với tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2020 tăng 2,91% so với năm trước, Việt
Nam thuộc nhóm nước có tăng trưởng cao nhất thế giới. Trong bối cảnh đại dịch
Covid-19 và thiên tai gây hậu quả nặng nề thì đây là thành công lớn của Việt Nam.
Điều này có thể do nguyên nhân quan trọng từ mô hình thể chế kinh tế thị trường
định hướng XHCN. Mô hình này tỏ rõ hiệu quả về khả năng tự chủ, tự cường, phản
ứng chính sách và phản ứng thị trường đồng bộ, cùng với đó là sức chống chịu và

252
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

thành công trong việc kiểm soát sự lây lan của dịch Covid-19. Do đó, Ngân hàng
Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đánh giá: Việt Nam là một trong 16 nền
kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới, là điểm sáng toàn cầu trong thực hiện
thành công “mục tiêu kép”, vừa phòng chống dịch, vừa phục hồi và phát triển kinh
tế - xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống nhân dân (Nguyễn, 2021).
Việc gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội trong
từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường càng tỏ rõ tính ưu việt
của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Thành quả đạt được trong
hơn 35 năm đổi mới và thực hiện chiến lược 10 năm 2011-2020 về phát triển văn
hoá, xây dựng con người Việt Nam đạt kết quả tích cực. Tỷ lệ lao động qua đào tạo
tăng từ 40% năm 2010 lên 64,5% năm 2020. Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam
tăng vượt bậc, năm 2020 xếp thứ 42/131 nước và vùng lãnh thổ, tăng 17 bậc so với
năm 2016, dẫn đầu nhóm quốc gia, nền kinh tế cùng mức thu nhập. Đời sống văn
hóa của nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp
được đề cao và phát huy. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh (còn dưới 3% vào năm 2020
theo chuẩn nghèo đa chiều). Đời sống nhân dân được cải thiện, chú trọng tạo sinh
kế và nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản (thu nhập bình quân đầu
người tăng 3,1 lần, từ 16,6 triệu đồng năm 2010 lên 51,5 triệu đồng năm 2019). Thực
hiện tốt các chính sách bảo đảm an sinh xã hội (tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng từ
60,9% dân số năm 2010 lên 90,7% vào năm 2020). Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng
cao sức khỏe nhân dân được quan tâm. Việt Nam kiểm soát tốt đại dịch Covid-19,
được nhân dân và cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Chỉ số phát triển con người
(HDI) được cải thiện, thuộc nhóm các nước có mức phát triển con người cao của thế
giới (Nguyễn, 2021).
Kết quả trên đã thể hiện tính đúng đắn trong sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực
trong quản lý của Nhà nước về mục tiêu kinh tế thị trường định hướng XHCN là
phát triển kinh tế gắn với giải quyết các vấn đề xã hội (đói nghèo, việc làm, thu
nhập, phân hóa giàu - nghèo, công bằng xã hội), đảm bảo môi trường sinh thái... thể
hiện bản chất nhân văn của chế độ xã hội XHCN.
Tóm lại, sau hơn 35 năm đổi mới, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
được cải thiện rõ rệt; chính trị ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường, chủ
quyền quốc gia được giữ vững; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào

253
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

chiều sâu; thế và lực của đất nước không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế.
Đây chính là minh chứng đầy sức thuyết phục về tính đúng đắn của đường lối phát
triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.
2.2.2. Một số yêu cầu mới đặt ra đối với việc bảo đảm tính định hướng xã hội chủ
nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
Do phát triển KTTT định hướng XHCN là một sự nghiệp, một quá trình chưa
có tiền lệ nên có những vấn đề đặt ra trong điều kiện hiện nay cần phải được tiếp
tục xem xét và hoàn thiện, cụ thể như sau:
Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam cần đổi mới mạnh mẽ để có thêm động lực
làm cho nền kinh tế có tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững. Nguồn động lực
cho phát triển chỉ có thể đến từ đổi mới mạnh mẽ thể chế chính trị, thể chế kinh tế
và phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân dân.
Hai là, tiếp tục kiện toàn, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của bộ máy Nhà nước, đáp ứng công tác quản lý nhà nước đối với nền KTTT định
hướng XHCN ở Việt Nam trong tình hình mới.
Ba là, tiếp tục nhận thức và giải quyết đúng đắn, hiệu quả mối quan hệ giữa
phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất
XHCN, nhất là trong bối cảnh tác động đa chiều của cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư.
Bốn là, bảo đảm rằng sự phát triển của đất nước là sự phát triển có tính bao
trùm và không quá thiên lệch, tạo ra sự phân biệt về giàu nghèo quá lớn giữa các
vùng miền, giữa các thành phần, đối tượng trong xã hội.
2.3. Một số điều kiện chủ yếu nhằm đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
2.3.1. Tiếp tục giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn phát triển mới
Đây là vấn đề có tính nguyên tắc và là nhân tố quyết định nhất bảo đảm định
hướng XHCN của KTTT, cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước.
Việt Nam chủ trương phát triển KTTT nhưng không phải để cho nó vận động
một cách tự phát, mù quáng mà phải có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, hướng

254
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

dẫn, điều tiết, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, vì lợi ích của đại đa số
nhân dân, vì một xã hội công bằng và văn minh. Đảng lãnh đạo có nghĩa là Đảng
đề ra đường lối, chiến lược phát triển của đất nước nói chung, của lĩnh vực kinh tế
nói riêng, bảo đảm tính chính trị, tính định hướng đúng đắn trong sự phát triển
kinh tế, làm cho kinh tế chẳng những có tốc độ tăng trưởng và năng suất lao động
cao, có lực lượng sản xuất không ngừng lớn mạnh mà còn đi đúng định hướng
XHCN, tức là hạn chế được bất công, bóc lột, chăm lo và bảo vệ lợi ích của đại đa
số nhân dân lao động. Đảng lãnh đạo nền KTTT định hướng XHCN thông qua
cương lĩnh, đường lối phát triển kinh tế - xã hội và các chủ trương, quyết sách lớn
trong từng thời kỳ phát triển của đất nước, là yếu tố quan trọng bảo đảm tính định
hướng XHCN của nền KTTT.
Trong thời gian tới, việc giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
việc bảo đảm định hướng XHCN trong phát triển KTTT đòi hỏi cần tập trung vào
các nhiệm vụ chủ yếu như: (1) Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chủ trương
phát triển kinh tế - xã hội của Đảng; (2) Tăng cường lãnh đạo việc thể chế hóa và
việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước về kinh tế - xã hội; (3) Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết,
tổng kết thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng; (4) Lãnh đạo việc
bố trí cán bộ và lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện của đội ngũ cán bộ hoạt động trong
các lĩnh vực kinh tế - xã hội; (5) Nâng cao năng lực và hiệu quả công tác tham mưu
về kinh tế - xã hội ở các cấp, các ngành.
2.3.2. Tiếp tục phát huy vai trò quan trọng của Nhà nước đối với quản lý, định
hướng, điều tiết nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Ở Việt Nam, nền KTTT định hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị trường
do Nhà nước XHCN quản lý, điều tiết chung cả nền kinh tế. Do đó, nền KTTT sẽ
định hướng phát triển theo mục tiêu XHCN. Định hướng XHCN không phải là "cái
đuôi" được gán ghép chủ quan vào nền KTTT mà là tính chất của nền KTTT này.
Nhà nước quản lý nền KTTT định hướng XHCN thông qua pháp luật, các chiến
lược, kế hoạch, quy hoạch và cơ chế chính sách cùng các công cụ kinh tế trên cơ sở
tôn trọng những nguyên tắc của thị trường, phù hợp với yêu cầu xây dựng xã hội
XHCN ở Việt Nam.

255
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Để phát huy hơn nữa vai trò của mình, Nhà nước cần tập trung vào các nội
dung cơ bản như: (1) Có lộ trình giải quyết thực sự chủ động, tích cực đối với các
mục tiêu cụ thể; (2) Thể chế hóa quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng thông
qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật; (3) Phát triển đồng bộ các thị trường, tiếp
tục hoàn thiện thể chế KTTT trong tình hình mới; (4) Cần giải quyết triệt để những
mâu thuẫn trong quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN; (5) Cần giải
quyết có hiệu quả “điểm nghẽn” về kết cấu hạ tầng và chất lượng nguồn nhân lực;
(6) Cần nâng cao năng lực dự báo về biến động của đời sống kinh tế - xã hội trong
khu vực và trên thế giới, có khả năng đưa ra những gợi ý, những định hướng nhằm
giảm “sốc” từ những biến động bất lợi của thị trường khu vực và quốc tế.
2.3.3. Tiếp tục phát huy vai trò chủ thể của nhân dân trong tham gia phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước
Một thuộc tính quan trọng của định hướng XHCN trong KTTT ở Việt Nam là
phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội,
tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều này đã thể hiện rõ
nhất nhân dân là chủ thể, là trung tâm, mục tiêu phục vụ của nền KTTT định hướng
XHCN ở Việt Nam.
Thực tiễn cho thấy việc thực hiện dân chủ XHCN trong lĩnh vực kinh tế đã tạo
ra động lực vật chất, kinh tế thúc đẩy các chủ thể kinh tế khai thác và phát huy mọi
tiềm năng phát triển kinh tế của mình. Người dân có điều kiện tạo việc làm, tìm
kiếm việc làm, tăng thu nhập, lựa chọn cơ hội học tập, lập nghiệp vì lợi ích của chính
mình và đóng góp cho xã hội. Quá trình dân chủ hóa đời sống kinh tế đã nhanh
chóng đưa nền kinh tế của đất nước thoát khỏi tình trạng trì trệ, khủng hoảng và
đến nay đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, vươn lên nhóm nước có mức thu nhập
trung bình; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; sức mạnh tổng hợp của quốc
gia được tăng lên, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục phát triển.
Trong thời gian tới, chúng ta cần đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách để
phát huy vai trò làm chủ của nhân dân; bảo đảm quyền tự do, dân chủ trong hoạt
động kinh tế của người dân theo quy định của Hiến pháp, pháp luật và sự tham gia
có hiệu quả của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng
và giám sát việc thực hiện thể chế kinh tế và phát triển kinh tế - xã hội.
256
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Một là, bảo đảm dân chủ trong kinh tế gắn liền với dân chủ trong chính trị, văn
hóa, xã hội; xây dựng điều kiện kinh tế đồng bộ, hài hòa với các điều kiện về chính
trị, văn hóa, xã hội của nền dân chủ XHCN; phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN gắn liền với xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và nền văn hóa
XHCN tiên tiến đậm đà bản sắc Việt Nam.
Hai là, giải quyết hài hòa các quan hệ về lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế của
các thành phần kinh tế, các giai cấp, tầng lớp xã hội, giữa lợi ích cá nhân và lợi ích
tập thể, giữa chủ và thợ, giữa lợi ích của giai cấp, tầng lớp xã hội và lợi ích của nhà
nước, lợi ích trước mắt và lâu dài, lợi ích quốc gia và quốc tế;
Ba là, các tổ chức xã hội có điều kiện hợp tác, hỗ trợ nhà nước, khi cần thiết có
thể đấu tranh với các thế lực tự phát của thị trường để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân…
2.3.4. Bảo đảm thực hiện gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội
trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường nhằm thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Việc gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước,
từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường không chỉ duy trì sự tăng trưởng
ổn định, bền vững mà còn thể hiện tính ưu việt của nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam. Trong thời gian tới, đảm bảo gắn kết tăng trưởng kinh
tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo
vệ môi trường cần tập trung vào một số nội dung cơ bản sau:
(1) Hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách về phân bổ nguồn lực, phân phối
và phân phối lại theo hướng bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công
bằng xã hội. Các nguồn lực xã hội được phân bổ theo cơ chế thị trường và theo chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của Nhà nước bảo đảm đạt hiệu quả kinh tế -
xã hội cao.
(2) Khuyến khích làm giàu đi đôi với tích cực thực hiện giảm nghèo, vươn lên
no ấm, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng dân tộc và căn cứ cách
mạng trước đây.
(3) Hệ thống bảo hiểm xã hội đa dạng và linh hoạt phù hợp với yêu cầu của
kinh tế thị trường định hướng XHCN.

257
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

(4) Phát triển đa dạng các hình thức tổ chức tự nguyện, nhân đạo, hoạt động
không vì mục tiêu lợi nhuận để chăm sóc đối tượng bảo trợ XH dựa vào cộng đồng
theo tinh thần xã hội hóa với sự hỗ trợ một phần của Nhà nước, bảo đảm cho các
đối tượng bảo trợ xã hội có cuộc sống ổn định, hòa nhập tốt hơn vào cộng đồng, tự
vươn lên.
(5) Hoàn thiện luật pháp, chính sách về bảo vệ môi trường, giám sát chặt chẽ
việc thực hiện; phòng ngừa, ngăn chặn, không để phát sinh thêm các ô nhiễm mới,
xử lý triệt để những điểm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
2.3.5. Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các
loại hình doanh nghiệp và thể chế về phân phối trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, kinh tế nhà nước đóng vai
trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân. Đó là vấn đề có tính nguyên tắc nhằm bảo đảm đúng định
hướng XHCN của nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế nhiều thành phần với sự đa
dạng hóa các loại hình sở hữu và thích ứng với nó là các loại hình phân phối khác
nhau (cả đầu vào và đầu ra của các quá trình kinh tế), trong đó, phân phối theo lao
động và hiệu quả kinh tế, phân phối theo phúc lợi là những hình thức phân phối
phản ánh định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường. Trong thời gian tới, để
đảm bảo tính định hướng XHCN, chúng ta cần tập trung tiếp tục hoàn thiện về thể
chế sở hữu và thể chế phân phối với những nội dung như sau:
Một là: Hoàn thiện thể chế về sở hữu.
(1) Phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các loại hình doanh nghiệp, bảo
đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu khác nhau trong nền kinh
tế; xây dựng, hoàn thiện luật pháp về sở hữu đối với các loại tài sản mới, như trí
tuệ, cổ phiếu, trái phiếu, tài nguyên nước, khoáng sản...
(2) Đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà đại diện là Nhà nước; các quyền của người
sử dụng đất theo các quy định hiện nay của pháp luật được tôn trọng và bảo đảm.
(3) Hoàn thiện thể chế về sở hữu nhà nước theo hướng tách bạch vai trò của
Nhà nước với tư cách là bộ máy công quyền quản lý toàn bộ nền kinh tế - xã hội
với vai trò chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước; tách chức năng chủ sở hữu tài

258
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà
nước; thu hẹp và tiến tới xóa bỏ chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước của các
bộ, Ủy ban nhân dân đối với tài sản, vốn nhà nước tại các doanh nghiệp có tài sản,
vốn nhà nước.
(4) Hoàn thiện thể chế, quy định rõ, cụ thể về quyền của chủ sở hữu và những
người liên quan đối với các loại tài sản (trí tuệ, tài sản vật chất, tài sản cổ phiếu, tài
sản nợ); bảo hộ các quyền lợi hợp pháp. Ðồng thời, quy định rõ trách nhiệm, nghĩa
vụ của chủ sở hữu và những người liên quan đối với xã hội.
(5) Bổ sung luật pháp, cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển sở
hữu tập thể, các tổ hợp tác, hợp tác xã; bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích của các
xã viên đối với tài sản thuộc sở hữu của hợp tác xã.
(6) Khuyến khích liên kết hỗn hợp giữa sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và
sở hữu tư nhân, làm cho chế độ cổ phần, sở hữu hỗn hợp trở thành hình thức sở
hữu chủ yếu của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
(7) Ban hành các quy định pháp lý về quyền sở hữu của doanh nghiệp, tổ
chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam; quy định đối tượng, điều kiện để người
nước ngoài có quyền được mua, được sở hữu nhà ở gắn với quyền sử dụng đất và
các tài sản khác tại Việt Nam.
Hai là: Tiếp tục hoàn thiện thể chế, thúc đẩy phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp.
(1) Đẩy nhanh việc xử lý nợ, thoái vốn, cổ phần hoá, cơ cấu lại doanh nghiệp
nhà nước; thúc đẩy đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, áp dụng chế độ quản trị
doanh nghiệp hiện đại để nâng cao hiệu quả, đồng thời kiểm tra, giám sát chặt chẽ
hoạt động của doanh nghiệp, không để thất thoát, lãng phí vốn, tài sản nhà nước.
(2) Hỗ trợ, khuyến khích phát triển các mô hình kinh tế hợp tác, các hợp tác
xã, doanh nghiệp nhỏ và vừa, kinh tế hộ, trang trại trong nông nghiệp.
(3) Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ,
phát triển nguồn nhân lực, mở rộng thị trường, cải thiện thu nhập, điều kiện làm
việc của người lao động và tham gia các hoạt động xã hội, bảo vệ môi trường, thực
hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.

259
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

(4) Nâng cao hiệu quả các dự án đối tác công - tư trong lĩnh vực xây dựng kết
cấu hạ tầng. Ưu tiên những dự án đầu tư nước ngoài có trình độ công nghệ cao,
thân thiện với môi trường, sử dụng lao động có kỹ năng; đầu tư vào những ngành,
lĩnh vực cần ưu tiên phát triển; có liên kết, chuyển giao công nghệ, tạo điều kiện cho
doanh nghiệp trong nước phát triển, tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu.
(5) Thực hiện nghiêm túc, nhất quán một mặt bằng pháp lý và điều kiện kinh
doanh cho các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế.
(6) Tăng cường đầu tư và đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước để các đơn
vị sự nghiệp công lập phát triển mạnh mẽ, có hiệu quả. Nâng cao chất lượng,
hiệu quả quản trị quốc gia, xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch.
Ba là: Hoàn thiện thể chế về phân phối.
(1) Hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách về phân bổ nguồn lực, phân phối
và phân phối lại theo hướng bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công
bằng xã hội. Các nguồn lực xã hội được phân bổ theo cơ chế thị trường và theo chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của Nhà nước bảo đảm đạt hiệu quả kinh tế -
xã hội cao.
(2) Chính sách phân phối và phân phối lại phải bảo đảm hài hòa lợi ích của
Nhà nước, người lao động và doanh nghiệp, tạo động lực cho người lao động,
doanh nghiệp và bảo đảm lợi ích quốc gia.
3. KẾT LUẬN
Đối với Việt Nam, thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN
không phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội,
mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường
trong thời đại ngày nay. Từ lý luận và thực tiễn, có thể khẳng định, kinh tế thị
trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế
không chỉ phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế của thời đại, mà còn là mô hình
kinh tế phù hợp với các nước kinh tế chưa phát triển quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
Tính định hướng XHCN là nội dung chủ yếu và là nguyên tắc trong xây dựng
nền kinh tế thị trường. Thực hiện đúng định hướng XHCN cũng đồng thời là chủ
trương lớn và giải pháp hữu hiệu để giữ vững độc lập, tự chủ trong quá trình hội
260
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

nhập kinh tế quốc tế. Tính định hướng XHCN thể hiện tính ưu việt, đặc trưng quan
trọng phân biệt kinh tế thị trường ở Việt Nam với kinh tế thị trường ở các nước
khác. Do vậy, thực tiễn hiện nay đòi hỏi phải tạo lập được sự đồng bộ và hiệu quả
các điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo tính định hướng XHCN trong phát triển kinh
tế thị trường ở nước ta như: (1) Tiếp tục giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với việc bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn phát triển
mới; (2) Tiếp tục nhấn mạnh vai trò quan trọng của Nhà nước đối với quản lý, định
hướng, điều tiết nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; (3) Tiếp tục
phát huy vai trò chủ thể của nhân dân trong tham gia phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước; (4) Bảo đảm thực hiện gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng
xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường nhằm thúc
đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam; (5)
Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại
hình doanh nghiệp và thể chế về phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính trị quốc gia.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
Chính trị quốc gia.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021a). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021b). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII (Vol. 2). Chính trị quốc gia Sự thật.
[5]. Dự thảo Báo cáo Công tác nhiệm kỳ khóa XIV của Quốc hội. (2021, March 24). Báo
Nhân dân. https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/du-thao-bao-cao-cong-tac-
nhiem-ky-khoa-xiv-cua-quoc-hoi-639561/
[6]. Hồ, T. T., & Nguyễn, Đ. H. (2020). Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là sự lựa chọn đúng đắn của Việt Nam. Tạp chí lý luận chính trị.
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/dien-dan/item/3358-kinh-te-thi-

261
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-la-su-lua-chon-dung-dan-cua-viet-
nam.html
[7]. Nguyễn, D. A. (2021). Quá trình nhận thức của Đảng về nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Tạp chí lý luận chính trị.
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/tu-dien-mo/item/3812-qua-trinh-
nhan-thuc-cua-dang-ve-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-
nghia.html
[8]. Nguyễn, Đ. T. (2015). Một số thành tựu trong phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tạp chí Cộng sản.
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/33941/mot-so-
thanh-tuu-trong-phat-trien-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-
o-nuoc-ta.aspx
[9]. Nguyễn, N. T. (2014). Bàn về tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Tạp chí Tài chính.
https://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-doi/trao-doi-binh-luan/ban-ve-
tang-truong-kinh-te-cua-viet-nam-73652.html
[10]. Nguyễn, P. T. (2021). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (Vol. 1). Chính trị quốc gia - Sự thật.

262
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

SỰ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG


VỀ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Nguyễn Quốc Khánh


Trường Chính trị Tây Ninh
Tác giả liên hệ: Nguyễn Quốc Khánh, email: nguyenquockhanhsp@gmail.com

Tóm tắt: Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lâu dài, vô cùng khó
khăn và phức tạp, nhưng nếu biết cách làm và làm đúng quy luật, sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội nhất định sẽ thành công. Những thành tựu lý luận và thực tiễn trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Việt Nam qua 35 năm đổi mới đã
chứng minh con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là tất yếu khách quan và
hoàn toàn có khả năng thực hiện. Một trong những thành tựu quan trọng trong công
tác lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là lý luận về chủ nghĩa xã hội và con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và sâu sắc
hơn. Bài viết trình bày sự phát triển lý luận trong quá trình nhận thức và hiện thực
hóa quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam.
Từ khóa: Đảng Cộng sản Việt Nam; quá độ; chủ nghĩa xã hội; tư bản chủ nghĩa; đổi mới.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011), Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Đi lên chủ
nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011a, 24). Ngay từ khi ra đời và xuyên suốt đường lối
cách mạng, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và
khẳng định chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và Nhân dân
Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của
cách mạng Việt Nam. Việt Nam lựa chọn quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa là một quá trình lâu dài, khó khăn và phức tạp, phải đi qua nhiều
bước quá độ. Đối với những nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa
xã hội, V.I.Lênin chỉ rõ tất yếu phải “bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc” xuyên

263
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

qua chủ nghĩa tư bản nhà nước: “Trong một nước tiểu nông, trước hết các đồng chí
phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước,
tiến lên chủ nghĩa xã hội” (Lênin, 1976, 89). Vì thế, trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam phải luôn thường xuyên điều chỉnh cả về lý
luận lẫn thực tiễn. Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991)
và 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), lý luận về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng hoàn thiện và từng
bước được hiện thực hóa. Nghiên cứu sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt
Nam về quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa có ý nghĩa quan
trọng đối với thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
2. SỰ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN TRONG QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là quan điểm
nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường phát triển của cách mạng
Việt Nam. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
ngày càng được Đảng ta nhận thức rõ và sâu sắc hơn, góp phần vào sự nghiệp đổi
mới và phát triển đất nước. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ khó khăn,
phức tạp giống như “cơn đau đẻ kéo dài”. Đối với những nước có điểm xuất phát
thấp, không trải qua chủ nghĩa tư bản, thì sự khó khăn, phức tạp của thời kỳ quá
độ càng tăng lên gấp nhiều lần. Trong quá trình nhận thức và vận dụng lý luận của
Đảng Cộng sản Việt Nam về quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các giai đoạn lịch sử có
những lúc mắc phải sai lầm và chưa thành công là tất yếu, bởi vì đó là quá trình
Đảng ta tiếp tục hoàn thiện, bổ sung và phát triển tư duy lý luận.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, từ tổng kết thực tiễn và nghiên
cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn
hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; từng
bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như: đồng nhất mục tiêu cuối
cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một
chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu
phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự tồn tại của
các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng

264
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản,... Trước đổi mới (năm 1986), nhận
thức của Đảng ta về “quá độ lên chủ nghĩa xã hội” cũng giản đơn, thiếu thống nhất,
xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự quá độ “bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa”. Từ nhận định này dẫn đến việc phủ định siêu hình
chủ nghĩa tư bản, tách biệt hoàn toàn mối quan hệ giữa các hình thái kinh tế - xã
hội; phủ nhận “sạch trơn” thành tựu mà nhân loại đã đạt được qua các hình thái
kinh tế - xã hội trước đó. Thay vì chỉ bỏ qua chế độ chính trị tư bản chủ nghĩa, tức
là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng
tư bản chủ nghĩa, chúng ta lại mắc bệnh chủ quan duy ý khi bỏ qua tất cả những
thành tựu mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra trước đó. C.Mác và Ph.Ăngghen đã đánh
giá giai cấp tư sản: “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một
thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản
xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại” (C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn Tập, 1995,
603). Do đó, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội phải tiếp tục kế thừa và
phát triển lực lượng sản xuất đã tạo ra trong chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là những
thành tựu về khoa học và công nghệ. Theo Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của
chủ nghĩa Mác - Lênin, sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử -
tự nhiên, đó là sự thay thế, tiếp nối các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp tới cao mà
nguyên nhân sâu xa quy định tiến trình phát triển ấy là mối quan hệ biện chứng
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong mối quan hệ biện chứng giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất phát triển theo quy luật
“tiếp sức”, tức là có sự kế thừa qua các hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển. Việt Nam phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, từ
một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, lực lượng sản
xuất thấp, tất yếu chúng ta phải thực hiện nhiều nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
to lớn, toàn diện. Như vậy, việc phát triển của chúng ta theo con đường xã hội chủ
nghĩa, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng không có nghĩa là phủ định toàn bộ
những thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản.
Với tư duy đó, khi tiến hành đổi đổi mới (cụ thể là từ Đại hội lần thứ VII của
Đảng năm 1991), Đảng Cộng sản Việt Nam xác định đúng nội hàm của việc “bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa”. Đảng đã nhận thức lại, chuyển từ “bỏ qua giai đoạn phát

265
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

triển tư bản chủ nghĩa” thành “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”. Lãnh đạo công
cuộc đổi mới, nhận thức của Đảng về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa của nước ta có những đổi mới sâu sắc. Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (Thông qua tại Đại hội lần
thứ VII của Đảng) xác định đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam: “Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”(Đảng
Cộng sản Việt Nam, 1991, 8). Như vậy, Đảng ta đã nhận thức rõ hơn về cách thức
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. “Bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa” có thể hiểu là con đường phát triển “rút ngắn” đi lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta. Đại hội lần thứ IX của Đảng (năm 2001) chỉ ra cụ thể hơn:
“Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống
trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu,
kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa,
đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây
dựng nền kinh tế hiện đại” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, 84). Việc “bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa” được giải thích rõ về hai phương diện. Về chính trị, bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua giai đoạn thống trị của giai cấp tư sản, của kiến
trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Về kinh tế, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ
qua sự thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nhưng phải biết tiếp thu, kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa tư bản, nhất là về
khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh
tế hiện đại. Đó chính là phương thức “rút ngắn” thời gian thực hiện quá trình xã
hội hóa sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng con đường phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, tức là rút ngắn đáng kể quá trình phát triển lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa có
nghĩa là trong lịch sử nước ta không có một giai đoạn mà trong đó giai cấp tư sản
nắm chính quyền và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa giữ địa vị thống trị trong
nền kinh tế quốc dân. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải trải qua
một trạng thái xã hội mang tính trung gian, chuyển tiếp giữa hình thái kinh tế - xã
hội cũ và hình thái kinh tế - xã hội mới, trong đó nền kinh tế là nền kinh tế quá độ
gồm nhiều thành phần kinh tế. Những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và

266
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

công nghệ hiện đại, sự hợp tác kinh tế quốc tế đa phương, đa dạng cho phép chúng
ta tận dụng nền đại công nghiệp của thế giới để có thể rút ngắn quá trình phát triển
kinh tế của đất nước. Sự phát triển “rút ngắn” không trải qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở Việt Nam có thể đi nhanh đến phát triển nhưng bắt buộc phải đổi mới, hội
nhập quốc tế để có thể tiếp thu thành tựu văn minh nhân loại nhằm lấp đầy khoảng
trống mà nước ta đã bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa. V.I.Lênin đã từng chỉ rõ,
những nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội cần thiết phải
học hỏi kinh nghiệm từ các nước phát triển. Đúng như vậy, tư duy đổi mới về quá
độ “bỏ qua” khẳng định muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội phải học kinh nghiệm của
chủ nghĩa tư bản, nhất là về khoa học và công nghệ hiện đại, đồng thời phải vượt
qua những hạn chế của nó đó là chế độ chính trị áp bức, bóc lột. Vì vậy, Đảng khẳng
định bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản
chủ nghĩa, những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp
với chế độ xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng chỉ ra rằng phải kế thừa có chọn lọc trên
quan điểm khoa học, phát triển những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã
đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản như: kinh tế thị trường, nền dân
chủ, nhà nước pháp quyền, khoa học và công nghệ, trình độ tổ chức - quản lý,…
Nhận thức rõ hơn về tính chất lâu dài, khó khăn, phức tạp của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta xác định rõ mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể
bước đầu của thời kỳ quá độ. Trong thời kỳ quá độ sẽ “tồn tại nhiều hình thức kinh
tế - xã hội có tính chất quá độ”. Bước vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng
ta càng nhận thức được rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài,
vô cùng khó khăn và phức tạp, vì phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực sự, “Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một
nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất
thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù
địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất
thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ
chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới” (Nguyễn,
2022, 25). Đại hội lần thứ XI của Đảng (năm 2011) đã xác định rõ nước ta quá độ lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa “là một quá trình cách mạng sâu
sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về

267
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội
đan xen” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011a, 70). Để quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
chúng ta phải tiếp tục nâng cao ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật
chất và trí tuệ của dân tộc, đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước
đi, hình thức và biện pháp thích hợp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
3. SỰ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN TRONG QUÁ TRÌNH HIỆN THỰC HÓA QUAN
ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI BỎ QUA CHẾ ĐỘ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Trên cơ sở nhận thức ngày càng đúng đắn lý luận về quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, Việt Nam từng bước hiện thực hóa mục tiêu, nhiệm vụ của chủ nghĩa xã hội.
Nhận thức tổng quát của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao,
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” (Nguyễn,
2022, 24). Một trong những nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam là xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, tức là phải xây dựng
một nền kinh tế - xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa
học và kĩ thuật tiên tiến. Muốn vậy, trong thời kỳ quá độ chúng ta cần phải thực
hiện những nhiệm vụ kinh tế cơ bản là phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thời kỳ trước đổi mới, do chưa có kinh nghiệm trong xây dựng chủ nghĩa xã
hội, Đảng ta đã vi phạm quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong giai đoạn này, chúng ta đã tuyệt
đối hoá việc cải tạo quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa theo mô hình Liên Xô cho
kinh tế miền Bắc trong khi trình độ lực lượng sản xuất còn thấp kém. Với việc xác
lập hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể theo mô hình Liên Xô, xoá bỏ
thị trường tự do và sở hữu phi xã hội chủ nghĩa, đối lập chủ nghĩa xã hội với chủ
nghĩa tư bản, thiết lập mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp.
Việc xác lập một quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa vượt trước quá xa và không phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp kém đã kìm hãm sự
phát triển của lực lượng sản xuất, từ đó dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm

268
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

trọng. Trước đổi mới, “lương thực, hàng hóa nhu yếu phẩm hết sức thiếu thốn, đời
sống nhân dân hết sức khó khăn, khoảng 3/4 dân số sống dưới mức nghèo khổ”
(Nguyễn, 2022, 30-31).
Trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay), Đảng Cộng sản Việt Nam thực
hiện chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, mỗi thành phần
kinh tế là một loại hình quan hệ sản xuất phù hợp với một trình độ nhất định của
lực lượng sản xuất nên đã thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế. Nhờ thực hiện
đường lối đổi mới, “nền kinh tế bắt đầu phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao
trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Về cơ
cấu nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc nội của
Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30%
từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài” (Nguyễn, 2022, 31). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đã đề ra định hướng phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã
chuyển từ đặc trưng “có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu” được xác định trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991
thành “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan
hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” (Hội đồng Lý luận Trung ương, 2020, 45). Văn kiện
Đại hội lần thứ XIII của Đảng (năm 2021) nhấn mạnh trong nhận thức và giải quyết
các quan hệ lớn, “cần chú trọng hơn đến: bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa;
xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” (Đảng Cộng sản Việt Nam,
2021a), tức là quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất.
Đảng xác định phương thức phát triển của con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội
của nước ta là phát triển “rút ngắn”. Con đường quá độ này không bỏ qua sự phát
triển liên tục của lực lượng sản xuất trong tiến trình lịch sử và văn minh nhân loại
đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là những thành tựu khoa học và
công nghệ. Thực chất bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua việc xác lập chế độ
tư bản chủ nghĩa và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa giữ vai trò thống trị.

269
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Cùng với việc lựa chọn phương thức phát triển “bỏ qua”, Đảng và Nhà nước
ta đã tiến hành đổi mới căn bản mô hình phát triển kinh tế trong suốt quá trình đi
lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, đó là mô hình kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Tại Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001), Đảng ta chính thức đưa ra
khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, coi đó là mô hình tổng
quát, là đường lối chiến lược nhất quán của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đề ra định hướng xây dựng quan hệ sản xuất với
cách diễn đạt và nội dung mới so với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức
tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011a, 73).
Với diễn đạt định hướng tổng quát mới như vậy, cho phép khắc phục được hoàn
toàn “tâm lý kỳ thị về mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh (thời
kỳ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX chúng ta chỉ nói đến “cơ chế thị trường”)” (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 2011b, 79). Đến nay, đặc trưng của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định ngày càng sâu sắc. Trong bài viết
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đưa ra quan niệm phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ
bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện
đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh
nghiệm của thế giới” (Nguyễn, 2022, 25).
Thực tiễn 35 năm đổi mới đất nước đã khẳng định một thành quả lý luận quan
trọng rằng: Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn
toàn đúng đắn, là sự vận dụng sáng tạo của Ðảng ta và là con đường, phương thức
để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội cho nên nền kinh tế là nền kinh tế quá độ, do đó không thể có ngay
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, nước ta phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa để có thể vừa tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm phát
triển kinh tế thị trường của thế giới vừa vận dụng, phát triển sáng tạo cho phù hợp
với điều kiện thực tiễn Việt Nam. Đại hội lần thứ XIII của Đảng (năm 2021) đã chỉ

270
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

ra nội hàm cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “Đó là
nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo
các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp
với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong
đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không
ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược,
quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021,
128-129). Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày
càng hoàn thiện, trở thành một đóng góp lý luận cơ bản và sâu sắc của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhận định: “Nhận thức về nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật,
cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh
tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường và các loại thị
trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và thế giới” (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 2021, 59-60). “Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đang dần được hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập” (Đảng
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 31). Đường lối đổi mới kinh tế phù hợp với yêu
cầu khách quan đã giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất xã hội, thúc đẩy nền kinh tế
của nước ta tăng trưởng vượt bậc, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Việc
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thực sự đem lại
những thay đổi to lớn, rất tốt đẹp cho đất nước: “kinh tế phát triển, lực lượng sản
xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải
thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng,
an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế
và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của
Ðảng được củng cố” (Nguyễn, 2022, 33). Ðó là những thành tựu không thể phủ
nhận, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

271
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Cùng với “phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” thì “xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” cũng là một “phát minh chính trị”
thể hiện sự vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận về quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam. Dân chủ là bản chất
của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực
thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt
Nam. Chúng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân,
trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo. Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là
người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền
làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham
gia quản lý xã hội. Vì vậy, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây
dựng khác về chất so với nhà nước pháp quyền tư sản ở chỗ: pháp quyền dưới chế
độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai
cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân
dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân
là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm
hại lợi ích của Tổ quốc và Nhân dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011a, 85-86). Nhà nước pháp quyền tư sản dựa
trên nguyên tắc “tam quyền phân lập”, còn Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
không phải hoàn toàn là “tam quyền phân lập” mà theo nguyên tắc “quyền lực nhà
nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Trong chế độ
chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân là mối
quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Đảng,

272
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy
hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Mô hình chính trị và cơ chế vận
hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Sau 35
năm đổi mới, “việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
có bước phát triển mới, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được nâng lên; nội
dung, phương thức quản lý nhà nước đã từng bước được điều chỉnh phù hợp hơn
với yêu cầu phát triển đất nước và thông lệ quốc tế” (Hội đồng Lý luận Trung ương,
2021, 225). Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh “tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân
dân và vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống
chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Xác định
rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên
tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành
mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Xây dựng
hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh
bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh
nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh,
bền vững” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 174-175). Báo cáo chính trị của Ban
Chấp hành Trung ương khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng đã đánh giá: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến
bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu
quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 71). Tóm lại, từ lý luận và thực tiễn cho thấy “Nhà
nước pháp quyền” cũng như “kinh tế thị trường” là sản phẩm chung của nhân loại,
có nhiều ưu điểm, không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản; chúng ta
cần phải tiếp thu, kế thừa và phát huy.
Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn, mức sống và chất
lượng sống của nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng cao so với những
năm trước đổi mới. “Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7
tỷ đô la Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình

273
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm
các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên,
đến nay, Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở
thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới”
(Nguyễn, 2022, 31). Thực tiễn đổi mới cùng với những thành tựu to lớn đó đã tiếp
tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, chứng minh
sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn
Việt Nam và xu thế của thời đại. Thật vậy, sự phát triển của Việt Nam ngày nay đã
chứng minh rằng con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không
những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt
hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế. Những
kết quả, thành tích đặc biệt đạt được của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid-
19 và suy thoái kinh tế toàn cầu bắt đầu từ đầu năm 2020 được nhân dân và bạn bè
quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta so với chế độ tư bản chủ nghĩa. Có thể nói rằng: “Đất nước ta chưa bao giờ
có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” (Đảng Cộng sản Việt
Nam, 2021a, 104).
4. KẾT LUẬN
Sự lựa chọn con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa của Việt Nam là một quá trình lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp với
nhiều bước phát triển. Trong quá trình đó, thực chất của “bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa” là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng tư bản chủ nghĩa, đồng thời cần tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những thành tựu
tiến bộ, giá trị văn minh, khoa học và công nghệ mà nhân loại đã đạt được trong
chủ nghĩa tư bản trên quan điểm khoa học, phát triển. Với nhận thức đó, Đảng ta
đã từng bước vận dụng đúng đắn và phù hợp trong việc xác định và lựa chọn con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Đây là bước phát triển quan trọng
trong sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về quá độ lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Có thể khẳng định rằng, sự phát triển lý luận
về quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một thành tựu to lớn về tư duy lý luận
của Đảng ta qua hơn 35 năm lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và chắc chắn sẽ được Đảng ta tiếp tục bổ

274
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

sung và hoàn thiện. Qua đó, việc nghiên cứu vấn đề này có thể góp phần vận dụng
vào việc giảng dạy lý luận chính trị nhằm nâng cao năng lực nhận diện, đấu tranh
chống lại các quan điểm xuyên tạc, chống phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập (Vol. 4). (1995). Chính trị quốc gia.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính trị quốc gia.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
Chính trị quốc gia.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011a). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Chính trị quốc gia.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011b). Về những điểm mới của Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).
Chính trị quốc gia.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021a). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021b). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII (Vol. 2). Chính trị quốc gia Sự thật.
[8]. Hội đồng Lý luận Trung ương. (2020). 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính trị quốc gia.
[9]. Hội đồng Lý luận Trung ương. (2021). Những điểm mới trong các Văn kiện Đại
hội XIII của Đảng. Chính trị quốc gia.
[10]. Lênin, V. I. (1976). Toàn tập (Vol. 44). Tiến bộ.
[11]. Nguyễn, P. T. (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính trị quốc gia - Sự thật.

275
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

GIÁ TRỊ BỀN VỮNG CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Lê Trung Kiên
Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Tác giả liên hệ: Lê Trung Kiên, email: kienlt1511@gmail.com

Tóm tắt: Bài viết phân tích làm rõ nội dung cơ bản có giá trị bền vững của tư tưởng
Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội gồm: xác định con đường phát triển tất yếu đi lên
chủ nghĩa xã hội; cách mạng xã hội chủ nghĩa do nhân dân tự xây dựng nên; phương
pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội là tôn trọng quy luật khách quan, gắn lý luận với
thực tiễn. Qua đó, đặt ra việc vận dụng những nội dung cơ` bản có giá trị bền vững
của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam hiện nay là cần phải kiên định và vận dụng sáng tạo con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, kiên định chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu con
người, kiên định chủ nghĩa xã hội gắn liền với đổi mới và phát triển tiến bộ xã hội.
Từ khóa: Hồ Chí Minh; chủ nghĩa xã hội; giá trị bền vững.

1. NỘI DUNG CƠ BẢN CÓ GIÁ TRỊ BỀN VỮNG CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Thứ nhất, xác định con đường phát triển tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong dòng chảy của cách mạng thế giới theo nhiều xu thế khác nhau, nhưng
với vốn tri thức và tư duy khoa học, Hồ Chí Minh khẳng định chỉ có chủ nghĩa Mác
- Lênin là cẩm nang, là lý luận soi đường cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi
hoàn toàn. Người nói: “Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ
nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa
thôi” (Hồ, 2021a, 40). Và “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ” (Hồ,
2021i, 563). Đây là sự lựa chọn vô cùng quan trọng, mang tính tất yếu đúng đắn và
phù hợp về con đường giải phóng dân tộc, định vị đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. “Lịch sử dường như đã chuẩn bị sẵn cho dân tộc Việt Nam đi vào thời kỳ hiện
đại bằng miếng đất sẵn sàng được gieo trồng, và bằng những nông phu sẵn hạt giống
276
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

trong tay. Miếng đất ấy là nhân dân có truyền thống đấu tranh bất khuất; giống đó là
chủ nghĩa Mác - Lênin; người thứ nhất gieo giống đó là Nguyễn Ái Quốc (Trần,
1993, 39). Người khẳng định: “Nói tóm lại phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”
(Hồ, 2021b, 204) (tức là chủ nghĩa Mác - Lênin). 40 năm sau nhìn lại sự kiện này,
Người đã viết: “Riêng về cá nhân tôi, từ lúc đầu nhờ được học tập truyền thống cách
mạng oanh liệt và rèn luyện trong thực tế đấu tranh anh dũng của công nhân và của
Đảng Cộng sản Pháp, mà tôi đã tìm thấy chân lý chủ nghĩa Mác - Lênin, đã từ một
người yêu nước tiến bộ thành một chiến sĩ xã hội chủ nghĩa” (Hồ, 2021i, 740).
Thấm nhuần lý luận về sự phát triển hình thái kinh tế - xã hội bậc thấp lên bậc
cao của Mác, Nguyễn Ái Quốc khẳng định tính tất yếu về sự tiến bộ của xã hội loài
người. “Không có lực lượng gì ngăn trở được mặt trời mọc. Không có lực lượng gì
ngăn trở được lịch sử loài người tiến lên. Cũng không có lực lượng gì ngăn trở được
chủ nghĩa xã hội phát triển” (Hồ, 2021h, 158). Và chỉ có “cách mạng xã hội chủ nghĩa
là nhằm xóa bỏ mọi chế độ người bóc lột người ở nước ta, nhằm đưa lại đời sống
no ấm cho nhân dân. Đó là một cuộc cách mạng vĩ đại và vẻ vang nhất trong lịch sử
loài người, nhưng cũng là một cuộc cách mạng gay go, phức tạp và khó khăn nhất.
Mỗi người chúng ta phải chuẩn bị tư tưởng và nghị lực để vượt qua mọi thử thách
và hoàn thành thắng lợi cuộc cách mạng này” (Hồ, 2021h, 383).
Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa xã hội là chế độ tốt nhất để bảo đảm quyền
lợi và hạnh phúc cho con người. Người đã lựa chọn thể chế chính trị Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, xây dựng một chính phủ quyền lực thuộc về nhân dân, đảm bảo nền
độc lập, tự do, hạnh phúc. Mọi quyền lợi, hạnh phúc do con người tạo dựng dưới
sự lãnh đạo của Đảng, đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước phồn
vinh. Tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trong kiến giải của Hồ Chí Minh là điều
kiện, phương thức, là con đường để thực hiện giá trị đó mà mục đích cao nhất là
quyền làm chủ và thụ hưởng hạnh phúc của nhân dân, là quyền và chủ quyền của
dân tộc, quyền tồn tại và phát triển trong độc lập tự do.
Thứ hai, cách mạng xã hội chủ nghĩa do nhân dân tự xây dựng nên.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, nhân dân Việt Nam đã hun đúc nên
những truyền thống quý báu về lòng yêu nước, cố kết cộng đồng và tinh thần bất
khuất, anh dũng, siêng năng, cần cù, thông minh, sáng tạo, lập nên nhiều kỳ tích
vang dội, góp phần củng cố sự trường tồn của dân tộc. Hồ Chí Minh luôn đánh giá
277
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

nhân dân có tầm quan trọng đặc biệt trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc
và xây dựng chế độ xã hội mới. Nhưng Người không chỉ đánh giá cao những đức
tính tốt đẹp, những giá trị truyền thống bền vững, mà Người cũng nhìn nhận những
thói quen, truyền thống lạc hậu của con người, tính tự cấp, tự túc, khép kín, nếp
nghĩ kinh nghiệm, tính bảo thủ, ngại thay đổi, tự do, tùy tiện, tham ô, lãng phí, quan
liêu, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo,… đã và đang ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục,
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, làm thay đổi giá trị của tinh thần yêu nước, đoàn
kết, nhân ái của cha ông ta. Những biểu hiện trên có thể làm thay đổi thang giá trị
xã hội, gây cản trở con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, “đè nặng như quả núi lên
đầu óc những người đang sống” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1993a, 145). Đó là nhược
điểm, là mâu thuẫn nội tại trong lòng xã hội, trong mỗi người và còn kéo dài, ảnh
hưởng đến sự nghiệp chung. Con người sáng tạo ra lịch sử, nhưng con người cũng
kéo lùi lịch sử bởi sự khác biệt và chủ nghĩa cá nhân xung đột với xây dựng giá trị
chuẩn con người mới. Muốn triệt tiêu những khác biệt, mâu thuẫn đòi hỏi phải có
quyết tâm rất cao, phải như cuộc chiến đấu cam go, khốc liệt thì mới chiến thắng
bản thân mình. Do đó, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, cần xây dựng
con người xã hội chủ nghĩa.
Theo Người, “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất định phải có học thức.
Cần phải học văn hóa, chính trị, kỹ thuật” (Hồ, 2021j, 90). Người đề cao tầm quan
trọng của việc nhận thức lý luận, học tập toàn diện để tiến bộ, càng học tập thì ngày
càng tiến bộ. “Con người không phải là một sinh vật trừu tượng, ẩn náu đâu đó ở
ngoài thế giới. Con người chính là thế giới con người, là nhà nước, là xã hội” (C.Mác
và Ph.Ăngghen, 1993b, 569). Sự nghiệp cách mạng của Đảng gắn liền với khát vọng,
quyền lợi của nhân dân; Đảng phải phát huy vai trò của nhân dân trong cách mạng
giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Quyền lợi, dân chủ, hạnh phúc
bắt nguồn tự những mục tiêu thiết thân, căn bản nhất với con người, mọi người đều
thoát cảnh đói nghèo, được ăn, mặc, ở, học hành, có đời sống văn hóa vật chất và
tinh thần tốt đẹp, lành mạnh. Người khẳng định “chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây
dựng được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu người”
(Hồ, 2021h, 93). Do đó, Đảng và hệ thống chính trị tiếp tục xây dựng, củng cố mối
quan hệ mật thiết với nhân dân, tạo sự đồng thuận xã hội sâu sắc để phát huy sức
mạnh đại đoàn kết đồng bào trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

278
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Thứ ba, phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội là tôn trọng quy luật khách quan,
gắn lý luận với thực tiễn.
Quá trình xây dựng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là công
việc “khổng lồ” mang tính cải biến to lớn, mang lại nền độc lập thật sự, xây dựng
một xã hội mới chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Nhưng để có được thành quả
đó, theo Hồ Chí Minh, cần phải có phương pháp đúng đắn. Người nói: “Trong
những điều kiện như thế, chúng ta phải dùng những phương pháp gì, hình thức gì,
đi theo tốc độ nào để tiến dần lên chủ nghĩa xã hội? Đó là những gì đặt ra trước mắt
Đảng ta hiện nay” (Hồ, 2021h, 92). Có thể hiểu đó là cách làm (phương pháp), biện
pháp (hình thức) và bước đi (tốc độ) tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Theo Người, muốn giải quyết mọi vấn đề trên, muốn đỡ phải mò mẫm, đỡ
phạm sai lầm thì phải luôn tôn trọng quy luật khách quan, đánh giá đúng thực tiễn,
học hỏi kinh nghiệm phong phú của các nước khác, phải nâng cao trình độ lý luận
chung của Đảng và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. Người khẳng định:
“Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin để dùng lập trường,
quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của
Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế,
chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam,
định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội
chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta” (Hồ, 2021h, 92).
Đối với Người, việc nghiên cứu, khảo sát thế giới, khu vực và quốc tế trước
hết là nhằm phát triển dân tộc Việt Nam, đặt cách mạng Việt Nam sao cho phù hợp
với trào lưu, xu thế chung của thời đại. Hồ Chí Minh đã giải đáp một cách khoa học
và cách mạng, toàn diện và triệt để về độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Sự
khẳng định quyền tự chủ, quyền được hưởng độc lập tự do, quan điểm dựa vào
dân và khối đại đoàn kết toàn dân đã được Hồ Chí Minh phát triển và nâng lên tầm
cao mới. Độc lập, tự do, hạnh phúc là những giá trị thiết thực của nhân dân, đảm
bảo quy luật phát triển vững bền của đất nước. “Không có gì quý hơn độc lập tự
do” đó là giá trị của mọi giá trị, quyền của mọi quyền, cũng là chân lý của mọi chân lý,
chân lý lớn nhất, hệ trọng và thiêng liêng nhất, của con người và lịch sử.
Theo Hồ Chí Minh, muốn nâng cao đời sống nhân dân, phải tiến lên chủ nghĩa
xã hội và “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức sống của nhân
279
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

dân” (Hồ, 2021i, 604). Đó là tiêu chí tổng quát để khẳng định và kiểm nghiệm tính chất
xã hội chủ nghĩa của các lý luận chủ nghĩa xã hội và chính sách thực tiễn. Người chỉ ra
rằng, không có chủ nghĩa xã hội chung chung, trừu tượng, mà chủ nghĩa xã hội bao
giờ cũng phải dựa trên mảnh đất hiện thực được thể hiện sinh động và cụ thể trong
từng quốc gia dân tộc, trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân lao động. Người đề ra
mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với các đặc điểm Việt Nam, từ một nước
nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa. Một mặt, Người gắn lý luận Mác - Lênin với thực tiễn Việt Nam. Xuất
phát từ thực tiễn Việt Nam và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh
nhận định: Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phải trải qua một thời kỳ
quá độ gián tiếp. Mặt khác, Người không duy ý chí, không trông chờ chủ nghĩa xã hội
tự khắc đến với các dân tộc kém phát triển như dân tộc Việt Nam. Người cho rằng, chủ
nghĩa xã hội không phải từ trên trời rơi xuống mà do con người xây dựng nên, “muốn
người ta giúp mình thì tự mình phải giúp lấy mình đã”. Con người phải biết tự nâng
mình lên thành người chủ xã hội để chiến thắng mọi trở ngại khó khăn, nhằm xây dựng
cho được xã hội mới ấm no, hạnh phúc cho mình và cho mọi người. Từ lý luận gắn với
thực tiễn, Người nêu lên một quan điểm có ý nghĩa triết lý dự báo tầm xa rằng “chủ
nghĩa xã hội cộng với khoa học chắc chắn sẽ đưa loài người tới hạnh phúc vô tận” (Hồ,
2021h, 354). Đồng thời, Người cũng chỉ ra tính chất khó khăn phức tạp của thời kỳ quá
độ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Đây là một cuộc cách mạng làm đảo lộn
mọi mặt của đời sống xã hội, cả lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ
tầng lẫn kiến trúc thượng tầng, đặt ra và giải quyết hàng loạt mâu thuẫn, mà mâu thuẫn
cơ bản nhất là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của đất nước với thực trạng của
nền kinh tế - xã hội thấp kém. Người xác định rằng, “chủ nghĩa xã hội không thể làm
mau được mà phải làm dần dần” (Hồ, 2021g, 390). Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta chưa có kinh nghiệm; để tránh vấp váp, thiếu sót,
sai lầm, một mặt ta phải học tập kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước
anh em, mặt khác phải vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta luôn bị các thế lực phản
động trong và ngoài nước tìm mọi cách chống phá, ta phải thận trọng, tránh nôn nóng,
chủ quan, phải tôn trọng quy luật khách quan, phải xác định bước đi, hình thức,
phương pháp phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam.

280
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

2. VẬN DỤNG NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CÓ GIÁ TRỊ BỀN VỮNG CỦA
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP
XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Hiện nay, bối cảnh thế giới với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đặt ra
những thời cơ và thuận lợi mới, thúc đẩy hòa bình, hợp tác cùng phát triển và củng
cố an ninh, quốc phòng. Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, đặc
biệt là “Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển
mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi
quốc gia, dân tộc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 106). Các nước trong khu vực
Đông Nam Á tiếp tục đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức ngày càng gay gắt, quyết
liệt hơn, bởi sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa bá quyền, nước
lớn; hoạt động ly khai, tự trị; tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo… đe dọa
nghiêm trọng lợi ích, an ninh của nhiều quốc gia. “Những vấn đề toàn cầu, như: bảo
vệ hòa bình, an ninh con người, thiên tai, dịch bệnh, an ninh xã hội và an ninh phi
truyền thống, nhất là an ninh mạng, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi
trường,... tiếp tục diễn biến phức tạp” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 106-107).
Đất nước với những thành tựu quan trọng sau hơn 35 năm đổi mới đã tạo ra
thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế, niềm tin của nhân dân được
nâng cao, tạo cơ sở vững chắc để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, sự tác động
tổng hợp, đa dạng, nhiều chiều, rất mạnh mẽ và sâu sắc của tình hình thế giới, Việt
Nam có những thuận lợi và thời cơ mới, đồng thời gây ra những khó khăn, thách
thức to lớn trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Điều
này đặt ra một cách bức thiết phải tiếp tục quán triệt sâu sắc và vận dụng những
giá trị bền vững của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội trong tình hình mới.
Thứ nhất, kiên định và vận dụng sáng tạo con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
Hiện nay, những luận điệu của các thế lực thù địch là những phần tử cơ hội, bất
mãn chính trị, những kẻ thâm thù cộng sản, đối lập và phản bội cách mạng, giả danh
khoa học, những người a dua, kiêu ngạo, thậm chí có cán bộ, đảng viên “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”,... không ngừng xuyên tạc, sai trái, phủ nhận quan điểm của
Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điển hình là các bài
viết như: “Chủ nghĩa xã hội đối lập với độc tài cộng sản Việt Nam” và một số phát
281
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

ngôn của Nguyễn Văn Đài (trên Bloger của hoianhemdanchu, ngày 20/5/2021); “Lãnh
tụ” của Sơn Nghị đăng ngày 29/5/2020; “Bài cuồng ca lãnh tụ” (của Vũ Đông Hà,
đăng ngày 10/8/2020); bài viết “Lênin và đám mù lòa” (của Đỗ Ngà, đăng trên
Chantroimoi media, ngày 18/5/2021); bài viết “Ông Trọng - Tín đồ cuồng tín cuối cùng
mácxít” (của Phạm Minh Vũ, đăng trên Chantroimoi media, ngày 18/5/2021); bài viết
“Nguyễn Phú Trọng và con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa” (của Trung Điền - Việt
Tân, đăng trên Chantroimoi media, ngày 19/5/2021);... Những luận điệu nêu trên tuy
không mới nhưng được thực hiện theo kiểu “xào đi xáo lại”, “mưa lâu thấm dần”, lại
thường xuyên đưa lên mạng xã hội, blog,... vào những thời điểm đất nước có những
sinh hoạt chính trị quan trọng nên rất độc hại, nguy hiểm, dễ gây hoang mang, dao
động, mất niềm tin trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Thấu hiểu được hoàn cảnh dân tộc, kinh qua nghiên cứu thực tiễn và học hỏi
lý luận, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác -
Lênin, coi đó là “cẩm nang” cho dân tộc tiến bước trên con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Tuyệt nhiên không phải là sự nhập khẩu, “sao chép” hay áp đặt lý
luận này cho dân tộc Việt Nam, mà với tình yêu giai cấp và thấu cảm tình cảnh của
nhân loại, Người đã tìm đường, Người mở đường, Người dẫn đường nhằm xây
dựng xã hội mới, cuộc sống mới. Nhưng có nhiều luận điệu xuyên tạc, sai trái của
các thế lực thù địch chống phá con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội ngay từ khi Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo cuộc kháng chiến, kiến
quốc cho đến ngày nay.
Những kẻ phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội phải hiểu rằng
cống hiến lớn nhất của Người cho cách mạng Việt Nam là tư tưởng độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Muốn có độc lập tự do thì phải xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Người chỉ rõ: “Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận
Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những
người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ” (Hồ, 2021i, 563). Về lý luận xây dựng
chủ nghĩa xã hội trong di sản Hồ Chí Minh, Giáo sư Shingô Shibata viết: “Việc Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam đề ra lý luận về chủ nghĩa xã hội
trong hoàn cảnh có chiến tranh là một cống hiến hết sức to lớn. Thông thường người
ta cho rằng chỉ có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện hòa bình, việc đề

282
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

ra lý luận vừa tiến hành chiến tranh vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn
mới” (Bùi, 1997, 10).
Những luận điệu bôi đen, phán xét trên xuất phát từ hiện tượng, mà không có
sự nhìn nhận một cách khách quan, thấu đáo, nghiêm túc về bản chất, nguồn gốc của
vấn đề và không dựa vào sự thật của lịch sử. Bởi vì, những quan điểm của Hồ Chí
Minh về chủ nghĩa xã hội luôn lấy thực tiễn cụ thể Việt Nam làm căn cứ, không giáo
điều hay rập khuôn mô hình nào. Hơn ai hết, Người nhận thức sâu sắc về một nước
Việt Nam có nền nông nghiệp lạc hậu, lại bị thực dân đế quốc bóc lột nặng nề, có xuất
phát điểm thấp, chưa kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, cho nên con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội hoàn toàn không bằng phẳng, mà có vô vàn những
khó khăn, thử thách, phức tạp. Người cho rằng “biến đổi một xã hội cũ thành một xã
hội mới, không phải là một chuyện dễ” (Hồ, 2021j, 376), nên xác định “xây dựng chủ
nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài” (Hồ,
2021h, 216). Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phải trải qua nhiều
bước, “bước ngắn, bước dài, tùy theo hoàn cảnh” (Hồ, 2021f, 464), nhưng không được
“làm mau, ham rầm rộ” mà phải đi bước nào chắc bước ấy và cứ tiến tới dần dần.
Những quan điểm trên của Hồ Chí Minh là cơ sở quan trọng để tiếp tục kiên định,
sáng tạo, tự chủ trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công. “Có thể nói,
Hồ Chí Minh trong những kiến giải về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam đã gợi mở cho chúng ta một khái quát lý luận cô đọng, được rút ra từ
thực tiễn và tổng kết thực tiễn, rằng, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
phải làm đúng quy luật, phải thuận lòng dân và hợp thời đại” (Hoàng, 2012, 271).
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 nhấn mạnh: “Giáo dục trong Đảng và
trong nhân dân kiên trì mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở quán triệt năm
nguyên tắc và những chính sách đổi mới của Đảng” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1989,
11). Như đánh giá của V.M. Xônxép (Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Nga) cho rằng:
thế giới có những biến đổi lớn lao; các khái niệm về chủ nghĩa xã hội, về các con
đường và phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng thay đổi; nhưng có một số
điều không thay đổi là: Lý tưởng xã hội chủ nghĩa, các tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa,
tự do, dân chủ và công bằng xã hội sẽ được nhân loại nhớ mãi về nhà yêu nước vĩ đại
như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn đời (Trung tâm Khoa học xã hội và
Nhân văn quốc gia & Ủy ban UNESCO của Việt Nam, 1995, 120).

283
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Thứ hai, kiên định chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu con người.
Theo Hồ Chí Minh, con người có ý nghĩa như một tiền đề xuất phát, một tư
tưởng chỉ đạo, một lực lượng thực hiện, là mục đích của tư tưởng: bắt đầu từ con
người, vì con người, do con người và trở về với con người. Bằng cái nhìn cụ thể hoàn
cảnh dân tộc, không hề có rập khuôn hay giáo điều nào, Người xác định con đường
xã hội chủ nghĩa ngay từ đầu là phải “Làm cho người nghèo thì đủ ăn. Người đủ
ăn thì khá giàu. Người khá giàu thì giàu thêm. Người nào cũng biết chữ. Người nào
cũng biết đoàn kết, yêu nước” (Hồ, 2021d, 81). Người yêu cầu mọi chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước đều hướng đến nhân dân, chăm lo lợi ích của dân, “việc
gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì ta phải hết sức tránh”.
Mục tiêu trong cách mạng giải phóng dân tộc hay trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa cũng đều vì dân, “đem tài dân, sức dân để làm lợi cho dân”, dân phải được
hưởng giá trị của độc lập là ấm no, hạnh phúc. Điều này chỉ có chủ nghĩa xã hội mới
có đảm bảo chắn và bền vững vì mục tiêu con người. “Chúng ta cần một xã hội mà
trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc
lột và chà đạp lên phẩm giá con người” (Nguyễn, 2022, 21). Như đánh giá của đồng
chí Phimmasnon (Lào) rằng đây chính là chân lý mà mọi người dân đã và đang mong
ước, đang lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi (Nguyễn, 2022, 614).
Trong quá trình trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người luôn coi trọng
vai trò của lực lượng sản xuất, của quan hệ sản xuất phù hợp, của các nhân tố kinh
tế, của động lực lợi ích đối với sự phát triển. “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”
(Hồ, 2021c, 7), Người nhấn mạnh vai trò quan trọng của “trồng người” là chiến lược
hàng đầu nhằm phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp đổi mới. Người
khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất định phải có học thức. Cần
phải học văn hóa, chính trị, kỹ thuật. Cần phải học lý luận Mác - Lênin kết hợp với
đấu tranh và công tác hàng ngày” (Hồ, 2021c, 90), (Hồ, 2021j, 117). “Người có học
mới tiến bộ. Càng học càng tiến bộ” (Hồ, 2021d, 17). Người khẳng định: “Chủ nghĩa
xã hội là mọi người cùng ra sức lao động sản xuất để được ăn no, mặc ấm, và có nhà
ở sạch sẽ” (Hồ, 2021j, 438); và “xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh
thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội” (Hồ, 2021j, 438). Để xây dựng được chủ
nghĩa xã hội cần phải “có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa
học tiên tiến” (Hồ, 2021i, 412). Những quan điểm của Người với mục tiêu luôn

284
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

hướng về nhân dân của chủ nghĩa xã hội đều được thể hiện trong thực tiễn đất
nước. Vì vậy, ngày nay, Đảng và Nhà nước vẫn luôn nỗ lực thực hiện di nguyện
của Người là “phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không
ngừng nâng cao đời sống của nhân dân” (Hồ, 2021k, 622). Đúng như nhận định của
Ahn Kyong Hwan (giáo sư người Hàn Quốc) là: “Tôi nghĩ rằng trong tương lai các
nhà lãnh đạo trên thế giới cần tiếp nhận tinh thần Chủ tịch Hồ Chí Minh thì đất
nước họ sẽ tốt đẹp và nhân dân họ sẽ hạnh phúc” (Hồ Chủ Tịch trong ấn tượng của
Giáo sư Hàn Quốc, 2011). Chính những quan điểm và hành động của Hồ Chí Minh
vì nhân dân, vì dân tộc và sự phát triển đất nước cho đến nay đã chứng minh và
đạp tan một số quan điểm cho rằng, định hướng và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa
xã hội là quá xa vời, không cụ thể, không hiện thực.
Thứ ba, kiên định chủ nghĩa xã hội gắn liền với đổi mới và phát triển tiến bộ xã hội.
Các luận điệu xuyên tạc rằng, chủ nghĩa xã hội chỉ là “cái vỏ bề ngoài” bao bọc
một xã hội tư bản và nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa (!). RFA (Đài châu Á
tự do) với bài viết: “Vì sao từ bỏ chủ nghĩa xã hội?” (ngày 19-1-2017) cho rằng trong
Di chúc, Hồ Chí Minh không nói đến chủ nghĩa xã hội; “Kiên định “định hướng xã
hội chủ nghĩa” vì không muốn phải nhận sai lầm” (ngày 10/6/2020); một số phỏng
vấn trên VOA như của Nguyễn Đình Cống, Lê Trung Khoa, Trương Quốc Huy;...
Có một số bài viết cuồng ngôn ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản như một giá trị
vĩnh hằng, là đáp án mà Việt Nam cần hướng đến; chứ không ngủ quên với vài kết
quả được coi là thành tựu 35 năm đổi mới.
Cần phải nhìn nhận rằng, Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là sự sụp đổ của một
mô hình xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh luôn chủ trương nêu cao tinh thần độc lập,
tự chủ, linh hoạt, sáng tạo và học hỏi có chọn lọc mô hình nước ngoài. “Ta không
thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác... ta
có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội” (Hồ, 2021g, 391). Người nói
về đổi mới “là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra
những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ
này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng
vĩ đại của toàn dân” (Hồ, 2021k, 617). Trong tác phẩm Di chúc, Người có nhắc tới ba
lần viết về cụm từ chủ nghĩa xã hội; toàn bộ Di chúc chứa đựng tinh thần, tầm nhìn
đổi mới, hội nhập, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Việt Nam

285
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

tiến hành công cuộc đổi mới trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội tạo ra cơ sở
kinh tế, tiền đề vật chất quan trọng, thúc đẩy phát triển toàn diện đất nước, đời sống
nhân dân được nâng cao. Đổi mới ở Việt Nam là tất yếu của lịch sử và gắn với trách
nhiệm của toàn Đảng, toàn dân. Có đổi mới và phát triển thì mới đảm bảo sự nghiệp
chủ nghĩa xã hội đi đến thành công. Người nói: “Công việc đổi mới, xây dựng là
trách nhiệm của dân” (Hồ, 2021e, 232). Bởi nếu không có đổi mới, không có sự phát
triển tạo ra nền tảng kinh tế - xã hội thì sẽ trở thành một nước yếu thế, nghèo nàn,
và nếu không tự cường, giàu mạnh thì sẽ bị chi phối, bị thôn tính. Trải qua hơn 35
năm đổi mới, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín
quốc tế như ngày nay” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 25). Điều này minh chứng
sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, trên cơ sở lý luận của Hồ Chí Minh.
Cần có quan điểm đầy đủ, khách quan và chính xác về bản chất của chủ nghĩa
tư bản và không nên tuyệt đối hóa cho rằng chủ nghĩa tư bản đều tốt đẹp và ưu việt
hơn chủ nghĩa xã hội về mọi phương diện. Trên thế giới, chủ nghĩa tư bản đang
chiếm đại đa số các quốc gia và có nhiều thành tựu to lớn, tác động thay đổi kinh tế
- xã hội của nhân loại, không thể phủ nhận những giá trị của tư bản mang lại cho
thế giới, nhưng bản thân chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại những mâu thuẫn không thể
điều hòa được. “Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản
chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn
có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao
của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng
những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế,
chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 68). Chính từ
mâu thuẫn trên dẫn tới những mâu thuẫn giữa các giai tầng trong xã hội với giai
cấp tư sản, giữa các tập đoàn tư bản và các công ty xuyên quốc gia, các trung tâm
tư bản sẽ tiếp tục phát triển. Mặc dù đã có sự điều chỉnh để thích nghi với điều kiện
ngày nay, nhưng chủ nghĩa tư bản với bản chất bóc lột vẫn mang tính cố hữu, đồng
thời những hạn chế, khuyết tật về sự xung đột, khủng bố, bạo lực và bất ổn xã hội,
khủng hoảng kinh tế, bất bình đẳng xã hội,... của chủ nghĩa tư bản vẫn không thay
đổi, mà diễn ra hết sức gay gắt và phức tạp. Như đánh giá của học giả Allen W.
Wood cho rằng: “Phần lớn mọi người đều cho rằng Mỹ là quốc gia giàu có nhất trên
thế giới, nhưng đó cũng là quốc gia bất bình đẳng nhất trên thế giới: 400 người giàu

286
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

nhất nước Mỹ sở hữu khối lượng tài sản cao hơn tổng số tài sản của 150 triệu người
nghèo nhất. Những người giàu nhất chiếm 1% dân số nhưng lại sở hữu hơn 1/3 tổng
lượng tài sản của toàn xã hội, vượt quá tổng lượng tài sản của những người có thu
nhập thấp nhất nước Mỹ - đối tượng chiếm tới 95% dân số” (Fives & Breen, 2016).
Với những mâu thuẫn mang tính bản chất như trên, cùng sự vận động của quy luật
xã hội, xu hướng diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản vẫn là vấn đề thời sự từ
thời Mác sống tới nay.
Tóm lại, Chủ tịch Hồ chí Minh để lại di sản có giá trị bền vững, đặt ra cho
Đảng và dân tộc tiếp tục kiên định và phát triển sáng tạo tư tưởng của Người
nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội phát triển thịnh vượng, vì một khát vọng Việt
Nam hùng cường.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Bùi, Đ. T. (1997). Bảo vệ và xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam theo tư tưởng cách mạng Tháng Mười. Tạp Chí Nghiên Cứu Lịch Sử.
[2]. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập (Vol. 8). (1993a). Chính trị quốc gia.
[3]. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập (Vol. 42). (1993b). Chính trị quốc gia.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1989). Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương khóa VI. Sự thật.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Chính trị quốc gia.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
(Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[7]. Fives, A., & Breen, K. (2016). Philosophy and Political Engagement: Reflection in
the Public Sphere. Palgrave Macmillan.
[8]. Hồ, C. M. (2021a). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 1). Chính trị quốc gia.
[9]. Hồ, C. M. (2021b). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 2). Chính trị quốc gia .
[10]. Hồ, C. M. (2021c). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 4). Chính trị quốc gia.
[11]. Hồ, C. M. (2021d). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 5). Chính trị quốc gia.
[12]. Hồ, C. M. (2021e). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 6). Chính trị quốc gia.

287
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

[13]. Hồ, C. M. (2021f). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 9). Chính trị quốc gia.
[14]. Hồ, C. M. (2021g). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 10). Chính trị quốc gia.
[15]. Hồ, C. M. (2021h). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 11). Chính trị quốc gia.
[16]. Hồ, C. M. (2021i). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 12). Chính trị quốc gia.
[17]. Hồ, C. M. (2021j). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 13). Chính trị quốc gia Sự thật.
[18]. Hồ, C. M. (2021k). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 15). Chính trị quốc gia.
[19]. Hồ Chủ tịch trong ấn tượng của giáo sư Hàn Quốc. (2011). Tạp chí Tuyên giáo.
https://tuyengiao.vn/theo-guong-bac/ho-chu-tich-trong-an-tuong-cua-giao-
su-han-quoc-31464
[20]. Hoàng, C. B. (2012). Chủ nghĩa xã hội hiện thực và quá độ lên chủ nghĩa xã hộ̂i ở
Việt Nam. Chính trị quốc gia - Sự thật.
[21]. Nguyễn, P. T. (2021). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (Vol. 1). Chính trị quốc gia - Sự thật.
[22]. Nguyễn, P. T. (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính trị quốc gia - Sự thật.
[23]. Trần, V. G. (1993). Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách
mạng Tháng Tám; Thành công của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thành phố Hồ Chí Minh.
[24]. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia & Ủy ban UNESCO của Việt
Nam. (1995). Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc nhà văn hóa lớn.
Khoa học xã hội.

288
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

QUAN NIỆM CỦA LÊNIN VỀ QUYỀN LỰC, KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC
VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG QUÁ TRÌNH
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Nguyễn Thị Liên
Trường Đại học Thương mại
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Liên, email: nguyenliensp1210@gmail.com

Tóm tắt: Kiểm soát quyền lực nhà nước là một yêu cầu tất yếu khách quan trong tiến
trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay. Hơn lúc nào hết, trở lại những luận điểm cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin về
vấn đề nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước là đòi hỏi của công cuộc bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống những quan điểm sai trái, xuyên tạc. Bài
viết khái quát quan điểm của Lênin về quyền lực và kiểm soát quyền lực, qua đó góp
phần nhận diện rõ hơn và sự vận dụng của Đảng về vấn đề quyền lực và kiểm soát
quyền lực ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: quyền lực; kiểm soát quyền lực; nhà nước pháp quyền.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Quyền lực của bộ máy quản lý nhà nước được phân chia theo các hệ thống
quản lý khác nhau thành một hệ thống các chức vụ, chức danh và vị trí làm việc.
Mỗi chức vụ, chức danh, vị trí công tác trong bộ máy quản lý được phân chia một
phạm vi quyền lực nhất định và giao cho một cá nhân nhất định đảm nhiệm. Như
vậy, quyền lực của bộ máy quản lý trở thành quyền lực của cá nhân. Để ràng buộc
các cá nhân trong bộ máy quản lý nhà nước sử dụng đúng quyền lực, sự phân chia
quyền lực trong bộ máy quản lý nhà nước phải gắn với những trách nhiệm cụ thể,
đồng thời phải thiết lập cơ chế kiểm soát hữu hiệu để người có quyền lực sử dụng
quyền lực một cách đúng đắn.
Tuy nhiên, khi pháp luật (cơ sở để xã hội ủy quyền cho nhà nước) có nội dung
không phù hợp với yêu cầu của xã hội; khi người dân - người ủy quyền cho bộ máy
nhà nước và công chức - không làm chủ cơ chế kiểm soát trở lại bộ máy nhà nước

289
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

và công chức, thì bộ máy nhà nước và công chức dường như độc lập với người dân,
xa lạ với người dân, có sức mạnh (kinh tế, bạo lực, tinh thần) chi phối mạnh mẽ đời
sống của từng người dân. Đặc biệt, khi bộ máy nhà nước trở thành tổ chức quan
liêu, đứng trên xã hội, tự mình đề ra luật pháp, thực hành và xét xử luật pháp do
mình đặt ra, thì chỉ cần tham gia vào bộ máy nhà nước, bất kể bằng cách nào, cơ
quan, cá nhân công chức tự nhiên có quyền lực, không phụ thuộc vào ý nguyện của
người dân - người ủy quyền quản lý xã hội cho bộ máy nhà nước. Hơn nữa, nếu bộ
máy nhà nước đó xa dân, hành xử theo quan điểm độc đoán, chuyên quyền của giới
cầm quyền thì bộ máy đó trở thành công cụ bảo vệ đặc quyền, đặc lợi cho những
người tham gia vào bộ máy nhà nước và họ ra sức tìm mọi cách áp đặt ý chí và cơ
chế quản lý xã hội có lợi cho họ. Đó là khi quyền lực chính trị trở thành độc quyền,
thành sự lũng đoạn của một nhóm lợi ích nào đó và người dân ở vào trạng thái tê
liệt, không có cơ chế thu lại quyền lực chính trị đã ủy quyền cho nhóm đó. Chỉ đến
khi nào công dân không thể chịu đựng được tình trạng quan liêu và phi dân chủ
đó, họ quyết định cung cách lựa chọn và kiểm soát bộ máy quản lý mới, thì tình
trạng lũng đoạn đó mới bị phá vỡ để thiết lập lại bộ máy nhà nước với sự giao phó
quyền lực và sự kiểm soát trở lại bộ máy nhà nước bằng hệ thống pháp luật mới.
Trước tình hình đó việc kế thừa vận dụng tư tưởng của Lênin về quyền lực và kiểm
soát quyền lực có ý nghĩa vô cùng cần thiết trong việc xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

2. NỘI DUNG
2.1. Quan niệm của Lênin về quyền lực và kiểm soát quyền lực
Quan điểm của Lênin về quyền lực và kiểm soát quyền lực nhà nước được thể
hiện khá toàn diện về sự cần thiết của việc kiểm soát quyền lực nhà nước và những
phương thức, điều kiện cụ thể để đảm bảo kiểm soát quyền lực nhà nước có hiệu quả.
Qua hoạt động thực tiễn, Lênin đã thấy được nguy cơ sự tha hóa quyền lực
nhà nước ngay cả khi trong thời kỳ xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa. Quyền lực
nhà nước là do nhân dân ủy quyền nhưng chính những người được ủy quyền lại
lạm dụng, lộng quyền, không thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ được giao, bộ
máy nhà nước trở thành thiết chế đứng ngoài và đứng trên nhân dân. Nguyên nhân
của sự tha hóa quyền lực do hoàn cảnh chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại, chế độ sở hữu

290
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

tư nhân tư liệu sản xuất vẫn còn tồn tại, bên cạnh đó, trình độ dân trí thấp chưa đủ
sức kiểm soát quyền lực nhà nước… “Trong các tổ chức chính trị và công đoàn của
chúng ta, viên chức bị hủ hóa bởi hoàn cảnh tư bản chủ nghĩa, họ có xu hướng biến
thành những người quan liêu, nghĩa là thành những nhân vật có đặc quyền, thoát
ly quần chúng và đứng trên quần chúng” (Lênin, 2005, 141). Chính vì vậy, để hạn
chế sự tha hóa đó, đảm bảo cho quyền lực nhà nước được thực hiện có hiệu quả.
Lênin chỉ ra yêu cầu phải thiết lập được cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.
Lênin cho rằng, trong cơ chế kiểm soát quyền lực từ bên ngoài và bên trong
bộ máy nhà nước, Lênin nhấn mạnh đến việc nhân dân tham gia kiểm soát quyền
lực nhà nước. Đây là cơ chế hữu hiệu để đảm bảo cho các cơ quan nhà nước thực
sự hoạt động vì lợi ích và ý chí của nhân dân. Người dân sau khi đã ủy quyền cho
cơ quan nhà nước thì vẫn có quyền kiểm soát bộ máy nhà nước đó để không bị mất
quyền, lạm quyền. Các cơ quan nhà nước phải có mối liên hệ mật thiết với nhân
dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân để không trở thành quan liêu, thành
bộ máy nhà nước đứng trên nhân dân.
V.I.Lênin cho rằng, đấu tranh để giải quyết vấn đề quyền lực, mà trước hết là
quyền lực nhà nước, chỉ có thể là cuộc đấu tranh chính trị với ý nghĩa là trình độ phát
triển cao nhất của đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp ở trình độ đấu tranh chính
trị là dấu hiệu chín muồi của cuộc cách mạng xã hội. Vấn đề của mọi cuộc cách mạng
xã hội là vấn đề chính quyền nhà nước. Đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai
cấp tư sản là cuộc đấu tranh giành lấy quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước về tay
giai cấp vô sản. Quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước của giai cấp vô sản là nhà
nước và nền dân chủ vô sản (dân chủ cho đông đảo nhân dân lao động).
Nhấn mạnh bản chất giai cấp của nhà nước, V.I.Lênin cho rằng: “Nhà nước là
một tổ chức quyền lực đặc biệt, nó là tổ chức bạo lực dùng để trấn áp một giai cấp
nào đó” (Lênin, 2005, 30). Tuy nhiên, nhà nước chuyên chính vô sản, mặc dù là
quyền lực của giai cấp vô sản và nhân dân lao động, nhưng là quyền lực của số
đông, của một xã hội đang tiến đến không còn giai cấp đối kháng nên là nhà nước
kiểu mới, dân chủ kiểu mới.
Để giành được chính quyền, Đảng Cộng sản cần đấu tranh chống các thế lực
phản động có nghĩa trước hết là tách quần chúng ra khỏi ảnh hưởng tư tưởng của
thế lực phản động. Đảng Cộng sản phải làm chủ cả ba hình thức đấu tranh: kinh tế,
291
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

chính trị (giành lấy chính quyền) và đấu tranh lý luận. Đặc biệt, V.I.Lênin đề cao vai
trò của các tổ chức chính trị - xã hội, coi đó là những thực thể cấu thành hệ thống
chuyên chính vô sản. Ông nhấn mạnh sự cần thiết xây dựng đảng kiểu mới của giai
cấp vô sản trong điều kiện đã nắm chính quyền sao cho Đảng Cộng sản đủ năng
lực, tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm và danh dự của thời đại. Trước thực tế xuất hiện
một số cán bộ lãnh đạo đảng thiếu tri thức, kinh nghiệm, trình độ văn hóa thấp, có
thái độ quan liêu, xa rời quần chúng, xa rời thực tiễn, thậm chí thoái hóa, biến chất
bởi tham vọng quyền lực, thói kiêu ngạo cộng sản, vụ lợi cá nhân, nhận hối lộ…,
V.I.Lênin đề cao nhiệm vụ chỉnh đốn đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng, tổ chức, coi đó là nhiệm vụ có tính then chốt.
Đặc biệt, trong xây dựng thể chế dân chủ mới, dân chủ xã hội chủ nghĩa,
V.I.Lênin cho rằng, sau khi giai cấp vô sản nắm được chính quyền, cuộc đấu tranh
của nó vì những mục tiêu dân chủ không những không dừng lại mà còn tiếp tục
trong những điều kiện mới với những nội dung, hình thức, chất lượng mới ngày
càng đầy đủ và triệt để hơn và vạch rõ: tính chất xã hội chủ nghĩa của dân chủ vô
sản: một là, các cử tri đều là quần chúng lao động; hai là, mọi thủ tục cũ đều phải
phá bỏ, nhân dân sẽ xây dựng lại các thủ tục, thời hạn bầu cử và có toàn quyền bãi
miễn những người mà họ đã bầu ra; ba là, hình thành một tổ chức quần chúng tốt
nhất của đội tiền phong của những người lao động để giúp toàn thể nhân dân có thể
làm chủ trong thực tế. Ngoài ra cần xây dựng chế độ tự quản như là một hình thức
của chế độ dân chủ vô sản. Từng bước thiết lập một nền tự quản địa phương rộng
rãi. Ông chủ trương “Phế bỏ chế độ đại nghị (là chế độ tách rời công tác lập pháp và
công tác hành pháp); hợp nhất công tác lập pháp và công tác hành pháp của nhà
nước lại; hợp nhất công tác quản lý và công tác lập pháp” (Lênin, 1980a, 91).
V.I.Lênin nhấn mạnh sứ mệnh của giai cấp vô sản là: thông qua nhà nước của
mình từng bước tổ chức để toàn thể nhân dân tham gia quản lý nhà nước một cách
dân chủ những tư liệu sản xuất đã tước đoạt được của giai cấp tư sản. Người nói,
chính quyền Xô viết, “đồng thời với việc mở rộng rất nhiều chế độ dân chủ - lần
đầu tiên biến thành chế độ dân chủ cho người nghèo, cho nhân dân lao động, chứ
không phải cho bọn nhà giàu…” (Lênin, 2005, 109). Sự phát triển của chế độ dân
chủ một cách đầy đủ là làm cho toàn thể nhân dân thực sự tham gia một cách bình
đẳng vào mọi công việc của nhà nước. Người viết: “Không có chế độ dân chủ thì

292
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

chủ nghĩa xã hội không thể thực hiện được theo hai ý nghĩa sau đây: 1) Giai cấp vô
sản không thể hoàn thành được cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nếu họ không
được chuẩn bị cho cuộc cách mạng đó thông qua cuộc đấu tranh cho chế độ dân
chủ. 2) Chủ nghĩa xã hội chiến thắng sẽ không giữ được thắng lợi của mình và sẽ
không dẫn được nhân loại đi đến chỗ thủ tiêu nhà nước, nếu không thực hiện đầy
đủ chế độ dân chủ” (Lênin, 1980b, 167).
Về cơ chế thực hiện dân chủ, V.I.Lênin cho rằng, nội dung dân chủ phải được
đảm bảo bằng Hiến pháp, bằng hệ thống pháp luật. Người đề nghị xây dựng luật,
xây dựng cơ chế để quần chúng kiểm tra, giám sát cơ quan nhà nước và cán bộ quản
lý nhà nước, coi đó là biện pháp hữu hiệu chống quan liêu, tham ô, lãng phí. Do đó,
không phải chỉ tuyên truyền về dân chủ, tuyên bố và ra sắc lệnh về dân chủ, không
phải chỉ giao trách nhiệm thực hiện chế độ dân chủ cho những người đại diện nhân
dân trong những cơ quan đại biểu là đủ, mà phải xây dựng ngay chế độ dân chủ từ
cơ sở, dựa vào ý kiến của bản thân quần chúng, với sự tham gia thực sự của quần
chúng vào tất cả đời sống của nhà nước, không có sự giám sát từ trên, không có
quan lại. Người nhấn mạnh: xây dựng và thực hiện quyền lực của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động là mục tiêu, là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Cần xác lập và giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước
nhằm đưa lại nhiều nhất những cơ hội để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của
mình, phát huy tính chủ động, sáng tạo của quần chúng trong xây dựng chế độ mới.
Thành công trong lãnh đạo và quản lý là ở chỗ biết sống trong lòng quần chúng,
biết tâm trạng quần chúng và giữ được lòng tin tuyệt đối của quần chúng.
Bên cạnh đó, V.I.Lênin phát động phong trào cải cách bộ máy quản lý nhà
nước. Theo Người, bộ máy vững mạnh phải thích nghi được với mọi sự biến đổi.
Muốn chế độ vững mạnh thì bộ máy quản lý nhà nước phải hoàn toàn phục tùng
mục tiêu chính trị. Thành phần bộ máy phải bảo đảm được việc đông đảo quần
chúng có thể kiểm tra được mọi công việc của nhà nước. V.I.Lênin đưa ra chủ
trương công nhân hóa các cục, các cơ quan trung ương, các bộ phận của chính quyền
Xô viết nói chung để cho đông đảo quần chúng học được cách quản lý nhà nước và
đẩy mạnh cải cách bộ máy hành pháp vì: “Bộ máy ấy rất thường không phục vụ
chúng ta mà lại chạy ngược lại chúng ta. Muốn cải thiện nó phải có nhiều cố gắng
và tài năng. Chống quan liêu đòi hỏi phải nâng cao không ngừng trình độ văn hóa

293
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

của cán bộ và phải rèn luyện cả đức tính kiên trì” (Lênin, 1980c, 217). V.I.Lênin đề
cao tính thượng tôn pháp luật trong vận hành nhà nước XHCN và tính thống nhất
của pháp luật trong toàn quốc, chống lại thói quen tùy tiện, địa phương chủ nghĩa.
V.I.Lênin viết: “Chính phủ ta đã đấu tranh không khoan nhượng chống thói chuyên
quyền và những hành động vi phạm pháp luật” (Lênin, 1980d, 588). Theo đó, Người
mong muốn: các Xô viết địa phương và cơ quan trực thuộc của nó đề ra được các
biện pháp để đấu tranh với thói chuyên quyền và những hành động vi phạm pháp
luật. Để đảm bảo tính pháp chế trong hành pháp, ủy viên công tố phải chịu trách
nhiệm để các quyết định của Xô viết địa phương không đi ngược lại pháp luật.
Theo V.I.Lênin, quan liêu là “những nhân vật có đặc quyền, thoát ly quần
chúng, và đứng trên quần chúng” (Lênin, 2005, 141). Nguồn gốc của quan liêu, tham
nhũng là tư tưởng tư hữu và tính bảo thủ. Để giải quyết tận gốc quan liêu, tham
nhũng phải giải quyết triệt để vấn đề giai cấp và tư hữu, Người viết: “Chừng nào mà
bọn tư bản chưa bị tịch thu tài sản, chừng nào mà giai cấp tư sản chưa bị lật đổ, thì
ngay những viên chức của giai cấp vô sản cũng không thể tránh khỏi “quan liêu hóa”
đến một mức nào đó” (Lênin, 2005, 141-142). V.I.Lênin cho rằng chế độ dân chủ vô
sản là chế độ sẽ thi hành ngay lập tức những biện pháp để chặt tận gốc chế độ quan
liêu và sẽ có thể thi hành những biện pháp ấy tới cùng, tới chỗ phá hủy toàn bộ chế
độ quan liêu, tới chỗ hoàn toàn xây dựng một chế độ dân chủ cho nhân dân.
Để chống quan liêu, V.I.Lênin chủ trương: “lựa chọn người và kiểm tra sự thực
hiện. Đó là vấn đề then chốt” (Lênin, 1980c, 450). Cán bộ phải học tập và rèn luyện
tinh thần, thái độ và phương pháp ứng xử dân chủ với nhân dân cùng với việc học
các tri thức khoa học, luật pháp, kỹ thuật quản lý, học buôn bán. Phải đề phòng tình
trạng cán bộ thiếu hiểu biết, thiếu kỹ năng đem chức vụ ra dọa nạt dân chúng.
V.I.Lênin yêu cầu phải lựa chọn, đào tạo, thử thách cán bộ bằng một sự kiểm tra
nghiêm ngặt, nhất là đối với cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra lấy từ đội ngũ
công, nông ưu tú nhất. Đặc biệt là khuyến khích đưa người ngoài đảng vào làm
trong bộ máy nhà nước. Đồng thời, tăng cường kỷ luật lao động, tăng cường sự
kiểm tra, kiểm soát một cách chặt chẽ, xử lý nghiêm những kẻ quan liêu. Phải tạo
điều kiện để quần chúng lao động tham gia kiểm tra, kiểm soát. Mọi người đều phải
tham gia kiểm tra, kiểm soát. Kiểm tra không mang nghĩa xấu mà mang nghĩa cung
cấp thông tin để có quyết định đúng.

294
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

2.2. Sự kế thừa, vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Quan niệm về kiểm soát quyền lực nhà nước của V.I.Lênin đã được nghiên
cứu vận dụng một cách phù hợp trong điều kiện thực tiễn ở nước ta. Những nội
dung vận dụng qua niệm của V.I.Lênin và định hướng tiếp tục hoàn thiện cơ chế
kiểm soát quyền lực trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Xác định rõ yêu cầu quan trọng cần phải xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước. Sau một thời gian dài, chúng ta chưa chú ý đúng mức đến
việc xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Từ quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin về sự cần thiết phải thực hiện kiểm soát quyền lực của bộ máy nhà nước
và điều kiện thực tiễn của Việt Nam, Đại hội XI của Đảng đã xác định rõ nhiệm vụ
cấp thiết phải xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các
cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp để đáp ứng
yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
“Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để đảm bảo
nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan
trong việc thực hành quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” (Đảng Cộng sản Việt
Nam, 2011, 247). Quan điểm chỉ đạo trên của Đảng đã được Hiến pháp năm 2013
quy định thành nguyên tắc trong tổ chức quyền lực nhà nước của Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp” (Khoản 3, Điều 2). Chính vì vậy, quá trình xây dựng và hoàn
thiện nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay thực chất cũng là quá trình hoàn
thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đặc biệt là kiểm soát giữa các nhánh
quyền lực. Nhiệm vụ này tiếp tục được Đại hội XII của Đảng xác định là một trong
những nhiệm vụ quan trọng trong xây dựng và hoàn thiện Bộ máy Nhà nước ta
hiện nay: “Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước,
nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống
nhất” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 176). Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, Đảng

295
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

và Nhà nước ta phải đối mặt với nhiều thách thức, nhất là vấn nạn tham nhũng,
lãng phí diễn ra phức tạp; các hiện tượng lộng quyền, lạm quyền, vi phạm quyền
dân chủ, chạy theo lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm; tính hợp hiến, hợp lý của các quyết
định quản lý nhà nước chưa cao... càng cho thấy yêu cầu bức thiết của việc hoàn
thiện để đảm bảo vận hành hiệu quả cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm
khắc phục và hạn chế tối đa những biểu hiện tiêu cực trên.
Đối với cơ chế kiểm soát quyền lực từ bên ngoài bộ máy nhà nước. Chúng ta
đã ghi nhận quyền bầu cử và bãi miễn của nhân dân đối với các đại biểu của mình,
đây là một trong những quyền cơ bản của công dân nhằm phát huy dân chủ và đảm
bảo sự kiểm soát quyền lực của nhân dân đối với bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, chỉ
mới có quyền bầu cử là được đảm bảo thực hiện, còn quyền bãi miễn của nhân dân
vẫn chưa được bảo đảm thực hiện trên thực tế ở nước ta vì những quy trình để thực
hiện quyền này vẫn còn nhiều phức tạp. Cho đến nay vẫn chưa có cơ chế quy định
cụ thể quy trình và chưa thực hiện lần nào quyền bãi miễn của nhân dân đối với các
đại biểu của mình. Do vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu ban hành các quy định để
đảm bảo thực hiện cơ chế này.
Bên cạnh đó việc vận dụng quan điểm của V.I.Lênin về quyền kiểm tra hoạt
động của cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước thông qua các cơ quan thanh
tra của chính nhân dân hoặc tham gia phối hợp với các cơ quan nhà nước thì hiện
nay, chúng ta đã thành lập ban thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư ở cộng
đồng, cơ quan thanh tra của nhà nước và các bộ, ngành, kiểm toán... Tuy nhiên, để
phát huy hiệu quả cơ chế kiểm soát này như hiện nay thì các biện pháp, hình thức
để nhân dân có thể kiểm soát hoạt động của cán bộ, công chức và các cơ quan nhà
nước cần phải được mở rộng và đa dạng hơn nữa đối với từng đối tượng cán bộ,
công chức và cơ quan nhà nước cụ thể. Ví dụ như nhân dân giám sát hoạt động của
các cơ quan, đại biểu dân cử bằng cách nào, theo dõi và truyền hình trực tiếp các
cuộc họp Quốc hội, hội đồng nhân dân, thông qua theo dõi cương lĩnh tranh cử của
các đại biểu mà họ đã đưa ra trước khi bầu cử; hay là nhân dân theo dõi và giám sát
hoạt động của cán bộ của cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp. Nghĩa là cần phải
mở rộng và cụ thể hơn nữa các hình thức để nhân dân kiểm soát. Các hình thức để
nhân dân thể hiện ý chí của mình khi đã có kết quả kiểm soát, đã biết hoạt động của
cán bộ, công chức đó có đúng nhiệm vụ hay không, có thực sự đại diện cho ý chí và

296
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

quyền lợi của nhân dân hay không cũng phải có sự bổ sung, phát triển một cách đa
dạng hơn nữa theo quan điểm của V.I.Lênin, không chỉ thông qua quyền bầu cử,
quyền bãi miễn đại biểu dân cử, hoặc đến các phòng tiếp công dân mà có thể gửi
các kiến nghị đến chính cơ quan nơi cán bộ công tác, khiếu kiện lên cơ quan tư pháp
để họ tham gia khi có dấu hiệu vi phạm hay thông qua báo chí... Đây là những nội
dung cần có sự bổ sung, phát triển quan điểm của V.I.Lênin. Đồng thời, trong cơ
chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên ngoài, V.I.Lênin chủ yếu nhấn mạnh đến chủ
thể thực hiện quyền này là nhân dân, còn các chủ thể khác chưa được nói đến nhiều
như cơ chế kiểm soát quyền lực của Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ
chức xã hội đối với bộ máy nhà nước, vì vậy cần tiếp tục có sự bổ sung, phát triển
về cơ chế kiểm soát của các chủ thể bên ngoài này đối với quyền lực nhà nước.
Đối với cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy nhà nước. Những quan
điểm, định hướng về kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước ở nước ta
trong thời gian qua đã thể hiện rõ sự vận dụng, phát triển trên nền tảng tư tưởng
của V.I.Lênin. Vai trò kiểm soát quyền lực của tư pháp đối với quyền lực lập pháp
và hành pháp được thể hiện rõ hơn theo quan điểm của V.I.Lênin với chức năng
kiểm sát chung của Viện Kiểm sát nhân dân ở nước ta. Trong quá trình thực hiện
chức năng này, Viện Kiểm sát nhân dân đã thực hiện khá hiệu quả việc kiểm soát
thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước cấp
bộ và chính quyền địa phương.
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
ở nước ta cũng có nhiều điểm vận dụng sáng tạo so với quan điểm của V.I.Lênin.
Chẳng hạn, đối với vai trò kiểm soát của cơ quan lập pháp đối với quyền lực hành
pháp và quyền tư pháp mặc dù chưa được đề cập và bàn luận chi tiết trong tư tưởng
của V.I.Lênin, nhưng chúng ta cũng đã xây dựng được những cơ chế cụ thể về cơ chế
kiểm soát này thông qua những hình thức giám sát của cơ quan quyền lực (Quốc hội
và HĐND các cấp) đối với cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp và thông qua cơ
chế lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những chức danh trong bộ máy
hành pháp và tư pháp do Quốc hội và Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Cơ
chế kiểm soát này vẫn đang vận hành trong thực tiễn, nhưng cần phải tiếp tục được
nghiên cứu để đổi mới, hoàn thiện cả về lý luận và thực tiễn thì mới nâng cao hiệu
quả kiểm soát quyền lực của cơ quan lập pháp đối với quyền hành pháp và tư pháp.

297
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Quan điểm của V.I.Lênin về yêu cầu, điều kiện để đảm bảo tính hiệu lực trong
kiểm soát quyền lực nhà nước đó là đảm bảo tính độc lập, đủ quyền lực của các chủ
thể kiểm soát đối với các đối tượng kiểm soát. Để đảm bảo tính độc lập đó theo
V.I.Lênin trước hết phải hạn chế việc các đại biểu trong cơ quan lập pháp lại kiêm
nhiệm các chức vụ trong cơ quan hành pháp, tư pháp. Tuy nhiên, trong thực tiễn tổ
chức bộ máy nhà nước ở nước ta chưa thực sự đảm bảo được yêu cầu này. Thực tế
cơ cấu đại biểu trong các cơ quan dân cử ở nước ta cho thấy, tỷ lệ đại biểu Quốc hội
chuyên trách ít, đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân làm việc trong các cơ quan
hành pháp, tư pháp còn nhiều gây tâm lý nể nang, né tránh trong hoạt động kiểm
soát quyền lực. Tỷ lệ Đại biểu Quốc hội của Việt Nam khóa XIV (nhiệm kỳ 2016-
2021) mới chỉ chiếm 36% trong tổng số đại biểu Quốc hội. Tỷ lệ này thấp hơn nhiều
so với cơ cấu đại biểu quốc hội của nhiều quốc gia trên thế giới. Số đông đại biểu
kiêm nhiệm các chức vụ trong bộ máy hành chính nhà nước dẫn tới sự chồng chéo,
gây nên những tình huống “vừa đá bóng, vừa thổi còi”, thiếu khách quan và độc
lập trong kiểm soát hiệu quả quyền lực nhà nước.
Những yêu cầu, điều kiện đảm bảo tính hiệu lực của kiểm soát quyền lực nhà
nước là đảm bảo tính độc lập giữa chủ thể và đối tượng kiểm soát quyền lực nhà
nước mà V.I.Lênin đưa ra là rất đúng đắn. Tuy nhiên, vẫn cần tiếp tục có sự bổ sung,
phát triển. Tính độc lập giữa các chủ thể và đối tượng kiểm soát quyền lực nhà nước
ngoài những yêu cầu về phân công nhiệm vụ, quyền lực rõ ràng giữa các cơ quan,
tránh cơ chế kiêm nhiệm, một người làm ở cả hai cơ quan như theo quan điểm của
V.I.Lênin còn có thể bổ sung những yêu cầu khác nữa đảm bảo tính độc lập như các
cơ quan này không quyết định ngân sách hoạt động, hay không có quyền chi phối
đến công tác cán bộ của nhau. Chẳng hạn, đối với yêu cầu độc lập, chỉ tuân theo
pháp luật trong hoạt động của cơ quan tư pháp, nhưng thực tế cơ quan tư pháp vẫn
chịu sự tác động, chi phối về ngân sách và biên chế công chức từ cơ quan hành pháp,
lập pháp nên chưa đảm bảo được sự độc lập thực sự của cơ quan tư pháp ở nước ta
hiện nay.
3. KẾT LUẬN
Có thể nói, tư tưởng của V.I.Lênin đã đề cập đến những vấn đề khái quát và
khá toàn diện về kiểm soát quyền lực nhà nước. Cơ chế, điều kiện đảm bảo tính
hiệu lực kiểm soát quyền lực nhà nước mà V.I.Lênin nói đến vẫn là những định

298
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

hướng, yêu cầu vẫn còn nguyên giá trị đối với việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên
cứu vận dụng những quan điểm của V.I.Lênin, chúng ta vẫn cần có sự bổ sung, phát
triển cho phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Chính trị quốc gia.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
Chính trị Quốc gia.
[3]. Lênin, V. I. (1977). Toàn tập (Vol. 25). Tiến bộ.
[4]. Lênin, V. I. (1980a). Toàn tập (Vol. 36). Tiến bộ.
[5]. Lênin, V. I. (1980b). Toàn tập (Vol. 30). Tiến bộ.
[6]. Lênin, V. I. (1980c). Toàn tập (Vol. 44). Tiến bộ.
[7]. Lênin, V. I. (1980d). Toàn tập (Vol. 37). Tiến bộ.
[8]. Lênin, V. I. (1980). Toàn tập (Vol. 33). Tiến bộ.
[9]. Lênin, V. I. (2005). Toàn tập (Vol. 33). Chính trị quốc gia.

299
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC VẬN DỤNG SÁNG TẠO LÝ LUẬN


CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Phạm Thị Loan
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên hệ: Phạm Thị Loan, email: ploanloan@gmail.com

Tóm tắt: Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là một nội
dung rất cơ bản trong học thuyết hình thái kinh tế xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Vận dụng và phát triển một cách sáng tạo lý luận đó của các nhà kinh điển Mác -
Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra những quan điểm khoa học, có hệ thống, thể hiện tính
độc đáo về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã xác định con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành cách mạng
giải phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Khẳng định thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa ở Việt Nam là một thời kỳ lịch sử lâu dài, đầy khó khăn với những
nhiệm vụ lịch sử trọng đại như vậy, Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra những nhân tố bảo
đảm thực hiện thắng lợi sự nghiệp lớn lao này. Có thể nói, những quan điểm, tư tưởng
đó của Hồ Chí Minh vẫn là cơ sở lý luận và phương pháp luận, là kim chỉ nam cho
Đảng Cộng sản Việt Nam và cả dân tộc Việt Nam trên con đường xây dựng một nước
Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Từ khóa: tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ nghĩa Mác - Lênin; chủ nghĩa xã hội; cách mạng
Việt Nam.

1. MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất.
Suốt cả cuộc đời, Người phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc
cho nhân dân. Cùng với sự nghiệp của Đảng ta, dân tộc ta, Hồ Chí Minh đã để lại
cho hậu thế một tài sản tinh thần vô giá, đó là hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong toàn bộ tư tưởng của Người, tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội có thể xem là mẫu mực của sự vận dụng sáng tạo lý luận cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam. Những

300
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

tư tưởng đó đã chỉ đạo cho Đảng ta hoạch định đường lối, chính sách kinh tế trong
từng thời kỳ, từng giai đoạn của cách mạng nhằm đảm bảo kháng chiến thắng lợi
và kiến quốc thành công.

2. KHÁI QUÁT MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT MÁC -
LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
2.1. Về tính tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội thông qua con đường cách mạng vô
sản và liên minh giai cấp
Các nhà kinh điển Mác - Lênin đã khẳng định rằng, mọi quốc gia, dân tộc sớm
muộn đều sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là một tất yếu phổ biến của lịch sử xã hội
loài người. Trong bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, các ông đã khẳng định về sự
thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa xã hội và sự thất bại không tránh khỏi của chủ nghĩa
tư bản: “Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu
như nhau”, rằng “sớm hoặc muộn sẽ dẫn đến sự thống trị của giai cấp vô sản trên
toàn thế giới” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995d, 220). Điều này xuất phát từ một hiện
thực là mâu thuẫn giữa tính xã hội của lực lượng sản xuất và sự chiếm hữu tư nhân
trong quan hệ sản xuất của xã hội tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn này ngày càng trở
nên gay gắt, nhất là thông qua các cuộc khủng hoảng kinh tế mang tính chu kỳ và
trong cuộc đấu tranh gay gắt giữa vô sản và tư bản. Quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa không còn thích hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất mới, tiến bộ hơn
nên chủ nghĩa tư bản phải sụp đổ, dù sự sụp đổ đó không phải một sớm một chiều,
mà phải trải qua những cuộc đấu tranh gay go, phức tạp, mà cụ thể phải thông qua
cách mạng vô sản trong những điều kiện mới.
Các nhà kinh điển Mác - Lênin đã chỉ rõ tính tất yếu của việc thực hiện cách
mạng vô sản để đi đến chủ nghĩa xã hội: “Mỗi cuộc cách mạng đều phá hủy xã hội
cũ, và vì thế nó mang tính chất xã hội. Mỗi cuộc cách mạng đều lật đổ chính quyền
cũ, và bởi vậy nó có tính chất chính trị… Cách mạng nói chung - lật đổ chính quyền
hiện có và phá hủy những quan hệ cũ - là một hành vi chính trị. Nhưng chủ nghĩa
xã hội không thể được thực hiện mà không có cách mạng” (C.Mác và Ph.Ăngghen,
1995a, 616). Theo các ông, cách mạng giành chính quyền có thể bằng nhiều hình
thức khác nhau như vũ trang, hoặc bạo lực chính trị mang tính hòa bình. Tuy nhiên,
cách mạng là phương thức duy nhất để lật đổ giai cấp thống trị của xã hội cũ. Cách

301
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

mạng nhằm lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa là cách mạng vô sản, do giai cấp vô sản
lãnh đạo: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai
cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu
vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm
của bản thân nền đại công nghiệp” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995c, 610). Các ông
khẳng định: “một ngày nào đó, công nhân sẽ phải giành lấy chính quyền vào tay
mình để thiết lập một tổ chức lao động mới… Song chúng tôi không bao giờ quyết
đoán rằng để đạt tới mục đích đó, đâu đâu cũng phải dùng những biện pháp như
nhau” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995d, 218). Mục đích trước mắt của giai cấp vô sản
là lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản và giành lấy chính quyền và sau cùng là xây
dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Để xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước
hết phải xây dựng một nhà nước của giai cấp vô sản. Đây chính là hình thức chuyên
chính vô sản - điều kiện chính trị tất yếu của cuộc cách mạng xã hội từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội (Lênin, 1977a, 261). Thực chất của nhà nước chuyên chính
vô sản là một nhà nước kiểu mới, thực hiện việc tiếp tục cuộc đấu tranh giai cấp của
giai cấp vô sản dưới những hình thức mới với mục đích là xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội, xóa bỏ tình trạng người bóc lột người, đáp ứng ngày càng cao đời sống
vật chất và tinh thần của quần chúng nhân dân. Muốn đạt mục đích này phải trải qua
một thời kỳ quá độ lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Cùng với việc khẳng định tất yếu của cách mạng vô sản và thực hiện chuyên
chính vô sản, các nhà kinh điển Mác - Lênin đã khẳng định tính tất yếu của liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân - “người bạn đồng minh của
giai cấp công nhân” - và đội ngũ trí thức trong việc giành chính quyền và xây dựng
chủ nghĩa xã hội, đặc biệt đối với những nước nông nghiệp mà nông dân chiếm số
đông. Trong những nước có nền kinh tế lạc hậu, khi đại đa số dân cư là nông dân
thì vấn đề liên minh công nông với các tầng lớp lao động khác chẳng những là tất
yếu trong quá trình giành chính quyền, mà quan trọng hơn, còn là tất yếu trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Lênin cho rằng: “chuyên chính vô sản là một hình
thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiền phong của những
người lao động, với đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư
sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức…)” (Lênin, 1977c, 452).

302
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

2.2. Về động lực chủ yếu để xây dựng chủ nghĩa xã hội
- Động lực kinh tế của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội là phát triển lực lượng sản
xuất và xã hội hóa tư liệu sản xuất chủ yếu.
Các nhà kinh điển Mác - Lênin đã khẳng định một nguyên lý mang tính phổ
biến trong quá trình phát triển của xã hội loài người rằng, nền tảng kinh tế (cơ sở hạ
tầng) nào thì sẽ hình thành các thiết chế chính trị - xã hội (kiến trúc thượng tầng)
tương ứng: “Trong mọi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này
tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra - cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính
trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995f, 11). Các ông
cho rằng cách mạng xã hội chủ nghĩa là tiến tới xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa - nguồn gốc đẻ ra nạn người bóc lột người. Tuy nhiên các ông cũng
cho rằng đây không phải là mục tiêu duy nhất của chủ nghĩa xã hội, và cơ sở để xóa
bỏ tư hữu là lực lượng sản xuất phải được phát triển đến một trình độ nhất định
với trình độ xã hội hóa cao chứ không phải bằng mong muốn chủ quan. Mác và
Ăngghen chỉ rõ rằng, trong việc xóa bỏ chế độ tư hữu thì “chủ nghĩa cộng sản không
tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả”, mà chỉ “tước bỏ
quyền dùng sự chiếm hữu… để nô dịch lao động của người khác” (C.Mác và
Ph.Ăngghen, 1995c, 618). Mục đích của việc xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa cũng chính là để giải phóng lực lượng sản xuất, để “tăng thật nhanh
số lượng những lực lượng sản xuất lên”, tạo ra tiền đề vật chất, nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho con người, là con đường tất yếu để tiến tới một xã hội mới
tốt đẹp - xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Mác và Ăngghen viết: “sự phát
triển ấy của lực lượng sản xuất (cùng với sự phát triển này, sự tồn tại có tính chất
lịch sử thế giới, chứ không phải có tính chất địa phương nhỏ hẹp, của con người đã
thực hiện một cách kinh nghiệm chủ nghĩa) là tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết,
vì không có nó thì tất cả sẽ chỉ là sự nghèo nàn sẽ trở thành phổ biến mà với sự thiếu
thốn tột độ thì ắt sẽ bắt đầu trở lại một cuộc đấu tranh để giành những cái cần thiết,
thế là người ta lại không tránh khỏi rơi vào cũng sự ti tiện như trước đây” (C.Mác
và Ph.Ăngghen, 1995b, 49).
- Vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản và sức mạnh quần chúng đối với sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội.

303
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Các nhà kinh điển Mác - Lênin từng nhấn mạnh rằng cách mạng vô sản và
thực hiện chuyên chính vô sản xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa là sứ mạng
lịch sử của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, giai cấp công nhân không thể hoàn thành
sứ mạng này nếu thiếu chính đảng của mình - đảng cộng sản. Đảng cộng sản là đội
tiên phong của giai cấp công nhân, giác ngộ lý tưởng cộng sản và tổ chức giai cấp
công nhân, lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và xây dựng
xã hội xã hội chủ nghĩa. Họ “tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích
của toàn thể giai cấp vô sản” và là “bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công
nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn thúc đẩy phong trào tiến lên”; còn “về mặt
lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều
kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản (C.Mác và Ph.Ăngghen,
1995c, 214-215). Để xây dựng chính đảng của giai cấp công nhân vững mạnh, thì
đảng phải không ngừng trau dồi lý luận, bảo vệ sự trong sáng về mặt lý luận, đấu
tranh không khoan nhượng với chủ nghĩa cơ hội, cải lương và xét lại. Đảng phải
được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đảm bảo sự đoàn kết, tính kỷ luật
và sự thống nhất cao trong đảng.
Mặc dù bản thân sự lãnh đạo của một Đảng tiên phong đã là một động lực đối
với cách mạng vô sản và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng các nhà kinh
điển chủ nghĩa Mác - Lênin còn chỉ ra vai trò quần chúng như là động lực to lớn mà
Đảng cần phát huy. Theo các ông, nếu “chỉ trông vào bàn tay những người cộng sản
để xây dựng xã hội cộng sản, đó là một tư tưởng hết sức ngây thơ. Những người
cộng sản chỉ là một giọt nước trong đại dương, một giọt nước trong đại dương nhân
dân” (Lênin, 1978c, 117).
2.3. Về con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
Theo các nhà kinh điển Mác - Lênin, giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội
cộng sản chủ nghĩa có một thời kỳ quá độ là thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ
sang xã hội kia. Đó là “xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa do đó là một
xã hội về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần,... còn mang dấu vết của xã
hội cũ nó đang lọt lòng” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995e, 33). Cùng với sự khẳng định
cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ nổ ra trước hết ở những nước tư bản phát triển nhất
và khẳng định tính tất yếu quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước này, các nhà
kinh điển cũng đã có dự đoán cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể sẽ nổ ra ở những

304
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

nước chậm phát triển, các nước tiền tư bản chủ nghĩa đều có thể đi lên chủ nghĩa
cộng sản bằng con đường phát triển bỏ qua sự phát triển tư bản chủ nghĩa với
những điều kiện tiên quyết nhất định và một trong số đó là phải được sự giúp đỡ
của giai cấp vô sản ở các nước tiên tiến. Lênin (1977b) cho rằng, tất cả các dân tộc
đều sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội nhưng “không phải một cách hoàn toàn giống nhau;
mỗi dân tộc sẽ đưa những đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác
của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại khác của chuyên chính vô sản, vào nhịp
độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau
của đời sống xã hội” (tr.160). V.I.Lênin đã nêu lên quan điểm về hai hình thức quá
độ lên chủ nghĩa xã hội: quá độ trực tiếp và quá độ gián tiếp. Theo V.I.Lênin, những
nước có chủ nghĩa tư bản phát triển cao, giai cấp công nhân đã trưởng thành mọi
mặt mới có đủ những tiền đề kinh tế, xã hội và chính trị cho sự chuyển trực tiếp lên
chủ nghĩa xã hội, còn những nước lạc hậu chỉ có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bằng
con đường quá độ gián tiếp.
Đối với những nước thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo con đường
quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, Lênin (1978a) đặc biệt nhấn mạnh sự cần
thiết phải qua nhiều bước trung gian quá độ mới có thể xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội: “Chúng ta phải hiểu những đường lối, thể thức, thủ đoạn và phương
sách trung gian cần thiết để chuyển từ những quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ
nghĩa xã hội. Đó là mấu chốt của vấn đề” (tr.274). Ông cho rằng: “Trong một nước
tiểu nông trước hết các đồng chí phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên
qua chủ nghĩa tư bản nhà nước tiến lên chủ nghĩa xã hội” (Lênin, 1978b, 189). Như
vậy, ở những nước chậm phát triển, thời kỳ quá độ sẽ lâu dài khó khăn, và phức
tạp, cần căn cứ vào thực trạng của lực lượng sản xuất nước mình mà lựa chọn những
hình thức, bước đi thích hợp.
3. VIỆC VẬN DỤNG SÁNG TẠO LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
3.1. Sáng tạo khi giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong quá trình
thực hiện con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
Trong điều kiện đặc thù ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nhìn nhận và giải quyết
một cách sáng tạo mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong quá trình cách mạng,
305
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

thực hiện con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng, vấn đề giai cấp
gắn bó mật thiết với vấn đề dân tộc, hai cái đó liên hệ với nhau một cách biện chứng.
Trong hoàn cảnh mất nước thì quyền lợi dân tộc được đặt lên trên quyền lợi giai
cấp, vì có giải phóng được dân tộc mới giải phóng được giai cấp. Giải phóng dân
tộc đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp, tạo tiền đề, điều kiện thuận lợi để giải
phóng giai cấp. Theo Người, nếu không giải quyết được vấn đề giải phóng dân tộc,
không đòi được độc lập, tự do cho dân tộc, thì chẳng những quốc gia dân tộc chịu
mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không
đòi được; không nên thấy người ta làm thế nào thì mình cũng làm như thế, nghe
người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh. Trên cơ
sở phân tích tình hình xã hội phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng, Hồ
Chí Minh cho rằng vấn đề giai cấp, đấu tranh giai cấp ở đây không diễn ra giống
như ở phương Tây. Ở đây, người lao động kém giác ngộ, nhẫn nhục và vô tổ chức;
còn bọn chủ thì không có máy móc; ruộng đồng thuộc sở hữu của những địa chủ
hạng trung, hạng nhỏ và những kẻ được coi là đại địa chủ cũng chỉ là những tên
lùn tịt bên cạnh những người trùng tên với họ ở châu Âu và châu Mỹ; không có tỷ
phú người An Nam; những tên trọc phú ở đây chỉ là những kẻ thực lợi khá giả mà
thôi. Cho nên, nếu nông dân chỉ sống bằng cái tối thiểu cần thiết thì đời sống của
địa chủ cũng chẳng có gì là xa hoa; nếu thợ thuyền không biết mình bị bóc lột bao
nhiêu thì chủ lại không hề biết công cụ bóc lột của họ là máy móc; người thì chẳng
có công đoàn, kẻ thì chẳng có tờ-rớt; người thì nhẫn nhịn chịu số phận của mình, kẻ
thì chỉ dám tham lam vừa phải; sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu.
Theo Hồ Chí Minh: “Xã hội Ấn Độ hay Trung Quốc về mặt cấu trúc kinh tế, không
giống các xã hội phương Tây thời Trung cổ, cũng như thời cận đại, và đấu tranh
giai cấp ở đó không quyết liệt như ở đây” (Hồ, 1995a, 465). Từ đó, Người đề xuất:
“Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học
phương Đông” (Hồ, 1995a, 465).
Theo Hồ Chí Minh, đối với Việt Nam, không thể giải quyết vấn đề giai cấp
trước rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở các nước tư bản phát triển phương
Tây. Mà ngược lại, chỉ có giải phóng dân tộc thì mới giải phóng được giai cấp, giải
phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp và tạo tiền đề cho giải
phóng giai cấp. Ở Việt Nam, giải phóng dân tộc là một động lực lớn của lịch sử.

306
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Người cho rằng, cần phát động “chủ nghĩa dân tộc” bản xứ nhân danh Quốc tế
Cộng sản, đó là một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời, vì người ta sẽ không
thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên động lực vĩ đại và duy nhất
của họ. Và theo Người, khi “chủ nghĩa dân tộc” của họ thắng lợi… phần lớn thế giới
sẽ Xô-viết hoá và lúc đó, nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa
quốc tế; còn sự nghiệp của người bản xứ gắn mật thiết với sự nghiệp của vô sản
toàn thế giới (Hồ, 1995a, 467). Như vậy, ở Hồ Chí Minh, dân tộc và giai cấp liên hệ
mật thiết với nhau, có điều ở mỗi thời điểm lịch sử cụ thể thì dân tộc hoặc giai cấp
nổi trội hơn, nhằm đạt đến mục tiêu chiến lược cụ thể trong quá trình thực hiện
cách mạng giải phóng dân tộc, đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong thư Kính cáo đồng bào (1941), Hồ Chí Minh (1995b) viết: “Trong lúc này
quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ
bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng” (tr.198).
Theo đó, sự nghiệp cách mạng Việt Nam trước hết phải là cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc, nhưng không phải là cuộc cách mạng thuần túy như quan điểm của
các nhà yêu nước phi Mácxít, mà là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mang trong
mình nhiệm vụ giải phóng giai cấp và cao hơn là giải phóng con người, vì: “nếu
nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì” (Hồ, 1995c, 56). Do vậy, theo Hồ Chí Minh (1995g): “Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”
(tr.241). Người xác định con đường đó ở Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Lần đầu tiên trong lịch sử
nước ta, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc được nâng lên trình độ một cuộc
cách mạng xã hội. Cuộc cách mạng này kết hợp trong bản thân nó tiến trình của sự
nghiệp: giải phóng dân tộc bị áp bức, giải phóng giai cấp những người lao động bị
áp bức bóc lột và giải phóng bản thân mỗi người. Đây là cơ sở, là động lực, là sức
mạnh đưa tới sự phục hồi và phát triển của cách mạng Việt Nam, bởi ở con đường
đó, mục tiêu dân tộc không tách rời mục tiêu dân chủ trên cơ sở định hướng xã hội
chủ nghĩa.
3.2. Sáng tạo trong nhận thức về bản chất, mục tiêu, nhiệm vụ của chủ nghĩa xã hội
Từ việc vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh đã có những nhận thức đúng đắn, sáng

307
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

tạo trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Trên cơ
sở kế thừa những quan điểm cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã
nêu ra những nhận thức của mình về đặc trưng của chủ nghĩa xã hội dưới một hình
thức giản dị, dễ hiểu vừa vẫn đảm bảo được bản chất vấn đề lại vừa rất thiết thực,
cụ thể. Điều đó được bao hàm ở một số đặc trưng sau:
- Xét về bản chất, chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội do nhân dân làm chủ, địa
vị cao nhất là của dân, bởi “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân”...
chính quyền, đoàn thể các cấp đều “do dân cử ra”, “do dân tổ chức nên”, mọi “quyền
hành và lực lượng đều ở nơi dân” (Hồ, 1995d, 698).... Dân chủ chính là động lực chính
trị quan trọng của chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh (1995i), dân chủ mang lại sáng
kiến, sự hăng hái, đoàn kết và vì thế, “thực hành dân chủ cũng là cái chìa khóa vạn
năng có thể giải quyết mọi khó khăn” (tr.325). Do đó, Đảng và Nhà nước phải thực
sự coi trọng và đảm bảo quyền “là chủ” và “làm chủ” của nhân dân.
- Về mặt xã hội, chủ nghĩa xã hội có mục tiêu và nhiệm vụ thiết thực, cụ thể chứ
không phải là lý tưởng, ước mơ, nó bảo đảm cho nhân dân có đời sống vật chất
ngày càng đầy đủ và tinh thần ngày càng được nâng cao. Bởi vì: “Xây dựng chủ
nghĩa xã hội là thay đổi cả xã hội, thay đổi cả thiên nhiên, làm cho xã hội không còn
người bóc lột người, không còn đói rét, mọi người đều được ấm no và hạnh phúc”
(Hồ, 1995f, 447). Chủ nghĩa xã hội là “làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn
thì khá giàu, người giàu thì giàu thêm” (Hồ, 1995d, tr.62). Chủ nghĩa xã hội là “mọi
người dân được áo ấm, cơm no, nhà ở tử tế, được học hành…” (Hồ, 1995g, 72).
- Về mặt kinh tế, tôn trọng, bảo đảm phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
dưới các hình thức người lao động làm chủ tư liệu sản xuất, làm chủ trong quản lý
kinh tế, làm chủ việc phân phối sản phẩm lao động, “làm nhiều hưởng nhiều, làm
ít hưởng ít, không làm không hưởng - những người già yếu, tàn tật sẽ được Nhà
nước giúp đỡ chăm nom”.
- Về văn hóa, có nền văn hóa đậm đà bản sắc Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn
hoá thế giới; nền văn hoá của nhân dân, phục vụ đông đảo nhân dân, trước hết là
công, nông, binh; bảo đảm tự do ngôn luận, tự do tư tưởng; văn hóa soi đường cho
quốc dân đi, văn hóa lãnh đạo quốc dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nền văn hóa
thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin và coi trọng những truyền thống tốt đẹp của
cha ông.
308
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

- Về đạo đức, chủ nghĩa xã hội có sự đối lập với chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng xã
hội chủ nghĩa đối lập với tư tưởng chủ nghĩa cá nhân. Hồ Chí Minh nhấn mạnh
rằng, “thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu
tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân” và cho rằng, không gì “sung sướng vẻ vang hơn là
trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và giải phóng loài người” (Hồ, 1995f, 291-293). Khẳng định chủ nghĩa
cá nhân là “một trở ngại lớn” của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và do vậy,
cần phải xoá bỏ nó, song Người không hề phủ nhận cá nhân mà cho rằng, “không
có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn
và bảo đảm cho nó được thoả mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa” (Hồ, 1995f, 291).
Luận điểm này của Hồ Chí Minh có thể được coi “là một sự bổ sung mới, sáng tạo
trong cách tiếp cận đạo đức học chính trị về chủ nghĩa xã hội” (Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh & Viện Khoa học chính trị, 2004, 213).
Từ việc nhận thức về đặc trưng của chủ nghĩa xã hội theo các cách xác định
mục tiêu, nhiệm vụ, ta thấy Hồ Chí Minh đã có những sáng tạo trong cách tiếp cận
về chủ nghĩa xã hội Người không chỉ đề ra mục tiêu chung, tổng quát mà còn đề ra
các mục tiêu, nhiệm vụ trước mắt của chủ nghĩa xã hội một cách thiết thực, cụ thể
đáp ứng yêu cầu nguyện vọng của nhân dân Việt Nam trong lịch sử.
3.3. Sáng tạo trong nhận thức về con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh đã kế thừa những tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về khả
năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa và
vận dụng tư tưởng đó vào điều kiện cụ thể nước ta. Người khẳng định nước ta bước
vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với đặc điểm lớn nhất đó là: quá độ lên chủ
nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, với một nước nông nghiệp lạc
hậu và đầy dẫy những tàn tích của xã hội cũ, nền kinh tế chậm phát triển lại phải
trải qua nhiều cuộc chiến tranh bảo về Tổ quốc, cùng với đó là sự chống phá quyết
liệt của kẻ thù... Từ đặc điểm đó, Người chỉ rõ: thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta phải được tiến hành tuần tự dần dần, không thể chủ quan nóng vội.
Về nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, Hồ Chí Minh quan niệm nó diễn ra một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội. Để thực hiện được nội dung đó trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, theo Người, trước hết phải củng cố được mặt trận dân tộc
309
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

thống nhất, xây dựng khối công nông vững chắc, phát triển lực lượng sản xuất gắn
với xây dựng được quan hệ sản xuất phù hợp, có một cơ cấu kinh tế hợp lý, thực
hiện phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, quan tâm đúng mức đến
việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa vì muốn có chủ nghĩa xã hội phải có
con người mới xã hội chủ nghĩa, coi trọng nâng cao dân trí đào tạo nhân tài.
Về con đường, biện pháp, bước đi xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ
quá độ, Hồ Chí Minh cho rằng cần thông qua học tập kinh nghiệm của các nước,
động thời xuất phát từ tình hình thực tế để xác định, biện pháp bước đi cho phù
hợp với từng giai đoạn. Người chú ý đến vai trò của công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa, coi đây là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong
các biện pháp, Người chú ý đến kết hợp giữa cải tạo và xây dựng lấy xây dựng là
chính, kết hợp giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, xây dựng chủ
nghĩa xã hội phải có biện pháp, có kế hoạch, có quyết tâm, phải huy động được mọi
nguồn lực trong nhân dân vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và phải đặt dưới
sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: chủ nghĩa xã hội là một quá trình cách mạng lâu dài,
một công việc “rất to lớn, nặng nề, và phức tạp”, “một cuộc chiến đấu chống lại
những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi” và do vậy, “để
giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân,
tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân” (Hồ, 1995h,
505). Theo Người “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không
gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” (Hồ, 1995e, 276). Trong điều kiện
cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh thấy rõ được rằng, đoàn kết toàn dân là một
động lực vô cùng quan trọng và đoàn kết có tính quy luật có nghĩa là đoàn kết đó
phải có tổ chức, có lãnh đạo và lực lượng toàn dân phải được tập hợp trong một
Mặt trận dân tộc thống nhất do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng
Việt Nam, Hồ Chí Minh thành lập ra Đảng Cộng sản ở Việt Nam - Đảng của giai
cấp công nhân mà đồng thời là Đảng của cả dân tộc “không thiên tư, thiên vị” (Hồ,
1995g, 467). Sự ra đời đó của Đảng xuất phát từ “chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước” (Hồ, 1995g, 8) đã đáp ứng được
nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam bấy giờ. Với ngọn cờ độc lập dân tộc và

310
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh cùng với Đảng cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cách
mạng Việt Nam giành thắng lợi từ cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 đến chiến
thắng Điện Biên Phủ 1954, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và tiếp tục cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tạo ra cơ sở, điều kiện quyết
định để giải phóng miền Nam sau này.
4. KẾT LUẬN
Xuất phát từ bối cảnh mới của quốc tế và trong nước, chủ tịch Hồ Chí Minh
đã kế thừa, phát triển và vận dụng sáng tạo tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vào điều kiện cụ thể của cách
mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định: Con đường của cách mạng Việt nam là
giải phóng dân tộc hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân tiến dần lên
chủ nghĩa xã hội; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Kế thừa và vận dụng
sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn khẳng định tính tất yếu và khả năng quá
độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa ở nước ta. Tuy
còn một số khuyết điểm sai lầm trong nhận thức về quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta, nhưng Đảng ta đã kịp thời khắc phục, rút ra những bài học kinh
nghiệm, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó không ngừng hoàn thiện quan điểm, chủ
trương, đường lối về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thực hiện đổi mới trên tất
cả lĩnh vực, mang lại nhiều thành tựu trong quá trình đổi mới đất nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (1995a). Toàn tập (Vol. 1). Chính trị quốc gia.
[2]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (1995b). Toàn tập (Vol. 3). Chính trị quốc gia.
[3]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (1995c). Toàn tập (Vol. 4). Chính trị quốc gia.
[4]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (1995d). Toàn tập (Vol. 18). Chính trị quốc gia.
[5]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (1995e). Toàn tập (Vol. 19). Chính trị quốc gia.
[6]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (1995f). Toàn tập (Vol. 21). Chính trị quốc gia.
[7]. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh & Viện Khoa học chính trị. (2004).
Tập bài giảng Chính trị học. Lý luận chính trị.

311
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

[8]. Hồ, C. M. (1995a). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 1). Chính trị quốc gia.
[9]. Hồ, C. M. (1995b). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 3). Chính trị quốc gia.
[10]. Hồ, C. M. (1995c). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 4). Chính trị quốc gia.
[11]. Hồ, C. M. (1995d). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 5). Chính trị quốc gia.
[12]. Hồ, C. M. (1995e). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 8). Chính trị quốc gia.
[13]. Hồ, C. M. (1995f). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 9). Chính trị quốc gia.
[14]. Hồ, C. M. (1995g). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 10). Chính trị quốc gia.
[15]. Hồ, C. M. (1995h). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 12). Chính trị quốc gia.
[16]. Hồ, C. M. (1995i). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 15). Chính trị quốc gia.
[17]. Lênin, V. I. (1977a). Toàn tập (Vol. 6). Tiến bộ.
[18]. Lênin, V. I. (1977b). Toàn tập (Vol. 30). Tiến bộ.
[19]. Lênin, V. I. (1977c). Toàn tập (Vol. 38). Tiến bộ.
[20]. Lênin, V. I. (1978a). Toàn tập (Vol. 43). Tiến bộ.
[21]. Lênin, V. I. (1978b). Toàn tập (Vol. 44). Tiến bộ.
[22]. Lênin, V. I. (1978c). Toàn tập (Vol. 45). Tiến bộ.

312
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

VÀI Ý KIẾN VỀ GIẢNG DẠY MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN


VIỆT NAM THEO CHƯƠNG TRÌNH, GIÁO TRÌNH MỚI
CỦA BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Lê Thị Hiền Lương
Trường Đại học An ninh nhân dân
Tác giả liên hệ: Lê Thị Hiền Lương, email: lthienluong@gmail.com

Tóm tắt: Đổi mới giảng dạy môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng, các môn
Lý luận chính trị (LLCT) nói chung trong các trường đại học, cao đẳng là nhiệm vụ
quan trọng, cấp thiết hiện nay nhằm nâng cao hiệu quả không chỉ của công tác đào tạo
tại các trường đại học, cao đẳng trong cả nước mà còn là công tác tư tưởng, lý luận của
Đảng. Bài viết khái quát yêu cầu, nội dung cần cập nhật, đổi mới trong giảng dạy môn
học Lịch sử Đảng theo chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng và chương trình, giáo
trình mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo (xuất bản năm 2021); những tác động thuận lợi,
khó khăn khi tổ chức thực hiện và các giải pháp nhằm phát huy tác động thuận lợi,
khắc phục những khó khăn được chỉ ra.
Từ khóa: chương trình; giáo trình mới; Lịch sử Đảng; giảng viên; Nhà trường.

1. NỘI DUNG CHỈ ĐẠO CỦA BAN BÍ THƯ, BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VỀ
CHƯƠNG TRÌNH, GIÁO TRÌNH VÀ CÔNG TÁC GIẢNG DẠY, HỌC TẬP LÝ
LUẬN CHÍNH TRỊ
Trong Công văn số 03-KL/BTGTW ngày 25/4/2017 của Ban Tuyên giáo Trung
ương thông báo nội dung kết luận cuộc họp triển khai thực hiện Kết luận số 94-
KL/TW ngày 28/3/2014 của Ban Bí thư về việc “Tiếp tục đổi mới học tập lý luận chính
trị (LLCT) trong hệ thống giáo dục quốc dân”; Công văn số 3056/BGDĐT-GDĐH
ngày 17/9/2019 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về “Hướng dẫn thực hiện chương trình,
giáo trình các môn LLCT”, Ban Bí thư, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương:
“Đổi mới việc học tập LLCT trong hệ thống giáo dục quốc dân nhằm tạo bước
tiến mới, có kết quả, chất lượng cao hơn, góp phần làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng giữ vai trò chủ đạo trong
đời sống xã hội; bảo đảm thế hệ trẻ Việt Nam luôn trung thành với mục tiêu, lý
tưởng của Đảng và với chế độ ta.

313
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Học tập LLCT trong hệ thống giáo dục quốc dân là giáo dục những vấn đề cơ
bản nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng;
sát với thực tiễn, không máy móc, giáo điều, khô cứng; gắn với chủ nghĩa xã hội
(CNXH) và con đường đi lên CNXH của Việt Nam.
Nội dung chương trình học tập LLCT trong hệ thống giáo dục quốc dân phải
tập trung xây dựng cho tốt, phù hợp cho từng đối tượng học, từng cấp học, bậc học
từ thấp đến cao.
Đổi mới mạnh mẽ việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên LLCT, bảo đảm sát hợp
với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu tiếp tục đổi mới việc học tập LLCT trong hệ thống
giáo dục quốc dân. Xây dựng cho được đội ngũ giáo viên LLCT tâm huyết, yêu
nghề, tuyệt đối trung thành, có niềm tin, có kiến thức mới gắn với thực tiễn. Đây là
nhân tố quyết định sự thành công của việc tiếp tục đổi mới học tập LLCT trong nhà
trường…” (Ban Bí thư Trung ương Đảng, 2014).
Trên cơ sở đó, “Chương trình các môn LLCT trong các chương trình đào tạo của
ngành không chuyên LLCT” được xác định gồm 11 tín chỉ, bao gồm các môn học:
Triết học Mác - Lênin (03 tín chỉ), Kinh tế chính trị (02 tín chỉ), Chủ nghĩa xã hội khoa
học (02 tín chỉ), Tư tưởng Hồ Chí Minh (02 tín chỉ) và Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam (02 tín chỉ).
Theo chỉ đạo của Ban Bí thư, giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (dành
cho khối ngành đào tạo chuyên và không chuyên về LLCT) do Bộ Giáo dục và Đào
tạo chỉ đạo biên soạn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật ấn hành, năm 2021
có sự thay đổi cả về kết cấu và nội dung khoa học.
Về kết cấu: Ngoài Chương Mở đầu, giáo trình rút gọn từ 06 chương thành 03 chương.
Về nội dung: Chương 1 bao gồm nội dung “Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
và lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền” (1930 - 1945), Chương 2 bao gồm nội
dung “Đảng lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, hoàn thành giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước (1945 - 1975)”, Chương 3 thể hiện nội dung
“Đảng lãnh đạo cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội và tiến hành công cuộc đổi mới
(từ năm 1975 đến nay)”. Nội dung “các bài học kinh nghiệm của Đảng Cộng sản
Việt Nam” không còn được thể hiện trong giáo trình mới dành cho hệ không chuyên
LLCT mà được chuyển sang giáo trình dành cho hệ chuyên ngành LLCT.

314
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

2. THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN TRONG TRIỂN KHAI GIẢNG DẠY MÔN HỌC
LỊCH SỬ ĐẢNG TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG THEO CHƯƠNG
TRÌNH, GIÁO TRÌNH MỚI CỦA BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
* Thuận lợi:
Tạo cơ sở pháp lý để các trường cập nhật, điều chỉnh Chương trình khung và
Chương trình/Đề cương chi tiết các môn học, trong đó có môn Lịch sử Đảng thuộc
các hệ/ngành/chuyên ngành đào tạo, trình độ đào tạo; theo hướng thực hiện đúng
chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo về thời lượng, nội dung chương trình, giáo trình
do Bộ ban hành.
Trong công tác giảng dạy, hoạt động dạy giỏi: Về cơ bản, việc kết cấu lại bố
cục, nội dung giáo trình là khoa học, logic, góp phần giảm thời lượng giảng dạy lý
thuyết các nội dung lịch sử Đảng đã được trình bày khá cụ thể, chi tiết trong giáo
trình Lịch sử Việt Nam ở các cấp học, bậc học phổ thông; các nội dung về quá trình
lãnh đạo kháng chiến chống ngoại xâm, giành và bảo vệ độc lập dân tộc của Đảng.
Từ đó, tăng nội dung và thời lượng giảng dạy, hướng dẫn sinh viên tự học, tự
nghiên cứu về quá trình Đảng lãnh đạo cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội - phù
hợp với thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng hiện nay và yêu cầu cập
nhật, quán triệt, vận dụng các văn kiện, quan điểm chỉ đạo mới của Đảng vào thực
tiễn sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Tạo điều kiện cho giảng viên lựa chọn những
vấn đề đổi mới nội dung và phương pháp phù hợp, “đắt giá” trong các bài giảng/bài
dạy giỏi. Riêng nội dung “các bài học kinh nghiệm của Đảng” rất cần thiết trong
nghiên cứu, giảng dạy Lịch sử Đảng nhưng giáo trình mới lại không dành dung
lượng và kết cấu chương riêng để trình bày. Điều này có thể tạo khó khăn nhất định
cho quá trình giảng dạy, tuy nhiên, giảng viên có thể chủ động khắc phục bằng cách
trình bày bổ sung, định hướng nghiên cứu, tự học cho sinh viên trong quá trình
giảng dạy lý thuyết trên lớp.
Một số nội dung khoa học chuyên sâu trước đây chưa được trình bày: Nội
dung về chiến tranh biên giới phía Bắc và phía Tây Nam, về vai trò của lực lượng
Công an nhân dân trong quá trình cách mạng Việt Nam1... thì nay được khắc họa rõ
nét, thể hiện tính chủ động trong định hướng tư tưởng, đề cao tính Đảng hơn, góp

1 Nội dung giáo trình Lịch sử Đảng 18 lần sử dụng từ khóa “Công an”, đề cập đến sự ra đời và quá
trình hoạt động của lực lượng Công an nhân dân
315
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

phần hiệu quả vào công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng, xây dựng, củng cố bản
lĩnh chính trị cho người học (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2021, 248-250).
Một vài nội dung vốn được coi là “nhạy cảm”, dễ tạo ra các ý kiến tranh luận,
phản biện, thậm chí tạo nhận thức “chệch hướng xã hội chủ nghĩa” cho người học -
những hạn chế, thiếu sót trong quá trình nhận thức và chỉ đạo thực tiễn của Đảng
(nhận thức về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp giai đoạn 1930 -
1935 (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2021, 77-78), chỉ đạo thực tiễn cải cách ruộng đất (Bộ
Giáo dục và Đào tạo, 2021, tr.168), đường lối và sự chỉ đạo phát triển kinh tế giai
đoạn 1975 - 1985 (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2021, 246, 254-255, 259-260), nay được
cân nhắc trình bày có chọn lọc, khuyến khích tư duy phản biện, sáng tạo nhưng
không xa rời tôn chỉ, mục đích của môn học.
Cách kết cấu, sắp xếp lại các chương, mục của giáo trình tạo thuận lợi cho việc
kết hợp giữa đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy theo hướng tôn trọng,
phát huy tư duy sáng tạo của người học, tăng cường sử dụng các phương pháp nêu
vấn đề, thảo luận, trực quan, thực hành chính trị - xã hội, sử dụng các clip bài giảng…
Chẳng hạn, việc gộp hai nội dung Đảng Cộng sản Việt nam ra đời và Đảng lãnh đạo
đấu tranh giành chính quyền trong Chương 1 của giáo trình mới tạo thuận lợi cho
giảng viên giảm thời lượng thuyết trình, tăng cường áp dụng các phương pháp giảng
dạy tích cực như thảo luận nhóm, nêu vấn đề hướng dẫn người học tập hợp văn kiện
Đảng, sự kiện lịch sử Đảng một cách có hệ thống, từ đó chủ động phát huy tính tích
cực, sáng tạo trong nhận xét, đánh giá việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa
vấn đề dân tộc và giai cấp, giữa nhiệm vụ giải phóng dân tộc và cách mạng ruộng
đất của Đảng qua từng giai đoạn (1930 - 1935, 1936 - 1939, 1939 - 1945) và trong cả
quá trình; tránh được hiện tượng sinh viên chưa gắn kết được nội dung của Cương
lĩnh chính trị đầu tiên với các văn kiện Đảng và quá trình nhận thức của Đảng thời
kỳ 1930 - 1945 (do giáo trình cũ trình bày các nội dung này trong 02 chương độc lập).
* Khó khăn:
Hiện nay, các học viện, trường đại học thuộc lực lượng Công an nhân dân
chưa cập nhật, điều chỉnh Chương trình khung nên số lượng tín chỉ và Chương
trình chi tiết các môn học LLCT chưa thể điều chỉnh theo đúng chỉ đạo của Bộ Giáo
dục và Đào tạo, dẫn đến các đơn vị phụ trách giảng dạy LLCT và đội ngũ giảng
viên chưa thể chính thức triển khai chương trình mới.

316
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Tính logic trong một vài nội dung của giáo trình mới chưa cao, đòi hỏi phải tiếp
tục được nghiên cứu bổ sung, chỉnh sửa. Ví dụ: Trong mục II, Chương 3, khi trình
bày quá trình Đảng lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, giáo trình chưa chú trọng phân tích,
khái quát, hệ thống hóa quá trình hình thành, phát triển đường lối của Đảng về nội
dung trọng tâm, chiến lược của cách mạng Việt Nam là mô hình và con đường quá
độ lên chủ nghĩa xã hội cũng như đường lối trên từng lĩnh vực (kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại); so sánh, đúc rút sự bổ sung, phát triển
trong nhận thức và thực tiễn chỉ đạo đổi mới của Đảng ở từng lĩnh vực.
Hiện tượng siêu hình, cô lập, tách rời trong nhận thức và triển khai chương
trình, giáo trình mới vẫn còn tồn tại, dẫn đến việc giảng dạy Lịch sử Đảng trong
một số trường hợp chưa gắn kết chặt chẽ với tri thức của các môn LLCT khác, giữa
các môn LLCT với nhau và giữa các môn LLCT với các môn khoa học chuyên ngành.
Chẳng hạn, khi giảng dạy, một số giảng viên môn Lịch sử Đảng chưa lý giải để sinh
viên hiểu một cách khái quát vì sao phải học tập, nghiên cứu theo trình tự các môn
từ Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học,
Tư tưởng Hồ Chí Minh rồi mới đến Lịch sử Đảng; trình bày, lập luận, lý giải chủ
trương của Đảng về từng vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, về đường lối cách
mạng nói chung chưa gắn với trình bày khái quát cơ sở lý luận quyết định của các
chủ trương là những quan điểm, luận điểm cụ thể trong chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh; chưa phân tích, chỉ ra cho sinh viên thấy sự cần thiết, tất yếu
của việc học tập LLCT, trong đó có Lịch sử Đảng, dù chuyên ngành mà sinh viên
lựa chọn học tập ở bậc đại học, cao đẳng là bất kỳ chuyên ngành nào.
Đội ngũ giảng viên của các đơn vị giảng dạy LLCT nói chung, giảng viên môn
Lịch sử Đảng nói riêng có mặt bằng trình độ, năng lực, kinh nghiệm chuyên môn
không đồng đều2; một số trường hợp giảng viên có năng lực tư duy, trình độ chuyên
môn, kiến thức nền còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu, cá biệt có trường hợp mơ hồ
về tính chính trị, tính tư tưởng, tính Đảng, tính hệ thống của môn học mà mình đang
giảng dạy, thiếu niềm tin vào môn học, nghề nghiệp mà mình đang đảm nhiệm.

2Theo số liệu thống kê của Phan (2022), trong tổng số 273 giảng viên LLCT của các trường Công an
nhân dân, có 142 giảng viên có kinh nghiệm giảng dạy từ 10 năm trở lên, chiếm 52%; 131 giảng viên
có kinh nghiệm giảng dạy dưới 10 năm, chiếm tỉ lệ 48%.
317
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật, các nguồn lực đầu tư cho
đổi mới giảng dạy, học tập còn hạn chế. Chẳng hạn, tại các học viện, trường đại học
Công an nhân dân, mức thù lao mời giảng theo quy định là 60.000 đồng/giờ (chưa
trừ thuế thu nhập cá nhân) đối với giảng viên có học vị Tiến sĩ nhưng chưa có chức
danh giảng viên. Nguồn kinh phí đầu tư chuyên biệt cho giảng dạy LLCT từ ngân
sách Nhà nước bị cắt giảm (kinh phí hỗ trợ giảng dạy các môn LLCT theo Quyết định
số 494/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về “Phê duyệt Đề án Một số biện
pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy, học tập các môn khoa học Mác -
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học, cao đẳng…”), tạo khó khăn
cho việc tổ chức giảng dạy, học tập, hoạt động thực tế của giảng viên và sinh viên, nhất
là quá trình giảng dạy, học tập trực tuyến, chuyển đổi số trong giai đoạn hiện nay.
3. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢNG DẠY LỊCH SỬ
ĐẢNG THEO CHƯƠNG TRÌNH, GIÁO TRÌNH MỚI CỦA BỘ GIÁO DỤC VÀ
ĐÀO TẠO
Từ những thuận lợi, khó khăn nêu trên, thời gian tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo,
Đảng ủy, Ban Giám hiệu các nhà trường, các đơn vị chức năng có liên quan và đội
ngũ giảng viên LLCT, trong đó có các giảng viên môn học Lịch sử Đảng cần tập
trung giải quyết một số vấn đề sau đây:
Một là, trong đào tạo đội ngũ giảng viên LLCT, trong đó có giảng viên Lịch sử
Đảng, từ khâu tuyển sinh, tuyển chọn đến quá trình đào tạo, các cơ sở đào tạo các
chuyên ngành LLCT cần có đề xuất, giải pháp nâng cao chất lượng nguồn thí sinh
dự tuyển đầu vào, lựa chọn ưu tiên các học sinh có năng lực tư duy, lập luận logic
tốt (bao gồm cả học sinh thi tuyển các khối khoa học tự nhiên lẫn khối khoa học xã
hội). Bởi, đây là các “cỗ máy cái” đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chủ chốt trong
nghiên cứu, tuyên truyền LLCT, thực hiện công tác tư tưởng của Đảng. Thực tế cho
thấy, việc nhận thức và lập luận logic, giảng dạy hấp dẫn, thuyết phục các môn
LLCT, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch chặt chẽ, sắc bén cần đến
không chỉ khả năng biểu đạt ngôn ngữ phong phú mà cốt lõi, xuất phát điểm phải
là tư duy logic, hệ thống. Cùng với khâu tuyển sinh, tuyển chọn, quá trình đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ cần chú trọng gắn kết lý luận với thực tiễn, rèn luyện cán bộ về
năng lực vận dụng lý luận vào thực tiễn, phát hiện và đề xuất được cách giải quyết
các vấn đề thực tiễn nảy sinh; đúc kết kinh nghiệm, nghiên cứu khái quát thực tiễn

318
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

để bổ sung, hoàn thiện lý luận, góp phần nâng cao giá trị thực tiễn và tính dự báo
trong các chủ trương, chính sách của Đảng, qua đó minh chứng sinh động, thuyết
phục cho các vấn đề lịch sử Đảng và vai trò lãnh đạo của Đảng.
Hai là, các phòng chức năng có liên quan (Phòng Hành chính tổng hợp, Phòng
Chính trị, Phòng Quản lý đào tạo…) của các học viện, trường đại học Công an nhân
dân tham mưu Ban Giám hiệu khẩn trương triển khai cập nhật, điều chỉnh chương
trình khung dành cho đào tạo đại học, cao đẳng theo hướng thực hiện chính xác chỉ
đạo của Ban Bí thư, Bộ Giáo dục và Đào tạo. Đảng ủy, Ban Giám hiệu các nhà trường
thể hiện việc quan tâm đúng mức đến công tác giảng dạy, nghiên cứu Lịch sử Đảng,
công tác xây dựng Đảng.
Ba là, tăng cường đầu tư, nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng trang thiết bị,
phương tiện giảng dạy, nâng cấp hạ tầng thông tin, kỹ thuật phục vụ giảng dạy và
học tập. Thanh toán vượt giờ, trả thù lao mời giảng, làm thêm giờ cho đội ngũ giảng
viên theo đúng quy định của Bộ Tài chính và các quy định, chính sách của Bộ Giáo
dục và Đào tạo dành cho đội ngũ nhà giáo.
Bốn là, nhân tố then chốt quyết định hiệu quả triển khai giảng dạy Lịch sử
Đảng theo chương trình, giáo trình mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo vẫn là đội ngũ
giảng viên. Theo đó, các giảng viên cần:
Thứ nhất, làm rõ tính toàn diện, hệ thống, sự liên hệ, gắn kết giữa các môn học
LLCT, trong đó có Lịch sử Đảng; giữa các chương/bài trong môn học và đề mục, nội
dung của từng chương.
Từ chỗ làm rõ sự liên kết hệ thống giữa các môn học, sinh viên cần được hướng
dẫn để hình thành kỹ năng liên hệ, vận dụng kiến thức của các môn học trước để
lập luận, lý giải nội dung của môn học sau. Trong môn Lịch sử Đảng, có thể lấy ví
dụ: Muốn lý giải tính “độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc giải quyết những vấn đề
chưa có tiền lệ lịch sử” trong đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam do Đảng
Lao động đề ra tại Đại hội III (9/1960), cần phân tích cơ sở lý luận là lý luận cách
mạng không ngừng, quan điểm về chuyên chính vô sản, bạo lực cách mạng tổng
hợp của V.I.Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn kết giữa bạo lực cách mạng với
nhân đạo, hòa bình… Để chứng minh sự lựa chọn và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng
xã hội chủ nghĩa của Đảng là đúng đắn, cần lập luận trên nền tảng học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội của C.Mác, quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn

319
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

liền với chủ nghĩa xã hội cũng như thực tiễn quá trình vạch đường lối - tổ chức thực
hiện đường lối của Đảng (từ năm 1930 đến nay)…
Giảng viên cần khơi gợi, hướng dẫn sinh viên tìm ra logic nội dung giữa các
chương trong môn học. Trong mỗi chương, giảng viên cần chỉ ra cách triển khai nội
dung mang tính đặc thù của “Lịch sử Đảng”: trình bày từ bối cảnh lịch sử; chủ trương
của Đảng (thể hiện qua các văn kiện Đảng tiêu biểu, được chọn lọc trình bày trong
giáo trình; nội dung cơ bản của từng văn kiện) trong mỗi giai đoạn; quá trình tổ chức
thực hiện các chủ trương ấy và kết quả, ý nghĩa, bài học kinh nghiệm có thể rút ra.
Sinh viên, theo đó, sẽ tự xác định được những nội dung nào là trọng tâm cần đào sâu
nghiên cứu, học tập, ghi nhớ; những vấn đề gì cần tiếp tục đặt ra để làm rõ…
Thứ hai, tăng cường sử dụng các phương pháp giảng dạy tích cực như: sử dụng
sơ đồ tư duy, thảo luận nhóm, trực quan, thực tế, xem phim tư liệu/khoa giáo… để
giảm thiểu thời gian giảng lý thuyết, tăng tính độc lập, tự chủ, tư duy sáng tạo của
người học.
Trên cơ sở được trang bị nhận thức có hệ thống về môn học, khi triển khai
giảng dạy từng bài, giảng viên không cần mất nhiều thời gian trình bày lại từng sự
kiện, điều kiện lịch sử, nội dung từng văn kiện Đảng hay diễn biến từng năm, từng
giai đoạn thực hiện chủ trương của Đảng. Thay vào đó, chỉ cần tổ chức cho sinh
viên thảo luận nhóm, vẽ sơ đồ tư duy của từng bài, từng đề mục lớn và tự đúc rút,
phân tích ý nghĩa, kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng qua từng giai đoạn. Giảng viên
là người kết luận theo hướng bổ sung, gợi ý thêm các vấn đề cần hoàn thiện cho sơ
đồ tư duy của từng nhóm.
Các phương pháp trực quan, thực tế thông qua các buổi tham quan các di tích
lịch sử - cách mạng, hệ thống bảo tàng, nhà trưng bày truyền thống của các đơn vị,
địa phương; giao lưu với các Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân… và đặc biệt là
tổ chức thực hành chính trị - xã hội “Hành quân xanh” cũng là cách đổi mới phương
pháp giảng dạy đã được thực tiễn chứng minh rất hiệu quả. Tại Trường Đại học An
ninh nhân dân, Khoa LLCT và Khoa học xã hội nhân văn đã liên tục tổ chức các hoạt
động này cho sinh viên trong hơn 20 năm qua (từ năm học 1998 - 1999 đến nay), gồm
cả sinh viên Việt Nam lẫn sinh viên Bộ Nội vụ Vương quốc Campuchia. Qua hình
thức phát bảng hỏi thăm dò ý kiến của sinh viên trong 5 năm qua, hơn 90% sinh viên

320
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

khẳng định những hoạt động ấy là sinh động, thiết thực, có tác dụng rõ rệt trong bồi
đắp tri thức, bồi dưỡng niềm tin, tình cảm cách mạng trong các em.
Hiện nay, trong điều kiện mới của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và tình
hình dịch bệnh Covid 19 diễn biến khó lường; bên cạnh sử dụng các phương pháp
trực quan, thực tế, việc tăng cường sử dụng các hình thức học tập/hướng dẫn học
tập, nghiên cứu trực tuyến cần được cân nhắc mở rộng cả về quy mô lẫn thời lượng.
Chẳng hạn, có thể sử dụng các bài báo cáo chuyên đề do đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền viên giỏi của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Ban Tuyên giáo Thành
ủy Thành phố Hồ Chí Minh/tỉnh ủy các tỉnh, thành phố thực hiện; các clip bài giảng
mẫu của đội ngũ giảng viên giàu kinh nghiệm, có năng lực chuyên môn vững vàng
của các đơn vị giảng dạy LLCT ở các trường đại học, cao đẳng trình chiếu cho sinh
viên trong các tiết học lý thuyết. Trên cơ sở nội dung lý thuyết cơ bản và nội dung
xêmina, thảo luận, nghiên cứu được hướng dẫn cụ thể, sinh viên sẽ chủ động thực
hiện các nhiệm vụ tự học, tự nghiên cứu mà giảng viên đề ra. Giảng viên chỉ cần
nhận xét, kết luận và đánh giá kết quả của quá trình.
Thực tế tại Trường Đại học An ninh nhân dân, nhờ tích cực triển khai các hình
thức, phương pháp giảng dạy tích cực như trên trong nhiều năm, đến nay, hiệu quả
giáo dục chính trị, tư tưởng nói chung, giảng dạy Lịch sử Đảng nói riêng đạt nhiều
thành tựu đáng ghi nhận. Theo kết quả một cuộc khảo sát ý kiến do chính sinh viên
thực hiện vào đầu năm 2019, với 550 sinh viên thuộc các khóa D25, D26 và D27 của
Trường, đã có 92,2% sinh viên khi được hỏi đều trả lời đã xác định được động cơ,
mục đích học tập; trong đó có 78% có động cơ, mục đích đúng đắn là học để phụng
sự đất nước, phục vụ nhân dân, tích lũy tri thức, kỹ năng cho bản thân và phục vụ
công việc sau này. 100% sinh viên ý thức được các vấn đề chính trị - xã hội là cần
thiết, thậm chí rất quan trọng đối với bản thân. 95,9% sinh viên “hứng thú” đến “rất
hứng thú” trong các tiết học LLCT (Võ, 2019).
Thứ ba, nêu vấn đề để sinh viên nghiên cứu sâu thêm các nội dung lý thuyết
đã được trang bị, biết liên hệ, vận dụng vào thực tiễn và bước đầu lập luận bác bỏ
các quan điểm sai trái, thù địch.
Cũng dựa vào tính logic, hệ thống trong nội dung của các môn LLCT và bản
thân môn Lịch sử Đảng, giảng viên có thể yêu cầu sinh viên đặt vấn đề, sau đó tổng
hợp, chỉnh sửa vấn đề cần nêu - nếu cần thiết và bổ sung vấn đề mới mà sinh viên

321
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

chưa phát hiện ra để cùng trao đổi, thảo luận, thậm chí tranh luận. Chẳng hạn: trong
Chương 1: “Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo đấu tranh giành chính
quyền (1930 - 1945)”, khi phân tích chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
của Đảng (1939 - 1945), có thể nêu vấn đề: “Chuyển hướng chiến lược là chuyển từ
hướng nào sang hướng nào?” “Vì sao lại phải chuyển?”, “Kết quả, ý nghĩa của việc
chuyển hướng…?”… Chương 3: “Đảng lãnh đạo cả nước quá độ lên CNXH và tiến
hành công cuộc đổi mới (từ năm 1975 đến nay)”, có thể nêu vấn đề: “Vì sao lại gọi
là “sự nghiệp đổi mới”? “Cái mới trong nhận thức và chỉ đạo thực tiễn của Đảng
trên từng lĩnh vực và trong cả quá trình đổi mới từ năm 1986 đến nay là gì?”, “Kết
quả, ý nghĩa của việc thực hiện tư duy đổi mới”?...
Nhằm tăng cường tính thực tiễn trong nội dung giảng dạy, giảng viên cần cân
nhắc lồng ghép, liên hệ các vấn đề, nội dung, bài học kinh nghiệm của lịch sử Đảng
với thực tiễn công tác xây dựng Đảng, thực tiễn sự nghiệp đổi mới trên các lĩnh vực
cơ bản của đời sống xã hội. Ví dụ: Trên cơ sở bài học kinh nghiệm chống “tả
khuynh”, “giáo điều” trong công tác xây dựng Đảng giai đoạn 1930 - 1931 ở một số
tổ chức Đảng thuộc Kỳ bộ miền Trung, rút ra bài học cho công tác xây dựng Đảng
trong giai đoạn hiện nay. Đó là sự điều chỉnh nhất định trong việc xem xét, đánh
giá vấn đề chính trị của cán bộ, đảng viên (chuyển từ chú trọng “lịch sử chính trị”
sang “những vấn đề chính trị hiện hành”). Có thể từ phân tích quá trình Đảng “kiên
định về nguyên tắc, linh hoạt, mềm dẻo về sách lược” trong chỉ đạo đấu tranh chống
“thù trong, giặc ngoài” (1945 - 1946) để liên hệ, vận dụng vào công tác lãnh đạo, chỉ
đạo hoạt động đối ngoại, quốc phòng - an ninh của Đảng nhằm “kiên quyết, kiên
trì” bảo vệ chủ quyền biển đảo hiện nay. Khái quát nhận thức của Đảng về CNXH
và con đường đi lên CNXH của đất nước để sinh viên nắm vững nội dung logic cốt
lõi trong toàn bộ đường lối của Đảng, bên cạnh đó chỉ ra những điểm còn cần được
nhận thức “ngày một sáng rõ hơn” trong giai đoạn mới…
Gắn với việc tăng cường tính thực tiễn của bài giảng, trong từng nội dung,
giảng viên cần khơi gợi để sinh viên trình bày những băn khoăn, thắc mắc của mình
về một số quan điểm sai trái, thù địch hiện nay liên quan đến nội dung môn học;
định hướng để sinh viên vận dụng tri thức LLCT, tri thức và thực tiễn lịch sử Đảng
để lập luận bác bỏ. Điều này góp phần củng cố niềm tin khoa học vào sự lãnh đạo
của Đảng và con đường đi lên CNXH trong sinh viên, giúp sinh viên hiểu hơn việc
học Lịch sử Đảng để làm gì, có tác dụng gì cho bản thân và đất nước. Điều này được
322
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

chính người học khẳng định thông qua kết quả khảo sát ý kiến đối với 2000 sinh
viên các trường đại học trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (2019) về vai trò của
công tác giáo dục chính trị, trong đó trọng tâm là giảng dạy các môn LLCT - bao
gồm Lịch sử Đảng - trong nhà trường đối với ý thức và năng lực phản bác của họ
trước các quan điểm sai trái, thù địch. Tiêu chí này đạt trị số 3.25, cao nhất trong số
các vấn đề được gợi ý trong bảng hỏi về các giải pháp khả thi (tăng cường các phong
trào thi đua, khen thưởng, động viên kịp thời các cá nhân có đóng góp tích cực, vai
trò quản lý Nhà nước…) nhằm nâng cao ý thức, năng lực phản bác cho sinh viên
(Nguyễn et al., 2019, 45-46).

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Ban Bí thư Trung ương Đảng. (2014). Kết luận về việc tiếp tục đổi mới việc học tập
lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân (No. 94-KL/TW).
[2]. Bộ Chính trị. (2018). Nghị quyết về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” (No.
35-NQ/TW).
[3]. Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chính trị quốc gia Sự thật.
[4]. Hồ, C. M. (2011). Toàn tập (Vol.5). Chính trị quốc gia.
[5]. Nguyễn, V. T., Võ Thị, T. H., & Nguyễn, M. H. (2019). Ý thức phản bác các quan
điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội facebook của sinh viên các trường đại học trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh [Đề tài Sinh viên nghiên cứu khoa học]. Trường
Đại học An ninh nhân dân.
[6]. Phan, X. T. (2022). Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên LLCT trong các
trường Công an nhân dân [Đề tài khoa học cấp Bộ Công an].
[7]. Võ, A. H. (2019). Vận dụng phong cách Hồ Chí Minh vào việc xây dựng phong cách
bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ của sinh viên Đại học An ninh nhân dân
[Đề tài Sinh viên nghiên cứu khoa học]. Trường Đại học An ninh nhân dân.

323
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN


VỀ QUÁ ĐỘ GIÁN TIẾP LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
VÀ SỰ VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Phạm Trần Quỳnh Mai
Học viện Chính trị khu vực II
Tác giả liên hệ: Phạm Trần Quỳnh Mai, email: quynhmai123711@gmail.com

Tóm tắt: Sự phát triển của xã hội loài người là sự chuyển tiếp của các hình thái kinh
tế - xã hội từ thấp đến cao theo quá trình lịch sử - tự nhiên. Tính phổ biến của lịch sử
không loại trừ tính đặc thù của nó, do những điều kiện lịch sử cụ thể, mỗi quốc gia -
dân tộc có thể bỏ qua, rút ngắn sự phát triển của một hoặc một số các hình thái kinh
tế - xã hội. Bài viết làm rõ tư duy, quan niệm của V.I.Lênin về khả năng phát triển rút
ngắn, về con đường, phương thức “quá độ gián tiếp” lên chủ nghĩa xã hội và sự vận
dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Từ khóa: V.I.Lênin; chủ nghĩa xã hội; quá độ gián tiếp; Đảng Cộng sản Việt Nam.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo quan điểm duy vật về lịch sử, “Sự phát triển của những hình thái kinh
tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 2002b, 21).
Cho đến ngày nay, lịch sử nhân loại đã và đang trải qua năm hình thái kinh tế - xã
hội: Cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, cộng
sản chủ nghĩa. Bước chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội này lên một hình thái kinh
tế - xã hội cao hơn bao giờ cũng trải qua thời kỳ quá độ. Và, “... giữa xã hội tư bản
chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội
nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà
nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của
giai cấp vô sản” ( C.Mác và Ph.Ăngghen, 2002a, 47). Ở những nước tư bản chủ nghĩa
phát triển - nơi đã có đại công nghiệp và giai cấp vô sản phát triển ở trình độ cao
thì thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ quá độ chính trị do giai cấp vô sản
làm chủ thể. Để thực hiện được bước quá độ này tất yếu phải tiến hành cuộc cách
mạng vô sản và thiết lập chuyên chính vô sản. Đây thực chất là sự quá độ trực tiếp

324
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

từ những nước tư bản đã phát triển hết mức trong khuôn khổ hình thái kinh tế - xã
hội của nó.
Đến năm 1881, khi theo dõi tình hình nước Nga, C.Mác cho rằng sự tồn tại đồng
thời của nền kinh tế phương Tây đang thống trị trên thị trường thế giới, cho phép
nước Nga có thể áp dụng những thành tựu mà chế độ tư bản đã đạt được mà không
phải trải qua chủ nghĩa tư bản. Cùng với đó, trong tác phẩm Về vấn đề xã hội ở Nga,
Ph.Ăngghen đã đề cập đến một điều kiện tiên quyết cho khả năng tiến lên chủ nghĩa
xã hội của các nước lạc hậu như nước Nga lúc bấy giờ. Điều kiện đó chính là sự thắng
lợi của giai cấp vô sản ở các nước phương Tây. Cũng chính là một thuận lợi có thể
tránh được những đau khổ mà các nước phương Tây đã trải qua. Con đường sắp tới
của cách mạng Nga theo dự báo của các ông là nằm trong khả năng ấy.
Qua nghiên cứu di sản của C.Mác và Ph.Ăngghen cũng như khảo cứu thực
tiễn nước Nga sau Cách mạng tháng Mười, một nước tiền tư bản nhưng vẫn còn
tồn tại kết cấu công xã nông thôn với sở hữu công cộng về ruộng đất, V.I.Lênin nhận
ra không chỉ những nước tư bản phát triển cao mới có khả năng tiến lên chủ nghĩa
xã hội. Trong Báo cáo tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản, ông nhấn mạnh rằng: “đối với
các dân tộc lạc hậu hiện nay đang trên con đường giải phóng và sau chiến tranh đã
có một bước tiến bộ, mà khẳng định rằng nền kinh tế quốc dân của những dân tộc
đó nhất định trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, chúng ta có cho như
vậy là đúng hay không? Chúng tôi cho rằng không đúng… mà Quốc tế cộng sản
còn phải xác định và chứng minh trên lý luận cho một nguyên tắc là: với sự giúp
đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô
- viết và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản,
không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” (Lênin, 2005a, 295).
Thực chất, V.I.Lênin muốn đề cập đến vấn đề quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa
cộng sản. Tất cả vấn đề là ở bước quá độ, “phải hiểu những đường lối, thể thức, thủ
đoạn và phương sách trung gian cần thiết để chuyển những quan hệ tiền tư bản chủ
nghĩa lên chủ nghĩa xã hội” (Lênin, 2005c, 275) đối với các nước lạc hậu, tiểu nông
có thể tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Trong Đại hội X Đảng Cộng sản Nga, V.I.Lênin đã khẳng định lại: “hoàn toàn không
còn nghi ngờ gì nữa rằng bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội có
thể có những hình thức khác nhau, tuỳ thuộc ở chỗ quan hệ đại tư bản đã chiếm ưu

325
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

thế hay nền kinh tế nhỏ hơn còn chiếm ưu thế trong nước” (Lênin, 2005c, 94-95).
Chính từ nhận thức này, ông đi tới phân biệt chính xác “quá độ trực tiếp” ứng với
sự phát triển tuần tự từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và “quá độ gián tiếp”
thích hợp cho loại hình phát triển rút ngắn, bỏ qua chủ nghĩa tư bản, từ tiền tư bản
lên chủ nghĩa xã hội. Ở mỗi nước do những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội khác
nhau mà độ dài, ngắn của thời kỳ quá độ cũng khác nhau. Dù là trực tiếp hay gián
tiếp đều phải trải qua một quá trình gay go, phức tạp và lâu dài. Cần phải có thời
gian mới có thể thay đổi căn bản trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và phải trải
qua một cuộc đấu tranh quyết liệt mới có thể thắng được sức mạnh to lớn của thói
quen quản lý theo kiểu tiểu tư sản và tư sản.
2. NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN VỀ QUÁ ĐỘ GIÁN
TIẾP LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
2.1. Nội dung tư tưởng của V.I.Lênin về quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội
Thống nhất với quan điểm của C.Mác và Ph. Ăngghen về tính tất yếu khách
quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin cho rằng: “Về lý luận, không
thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có một thời
kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ đó không thể không bao gồm những đặc điểm hoặc
đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế xã hội ấy. Thời kỳ quá độ ấy không thể nào lại
không phải là một thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang chết và chủ nghĩa
cộng sản đang phát sinh, hay nói một cách khác, giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh
bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn, và chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh nhưng vẫn còn
rất non yếu” (Lênin, 2005c, 309-310).
Thật vậy, với nước Nga tiểu tư sản lạc hậu, thì vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã
hội sẽ có những đặc điểm khác với các nước tiên tiến. Có thể khái quát tư duy, quan
niệm của V.I.Lênin về vấn đề này thành những luận điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, phát huy vai trò của chuyên chính vô sản với tư cách là phương tiện,
lực lượng cơ bản nhất để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chuyên chính vô sản là sản phẩm của cách mạng xã hội chủ nghĩa, là kết quả
của việc phá bỏ nhà nước tư sản và thiết lập nhà nước vô sản. Thiết lập tự do cho
các giai cấp và tầng lớp nhân dân. Chuyên chính vô sản là nền chuyên chính của
giai cấp vô sản được lãnh đạo thông qua đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản,

326
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

nhằm đảm bảo thực hiện thành công cách mạng xã hội chủ nghĩa: “Nếu không có
sự thống trị của giai cấp vô sản trong nhà nước thì cũng không thể nói đến chủ
nghĩa xã hội được: đó cũng là một điều sơ đẳng” (Lênin, 2005b, 253) và “chừng nào
mà giai cấp công nhân học biết cách giữ gìn trật tự nhà nước chống tình trạng vô
chính phủ của tiểu tư hữu, chừng nào giai cấp công nhân học được cách sắp đặt tổ
chức sản xuất với qui mô lớn toàn quốc, trên cơ sở chủ nghĩa tư bản - nhà nước thì
khi ấy… tất cả những con chủ bài đều nằm trong tay công nhân và sẽ bảo đảm cho
chủ nghĩa xã hội được củng cố” (Lênin, 2005b, 252).
Công nhân phải học tập được cách sắp xếp, tổ chức của chủ nghĩa tư bản và
đứng ra lãnh đạo, thống trị và phải biết hướng chính sách vào việc giải quyết trước
tiên vấn đề cấp thiết nhất, “mấu chốt” nhất để đem lại lợi ích cho toàn thể giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Tăng cường chuyên chính vô sản, thực chất là việc
giai cấp công nhân nắm và sử dụng quyền lực nhà nước nhằm bảo vệ thành quả
cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, Bởi lẽ, cuộc
đấu tranh giữa giai cấp vô sản đã chiến thắng nhưng chưa phải là toàn thắng với
giai cấp tư sản đã thất bại nhưng chưa phải là thất bại hoàn toàn là đặc trưng chính
trị cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ mà ở đó, về phương diện
kinh tế có sự tồn tại đan xen giữa các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế.
Trong tác phẩm “Bàn về Thuế lương thực”, V.I.Lênin chỉ ra một cách dứt khoát
đặc điểm quan trọng nhất về kinh tế của thời kỳ quá độ nước Nga lúc bấy giờ đó là
nền kinh tế nhiều thành phần: “Vậy thì danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng
vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần,
những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội không? Bất
cứ ai cũng đều thừa nhận là có” (Lênin, 2005b, 248). Bản chất kinh tế của quá độ lên
chủ nghĩa xã hội từ nước tư bản kém phát triển hoặc chưa kinh qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa sự tồn tại đan xen giữa các hình thức sở hữu và do đó là sự
tồn tại đan xen các thành phần kinh tế. Ứng với trường hợp của nước Nga những
năm 20 của thế kỷ trước có 05 thành phần kinh tế, bao gồm: “1) kinh tế nông dân
kiểu gia trưởng, nghĩa là một phần lớn có tính chất tự nhiên; 2) sản xuất hàng hoá nhỏ
(trong đó đa số nông dân bán lúa mì); 3) chủ nghĩa tư bản tư nhân; 4) chủ nghĩa tư
bản nhà nước; 5) chủ nghĩa xã hội. Nước Nga rộng lớn và hỗn tạp đến mức các loại

327
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

hình khác nhau của kết cấu kinh tế - xã hội đều xen kẽ với nhau ở trong nó. Đặc
điểm của tình hình hiện nay chính là ở đó” (Lênin, 2005b, 248).
Tại sao quá độ lên chủ nghĩa xã hội lại tồn tại thành phần kinh tế chủ nghĩa
tư bản nhà nước và liệu có thể kết hợp, liên hợp hay phối hợp với chủ nghĩa tư bản
nhà nước được không? - “Tất nhiên là được” (Lênin, 2005b, 268). Việc tồn tại thành
phần kinh tế tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là do trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp, cùng với yêu cầu xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật, hay nói cách khác là xây dựng cơ sở kinh tế cho chủ nghĩa xã hội bởi
“xét cho cùng, thì nguồn lực lượng to lớn nhất để chiến thắng giai cấp tư sản và cái
bảo đảm duy nhất cho những thắng lợi đó được bền vững và không gì phá vỡ nổi,
chỉ có thể là một phương thức sản xuất xã hội mới, cao hơn, chỉ có thể là việc đem
sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa thay thế cho sản xuất tư bản chủ nghĩa và tiểu tư sản”
(Lênin, 2005c, 20-21). Mặt khác, chủ nghĩa tư bản nhà nước gần với chủ nghĩa xã hội
chứ không phải là chủ nghĩa tư bản. Chúng ta không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội
mà “không thể không lấy từ những viên gạch lấy từ kẻ thù”, phải học cách kinh
doanh buôn bán của các nhà tư bản.
V.I.Lênin cũng chỉ rõ tính tất yếu khách quan của sự tồn tại các quan hệ tư bản
chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ và đề ra nhiệm vụ phải hướng sự phát triển của
chúng vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước rằng chính sách ngăn cấm tự do
buôn bán “là một sự dại dột và tự sát” (Lênin, 2005b, 267) mà phải “không tìm cách
ngăn cấm hay chặn đứng sự phát triển của chủ nghĩa tư bản mà tìm cách hướng nó
vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước” (Lênin, 2005b, 267-268). Chủ nghĩa tư bản
nhà nước không chỉ là một thành phần kinh tế trong nền kinh tế nhiều thành phần,
mà còn là một “cầu nối”, “khoản học phí cần thiết” trong các quan hệ kinh tế đối
ngoại, là nơi chuyển giao các công nghệ tiên tiến, kể cả các công nghệ quản lý. Chủ
nghĩa tư bản nhà nước cho phép sử dụng kinh nghiệm tổ chức quản lý của các nhà
tư bản “... những nhà tư bản chấp nhận “chủ nghĩa tư bản nhà nước”… tỏ ra có ích
đối với giai cấp vô sản về phương diện họ là những người tổ chức thông minh và
có kinh nghiệm trong các xí nghiệp hết sức to lớn thực sự đảm nhận được việc cung
cấp sản phẩm cho hàng chục triệu người” (Lênin, 2005b, 259). Xét trên ý nghĩa vật
chất, kinh tế, thì chủ nghĩa tư bản nhà nước chính là “phòng chờ” để đi đến chủ

328
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

nghĩa xã hội, và nếu không đi qua phòng chờ ấy thì cũng không thể bước vào
ngưỡng cửa của chủ nghĩa xã hội.
Do đó, nhiệm vụ của chính quyền Xô - viết là áp dụng các biện pháp kinh tế
nhằm khai thác, thúc đẩy thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa tiến lên thành khuynh
hướng chủ đạo; đồng thời, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của các thành phần
kinh tế khác để tạo đầy đủ điều kiện về kinh tế cho chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cần kế thừa, tiếp thu những
tinh hoa, những giá trị quý báu của nhân loại, nhất là những thành tựu đạt được
dưới chủ nghĩa tư bản.
Sự phát triển của lịch sử là một quá trình phủ định biện chứng, không có chế
độ nô lệ cổ đại thì không có chủ nghĩa tư bản hiện đại và không có chủ nghĩa tư
bản hiện đại thì chủ nghĩa xã hội cũng không có. Chủ nghĩa xã hội là kết quả phát
sinh ra từ trong tổng số những kiến thức mà loài người đã đạt được, đã tích luỹ
từ mọi thời đại lịch sử. Mặt khác, chủ nghĩa tư bản với những “đỉnh cao” về văn
hoá, khoa học, kỹ thuật và công nghệ,... đã tạo tiền đề quan trọng, cần thiết cho
chủ nghĩa xã hội. Do vậy, những người cộng sản là phải biết “biến toàn bộ cái vốn
vô cùng phong phú về văn hoá, về tri thức và về kỹ thuật mà chủ nghĩa tư bản đã
tích luỹ lại, cái vốn mà về mặt lịch sử tất phải cần thiết cho chúng ta, - biến tất cả
cái đó từ chỗ là công cụ của chủ nghĩa tư bản thành công cụ của chủ nghĩa xã hội”
(Lênin, 2005c, 472), coi đó là những “viên gạch”, những “vật liệu” quý báu mà
những người cộng sản phải biết sử dụng nó vào quá trình phát triển lực lượng sản
xuất, tăng năng suất lao động xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân. Những thành tựu khoa học, kỹ thuật mà chủ nghĩa tư bản đạt được
cũng chính là sản phẩm của lịch sử để lại và kế thừa, do đó “không có kỹ thuật tư
bản chủ nghĩa quy mô lớn được xây dựng trên những phát minh mới nhất của
khoa học hiện đại… thì không thể nói đến chủ nghĩa xã hội được” (Lênin, 2005c,
368). Với điểm xuất phát thấp, lạc hậu cùng những hạn chế về tri thức lý luận,
khoa học, kỹ thuật, kinh nghiệm và kỹ năng quản lý,... tức là thiếu những cái cơ
sở cần thiết cho chủ nghĩa xã hội, mà nếu không lấp đầy sự thiếu hụt ấy, chủ nghĩa
xã hội sẽ chỉ là ước muốn chứ không thể thành hiện thực, V.I.Lênin yêu cầu phải
“dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài: Chính quyền Xô - viết + trật

329
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

tự đường sắt Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức tơ-rớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc
dân Mỹ etc.etc. + + = ∑ = chủ nghĩa xã hội” (Lênin, 2005c, 684).
Thứ tư, xây dựng văn hoá vô sản, nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, kế thừa
và phát huy những giá trị văn hoá dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại.
Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển của
xã hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hội không nằm ngoài việc xây dựng một nền văn
hoá phát triển cao, xây dựng được nền văn hóa vô sản. Văn hoá vô sản không phải
là những tư tưởng đặc biệt nào “mà là chủ nghĩa Mác” và không phải là chế tạo
một nền vô sản mới mà là “phát triển những kiểu mẫu ưu tú, những truyền thống
ưu tú, những kết quả tốt nhất của nền văn hóa hiện tồn, xét theo quan điểm thế giới
quan của chủ nghĩa Mác và những điều kiện của đời sống và cuộc đấu tranh của
giai cấp vô sản trong thời đại chuyên chính vô sản” (Lênin, 2005a, 548). Đó là nền
văn hóa chân chính, văn hóa dựa trên sự công bằng xã hội và mang đến tự do,
hạnh phúc cho con người.
V.I.Lênin chỉ rõ: “thế giới quan Mác - Xít là biểu hiện duy nhất đúng của những
lợi ích, của những quan điểm và nền văn hoá của giai cấp vô sản cách mạng” do ở
chỗ “chủ nghĩa Mác không những đã không vứt bỏ những thành tựu hết sức vĩ đại
của thời đại tư sản, mà trái lại, còn tiếp thu có phê phán tất cả những gì là quý báu
trong tư tưởng và văn hoá của loài người từ hơn hai nghìn năm nay, nên chủ nghĩa
Mác, về mặt là hệ tư tưởng của giai cấp vô sản cách mạng, đã có một tầm quan trọng
lịch sử. Chỉ có lao động tiến hành trên cơ sở đó và theo hướng đó, được cổ vũ bằng
kinh nghiệm của chuyên chính của giai cấp vô sản, là giai đoạn cuối cùng của cuộc
đấu tranh của nó chống mọi sự bóc lột, mới có thể coi là sự phát triển của nền văn
hoá thực sự vô sản” (Lênin, 2005a, 400).
Và chỉ có xây dựng được nền văn hoá vô sản mới có thể thể giải quyết được
mọi vấn đề trong đời sống từ kinh tế đến chính trị, xã hội và con người. Để xây
dựng văn hoá vô sản, “phải thấm nhuần tinh thần đấu tranh giai cấp của giai cấp
vô sản nhằm thực hiện thắng lợi những mục tiêu của nền chuyên chính vô sản, tức
là nhằm lật đổ giai cấp tư sản, xoá bỏ các giai cấp, xoá bỏ mọi chế độ người bóc lột
người” (Lênin, 2005a, 339).
Bên cạnh đó, quá trình xây dựng nền văn hoá mới - xã hội chủ nghĩa phải biết
tiếp thu, kế thừa các giá trị văn hoá dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại một cách

330
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

có chọn lọc, bởi V.I.Lênin cho rằng trong xã hội xã hội chủ nghĩa “người Cộng sản
phải biết tiếp thu những di sản văn hóa của nhân loại, phải tiếp thu toàn bộ khoa học
kỹ thuật, tất cả những kiến thức, tất cả những nghệ thuật, nếu không có những cái đó
chúng ta không thể xây dựng được xã hội Cộng sản” (Lênin, 2005b, 149). Và “người
ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu
biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra” (Lênin, 2005a, 362).
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, - một thời kỳ đặc biệt với “những cơn
đau đẻ kéo dài”...; “... toàn bộ thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội, các bậc thầy của chủ nghĩa xã hội không phải đã nói một cách vu vơ và không
phải đã nhấn mạnh một cách uổng công về “những cơn đau đẻ kéo dài” khi sinh
một xã hội mới; hơn nữa, xã hội mới ấy cũng lại là một cái trừu tượng chỉ có thể thể
hiện trong đời sống bằng cách trải qua hàng loạt hoạt động cụ thể, muôn vẻ, không
hoàn bị, nhằm sáng tạo một nhà nước xã hội chủ nghĩa thế này hay thế khác” (Lênin,
2005c, 255). Bằng thực tế lịch sử của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội lần đầu
tiên trên thế giới ở nước Nga Xô - viết những năm sau Cách mạng Tháng Mười,
V.I.Lênin đã làm sáng tỏ hàng loạt vấn đề quan trọng trong lý luận “phát triển rút
ngắn” với các phương thức “quá độ gián tiếp” áp dụng cho nước Nga và các nước
lạc hậu, tiền tư bản ở phương Đông. Có thể thấy quá độ gián tiếp là một loạt những
biện pháp quá độ đặc biệt, là tìm tòi và áp dụng những mắt xích trung gian, những
giải pháp quá độ, bắc những nhịp cầu nhỏ, thích hợp, vừa tầm với khối quần chúng
tiểu nông đông đảo, từ từ, từng bước tới chủ nghĩa xã hội.
2.2. Ý nghĩa tư tưởng của V.I.Lênin về quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng của V.I.Lênin về quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội đã kế tục, bổ
sung, phát triển, làm sâu sắc và phong phú hơn học thuyết Mác, nhờ vận dụng nó
vào phân tích chế độ xã hội của nước Nga đầu thế kỷ XX trong mối quan hệ chặt
chẽ với lịch sử thế giới đương đại.
Tư tưởng của V.I.Lênin về quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội từ một nước
tư bản kém phát triển hoặc chưa kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn không chỉ trong phạm vi nước Nga, mà còn có ý nghĩa
đối với các đảng cộng sản trên toàn thế giới. Nó cung cấp những tri thức khoa học
và kinh nghiệm hữu ích trong việc quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ở những nước lạc hậu, tiền tư bản. Chính vì vậy, nó cũng có ý nghĩa

331
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

thời đại và thời sự đối với phong trào cộng sản quốc tế, là kim chỉ nam cho các đảng
cộng sản cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới trong việc xây dựng
những bước quá độ phù hợp với thực tiễn mỗi nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, giai
đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản.
Ngày nay, chủ nghĩa tư bản vẫn đang tồn tại, còn khả năng phát triển và ảnh
hưởng, chi phối không nhỏ trong đời sống quốc tế. Chủ nghĩa xã hội hiện thực đã
lâm vào khủng hoảng, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ khiến
chủ nghĩa xã hội không còn tồn tại với tư cách là một hệ thống. Việt Nam là một số
rất ít trong số các quốc gia dân tộc trên thế giới kiên định con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội. Dù như vậy, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở Việt Nam vẫn là xu hướng tất yếu của lịch sử, phù hợp xu thế phát triển
của thời đại, ý chí và nguyện vọng của nhân dân.
Khẳng định lý luận của V.I.Lênin về quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội
trong điều kiện và bối cảnh hiện nay là khẳng định tinh thần khoan dung giá trị của
V.I.Lênin, trong đó bao hàm sự kế thừa di sản của lịch sử, trực tiếp nhất là từ trình
độ phát triển và những thành tựu của chủ nghĩa tư bản đã đạt được nhờ tích luỹ tri
thức và kinh nghiệm trong suốt mấy thế kỷ cho tới ngày nay. Đó là sự khẳng định
quan điểm Mác - xít về quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản với
điểm xuất phát thấp; là một quá trình lâu dài với nhiều quanh co và phức tạp, do
đó phải đi qua những khâu trung gian, áp dụng nhiều hình thức quá độ nhỏ, những
giải pháp trung gian, quá độ, từng bước để chủ nghĩa xã hội trưởng thành dần dần
cho đến khi đạt được trình độ phát triển điển hình cho phép chiến thắng hoàn toàn
chủ nghĩa tư bản trên tất cả các lĩnh vực.
3. SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN VỀ QUÁ ĐỘ GIÁN TIẾP
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Sự phát triển của xã hội Việt Nam là một bộ phận trong dòng chảy chung của
thời đại. Trên cơ sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ đặc điểm tình
hình thực tế Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường phát triển cách mạng
Việt Nam là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ
nghĩa, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đó là quy luật phát triển xã hội vừa phổ biến
vừa đặc thù ở Việt Nam - quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội - quá độ từ một xã

332
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

hội thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu sau khi giành được độc lập dân
tộc đi lên chủ nghĩa xã hội. Đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
ở Việt Nam một tất yếu khách quan, là khát vọng giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người khỏi ách bóc lột, áp bức và nô dịch của chủ nghĩa tư
bản, để bảo đảm độc lập cho Tổ quốc, tự do và hạnh phúc cho tất cả mọi thành viên
trong xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định sự lựa chọn con đường cách
mạng Việt Nam là “sự lựa chọn của chính sử” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991, 10)
và chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất giải phóng dân tộc Việt Nam, là sự khẳng
định trong hiện thực giá trị của một mô hình “cách mạng đến nơi”.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một sự nghiệp lâu dài, khó
khăn, phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Xuất phát điểm đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ một nước nông nghiệp
lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất thấp, trải qua giai đoạn
chiến tranh ác liệt; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại; cùng với
những tư tưởng chủ quan, nóng vội chúng ta đã phạm sai lầm trong việc xác định
mục tiêu và bước đi xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tạo xã hội,… Quán triệt
quan điểm của V.I.Lênin về thời kỳ quá độ và xuất phát từ tình hình thực tiễn Việt
Nam, tại Đại hội VI (1986), Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới
toàn diện đất nước, trong đó đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội và quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam là bước nhảy mang tính chất đột phá, khắc phục bệnh giáo
điều, chủ quan, duy ý chí, nóng vội.
Trên cơ sở đường lối đổi mới, Đảng ta đã xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta là sự “quá độ gián tiếp”. Đại hội IX, Đảng ta khẳng định: “Con đường đi
lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà
nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công
nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại” (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 2001, 84).
Như vậy, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công,
bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế
chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, song phải kế thừa, chắt lọc

333
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

những thành tựu, tinh hoa văn minh mà nhân loại đã đạt được ngay cả trong thời
kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa trên quan điểm phát triển, có chọn lọc.
Trên cơ sở thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 35 năm đổi mới (1986 - 2022), di
sản của V.I.Lênin về quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội được Đảng ta tiếp tục
vận dụng trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, củng cố và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của
nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng là điều
kiện cơ bản đối với quá trình quá độ gián tiếp đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là nhân
tố chủ quan quan trọng nhất quyết định sự thành bại của cách mạng xã hội chủ
nghĩa khi tiếp cận từ góc độ chủ thể. Không phải ngẫu nhiên, trong sự nghiệp đổi
mới cần không ngừng “nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu
của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống
chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 26-27). Đồng
thời, phát huy hơn nữa vai trò quản lý xã hội của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Nhà nước không những là nhân tố quan trọng, công cụ hữu hiệu
thúc đẩy các quá trình kinh tế - xã hội phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước, do đó cần được xây dựng và tổ chức theo hướng “... trong sạch, vững
mạnh toàn diện; hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực; kiên quyết, kiên
trì đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ;
đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí” (Đảng Cộng sản Việt
Nam, 2021, 27).
Thứ hai, phát triển kinh tế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây
là thành tựu lý luận cơ bản của Đảng ta qua 35 đổi mới (1986-2022), là sự bổ sung
và phát triển tư duy, quan niệm của V.I.Lênin về các biện pháp kinh tế trong thời
kỳ quá độ từ nước tiền tư bản, hoặc chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa
lên chủ nghĩa xã hội. “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình
kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền
kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các
quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa
vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với

334
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó:
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng
được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch
và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 128-129).
Trong đó, cần tổ chức và vận hành kinh tế tư bản nhà nước một cách hiệu quả,
phát huy vai trò của các thành phần kinh tế khác, tạo động lực để các chủ thể tham
gia vào đời sống kinh tế một cách có hiệu quả; giải quyết tốt, hài hòa mối quan hệ
giữa nhà nước, thị trường và xã hội; đẩy mạnh hợp tác, hội nhập kinh tế trong khu
vực và thế giới bởi toàn cầu hoá giờ đây là xu thế tất yếu.
Thứ ba, kế thừa, tiếp thu tinh hoa dân tộc và trí tuệ của thời đại trong xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ, chủ nghĩa xã hội theo cách hiểu của V.I.Lênin là tổng số giá
trị phổ biến của nhân loại phục vụ cho sự nghiệp giải phóng con người. Do đó,
thành quả văn minh nhân loại trên mọi lĩnh vực cần được tiếp thu, sử dụng với tinh
thần “phủ định biện chứng” góp phần xây dựng cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa,...
vững chắc cho chủ nghĩa xã hội. Văn kiện XIII chỉ rõ: “Tiếp thu có chọn lọc tinh hoa
văn hóa nhân loại phù hợp với thực tiễn Việt Nam” (Đảng Cộng sản Việt Nam,
2021, 147), để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, là nguồn lực nội sinh và là động
lực đột phá cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
Thứ tư, tập trung phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu,
động lực của sự phát triển. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống
và giá trị hiện đại. Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường
văn hóa, đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh; vừa phát
huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại
để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá
cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021,
47). Xây dựng và phát triển hệ giá trị con người Việt Nam với chuẩn mực tốt đẹp là
điều kiện, tiền đề để góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững.

335
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

4. KẾT LUẬN
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chủ nghĩa tư bản được dự báo như
một khả năng thời C.Mác và Ph.Ăngghen, được thực hiện và trở thành hiện thực
thời V.I.Lênin. Cống hiến của V.I.Lênin là ở chỗ làm sáng tỏ trên những vấn đề
lý luận căn bản nhất của con đường “phát triển rút ngắn”, của phương thức “quá
độ gián tiếp” lên chủ nghĩa xã hội mà trước đó C.Mác và Ph.Ăngghen mới chỉ
đưa ra những phác thảo có ý nghĩa dự báo. Đồng thời, lý luận đó được V.I.Lênin
và những người cộng sản Xô - viết trong buổi đầu sinh thành chủ nghĩa xã hội
đã áp dụng thành công và có hiệu quả, tạo ra sức sống mới của chủ nghĩa xã hội,
khẳng định một xu thế phát triển tích cực đầy triển vọng của chủ nghĩa xã hội
đầu thế kỷ XX.
Vận dụng sáng tạo những quan điểm của V.I.Lênin cùng với những năm tiến
hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng
sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ
nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng khẳng định, Việt
Nam hiện nay đang trong quá trình xây dựng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là
cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ, đòi hỏi phải có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới
và sức sáng tạo mới. Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình
không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa để các
nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công hay thất bại là
phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Để đạt được điều đó Đảng Cộng sản Việt
Nam phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đồng thời tiếp thu, bổ sung một
cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất
về tư tưởng và khoa học để vận dụng sáng tạo, phát triển vào hoàn cảnh lịch sử -
cụ thể của Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (2002a). Toàn tập (Vol. 19). Chính trị quốc gia.
[2]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (2002b). Toàn tập (Vol. 23). Chính trị quốc gia.

336
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII. Chính trị quốc gia.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
Chính trị quốc gia.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[6]. Lênin, V. I. (2005a). Toàn tập (Vol. 41). Chính trị quốc gia Sự thật.
[7]. Lênin, V. I. (2005b). Toàn tập (Vol. 43). Chính trị quốc gia Sự thật.
[8]. Lênin, V. I. (2005c). Toàn tập (Vol. 39). Chính trị quốc gia Sự thật.
[9]. Lênin, V. I. (2005d). Toàn tập (Vol. 36). Chính trị quốc gia Sự thật.
[10]. Lênin, V. I. (2005e). Toàn tập (Vol. 40). Chính trị quốc gia Sự thật.

337
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

MẤY SUY NGHĨ VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TỪ CÁCH TIẾP CẬN


DI SẢN KINH ĐIỂN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

Trần Nhật Minh


Học viện Chính trị khu vực II - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Tác giả liên hệ: Trần Nhật Minh, email: bienman1967@gmail.com

Tóm tắt: Chủ nghĩa xã hội là một đề tài lý luận và thực tiễn quan trọng, cơ bản, phong
phú ở Việt Nam hiện nay. Việc làm rõ hơn, làm sâu sắc thêm hiểu biết về chủ nghĩa
xã hội là một tất yếu cả về lý luận và thực tiễn. Trở lại di sản kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin để có nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội từ lý luận đến thực tiễn,
từ thực tiễn sự sụp đổ của mô hình Liên xô đến việc tìm tòi, thể nghiệm mô hình chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay - đó là một trong những cách thức góp phần hiện
thực hóa lý luận Mác-xít trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam thời kỳ đổi mới. Bài viết
góp phần tìm hiểu về chủ nghĩa xã hội qua cách tiếp cận di sản kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin.
Từ khóa: chủ nghĩa Mác - Lênin; chủ nghĩa xã hội; mô hình Liên xô; Đảng Cộng sản
Việt Nam.

1. MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống lý luận về vai trò của giai cấp công nhân
trong việc tự giải phóng mình và giải phóng xã hội loài người, qua việc xây dựng xã
hội xã hội chủ nghĩa, mà ở đó: “Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối
kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” (C.Mác và
Ph.Ăngghen, 1995c, 628). Lịch sử đã chứng kiến sự thăng trầm của chủ nghĩa xã hội
- hiện diện, phát triển, đột phá, thoái trào và những “cơn đau lịch sử”. Hiện thực ấy
không làm những tranh luận về chủ đề này lắng xuống, mà trong thế giới đương đại,
chủ nghĩa xã hội vẫn là chủ đề giàu sức hút trong sinh hoạt tư tưởng của nhân loại.
Hồi hướng về di sản kinh điển Mác-xít là cơ sở xác lập nhận thức sâu sắc, toàn
diện; để có căn cứ nhìn lại những chỉ giáo của các nhà kinh điển về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; từ đó góp phần nhận thức lại, tổng kết thực

338
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

tiễn, bổ sung, phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học trong điều kiện hiện nay - đó là
trách nhiệm, sứ mệnh của những nhà Mác-xít chân chính. Thật vậy, “Mác không tự
bó tay mình, và cũng không bó tay những nhà hoạt động tương lai của cách mạng xã
hội chủ nghĩa, về mặt hình thức, biện pháp, phương thức tiến hành cách mạng; Mác
thừa hiểu rằng khi ấy sẽ nảy ra những vấn đề mới nhiều biết chừng nào, rằng trong
tiến trình cách mạng, toàn bộ tình hình sẽ biến đổi như thế nào, trong tiến trình đó,
toàn bộ tình hình sẽ biến đổi luôn luôn và mạnh mẽ như thế nào” (Lênin, 2005e, 57).

2. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI - MỆNH LỆNH TẤT YẾU CỦA LỊCH SỬ


Từ cuối năm 1843, không hài lòng với quan điểm của Hegel và Feuerbach về lịch
sử, Mác và Ăngghen đã xuất phát từ con người hiện thực, đang sống và hoạt động
trong những điều kiện nhất định để khảo cứu lịch sử. Mác và Ăngghen (1995) viết:
“Những tiền đề xuất phát của chúng tôi... đó là những tiền đề hiện thực... Đó là những
cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ,
những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều kiện do hoạt động của chính
họ tạo ra” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995b, 28-29). Xuất phát từ con người hiện thực, các
nhà sáng lập học thuyết Mác đã đi đến luận giải một cách có hệ thống những quy luật
chung nhất của lịch sử1. Theo Bensaid, Mác đã “đem lại cách viết mới về lịch sử”, “xem
xét lịch sử một cách nghiêm túc, không còn với tính cách là sự trừu tượng hóa tôn giáo,
trong đó, những cá nhân sống là sinh vật thấp hèn, mà với tính cách là sự phát triển
hiện thực của những quan hệ xung đột nhau” (Bensaid, 1998, 37).
Quan điểm duy vật lịch sử là phát kiến triết học vĩ đại của Mác. Hai vấn đề
lớn, là lịch sử bắt đầu từ đâu và bị chi phối bởi cái gì? Mác (2000) cho rằng, lịch sử
bắt đầu từ nền sản xuất vật chất, đó là “sự sáng tạo con người kinh qua lao động”
(C.Mác và Ph.Ăngghen, 2000, 182) và lịch sử toàn thế giới bị chi phối bởi các quy
luật khách quan qua sự phát triển lịch sử - tự nhiên của những hình thái kinh tế - xã
hội (C.Mác và Ph.Ăngghen, 2002, 21). Mác vượt qua các nhà nghiên cứu xã hội trước
ông vì đã vén được bức màn bí ẩn của lịch sử, cũng giống như Darwin đã vén được
bức màn bí ẩn của giới tự nhiên hữu sinh. Sự phát triển của các hình thái kinh tế -
xã hội, bao giờ cũng bắt đầu từ những biến đổi của công cụ sản xuất, lực lượng sản

1Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật biện
chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, quy luật giai cấp và đấu tranh giai cấp,...
339
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

xuất phát triển thì tương ứng với nó là toàn bộ quan hệ sản xuất, chính trị, đạo đức,
tôn giáo, nghệ thuật,... được xây dựng trên đó. Sự phát triển sản xuất, kinh tế suy
đến cùng là nguồn gốc biến đổi cơ cấu xã hội, chính trị, giai cấp, tinh thần,...
Chủ nghĩa tư bản từng đóng vai trò rất tích cực trong lịch sử, nó đã thúc đẩy
sự ra đời đại công nghiệp, xé toang những hàng rào các cứ phong kiến. Song, trong
chủ nghĩa tư bản, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng mang tính xã hội
hóa với quan hệ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, biểu hiện
về mặt kinh tế là các cuộc khủng hoảng theo chu kỳ, tình trạng lao động mất việc,
bị bần cùng hóa ngày càng tăng lên. Khi phân tích nền kinh tế nước Anh những
năm 40 của thế kỷ XIX, Ăngghen (1995) viết: “sau phồn vinh là khủng hoảng, sau
khủng hoảng là phồn vinh, rồi lại khủng hoảng mới, và sự tuần hoàn vĩnh viễn ấy
của công nghiệp Anh,... trừ những thời kỳ thịnh vượng cao độ ngắn ngủi, lúc nào
nền công nghiệp Anh cũng phải có một đội quân lao động dự bị thất nghiệp”
(C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995c, 432-433). Theo Mác và Ăngghen (1995), chính do sự
chi phối của quy luật khách quan, mà giai cấp tư sản “giống như một tay phù thủy
không còn đủ sức trị những âm binh mà y đã triệu lên” (C.Mác và Ph.Ăngghen,
1995c, 604) - giai cấp công nhân làm thuê - đại biểu cho phương thức sản xuất tiên
tiến, có sứ mệnh là xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa vì sự nghiệp giải phóng hoàn
toàn con người - đó là một “mệnh lệnh của lịch sử”.
Tiến tới chủ nghĩa xã hội là một tất yếu hợp quy luật. Năm 1844, Mác (2000)
đã khẳng định, chủ nghĩa xã hội là “hình thức tất yếu và là nguyên tắc kiên quyết
của tương lai sắp tới” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 2000, 183). Để hiện thực hóa nó,
không thể không thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa với tư cách là “hình
thức chính trị của sự giải phóng công nhân” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 2000, 143). Mục
tiêu của những người cộng sản là:
“Họ công khai tuyên bố rằng mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng cách
dùng bạo lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện hành. Mặc cho các giai cấp thống trị
run sợ trước một cuộc Cách mạng cộng sản chủ nghĩa! Trong cuộc cách mạng ấy,
những người vô sản chẳng mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc họ. Họ sẽ
giành được cả thế giới” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995c, 646).
Logic tiếp cận của chủ nghĩa Mác - Lênin đã phản ánh quy luật phổ biến chi
phối lịch sử, tiến lên chủ nghĩa xã hội là một mệnh lệnh tiên quyết của lịch sử, logic
340
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

ấy bám rễ trên nền tảng kinh tế nhất định và năng lực thực tiễn cách mạng của giai
cấp công nhân trong sứ mệnh giải phóng hoàn toàn. Quán triệt sâu sắc phương
pháp luận mác-xít, Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định triết lý phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là quy luật của lịch sử, phù hợp với nhu cầu và khát
vọng của nhân loại về một xã hội vì con người. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (sửa đổi, bổ sung 2011), chỉ rõ: “Theo quy luật tiến
hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội” (Đảng Cộng sản Việt
Nam, 2011, 69). Tổng kết 35 năm đổi mới (1986 - 2021), Đại hội XIII của Đảng (2021)
“khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn
Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 104).
Đây là vấn đề vừa mang tính quy luật, vừa mang tính nguyên tắc, không được ngả
nghiêng, dao động.

3. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC - SỰ SỤP ĐỔ VÀ PHÉP THỬ CHO SỨC
SỐNG MÃNH LIỆT CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC TRONG THỜI
ĐẠI NGÀY NAY
Tháng 11/1917, cách mạng tháng Mười Nga thành công, chủ nghĩa xã hội từ
lý luận trở thành hiện thực, điểm nhấn của cuộc cách mạng là đã khẳng định vai
trò lịch sử của giai cấp công nhân, mở ra thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Sau hơn 70 năm tồn tại, chủ nghĩa xã
hội hiện thực đã đạt được nhiều thành tựu, có đóng góp to lớn trong sự phát triển
của nhân loại. Song, do những sai lầm nhất định về đường lối khiến Liên xô sụp
đổ (1991). Sự kiện ấy đánh dấu sự thoái trào của phong trào cộng sản, công nhân
quốc tế, cũng như dấy lên những tranh luận về chủ nghĩa xã hội, ngày càng đa
diện, nhiều chiều. Fukuyama, đề xuất tư tưởng về “sự tận cùng của lịch sử?”2 Đó là
điểm tận cùng của sự tiến hóa tư tưởng nhân loại và sự phổ biến nền dân chủ tự
do kiểu phương Tây (nền dân chủ tư sản - TNM) với tư cách là nhà nước cuối cùng
của nhân loại (Fukuyama, 1989, 3-18). Butenko coi nhà nước Liên xô đã xa rời mô
hình của Lênin sang khía cạnh của chủ nghĩa toàn trị, cực quyền, mang nặng tính
độc tài, uy quyền; chủ nghĩa xã hội loại trừ sở hữu cá nhân với tư cách là cơ sở

2Trong bài viết The End of History? Năm 1989 và được phát triển trong cuốn sách The End of History
and the Last Man năm 1992.
341
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

khách quan của dân chủ, việc bổ sung cho nền dân chủ nội dung xã hội chủ nghĩa
là một toan tính không tưởng (Đinh, 2019, 297-298). Cái chết của mô hình Liên xô,
là “chất liệu phê phán” lý tưởng của Mác, đồng nhất sự sụp đổ của một hình mẫu
và sự cáo chung chủ nghĩa cộng sản. Derrida (1994), yêu cầu cần có sự tranh luận
nghiêm túc về “sự cáo chung của lịch sử” (p.44), cũng như sự đoạn tuyệt hoàn
toàn, sự hờ hững với di sản của Mác; thế giới đang “tàn tạ”, “thế giới ốm yếu rồi,
nó đã tàn tạ, nhưng sự tàn tạ này chẳng được để ý tới nữa”; “trật tự thế giới mới”,
trong sự điều hành của chủ nghĩa tư bản đang “xộc xệch” với 10 “vết loét” của nó,
những “vết thương, lời điếu” của nó, và sẽ là “những cơn sóng gió chính trị - xã
hội” của nó (p.165, 172, 179). Sự “tận cùng của lịch sử” của Fukuyama, theo
Derrida (1994) là “niềm say sưa quá trớn của chủ nghĩa tư bản dân chủ tự do hay
dân chủ xã hội, giống như một ảo giác mù quáng nhất và hôn mê nhất, thậm chí
giống như một sự giả nhân giả nghĩa ngày càng lộ liễu trong cái lời lẽ hình thức
và pháp lý của nó về quyền con người” (p.172).
Trở lại di sản chủ nghĩa Mác - Lênin, các nhà kinh điển xem chủ nghĩa xã hội
là phong trào hiện thực, mà phong trào hiện thực thì biểu hiện sinh động, phong
phú, vừa phụ thuộc vào logic chung của lịch sử, vừa chịu ảnh hưởng bởi tình hình
cụ thể cả về không gian và thời gian. Không có một mô hình nào là chung nhất.
“Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải
sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi
chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay.
Những điều kiện của phong trào ấy là do những tiền đề hiện đang tồn tại đẻ ra”
(C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995b, p.51).
Sự ra đời của chủ nghĩa cộng sản có nguồn gốc từ hiện thực, phù hợp với
những tiêu chuẩn của hiện thực, căn cứ vào những điều kiện lịch sử - cụ thể. Những
dự báo của các nhà sáng lập học thuyết Mác cũng là những phác thảo chung nhất.
Thật vậy, “... nghiên cứu một cơ thể đã phát triển thì dễ hơn là nghiên cứu tế bào
của cơ thể đó” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 2002, p.16). Nếu hiện thực chưa phát triển
đến độ của nó, thì càng dự báo chi tiết về nó bao nhiêu thì lại càng rơi vào ảo tưởng
bấy nhiêu. Đề cập đến vấn đề này, Lênin (2006b) viết: “Chúng ta không kỳ vọng rằng
Mác hay những người theo chủ nghĩa Mác đều hiểu biết mọi mặt cụ thể của con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Như thế sẽ là phi lý. Chúng ta chỉ biết phương hướng

342
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

của con đường đó và những lực lượng giai cấp nào dẫn đến con đường đó; còn
như về cụ thể và trên thực tế con đường đó ra sao, thì kinh nghiệm của hàng triệu
con người sẽ chỉ rõ, khi họ bắt tay vào hành động” (p.152-153).
Mô hình Liên xô dù đã từng trải qua thời kỳ hoàng kim với những thành tựu
vượt bậc trên nhiều lĩnh vực. Song, việc áp dụng trong một thời gian dài một kiểu
tổ chức xã hội, nhất là phương thức tập trung hóa cao độ nền kinh tế, đã gây ra
những hệ lụy dẫn đến khủng hoảng, cải tổ thất bại và sụp đổ. Trở lại tinh thần của
Lênin, ông đã rất mau chóng thay đổi mô hình phát triển xã hội, nhanh chóng
chuyển từ chính sách cộng sản thời chiến (giúp nước Nga vượt qua sức ép cấm
vận của 14 nước đế quốc và nội chiến), sang thừa nhận, ủng hộ, tạo điều kiện phát
triển nền kinh tế hàng hóa, mở đường cho phát triển kinh tế thị trường trong điều
kiện hòa bình vào năm 1921 (4 năm sau cách mạng tháng Mười). Nền kinh tế chỉ
huy trong điều kiện đất nước hòa bình khi trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất còn thấp, theo Lênin (2005e) “không thể cung cấp tất cả sản phẩm, hoàn toàn
không thể cung cấp được, và còn lâu chưa thể cung cấp được, ít nhất là chừng nào
mà chúng ta chưa hoàn thành các công trình điện khí hóa cả nước” (p.267). Cần
thấy rằng, chính sách cấm trao đổi, mua bán trong điều kiện nước Nga vẫn còn
tồn tại hàng triệu người sản xuất nhỏ là một hạn chế cần khắc phục. “Chính sách
ấy là một sự dại dột và tự sát đối với một đảng nào muốn áp dụng nó. Dại dột, vì
về phương diện kinh tế, chính sách ấy là không thể nào thực hiện được; tự sát, vì
những đảng nào định thi hành một chính sách như thế, nhất định sẽ bị phá sản”
(Lênin, 2005e, 267). Thay đổi tư duy, quan niệm về chính sách kinh tế, chuyển từ
nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần (hiểu là kinh tế
thị trường), trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với tình hình
thực tiễn thay đổi.
Vào năm 1984, khi mầm mống của cuộc khủng hoảng về sự khan hiếm hàng
hóa và khan hiếm lòng tin xuất hiện, trên các phương tiện truyền thông, trên diễn
đàn khoa học xã hội, các bài viết về sự cần thiết phải cải tổ toàn bộ đời sống xã hội
bắt đầu xuất hiện. Năm 1987 (Cách mạng Tháng Mười), Gorbachev đọc bản báo cáo
với tiêu đề “Tháng Mười và Cải tổ - cuộc cách mạng đang tiếp diễn”, đó là một
chiến lược giải phóng tiềm năng của chủ nghĩa xã hội, đem lại cho chủ nghĩa xã hội

343
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

“những giá trị mới” và “sức sống mới” và ông gọi đó “một cuộc cách mạng” (Lê,
2021, 54). Song, những sai lầm khiến Liên xô sụp đổ. Cái chết của hình mẫu Liên xô
ảnh hưởng không nhỏ đến tư duy, quan niệm, niềm tin về chủ nghĩa xã hội. Biến cố
lịch sử này phản ánh cái chết của một hình mẫu chứ không phải là cáo chung với
một di sản “phù hợp với khái niệm di sản nói chung”, tức “cần phải thừa kế di sản
của Mác” (Derrida, 1994, 120-119). Đồng thời, nó làm cho “di sản của Mác hồi sinh”,
khẳng định giá trị thời đại trong “trật tự thế giới mới”. Lênin (2005b) từng khẳng
định: “... dễ dàng thừa nhận mọi công thức và rời bỏ mọi công thức cũng dễ dàng
như thế” (p.239). Kịp thời, linh hoạt, thận trọng trong cách tiếp cận, giải quyết các
vấn đề của thực tiễn là điều kiện đảm bảo tính khả thi của cách mạng cộng sản. Bài
học về sự rập khuôn, chuẩn hóa một mô hình trong những điều kiện lịch sử khác
nhau là một bài học với khoản học phí đắt đỏ.
Quán triệt sâu sắc quan điểm phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994 - 3 năm sau khi Liên xô sụp đổ) chỉ rõ: “xây
dựng chủ nghĩa xã hội còn là sự nghiệp rất mới mẻ, đòi hỏi nhiều công phu nghiên
cứu, khám phá, tìm tòi. Chúng ta phải không ngừng thông qua tổng kết thực tiễn
và nghiên cứu lý luận mà từng bước hình dung ngày càng sáng tỏ về chủ nghĩa xã
hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, làm rõ những mô hình cụ
thể trong từng lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa,... Phải vận sáng tạo và
tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư
tưởng của Lênin về chính sách kinh tế mới, về chủ nghĩa tư bản nhà nước, sáng tạo
nhiều hình thức quá độ, những nấc thang trung gian, đa dạng, phù hợp với hoàn
cảnh lịch sử cụ thể để đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2007, 197-198).
Sau 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, Đại hội XIII (2021) khẳng định: “..., lý
luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa...; tiếp
tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù
hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời
đại” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 25-26).

344
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

4. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI NHÌN TỪ GÓC ĐỘ TƯ TƯỞNG VÀ BÀI HỌC VỀ SỰ


THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG XÂY DỰNG CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc phương pháp
luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Bản thân chủ nghĩa xã hội khoa học là hệ
thống lý thuyết phản ánh tính tất yếu, nhu cầu phong trào công nhân từ những năm
40 của thế kỷ XIX cho đến ngày nay. Năm 1844, Mác (2000) viết: “Bản thân việc giải
quyết những sự đối lập về lý luận chỉ có thể làm được bằng con đường thực tiễn,...
thông qua tinh lực thực tiễn của con người... không phải chỉ là nhiệm vụ của nhận
thức mà còn là nhiệm vụ hiện thực của đời sống mà triết học đã không thể giải quyết
được chính là vì nó coi nhiệm vụ đó chỉ là nhiệm vụ lý luận” (C.Mác và Ph.Ăngghen,
2000, 177). Lòng thương người của chủ nghĩa cộng sản khoa học không phải là lòng
thương người có tính chất triết học và trừu tượng mà là lòng thương người có “tính
chất hiện thực và trực tiếp nhằm vào hành động” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 2000, 169).
Vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tuyệt đối hóa lý luận
hay thực tiễn đều là sai lầm, sự di căn những chứng bệnh về nhận thức mang tính
phổ biến. “Tư duy lý luận của mỗi một thời đại, cũng có nghĩa là cả thời đại chúng
ta, là một sản phẩm lịch sử mang những hình thức rất khác nhau trong những thời
đại khác nhau và do đó có một nội dung rất khác nhau” (C.Mác và Ph.Ăngghen,
1999a, 487). Lịch sử bắt đầu từ đâu thì tư duy cũng bắt đầu từ đấy. Ăngghen (1999)
viết: “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo
điều mà người ta phải học thuộc lòng và lặp lại một cách máy móc” (C.Mác và
Ph.Ăngghen, 1999b, 796). Tương ứng với những giai đoạn phát triển khác nhau của
phong trào cách mạng mà cần khái quát, bổ sung, phát triển lý luận cho phù hợp.
“Từ sau khi chủ nghĩa Mác ra đời, mỗi một thời đại vĩ đại của lịch sử thế giới đều
đem lại cho chủ nghĩa ấy những chứng thực mới. Nhưng thời đại lịch sử sắp tới sẽ
đem lại cho chủ nghĩa Mác, học thuyết của giai cấp vô sản, một thắng lợi còn to lớn
hơn nữa” (Lênin, 2005c, 5). Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học là một quá
trình, mà ở đó không thể không tiếp tục nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, bổ
sung chất liệu của thực tiễn vào kho tàng lý luận của nó để góp phần hình thành
“thế giới quan hoàn bị”, có thể chỉ đạo, dẫn dắt đúng đắn thực tiễn.

345
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Trở lại lịch sử, Liên xô đã có nhiều công lao trong việc bổ sung, phát triển chủ
nghĩa xã hội khoa học (đạt được nhiều thành tựu, phát triển ở trình độ cao). Song,
hệ thống ấy còn mang nặng tính giáo huấn, một chiều, chung chung mà có thể “vận
dụng vào đâu cũng đúng”. Tính chất một chiều, sách vở của lý luận có ảnh hưởng
không nhỏ đến khả năng tiếp biến, phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chuẩn
hóa về mặt tư tưởng đã khiến bản chất và linh hồn sống của chủ nghĩa Mác - Lênin
không sống, nó hạn chế khả năng sáng tạo, hình thành tâm lý bức bách, bị dồn nén
về mặt tư duy. Đồng thời, với việc nắm trong tay phương tiện truyền thông, lý luận
một chiều được trợ lực bởi những công cụ vật chất hùng hậu, tạo ra sự thống nhất
cao độ trong xã hội - nhưng chỉ trên phương diện hình thức, còn thực chất nó tạo ra
sự mâu thuẫn giữa tư duy và hiện thực, giữa lý trí và niềm tin, sự phân mảnh về tư
tưởng, những cơn sóng ngầm báo hiệu cuộc khủng hoảng về ý thức hệ. Một số
người đã nghĩ đến phương thức sinh hoạt tư tưởng “kiểu phương Tây” một cách
thiếu kiểm soát như khát vọng muốn tìm đến “miền đất hứa của sự tự do về tư
tưởng”. Lênin (2005a) từng nhắc nhở: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như
là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý
luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần
phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với
cuộc sống” (p.232). Do đó, nếu không xa rời quan điểm mác-xít thì khó có thể mắc
bệnh giáo điều trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tránh nguy cơ giáo điều hóa, xa rời hiện thực, gánh nặng của tính giáo huấn,
một chiều trong vận dụng lý luận của Mác, cần “vận dụng nó (chủ nghĩa Mác -
TNM) vào những điều kiện mới, thì sự phê phán mác-xít còn phong phú” đó “vẫn
là cấp bách và vô cùng cần thiết” (Derrida,1994, 182-183). Thấm nhuần bài học này,
ngay từ Đại hội VII năm 1991, Đảng Cộng sản Việt Nam (2005) xác định, chủ nghĩa
xã hội “... những gì mà nhận thức chúng ta đạt tới hôm nay sẽ còn được bổ sung,
phát triển, cùng với sự phát triển sau này của thực tiễn và của tư duy lý luận” (p.19).
Sau 35 năm đổi mới, Đại hội XIII của Đảng (2021) yêu cầu “quán triệt sâu sắc nguyên
tắc kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, giữa kiên định và đổi mới, giữa
kế thừa và phát triển, trên cơ sở phát huy dân chủ rộng rãi” (Đảng Cộng sản Việt
Nam, 2021, 19). Bên cạnh đó, “Kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo,
phù hợp với thực tiễn Việt Nam” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021,40).

346
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

5. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI - SẢN PHẨM CỦA SỰ KẾ THỪA, PHÁT TRIỂN TINH
HOA CỦA NHÂN LOẠI, TRỰC TIẾP LÀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
Chủ nghĩa xã hội là sản phẩm của lịch sử, của sự kế thừa, phát triển tinh hoa
của nhân loại, trực tiếp là chủ nghĩa tư bản. Theo Mác, lịch sử chứng minh từ chủ
nghĩa cộng sản nguyên thủy đến chủ nghĩa cộng sản văn minh là một quá trình phủ
định của phủ định, là sự kế thừa, tiếp biến thành tựu của tất cả các thế hệ đã qua.
Chủ nghĩa cộng sản văn minh - “sự quay trở lại này diễn ra một cách có ý thức và
có giữ lại tất cả sự phong phú của sự phát triển trước đó” (C.Mác và Ph.Ăngghen,
2000, 167); ở đó nhân loại phải “học cách tin tưởng ở con người”. Đề cập đến vấn
đề này, Lênin (2006c) viết: “Chúng ta không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội
nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở tất cả những bài học mà nền văn
minh lớn của chủ nghĩa tư bản đã thu được” (p.334).
Do ảnh hưởng của tư duy siêu hình và sự chuẩn hóa một mô hình, nên chủ
nghĩa xã hội hiện thực (sau Lênin) có biểu hiện đối lập tuyệt đối giữa chủ nghĩa tư
bản và chủ nghĩa xã hội; chiến tranh lạnh hình thành hai cực, hai phe, “một mất một
còn” trên hầu hết các lĩnh vực. Do đó, trên bình diện vật chất, chủ nghĩa xã hội khó
có khả năng (mà phải tự mình) tiếp cận thành tựu mới nhất của khoa học - công
nghệ; trên bình diện tinh thần, việc giao lưu, tiếp biến các giá trị văn hóa, tư tưởng,
khoa học,... còn hạn chế. Ngoài những nguyên nhân về mặt lịch sử, có thể thấy rằng
những người cộng sản còn ảnh hưởng của tư duy siêu hình, bệnh chủ quan, đôi chỗ
còn ấu trĩ tả khuynh chưa hiểu đúng vai trò quan trọng của sự kế thừa di sản của
chủ nghĩa tư bản với tư cách là một quá trình phủ định biện chứng. Cần đứng trên
vai người khổng lồ nếu muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, tức phải kế thừa tinh hoa
của nhân loại, nhất là dưới chủ nghĩa tư bản.
Mác, Ăngghen, Lênin đã không ít lần nhắc nhở về việc kế thừa, học tập và
phát triển thành tựu của chủ nghĩa tư bản. Khi phê phán chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước là “ăn bám và thối nát” 3, Lênin (2006c) vẫn khẳng định: “...
Chủ nghĩa tư bản độc quyền ‐ nhà nước là sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho

3
Ăn bám vì nó chiếm đoạt lao động thặng dư trên toàn cầu thông qua xuất khẩu tư bản và các nhóm
đầu sỏ tài chính. Thối nát vì chạy theo lợi nhuận độc quyền cao mà có thể sản xuất bất kỳ cái gì miễn
là có lợi nhuận kể cả những thứ hủy diệt loài người và chậm ứng dụng khoa học - công nghệ mới
vào sản xuất,...
347
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

chủ nghĩa xã hội, là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội, là nấc thang lịch sử, mà
giữa nó (nấc thang đó) với nấc thang được gọi là chủ nghĩa xã hội thì không có một
nấc nào ở giữa cả” (p.371). Trong quá trình xây dựng xã hội mới, Lênin (2006) phê
phán lối nghĩ hẹp hòi, “đem chủ nghĩa tư bản đối lập một cách trừu tượng với chủ
nghĩa xã hội” và cho rằng: “Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài:
Chính quyền Xô-viết + trật tự ở đường sắt Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức các tơ-
rớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ etc. etc. ++ = ∑(tổng số, tổng kết lại) = chủ
nghĩa xã hội” (Lênin, 2006c, 684). Đồng thời, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước
như là “những chiếc cầu nhỏ” đi lên chủ nghĩa xã hội, là “khoản học phí” xứng
đáng cho giai cấp công nhân trong sự nghiệp cách mạng. “Chủ nghĩa tư bản nhà
nước vẫn ... sẽ đưa chúng ta đến chủ nghĩa xã hội bằng con đường chắc chắn nhất”
(Lênin, 2005e, 251-252). Trên đây là một vài minh họa về tinh thần khoan dung và
quan điểm kế thừa trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác
- Lênin.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta chủ trương kế thừa thành tựu của nhân
loại, nhất là thành tựu của chủ nghĩa tư bản trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Về quá độ bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội IX (2001) chỉ
rõ: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ
sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa
học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế
hiện đại” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 130-131).
Tiếp tục tinh thần kế thừa và phát triển, Đại hội XIII xác định “vận dụng có
hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công
nghệ của thế giới”, “tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với
thực tiễn Việt Nam”, “phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu
những tinh hoa văn hóa nhân loại tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội và hội
nhập quốc tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 145, 147, 262).

348
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

6. TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CẦN CẢNH GIÁC,
ĐOẠN TUYỆT VỚI ÂM MƯU, HÀNH ĐỘNG ĐÓNG VAI MÁC ĐỂ CHỐNG
CHỦ NGHĨA MÁC
“Đóng vai Mác để chống chủ nghĩa Mác” là luận điểm mà Derrida nêu lên
trong cuốn Những bóng ma của Mác. Ông đã dành hẳn một chương để phê phán
hành động đi ngược lại những quan điểm đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa Mác -
đó là sự “bóp nghẹt mệnh lệnh chính trị”, “vô hiệu hóa một sức mạnh tiềm tàng”
của học thuyết Mác với tư cách là “giải thoát và cứu thế ”, “một kinh nghiệm mở cửa
cho tương lai tuyệt đối của cái đang đến”, những sai lầm đã trải qua khiến di sản
Mác “chịu đựng những cơn đau của lịch sử” (Derrida, 1994, 77, 188, 189, 190, 191).
Thực chất nội dung này là bài học về xây dựng Đảng, bài học về sự kiên định
nguyên lý khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng Cộng sản Liên xô
đã để lọt vào hàng ngũ những người phá hoại sự nghiệp - sự phá hoại từ bên trong.
Gorbachev và Yakovlev - những “kiến trúc sư trưởng” cho sự nghiệp “cải tổ và phá
hoại”. Ngày 2/11/1987, Gorbachev (lúc này là Tổng bí thư) đã tuyên bố “Chúng ta
đang hướng tới một thế giới mới - thế giới của chủ nghĩa cộng sản và sẽ không bao
giờ đi chệch khỏi con đường đó” (Lê, 2021, 53) - thể hiện là “những người trung
thành” nhưng thực chất là chống cộng. Sau cuộc cải tổ 4 năm, Liên Xô đã lùi vào
lịch sử như một cái chết đã được dự báo từ trước của giới truyền thông phương
Tây. Gorbachev tuyên bố: “mục tiêu của cả cuộc đời tôi là tiêu diệt chủ nghĩa cộng
sản, một chế độ độc tài không thể dung thứ đối với con người. Tôi được vợ hoàn
toàn ủng hộ... Tôi đã nỗ lực tìm được các cộng sự để thực hiện mục tiêu này. Trong
số đó có Shevardnadze và Yakovlev - những người có công lao trong sự nghiệp
chung của chúng tôi” (Lê 2021, 53-54). Đó là hành động phản cách mạng núp bóng
một nhà cách mạng.
Trở lại di sản kinh điển Mác-xít, công tác xây dựng và chỉnh đốn đảng là cần
thiết, cấp bách, quan trọng đối với toàn bộ phong trào. Đảng là bộ phận ưu tú, giác
ngộ của phong trào, là nhân tố chủ quan chỉ đạo, dẫn dắt phong trào tiến lên. Trong
Đảng tập hợp những người ưu tú, kiên trung mới có thể làm được vai trò của một
Đảng tiền phong. Lênin (2005d) khẳng định: “Chủ nghĩa Mác giáo dục đảng công
nhân, là giáo dục đội tiền phong của giai cấp vô sản, đội tiền phong này đủ sức nắm
chính quyền và dắt dẫn toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ chức

349
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

một chế độ mới, đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của tất
cả những người lao động và những người bị bóc lột để giúp họ tổ chức đời sống xã
hội của họ,...” (p.33). Hô hào “cách tân” và “sửa lại”, vận dụng chủ nghĩa Mác “một
cách có thiện ý” là biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội, về thực chất là luôn “nhảy từ thái
cực này sang thái cực khác”, hòng là tìm cách “vận dụng chủ nghĩa Mác sao cho có
thể biện hộ cho tất cả những sự nhượng bộ chủ nghĩa cơ hội” (Lênin, 2006a, 281).
Theo Lênin (2006d), “không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai
lầm của bản thân chúng ta. Toàn bộ vấn đề là ở chữ “nếu” này. Nếu chúng ta do sai
lầm mà gây ra sự chia rẽ thì tất cả sẽ sụp đổ,...” (p.311). Nhân danh chủ nghĩa xã hội
để phủ nhận chủ nghĩa xã hội, biến nhà nước xã hội chủ nghĩa thành pháo đài bất
khả xâm phạm của chủ nghĩa cơ hội, biến những người lãnh đạo, người đứng đầu
của Đảng thành những vị thánh không vầng hào quang,... từ đó làm nảy sinh từ bên
trong những nguy cơ mà chủ nghĩa xã hội phải đối mặt, đó là con đường mà sự trả
giá của nó là sinh mệnh chính trị của giai cấp công nhân.
Kiên định chủ nghĩa xã hội, kiên định sự lãnh đạo của Đảng, các nguyên tắc
tổ chức và sinh hoạt Đảng là bài học quý báu từ sự sụp đổ của Liên xô. Chống chủ
nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, sự “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” trong nội bộ
là phương thức tồn tại của Đảng, là quy luật phát triển của Đảng từ lịch sử cho đến
hiện nay. Quán triệt sâu sắc bài học này, Đại hội XIII xác định: “công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên,
hiệu quả cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Kiên định, vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng
lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng
cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc
xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng...; kiên
quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ;...” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 26-27); không cho phép ai được
ngả nghiêng, dao động.

7. KẾT LUẬN
Chủ nghĩa xã hội là sản phẩm tất yếu của lịch sử. Chủ nghĩa xã hội hiện thực
(kiểu Liên xô) đã từng là hình mẫu chung cho sự hiện diện của nó trong thực tế,

350
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

song chính sự sụp đổ của hình mẫu ấy khiến cho chúng ta có những nhận thức và
xúc cảm khác nhau - vừa là “nỗi đau lịch sử” vừa là “bài học lịch sử”. Nhận thức
của chúng ta về chủ nghĩa xã hội còn chưa thật sự đầy đủ, cần được tiếp tục bổ
sung, phát triển. Trở lại di sản kinh điển Mác-xít, giúp chúng ta có cách tiếp cận
khách quan, khoa học để kế thừa, tiếp biến, hiện thực hóa di sản của chủ nghĩa Mác
- Lênin. Những cơn đau lịch sử là bài học đắt giá với cách mạng Việt Nam; đồng
thời đánh dấu “sự trở lại của một người đã chết (Mác - TNM), một sự tái hiện ma
quái mà việc tang lễ của thế giới (sụp đổ của Liên xô năm 1991 - TNM) đã không
thể nào vứt bỏ nổi” (Derrida, 1994, 211), tức khẳng định sức sống mãnh liệt, vĩnh
hằng, phổ biến chủ nghĩa xã hội khoa học qua những biến cố lịch sử. “Mác dù sao
cũng là một triết gia..., một triết gia vĩ đại... Trở lại Mác, cuối cùng chúng ta hãy đọc
ông như đọc một triết gia vĩ đại” (Derrida, 1994, 78).
Kế tục di sản kinh điển mác-xít, trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay
cần quán triệt 5 bài học sau: (1) Kiên định triết lý và con đường phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa; (2) Kế thừa thành tựu, tiếp tục nghiên cứu và rút kinh
nghiệm từ sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên xô; (3) Quán triệt sâu sắc
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong vận dụng, nghiên cứu, phát
triển lý luận, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; (4) Kế thừa, tiếp biến có chọn lọc
tinh hoa nhân loại, nhất là chủ nghĩa tư bản gắn với bảo vệ, phát triển truyền thống
tốt đẹp của dân tộc; (5) Cảnh giác, đấu tranh kiên quyết với chủ nghĩa cơ hội, xét
lại; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh, nâng cao bản lĩnh và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ các
cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Bensaid, D. (1998). Mác người vượt trước thời đại (T. Phạm, V. H. Nguyễn, &
X. T. Lê, Trans.). Chính trị quốc gia.
[2]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (1995a). Toàn tập (Vol. 2). Chính trị quốc gia.
[3]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (1995b). Toàn tập (Vol. 3). Chính trị quốc gia.
[4]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (1995c). Toàn tập (Vol. 4). Chính trị quốc gia.
[5]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (1999a). Toàn tập (Vol. 20). Chính trị quốc gia.

351
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

[6]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (1999b). Toàn tập (Vol. 36). Chính trị quốc gia.
[7]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (2000). Toàn tập (Vol. 42). Chính trị quốc gia.
[8]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (2002). Toàn tập (Vol. 23). Chính trị quốc gia.
[9]. Derrida, J. (1994). Những bóng ma của Mác. Chính trị quốc gia.
[10]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2005). Văn kiện Đảng Toàn tập (Vol. 51). Chính trị
quốc gia.
[11]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2007). Văn kiện Đảng Toàn tập (Vol. 53). Chính trị
quốc gia.
[12]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2016). Văn kiện Đảng Toàn tập (Vol. 60). Chính trị
quốc gia.
[13]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Chính trị quốc gia.
[14]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[15]. Đinh, N. T. (2019). Triết học chính trị phương Tây hiện đại, giá trị và ý nghĩa. Đại
học quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
[16]. Fukuyama, F. (1989). The End of History? The National Interest, 16, 3–18.
[17]. Lê, T. M. (2021). M.Gorbachev và A.Yakovlev - Những kẻ phản bội chủ nghĩa
xã hội lớn nhất trong lịch sử chính trị thế giới. In Hồ sơ Sự kiện, số 443
(25/3/2021) (pp. 53–55).
[18]. Lênin, V. I. (2005a). Toàn tập (Vol. 4). Chính trị quốc gia.
[19]. Lênin, V. I. (2005b). Toàn tập (Vol. 6). Chính trị quốc gia.
[20]. Lênin, V. I. (2005c). Toàn tập (Vol. 23). Chính trị quốc gia.
[21]. Lênin, V. I. (2005d). Toàn tập (Vol. 33). Chính trị quốc gia.
[22]. Lênin, V. I. (2005e). Toàn tập (Vol. 43). Chính trị quốc gia.
[23]. Lênin, V. I. (2006c). Toàn tập (Vol. 36). Chính trị quốc gia.

352
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

MÔ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM:


TẤT YẾU CỦA LỊCH SỬ VÀ THÀNH TỰU

Đinh Thị Phượng


Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng
Tác giả liên hệ: Đinh Thị Phượng, email: dtphuong@ued.udn.vn

Tóm tắt: Mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là kết tinh thành quả của: thứ nhất, là
mục tiêu, con đường phát triển của cách mạng Việt Nam; thứ hai, là mô hình phát
triển phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam đã và đang gặt hái nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong đổi mới
tư duy lý luận và trên các lĩnh vực. Thành tựu trong đổi mới tư duy lý luận tập trung:
xác định đúng đắn đường lối đổi mới toàn diện; lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm.
Trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, những thành tựu của đổi mới đã
đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; đời sống của nhân dân được cải
thiện; quan hệ đối ngoại ngày càng được mở rộng và đi vào chiều sâu, vị thế và uy
tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Những thành tựu này tiếp tục
là động lực cho Việt Nam tiếp tục phát triển ở giai đoạn tiếp theo.
Từ khóa: mục tiêu cách mạng; con đường phát triển; chủ nghĩa cộng sản; chủ nghĩa
xã hội; đổi mới để phát triển.

1. MỞ ĐẦU
Sau chiến thắng năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước thống
nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Tính đến nay, Việt Nam đã có kinh nghiệm gần năm
thập kỷ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ những năm 20 của thế kỷ XIX, mô hình chủ
nghĩa xã hội được Nguyễn Ái Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam và dân tộc ta chọn
lựa là mục tiêu, là con đường phát triển của Việt Nam trong hành trình cứu nước,
giải phóng dân tộc.
Lựa chọn mục tiêu chủ nghĩa xã hội không chỉ là sự lựa chọn của lịch sử mà
còn là ý chí của toàn Đảng, toàn dân mà người khởi xướng là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tính tất yếu của lịch sử trong lựa chọn này ở Việt Nam đã giúp dân tộc ta giải quyết
được nhiều mâu thuẫn xã hội; góp phần chứng minh tính đúng đắn, ưu việt của chế
độ xã hội chủ nghĩa mà ngay từ khi ra đời đã trở thành bóng ma ám ảnh và là thế

353
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

lực đối lập ở châu Âu: “Một bóng ma đang ám ảnh châu Âu: bóng ma chủ nghĩa
cộng sản”, “Chủ nghĩa cộng sản đã được tất cả các thế lực ở châu Âu thừa nhận là
một thế lực” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995, 594). Những thành tựu trong xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong những thập kỷ qua đã tạo ra động lực mới trong
phát triển, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại.
2. NỘI DUNG
2.1. Tất yếu của lịch sử trong lựa chọn mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
2.1.1. Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, con đường phát triển của cách mạng Việt Nam
Châu Âu “rung chuyển” vào năm 1917, dưới sự lãnh đạo của V.I.Lênin và
đảng Bônsêvích Nga, cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga giành thắng lợi,
nhà nước Xô Viết công - nông - binh đầu tiên ra đời khẳng định mục tiêu, con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, chủ nghĩa xã hội
từ lý luận của chủ nghĩa Mác đã trở thành hiện thực ở nước Nga. Trung tâm cách
mạng của thế giới chuyển về nước Nga. Sức hấp dẫn của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Xô Viết đã khiến cho nhiều quốc gia thành lập nên Liên bang Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Xô Viết (Liên Xô) vào năm 1922. Chủ nghĩa xã hội Liên Xô trở thành cường
quốc hùng mạnh đứng thứ hai trên thế giới, từng đánh tan chủ nghĩa Phát - xít,
từng chế tạo được bom nguyên tử, chế tạo được tên lửa xuyên lục địa, chế tạo được
vệ tinh nhân tạo, đưa con người lần đầu tiên trong lịch sử bay vào vũ trụ… Liên Xô
đạt được nhiều thành tựu phát triển kinh tế - xã hội rất ấn tượng, trở thành trụ cột,
thành trì vững chắc của chủ nghĩa xã hội thế giới.
Ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga đã giúp cho cách mạng Việt
Nam“thoát khỏi bế tắc về đường lối cứu nước; đặt cách mạng giải phóng dân tộc vào quỹ
đạo của cách mạng vô sản” (Nguyễn, 2021). Cụ thể, cách mạng Việt Nam cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX tồn tại “nút thắt” về đường lối cứu nước không hề dễ dàng giải
quyết. Nhiều sĩ phu yêu nước đã quyết tâm trong việc tìm đường cứu nước theo hệ
tư tưởng phong kiến hoặc theo lập trường tiểu tư sản, tư sản,… nhưng đều thất bại.
Trong bối cảnh đó, năm 1911, Nguyễn Tất Thành rời bến cảng nhà Rồng sang các
nước phương Tây, đã đánh dấu một bước ngoặt lớn cho cách mạng Việt Nam. Từ
năm 1911 đến năm 1920, Người đã đi qua nhiều quốc gia, làm nhiều nghề, tiếp xúc
với nhiều người ở Anh, Mỹ, Pháp… và quan trọng là Người đã phát hiện ra một

354
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

chân lý: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn của mọi đau
khổ của giai cấp công nhân, nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước
thuộc địa. Phát hiện này của Người đã giúp vén bức màn bí mật “tự do - bình đẳng
- bác ái” của các nước tư bản. Thực chất của cái gọi là “tự do - bình đẳng - bác ái” ở
Việt Nam là tình cảnh nhân dân bị áp bức, bóc lột nặng nề dưới chính sách đô hộ
của Pháp.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc “Bản sơ thảo lần thứ nhất Những luận cương
về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I.Lênin. Những tư tưởng cách mạng mới của
V.I.Lênin đã giúp Người tìm thấy lời giải đáp cho những câu hỏi lớn về vận mệnh
dân tộc, soi sáng con đường giải phóng dân tộc: cách mạng vô sản. Người coi đây
là cái cẩm nang giải phóng dân tộc Việt Nam: “Bản Luận cương đã làm cho tôi cảm
động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi xúc động phát khóc lên. Ngồi một
mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi
đồng bào bị đọa đày đau khổ, đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường
giải phóng chúng ta”” (Hồ, 2002a, 280). Và từ đó, Người đã tin theo V.I. Lênin, tin
theo Quốc tế III. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không
có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” (Hồ, 2011, 30).
Đi theo con đường cách mạng vô sản, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy cho dân
tộc Việt Nam một chủ nghĩa “chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất”,
đóng vai trò nền tảng tư tưởng, công cụ để nhận thức và giải quyết những mâu
thuẫn của xã hội, đặc biệt là chấm dứt bế tắc về đường lối cứu nước, đó là chủ nghĩa
Mác - Lênin. Đi lên chủ nghĩa xã hội trở thành mục tiêu của cách mạng Việt Nam.
Từ năm 1930, trong Chánh cương vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo
được thông qua trong Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 2/1930)
khẳng định: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã
hội cộng sản" (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2002, 2). Nghĩa là làm cách mạng dân tộc
dân chủ tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Với mục tiêu đi lên chủ
nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng nước ta
trải qua những đoạn đường đầy khó khăn gian khổ nhưng đã giành được những
thắng lợi vẻ vang: thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945, phá bỏ được xiềng
xích nô lệ ở một nước thuộc địa và nửa phong kiến đầu tiên trên thế giới; thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1954 và đặc biệt là thắng lợi năm 1975, đánh
đuổi đế quốc Mỹ.
355
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa xã hội không phải là những gì cao
siêu, huyền bí. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội hết sức
cụ thể, giản dị, dễ hiểu: ''Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh”
(Hồ, 2002b, 226); “mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức
sống của nhân dân” (Hồ, 2002d, 159); “chủ nghĩa xã hội là mọi người cùng ra sức
lao động sản xuất để được ăn no, mặc ấm và có nhà ở sạch sẽ” (Hồ, 2002d, 258).
Người khẳng định xã hội xã hội chủ nghĩa là “một thế giới không có người bóc lột
người, mọi người sung sướng, vẻ vang, tự do, bình đẳng, xứng đáng là thế giới của
loài người” (Hồ, 2002c, 324).
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội, nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội ngày càng đầy đủ và biện
chứng hơn. Chủ nghĩa xã hội là xã hội tiến bộ, ưu việt hơn so với các xã hội trước đó
về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội hướng đến mục tiêu cao nhất là giải phóng con
người khỏi mọi áp bức, bóc lột và bất công. Xây dựng chủ nghĩa xã hội trở thành một
trong hai nhiệm vụ chiến lược của nước ta: “Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta
đoàn kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện thắng
lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2013, 29).
2.1.2. Chủ nghĩa xã hội là mô hình phát triển phù hợp với điều kiện của Việt Nam
Xuyên suốt thế kỷ XX diễn ra cuộc cạnh tranh giữa “mô hình phương Tây” mà
đại diện là Mỹ và “mô hình phương Bắc” mà đại diện là Liên Xô. Mô hình chủ nghĩa
xã hội Liên Xô được nhiều nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa áp dụng. Sự sụp
đổ mô hình Liên Xô và Đông Âu vào những năm 90 của thế kỷ XX là hồi chuông
cảnh báo cho tất cả các nước xã hội chủ nghĩa. Với những khác biệt về kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội thậm chí các quốc gia còn có cả sự khác biệt về điều kiện tự
nhiên, dân số… Mỗi nước cần có một mô hình riêng đáp ứng tính đặc thù của sự
phát triển.
Sau chiến thắng năm 1954, đất nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai
miền, lấy vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải, Quảng Trị) làm ranh giới. Miền Bắc hoàn toàn
giải phóng đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa, còn miền Nam thì đế quốc Mỹ và tay sai mở cuộc chiến tranh thực dân mới
kéo dài suốt 20 năm, với phạm vi ngày càng mở rộng, quy mô ngày càng leo thang.
356
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Với hoàn cảnh đặc thù đi lên chủ nghĩa xã hội khi đất nước chưa thống nhất, lại có
xuất phát điểm vô cùng thấp - từ một nước nông nghiệp, sản xuất nhỏ là phổ biến,
cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Được sự giúp đỡ
và ủng hộ về vốn, kỹ thuật, chuyên gia từ các nước xã hội chủ nghĩa mà chủ yếu là
Liên Xô và Trung Quốc, Việt Nam xây dựng đất nước theo mô hình chủ nghĩa xã
hội của Liên Xô.
Sau ngày giải phóng miền Nam, chủ yếu tồn tại hai quan điểm chủ yếu về xác
định mô hình cho nền kinh tế Việt Nam: quan điểm thứ nhất, tạm để hai cơ chế, các
nước xã hội chủ nghĩa khác cũng lúng túng chưa tìm ra được cách nào giải quyết.
Trong khi đó, miền Nam dưới sự thống trị của Mỹ hơn 20 năm đã có những chuyển
biến rất tích cực đặc biệt là những yếu tố tích cực của kinh tế tư nhân và của thị
trường tự do… Do đó, có nhiều quan điểm cho rằng cứ giữ nguyên hiện trạng kinh
tế của miền Nam để bình ổn cuộc sống của nhân dân; quan điểm thứ hai, cải tạo cả
nước theo mô hình miền Bắc (cũng chính là mô hình Liên Xô). Đến Đại hội lần thứ
IV (tháng 12 năm 1976) xu hướng áp dụng mô hình kinh tế của miền Bắc trên cả
nước đã được thông qua.
Việc duy trì quá lâu mô hình của Liên Xô đã gây ra nhiều hậu quả cho nền
kinh tế Việt Nam: sản xuất trì trệ, khủng hoảng, lạm phát… trên thực tế có rất nhiều
cuộc thử nghiệm “chui” đã diễn ra trên tất cả lĩnh vực như những lời minh chứng
phản đối mô hình Liên Xô.
Đại hội lần thứ VI (12/1986) là đại hội đầu tiên của công cuộc đổi mới, đã trở
thành cột mốc lịch sử quan trọng trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của
nhân dân ta. Trong tư duy kinh tế, đột phá vào những cấm kỵ rất lớn của mô hình
kinh tế theo kiểu Liên Xô: kế hoạch hóa, sở hữu xã hội chủ nghĩa, kỳ thị đối với
thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, kỳ thị đối với cơ chế thị trường. Cụ thể,
trong Đại hội VI đã đưa ra ba chương trình kinh tế lớn: chương trình lương thực,
thực phẩm; chương trình hàng tiêu dùng và chương trình hàng xuất khẩu. Thành
công ban đầu của 3 chương trình kinh tế lớn đã thôi thúc Việt Nam có nhiều sáng
tạo hơn trong vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin sao cho mô hình chủ nghĩa xã hội
thực sự phù hợp với đặc thù Việt Nam. Vì vậy, trong những năm qua, nước ta đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô

357
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

hình tăng trưởng… Nhờ đó, nước ta kiên trì mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội,
dự phần vào thành công của hệ thống xã hội chủ nghĩa vốn còn ít ỏi hiện nay.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm
1991), mô hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng đã được phác họa với 6
đặc trưng: "do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu;
có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi
áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong
nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và
hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2013,
228). Sáu đặc trưng nêu trên đã lần lượt đề cập đến mục tiêu về kinh tế, chính trị,
văn hóa và xã hội; đảm bảo cho xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội có đầy đủ các điều
kiện phục vụ cho mục tiêu cao nhất là giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột và
bất công.
Đến Đại hội X, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội Việt Nam được bổ sung thêm 2
đặc trưng: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; “có Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng
Cộng sản lãnh đạo”. Hiện nay, chủ nghĩa xã hội gồm 8 đặc trưng cơ bản. Những
đặc trưng trên là một hệ thống chỉnh thể bao quát từ lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất đến cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng. Chúng tác động lẫn nhau, bao
phủ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, phản ánh
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó, mục tiêu hàng đầu là “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội giúp cho con đường đi lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội của nước ta được định hướng và có mục tiêu rõ ràng; niềm tin của nhân
dân vào chế độ sẽ ngày càng tốt hơn.
2.2. Thành tựu trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ đổi mới đến nay
Quá trình hiện thực hóa mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam đã đạt được
những thành tựu rất đáng tự hào trong đổi mới, làm thay đổi diện mạo của đất
nước. Không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà trong đổi mới

358
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

tư duy lý luận để vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn đã làm sâu sắc hơn những vấn đề lý luận của mô
hình chủ nghĩa xã hội nước ta.
2.2.1. Những thành tựu nổi bật trong đổi mới tư duy lý luận
Đổi mới tư duy lý luận của nước ta là quá trình nhận thức, thể hiện trí tuệ, bản
lĩnh, tìm tòi, thử nghiệm, sáng tạo của Đảng, kịp thời đề ra những chủ trương đúng
đắn, mang tính đột phá, định hướng sự phát triển của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Từ đổi mới đến nay, quá trình đổi mới tư duy lý luận và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin của Đảng đã làm sáng tỏ được nhiều vấn đề lý luận trong xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đổi mới tư duy lý luận của Đảng tập trung vào xác định
đúng đắn đường lối đổi mới toàn diện và lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm.
Thứ nhất, đường lối đổi mới toàn diện.
Đứng trước sự thay đổi lớn lao của thời cuộc: các nước trong phe xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu lần lượt tan rã; chủ nghĩa xã hội Trung Quốc bắt đầu
tìm cho mình một con đường đi riêng; hầu hết các quốc gia khác sau tổn thất trong
thế chiến thứ hai đều bước vào giai đoạn khôi phục và phát triển kinh tế. Ở trong
nước, những tổn thất của chiến tranh, đồng loạt các nước trong phe xã hội chủ nghĩa
cắt viện trợ làm cho kinh tế Việt Nam khó khăn hơn, ảm đạm hơn. Trong hoàn cảnh
ấy, một ý chí bao trùm toàn Đảng và Nhà nước là “đổi mới” với ý chí dũng cảm
tháo bỏ những ràng buộc trì trệ trong tư tưởng để xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội. Đổi mới là làn gió mới, là tia hy vọng mới của toàn Đảng, toàn dân Việt nam.
Ý chí này nhanh chóng trở thành ý chí của toàn dân tộc. Mọi hành động, việc làm
của toàn Đảng, toàn dân đều hướng về đổi mới. Đổi mới được tiến hành đồng thời
trên các phương diện, lĩnh vực - đổi mới toàn diện. Trên phương diện đổi mới tư
duy, chúng ta dám từ bỏ cách suy nghĩ chủ quan, duy ý chí, giáo điều và chuyển
sang tư duy sáng tạo. Trên phương diện hành động: đề ra những chính sách cụ thể
phù hợp với tình hình thực tiễn của Việt Nam để phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy,
không lâu sau ngày giải phóng đổi mới toàn diện đã trở thành ý chí chung của cả
nước. Thành tựu trong tăng trưởng kinh tế trong những thập kỷ qua đã chứng minh
rằng đường lối đổi mới toàn diện của Việt Nam là sự lựa chọn đúng đắn, đặt Việt
Nam vào quỹ đạo phát triển mới về chất. Đổi mới chính là sự gặp gỡ giữa ý Đảng,
lòng dân và phép nước. Nó phù hợp với xu thế mới của thời đại, phù hợp với tình
359
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

hình hiện thực của cách mạng Việt Nam và đặc biệt nó đại diện cho ước nguyện của
toàn thể dân tộc Việt nam. Đối với Việt Nam, đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự
nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Công cuộc đổi mới được triển
khai toàn diện trên tất cả các mặt của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị đến văn
hóa, xã hội nhưng được đặt trọng tâm ở lĩnh vực kinh tế, mang ý nghĩa là sự nghiệp
cải biến cách mạng vĩ đại nhằm khơi dậy, giải phóng và phát huy mọi nguồn lực
cho phát triển. Từ đổi mới kinh tế đến đổi mới hệ thống chính trị và các lĩnh vực
khác của đời sống xã hội. Quá trình đổi mới này được tiến hành từng bước, không
vội vàng.
Đại hội VII khẳng định: "Thực tế cho thấy đổi mới là cuộc cách mạng sâu sắc
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội… Nếu chỉ đổi mới một lĩnh vực hoặc
một khâu nào đó thì công việc đổi mới không thể đạt kết quả mong muốn. Đồng
thời trong mỗi bước đi lại phải xác định đúng khâu then chốt để tập trung sức giải
quyết làm cơ sở đổi mới các khâu khác và lĩnh vực khác” (Đảng Cộng sản Việt Nam,
2013, 188). “Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và
phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm
chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2013, 189).
Thứ hai, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm.
Quan điểm lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm được thực hiện đầu tiên trong
sản xuất nông nghiệp để giải quyết vấn đề no ấm cho nhân dân. Sản xuất trong các
hợp tác xã nông nghiệp đã dẫn đến tình trạng năng suất và chất lượng thấp, người
nông dân không làm chủ được đồng ruộng của mình. Đứng trước tình hình đó, năm
1966 bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phúc, ông Kim Ngọc ra nghị quyết số 68-NQ/TU về “một
số vấn đề quản lý lao động trong hợp tác xã nông nghiệp hiện nay”, từ đó khoán hộ trở
thành hình thức khoán nông nghiệp phổ biến ở Vĩnh Phúc. Một thời gian dài khoán
hộ không được công khai thực hiện mà chỉ tồn tại dưới dạng “khoán chui” ở Vĩnh
Phúc. Với tư tưởng chủ đạo lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, khoán hộ đã được
chấp nhận. Ngày 13 tháng 01 năm 1981, Ban bí thư đã ra chỉ thị 100/CT, cho phép
áp dụng chế độ khoán trong toàn bộ nền nông nghiệp của Việt Nam. Giải quyết
được bài toán khó khăn nhất trong sản xuất nông nghiệp lúc bấy giờ. Đổi mới toàn
diện, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm chính thức được thực hiện trong Đại hội VI.

360
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Với thái độ: “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đảng
ta đã dám đánh giá đúng thực trạng kinh tế của đất nước, phân tích sâu sắc những
sai lầm và khuyết điểm, vạch rõ nguyên nhân và nêu ra phương hướng khắc phục.
Thành công của 3 chương trình kinh tế trọng điểm lương thực, thực phẩm, hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu đã bước đầu làm cho Việt Nam từ một nước nhập
khẩu lương thực trở thành nước giải quyết được vấn đề ăn no cho nhân dân. Trọng
tâm của đổi mới kinh tế là chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế từ kinh tế kế hoạch
tập trung theo mô hình Liên Xô chuyển sang xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Tính tất yếu, mục tiêu, bản chất, đặc trưng, cấu trúc, thể
chế và cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
từng bước được làm sáng tỏ cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Trong đó, Đại
hội XIII, khẳng định: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình
kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền
kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các
quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa
vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" phù hợp với từng
giai đoạn phát triển của đất nước” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 161).
2.2.2. Những thành tựu nổi bật trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội
Đại hội XIII khẳng định: “Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 25). Từ một đất nước “chậm phát triển” “nghèo
đói” Việt Nam “chuyển hóa” thành nước đang phát triển. Bộ mặt của đất nước và
đời sống của nhân dân có nhiều đổi thay, sức mạnh về mọi mặt được tăng cường,
chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Việt Nam trở thành điểm đến của
khu vực, châu Á và trên thế giới. Cụ thể:
Thứ nhất: Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển,
trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế.
Ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển là thành tựu
nổi bật nhất của Việt Nam trong giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới. Có được thành
361
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

tựu này là nhờ trong những năm qua Việt Nam đã duy trì được tốc độ tăng trưởng
kinh tế khá cao và ổn định. Giai đoạn 1986 - 1990: GDP tăng 4,4%/năm. Đây là kết
quả của thực hiện tốt ba chương trình phát triển về lương thực - thực phẩm, hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Giai đoạn 1991 - 1995: Nền kinh tế khắc phục được
tình trạng trì trệ, suy thoái, đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao liên tục và
toàn diện. GDP bình quân năm tăng 8,2%. Đất nước ra khỏi thời kỳ khủng hoảng
kinh tế, bắt đầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ năm 1996 - 2000, là
bước phát triển quan trọng của thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Giai đoạn này, Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng tổng sản
phẩm trong nước 7%/năm. Giai đoạn 2000 - 2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng
trưởng cao, liên tục, GDP bình quân mỗi năm đạt 7,5%.
Bước sang giai đoạn mới từ sau năm 2005, kinh tế của Việt Nam có phần giảm
sút về tốc độ. Tuy nhiên trước tình hình chung tăng trưởng kinh tế của các nước
đều giảm thì tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam được duy trì, đảm bảo. Giai
đoạn 2021 - 2025, Đại hội XIII dự kiến: “Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm
đạt khoảng 6,5 - 7%/năm. Đến năm 2025, GDP bình quân đầu người khoảng 4.700 -
5.000 USD; đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt
khoảng 45%; tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân trên 6,5%/năm; tỷ lệ
đô thị hóa khoảng 45%; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo đạt trên 25% GDP;
kinh tế số đạt khoảng 20% GDP” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 94).
Quy mô của nền kinh tế trong đổi mới đã lớn lên không ngừng. Năm 1990,
GDP của Việt Nam mới đạt 6,5 tỷ USD, thì sau 10 năm đến năm 2000, GDP đạt 31,2
tỷ USD (gấp 4,8 lần năm 1990), đến năm 2010 đạt 134,6 tỷ USD (gấp 20,7 lần GDP
năm 1990) và dự kiến GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đến năm 2030
đạt khoảng 7.500 USD. Nhờ tăng trưởng kinh tế liên tục trong 3 thập kỷ, thu nhập
của người dân Việt Nam được cải thiện đáng kể. So với thời điểm năm 1986 với mức
thu nhập 200 USD/ người/ năm, năm 2010 là 1168 USD, tăng gấp 5.84 lần. Năm 2014,
GDP/người đã đạt 2.052 USD (gấp 20,93 lần GDP/người năm 1990) và Việt Nam đã
chính thức trở thành nước có thu nhập trung bình thấp vào năm 2009. Đồng thời,
Việt Nam đã từng bước rút ngắn khoảng cách thu nhập so với các nước. Đại hội XIII
dự kiến: đến năm 2025, GDP bình quân đầu người khoảng 4.700 - 5.000 USD.
Cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện

362
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

đại hóa. Tỷ trọng của nông nghiệp giảm, tỷ trọng của công nghiệp, dịch vụ không
ngừng tăng, đáp ứng yêu cầu “đến năm 2045: trở thành nước phát triển, thu nhập
cao” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 36). Nếu năm 1986 tỷ trọng khu vực nông
nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP chiếm 46.3%, năm 2005 còn 20,9%, năm
2010 còn 20,6%, năm 2013 chiếm 18.38% thì đến năm 2014 tiếp tục giảm xuống còn
18.12%. Tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục với thiết
bị, công nghệ ngày càng hiện đại: năm 1988 là 21,6%, năm 2013 tăng lên 38.31%,
năm 2014 tiếp tục tăng lên 38.50%. Tỷ trọng khu vực dịch vụ đã tăng từ 33,1% năm
1988 lên 38,1% năm 2005, năm 2013 là 43.31% và năm 2014 chiếm 43.38% . Dự kiến
giai đoạn 2021 - 2030: tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội
giảm xuống dưới 20%.
Với cơ cấu kinh tế hợp lý, Việt Nam còn tạo ra được một số sản phẩm xuất khẩu
chiếm được vị trí cao trên thị trường thế giới. Hiện nay, Việt Nam đứng thứ hai thế
giới về xuất khẩu gạo, cà phê và hạt điều; thứ tư về cao su; thứ nhất về hạt tiêu.
Thứ hai: Đời sống các tầng lớp dân cư tiếp tục được cải thiện; sự nghiệp văn hoá giáo
dục, chăm sóc sức khoẻ dân cư và một số lĩnh vực khác có những tiến bộ đáng kể.
Trên lĩnh vực xã hội, công tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả đầy ấn
tượng, là một trong những quốc gia đi đầu trong xóa đói giảm nghèo trong khu vực
và được Liên Hợp Quốc đánh giá rất cao. Nếu tính theo chuẩn nghèo về thu nhập
do Việt Nam quy định là 200 nghìn đồng/người/tháng đối với khu vực nông thôn
và 260 nghìn đồng/người/tháng đối với khu vực thành thị thì tỷ lệ hộ nghèo cũng
giảm từ 30% năm 1992 xuống còn 18,1% năm 2004 và 15,5% năm 2006; 14,78% năm
2007; 13,4% năm 2008 và 12,3% năm 2009; 10,7% năm 2010. Như vậy, Việt Nam đã
“hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm
2015” mà mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs) của Liên Hợp Quốc đã đề ra. Việt Nam
được đánh giá là nước có tốc độ giảm hộ nghèo nhanh nhất Đông Nam Á. Đại hội
XIII phấn đấu: "đến năm 2025, tỷ lệ nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1 - l,5%/năm"
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 113).
Trong lĩnh vực văn hoá, chúng ta đạt được một số thành tựu: những giá trị
đặc sắc văn hoá của 54 dân tộc được kế thừa và phát triển, góp phần làm phong phú
thêm nền văn hoá Việt Nam thống nhất trong đa dạng; một số nét mới trong chuẩn
mực văn hoá của con người Việt Nam đang từng bước hình thành; nhiều di sản văn
363
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

hoá - cả vật thể và phi vật thể - được giữ gìn và tôn tạo; nước ta chủ trương xây
dựng nền văn hoá “tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”, với nội dung cốt lõi là kết
hợp hài hoà các yếu tố truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế; biết gìn giữ
những giá trị bền vững, tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam trong lịch sử.
Lĩnh vực giáo dục và đào tạo cũng đạt được kết quả bước đầu. Chi ngân sách
nhà nước cho giáo dục và đào tạo đạt trên 20% tổng chi ngân sách. Quy mô giáo
dục được phát triển. Với phương châm “phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu”
“đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển” nền giáo dục Việt Nam đổi mới theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế.
Thứ ba, quan hệ đối ngoại ngày càng được mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy
tín của Việt Nam trên trường quốc tế được được nâng cao.
Với chủ trương: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối
ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản
của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có
lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích
cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a,
161), đến nay nước ta đã có quan hệ ngoại giao với hơn 180 quốc gia ở hầu hết các
châu lục; quan hệ thương mại với 175 quốc gia và vùng lãnh thổ. Nước ta cũng đã
thực hiện đầy đủ các cam kết tự do hóa thương mại trong khuôn khổ khu vực
thương mại tự do ASEAN (AFTA); tham gia tích cực trong Diễn đàn hợp tác kinh
tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC); duy trì tốt mối quan hệ thường xuyên và chặt
chẽ với các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế như: Chương trình phát triển của Liên
hợp quốc (UNDP), Quỹ dân số Liên hợp quốc (UNFPA), Tổ chức Lương thực và
Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO), Tổ chức phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc
(UNIDO), Tổ chức lao động quốc tế (ILO), Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Tổ chức
Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO), Ngân hàng thế giới (WB),
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)…, đặc biệt là đã chủ
động và tích cực đàm phán để gia nhập Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO). Việc
chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại quốc tế nói riêng và những kết quả đạt
được trong các hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung đã đưa nền kinh tế nước ta

364
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, góp phần nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế.
Đại hội XIII khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế
và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng
tạo, là kết quả của một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm
kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực
tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng là đúng
đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 25-26).
3. KẾT LUẬN
Gần bốn thập kỉ đổi mới và hơn 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội, thế và lực của nước ta lớn mạnh hơn nhiều, sức mạnh nội sinh được tăng
cường cho đất nước phát triển nhanh và bền vững giai đoạn tới. Thành tựu trong
đổi mới ngày hôm nay là kết tinh của sự kiên trì mục tiêu đi lên xây dựng chủ nghĩa
xã hội trong hoàn cảnh đất nước bế tắc đường lối cứu nước, còn nhiều khó khăn,
thách thức. Trên mảnh đất thực tiễn Việt Nam, mô hình chủ nghĩa xã hội đã khẳng
định được tính ưu việt, khả năng phát triển và thịnh vượng. Không chỉ phát huy
được sức mạnh trong đổi mới, chủ nghĩa xã hội sẽ trở thành mô hình được nhiều
nước và nhân loại tiến bộ lựa chọn trong tương lai. Trong thời gian tới, với những
bước đi mạnh dạn hơn trong đổi mới, sáng tạo hơn nữa trong xây dựng mô hình
chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc thù của Việt Nam và xu thế phát triển của thế giới
sẽ hứa hẹn đưa đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, sớm hoàn thành mục
tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (1995). Toàn tập (Vol. 4). Chính trị quốc gia.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2002). Văn kiện Đảng toàn tập (Vol. 2). Chính trị quốc gia.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2013). Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội
nhập. Chính trị Quốc gia.

365
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021a). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021b). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII (Vol. 2). Chính trị quốc gia Sự thật.
[6]. Hồ, C. M. (2002a). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 2). Chính trị quốc gia.
[7]. Hồ, C. M. (2002b). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 8). Chính trị quốc gia.
[8]. Hồ, C. M. (2002c). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 9). Chính trị quốc gia.
[9]. Hồ, C. M. (2002d). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 10). Chính trị quốc gia.
[10]. Hồ, C. M. (2011). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 12). Chính trị quốc gia.
[11]. Nguyễn, N. H. (2021, May 11). Cách mạng Tháng Mười Nga luôn soi sáng con
đường cách mạng Việt Nam. Tạp chí Cộng sản.
https://tapchicongsan.org.vn/media-
story?p_p_id=101_INSTANCE_V8hhp4dK31Gf&p_p_lifecycle=0&p_p_state=
normal&p_p_mode=view&p_p_col_id=column-
1&p_p_col_count=2&_101_INSTANCE_V8hhp4dK31Gf_struts_action=%2Fas
set_publisher%2Fview_content&_101_INSTANCE_V8hhp4dK31Gf_urlTitle=
cach-mang-thang-muoi-nga-luon-soi-sang-con-duong-cach-mang-viet-nam

366
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

“DÂN THỤ HƯỞNG” - MỘT GIÁ TRỊ CỐT LÕI


TRONG LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỀ PHÁT HUY DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Nguyễn Việt Phươnga, Võ Anh Tuấnb
a
Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế
b
Trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên hệ: Nguyễn Việt Phương, email: phuongdhkh@gmail.com

Tóm tắt: Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là kết quả, đồng thời
vừa là động lực quan trọng của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn của quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi nhận thức lý luận của Đảng ta về dân chủ xã hội chủ
nghĩa phải không ngừng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện. Tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, lần đầu tiên thành tố "dân thụ
hưởng" đã được bổ sung vào phương châm tổng thể "dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng" nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và
đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân. Trong bài viết này, chúng tôi đã tập trung
phân tích để làm rõ thêm một số khía cạnh của "dân thụ hưởng" với tính cách là một
giá trị cốt lõi trong lý luận của Đảng ta về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Từ khóa: dân chủ; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa; dân thụ hưởng; chủ nghĩa xã hội.

1. MỞ ĐẦU
Lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những nội dung trọng tâm
trong đường lối đổi mới của Đảng ta. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định rõ: “Dân chủ xã hội
chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển đất nước” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 84-85). Xuất phát từ ý nghĩa trọng
yếu của vấn đề này mà việc xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa đã
được đặt ra và thảo luận xuyên suốt tại các kỳ Đại hội của Đảng ta. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII đã đánh dấu về sự bổ sung, phát triển trong lý luận của Đảng
ta về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Theo đó, lần đầu tiên, vấn đề “dân thụ
hưởng” được đưa vào phương châm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Có thể nói,
“dân thụ hưởng” là một khái niệm mới tập trung đầy đủ nội dung, ý nghĩa và quan

367
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

điểm hành động của Đảng ta về phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong thời
kỳ mới.
2. NỘI DUNG
2.1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa - Một đặc trưng bản chất của chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
Dân chủ là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử, được hiểu là một hình thức
tổ chức xã hội trong đó tuyên bố thực hành nguyên tắc quyền lực của nhân dân phải
được tôn trọng và bảo vệ; mọi quyền lực của xã hội đều thuộc về nhân dân. Các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin xem dân chủ là động lực, là con đường dẫn tới
chủ nghĩa xã hội; bản chất của dân chủ với tính chất là một chế độ nhà nước, trong
đó nhân dân giữ vai trò là người làm chủ (chủ thể quyền lực). Nói một cách cụ thể,
chế độ dân chủ là chế độ nhà nước của nhân dân; chính nhân dân là chủ thể tạo ra
chế độ nhà nước dân chủ theo ý chí, nguyện vọng và quyền tự do của mình.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân chủ được kiến giải một cách giản dị, dễ
hiểu. Người không định nghĩa dân chủ theo kiểu hàn lâm, học thuật, nhưng lại phản
ánh được chiều sâu giá trị lý luận của nó. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ có nghĩa “dân
là chủ” và “người dân làm chủ”, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, quần
chúng là động lực của cách mạng. Đây được xem là một định nghĩa kinh điển về
dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh - một định nghĩa ngắn gọn, nhưng lại bao
quát đầy đủ nhất, sâu sắc nhất bản chất của dân chủ. Định nghĩa này nhấn mạnh
chủ thể chân chính của chế độ mới là nhân dân. Trong đường lối cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa luôn là
một nội dung có tính nguyên tắc và tính mở (theo nghĩa là không ngừng được bổ
sung, phát triển. Nhân dân làm chủ trở thành một trong tám đặc trưng của chế độ xã
hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một nền
dân chủ tiến bộ, nhân văn, của toàn thể nhân dân lao động, thể hiện quyền làm chủ
của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; được bảo đảm bằng hệ
thống pháp luật, cùng với hệ thống tổ chức nhà nước do nhân dân bầu ra, do Đảng
lãnh đạo đảm bảo quyền tự do, tự quyết và phát triển con người toàn diện.
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay được thực hiện thông
qua tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa bao gồm Đảng, Nhà

368
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội. Trong đó, trụ
cột là Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân. Nguyên tắc tổ chức, hoạt động chủ yếu của hệ thống chính trị là tập
trung dân chủ và cơ chế hoạt động cơ bản, bao trùm là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, Nhân dân làm chủ. Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặc biệt là
trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã nhận thức, bổ sung và phát
triển ngày càng đầy đủ hơn, đúng đắn hơn những tư tưởng sâu sắc, có ý nghĩa chỉ
đạo và định hướng về vấn đề dân chủ xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, con người vừa
là mục tiêu, đồng thời là động lực của sự phát triển xã hội vừa mang tính khoa học,
vừa chứa đựng ý nghĩa nhân văn sâu sắc, đã bao trùm toàn bộ đường lối, các chính
sách, biện pháp phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội của Đảng ta qua các
kỳ Đại hội trong thời kỳ Đổi mới.
Đại hội Đảng lần thứ VI đã nhấn mạnh chủ trương phát huy dân chủ để tạo
động lực mạnh mẽ cho phát triển đất nước trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng
phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân lao động. Tiếp tục tinh thần đó đến các kỳ đại hội tiếp theo đã thể
hiện những quan điểm lý luận về dân chủ vừa có tính nguyên tắc chung, vừa có
tính thực tiễn ở tầm chủ trương, chính sách cụ thể; xác định, công cuộc xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng,
đổi mới hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, dân chủ ở nước ta đã có
bước tiến rõ rệt, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân và được dư luận quốc tế thừa
nhận. Đại hội Đảng lần thứ XI đã đánh giá: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa có tiến bộ,
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố. Đảng và Nhà nước tiếp tục đề ra
nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát huy hơn nữa quyền làm chủ, bảo đảm lợi
ích của nhân dân, vai trò giám sát của nhân dân đối với hoạt động của các tổ chức
đảng, cơ quan nhà nước, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức... Các cấp ủy đảng,
chính quyền lắng nghe, tăng cường đối thoại với các tầng lớp nhân dân, tôn trọng
các loại ý kiến khác nhau. Dân chủ trong Đảng, trong các tổ chức và xã hội được mở
rộng, nâng cao; quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn” (Đảng Cộng
sản Việt Nam, 2011, 158).
Việc đẩy mạnh phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong tình hình hiện nay
là nhằm tranh thủ thời cơ, vượt qua những thách thức của quá trình công nghiệp

369
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự nghiệp đổi mới không thể thành công nếu không có
yếu tố dân chủ xã hội chủ nghĩa. Những khó khăn trong tiến trình phát triển đều từ
dân chủ xã hội chủ nghĩa và giải quyết cũng từ chính nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta đặt ra những yêu cầu cao cho sự phát triển và cũng chính chúng ta phải
đứng ra giải quyết những yêu cầu đó; đáp ứng những yêu cầu cao của thời đại. Đó
là nền dân chủ trong đó, dân là gốc, là chủ và làm chủ thông qua tổ chức, hoạt động
của Nhà nước, của hệ thống chính trị, thông qua các hình thức dân chủ đại diện và
các hình thức dân chủ trực tiếp; quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân
sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp
và pháp luật… Chính vì vậy, Đại hội Đảng lần thứ XII đã xác định: “Phát huy dân
chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững
kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 170).
Việc thực hiện thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế nhằm bảo đảm kỷ cương
xã hội, tạo dựng khung pháp lý cho người dân được quyền tham gia vào các lĩnh
vực hoạt động xã hội, đảm bảo quyền làm chủ thực sự của người dân. Việc ban
hành và thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã đạt
những kết quả khả quan. Với phương châm “dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm
tra”, nhận thức của người dân về thực hành dân chủ được thể hiện một cách thiết
thực, cụ thể hơn; bầu không khí dân chủ trong Đảng, trong xã hội, trong cuộc sống
ngày càng mở rộng và “quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn trong các
lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh
vực chính trị, kinh tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 167).
Tuy nhiên, qua thực tiễn thực hành dân chủ thời gian qua cho thấy vẫn còn
tồn tại những hạn chế, bất cập trong tổ chức thực hiện dân chủ hóa trên một số lĩnh
vực của đời sống xã hội, quyền và nghĩa vụ của công dân chưa được cụ thể hóa
thành luật, nhận thức về dân chủ và thực hành dân chủ chưa đầy đủ… Điều đó dẫn
đến tình trạng quyền làm chủ của nhân dân bị vi phạm, chưa thỏa mãn được khả
năng sáng tạo và tư duy của con người; đôi khi việc thực hành dân chủ còn mang
tính chất hình thức, thành tích và chưa thực sự xuất phát từ lợi ích của quần chúng
nhân dân. Tình trạng vi phạm dân chủ, thiếu sự kết hợp hài hòa giữa kỷ cương,
pháp luật vẫn còn diễn ra ở nhiều địa phương. Đây là một nội dung quan trọng, đặt

370
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

ra nhiều vấn đề dân chủ liên quan có tính chất quyết định và có ý nghĩa chiến lược
đối với Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ mới.
2.2. “Dân thụ hưởng” - Một điểm mới trong lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam
về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta đã đặt ra nhiều vấn đề và
luận điểm quan trọng mang tính chất định hướng cho việc tiếp tục mở rộng và thực
hành dân chủ xã hội chủ nghĩa; trở thành một trong những mục tiêu chính trị có ý
nghĩa quan trọng và tầm chiến lược của Đảng cho sự phát triển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Vận dụng linh hoạt quan điểm của triết học Mác - Lênin xem con người vừa
là mục tiêu và là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội và tư tưởng của Hồ Chí
Minh về dân chủ, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta
đã đặt từ “dân” vào vị trí trung tâm, trở thành chủ thể hoạt động của sự phát triển
kinh tế - xã hội; đồng thời tiếp tục khẳng định làm rõ thêm quan điểm lấy dân làm
gốc, lợi ích của nhân dân là trước hết, cái gì có lợi cho dân thì làm, cái gì có hại cho
dân thì tránh. Đại hội lần thứ XIII của Đảng cũng đã đưa ra nhiều thay đổi với sự
tham gia mở rộng của người dân vào nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội; đặc biệt,
những quy định trong Pháp lệnh về dân chủ bổ sung nội dung “dân giám sát, dân
thụ hưởng” vào phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đảng ta
khẳng định: “… trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt
sâu sắc quan điểm dân là gốc; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công
cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực
sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân,
lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu” (Đảng Cộng sản Việt
nam, 2021, 27-28).
Khái niệm “dân thụ hưởng” là một trong những giá trị cốt lõi trong lý luận
của Đảng ta về phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của
nhân dân; nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Khái niệm này thể hiện sự tin dân, trọng dân, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất
371
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

phát từ nguyện vọng, quyền lợi chính đáng của nhân dân. Đảng và Nhà nước ta lấy
hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, củng cố và tăng cường
niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây là
sự phát triển trong nhận thức, trong hoạt động thực tiễn thực hành dân chủ của
Đảng. Xét đến cùng, trong tiến trình phát triển của đất nước trong quá trình đổi mới
cho đến nay, quyền và giá trị đích thực cuộc sống của người dân là vấn đề xuyên
suốt và trở thành mục tiêu hành động của Đảng và Nhà nước ta. “Dân thụ hưởng”
trở thành điểm mới quan trọng về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thể hiện rõ
tính chất “vì dân” của chế độ xã hội mà chúng ta đang định hướng xây dựng. Vậy,
thực chất “dân thụ hưởng” được Đảng ta đưa vào phương châm tổng quát “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” là gì? Chúng tôi
xin đưa ra một số phân tích nhằm góp phần làm rõ thêm ý nghĩa của cụm từ này
như sau:
Thứ nhất, “dân thụ hưởng” nghĩa là nhân dân có quyền được thụ hưởng đầy
đủ và thực sự những thành quả của công cuộc đổi mới, phát triển đất nước.
Nhìn vào lịch sử phát triển của xã hội loài người, nếu xét ở phương diện quyền
con người thì dân chủ đóng vai trò hết sức quan trọng. Dân chủ chính là quyền
được tham gia của nhân dân vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Xã hội dân chủ
là điều kiện cho con người phát huy giá trị bản thân, nâng cao khả năng tư duy sáng
tạo tham gia vào các lĩnh vực hoạt động của xã hội. Do đó, con người có quyền được
thụ hưởng những thành quả của sự phát triển xã hội. Quan điểm này của Đảng đã
nhấn mạnh yếu cốt lõi: dân là gốc; dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết. Dân là
gốc thì dân phải là chủ. Dân chủ phải được hiểu là quyền con người, quyền mưu
cầu hạnh phúc như nhau… Mất cái lõi “dân là gốc” thì dân chủ chỉ là danh nghĩa.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định rõ nguyên tắc: “Bao nhiêu lợi ích
đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách
nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền
từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do
dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” (Hồ, 2011, 232).
Đặt trong tình hình hiện nay, để hiện thực hóa quyền được thụ hưởng đầy đủ
và thực chất những thành quả của sự phát triển xã hội thì cần phải thực hiện tốt vấn
đề giải quyết việc làm và bảo đảm an sinh xã hội; đẩy mạnh thực hiện các chương

372
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

trình phát triển kinh tế gắn với giải quyết việc làm cho người lao động, đồng thời
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và chuyển dịch mạnh cơ cấu lao động ở khu
vực nông thôn. Tập trung cao cho công tác xuất khẩu lao động; thực hiện có hiệu
quả các chương trình giảm nghèo, các hoạt động bảo trợ và an sinh xã hội. Thực
hiện đầy đủ và kịp thời các chính sách với người có công; đẩy mạnh công tác phòng,
chống các tệ nạn xã hội… Qua đó góp phần củng cố, tăng cường niềm tin của nhân
dân đối với Đảng và Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
“Dân thụ hưởng” còn thể hiện ở việc quyền lực thuộc về nhân dân được hiện
thực hoá, nhân dân là chủ thể chính trị, nhân dân uỷ quyền của mình cho nhà nước
bằng cách lựa chọn, bầu ra những đại biểu xứng đáng của mình để thay mặt mình
thực thi mọi công việc hàng ngày. Nhà nước đó do dân tổ chức nên, dân ủng hộ,
giúp đỡ đóng thuế để nhà nước hoạt động. Nhà nước đó cũng do nhân dân phê
bình, xây dựng và giúp đỡ. Đại hội XIII của Đảng củng xác định Đảng và Nhà nước
ta luôn quan tâm chăm lo, bảo đảm lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân,
thực hiện tốt chính sách xã hội, thể hiện sự ưu việt của chế độ xã hội nước ta.
Thứ hai, “dân thụ hưởng” nghĩa là mọi chủ trương, đường lối, chính sách, pháp
luật của Đảng và Nhà nước đều nhắm đến mục tiêu đảm bảo quyền và lợi ích chính
đáng của nhân dân.
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, tác động của cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, cùng quá trình toàn cầu hóa và hội nhấp quốc tế diễn
ra mạnh mẽ; đặc biệt là ảnh hưởng từ đại dịch Covid-19 đã tác động đến nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, tạo những thách thức và cơ hội
mới. Để vượt lên những thách thức, biến những cơ hội thành kết quả phát triển, hoạt
động quản lý nhà nước cần có những đổi mới, thích ứng, chuyển mình tích cực.
Xuất phát từ tình hình kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước đã đề ra những chủ
trương, chính sách phù hợp nhằm củng cố, hoàn thiện hệ thống chính trị của dân,
do dân, vì dân, tạo cơ sở về mặt thể chế và pháp lý cho công tác thực hành dân chủ
một cách rộng rãi, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, trong đó có quyền được
thụ hưởng những lợi ích chính đáng.
Từ thực tiễn xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cho thấy, để phát huy tốt
quyền làm chủ của nhân dân một một nhiệm vụ trọng tâm đòi hỏi cần phải có “một

373
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục
vụ lợi ích của nhân dân” (Nguyễn, 2021). Vấn đề cấp bách hiện nay đó là phải tiếp
tục đẩy mạnh công tác xây dựng, hoàn thiện bộ máy chính quyền - mang bản chất
nhà nước của dân, do dân, vì dân, trong sạch, vững mạnh với một đội ngũ cán bộ
“trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với nhân dân”.
Thứ ba, “dân thụ hưởng” là phát huy quyền làm chủ và vai trò tự quản của
nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin
của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội.
Điều đó đòi hỏi cần phải mở rộng, đa dạng hoá thông tin, nâng cao chất lượng
thông tin để thực hiện dân biết, làm cơ sở cho dân bàn bạc xây dựng các chủ trương
chính sách của Đảng và Nhà nước và thực hiện quyền làm chủ của mình ở địa
phương, cơ sở. Đại hội XIII đã quy định quyền của nhân dân được thông tin về
pháp luật, chủ trương, chính sách của Nhà nước, nhất là các vấn đề liên quan đến
đời sống, lợi ích hàng ngày của nhân dân ở cơ sở; hình thành các chế độ báo cáo
công khai trước dân những công việc của chính quyền cơ quan, đơn vị về sản xuất
và phân phối, về sử dụng công quỹ, tài sản công, vấn đề tài chính, các khoản đóng
góp của dân, các chế độ thu, chi sử dụng tài chính.
Xây dựng cơ chế và các hình thức để nhân dân, cán bộ, công chức được bàn
bạc và tham gia ý kiến, lấy ý kiến của nhân dân đối với các chủ trương, chính sách
lớn của Đảng và Nhà nước, thực hiện dân bàn đối với các vấn đề liên quan đến lợi
ích dân tộc, cộng đồng cũng như trong xây dựng hệ thống chính trị. Đại hội Đảng
lần thứ XIII đã đề ra các chủ trương và giải pháp chủ yếu để xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Đảng ta xác định, cần giải quyết tốt các mối quan hệ, thu hẹp
những khác biệt giữa các bộ phận xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Đó là thực hiện tốt chính sách xã hội, tạo điều kiện cho mọi giai cấp, tầng lớp
xã hội phát triển vững mạnh. Cùng với phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, việc
tăng cường đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí cũng được Đảng ta xác
định là cơ sở để tạo sự đồng thuận xã hội, đồng thuận giữa nhà nước và nhân dân,
qua đó tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm thực hiện mục tiêu “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Kiểm tra, kiểm soát là chìa khoá hữu hiệu để thực thi dân chủ vì nó liên quan
trực tiếp tới quyền lực của nhân dân trong quyết định bầu, bãi miễn đối với người
374
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

được uỷ quyền, nhất là ở cơ sở. Do vậy, phải tăng cường thực hiện dân kiểm tra đối
với các hoạt động của Đảng và Nhà nước, các đoàn thể quần chúng ở mọi cấp với
nhiều hình thức như thanh tra nhân dân, kiểm tra nhân dân... Hoàn thiện cơ chế để
nhân dân trực tiếp và thông qua Mặt trận và các đoàn thể, ban thanh tra nhân dân
kiểm tra, giám sát các hoạt động của của chính quyền, thủ trưởng cơ quan đơn vị;
kết quả kiểm tra, thanh tra của nhân dân phải được tiếp thu nghiêm túc.
3. KẾT LUẬN
“Dân thụ hưởng” chính kết quả tất yếu của việc phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa, đó là sự kết tinh của các chủ trương, đường lối và quan điểm của Đảng để
khơi dậy sức mạnh to lớn của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới,
vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; xây dựng đất
nước hùng cường và giàu mạnh. Nhận thức mới của Đảng ta về vấn đề “dân thụ
hưởng” trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã góp phần củng
cố quan điểm “lấy dân làm gốc”, đồng thời là một nỗ lực phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, tạo động lực cho sự phát triển xã hội, thực hiện thắng lợi những mục
tiêu chiến lược của đất nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Chính trị quốc gia.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam,. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
Chính trị Quốc gia.
[3]. Đảng Cộng sản Việt nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.
Chính trị quốc gia.
[4]. Hồ, C. M. (2011). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 6). Chính trị quốc gia.
[5]. Nguyễn, P. T. (2021, May 17). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Báo Nhân Dân, 23945.
https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-
chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-646305/

375
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC


VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Nguyễn Minh Quân, Nguyễn Lập Duy
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên hệ: Nguyễn Minh Quân, email: minhquan060796@gmail.com

Tóm tắt: Là một lãnh tụ vĩ đại, có tầm nhìn xa trông rộng, cùng tấm lòng yêu nước
thương dân sâu sắc, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra những nguy cơ
về của sự suy thoái, tha hóa quyền lực trong hệ thống chính trị nước ta. Người luôn
nhắc nhở, yêu cầu Đảng phải tập trung lãnh đạo, thực hiện các biện pháp xây dựng,
củng cố hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh nhằm bảo đảm quyền làm chủ của
nhân dân, nâng cao tinh thần trách nhiệm của Đảng và Nhà nước với nhân dân,
phòng ngừa, tẩy trừ căn bệnh cá nhân chủ nghĩa, lạm quyền, lộng quyền trong đội
ngũ cán bộ, tổ chức đảng và cơ quan nhà nước. Những tư tưởng quan điểm của Người
về kiểm soát quyền lực chính là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam để Đảng Cộng sản
Việt Nam vận dụng một cách sáng tạo vào quá trình lãnh đạo thực hiện công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong thời kỳ đổi mới, góp phần đẩy lùi
tiêu cực, tham nhũng, tha hóa quyền lực, đáp ứng yêu cầu phát triển, hội nhập của
đất nước.
Từ khóa: tư tưởng Hồ Chí Minh; Đảng Cộng sản Việt Nam; kiểm soát quyền lực; hệ
thống chính trị; thời kỳ đổi mới.

1. MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền lực và kiểm soát quyền lực đã hình thành
ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Theo Hồ Chí Minh, kiểm
soát quyền lực nhà nước trước hết phải bảo đảm được vai trò, quyền làm chủ của
nhân dân đối với bộ máy nhà nước. Trong những ngày đầu tiên thiết lập chính
quyền cách mạng, Hồ Chí Minh đã khẳng định bản chất nước Việt Nam ta là dân
chủ và các cơ quan nhà nước phải là công bộc của nhân dân “… mưu tự do hạnh
phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền
lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì

376
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

phải tránh.” (Hồ, 2011a, 21). Nhà nước phải trong sạch và hết lòng phục vụ nhân
dân. Trong nội bộ Chính phủ, Quốc hội không thể có những cán bộ tha hóa, quan
liêu đè đầu cưỡi cổ dân như đế quốc thực dân.

2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC


Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến công tác kiểm tra, kiểm soát
để khắc phục tình trạng lạm dụng quyền lực. Người chỉ rõ: “Có kiểm tra mới huy
động được tinh thần tích cực và lực lượng to tát của nhân dân, mới biết rõ năng lực
và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời” (Hồ, 2011b, 636). Bảo
đảm quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với nhà nước chính là cách để phòng
chống hiện tượng tha hóa quyền lực, đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên
của các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương. Do đó, chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn khuyến khích nhân dân thực hiện công tác kiểm tra giám sát quyền lực.
Người viết: “Chính phủ ta là Chính phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là ra
sức phụng sự lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc,
kiểm soát và phê bình để làm trọn nhiệm vụ của mình là: người đầy tớ trung thành
tận tụy của nhân dân” (Hồ, 2011b, 81).
Kế thừa tư tưởng tiến bộ của các nhà lập hiến trên thế giới, cũng như vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về tổ chức quyền lực Nhà nước, Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ phương pháp kiểm soát quyền lực bằng cách chú trọng đến Nhà nước
pháp quyền. Ở bản Hiến pháp năm 1946, Người đã đưa ra ý tưởng ban đầu về sự
phân công và có sự kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước. Hồ Chí Minh đã áp
dụng những nguyên lý cơ bản của thuyết phân quyền ở khía cạnh kỹ thuật trong
việc tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước. Trong cơ cấu quyền lực gồm các
quyền: Lập pháp, hành pháp và tư pháp; mỗi nhánh quyền lực do một loại thiết
chế Nhà nước thực hiện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người trực tiếp chỉ đạo quá trình soạn thảo Hiến pháp
1946 - Hiến pháp mang đậm dấu ấn tư tưởng của Người về quyền lực của nhân dân
và vấn đề kiểm soát quyền lực. Điều 22 Hiến pháp năm 1946 quy định: “Nghị viện
nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”;
Điều 43 quy định: “Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa”; Điều 63 quy định: “Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam

377
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Dân chủ Cộng hòa gồm có: Tòa án Tối cao, các Tòa án Phúc thẩm, các Tòa án Đệ nhị
cấp và sơ cấp”. Từ những quy định này có thể nhận thấy, Hiến pháp năm 1946 đã
khẳng định, làm rõ vị trí, vai trò các cơ quan trong bộ máy nhà nước và phương
thức phối hợp, phân công, kiểm soát quyền lực nhà nước giữa Quốc hội, Chính phủ
và Tòa án. Một nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền
đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn pháp luật và đạo đức trong quản lý nhà nước và xã
hội. Là người theo lập trường mácxít về nhà nước và pháp luật, hiển nhiên Chủ tịch
Hồ Chí Minh phải đề cao pháp luật. Theo Người, đạo đức là gốc của pháp luật, còn
pháp luật chính là đạo đức chuẩn mực trong xã hội. Chính vì vậy, cuộc đời Chủ tịch
Hồ Chí Minh vừa là tấm gương sáng ngời về tinh thần đề cao, tôn trọng pháp luật
song song với việc kiên trì và bền bỉ trau dồi, rèn luyện đạo đức cách mạng.
Cùng với việc khẳng định vai trò làm chủ của nhân dân để phòng chống tha
hóa và kiểm soát quyền lực nhà nước, Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh đến việc kiểm
soát quyền lực qua công tác cán bộ và hoạt động của bộ máy nhà nước. Theo Hồ
Chí Minh trước tiên phải sửa đổi lối làm việc của các cơ quan nhà nước, phát huy
thật sự vai trò làm chủ của nhân dân, mọi quyền lực, lợi ích đều thuộc về nhân dân.
Lối làm việc đó chính là để thực hiện tác phong gần gũi, sâu sát với nhân dân, phát
huy vai trò của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng, Người viết “Bao nhiêu cách
tổ chức và cách làm việc, đều vì lợi ích của quần chúng, vì cần cho quần chúng. Vì
vậy, cách tổ chức và cách làm việc nào không hợp với quần chúng thì ta phải có gan
đề nghị lên cấp trên để bỏ đi hoặc sửa lại” (Hồ, 2011b, 286). Hồ Chí Minh yêu cầu
mỗi cơ quan, cán bộ phải luôn biết lắng nghe quần chúng nhân dân, thường xuyên
tiếp xúc, học hỏi kinh nghiệm từ quần chúng nhân dân.
Bằng tư duy chính trị nhạy bén, sáng tạo của mình, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ
nguyên nhân của sự tha hóa quyền lực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên đó chính là
từ chủ nghĩa cá nhân. Vì sự cám dỗ của chủ nghĩa cá nhân mà một số cán bộ, đồng
chí lạm dụng quyền lực mà nhân dân ủy thác thành quyền lực cá nhân để trục lợi,
tham ô, đi ngược lại với lý tưởng của Đảng, pháp luật của nhà nước, xa rời quần
chúng nhân dân, “Nó là kẻ thù hung ác của đạo đức cách mạng, của chủ nghĩa xã
hội” (Hồ, 2011c, 90). Chủ nghĩa cá nhân còn là môi trường dung dưỡng cho những
thói hư, tật xấu, đi ngược lại với lý tưởng của Đảng, pháp luật của nhà nước, xa rời
quần chúng nhân dân. Để dẹp trừ chủ nghĩa cá nhân, từ đó loại trừ nguy cơ tha hóa

378
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

về quyền lực, Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi người cán bộ, đảng viên phải tự giác nâng
cao đạo đức cách mạng của mình, đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên hết,
bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật... Có
đạo đức cách mạng thì quần chúng nhân dân mới tin tưởng cách mạng, tin tưởng
vào sự lãnh đạo của đảng. Đạo đức cách mạng chính là cái gốc của đảng và mỗi
người cán bộ “Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân” (Hồ, 2011b, 292).
Hồ Chí Minh cho rằng để kiểm soát quyền lực thì phải đẩy mạnh thực hiện
kiểm tra, giám sát vì thông qua kiểm tra, giám sát thì mới có thể xây dựng cơ chế tự
kiểm soát trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, kịp thời phát hiện, giáo dục, sửa chữa
những hạn chế, yếu kém của họ, “Có kiểm tra mới huy động được tinh thần tích cực và
lực lượng to tát của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa
chữa và giúp đỡ kịp thời” (Hồ, 2011b, 636). Kiểm tra, giám sát phải được thực hiện
theo hướng từ trên xuống tức là người lãnh đạo kiểm soát kết quả những công việc
của cán bộ mình và từ dưới lên tức là dựa vào quần chúng và cán bộ kiểm soát hoạt
động của bộ máy nhà nước.
Mỗi người cán bộ, đảng viên cũng phải tự kiểm tra, giám sát kiểm soát mình
bằng việc thực hiện nghiêm túc việc phê bình và tự phê bình. Bất kỳ ai cũng có
khuyết điểm nhưng phải tự thật thà tự sửa chữa và giúp đỡ nhau sửa chữa, để có
thể làm được điều này mỗi người phải phê bình và tự phê bình, theo đó phê bình
có nghĩa là “nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của đồng chí mình.” (Hồ, 2011b, 307), còn
tự phê bình là “nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của mình.” (Hồ, 2011b, 307). Cả phê
bình và tự phê bình phải đi đôi với nhau nhằm giúp mỗi người cán bộ, tổ chức học
hỏi ưu điểm và cùng nhau sửa chữa khuyết điểm.
Như vậy, có thể thấy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm một cách toàn diện và sâu sắc vấn đề kiểm soát
quyền lực nhà nước nhằm phát huy vai trò, quyền làm chủ của nhân dân đối với
nhà nước. Đồng thời, Người còn đề cập đến việc thực hiện xây dựng nhà nước pháp
quyền, thực hiện kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và tăng cường kiểm tra,
giám sát để xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực một cách chặt chẽ,
hiệu quả, phòng chống và tẩy trừ chủ nghĩa cá nhân và những thói hư tật xấu trong
Đảng và Nhà nước. Những quan điểm của Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực

379
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

chính là những cơ sở để Đảng, Nhà nước không ngừng hoàn thiện tổ chức, hoạt
động của mình để xây dựng được một cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả, phòng
chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, tha hóa về quyền lực.

3. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực trong thời kỳ đổi
mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện quan điểm, chủ trương
và lãnh đạo tổ chức thực hiện kiểm soát quyền lực bằng việc phát huy dân chủ xã
hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân; xây dựng chỉnh đốn Đảng, đội ngũ cán bộ trong sạch vững mạnh và tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát… Bằng sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự quyết
tâm toàn của hệ thống chính trị và sự tham gia, đồng tình của nhân dân đã tạo
những sự chuyển biến, hiệu quả tích cực trong việc kiểm soát quyền lực của hệ
thống chính trị.
Thứ nhất, về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa
Mở rộng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những mục tiêu
và hoạt động xuyên suốt của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam kể từ khi bắt
đầu công cuộc đổi mới. Đại hội lần thứ VI đã khẳng định phải quán triệt tư tưởng
lấy dân làm gốc, phát huy vai trò, quyền làm chủ của nhân dân đối với nhà nước,
mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải xuất phát từ lợi ích, nguyện
vọng của nhân dân, “phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân lao động” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1987, 29).
Phát huy tinh thần của Đại hội VI, các nhiệm kỳ đại hội sau đó tiếp tục nhấn
mạnh quan niệm sự nghiệp cách mạng là của quần chúng, phải vì dân và nhấn
mạnh từng bước xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
quyền lực thuộc về nhân dân. Đến Đại hội XI, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định:
“Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên
tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa

380
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

bằng pháp luật, được pháp luật đảm bảo” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 84-85).
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa còn được cụ thể hoá và được quy định trong Hiến
pháp 2013. Hiến pháp nhấn mạnh: Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với nông dân và đội ngũ trí thức (Điều 2, Khoản 1).
Thực hiện các nội dung của Đại hội XI về phát huy quyền làm chủ của nhân
dân bằng các hình thức dân chủ trực tiếp và tạo điều kiện để nhân dân tham gia
đóng góp ý kiến, phản biện xã hội với hoạt động của Nhà nước, Bộ Chính trị đã ban
hành Quyết định 218-QĐ/TW về việc “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể
chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền”, Quyết định của Bộ Chính trị đã trình bày những nguyên tắc, quy định để
nhân dân và Mặt trận Tổ quốc tham gia góp ý xây dựng Đảng và Nhà nước trên cơ
sở bảo đảm dân chủ, công khai, khách quan, trung thực. Trong quá trình thực hiện,
phản hồi góp ý các cơ quan nhà nước phải công khai tổ chức quy chế làm việc của
đơn vị mình, trách nhiệm công vụ và các kế hoạch, chương trình, dự án phát triển
kinh tế - xã hội; các quy định, quyết định quản lý hành chính; các dự thảo văn bản
quy phạm pháp luật sẽ ban hành cho người dân. Cung cấp các thông tin về kết quả
thanh tra, giám sát, kiểm toán các cơ quan, đơn vị; Kết quả tiếp nhận, xử lý các ý kiến
góp ý của công dân, của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội.
Qua hơn 35 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng vận dụng,
thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nhiều
chủ trương, chính sách, pháp luật đã được ban hành, thực hiện nhằm phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được xác định đầy đủ hơn trong
Hiến pháp năm 2013 và trong hệ thống pháp luật mới được ban hành và sửa đổi.
Thực hiện phương châm của Đảng “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân
giám sát, dân thụ hưởng”, nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, toàn hệ thống chính trị đã tích cực xây dựng, hoàn
thiện thể chế, pháp luật về phát huy quyền làm chủ, vai trò kiểm tra, giám sát của
nhân dân đối với nhà nước thông qua hoạt động bầu cử, quyền tiếp cận thông tin,
phản ánh, đóng góp ý kiến, khiếu nại, tố cáo…

381
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Thứ hai về xây dựng nhà nước pháp quyền


Trước Cương lĩnh 1991, trong các văn kiện của Đảng chỉ mới xác định Nhà
nước của ta là nhà nước có tính pháp quyền. Tuy nhiên, vào thời kỳ đó, nhận thức
về tính pháp quyền của Nhà nước chỉ mới là bước đầu, chỉ mới đặt ra những định
hướng nhằm xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền. Đại hội XI đã kế thừa,
bổ sung và hoàn thiện những đặc điểm, cơ chế kiểm soát quyền lực của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
do Đảng lãnh đạo và hoạt động quản lý, điều hành kinh tế xã hội bằng pháp luật so
với những kỳ Đại hội và hội nghị trước. Cương lĩnh 2011 đã có những bước phát
triển mới về nhận thức, quan điểm về Nhà nước pháp quyền, xác định quyền lực
Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và mở rộng hơn về việc kiểm soát
quyền lực. Tư tưởng trên còn được cụ thể hoá thông qua Hiến pháp 2013, đặc biệt
là tư tưởng Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân.
Trên cơ sở những thành tựu nhận thức, lý luận về xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới, Đại hội XIII của Đảng đã tiếp tục
khẳng định nhiệm vụ xây dựng hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là trọng tâm của sự nghiệp đổi mới và định hướng phát triển đất nước
giai đoạn 2021 - 2030 “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân
phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách
nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt
động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội.”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 118), trong quá trình xây dựng, hoàn thiện nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải xác định rõ vị trí, vai trò của các cơ quan
nhà nước, bảo đảm nguyên tắc pháp quyền, quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực.
Như vậy, có thể thấy trong thời kỳ đổi mới kế thừa, vận dụng một cách sáng
tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực qua việc xây dựng Nhà nước trên
cơ sở xây dựng và thực hiện pháp luật, coi trọng việc quản lý, điều hành xã hội bằng

382
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Đảng đã không ngừng hoàn
thiện tư duy lý luận và lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam với nhiều thành tựu nổi bật. Nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh được được
ban hành đã tạo ra cơ sở pháp lý, tính “pháp quyền” trong hoạt động của nhà nước.
Vai trò, quyền làm chủ của nhân dân tiếp tục được khẳng định và phát huy trên
nhiều lĩnh vực, quyền con người, quyền công dân được tôn trọng và bảo vệ. Hoạt
động của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tiếp tục được kiện toàn, đổi mới,
chất lượng và hiệu quả được nâng cao. Cải cách hành chính, cải cách tư pháp trên
một số lĩnh vực có bước đột phá. Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước đã có cải tiến, đổi mới.
Thứ ba về xây dựng chỉnh đốn Đảng và đội ngũ cán bộ đảng viên trong sạch
vững mạnh
Trong thời kỳ đổi mới, nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng với việc thực hiện kiểm soát quyền lực trong hệ thống
chính trị, Đảng đã không ngừng hoàn thiện quan điểm, chủ trương và tập trung
lãnh đạo thực hiện công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng một cách, quyết liệt và đồng
bộ. Trên cơ sở tổng kết 10 năm quá trình đổi mới đất nước, Đại hội lần thứ VIII của
Đảng đã đánh giá một cách toàn diện những thành tựu, hạn chế của công tác xây
dựng chỉnh đốn Đảng và đặt ra những giải pháp, quan điểm chỉ đạo sâu để nâng
cao hiệu quả công tác xây dựng Đảng nhằm “khắc phục cho được các khuyết điểm,
các biểu hiện tiêu cực và yếu kém. Đảng phải mạnh từ trung ương đến cơ sở, ở tất
cả các cấp, các ngành.” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2015, 415).
Đại hội XI đã khẳng định chăm lo củng cố, xây dựng Đảng là một trong những
bài học quan trọng góp phần vào những kết quả, thành tựu của sự nghiệp đổi mới. Từ
đó, Đại hội đặt ra nhiệm vụ phải tiếp tục đẩy mạnh “xây dựng, chỉnh đốn Đảng về
chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng
thật sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; tiếp tục
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 190)
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã ban hành
Nghị quyết số 12-NQ/TW về một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện
nay. Để tạo chuyển biến mạnh mẽ về công tác xây dựng Đảng và phòng ngừa, ngăn
383
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

chặn những tệ nạn trên, Nghị quyết đã đề ra ba nhiệm vụ sau: Một là, kiên quyết
đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố
niềm tin của đảng viên và của nhân dân đối với Đảng; Hai là, xây dựng đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; Ba là, xác định rõ thẩm quyền,
trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể
cấp ủy, cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Nghị quyết số 04-NQ/TW về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ (khóa XII), đã yêu cầu phải nâng cao
nhận thức trong toàn Đảng về nguy cơ, nhận diện đúng những biểu hiện và đề ra
các giải pháp phù hợp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy
thoái trong Đảng. Nghị quyết còn chỉ rõ 27 biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”, trong đó có những biểu hiện có liên quan đến tình trạng lạm quyền,
lộng quyền, tha hóa, để mỗi cán bộ, đảng viên, tổ chức Đảng tự soi xét, tự phê bình
và phê bình, tự cảnh tỉnh bản thân và tổ chức.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã rút ra bài học kinh nghiệm đối với công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên là phải tiếp tục triển khai
quyết liệt, toàn diện, thường xuyên cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và
cán bộ gắn với việc kiểm soát quyền lực; “Hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ
quyền lực; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống suy thoái, "tự diễn biến", "tự
chuyển hoá" trong nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng
phí...” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 96).
Từ những quan điểm, chủ trương của Đảng, mà công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn với việc kiểm soát quyền lực đang được
đẩy mạnh thực hiện nghiêm túc, toàn diện, đồng bộ, có nhiều bước đột phá quan
trọng, tạo sự chuyển biến tích cực trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Nhận
thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên về công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng được nâng lên. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh gắn với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng được triển

384
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

khai nghiêm túc, mạnh mẽ trong toàn hệ thống chính trị góp phần nâng cao hiệu
quả đấu tranh, ngăn chặn tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống, “tự diễn biến,”
“tự chuyển hóa”.
Công tác cán bộ là “then chốt của then chốt” ngày càng đổi mới, chặt chẽ và
dân chủ hóa, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; kịp thời,
phát hiện xử lý những trường hợp tha hóa, lạm dụng quyền lực, chạy chức, chạy
quyền trong công tác cán bộ. Các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về
công tác cán bộ đã ngày càng được hoàn thiện, tạo ra cơ sở pháp lý chặt chẽ trong
việc tuyển dụng, bổ nhiệm và quản lý cán bộ.
Thứ tư, tăng cường kiểm tra, giám sát để kiểm soát quyền lực
Kiểm tra, giám sát là một nội dung, công tác cực kỳ quan trọng của công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng và kiểm soát quyền lực của hệ thốngchính trị. Thông
qua kiểm tra, giám sát Đảng mới có thể có những biện pháp chấn chỉnh, phát hiện
và xử lý kịp thời những biểu hiện lạm dụng quyền lực, suy thoái, tiêu cực trong hệ
thống chính trị. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã
không ngừng tăng cường thực hiện kiểm tra, giám sát trong tổ chức đảng và đội
ngũ cán bộ, đảng viên nhằm tạo ra hệ thống cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc
thực thi và sử dụng quyền lực, góp phần phòng chống các hiện tượng tiêu cực, suy
thoái trong Đảng và hệ thống chính trị.
Đại hội VI của Đảng đã khẳng định kiểm tra là chức năng lãnh đạo chủ yếu
quan trọng của Đảng và cũng là biện pháp để khắc phục tiêu cực, quan liêu trong
bộ máy Đảng, Nhà nước “Mọi tổ chức, từ cơ quan của Đảng, Nhà nước đến đoàn
thể quần chúng, mọi lĩnh vực hoạt động từ kinh tế, xã hội đến quốc phòng, an ninh,
đối ngoại, không có ngoại lệ, đều phải đặt dưới sự kiểm tra của tổ chức đảng có
thẩm quyền” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2007, 472). Công tác kiểm tra phải tập trung
vào những công tác chủ yếu, kết hợp chặt chẽ với thanh tra của Nhà nước và kiểm
tra của quần chúng. Sử dụng đồng bộ hệ thống kiểm tra, giám sát đối với đội ngũ
cán bộ đảng viên, nhất là sự giám sát của tổ chức đảng, sự giám sát của nhân dân,
các cơ quan đại diện nhân dân và sự giám sát của công luận.
Đến Đại hội XI để tăng cường công tác kiểm tra giám sát trong đảng và bộ máy
nhà nước, Bộ Chính trị đã ban hành nhiều quyết định kiện toàn, thành lập các cơ

385
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

quan chuyên môn, chuyên trách về kiểm tra, giám sát để tham mưu, giúp việc cho
Trung ương như Cơ quan Ủy ban kiểm tra trung ương, Ban Nội chính Trung ương,
Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng… Cùng với việc kiện toàn
các cơ quan chuyên trách về kiểm tra, giám sát, Bộ Chính trị cũng đã ban hành
Quyết định số 68-QĐ/TW ngày 21/3/2012 về Quy chế giám sát trong Đảng nhằm
quy định cụ thể nguyên tắc, nội dung của hoạt động giám sát trong Đảng. Mục đích,
nhiệm vụ của hoạt động giám sát là để nắm tình hình và đánh giá đúng hoạt động
của tổ chức đảng, đảng viên; đề ra các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ được giao; góp phần bổ sung, sửa đổi
các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước phù hợp với thực tiễn. Kịp thời
uốn nắn, chấn chỉnh, phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên.
Góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Đại hội XII lần đầu tiên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường thực
hiện kiểm tra, giám sát nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý để kiểm soát quyền
lực, “Hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự
lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương.” Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 203) và
“Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy, tổ chức Đảng, tổ chức Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện chức trách,
nhiệm vụ, quyền hạn được giao và việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, không
để người thân trong gia đình lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi” (Đảng Cộng
sản Việt Nam, 2016, 208-209).
Trong thời kỳ đổi mới, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, cùng sự quyết
tâm cao của toàn hệ thống chính trị mà trong thời kỳ đổi mới công tác, kiểm tra
giám sát đã đạt được rất nhiều kết quả tích cực, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu
quả kiểm soát quyền lực. Kịp thời phát hiện, xử lý những tổ chức đảng, cơ quan nhà
nước, những cán bộ lãnh đạo, quản lý có hành vi tham ô, tiêu cực, tham nhũng, lợi
ích nhóm. Nhiều vấn đề, bất cập trong hoạt động của hệ thống chính trị đã được
phát hiện, chỉ rõ để Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc kịp thời có những điều
chỉnh phù hợp, sát với thực tiễn, phù hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân.
Các cơ quan chuyên trách thực hiện công tác kiểm tra, công tác nội chính của
Đảng, thanh tra, kiểm toán, tư pháp của Nhà nước và giám sát của Mặt trận ngày
càng được kiện toàn về tổ chức, nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động. Sự phối

386
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

hợp giữa các cơ quan kiểm tra, giám sát của Đảng với thanh tra Nhà nước, các cơ
quan điều tra, tư pháp ngày càng được chú trọng, phát huy sức mạnh tổng hợp và
nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác giám sát, kiểm tra, tránh chồng chéo, trùng lặp.
Ở các địa phương, các cấp, các ngành, cấp ủy đảng, ủy ban kiểm tra cũng đã tập
trung xây dựng, triển khai thực hiện các chương trình về kiểm tra, giám sát tập
trung vào các lĩnh vực như phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí, việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII; xây dựng hoàn
thiện cơ chế pháp lý vững chắc để tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp thực hiện
chức trách, nhiệm vụ của mình.
Có thể thấy, trong thời kỳ đổi mới, bằng sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo
xây dựng, thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong tổ chức, hoạt động của hệ
thống chính trị đã đạt được rất những kết quả quan trọng, vai trò, quyền làm chủ
của nhân dân ngày càng được phát huy, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, hệ
thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt;
nhiều trường hợp cán bộ, đảng viên tha hóa, lạm dụng quyền lực đã được đưa ra
điều tra, xét xử và nhân dân, dư luận đồng tình ủng hộ. Trong thời gian tới, để tiếp
tục tăng cường, nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực trong hệ thống chính trị, cần
chú trọng vào các vấn đề sau:
Một là, tiếp tục hoàn thiện nhận thức, quan điểm, chủ trương của Đảng về
quyền lực và kiểm soát quyền lực. Từ đó, nâng cao nhận thức trong toàn hệ thống
chính trị, toàn xã hội về tác hại của tệ nạn lạm dụng, tha hóa về quyền lực.
Hai là, tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch
vững mạnh gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” nhằm nâng
cao hơn nữa năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, đấu tranh phòng chống
chủ nghĩa cá nhân, hiện tượng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hoá” trong Đảng.
Ba là, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong
sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Thể chế, cụ thể hóa các
nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công rành mạch, phối hợp chặt chẽ thành các quy định pháp luật. Xây dựng và hoàn
387
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

thiện hệ thống pháp luật liên quan đến việc kiểm soát quyền lực trên cơ sở cụ thể,
thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng.
Bốn là, phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị
- xã hội, báo chí trong việc kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực. Phát huy hình
thức giám sát trực tiếp của nhân dân, hoàn thiện, cụ thể hoá phương châm “Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nghiêm túc
thực hiện quy chế tiếp dân, mở rộng nội dung nhân dân được tham gia đóng góp ý
kiến và xây dựng cơ chế để nhân dân tham gia đóng góp ý kiến ngay từ quá trình
soạn thảo chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Các kết luận, kiến nghị của Mặt trận, nhân dân phải được các cơ quan có thẩm
quyền phản hồi, giải quyết thỏa đáng, kịp thời, phù hợp với chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước. Tăng cường phối hợp giữa giám sát, kiểm tra
của Đảng với giám sát, thanh tra của Nhà nước và giám sát của Mặt trận Tổ quốc,
các tổ chức chính trị - xã hội. Các cơ quan báo chí, truyền thông phải tích cực tham
gia, phanh phui, làm sáng tỏ các vụ việc lạm quyền, tiêu cực, để quần chúng nhân
dân lên án, các cơ quan thanh tra, điều tra vào cuộc xử lý các đối tượng, nhóm lợi
ích lạm dụng, tha hóa quyền lực. Tạo diễn đàn để dư luận, quần chúng nhân dân
nhận thức rõ về tác hại, hậu quả của các hành vi tha hóa quyền lực, từ đó lên án,
khuyến khích mọi người tham gia đấu tranh với tệ nạn này, góp phần nâng cao hiệu
quả kiểm soát quyền lực.

4. TỔNG KẾT
Trong thời kỳ đổi mới, kế thừa, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm soát
quyền lực và nhận thức đúng đắn những yêu cầu cấp bách của việc phải xây dựng,
thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực gắn với quá trình đổi mới, hoàn thiện hệ thống
chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng bổ sung, phát triển nhận thức,
quan điểm chủ trương về kiểm soát quyền lực và lãnh đạo thực hiện cơ chế kiểm
soát quyền lực một cách toàn diện, chặt chẽ trong tổ chức, hoạt động của hệ thống
chính trị. Với mục tiêu hoàn thiện thể chế phát triển, đổi mới quản trị quốc gia theo
hướng hiện đại, hiệu quả, trong thời gian tới Đảng cần phải tiếp tục đẩy mạnh thực
hiện cơ chế kiểm soát quyền lực để “nhốt quyền lực vào lồng cơ chế”, buộc mọi tổ
chức, cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị phải sử dụng, thực thi quyền lực

388
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

một cách đúng đắn, hợp lý. Đây là một nhiệm vụ khó khăn nhưng với sự đồng lòng,
quyết tâm của toàn Đảng, toàn hệ thống chính trị và toàn dân ta cùng với nền tảng
đạo đức, tư tưởng Hồ Chí Minh vĩ đại soi đường nhất định sẽ giành được thắng lợi,
hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh, tạo động lực vững chắc để đất
nước ta ngày càng hội nhập phát triển.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1987). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2007). Văn kiện Đảng toàn tập (Vol. 47). Chính trị
quốc gia.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Chính trị quốc gia.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2015). Văn kiện Đảng toàn tập (Vol. 55). Chính trị
quốc gia.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam,. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
Chính trị Quốc gia.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
(Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[7]. Hồ, C. M. (2011a). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 4). Chính trị quốc gia.
[8]. Hồ, C. M. (2011b). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 5). Chính trị quốc gia.
[9]. Hồ, C. M. (2011c). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 13). Chính trị quốc gia.
[10]. Nguyễn, M. T. (2019). Kiểm soát quyền lực trong thực hiện cơ chế “Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ: Lý luận và thực tiễn. Tạp chí Cộng
sản, 917, 38–43.
[11]. Nguyễn, T. L. P. (2018). Quan điểm của Hồ Chí Minh về nhân dân trong vai
trò người chủ quyền lực nhà nước. Tạp chí Lý luận chính trị, 08/2018, 30–34.
[12]. Trần, T. M. T. (2018). Kiểm soát quyền lực theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Tạp chí
Lý luận chính trị, 10/2018, 33-38.

389
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA


VÀ SỰ VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Nguyễn Duy Quý


Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng
Tác giả liên hệ: Nguyễn Duy Quý, email: ndquy@ued.udn.vn

Tóm tắt: Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất
của Việt Nam. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, từ khi ra đi tìm đường cứu
nước cho đến khi từ biệt cõi đời, Người luôn coi các vấn đề về con người, sự nghiệp
trồng người là mục tiêu, trách nhiệm vẻ vang trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của mình. Hồ Chí Minh quan niệm rằng con người vừa là sản phẩm của lịch
sử, đồng thời là động lực phát triển của lịch sử, con người sinh ra trong xã hội, chịu
sự tác động của xã hội. Vì lẽ đó, trong quá trình kiến tạo xã hội mới - xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam, theo quan điểm của Người trước hết cần tích cực, chủ động xây dựng
những con người mới cho xã hội đó. Vận dụng đúng đắn tư tưởng của Người trong
giai đoạn hiện nay góp phần đảm bảo thành công cho quá trình xây dựng và phát
triển con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Bài viết đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về con người Việt Nam trong xã hội chủ
nghĩa và vận dụng những tư tưởng đó trong cuộc cách mạng lần thứ tư ở nước ta
hiện nay.
Từ khóa: tư tưởng Hồ Chí Minh; con người; xã hội chủ nghĩa; cách mạng công nghiệp
lần thứ tư.

1. VAI TRÒ NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Con người xã hội chủ nghĩa được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến một cách
phong phú và sâu sắc xuyên suốt trong tư tưởng và hành động của Người. Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, để có con người mới xã hội chủ nghĩa cần gải quyết hai vấn
đề cơ bản: Một là, những con người được giác ngộ lý tưởng cách mạng, được tạo
điều kiện phát triển toàn diện, gắn với sự nghiệp cách mạng để phục vụ Tổ quốc,
phục vụ nhân dân. Hai là, chiến lược xây dựng con người con người mới xã hội chủ
nghĩa. Vị trí, vai trò của của con người trong xã hội mới ở nước ta Người cho rằng:

390
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ
nghĩa” (Hồ, 2011a, 12).
Để có con người mới xã hội chủ nghĩa nhất thiết cần có chiến lược phát triển
con người lâu dài, gian khổ, đầy chông gai nhưng cũng hết sức vẻ vang và tự hào
là một nhà giáo dục Người nhấn mạnh: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì
lợi ích trăm năm thì phải trồng người” (Hồ, 2011a, 26). Hồ Chí Minh nhấn mạnh
rằng, xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình lâu dài, tổng hợp của nhiều nhiệm vụ,
giai đoạn khác nhau, do nhân dân xây dựng. Do đó, “trồng người” theo tư tưởng
Hồ Chí Minh có nghĩa là bồi dưỡng thế hệ mai sau, đào tạo họ trở thành những
người kế thừa và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, đó là những
người vừa có đức, vừa phải có tài, vừa hồng vừa chuyên. Biểu hiện cụ thể của những
phẩm chất này bao gồm:
Con người mới xã hội chủ nghĩa, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là con
người có lý tưởng sống cao đẹp, thấm nhuần đạo đức cách mạng, với các chuẩn
mực đạo đức cơ bản: “Trung với nước, hiếu với dân” (Hồ, 2011a, 27). Đây là phẩm
chất đạo đức quan trọng của người cách mạng, đó là đạo đức làm người, hoàn thiện
con người, đạo đức vì thắng lợi của sự nghiệp vĩ đại là giải phóng con người và xây
dựng xã hội đem lại tự do, hạnh phúc cho con người. Ngày nay, khi nước nhà giành
được độc lập, trung với nước là biểu hiện trung thành với sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, với con đường dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế
giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” (Hồ, 2011c, 453). Do
đó, con người trong xã hội mới phải luôn ý thức được vai trò, trách nhiệm của bản
thân trước nhân dân, phải biết chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
Bên cạnh đó, Người thường xuyên nhấn mạnh tới nhiệm vụ giáo dục lý tưởng,
giáo dục đạo đức: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư” (Hồ, 2011a, 26) và nhấn
mạnh rằng: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất,
mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ” (Hồ, 2011a, 26). Đây là khái
niệm cũ của đạo đức phương Đông được Hồ Chí Minh tiếp thu và diễn đạt lại bằng
một ý nghĩa mới, phù hợp với hoàn cảnh mới trong công cuộc xây dựng xã hội mới.
Qua thực tiễn hoạt động, Người hiểu rõ cách mạng là sự nghiệp gian khổ, lâu dài,
nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, chiến tranh tàn

391
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

phá nặng nề, do đó, Hồ Chí Minh đòi hỏi ở mỗi người, đặc biệt là những người cán
bộ phải biết cần cù, siêng năng, chăm chỉ, biết tiết kiệm tiền bạc, của cải, thời gian,
trong sạch, không tham lam.
Ngoài ra, theo Hồ Chí Minh người cách mạng không thể thiếu tinh thần: “Yêu
thương con người, có tình cảm quốc tế trong sáng” (Hồ, 2011a, 27). Trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh mỗi người cần không ngừng cố gắng
để mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người khác và toàn thể xã hội. Những việc
làm đó không chỉ dừng lại trong phạm vi quốc gia dân tộc mà cần mở rộng ra toàn
thế giới. Mặt khác, con người cũng cần đấu tranh chống lại kẻ thù chung của nhân
loại tiến bộ, chống áp bức, bất công, chiến tranh, mang lại hòa bình trên thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đạo đức là gốc, là đạo đức hành động và Người
không chỉ để lại một hệ thống quan điểm về đạo đức để học tập mà còn là một tấm
gương, một kiểu mẫu về thực hành đạo đức cách mạng, về sự nhất quán giữa tư
tưởng và hành động, sự thống nhất giữa đạo đức với chính trị, đạo đức với tài năng,
giữa nói và làm, giữa đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường. Những yêu cầu
đạo đức mà Người nêu ra cho cán bộ, đảng viên nay đã trở thành hệ chuẩn mực
đạo đức cơ bản của con người Việt Nam mới. Đạo đức mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
chủ trương xây dựng xuất phát từ chính ý nghĩa văn hóa, đạo đức hết sức nhân văn
của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Con người mới xã hội chủ nghĩa phải là những người có trình độ văn hóa, có chuyên
môn, năng lực thực sự trong công việc. Hồ Chí Minh luôn quan tâm, chú trọng đến phát
triển giáo dục, đào tạo, coi đây là nhiệm vụ hàng đầu. Sau khi giành được độc lập, tại
phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (3/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề
ra 6 nhiệm vụ cấp bách cần làm ngay, trong đó có 2 nhiệm vụ liên quan đến giáo dục.
Người nhấn mạnh rằng: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” (Hồ, 2011a, 26). Chủ
tịch Hồ Chí Minh cho rằng sự dốt nát cũng là kẻ địch phải chống. Người chủ trương
phải phát triển nền giáo dục thì mới xây dựng được chủ nghĩa xã hội, mới tiến kịp
được sự phát triển chung của nhân loại. Xác định rõ học tập để làm việc, làm người,
để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân và nhân loại. Do đó, mỗi người cần phải
không ngừng học tập để nâng cao tri thức và trình độ chuyên môn của bản thân. Có
như vậy họ mới mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho bản thân, xã hội, tham
gia có hiệu quả vào công cuộc xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Như vậy con

392
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

người trong chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, phải vừa có “đức”, vừa
có “tài”, vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Để hình thành lên những con người như vậy,
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng việc “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là
một việc rất quan trọng và rất cần thiết” (Hồ, 2011a, 26). Với mục tiêu của chiến lược
“trồng người” là “Dạy dỗ con em của nhân dân thành người công dân tốt, người
lao động tốt, người chiến sĩ tốt, người cán bộ tốt của nước nhà” (Hồ, 2011a, 26), theo
Người, phải xây dựng một nền giáo dục toàn diện để đào tạo những con người có
đức, có tài. Nền giáo dục đó phải kết hợp chặt chẽ giữa học và hành, lý luận gắn liền
với thực tiễn, gắn liền giáo dục của nhà trường với gia đình và xã hội, học suốt đời,
kết hợp tự học với học trong nhà trường, học trong sách vở và học trong cuộc sống.
Ngày nay, có thể nhận thấy những luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
xây dựng con người Việt Nam trong xã hội mới vẫn còn nguyên giá trị, có ý nghĩa
lớn trong quá trình xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội,
đặc biệt trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra trên toàn
thế giới.

2. TÁC ĐỘNG CỦA CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ ĐỐI VỚI
NGUỒN NHÂN LỰC
Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang diễn ra với tốc độ nhanh, tác động đến
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có
Việt Nam. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ có 03 đặc trưng nổi trội gắn với
những đột phá công nghệ trong 03 thế giới: “Thứ nhất, những tiến bộ căn bản trong
thế giới thực (vật lý) với sự phát triển của các thiết bị tự động hóa, công nghệ in 3D,
rô-bốt hiện đại và các dạng vật liệu mới. Thứ hai, nhân loại đạt được những bước
tiến vượt bậc về thế giới số (ảo) làm tăng khả năng tương tác với thế giới thực nhờ
phát triển của Internet of Things - IoT (Mọi vật kết nối) và sự ra đời của các cảm
biến hiện đại. Thứ ba, những đột phá về thế giới sinh vật với việc xây dựng biểu đồ
gen tiết kiệm rất nhiều nguồn lực tài chính và thời gian so với trước” (Nguyễn, 2017,
405-415). Dưới tác động của công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, những thách thức
đặt ra đối với đời sống xã hội ngày càng lớn. Những yêu cầu về nguồn nhân lực đối
với từng ngành, từng lĩnh vực đang thay đổi theo hướng ngày càng coi trọng năng
lực tự làm việc của người lao động. Với những đột phá khoa học này cho phép con

393
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

người ứng dụng những công nghệ mới: dây chuyền sản xuất tự động, chuỗi cung
ứng thông minh, thành phố thông minh. Điều đó, làm tăng tính hiệu quả kinh tế
của doanh nghiệp, chất lượng quản trị, mở ra những cơ hội mới trong giáo dục,
chăm sóc sức khỏe và chuyển dịch thị trường lao động. Theo chủ tịch WEF ASEAN
Klaus Schwab: “Những ai muốn thành công trong tương lai cần tận dụng lợi thế
đến từ cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Đầu tiên, họ cần nhận thức rõ ràng về tầm
quan trọng của sự chuyển mình này. Sự kết hợp của công nghệ trong các lĩnh vực vật
lý, số hóa và sinh học, tạo ra những khả năng hoàn toàn mới và có tác động sâu sắc
đối với các hệ thống chính trị, xã hội, kinh tế của thế giới. Khi đó, một thế giới chạy
bằng rô-bốt, máy tính và trí tuệ nhân tạo sẽ phát triển tới mức thay thế con người
trong việc phán đoán và quản lý các hệ thống phức tạp” (Trần, 2017, 22). Bên cạnh
đó, cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ làm cho sự kết nối giữa con người và máy móc trở
nên chặt chẽ, máy móc sẽ trở nên thông minh hơn dẫn đến mối quan hệ giữa con
người và máy móc trở thành mối quan hệ cộng tác chứ không đơn thuần là sự điều
khiển. Sự cộng tác dựa trên nền tảng công nghệ thông tin được gọi là internet kết nối
vạn vật (IoT). Khái niệm làm việc từ xa đang ngày càng trở nên phổ biến.
Tuy nhiên, cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tác động mạnh mẽ đến toàn bộ
nền kinh tế - xã hội và văn hóa của nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng. Ngành
giáo dục và đào tạo là ngành có tác động trực tiếp đến nguồn nhân lực thông qua
hoạt động đào tạo tri thức, rèn luyện kỹ năng, thái độ của người lao động. Cách mạng
công nghiệp 4.0 đã đặt ra nhiều yêu cầu đối với nguồn nhân lực, đòi hỏi nhiều quốc
gia trên thế giới trong đó có Việt Nam cần xây dựng các chính sách giáo dục và đào
tạo phù hợp ứng phó với các xu thế phát triển nhanh trong giai đoạn hiện nay.

Yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0 đối với nguồn nhân lực

Đặc trưng của cách mạng


STT Những yêu cầu đối với nguồn nhân lực
công nghiệp 4.0
1 - Khả năng kết nối giữa con - Am hiểu công nghệ thông tin (IoT);
người và máy móc dựa trên nền - Kỹ năng hiểu và sử dụng thành thạo,
tảng công nghệ thông tin (IoT). chính xác công nghệ;
- Thái độ làm việc nghiêm túc, tuân thủ
kỷ luật cao.

394
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

2 - Quá trình sản xuất, vận hành - Hiểu biết về công nghệ và các hệ phần
thông qua hệ thống ảo và thế mềm, cơ chế hoạt động của hệ thống ảo;
giới thực có mức độ kết nối tự - Có khả năng sử dụng thành thạo các
động cao. ứng dụng trên internet và hệ thống kết
nối dữ liệu lớn;
- Thái độ tuân thủ, nhạy bén với sự biến
đổi về môi trường, tư duy sáng tạo.
3 - Nguyên tắc kiểm soát được - Hiểu về cơ chế vận hành của hệ thống
phân cấp ở mức độ cao, các kiểm soát và phân cấp trong quá trình
quyết định đưa ra nhanh chóng ra quyết định;
và chính xác. - Có khả năng sử dụng các phần mềm ra
quyết định;
- Có khả năng đưa ra quyết định độc lập
với sự hỗ trợ của các phầm mềm phân
tích dữ liệu.
4 - Thời gian để một sản phẩm mới - Am hiểu về sản phẩm trong môi trường
ra đời ngắn hơn, chi phí thấp. kinh doanh có sự bến động mạnh.
5 - Mức độ cung cấp dịch vụ qua - Am hiểu công nghệ thông tin, sử dụng
internet, thiết bị thông minh thành thạo thiết bị thông minh;
được sử dụng rộng rãi, linh - Sử dụng thành thạo ngoại ngữ, ứng
hoạt để thỏa mãn nhu cầu của dụng công nghệ thông tin nhằm làm việc
người tiêu dung. nhanh chóng, chính xác, có hiệu quả.
- Thái độ linh hoạt, thân thiện với khách hàng.
Nguồn: Trần, 2017.
Nguồn nhân lực luôn được xem là một yếu tố tạo nên sự thành công của mọi
tổ chức, quốc gia. Đây là nguồn lực quan trọng nhất, quyết định năng suất, chất
lượng, hiệu quả sử dụng các nguồn lực khác trong hệ thống các nguồn lực. Trong
bối cảnh cạnh tranh kinh tế toàn cầu, tất cả các nước đều coi nguồn nhân lực là công
cụ quan trọng nhất để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Việt Nam đang có lợi
thế với lực lượng lao động dồi dào và cơ cấu lao động trẻ. Theo Ngân hàng Thế giới
(WB), Chỉ số Vốn con người (Human Capital Index - HCI) 2020 của Việt Nam tiếp
tục tăng và cao hơn mức trung bình của các nước có cùng mức thu nhập, mặc dù

395
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

mức chi tiêu công cho y tế, giáo dục và bảo trợ xã hội thấp hơn. Cụ thể, theo báo cáo
mới đây, từ năm 2010 đến năm 2020, Chỉ số Vốn con người của Việt Nam tăng từ
0,66 lên 0,69 (Chỉ số Vốn con người của Việt Nam tăng cao, 2020).
Bên cạnh đó, sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước,
trong lĩnh vực giáo dục Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tỷ lệ
người dân biết chữ tăng cao đạt trên 95% dân số, Việt Nam đã hoàn thành 3/8 Mục
tiêu thiên niên kỷ trước thời hạn, trong đó có mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học.
Trong những năm qua với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chỉ số đổi mới
công nghệ của Việt Nam tiếp tục được cải thiện theo hướng tích cực. Theo đó: “Tổ chức
Sở hữu trí tuệ thế giới của Liên hợp quốc (WIPO) công bố Báo cáo Chỉ số đổi mới sáng
tạo toàn cầu năm 2020. Theo đó, Việt Nam tiếp tục giữ vị trí thứ 42 trong bảng xếp
hạng. Cụ thể, Việt Nam xếp thứ 42 trên 131 quốc gia và nền kinh tế, còn năm 2019 đứng
thứ 42/129. Với thứ hạng này, Việt Nam giữ vị trí số một trong nhóm 29 quốc gia có
cùng mức thu nhập và đứng thứ 3 khu vực Đông Nam Á” (Thảo Lê, 2020).
Tuy nhiên, hiện nay các chỉ số giáo dục của Việt Nam vẫn được đánh giá là
chậm chuyển biến, nặng về lý thuyết, chưa coi trọng đào tạo kỹ năng lao động, cơ sở
vật chất còn lạc hậu. Theo báo cáo đánh giá năm 2020 của Ngân hàng thế giới, chỉ số
Vốn nhân lực của Việt Nam đứng thứ 38 trên 174 nền kinh tế (moet.gov.vn, 2021).
Dẫn đến thực tế hiện nay nguồn nhân lực nước ta còn yếu về chất lượng: thiếu hụt
lao động có tay nghề cao, chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động và hội
nhập, khoảng cách giữa giáo dục nghề nghiệp và nhu cầu của thị trường lao động
ngày càng lớn, lao động thiếu năng động và sáng tạo, tác phong chuyên nghiệp.
Từ những thực tế nói trên Việt Nam cần phải chuẩn bị rất nhiều điều kiện để
ứng phó với cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục và
đào tạo, phát triển nguồn nhân lực. Trong thời gian tới, năng lực làm việc, kỹ năng
sử dụng công nghệ thông minh của đội ngũ lao động sẽ là trụ cột của nền kinh tế.
Nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực có tay nghề cao, có năng lực sáng tạo, khả năng
ngoại ngữ, tin học sẽ ngày càng tăng. Điều này đặt ra cho ngành giáo dục và đào
tạo cần đổi mới chính sách hợp lý nhằm tận dụng cơ hội vượt qua thách thức mà
cuộc cách mạng này mang lại.

396
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

3. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI TRONG


QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI
CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ
Trong bối cảnh hiện nay, con người buộc phải thay đổi tư duy để tồn tại, phát
triển, cần liên tục cập nhật kiến thức mới, không ngừng nâng cao trình độ chuyên
môn và nghiệp vụ. Vấn đề nguồn nhân lực chất lượng cao đang trở thành yếu tố
then chốt trọng cuộc cạnh tranh phát triển giữa các quốc gia dân tộc trên thế giới.
Dựa trên tư trưởng Hồ Chí Minh về con người trong xã hội chủ nghĩa, để phù hợp
với xu thế phát triển chung của nhân loại, chúng ta cần làm tốt các vấn đề sau:
Thứ nhất, xây dựng chiến lược phát triển con người Việt Nam phù hợp với yêu cầu
của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với xu hướng phát triển dựa trên nền tảng
tích hợp cao độ của hệ thống kết nối số hóa - vật lý - sinh học với sự đột phá của
internet vạn vật và trí tuệ nhân tạo đang làm thay đổi căn bản nền sản xuất toàn
cầu. Làn sóng công nghệ mới đang diễn ra với tốc độ khác nhau dựa trên trình độ
phát triển của từng quốc gia dân tộc, tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, yêu cầu dẫn đến việc thay đổi phương thức và lực lượng sản xuất.
Nhận thức rõ nguồn nhân lực chất lượng cao chính là điểm mấu chốt để phát
triển đất nước trong thời kỳ mới, Đảng ta đã đưa ra những chiến lược lâu dài trong
việc phát triển con người. Đại hội IX Đảng đã xác định rõ việc phát triển con người
Việt Nam cần đi theo hướng toàn diện: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý
thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn
hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Văn hóa trở thành nhân
tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng
của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2003, 114). Nhằm cụ thể hóa các quan điểm
chỉ đạo nói trên, cần thay đổi mạnh mẽ các chính sach, nội dung, phương pháp giáo
dục và dạy nghề nhằm tạo ra nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận các xu thế công
nghệ sản xuất mới, trong đó cần tập trung vào thúc đẩy đào tạo về khoa học, công
nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM), ngoại ngữ, tin học trong chương trình giáo dục
phổ thông.
397
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Thứ hai, xây dựng hệ giá trị chuẩn cho con người Việt Nam trong cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ngoài việc đem đến những cơ hội cho các
quốc gia dân tộc, nó còn mang đến nhiều thách thức. Khoa học công nghệ phát triển
nhanh chóng, hình thành nên những chuỗi cung ứng, nhà máy thông minh, nơi máy
móc thay thế con người nhiều công việc. Ngày nay, người lao động đứng trước
nguy cơ mất việc rất cao, một số ngành nghề sẽ bị thay thế, biến mất, con người cần
có năng lực để tiếp tục gắn bó với quá trình lao động sản xuất. Trong thời gian tới,
sẽ có nhiều ngành nghề mới xuất hiện, đòi hỏi con người cần có những năng lực và
phẩm chất phù hợp. Thực tế cho thấy: “Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của
Việt Nam là 51 triệu, trong đó số lao động đã qua đào tạo chiếm 26%. Bên cạnh đó,
lao động nước ta chưa đáp ứng tốt các kỹ năng mềm như: ngoại ngữ, tin học, làm
việc nhóm, tinh thần kỷ luật trong lao động” (Tổng cục Thống kê, 2021). Với trình
độ lực lượng lao động thấp như hiện tại là một thách thức lớn trong việc xây dựng
và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta.
Đứng trước thực trạng nói trên, yêu cầu bức thiết hiện nay đối với thị trường
lao động ở nước ta là xây dựng hệ giá trị chuẩn cho người lao động, từ đó làm cơ
sở để xây dựng con người Việt Nam thời kỳ mới, trên tinh thần: “Khơi dậy mạnh
mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” (Đảng Cộng sản Việt Nam,
2021, 110). Bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư đòi hỏi người lao động cần
có năng lực cá nhân tốt, khả năng làm việc sáng tạo, linh hoạt, cùng với khả năng
hợp tác, đoàn kết, làm việc có kỷ luật và cống hiến vì tập thể.
Để có năng lực cá nhân tốt, khả năng làm việc sáng tạo, thích ứng linh hoạt thì
việc bồi dưỡng, nâng cao tri thức cho thế hệ trẻ là điều hết sức quan trọng. Đảng và
Nhà nước cần có những quyết sách để phát triển con người Việt Nam có kiến thức
khoa học, kỹ thuật phổ thông cùng lịch sử, văn hóa dân tộc theo tinh thần của Chủ
tịch Hồ Chí Minh: “Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn
phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng
nước nhà” (Hồ, 2011b, 140). Muốn vậy, phải xác định rõ mục tiêu đào tạo đối với
từng cấp học, bậc học, trên cơ sở đó, phân luồng, định hướng nghề nghiệp cho học
sinh theo nhu cầu nhân lực của xã hội và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong

398
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

tương lai. Cùng với đó, đổi mới cách dạy, cách học theo hướng tiếp cận năng lực,
tăng cường quản lý quá trình giáo dục và đào tạo theo tiếp cận năng lực, thực hiện
đổi mới kiểm tra, đánh giá trong giáo dục.
Để phát triển khả năng hợp tác, đoàn kết có kỷ luật và cống hiến vì tập thể, chúng
ta cần khơi dậy tinh thần dân tộc của chính mỗi con người Việt Nam. Đoàn kết dân tộc
là truyền thống quý báu của dân tộc ta, được phát triển qua hàng ngàn năm dựng nước
và giữ nước. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi đại đoàn kết là vấn đề có ý nghĩa
chiến lược, nhất quán và xuyên suốt tiến tình cách mạng: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn
kết. Thành công, thành công, đại thành công” (Hồ, 2011f, 628). Đại đoàn kết dân tộc
theo Hồ Chí Minh là đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi, thành
một khối vững chắc trên cơ sở thống nhất về mục tiêu chung.
Thứ ba, cùng với việc coi trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cần đặt ra
yêu cầu phải gắn kết chặt chẽ với phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ
Đây là hai trụ cột, đồng thời là động lực mới cho sự phát triển đất nước. Cùng
với giáo dục và đào tạo, khoa học - công nghệ cũng phải thật sự là quốc sách hàng
đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển đất nước. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ
và đồng bộ về hệ thống tổ chức các cơ quan khoa học, cơ chế đầu tư, cơ chế quản lý
hoạt động khoa học - công nghệ; nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của nguồn
nhân lực khoa học - công nghệ, coi đây là nhân tố quyết định đối với sự nghiệp phát
triển quốc gia và là nhân tố giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước.
Thứ tư, tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
Việt Nam đặc biệt quan tâm tới việc tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế
để phát triển nhân lực, trong đó tập trung ưu tiên xây dựng các cơ sở đào tạo đạt
trình độ quốc tế và đào tạo đội ngũ chuyên gia đầu ngành, các nhóm nhân lực trình
độ cao trong các ngành trọng điểm đạt trình độ của các nước tiên tiến. Nghiên cứu
mô hình và kinh nghiệm đào tạo phát triển nhân lực trình độ cao thành công của
các nước như Mỹ, Nhật Bản, Cộng hòa Liên bang Đức, Hàn Quốc… Tạo điều kiện
cho các cơ sở đào tạo, các cơ sở sử dụng lao động và nhân lực trình độ cao tham gia
giao lưu, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Ký
kết hợp tác giữa các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Việt Nam với các nước tiên tiến
trong việc đào tạo, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam.

399
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Thứ năm, coi trọng việc phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng hợp lý nguồn nhân lực, trọng
dụng nhân tài phải gắn với phát triển xã hội học tập.
Cụ thể, tiến hành phát hiện, bồi dưỡng, tuyển dụng, trọng dụng nhân lực chất
lượng cao, nhân tài, phải vừa khai thác được chất xám của họ trong nghiên cứu, chế
tạo, ứng dụng thành quả nghiên cứu vào hoạt động sản xuất, vừa khuyến khích họ
tranh thủ học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, từ đó xây dựng đội ngũ
cán bộ đầu ngành, chuyên gia giỏi ở các lĩnh vực, tổ chức, doanh nghiệp. Bên cạnh
đó, phương châm học tập suốt đời phải làm cho mỗi lao động thấu hiểu, tự giác,
chủ động học tập, tạo điều kiện cho người lao động học tập, bồi dưỡng thường
xuyên. Đồng thời, thông qua các hình thức đào tạo không chính quy, tạo điều kiện
để người lao động giao lưu, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, cập nhật kiến thức và kỹ
thuật công nghệ mới ở các trung tâm đào tạo trong nước và trên thế giới.
4. KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người Việt Nam trong xã hội mới đến
nay vẫn còn nguyên giá trị. Đứng trước những cơ hội và thách thức của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, với việc học tập, nghiên cứu và vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh một cách khoa học, đất nước ta sẽ tìm ra hướng đi phù hợp giúp Việt
Nam có sự chuẩn bị tốt cho chặng đường phía trước. Thực tế cho thấy, xuyên suốt
trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước Đảng Cộng sản Việt Nam đã quán triệt
sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới, khi chủ trương xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện với những phẩm chất cụ thể phù hợp với
từng giai đoạn phát triển đất nước gắn liền với không ngừng nâng cao điều kiện
sống của con người, các chương trình phát triển kinh tế xã hội, giáo dục - đào tạo,
phát triển văn hóa, chăm sóc sức khỏe, bảo vệ môi trường được chú trọng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Chỉ số Vốn con người của Việt Nam tăng cao. (2020, September 22). Báo Điện tử
Chính phủ. https://baochinhphu.vn/chi-so-von-con-nguoi-cua-viet-nam-tang-
cao-102279442.htm
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2003). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
Chính trị quốc gia.

400
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
(Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[4]. Hồ, C. M. (2011a). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 1). Chính trị quốc gia.
[5]. Hồ, C. M. (2011b). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 4). Chính trị quốc gia.
[6]. Hồ, C. M. (2011c). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 10). Chính trị quốc gia.
[7]. Hồ, C. M. (2011d). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 11). Chính trị quốc gia.
[8]. Hồ, C. M. (2011e). Hồ Chí Minh toàn tập (Vol. 13). Chính trị quốc gia Sự thật.
[9]. Hồ, C. M. (2011f). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 15). Chính trị quốc gia.
[10]. Nguyễn, H. H. (2017). Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Thách thức và cơ hội cho
phát triển. 405-415.
[11]. Thảo Lê. (2020). Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu: Việt Nam đứng đầu nhóm 29 nền
kinh tế cùng mức thu nhập. Báo Nhân dân. https://nhandan.vn/khoa-hoc/chi-so-
doi-moi-sang-tao-toan-cau-viet-nam-dung-dau-nhom-29-nen-kinh-te-cung-
muc-thu-nhap-615355/
[12]. Tổng cục Thống kê. (2021). Thông cáo báo chí tình hình lao động việc làm Quý II
và 6 tháng đầu năm 2021. General Statistics Office of Vietnam.
https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2021/07/thong-cao-bao-
chi-tinh-hinh-lao-dong-viec-lam-quy-ii-va-6-thang-dau-nam-2021/
[13]. Trần, T. V. H. (2017). Cách mạng công nghiệp 4.0 vấn đề đặt ra cho phát triển kinh
tế - Xã hội và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Chính trị Quốc gia sự thật.

401
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

THÀNH TỰU LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


VỀ VAI TRÒ CỦA VĂN HÓA, CON NGƯỜI TRONG XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Nguyễn Hạnh Quyển
Học viện Chính trị khu vực II
Tác giả liên hệ: Nguyễn Hạnh Quyển, email: hanhquyen3005@gmail.com

Tóm tắt: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
phát triển bền vững đất nước. Văn hóa còn là sức mạnh nội sinh, đóng vai trò là hệ
điều tiết trong sự vận động mọi mặt của đời sống. Nhận thức rõ vai trò quan trọng của
văn hóa, con người, trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn nhất quán phát triển văn hóa, con người là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm để phát triển quốc gia, dân tộc. Đảng ta trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng
kết thực tiễn đã ngày càng nhận thức đúng đắn, sâu sắc, toàn diện tầm quan trọng
của văn hóa, con người trong điều kiện mới. Bài viết góp phần làm rõ thành tựu lý
luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò văn hóa, con người trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội thời kỳ đổi mới.
Từ khóa: chủ nghĩa xã hội; Đảng Cộng sản Việt Nam; văn hóa; con người; thời kỳ đổi mới.

1. THÀNH TỰU LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG VỀ VAI TRÒ CỦA VĂN HÓA,
CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH XÂY CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1.1. Thành tựu lý luận của Đảng về vai trò của văn hóa, con người trong quá trình
xây chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ Đại hội VI đến Nghị quyết TW 5 khóa VIII
Khi cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới, Đại hội toàn quốc lần
thứ VI (1986), cùng với sự đổi mới tư duy về kinh tế, chính trị, Đảng ta cũng đã có
những đổi mới quan trọng trong lĩnh vực văn hóa, coi văn hóa là một trong những
bộ phận quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Nghị quyết
05-NQ/TW (1987) khoá VI của Bộ Chính trị khẳng định: “Văn hóa là bộ phận trọng
yếu của cách mạng tư tưởng và văn hóa là một động lực mạnh mẽ đồng thời là
một mục tiêu lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội” (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 2010a, 479). Đây chính là tiền đề, góp phần đặt nền móng cho việc đổi
402
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

mới tư duy để phát triển đường lối văn hóa, con người của Đảng trong những
năm sau này.
Đến Đại hội VII (1991) Đảng ta nhấn mạnh: “Tiếp tục xây dựng và phát triển sự
nghiệp văn hóa Việt Nam, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của các
dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991, 73).
Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương
lĩnh 1991) r a đờ i v à lần đầu xác định “nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc” là một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và
nhân dân ta phấn đấu xây dựng.
Bên cạnh đó, Hội nghị TW 4 khóa VII (1993) thể hiện tư duy sáng tạo, nổi bật
trong nhận thức về văn hóa, con người của Đảng đã có bước chuyển, khẳng định vai
trò quan trọng của văn hóa, con người trong sự nghiệp đổi mới: “Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng
thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2010b, 531).
Nói văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, tức là Đảng ta muốn khẳng định nền
móng căn bản hình thành nên đời sống tinh thần, văn hóa mang tính quy định nằm
sâu trong cấu trúc của mỗi xã hội, nó có khả năng quy định chiều hướng vận động
của cộng đồng, nó xây dựng năng lực, phẩm chất của con người trong quá trình
phát triển xã hội. Có thể nói, đây là bước tiến đột phá trong tư duy lý luận của Đảng
về xây dựng mô hình văn hóa, con người mới, thể hiện cái nhìn bao quát, toàn diện
và phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước. Trên cơ sở đó, các kỳ Đại hội tiếp theo
đã tiếp tục phát triển, làm rõ hơn vị trí, vai trò của văn hóa, con người gắn với sự
vận động, phát triển theo tình hình thực tiễn của đất nước và những yêu cầu, nhiệm
vụ mới đặt ra đối với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trước đòi hỏi của thực tiễn, Đại hội lần thứ VIII (1996) của Đảng đã có cách
tiếp cận và nhận thức mới về vai trò của văn hóa, con người đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội. Đại hội nhấn mạnh muốn phát triển đất nước phải xây dựng, phát
triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng những con người
nhân văn và tạo dựng được môi trường văn hóa lành mạnh: “Mọi hoạt động văn
hóa, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm,
lối sống, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển xã hội” (Đảng

403
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Cộng sản Việt Nam, 1996, 110-111). Trên tinh thần đó, Nghị quyết TW 5 khóa VIII
(1998) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
ra đời, định hướng chiến lược cho phát triển văn hóa, con người nước ta trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp. Nghị quyết khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996, 29) và “Văn hóa là kết quả của kinh tế, đồng
thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ
với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội,
pháp luật, kỹ cương... biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 1998, 55). Tư duy lý luận về văn hóa, con người của
Đảng ta trong Nghị quyết TW 5 khóa VIII, một mặt thể hiện rõ ở những quan điểm
chỉ đạo cơ bản về văn hoá, con người quan trọng là các quan điểm xem văn hoá là
nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, động lực thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội, nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc...; mặt khác, thể hiện một cách cụ thể qua những nhiệm vụ, những giải
pháp, định hướng phát triển văn hóa trong điều kiện đất nước hội nhập quốc tế,
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết TW 5 khóa VIII là nghị quyết đầu tiên về văn hóa nhìn nhận vị thế,
vai trò của văn hóa, con người một cách sâu sắc, toàn diện. Không chỉ vậy, Nghị
quyết đã tạo ra một thành tựu mới trong tư duy lý luận của Đảng mang hơi thở của
thời đại, đưa đến cái nhìn mới về vị trí, vai trò của văn hóa, con người trong đời
sống xã hội. Đây là văn kiện mang tính cương lĩnh của Đảng trên mặt trận văn hóa
trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
1.2. Thành tựu lý luận của Đảng về vai trò của văn hóa trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ Đại hội IX đến Đại hội XIII
Tiếp nối những thành tựu đạt được, các kỳ Đại hội tiếp theo của Đảng đã định
vị văn hóa một cách nhất quán hơn, văn hóa được xem một trong những trụ cột
quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất nước. Đại hội IX (2004) chỉ rõ: “Xây dựng
nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, 144). Đại hội xác
định nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Mọi
hoạt động về văn hóa phải nhằm phát triển con người Việt Nam toàn diện cả trí lực

404
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

lẫn thể lực. Văn hóa phải trở thành môi trường nuôi dưỡng, giáo dục con người
hoàn thiện nhân cách, kế thừa, phát huy các giá trị tuyền thống dân tộc, có ý thức,
trách nhiệm trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bước phát triển trong quan điểm
của Đảng về văn hóa thời kỳ này là nhấn mạnh mục tiêu hoàn thiện nhân cách con
người và xây dựng con người để phát triển văn hóa.
Đến Đại hội X (2006), Đảng ta ngày càng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng
của văn hóa, coi là một trong ba bộ phận (kinh tế, xây dựng Đảng, văn hóa) trụ cột
cho sự phát triển bền vững của đất nước và chủ trương phát triển văn hóa sâu, rộng,
đồng bộ với phát triển kinh tế - xã hội. Văn kiện Đại hội nhấn mạnh nhận thức:
“Phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn
hóa ngày càng thấm sâu vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội” (Đảng Cộng sản Việt
Nam, 2006, 106) nhằm “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con người trong điều kiện đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Bảo đảm sự gắn kết
giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với phát
triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006, 231).
Đại hội lần này tiếp tục đặc biệt chú trọng xây dựng, hoàn thiện nhân cách con
người Việt Nam, bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc trong điều kiện toàn
cầu hóa, hội nhập quốc tế.
Kế thừa và phát triển định hướng về xây dựng văn hóa, con người của Cương
lĩnh năm 1991, Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (Bổ sung và phát triển năm 2011) đã chỉ ra phương hướng cơ bản: “Xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời
sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam,
2011, 71-72). Đồng thời, nêu rõ: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc
tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ, làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu
vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội
sinh quan trọng của phát triển, kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa
tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân
loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và

405
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng
cao...” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 76). Có thể nói, Cương lĩnh đã thể hiện bước
tiến vượt bậc trong tư duy của Đảng về văn hóa, con người, mục tiêu phát triển văn
hóa gắn với mục tiêu phát triển con người bởi phát triển văn hóa, con người chính
là sự phát triển của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Đại hội XI (2011) tiếp tục khẳng định văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần
của xã hội, mà nhận định cùng với kinh tế, chính trị, văn hóa là một trong ba lĩnh
vực tạo nên sự phát triển bền vững của đất nước. Hội nghị Trung ương 9 khóa XI
(2014), một bước tiến quan trọng trong lý luận của Đảng về văn hóa, con người tiếp
tục bổ sung, phát triển lý luận và chỉ ra mục tiêu của nền văn hóa: “Xây dựng nền
văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ,
thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Nghị quyết Trung
ương 9 khóa XI (2014) một bước tiến quan trọng trong lý luận của Đảng về văn hóa,
tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận về văn hóa: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của
xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt
ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2014, 48). Tức
là phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Văn hóa gắn bó mật thiết với con người, phát
triển kinh tế, văn hóa không nằm ngoài mục đích phát triển con người. Từ đó, “văn
hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh
quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (Đảng Cộng sản Việt
Nam, 2014, 46-47). Đây là nhận thức sâu sắc của Đảng ta về mối quan hệ giữa văn
hóa, kinh tế, chính trị; đánh dấu sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về vai trò
của văn hóa, con người trong phát triển bền vững theo quan điểm chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.
Đại hội XII (2016), Đảng ta nhận thức đầy đủ hơn vai trò của văn hóa, con
người đối với phát triển bền vững của đất nước, gắn xây dựng con người với xây
dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Cùng với đó, Đảng ta tiếp tục nhất quán đường lối xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam phát triển toàn
diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc

406
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

xã hội chủ nghĩa với mục tiêu: “Làm cho văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh
thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển
bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 216). Trong đó, xây dựng
nền văn hóa, con người Việt Nam phát triển toàn diện là một trong những mục tiêu
của chiến lược phát triển.
Tiếp nối thành công trong đường lối phát triển văn hóa, con người từ các Đại
hội trước, Đại hội XIII (2021) của Đảng xác định: “Phát triển con người toàn diện và
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực
sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Tăng cường đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi
trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm
tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài
năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động
lực phát triển quan trọng nhất của đất nước” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 330).
Đây là quan điểm đúng đắn của Đảng về mối quan hệ cơ hữu giữa văn hóa với con
người, nhấn mạnh vai trò của con người với tư cách là chủ thể, là mục đích của phát
triển văn hóa. Phát triển văn hóa là phương tiện phát triển con người và ngược lại.
Mặt khác, bên cạnh việc phát triển kinh tế - xã hội, làm tốt công tác xây dựng Đảng,
củng cố vững chắc an ninh, quốc phòng, thì việc giữ gìn, phát huy văn hóa cũng
góp phần quan trọng trong sự phát triển bền vững của đất nước. Hay nói cách khác,
văn hóa là một trong bốn trụ cột phát triển đất nước trong sự nghiệp đổi mới ở Việt
Nam hiện nay. Văn kiện Đại hội XIII (2021) nêu rõ: “Phát triển kinh tế - xã hội là
trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần;
bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên” (Đảng Cộng sản Việt
Nam, 2021b, 33-34). Việc thực hiện đồng bộ và hợp lý cả bốn lĩnh vực trên là điều
kiện bảo đảm sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước.
Như vậy, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội giai đoạn đổi mới, nhận
thức và tư duy lý luận của Đảng về vai trò của văn hóa, con người ngày càng đúng
đắn, sâu sắc và toàn diện. Đảng ta luôn xác định mặt trận văn hoá là mặt trận ảnh
hưởng không nhỏ đến sự tồn vong và phát triển của đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán tư duy văn hóa là nguồn

407
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

lực nội sinh, là mục tiêu và động lực phát triển bền vững đất nước, đó là nền tảng
vững chắc để tạo ra những chuyển biến tích cực trong xây dựng nền văn hóa, con
người hiện nay. Từ nhận thức ấy, Đảng chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong lý luận lẫn trên thực tế, văn hóa ngày càng
được coi trọng, đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, được coi như một yếu tố điều
tiết các mối quan hệ xã hội và yêu cầu phát triển văn hóa trong mối quan hệ chặt
chẽ, gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội.
2. NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT HUY
VAI TRÒ CỦA VĂN HÓA, CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH
XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.1. Tư duy, quan niệm của Đảng về bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc
Việt Nam
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, hơn hết cần bảo tồn, phát
huy các giá trị văn hóa Việt Nam như: “lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân
tộc; tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc;
lòng nhân ái khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo lý; cần cù sáng tạo trong lao động; sự
tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1998, 56).
Thứ nhất, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc là nhiệm vụ trọng tâm
xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bảo
tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc là bảo tồn, giữ gìn thành quả hàng nghìn
năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của dân tộc
Việt Nam. Cùng với đó, tiếp tục hoạt động giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều
nền văn minh thế giới để không ngừng phát triển, hoàn thiện mình. Trong giai đoạn
hiện nay, các giá trị văn hóa đó tiếp tục là điểm tựa, là hành trang để đưa dân tộc Việt
Nam xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội. Văn kiện Đại hội XIII nêu rõ: “Vừa phát
huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại để
văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho
phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 47).
Thứ hai, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc là nền tảng để giữ gìn,
bảo vệ bản sắc văn hóa Việt Nam trong điều kiện mới. Nhắc đến bản sắc dân tộc
của văn hóa Việt Nam, tức là nói đến những tinh hoa, những giá trị bền vững được

408
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

hun đúc, vun đắp trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Những giá trị ấy đã tạo nên những nét đặc sắc riêng chỉ có ở dân tộc Việt Nam, con
người Việt Nam. Hiện nay, bên cạnh những thành tựu to lớn trên lĩnh vực kinh tế
từ việc giao lưu, hội nhập mang lại nhất là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học,
công nghệ có thể tạo ra những “làn sóng xâm lăng văn hóa” khiến cho các giá trị
truyền thống có nguy cơ bị suy yếu, mai một dần. Do đó, việc bảo tồn, phát huy các
giá trị văn hóa truyền thống chính là yếu tố mấu chốt để bảo tồn, phát huy bản sắc
dân tộc trong giai đoạn hiện nay. Nhận thức sâu sắc vấn đề trên, Đảng ta chủ
trương: “Trong quá trình mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn hóa,
cùng với việc tập trung xây dựng những giá trị mới của văn hóa Việt Nam đương
đại, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị tốt đẹp của
truyền thống văn hóa dân tộc và tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, bắt
kịp sự phát triển của thời đại” (Lưu & Võ, 2015).
Thứ ba, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc nhằm nâng cao sức mạnh
nội sinh của dân tộc, tạo động lực để phát triển đất nước bền vững. Giữ gìn, phát
huy các giá trị văn hóa dân tộc giúp giữ được tính độc đáo, đảm bảo tính thống
nhất, khơi dậy, phát triển tự hào dân tộc tạo nên sự gắn bó, đoàn kết - sức mạnh nội
sinh quan trọng cho sự phát triển. Sự kết nối quá khứ và hiện tại chính là cơ sở, nền
tảng, hành trang cho tương lai của dân tộc, đất nước. Hiện nay, việc phát huy các
giá trị truyền thống tốt đẹp trên cơ sở những yêu cầu, chuẩn mực mới của thời đại
chính là nhằm đáp ứng với quá trình phát triển đất nước bền vững. Văn kiện khẳng
định: “Khát vọng vì một Việt Nam thịnh vượng, ý chí tự lực, tự cường là sức mạnh
nội sinh cho đất nước phát triển nhanh và bền vững trong thời gian tới” (Đảng Cộng
sản Việt Nam, 2021b, 129-130).
2.2. Tư duy, quan niệm của Đảng về xây dựng, phát triển con người Việt Nam
toàn diện
Trước bối cảnh mới, con người Việt Nam phát triển toàn diện phải là con người
có văn hóa, thấm nhuần bản sắc văn hóa dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại. Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc
xây dựng, phát triển con người đối với sự phát triển văn hóa nói riêng và phát triển
bền vững đất nước nói chung, nội dung này được biểu hiện như sau:

409
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Thứ nhất, con người là “hạt nhân” của sự phát triển và kiên định phát triển con
người Việt Nam toàn diện. Theo quan điểm Mác-xít, con người là kết quả của quá
trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên và là sản phẩm của lao động. Thông qua hoạt
động thực tiễn, con người không ngừng lao động, sáng tạo, tác động vào tự nhiên,
cải biến tự nhiên và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. C.Mác viết: “Toàn bộ cái
gọi là lịch sử toàn thế giới chẳng qua chỉ là sự sáng tạo của con người kinh qua lao
động của con người, sự sinh thành của tự nhiên cho con người” (C.Mác và
Ph.Ăngghen, 2000, 182). Phát triển con người trong cách mạng xã hội chủ nghĩa với
tư cách là lực lượng vật chất, là điều kiện cơ bản để xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội. Vì thế, Đảng ta chủ trương: “Coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực
quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b,
215-216). Hiện nay, Việt Nam đang tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, gắn liền với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế, tạo nền tảng vững
chắc để thực hiện mục tiêu: “Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một
nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam,
2021b, 36). Việc đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển và kiên định
phát triển con người toàn diện là tất yếu khách quan góp phần xây dựng, phát triển
đất nước giàu mạnh.
Thứ hai, thực hiện tốt chính sách an sinh, đảm bảo phúc lợi xã hội, an ninh con
người, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân. Bảo
đảm cung cấp và nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, nhất là đối
với người nghèo, người yếu thế trong xã hội, đồng thời quan tâm chăm sóc, bảo vệ
sức khỏe cộng đồng. Đại hội lần thứ XIII của Đảng chủ trương: “Có chính sách cụ thể
phát triển văn hóa đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm
an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển
xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số
hạnh phúc của con người Việt Nam” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 202).
Hơn nữa, cần quan tâm bảo đảm quyền con người, quyền công dân và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Đồng thời, coi trọng vấn đề phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong
điều kiện mới. Với chủ trương đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân

410
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và
hội nhập quốc tế Đại hội chỉ rõ: “Ưu tiên nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo,
quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến căn bản,
mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử
dụng, đãi ngộ người tài; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển
khoa học - công nghệ” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 54).
Thứ ba, thực hiện đồng bộ cơ chế, chính sách và coi trọng giáo dục, đào tạo tạo
điều kiện để con người phát triển toàn diện. Văn kiện của Đảng chỉ rõ: “Có kế hoạch,
cơ chế và giải pháp xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy các giá
trị văn hóa, lịch sử truyền thống dân tộc trong xây dựng con người, phát triển kinh
tế - xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 145). Đảng ta chú trọng, coi trọng giáo
dục, đào tạo luôn cụ thể hóa quan điểm “giáo dục là quốc sách hàng đầu” để phát
triển con người đáp ứng yêu cầu mới trong sự nghiệp cách mạng của đất
nước. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định con người là mục tiêu, động lực của
phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời phải là những con người vừa có tài, vừa có đức,
vừa “hiền”, vừa “minh”. Vì vậy, việc giáo dục, đào tạo, phát triển con người một
cách toàn diện cả thể lực lẫn trí lực là điều tất yếu.
2.3. Tư duy, quan niệm của Đảng về xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh phù
hợp với điều kiện mới
Môi trường văn hóa là một bộ phận của môi trường xã hội, vì thế, nó có vai
trò to lớn đối với sự ổn định, phát triển và tiến bộ của kinh tế - xã hội. Trong Văn
kiện của Đảng quán triệt: “Xây dựng môi trường văn hóa một cách toàn diện ở gia
đình, nhà trường, cộng đồng dân cư, trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể,
doanh nghiệp để văn hóa thực sự là động lực, đột phá phát triển kinh tế, xã hội, hội
nhập quốc tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 262). Môi trường văn hóa lành
mạnh góp phần giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống của con người trong sáng,
lành mạnh, đảm bảo con người phát triển toàn diện. Mặt khác, môi trường văn hóa
lành mạnh sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo ra những sản phẩm văn hóa có giá trị.
Để xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với điều kiện mới, hội nhập
quốc tế cần thực hiện tốt những vấn đề sau:
Một là, tiếp tục củng cố, hoàn thiện thể chế văn hóa, tạo môi trường pháp lý
thuận lợi cho việc xây dựng môi trường văn hóa phù hợp với điều kiện mới. Xây
411
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

dựng, ban hành các tiêu chí đánh giá đối với các môi trường văn hóa khác nhau,
góp phần xây dựng nếp sống văn minh trong các không gian văn hóa cụ thể. Cùng
với đó là hoàn thiện, nâng cao các thiết chế văn hóa, các hoạt động giải trí, văn nghệ
góp phần làm phong phú đời sống tinh thần và thể chất của nhân dân. Thường
xuyên tổng kết, đánh giá, đổi mới nội dung, cách thức xây dựng môi trường văn
hóa để kịp thời điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới. Vì vậy, Đảng ta
chỉ đạo: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế
phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường...” (Đảng Cộng
sản Việt Nam, 2021b, 114).
Hai là, phát huy vai trò của văn học, nghệ thuật “chú trọng nâng cao giá trị tư
tưởng, nghệ thuật, đồng thời bảo đảm tự do, dân chủ trong sáng tạo văn học, nghệ
thuật” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 145). Bởi văn học, nghệ thuật là một trong
những yếu tố quan trọng góp phần tạo dựng nên nền tảng tinh thần của xã hội, phát
triển văn hóa, bồi dưỡng lập trường, tư tưởng chính trị, đánh thức khát vọng con
người Việt Nam. Văn học, nghệ thuật là hành trình đi tìm cái đẹp và bản thân cái
đẹp thường chứa đựng những giá trị đạo đức. Do đó, văn học, nghệ thuật có vai trò
bồi dưỡng, hoàn thiện phẩm chất, nhân cách con người, giáo dục con người bằng
những chuẩn mực thẩm mỹ, đạo đức, phát huy năng lực sáng tạo, năng lực thẩm
mỹ của con người. Chính vì vậy, các tác phẩm văn học, nghệ thuật phải trở thành
công cụ thật sắc bén để giáo dục nhân cách, phẩm chất, lối sống của mỗi người,
hướng con người vươn tới khát vọng chân, thiện, mỹ.
Ba là, tiếp tục phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng môi trường văn
hóa. Gia đình là cái nôi quan trọng nhất trong việc giáo dục, hình thành, nuôi dưỡng
nhân cách văn hóa của mỗi con người. Gia đình là tế bào của xã hội, môi trường văn
hóa gia đình tốt thì xã hội mới phát triển. Cần “xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ,
hạnh phúc, văn minh” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 263) và nâng cao vai trò
của nhà trường trong xây dựng môi trường văn hóa. Mỗi trường học phải trở thành
một không gian văn hóa góp phần quan trọng trong giáo dục, đào tạo, rèn luyện
con người về lý tưởng, nhân cách, phẩm chất, lối sống. Đồng thời, xây dựng đời
sống văn hóa ở mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị để mỗi nơi đều là một môi trường
văn hóa lành mạnh góp phần điều chỉnh các cá nhân, ổn định và phát triển kinh tế
- xã hội. Văn kiện Đại hội Đảng khẳng định: “Xây dựng môi trường văn hóa một

412
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

cách toàn diện ở gia đình, nhà trường, cộng đồng dân cư, trong các cơ quan đảng,
nhà nước, đoàn thể, doanh nghiệp để văn hóa thực sự là động lực, đột phá phát
triển kinh tế, xã hội, hội nhập quốc tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 262).
2.4. Tư duy, quan niệm của Đảng về khơi dậy khát vọng phát triển đất nước
phồn vinh, hạnh phúc
Khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của dân tộc Việt Nam là
một sức mạnh nội sinh phi thường, là cội nguồn tạo nên những đột phá trong quá
trình xây dựng và phát triển đất nước. Do đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII xác định: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí
tự cường và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 215). Để khơi dậy khát vọng
phát triển đất nước cần tập trung thực hiện hiệu quả một số giải pháp sau:
Thứ nhất, phát huy sức mạnh các yếu tố tinh thần của con người. Sức mạnh tinh
thần của con người biểu hiện qua sức mạnh của tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí, khả
năng sáng tạo... Các yếu tố trên có ý nghĩa quyết định, tạo sự phát triển đột phá, làm
thay đổi vị thế, vận mệnh của một quốc gia, dân tộc. Một dân tộc phát triển cần có
nhiều “hiền tài”, một đất nước giàu mạnh cần có những con người thông minh, sáng
tạo, một đội ngũ người lao động có năng lực nhận thức và thực tiễn hiệu quả. Phát
huy các yếu tố tinh thần của con người trước hết phải tạo điều kiện, môi trường thuận
lợi để con người học tập, rèn luyện, phát triển về mọi mặt. Bên cạnh đó, việc bồi
dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút,
trọng dụng nhân tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo cũng là nhiệm vụ quan trọng của
Đảng và Nhà nước. Trên cơ sở đó, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục phát
triển toàn diện nguồn nhân lực, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với khơi
dậy khát vọng phát triển đất nước,... Chú trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao, phát
hiện và bồi dưỡng nhân tài; có chính sách vượt trội để thu hút, trọng dụng nhân tài,
chuyên gia cả trong và ngoài nước” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 220-221).
Thứ hai, phát huy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là yếu tố quan trọng khơi dậy khát vọng phát triển
đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc. Nhiệm kỳ Đại hội XIII chú trọng: “Tập
trung khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, niềm tự hào, ý chí tự cường, lòng nhân
ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội và khát vọng phát triển đất nước của toàn

413
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

dân tộc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 47). Ngoài tiềm lực kinh tế, tinh thần
yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết dân tộc là chỗ dựa và điều kiện để mở
rộng quan hệ hợp tác, hội nhập quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, việc phát huy các
giá trị nói trên góp phần giữ vững môi trường hòa bình, tận dụng cơ hội và hóa giải
những thách thức đối với độc lập, hòa bình và phát triển của dân tộc. Để phát huy
các giá trị ấy, dù trong thời đại nào cũng phải dựa vào dân, “lấy dân làm gốc”; tin
vào sức mạnh phi thường của quần chúng nhân dân. Tinh thần yêu nước, ý chí tự
lực, tự cường, đoàn kết dân tộc là điều kiện tiên quyết tạo nên sức mạnh để phát
triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba, để khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có nhiệm vụ lan tỏa tinh thần này ra cộng đồng.
Cuộc Cách mạng khoa học công nghệ lần thứ tư với sự phát triển mạnh mẽ của công
nghệ thông tin làm cho thế giới có nhiều biến đổi sâu sắc, tạo nhiều đột phá mọi lĩnh
vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức cho mọi quốc gia, dân tộc. Vì vậy, để phát triển
và không bị “hòa tan” trong thời đại mới cần phải làm sâu sắc, lan tỏa khát vọng tự
cường phát triển của dân tộc Việt Nam - một đất nước Việt Nam giàu mạnh, phát
triển, hạnh phúc. Để làm tốt nhiệm vụ này, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp,
đặc biệt là cán bộ cấp chiến lược phải là người tiên phong, đi đầu trong việc khơi dậy
và lan tỏa khát vọng này, phải là tấm gương thông qua chính lời nói, hành động của
bản thân. Một khi tinh thần này được lan tỏa sâu rộng, nó sẽ trở thành động lực thôi
thúc mạnh mẽ, trở thành khát khao, ý chí thôi thúc mỗi người hướng đến hiện thực
hóa mục tiêu phát triển của đất nước tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Phải biết rằng tình hình khách
quan thay đổi hàng giờ hàng phút, một chủ trương của ta hôm nay đúng đắn, hôm
sau đã không hợp thời nữa,...” (Hồ, 2011, 28), Đảng Cộng sản Việt Nam thường
xuyên tổng kết thực tiễn để kịp thời sửa chữa, bổ sung, phát triển lý luận về văn
hóa, con người một cách sâu sắc và toàn diện phù hợp với điều kiện mới song song
với khẳng định những giá trị lý luận đúng đắn, bền vững tạo nên những thành quả
trong xây dựng và phát huy vai trò của văn hóa, con người qua các kỳ Đại hội, Hội
nghị của Đảng. Bên cạnh đó, Đảng ta coi trọng phát huy vai trò của văn hóa, con
người và xác định đây là trong những nhiệm vụ trọng tâm, là chìa khóa góp phần
thực hiện thành công các mục tiêu, đường lối, khát vọng phát triển phồn vinh,
hạnh phúc.

414
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện
nay, việc cụ thể hóa hơn nữa nội dung đường lối và phương thức phát huy vai trò
của văn hóa, con người trong thực tiễn cần phải tiếp tục nghiên cứu, làm rõ cả
chiều rộng lẫn chiều sâu, để có thể phát huy một cách tối đa vai trò của văn hóa,
con người trong sự nghiệp phát triển đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đồng
thời, “lập nên kỳ tích phát triển mới vì một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc,
cùng tiến bước sánh vai với các cường quốc năm châu, thực hiện thành công tâm
nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng của toàn dân tộc ta” (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 2021b, 341).

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập (Vol. 42). (2000). Chính trị quốc gia.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII.
Chính trị quốc gia.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1996). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII. Chính trị quốc gia.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1998). Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành
Trung ương khóa VIII. Chính trị quốc gia.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
Chính trị quốc gia.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
Chính trị quốc gia.
[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2010a). Văn kiện Đảng toàn tập (Vol. 48). Chính trị
quốc gia.
[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2010b). Văn kiện Đảng toàn tập (Vol. 52). Chính trị
quốc gia.
[9]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Chính trị quốc gia.
[10]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2014). Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành
Trung ương khóa XI. Chính trị quốc gia.

415
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

[11]. Đảng Cộng sản Việt Nam,. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
Chính trị Quốc gia.
[12]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021a). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII (Vol. 2). Chính trị quốc gia Sự thật.
[13]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021b). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[14]. Hồ, C. M. (2011). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 4). Chính trị quốc gia.
[15]. Lưu T. L., & Võ V. B. (2015). “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”: (Văn kiện của
Đảng về văn hóa). Chính trị quốc gia.

416
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

NHẬN THỨC MỚI CỦA ĐẢNG VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI


VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Trần Thị Như Quỳnh


Học viện Chính trị Khu vực II
Tác giả liên hệ: Trần Thị Như Quỳnh, email: quynhttn@hcma2.edu.vn

Tóm tắt: 35 năm qua, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử. Một trong những thành tựu to lớn đó là Ðảng và nhân dân ta
đã nhận thức ngày càng rõ nét hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Trong khuôn khổ bài viết, tác giả tập trung làm rõ nhận thức mới
của Đảng ta về vấn đề này được thể hiện trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII.
Từ khóa: chủ nghĩa xã hội; xã hội chủ nghĩa; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; nhận
thức về chủ nghĩa xã hội; lý luận về chủ nghĩa xã hội; đường lối đổi mới.

1. MỞ ĐẦU
V.I.Lênin đã từng nói: “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội, đó
là điều không tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều tiến tới chủ nghĩa xã hội
không phải một cách hoàn toàn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình
vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại
khác của chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo
xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội” (Lênin, 1976, 160).
Rõ ràng, theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tùy theo điều kiện hoàn
cảnh lịch sử mà mỗi nước có những cách thức và biện pháp khác nhau để xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Việc sao chép một cách máy móc, rập khuôn mô hình chủ nghĩa
xã hội “kiểu Xô Viết” trước đây đã đẩy nhiều quốc gia đi theo con đường chủ nghĩa
xã hội lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc ở thập niên 70 - 80 của thế kỷ XX.
Hướng tới mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội là “cái phổ biến”, song những mục
tiêu cụ thể, đặc trưng thể hiện bản chất, động lực, con đường, bước đi để đạt tới
mục tiêu lại rất đa dạng, phong phú thể hiện “cái đặc thù”.

417
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH NHẬN THỨC MỚI CỦA ĐẢNG VỀ CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Thực tiễn lịch sử thế giới trong vài thập kỷ gần đây đã và đang đặt các Đảng
Cộng sản trước sự lựa chọn mô hình phát triển của quốc gia, dân tộc, trên cơ sở giải
quyết phù hợp “cái phổ biến” với “cái đặc thù” của chủ nghĩa xã hội và con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi từng nước.
Tổng kết quá trình đổi mới ở Việt Nam, Đảng ta đã khẳng định: “Nhận thức
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn, hệ
thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành những nét cơ bản” (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 2006, 68), “Lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng
bước được hiện thực hoá” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 103).
Nhận thức mới của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội được định hình từ Đại hội VI (năm 1986), đặc biệt là trong Đại hội VII (năm
1991) khi Đảng ta thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Trong Cương lĩnh, Đảng ta xác định xã hội xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta xây dựng có sáu đặc trưng cơ bản, đồng thời đưa ra bảy phương
hướng chủ yếu để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những nhận thức mới đó
tiếp tục được bổ sung, phát triển, hoàn thiện qua các kỳ Đại hội. Đến Đại hội X (năm
2006), Đảng ta đã bổ sung thêm hai đặc trưng cơ bản vào mô hình xã hội xã hội chủ
nghĩa ở nước ta: (1) Mục tiêu của xã hội xã hội chủ nghĩa với ý nghĩa là đặc trưng
tổng quát của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, và cũng là đặc trưng hàng đầu trong số
các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta xây dựng.
(2) Đặc trưng về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Tại Đại hội XI (năm 2011), Đảng ta đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), gọi
tắt là Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011. Trong Cương lĩnh bổ sung, phát
triển năm 2011, nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội tiếp tục được hoàn thiện và có những bước phát triển mới. Cương lĩnh
xác định: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế
418
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng
Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng
Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế
giới" (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 70).
Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm
2011 xác định cần phải thực hiện tốt các phương hướng cơ bản: Một là, đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ
tài nguyên, môi trường; Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa; Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng
con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bốn
là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; Năm
là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và
phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận
dân tộc thống nhất; Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, Đảng ta xác định phải
đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa
đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh
tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và
xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng
kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội
nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Những bổ sung, phát triển trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên của nghĩa xã hội đã đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà
nước và Nhân dân ta, đem lại những thành tựu to lớn.
Về kinh tế, nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới, mức tăng trưởng GDP bình
quân hằng năm chỉ đạt 4,4% thì ở các giai đoạn sau, mức tăng trưởng GDP bình
419
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

quân đã tăng gấp đôi; giai đoạn 2016 - 2020 đạt mức bình quân khoảng 6,0%/năm;
mặc dù năm 2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 nhưng
tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu
vực, thế giới (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 60-61); quy mô nền kinh tế được mở
rộng đáng kể, đạt 343 tỷ USD năm 2020 (Những thành tựu nổi bật của Việt Nam trong
tiến trình đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước, n.d.). Từ một đất nước nghèo nàn,
có cơ sở vật chất - kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội lạc hậu, trình độ thấp,
đến nay Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung
bình, được thế giới đánh giá là “ngôi sao sáng của châu Á”, xếp vào tốp 16 nền kinh
tế mới nổi thành công nhất thế giới; đứng thứ 49 về phát triển bền vững trên thế
giới trong khi thu nhập bình quân đầu người còn ở hạng ngoài 100; và có hơn 70
quốc gia thừa nhận nền kinh tế Việt Nam là kinh tế thị trường, trong đó có các đối
tác thương mại lớn của Việt Nam.
Cùng với thành tựu về phát triển kinh tế, trong lĩnh vực văn hóa, xã hội cũng
đạt được nhiều kết quả tích cực. Công tác an sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. Nếu như năm
1985 bình quân thu nhập đầu người mới đạt 159 USD/năm thì đến năm 2020 đạt
2.779 USD/năm (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 60-61). Công tác giảm nghèo đạt
được những thành tựu ấn tượng, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm
còn dưới 3% năm 2020 (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 65). Diện bao phủ bảo hiểm
xã hội được mở rộng với hơn 16,1 triệu người tham gia, chiếm trên 33% lực lượng
lao động trong độ tuổi (BHXH tự nguyện: 13 năm một chặng đường là “của để dành”
cho người dân, 2021).
Chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục, đào tạo và dạy nghề được nâng lên. Việt
Nam là một trong số ít quốc gia có hệ thống y tế hoàn chỉnh, tổ chức rộng khắp tới
tận thôn, bản; làm chủ được nhiều kỹ thuật công nghệ cao mang tầm thế giới; kiểm
soát được nhiều dịch bệnh nguy hiểm, trong đó có Covid-19; chủ động sản xuất
được nhiều loại vắcxin phòng bệnh, mới đây nhất là vắcxin phòng Covid-19... Quy
mô giáo dục tiếp tục được phát triển, cơ sở vật chất được nâng cao, chất lượng đào
tạo từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng
từ 40% năm 2010 lên khoảng 65% năm 2020 (Góp ý dự thảo các văn kiện trình Đại hội
XIII của Đảng, n.d.).

420
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Chính trị xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; quan hệ đối
ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đạt nhiều thành tựu nổi bật. Việt Nam
đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế, là thành viên chủ
động, tích cực và có trách nhiệm cao trong các tổ chức quốc tế. Từ một quốc gia bị
bao vây, cấm vận, đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189/193
quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, đối
tác toàn diện với 30 nước, trong đó có tất cả 5 nước thường trực Hội đồng Bảo an
Liên hợp quốc. Năm 2020, Việt Nam đảm nhận các trọng trách quốc tế quan trọng
là Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch AIPA-41 và trúng cử Ủy viên không thường trực Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 với số phiếu cao kỷ lục 192/193
phiếu (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2017). Điều này cho thấy sự tín nhiệm và tình cảm
của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam.
Những thành tựu to lớn đó có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp cách mạng nước
ta. Đúng như sự đánh giá của Đảng: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm
lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 104).

3. NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG TA VỀ CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TẠI ĐẠI HỘI XIII
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và lý luận cách mạng Việt Nam, nhất là thực tiễn
35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội XIII của Đảng đã có những bổ sung quan trọng,
qua đó tiếp tục góp phần phát triển lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Cụ thể là:
Thứ nhất, Đại hội XIII nhấn mạnh việc “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng
và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 57).
Đây không chỉ là thành tố đầu tiên trong chủ đề của Đại hội mà còn là bài học thứ
nhất trong 05 bài học được Đảng ta đúc kết qua 35 năm thực hiện đường lối đổi
mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội; và là một trong mười hai định hướng lớn trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta thời gian tới. Điều này vừa khẳng định tầm quan trọng,
vừa khẳng định tính chất cấp thiết của công tác xây dựng Đảng ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay và sau này.

421
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Thứ hai, Đại hội XIII nhấn mạnh đến vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc
phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, thể hiện nhất quán quan điểm của Đảng đã được khẳng định trong Cương
lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế
độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước” (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 2011, 84-85).
Việc nhấn mạnh này được thể hiện ở: (1) Khi đánh giá thực tiễn công cuộc đổi
mới và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, Đảng ta rút ra 05 bài học kinh
nghiệm, trong đó bài học thứ 2 là “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước,
phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự
tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân” (Đảng Cộng sản Việt
Nam, 2021, 96). (2) Khẳng định “vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong
chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 173). (3) Để bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân, “Đảng, Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội phải làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 173), “Mọi đường lối, chủ trương, chính sách, pháp
luật phải tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ
của nhân dân” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 173), “Thực hiện đúng đắn, hiệu
quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở” (Đảng Cộng
sản Việt Nam, 2021, 173). Với việc bổ sung thêm nội dung “dân giám sát, dân thụ
hưởng” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 173) vào phương châm thực hiện dân chủ
ở cơ sở chính là mở rộng quyền làm chủ của nhân dân, khẳng định mục đích cuối
cùng của dân chủ là đem lại lợi ích cho nhân dân, và cũng là khẳng định bản chất,
mục tiêu của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta hướng tới.
Thứ ba, Đại hội XIII xác định “tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc
đổi mới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 57) đã được nêu ra tại Đại hội XII, để
phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta 35 năm qua cho thấy có những lĩnh vực
đổi mới còn chậm, thiếu đồng bộ với các lĩnh vực khác, nhất là trong lĩnh vực đổi mới
chính trị. So với đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị diễn ra chậm, biểu hiện cụ thể là

422
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

chưa tạo ra được nhiều cơ chế, chính sách, giải pháp có tính đột phá, đồng bộ để tháo
gỡ khó khăn, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp, huy động mọi nguồn lực cho phát
triển; nhận thức, triển khai đổi mới tổ chức bộ máy một số cơ quan trung ương và địa
phương chưa đều, chưa thật đồng bộ (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 94); đội ngũ
cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu của tiến trình đổi mới và hội nhập. Chính trị
chưa tạo được động lực cho kinh tế phát triển, thậm chí đôi khi còn ngược lại, cản
trở sự phát triển của kinh tế. Vì vậy, Đảng ta khẳng định cần phải “Tiếp tục đổi mới
mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh
tế, chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường…, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng
mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển
nhanh và bền vững đất nước”, “Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi để huy
động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh
doanh” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 114), trong đó “Hoàn thiện đồng bộ thể
chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 203) được xác định là một trong 03 đột
phá chiến lược trong nhiệm kỳ Đại hội XIII.
Thứ tư, Đại hội XIII rút ra 05 bài học kinh nghiệm có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
hiện nay: Một là, bài học về xây dựng Đảng. Đại hội xác định xây dựng, chỉnh đốn
Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên cả về chính
trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; phải gắn liền với xây dựng hệ thống chính
trị trong sạch, vững mạnh và hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực; phải
quan tâm đến công tác cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược; Hai là, bài học về dân.
Đại hội xác định phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân
là gốc”, “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”;
phải lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu của Đảng và cả hệ
thống chính trị; Ba là, bài học về lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện. Đại
hội xác định trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện phải có quyết tâm chính trị
cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, năng động, sáng tạo, có bước đi phù hợp; phải
coi trọng chất lượng và hiệu quả thực tế; Bốn là, bài học về thể chế và giải quyết các
mối quan hệ. Đại hội xác định phải tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát

423
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

triển cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; Năm
là, bài học về quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Đại hội nhấn mạnh chủ động nghiên
cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, không để bị động, bất ngờ, "chủ động, tích
cực hội nhập quốc tế toàn diện” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 95-98).
Thứ năm, Đại hội XIII nhấn mạnh, để thực hiện được các định hướng đối với
sự phát triển đất nước, “cần tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 119).
Ngoài việc tiếp tục khẳng định 09 mối quan hệ lớn đã được đề ra ở Đại hội
XII, tại Đại hội XIII, Đảng ta đã bổ sung thêm mối quan hệ “giữa thực hành dân chủ
và tăng cường pháp chế, đảm bảo kỷ cương xã hội”; đồng thời điều chỉnh lại 02 mối
quan hệ “giữa Nhà nước và thị trường”, “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn
hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” thành “giữa Nhà nước, thị trường và xã
hội”, “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng
xã hội và bảo vệ môi trường” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 119). Đặc biệt, trong
giải quyết các mối quan hệ lớn, Đảng ta còn chỉ ra một số điểm cần lưu ý: “chú trọng
hơn đến: đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản
xuất tiến bộ, phù hợp; phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo
vệ môi trường; bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữ vững độc lập, tự chủ và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 119-120).
Có thể nói, việc bổ sung, chỉnh sửa và đưa ra một số điểm lưu ý trong giải
quyết các mối quan hệ lớn của Đảng đã phản ánh được những đặc trưng cơ bản của
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, cho thấy sự phát triển mới trong
tư duy lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày
càng rõ hơn, đầy đủ hơn, phù hợp hơn. Việc nhận thức và giải quyết đúng các mối
quan hệ này không những bảo đảm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, sự ổn định của đời sống chính trị, tư tưởng và sự phát triển của đời sống văn
hóa tinh thần, mà còn bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ sáu, Đại hội XIII xác định mục tiêu tổng quát phát triển đất nước trong
thời gian tới trên cơ sở kế thừa có bổ sung mục tiêu tổng quát được nêu ra tại Đại
hội XII. Cụ thể: (1) Bổ sung “năng lực cầm quyền" vào nội dung "nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng” để thành "nâng cao năng lực lãnh đạo, năng
lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng”; (2) Bổ sung "toàn diện","củng cố, tăng
424
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa" vào
nội dung “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” để thành “xây dựng Đảng và
hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin
của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”; (3) Bổ sung “công
nghiệp hóa, hiện đại hóa” vào nội dung “Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc
đổi mới” để thành "đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa”.
Không chỉ vậy, Đại hội XIII còn đồng thời xác định các mục tiêu cụ thể cho
từng giai đoạn. Cụ thể: đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền
Nam, thống nhất đất nước: là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện
đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành
lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình
cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu
nhập cao (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 326-327). Việc xác định các mục tiêu cụ
thể cho từng giai đoạn thể hiện bước tiến trong nhận thức của Đảng về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

4. KẾT LUẬN
Như vậy có thể nói, nhận thức mới của Ðảng ta về chủ nghĩa xã hội, về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã được thể hiện nhất quán từ khi đổi mới đến nay;
và sẽ tiếp tục từng bước được bổ sung, hoàn thiện, hiện thực hoá. Sự nhất quán đó
sẽ tạo nên một nền tảng vững chắc cho hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã
hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; và là cơ sở đảm bảo cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đi đến thắng lợi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. BHXH tự nguyện: 13 năm một chặng đường là “của để dành” cho người dân. (2021).
Cổng thông tin điện tử bảo hiệm xã hội Việt Nam.
https://baohiemxahoi.gov.vn/UserControls/Publishing/News/BinhLuan/pFor
mPrint.aspx?UrlListProcess=/content/tintuc/Lists/News&ItemID=16190&IsT
A=False.

425
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
Chính trị quốc gia.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Chính trị quốc gia.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2017). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-
hoi-dang/lan-thu-vii/cuong-linh-xay-dung-dat-nuoc-trong-thoi-ky-qua-do-
len-chu-nghia-xa-hoi-1558
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
(Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[6]. Góp ý dự thảo các văn kiện trình Đại hội xiii của Đảng. (n.d.). Tạp chí Cộng sản.
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/gop-y-du-thao-cac-van-kien-
trinh-dai-hoi-xiii-cua-dang/-/2018/820121/co-do%2C-tiem-luc%2C-vi-
the%2C-uy-tin%2C-suc-manh-tong-hop-cua-quoc-gia---dan-toc-sau-gan-35-
nam-doi-moi.aspx.
[7]. Lênin, V. I. (1976). Toàn tập (Vol. 30). Tiến bộ.
[8]. Những thành tựu nổi bật của Việt Nam trong tiến trình đổi mới, hội nhập và phát
triển đất nước. (n.d.). Đại Sứ quán nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
tại Cộng hòa Áo. https://vnembassy-vienna.mofa.gov.vn/vi-vn/News/
EmbassyNews/Trang/Nh%E1%BB%AFng-th%C3%A0nh-t%E1%BB%B1u-
n%E1%BB%95i-b%E1%BA%ADt-c%E1%BB%A7a-Vi%E1%BB%87t-Nam-
trong-ti%E1%BA%BFn-tr%C3%ACnh-%C4%91%E1%BB%95i-
m%E1%BB%9Bi,-h%E1%BB%99i-nh%E1%BA%ADp-v%C3%A0-
ph%C3%A1t-tri%E1%BB%83n-%C4%91%E1%BA%A5t-
n%C6%B0%E1%BB%9Bc-.aspx

426
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

CHỦ NGHIÃ XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI


Ở VIỆT NAM - TỪ NHẬN THỨC ĐẾN HÀNH ĐỘNG

Hồ Tấn Sánga, Ngô Thị Hiền Trangb


a
Học viện Chính trị khu vực III
Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt - Hàn, Đại học Đà Nẵng
b

Tác giả liên hệ: Hồ Tấn Sáng, email: sangphandinhphung@gmail.com

Tóm tắt: Từ giữa thế kỷ XIX trở lại đây, trên thế giới hiếm có một tác gia nào mà
những tư tưởng, những quan điểm lý luận của mình lại được nhiều người, nhiều
giới quan tâm nghiên cứu, bàn cãi, tranh luận với không ít những thiên kiến khác
nhau như C.Mác. Học thuyết Mác không chỉ có chức năng giải thích thế giới, quan
trọng còn là cải tạo thế giới, nên từ khi xuất hiện đến nay, học thuyết của ông không
chỉ bị phía kẻ thù - những thế lực bảo thủ, phản động công kích, bài bác, xuyên tạc,
mà còn tạo nên những cách hiểu, cách giải thích, cách vận dụng khác nhau trong
những người mácxít qua nhiều thế hệ. Có thể đó là lý do để nói rằng, sự thăng trầm
của xã hội hiện đại, không thể không được lý giải từ những ảnh hưởng, tác động
của sự phản ứng, cũng như của quá trình nhận thức và vận dụng học thuyết Mác,
về sau là chủ nghĩa Mác - Lênin. Nghiên cứu tiến trình cách mạng Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam - Đảng do Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
sáng lập và rèn luyện trong thời đại sau cách mạng Tháng Mười Nga (study case) là
một minh chứng sinh động.
Từ khóa: độc lập dân tộc; chủ nghĩa xã hội; mô hình chủ nghĩa xã hội; thể chế phát triển.

1. ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN KẾT VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI - LOGIC TẤT YẾU
TRONG HÀNH TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC, CỨU DÂN CỦA HỒ CHÍ MINH
Khi đánh giá tầm vóc - tầm nhìn và những gì mang lại từ tầm nhìn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Giám đốc UNESCO khu vực Châu Á - Thái Bình Dương Modagat
Ahmet nói: “Chỉ có rất ít nhân vật trong lịch sử trở thành một bộ phận của huyền
thoại ngay từ khi còn sống và rõ ràng Hồ Chí Minh là một trong số đó. Người sẽ
được ghi nhớ không phải chỉ là người anh hùng giải phóng cho Tổ quốc và nhân
dân bị đô hộ, mà còn là một nhà Hiền triết hiện đại đã mang lại một viễn cảnh và
hy vọng mới cho những người đang đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất

427
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

công, bất bình đẳng khỏi trái đất này” (Về nghị quyết của UNESCO vinh danh Chủ tịch
Hồ Chí Minh, 2019).
Với tư cách đó, di sản Hồ Chí Minh để lại cho Đảng ta, dân tộc ta và nhân loại
tiến bộ nói chung rất phong phú, phản ánh cô đọng những giá trị tư tưởng nhân
văn mang tính thời đại: giải phóng dân tộc, giải phóng lao động, giải phóng con
người. Trong đó, lý luận và thực tiễn quá trình tìm đường cứu nước, cứu dân, hiện
thực hóa mục tiêu: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” là đóng góp thể
hiện rõ tầm vóc của Người “anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế
giới” - Hồ Chí Minh.
Xã hội Việt Nam cổ truyền được cấu thành bởi những cộng đồng tương đối
bền chặt trên cơ sở những cuộc vật lộn với thiên nhiên khắc nghiệt và họa ngoại
xâm liên tiếp. Trong môi trường đó, con người luôn cố kết chặt chẽ với gia đình,
dòng họ, làng xóm, rộng ra là quê hương, đất nước. Từ trong cuộc mưu sinh của
các tầng lớp cư dân Việt, những tình cảm, những trạng thái tâm lý ấy được chưng
cất, kết đọng lại, hình thành những tư tưởng, quan điểm về những giá trị truyền
thống của cộng đồng, về chủ quyền quốc gia, trở thành nhu cầu, lợi ích - chất keo
kết dính, động cơ thôi thúc hành động của mỗi con người; kết thành chủ nghĩa anh
hùng mỗi khi có giặc ngoại xâm, khi làng xóm, quê hương gặp hiểm họa. Không
phải vô cớ ở thế kỷ XV, ông cha chúng ta đã khẳng định về một nước Đại Việt: “Tự
bao đời xây nền độc lập/ Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một
phương”. Và, chính trong tiến trình lịch sử ấy, hoàn toàn có cơ sở để khẳng định:
“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ
xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành
một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn,
nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước” (Hồ, 1995c, 171). Thế nhưng tại sao
trong bối cảnh xã hội Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, ý thức
dân tộc, lòng yêu nước ấy chỉ có thể biến thành sức mạnh to lớn khi phong trào đấu
tranh vì nền độc lập dân tộc có sự dẫn dắt của Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh sáng lập?
Lịch sử Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là thời kỳ sục sôi phong
trào yêu nước của các tầng lớp nhân dân trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền
quốc gia, bảo vệ nền độc lập dân tộc nhưng các cuộc khởi nghĩa, các phong trào đấu

428
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

tranh đó lần lượt đều thất bại. Đâu là nguyên nhân của tình hình ấy? Cả về phương
diện lý luận cũng như trên thực tế cho phép khẳng định rằng, quần chúng nhân dân
đóng vai trò quyết định sự phát triển của lịch sử, nhưng vai trò đó chỉ có thể được
phát huy thực sự một khi đông đảo quần chúng thoát khỏi sự trói buộc của những
tư tưởng lạc hậu, được giác ngộ bởi những tư tưởng tiên tiến - khoa học và cách
mạng: Những tư tưởng phản ánh đúng hiện thực khách quan, phản ánh đúng ý
nguyện và lợi ích căn bản của đông đảo quần chúng và chỉ ra được những nhiệm
vụ lịch sử đã chín muồi mà quần chúng nhân dân cần thực hiện mỗi khi thâm nhập
vào quần chúng sẽ biến thành sức mạnh vật chất. Luận đề này là cơ sở để luận giải
tầm quan trọng, vai trò của nhân tố lãnh tụ, lãnh đạo, của các học thuyết, lý luận
khoa học, cách mạng trong các tiến trình phát triển của nhân loại nói chung và cách
mạng Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX nói riêng. Trong trường hợp cụ thể
này là nói đến vai trò của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng, nhà chiến
lược của cách mạng Việt Nam - Người “nhận thức được cái tất yếu và hành động
theo cái tất yếu đã được nhận thức” để giải quyết những vấn đề lớn lao của vận
mệnh dân tộc.
Thất bại của phong trào yêu nước Việt Nam vào những năm cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX cho thấy rằng, trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, đặc biệt thời đại sau
Cách mạng tháng Mười Nga, trên lập trường của các sỹ phu - Nho học phong kiến,
hay lập trường dân chủ tư sản của giới trí thức “Tây học” thời đó, các lực lượng yêu
nước dù tinh thần có thừa vẫn không thể đưa ra một đường lối chính trị có khả năng
thống nhất, tập hợp lực lượng của toàn dân tộc nhằm giải quyết triệt để những mâu
thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam. Nói cách khác, sự thức tỉnh và sự trưởng thành
ý thức dân tộc trong thời đại đế quốc chủ nghĩa phải được định hướng bởi một thế
giới quan, phương pháp luận khoa học, cách mạng - thế giới quan, phương pháp
luận duy vật biện chứng Macxit-lêninit và lập trường lợi ích của một lực lượng xã
hội tiên tiến. Thiên tài của Nguyễn Ái Quốc chính là ở chỗ, vượt lên trên tầm nhìn
bị ràng buộc của ý thức hệ Nho giáo hay hệ tư tưởng cải lương tư sản của các bậc
sỹ phu, những nhà yêu nước đương thời, Người đã mang đến cho dân tộc Việt Nam
sự thức tỉnh mới mang tính thời đại. Là người yêu nước, thương dân, Nguyễn Ái
Quốc sớm nhận ra sự trớ trêu, giả dối giữa lời nói và hành động của những kẻ nhân
danh văn minh để khai hoá cho dân tộc mình. Người hướng tới việc tìm cho ra

429
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

nguồn gốc của mọi nỗi khổ đau của dân tộc từ bản chất của kẻ thù - chủ nghĩa thực
dân xâm lược. Lăn lộn trong thực tế quá trình tìm đường cứu nước, cứu dân từ khảo
nghiệm, đúc rút kinh nghiệm trong nước và thế giới, Người đã thâu thái lý luận
thời đại để hình thành nên một chiến lược, một đường hướng cách mạng có khả
năng giải quyết những đòi hỏi khách quan đang đặt ra lúc bấy giờ của dân tộc Việt
Nam. Theo đó, Người khẳng định rằng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc,
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản, chỉ có CNXH và CNCS
mới giải phóng các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi
ách nô lệ” (Hồ, 1995a, 268). Tư tưởng chủ đạo ấy đã được thể hiện rõ khi Người
phác thảo nội dung, tính chất, bước đi của cách mạng Việt Nam: “Làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi đến xã hội cộng sản” (Hồ, 1995b, 1),
và chính Người đã lãnh đạo Đảng, lãnh đạo cả dân tộc Việt Nam thực hiện “Đường
Cách mạng” đó. Vạch ra đường lối cách mạng đúng đã rất quan trọng, nhưng quyết
định hơn là tổ chức thực hiện đường lối đó trong thực tế. Chính ở đây - quá trình
hiện thực hóa đường lối cách mạng Việt Nam, một lần nữa thiên tài của Hồ Chí
Minh lại được thể hiện. Dưới thời thuộc Pháp, xã hội Việt Nam có hai mâu thuẫn
cơ bản: mâu thuẫn giữa dân tộc ta với chủ nghĩa đế quốc và mâu thuẫn giữa nhân
dân ta, chủ yếu là nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến. Vì thế, về chỉ đạo chiến
lược, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu,
với khẩu hiệu: "Tổ quốc trên hết" để phát huy cao độ sức mạnh dân tộc, nhưng cũng
không coi nhẹ những nhiệm vụ dân chủ: chống chuyên chế phong kiến. Tuy nhiên,
trong các vǎn kiện có tính chất Cương lĩnh của cách mạng Việt Nam lúc Đảng mới
thành lập chỉ có Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Hồ Chí Minh soạn thảo
là thể hiện được điều đó. Trong khi không xa rời mục tiêu chiến lược, Hồ Chí Minh
chủ trương tập trung lực lượng toàn dân chống đế quốc và đại địa chủ, còn đối với
"phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt… thì phải lợi
dụng, chí ít làm cho họ trung lập" (Hồ, 1995b, 3). Về sau, Đảng ta còn thu hẹp hơn
diện tích đấu tranh để thực hiện sách lược thêm bạn, bớt thù. Tư tưởng của Hồ Chí
Minh đã phản ánh đúng mâu thuẫn chủ yếu nhất của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn
giữa toàn thể nhân dân ta với chủ nghĩa đế quốc và tay sai bán nước. Tư tưởng đó
đã đáp ứng yêu cầu nêu cao lợi ích dân tộc để tập hợp lực lượng đánh vào âm mưu
thâm độc của chủ nghĩa đế quốc, sử dụng chủ nghĩa quốc gia chia rẽ dân tộc, chống

430
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

lại đường lối đại đoàn kết của Hồ Chí Minh. Tư tưởng đúng đắn và sáng tạo của
Hồ Chí Minh bắt nguồn từ việc khéo kết hợp yếu tố dân tộc với yếu tố giai cấp để
xem xét và giải quyết các vấn đề của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Lưu ý rằng, trong
mấy nǎm đầu của cách mạng Việt Nam, cách nghĩ và cách làm của Hồ Chí Minh
không được số đông trong Đảng thừa nhận. Qua trải nghiệm thực tiễn, dần dần tư
tưởng của Người mới thực sự trở thành đường lối chiến lược và cương lĩnh hành
động của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Như vậy, với tư cách nhà tư tưởng,
lãnh tụ của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trong thời đại đế quốc chủ nghĩa,
ngay từ đầu, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã có sự định hướng rõ ràng mục
tiêu, nhiệm vụ, bước đi của toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo tài tình và sáng suốt của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, tháng
Tám năm 1945, dân tộc Việt Nam đã lập nên một kỳ tích mới trong lịch sử giữ nước
và dựng nước - đánh thắng các thế lực ngoại xâm, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc - kỷ nguyên độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Kiên trì với những tư tưởng bất hủ trong Tuyên ngôn
Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt toàn thể quốc dân đồng bào tuyên bố
với toàn thế giới, cả dân tộc Việt Nam đã đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ vững nền tự do, độc lập ấy. Những thắng lợi giành được
trong các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, đánh thắng chủ nghĩa
thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện
thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào
cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội là những minh chứng hùng hồn về sức mạnh của một dân tộc khi họ đoàn
kết lại chiến đấu cho khát vọng chính đáng: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Và, lịch sử cũng đã xác nhận, chính con đường đó đã đưa cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc của nhân dân Việt Nam đến thắng lợi hoàn toàn (tháng 04 năm 1975).
Từ những nội dung đã đề cập, có thể khái quát rằng, trên lập trường biện
chứng Macxit-lêninit, Hồ Chí Minh và Đảng do Người sáng lập đã nhận thức và xử
lý đúng đắn các mối quan hệ dân tộc và giai cấp, dân tộc và nhân loại, phù hợp với
đặc điểm và xu thế của thời đại, đó chính là nguyên nhân của mọi nguyên nhân, cội
nguồn sức mạnh làm nên những thắng lợi có tầm vóc lịch sử và thời đại trong thế
kỷ XX của Đảng, của dân tộc Việt Nam. Với những gì dân tộc ta, nhân dân ta làm

431
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

được trong thế kỷ XX, “Chúng ta tự hào về dân tộc ta - một dân tộc anh hùng, thông
minh, sáng tạo; tự hào về Đảng ta - Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện - một lòng, một dạ chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do
của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, 13).

2. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TIẾP TỤC VAI TRÒ TIÊN PHONG TRONG
BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG
ĐI LÊN CNXH Ở VIỆT NAM
Với việc “lắng nghe dân”, “hiểu dân”, dũng cảm nhận ra sai lầm trong “nhận
thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”, khởi
xướng đổi mới, Đảng ta thực sự từng bước được nâng tầm; công cuộc xây dựng,
phát triển đất nước đã thu được nhiều thắng lợi. Từ thực tiễn quá trình tìm tòi, thể
nghiệm trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đặc biệt trong thời
kỳ đổi mới, “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội” (1991), Đảng ta đã bước đầu xác lập mô hình chủ nghĩa xã hội với 6 đặc trưng
và đề ra phương hướng, nhiệm vụ, phương thức con đường để triển khai mô hình
đó, trong thực tế. Tất nhiên, chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
với tư cách là lý luận khoa học - phản ánh khách quan hiện thực sinh động thì không
thể bàn, xác lập một lần, mà phải bàn nhiều lần, phải không ngừng bổ sung và hoàn
thiện… Chính vì thế, Nghị quyết Số 01 NQ/TW, ngày 23 tháng 02 năm 1992 của Bộ
Chính trị BCHTW khóa VII, đã nêu rõ những quan điểm, những nội dung định
hướng hoạt động nghiên cứu lý luận của Đảng ta trong thời kỳ mới.
Triển khai thực hiện theo tinh thần Nghị quyết trên, 30 năm qua công tác
nghiên cứu lý luận của Đảng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nổi lên
trong đó là “Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam”, được thể hiện trên các bình diện cơ bản sau:
Thứ nhất, phân tích sâu sắc hơn góp phần làm rõ hơn bản chất khoa học và cách mạng
của chủ nghĩa Mác - Lênin, khẳng định sự cần thiết bổ sung, phát triển học thuyết khoa học
và cách mạng đó trên cơ sở những dữ liệu mới của thời đại.
Có thể nhận thấy, từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX, tất cả các nước trong
hệ thống xã hội chủ nghĩa đều bị lâm vào khủng hoảng; đặc biệt đầu thập niên 90
của thế kỷ XX, sự tan rã của Đảng Cộng sản Liên Xô, của Liên bang Cộng hòa xã hội

432
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

chủ nghĩa Xô viết và của các đảng cộng sản cầm quyền, của chế độ xã hội chủ nghĩa
ở các nước Đông Âu đã đặt CNXH thế giới vào thách thức mới. Trong tình hình ấy,
chủ nghĩa Mác - Lênin không những bị các thế lực “bên kia” đả kích và phán định
về “Sự kết thúc chương thử nghiệm”; nghiêm trọng hơn, một số phần tử (trong và
ngoài nước) đã nhân “cơ hội” này để tung hô về sự cần thiết phải “Quay ngược tấm
biển chỉ đường của trí tuệ”, thậm chí có những người vốn là cộng sản lại tỏ ra “sám
hối”... Nhận rõ trọng trách của mình, Đảng ta đã kịp thời quán triệt những quan
điểm, những vấn đề có tính nguyên tắc trong việc khẳng định bản chất khoa học và
cách mạng của Chủ nghĩa Mác - Lênin và chỉ ra phương hướng, trách nhiệm của
những người Cộng sản nói chung và giới lý luận ở nước ta nói riêng. Nghiên cứu
lý luận nước ta trong giai đoạn này đã góp phần chỉ ra hệ giá trị bền vững của chủ
thuyết khoa học và cách mạng này trên hàng loạt các phương diện: Từ lý luận hình
thái kinh tế - xã hội đến lý luận về thời đại; từ việc vạch ra bản chất và giới hạn lịch
sử của chủ nghĩa tư bản đến xác lập các hình thức, nhịp điệu, bước đi để tạo lập một
xã hội mới: nhân văn, vì con người và do con người. Đó là học thuyết góp phần
trang bị cho những người cộng sản thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp
biện chứng duy vật trong tư duy và hành động; đó là sự kết tinh những chất liệu
“xanh tươi” của cây đời thực tiễn, vì thế nó cũng là học thuyết "mở"- nghĩa là nó
luôn được và cần phải được bổ sung và phát triển mới từ những dữ liệu mới của
đời sống thực tiễn. Và, đáng chú ý, qua đó Đảng ta đã tự nhận thấy những hạn chế,
sai lầm thể hiện dưới những hình thức giáo điều, rập khuôn, duy ý chí.
Với tư duy mở về chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta đã khẳng định: tư tưởng Hồ
Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận Macxit-lêninit vào điều kiện
cụ thể của cách mạng Việt Nam; là sự tiếp nối - thể hiện cái logic và cái lịch sử của
học thuyết khoa học và cách mạng, phản ánh lợi ích và con đường đấu tranh để
thực hiện những lợi ích đó của nhân dân các dân tộc bị áp bức và giai cấp những
người cần lao ở Việt Nam trong thời đại mới. Từ đó Đảng ta chính thức xác định,
cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là bộ phận hợp thành nền
tảng tư tưởng của Đảng; đặc biệt phân tích, luận giải thuyết phục nội dung tư tưởng
của Người về chủ nghĩa xã hội (những đặc trưng cơ bản về kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội), đến việc chỉ ra các điều kiện, cách thức để xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.

433
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Thứ hai, hình thành tư duy mới, cách tiếp cận khoa học để trả lời những vấn đề bức
xúc, phức tạp của thời đại. Dự báo được xu thế biến đổi, phát triển của tình hình thế giới,
từ đó có được những quyết sách hợp lý, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển.
Ngày nay nhân loại đang sống trong một thế giới với đầy những đổi thay kỳ
diệu về khoa học công nghệ, sự phát triển mạnh mẽ của LLSX. Bối cảnh mới làm
cho toàn cầu hóa ngày càng sâu sắc; sự hình thành kinh tế tri thức; việc cải cách và
tái cấu trúc kinh tế diễn ra khắp nơi; ý thức dân chủ của người dân ngày càng mạnh
mẽ. Nhưng, nhân loại cũng chứng kiến không ít những biến cố khó lường: sự khan
hiếm các nguồn nguyên liệu và năng lượng, những thách thức về môi trường, dịch
bệnh và an ninh phi truyền thống đang làm chậm lại nhịp điệu tăng trưởng kinh tế,
gây nên sự bất ổn ở nhiều quốc gia; sự xuất hiện chủ nghĩa bảo hộ mới và những
hàng rào kỹ thuật hiện đại đang tạo nên những đứt gãy các mối quan hệ vật chất
lẫn tinh thần… Bên cạnh xu thế lớn là hoà bình, hợp tác và phát triển, quá trình toàn
cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế tiếp tục được đẩy nhanh, chiến tranh cục bộ,
xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, hoạt động khủng bố, lật đổ, cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa đơn phương - bá quyền vẫn tiếp tục diễn ra căng thẳng,
quyết liệt; những xung đột lợi ích và cuộc đấu tranh giành giật quyền lực trên thế
giới vẫn chưa hề có biểu hiện dịu đi nếu không nói là ngược lại.
Ở trong nước, những thành tựu của sự nghiệp đổi mới, trực tiếp là thành tựu
đạt được trong những năm qua tiếp tục mang lại thế và lực mới cho đất nước. Tuy
vậy, những nguy cơ thách thức mà Đảng đã cảnh báo vẫn chưa hề có dấu hiệu
thuyên giảm, thậm chí có những nguy cơ đã và đang bộc lộ rõ nét hơn, trầm trọng
hơn. Sự nghiệp phát triển của dân tộc ta đang bước vào giai đoạn có ý nghĩa quyết
định, hoặc là hòa nhập vào nhịp điệu, xu thế chung của thời đại một cách tự chủ để
tự khẳng định vị thế của mình trong quan hệ với các quốc gia, dân tộc trên thế giới
với tầm cao của văn hoá, văn minh dân tộc - thời đại; hoặc là bị những dòng xoáy
của những dòng thác thị trường cạnh tranh khắc nghiệt xoá nhòa bản sắc, cuốn trôi
hay bị nhấn chìm trong tụt hậu ? Thời cơ và thách thức của dân tộc lúc này chính là
ở đó.
Trong tình hình đó, nghiên cứu lý luận đã nêu lên một hệ thống quan điểm
nhất quán trong quá trình mở rộng hợp tác quốc tế cùng phát triển hiện nay là: Toàn

434
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Đảng, toàn dân đoàn kết cùng thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu
độc lập dân tộc, gắn liền với chủ nghĩa xã hội - dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh ở Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh cho việc xác lập một trật
tự thế giới hòa bình, hợp tác, đua tranh cùng phát triển theo tư tưởng nhân văn
Cộng sản chủ nghĩa.
Thứ ba, trên lập trường biện chứng duy vật, lý luận của Đảng ta cũng đã từng bước
làm rõ các mối quan hệ lớn trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước hướng tới mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Công tác nghiên cứu lý luận đã góp phần khẳng định, đổi mới là yêu cầu thiết
yếu của bản thân công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, cũng là quá trình tự hoàn thiện
của nhân tố lãnh đạo, quản lý. Đổi mới toàn diện từ tư duy đến hành động; từ xây
dựng, hoàn thiện thể chế đến huy động, phân bổ hợp lý các nguồn lực bảo đảm phát
triển bền vững dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Lý luận đã góp phần
làm rõ: thực chất của đổi mới kinh tế ở nước ta là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch,
tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; thực chất của đổi mới
chính trị là đổi mới tư duy của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam; trọng tâm của đổi mới chính trị là đổi mới hệ thống chính
trị (HTCT), đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của HTCT, là dân chủ hoá
các mối quan hệ trong hệ thống chính trị và dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống
xã hội; là đổi mới hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đồng bộ
với đổi mới HTCT. Trên tinh thần cơ bản đó, Văn kiện được thông qua tại Đại hội
XIII (2021) của Đảng một lần nữa khẳng định: “Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các
quan hệ lớn: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã
hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng
trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ
môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc
lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân
làm chủ;… giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã
hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 39).

435
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Thứ tư, nghiên cứu lý luận cũng đã tiến đến làm rõ các vấn đề cụ thể đặt ra trong quá
trình xây dựng, phát triển từ kinh tế, văn hóa - xã hội đến chính trị, an ninh - quốc phòng
Chúng ta đã huy động được các trung tâm nghiên cứu, giới lý luận trong nước
và tham vấn kinh nghiệm các nước để từng bước làm rõ các vấn đề cốt yếu của sự
phát triển như: vấn đề sở hữu và thành phần kinh tế; giải pháp đột phá để thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế; giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong nền
kinh thị trường định hướng XHCN; mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa tăng cường sức mạnh quốc
phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội với phát triển kinh tế và hội
nhập toàn diện trong thời đại 4.0 với những thách thức về an ninh phi truyền thống.
Với việc nhận thức rõ tầm vóc và ý nghĩa tiên quyết của ổn định và đổi mới
chính trị, hệ thống chính trị, Đảng ta đã xác lập hệ quan điểm mới về hệ thống chính
trị; đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị và các
nhân tố hợp thành đặt trong tổng thể quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế chính
trị dân chủ XHCN và nhà nước pháp quyền XHCN, của dân, do dân và vì dân. Nổi
lên trong đó là những hệ luận về Đảng Cộng sản cầm quyền như: Tính chính đáng,
yêu cầu, điều kiện, phương thức cầm quyền của Đảng; về xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; về thực hành dân chủ, đại đoàn kết
dân tộc, đồng thuận xã hội... Đặc biệt là những thành quả lý luận đạt được trong nhận
thức và xử lý các mối quan hệ giữa: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, bảo đảm để
Nhân dân là chủ thể đích thực của quyền lực; về phân công, phối hợp và kiểm soát
quyền lực trong bộ máy quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước; về phát huy vai trò
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên qua việc tham gia phản biện
xã hội và giám sát xã hội.
Đó là căn cứ để Đảng ta nhận định rằng: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc
đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn và từng bước
được hiện thực hoá. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình
độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được
cải thiện rõ rệt. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như
ngày nay…” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 103-104).
436
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

3. MỘT SỐ GỢI Ý
Tất nhiên, hiện tại và tương lai của dân tộc ta có cả thuận lợi, thời cơ và khó
khăn, thách thức đan xen. Điều đó đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề,
phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, “đòi hỏi toàn Đảng
phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, có quyết tâm chính trị cao, dự báo chính xác,
kịp thời diễn biến của tình hình, chủ động ứng phó kịp thời với mọi tình huống, nỗ
lực hơn nữa để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới. Không ngừng gia tăng tiềm
lực mọi mặt của quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và những thành quả phát triển
đã đạt được…” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 109).
Để tiếp tục xứng đáng vai trò của Đảng tiên phong - lãnh đạo quá trình phát
triển đất nước, phát triển lý luận, kiến tạo và thực hành mô hình phát triển bền
vững, tất nhiên có nhiều việc phải làm. Trong đó, lý luận phát triển, thích ứng với
thế giới đổi thay cần phải tiếp tục làm sáng tỏ và thực hành một số nội dung, nhiệm
vụ căn cốt sau:
Thứ nhất, tiếp tục làm rõ nhịp điệu, bước đi trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta.
Quan tâm lý giải những vấn đề liên quan như: Mục tiêu chiến lược (định tính
và định lượng) phù hợp với những đặc điểm về nguồn lực và các rào cản có thể; dự
báo xu hướng vận động của thế giới và trong nước trong từng giai đoạn; xác định
giả định một số kịch bản chính, từ đó xác lập các quyết sách mang tính khả thi - hợp
lý, hợp lẽ, hợp thời, góp phần hiện thực hoá mô hình mục tiêu (từng giai đoạn và
suốt thời kỳ).
Vấn đề đặt ra là, phải xác định đúng những chính sách và cơ chế tác động đến
các quá trình xã hội đang ở trong thời kỳ quá độ để thúc đẩy sự phát triển đúng quy
luật khách quan, tránh mắc sai lầm duy ý chí, nóng vội. Những giải pháp, chính
sách và cơ chế này phải phù hợp với hiện thực của chủ nghĩa xã hội đang là định
hướng, chứ chưa phải chủ nghĩa xã hội đã định hình.
Thứ hai, tiếp tục làm rõ hơn nữa mô hình phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Làm rõ cơ sở khoa học và những yêu cầu cụ thể trong định hướng chính trị
quá trình phát triển kinh tế thị trường; xác định mục tiêu phát triển kinh tế theo
hướng: hài hòa, bền vững, từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong

437
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

hội nhập quốc tế; tạo lập môi trường, điều kiện để huy động tối đa các nguồn lực,
nhất là nguồn nhân lực gắn với việc hoàn thiện thể chế quản trị quốc gia có hiệu
lực, hiệu quả; tạo khả năng chống chịu hay sức đề kháng trước những “thất bại của
thị trường”; Đặc biệt tìm kiếm, thể nghiệm các mô hình khởi nghiệp (starting a
business) trên lĩnh vực kinh tế tri thức, kinh tế số; nâng cao hiệu lực quản lý công
nghiệp hóa, hiện đại hóa với việc bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Thứ ba, xác lập mô hình và phương thức quản trị xã hội đổi thay, phát triển nhanh và
sâu rộng.
Những vấn đề liên quan đến sự biến đổi xã hội, cơ cấu xã hội, phân tầng xã
hội để có phương thức quản lý hiệu lực, hiệu quả - giải quyết hài hòa quan hệ giữa
các nhóm, giai tầng; làm rõ hơn vai trò của đội ngũ doanh nhân và các nhóm tinh
hoa để xác lập chính sách, tạo dựng sự đồng thuận xã hội, hướng đến mục tiêu
chung: xã hội năng động, sáng tạo, hài hoà, văn minh; nghiên cứu về động lực và
hệ động lực của đổi mới và phát triển, nhất là tìm các giải pháp, biện pháp để khai
thác, phát huy vai trò các nguồn lực, nuôi dưỡng các động lực nhằm thúc đẩy xã
hội phát triển bền vững; xác lập và củng cố hệ giá trị văn hóa và con người Việt
Nam, đặc biệt quan tâm làm rõ cơ sở khoa học các giải pháp liên quan đến đời sống
văn hoá tinh thần - vừa bảo lưu giá trị truyền thống, vừa chủ động chọn lọc, dung
hợp các giá trị tiến bộ, văn minh của nhân loại, mang đến sự bùng nổ nhân tố người.
Thứ tư, lý luận về xây dựng, hoàn thiện thể chế phát triển, thể chế chính trị, thể chế
nhà nước. Xác định nội dung, yêu cầu về đổi mới, xây dựng Đảng gắn với việc sắp xếp, tinh
gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hệ thống chính trị.
Tổng kết kinh nghiệm cầm quyền của Đảng ta, có sự so sánh với các đảng
chính trị trên thế giới. Quan tâm nhiều hơn việc luận giải tính chính đáng về sự cầm
quyền của Đảng với sự tham chiếu mô hình chính thể ở các nước phát triển. Đổi
mới nhận thức, mô hình tổ chức, nội dung, phương thức cầm quyền của Đảng đáp
ứng yêu cầu thời đại mới, trong đó xây dựng và hoàn thiện mô hình nhà nước kiến
tạo phát triển - hiệu lực, hiệu quả là thước đo cơ bản. Luận chứng nội dung xây
dựng Đảng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng gắn với tạo lập cơ chế kiểm soát
quyền lực trong Đảng, trong Nhà nước, trong HTCT nói chung.

438
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Tầm vóc của nhân tố lãnh đạo và năng lực của Đảng cầm quyền lúc này phải
được thể hiện qua việc từng bước hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, góp phần
phát triển bền vững, hài hòa về xã hội và môi trường; là tìm kiếm và xây dựng các
thể chế có thể khuyến khích, dung nạp sự tham gia đông đảo của người dân trong
các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; là phát huy tối đa năng lực bản chất
người Việt Nam; là khơi dậy các nguồn lực bên trong, phải tạo lập các điều kiện cần
thiết để chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thúc đẩy các quan hệ quốc tế đã thiết
lập đi vào chiều sâu, ổn định lâu dài, mở rộng những điểm tương đồng, thu hẹp
những điểm khác biệt về lợi ích, phấn đấu không để những khác biệt biến thành
mâu thuẫn hoặc xung đột lợi ích.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Ban Chấp hành Trung ương. (2017). Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017,
Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “Một số vấn đề về
tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả”.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
Chính trị quốc gia.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Chính trị quốc gia.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2016a). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII. Chính trị Quốc gia.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2016b). Văn kiện Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành
Trung ương khóa XII. Chính trị quốc gia Sự thật.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
(Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[7]. Eagleton, T. (2012). Tại sao Mác đúng? Chính trị - Hành chính.
[8]. Friedman, T. L. (2006, May 2). Cuối cùng đó là một trái đất phẳng. Talawas.
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=4638&rb=08
[9]. Hồ, C. M. (1995a). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 2). Chính trị quốc gia.
[10]. Hồ, C. M. (1995b). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 3). Chính trị quốc gia.

439
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

[11]. Hồ, C. M. (1995c). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 6). Chính trị quốc gia.
[12]. Hồ, C. M. (1995d). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 7). Chính trị quốc gia.
[13]. Hồ, C. M. (1995e). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 8). Chính trị quốc gia.
[14]. Học viện Chính trị quốc gia. (2010). Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa
Mác-Lênin. Chính trị quốc gia.
[15]. Hội đồng Lý luận Trung ương. (2020). 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính trị quốc gia.
[16]. Lênin, V. I. (1981). Toàn tập (Vol. 26). Tiến bộ.
[17]. Ngân hàng thế giới. (1998). Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi: Báo cáo
về tình hình phát triển Thế giới 1997. Chính trị Quốc gia.
[18]. Ngân hàng Thế giới & Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam. (2016). Việt Nam 2035:
Hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ, Báo cáo tổng quan.
[19]. Nguyễn, Đ. B., Lê, H. N., & Trần, H. T. (2003). Góp phần nhận thức thế giới đương
đại. Chính trị Quốc gia.
[20]. Tô, H. R., & Hoàng, C. B. (2006). Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ
1986 đến nay. Chính trị quốc gia.
[21]. Về Nghị quyết của UNESCO vinh danh Chủ tịch Hồ Chí Minh. (2019,
February 12). Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. https://dangcongsan.vn/tu-
lieu-tham-khao-cuoc-thi-trac-nghiem-tim-hieu-90-nam-lich-su-ve-vang-cua-
dang-cong-san-viet-nam/tu-lieu-cuoc-thi/ve-nghi-quyet-cua-unesco-vinh-
danh-chu-tich-ho-chi-minh-543986.html

440
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

MỘT SỐ VẤN ĐỀ RÚT RA TỪ MÔ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI


ĐẶC SẮC TRUNG QUỐC TRONG THỜI ĐẠI MỚI

Nguyễn Hồng Sơn, Phùng Nam


Trường Đại học Nguyễn Huệ
Tác giả liên hệ: Nguyễn Hồng Sơn, email: nguyenson250307@gmail.com

Tóm tắt: Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã, đang
và sẽ tiếp tục là vấn đề thu hút sự quan tâm của các chính đảng, các nhà khoa học
trong và ngoài nước, là vấn đề có ý nghĩa quan trọng mang tính thời đại. Tham luận
khoa học này trên cơ sở tiếp cận khái quát thực tiễn để nhận thức rõ quá trình hình
thành lý luận, nội dung cơ bản và bổ sung mới về lý luận của mô hình chủ nghĩa xã
hội đặc sắc Trung Quốc, từ đó rút ra một số vấn đề vận dụng vào việc bảo vệ, phát
triển chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa xã hội đặc sắc; đi lên chủ nghĩa xã hội; Trung
quốc; Việt Nam.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp
đổ, các nhà lý luận tư sản, các thế lực thù địch, phản động vui mừng ca ngợi chủ
nghĩa tư bản, đồng thời tăng cường xuyên tạc, chống phá cho rằng sự lựa chọn con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội là nguyên nhân sai lầm dẫn đến sụp đổ. Không
ít người nảy sinh hoài nghi tính khoa học, cách mạng của chủ nghĩa xã hội. Vậy phải
chăng chúng ta đã lựa chọn sai con đường?
Theo Báo cáo Chính trị tại Đại hội XIX của Đảng Cộng sản Trung Quốc chủ
nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới là sự kế thừa và phát huy hơn
nữa Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình,
Thuyết “Ba đại diện” và quan điểm phát triển khoa học. Sau 100 năm thành lập
Đảng Cộng sản (01/7/1921 - 01/7/2021), Trung Quốc đã thực sự khẳng định hoàn
thành mục tiêu “100 năm đầu tiên” là xây dựng xã hội toàn diện khá giả và đang
tiến những bước hướng tới mục tiêu “100 năm thứ hai” là xây dựng Trung Quốc
trở thành một nước xã hội chủ nghĩa hiện đại về mọi mặt.

441
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Thành công của Trung Quốc, cùng sự kiên định của các nước xã hội chủ nghĩa
còn lại sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ
là những hiện thực khách quan để Việt Nam tìm hiểu, vận dụng sáng tạo vào quá
trình nhận thức và khẳng định tính đúng đắn khi tiến lên chủ nghĩa xã hội, theo
đúng tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung phát triển năm 2011) “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân
dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí
Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011).
2. NỘI DUNG
2.1. Quá trình hình thành lý luận và nội dung cơ bản của chủ nghĩa xã hội đặc sắc
Trung Quốc trong thời đại mới
2.1.1. Quá trình hình thành lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc
Sự phát triển lý luận Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc là cả quá trình trước
sau như một của Đảng Cộng sản Trung Quốc kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin. Đại hội
XVIII Đảng Cộng sản Trung Quốc xác định: “Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ quy luật
phát triển của lịch sử loài người, nguyên lý cơ bản của nó là đúng đắn có sức sống
mạnh mẽ... Kiên trì nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, đi con đường mà toàn
thể nhân dân Trung Quốc đã tự nguyện lựa chọn, phù hợp với tình hình Trung Quốc,
sự nghiệp xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc nhất định sẽ giành được thắng lợi cuối
cùng” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2019, 36). Đại hội XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc
tiếp tục khẳng định: “kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên trì chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử” (Đảng Cộng sản Trung Quốc, 2013, 107).
Kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tổng Bí thư
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước, Chủ
tịch Quân ủy Trung ương Tập Cận Bình tiếp tục khẳng định kiên định và phát
triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện cụ thể của một nước Trung Quốc hiện đại
trong thế kỷ 21.
Ngược dòng lịch sử, sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, Trung
Quốc bước vào thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực hiện nhiệm vụ xây dựng
chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.

442
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Đại hội lần thứ XII Đảng Cộng sản Trung Quốc vào tháng 9 năm 1982, trên
cơ sở tổng kết thực tiễn từ sau đại hội đảng lần thứ XI, Đại hội đã chỉ ra những
khuyết tật của mô hình chủ nghĩa xã hội Xô viết và đưa ra khái niệm mô hình “chủ
nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc” là sự “Kết hợp chân lý phổ biến của chủ
nghĩa Mác với thực tế cụ thể của Trung Quốc” (Văn tuyển Đặng Tiểu Bình, 1993). Đại
hội xác định giải phóng tư tưởng là khâu đột phá quan trọng nhất và là động lực
sáng tạo cho cải cách, mở cửa phát triển đất nước.
Đại hội lần thứ XIII vào tháng 10 năm 1987, đường lối cải cách, mở cửa xây
dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc được nâng lên thành đường lối
chung của Đảng và Nhà nước Trung Quốc với những nội dung chủ yếu sau: Một là,
trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, sẽ xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu
sắc Trung Quốc và sau gọi là Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc; hai là, lấy xây
dựng kinh tế làm trung tâm; ba là, kiên trì “bốn nguyên tắc cơ bản” là con đường xã
hội chủ nghĩa, chuyên chính dân chủ nhân dân, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Trung Quốc, chủ nghĩa Mác - tư tưởng Mao Trạch Đông; bốn là, thực hiện cải cách
và mở cửa, phấn đấu xây dựng Trung Quốc thành một nước xã hội chủ nghĩa hiện
đại hóa, giàu mạnh, dân chủ, văn minh.
Hội nghị Trung Ba khóa XIV (năm 1993) của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã
thông qua “quyết định về một số vấn đề xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa”, trong đó chỉ rõ: “Lấy xây dựng chế độ công hữu làm chủ thể, nhiều thành
phần kinh tế khác nhau cùng phát triển… xây dựng chế độ phân phối thu nhập theo
lao động là chính, ưu tiên hiệu quả, quan tâm tới công bằng, khuyến khích một số
vùng, một số người giàu lên trước, đi con đường cùng giàu có” (Nguyễn, 2018).
Đại hội XV (năm 1997), Đảng Cộng sản Trung Quốc xác định mục tiêu xây dựng
Nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa. Đại hội XVI (năm 2002), lý luận về chủ nghĩa xã
hội đặc sắc Trung Quốc được bổ sung quan điểm “ba đại diện” để xây dựng đảng là:
Đảng đại diện cho phát triển sức sản xuất tiên tiến; Đảng đại diện cho phương hướng
tiến lên của nền văn hóa tiên tiến Trung Quốc; Đảng đại diện cho lợi ích của đông
đảo nhân dân Trung Quốc.
Đại hội XVII (năm 2007), bổ sung quan điểm “phát triển một cách khoa học”
và xây dựng “xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa”. Đến đây, lý luận về chủ nghĩa xã
hội đặc sắc Trung Quốc được thể hiện trên năm nội dung là: một là, kinh tế thị trường
443
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc; hai là, dân chủ xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung
Quốc; ba là, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc; bốn là, văn
hóa xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc; năm là, xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa
đặc sắc Trung Quốc.
Đại hội XVIII (năm 2012), đánh dấu sự hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã
hội đặc sắc Trung Quốc với một ngọn cờ là “phấn đấu đoàn kết nhân dân các dân
tộc trong cả nước”; một lý luận là “hệ thống lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc” và một con đường là “con đường xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc”. Đại
hội đưa ra bố cục chiến lược là 4 toàn diện và 5 quan điểm phát triển sáng tạo, hài
hòa, môi trường thân thiện, mở cửa, cùng hưởng.
Đại hội lần thứ XIX của Đảng Cộng sản Trung Quốc (tháng 10 năm 2017) đã
chính thức xác lập và đưa vào Điều lệ Đảng “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã
hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”, khẳng định vị thế hạt nhân lãnh đạo của
Tập Cận Bình và coi đây là phương hướng và vị trí lịch sử mới cho sự phát triển của
Trung Quốc trong giai đoạn phát triển mới.
2.1.2. Những nội dung cơ bản và bổ sung mới về lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc
Trung Quốc trong thời đại mới
Chủ đề Đại hội XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc xác định: “Không quên tâm
nguyện ban đầu, ghi nhớ sứ mệnh, giương cao ngọn cờ vĩ đại chủ nghĩa xã hội đặc
sắc Trung Quốc thời đại mới, phấn đấu không ngừng thực hiện giấc mơ Trung Quốc
phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa” 1. Những nội dung cơ bản của chủ nghĩa xã
hội đặc sắc Trung quốc trong thời đại mới thể hiện qua “Tám điều cần làm rõ” và
“Mười bốn điều kiên trì” được nêu lên trong văn kiện Đại hội XIX (Đỗ, 2018).
Tám điều cần làm rõ:
Một là, làm rõ kiên trì và phát triển chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc,
nhiệm vụ chung là thực hiện hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa và phục hưng vĩ đại dân
tộc Trung Hoa.

1 Nguyên tác tiếng Trung: 大会的主题是:不忘初心,牢记使命,高举中国特色社会主义伟大旗帜,


决胜全面建成小康社会,夺取新时代中国特色社会主义伟大胜利,为实现中华民族伟大复兴的中国
梦不懈奋斗。Truy xuất từ (问:党的十九大的主题是什么 [Chủ đề của đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
19 của Đảng Cộng sản Trung Quốc là gì], 2017).
444
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Hai là, làm rõ mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Trung Quốc là mâu thuẫn giữa nhu
cầu cuộc sống tốt đẹp ngày càng tăng của nhân dân với sự phát triển không cân bằng,
không đầy đủ.
Ba là, làm rõ bố cục tổng thể của sự nghiệp xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc
là “Ngũ vị nhất thể” (Năm trong một, bao gồm xây dựng kinh tế, chính trị, xã hội,
văn hóa và văn minh sinh thái); bố cục chiến lược là “Bốn toàn diện” (bao gồm đi sâu
cải cách toàn diện, xây dựng xã hội khá giả toàn diện, quản lý đất nước bằng pháp
luật toàn diện, nghiêm trị Đảng toàn diện).
Bốn là, làm rõ mục tiêu chung của đi sâu toàn diện cải cách là hoàn thiện và
phát triển chế độ xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc, thúc đẩy hiện đại hóa hệ
thống quản trị và năng lực quản trị quốc gia.
Năm là, làm rõ mục tiêu chung của thúc đẩy toàn diện quản lý đất nước bằng
pháp luật là xây dựng hệ thống pháp trị xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc, xây
dựng nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc.
Sáu là, làm rõ mục tiêu cường quân của Đảng trong thời đại mới là xây dựng
một quân đội nhân dân nghe Đảng chỉ huy, có thể đánh thắng trận, tác phong tốt
đẹp; xây dựng quân đội nhân dân thành một đội quân hàng đầu thế giới.
Bảy là, làm rõ ngoại giao nước lớn đặc sắc Trung Quốc phải thúc đẩy xây dựng
quan hệ quốc tế kiểu mới; thúc đẩy xây dựng cộng đồng chung vận mệnh nhân loại.
Tám là, làm rõ đặc trưng bản chất nhất của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc; ưu thế lớn nhất của chế độ xã
hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Mười bốn điều kiên trì:
Một là, kiên trì sự lãnh đạo của Đảng đối với mọi công tác, theo đó Đảng, chính
quyền, quân đội, dân sự, sinh viên; Đông - Tây - Nam - Bắc - Giữa, Đảng lãnh đạo
tất cả. Điểm mới ở đây chính là yêu cầu toàn Đảng phải tăng cường “ý thức hạt
nhân”, nghĩa là “ý thức” đối với Tổng Bí thư Tập Cận Bình.
Hai là, kiên trì “lấy nhân dân làm trung tâm”, theo đó văn kiện Đại hội XIX
tiếp tục khẳng định cần phải kiên trì địa vị chủ thể của nhân dân. Văn kiện Đại hội
XIX khẳng định Đảng “coi mong muốn có cuộc sống tốt đẹp hơn của nhân dân làm

445
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

mục tiêu phấn đấu” của mình. Đây là sự đột phá trong tư duy phát triển và là hạt
nhân của Tư tưởng Tập Cận Bình.
Ba là, kiên trì đi sâu cải cách toàn diện, theo đó tiếp tục nhắc lại một số quan
điểm: Cần phải kiên trì và hoàn thiện chế độ xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc,
không ngừng thúc đẩy hiện đại hóa hệ thống quản trị và năng lực quản trị toàn
cầu… Điểm mới ở quan điểm: “Kiên quyết loại bỏ những quan niệm tư tưởng và
khuyết tật của cơ chế, thể chế không còn phù hợp, đột phá vào dinh lũy lợi ích đã
cố kết”.
Bốn là, kiên trì quan niệm phát triển mới “sáng tạo, hài hòa, xanh hóa, mở cửa,
cùng hưởng”. Điểm mới và điểm nhấn ở đây là đặt vấn đề “thúc đẩy phát triển
đồng bộ công nghiệp hóa kiểu mới, thông tin hóa, đô thị hóa và nông nghiệp hiện
đại hóa... phát triển kinh tế loại hình mở cửa ở tầng bậc cao hơn”.
Năm là, kiên trì quyền làm chủ của nhân dân. Đây không phải là nội dung mới,
nhưng được coi là một bộ phận hợp thành quan trọng của Tư tưởng Tập Cận Bình
“lấy nhân dân làm trung tâm”.
Sáu là, kiên trì toàn diện quản lý đất nước theo pháp luật. Trong báo cáo chính
trị Đại hội XIX, Tập Cận Bình một mặt tiếp tục khẳng định “kiên trì đi theo con
đường pháp trị xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc”, mặt khác đặt vấn đề “hoàn
thiện hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc lấy Hiến pháp làm
hạt nhân… kiên trì cùng thúc đẩy quản lý đất nước theo pháp luật, chấp pháp theo
pháp luật và hành chính theo pháp luật; kiên trì xây dựng nhất thể hóa giữa nhà
nước pháp trị, chính phủ pháp trị và xã hội pháp trị”.
Bảy là, kiên trì hệ thống giá trị hạt nhân xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề được
các nhà lãnh đạo Trung Quốc qua các thời kỳ khác nhau quan tâm xây dựng. Văn
kiện Đại hội XVIII Đảng Cộng sản Trung Quốc đặt vấn đề xây dựng hệ thống giá
trị hạt nhân xã hội chủ nghĩa gồm 24 chữ “giàu mạnh, dân chủ, văn minh, hài hòa,
tự do, bình đẳng, công bằng, pháp trị, yêu nước, kính nghiệp, thành tín, thân thiện”;
theo đó được chia thành 3 tầng diện là quốc gia - xã hội - cá nhân. Đến Đại hội XIX,
vấn đề xây dựng hệ thống giá trị hạt nhân xã hội chủ nghĩa được gắn kết với việc
xây dựng lòng tự tin văn hóa, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa và lý tưởng chung về

446
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, gắn với quyền chủ đạo và quyền phát ngôn
trong lĩnh vực ý thức hệ.
Tám là, kiên trì bảo đảm và cải thiện dân sinh trong phát triển. Đây cũng là vấn
đề được nhiều nhà lãnh đạo Trung Quốc nêu lên, nhất là từ đầu thế kỷ mới đến nay.
Tuy nhiên trong văn kiện Đại hội XIX, nhấn mạnh hơn khi cho rằng: Thúc đẩy sự
giàu có và hạnh phúc của nhân dân là mục đích căn bản của phát triển… bảo đảm
để toàn thể nhân dân cảm thấy mình đã nhận được ngày càng nhiều hơn trong quá
trình cùng xây dựng, cùng hưởng thụ phát triển.
Chín là, kiên trì sự cộng sinh hài hòa giữa con người và tự nhiên. Đây là vấn
đề cũng đã từng được nêu lên từ trước. Tuy nhiên, đến Đại hội XIX thêm một bước
khẳng định: Xây dựng văn minh sinh thái là kế lớn nghìn năm của sự phát triển
vĩnh hằng của dân tộc Trung Hoa. Đặc biệt, trong mục tiêu phấn đấu của Đảng
Cộng sản Trung Quốc đến giữa thế kỷ đã bổ sung thêm hai chữ “tươi đẹp”, viết
thành: “Xây dựng thành công cường quốc hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa giàu mạnh,
dân chủ, văn minh, hài hòa, tươi đẹp”.
Mười là, kiên trì quan niệm an ninh quốc gia tổng thể. Văn kiện Đại hội XIX
nhấn mạnh quan điểm cho rằng: Phải kiên trì đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, lấy
an ninh nhân dân làm tôn chỉ, lấy an ninh chính trị làm căn bản, sắp xếp đồng bộ
an ninh bên ngoài và an ninh bên trong, an ninh quốc thổ và an ninh quốc dân, an
ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống, an ninh cá nhân và an ninh chung.
Mười một là, kiên trì sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với quân đội. Đây là
chủ đề xuyên suốt trong quan điểm của các thế hệ lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Trung Quốc từ trước đến nay, nhưng đến Đại hội XIX đặc biệt nhấn mạnh: Xác lập
địa vị chỉ đạo của tư tưởng cường quân của Đảng trong thời đại mới.
Mười hai là, kiên trì phương châm “Một quốc gia, hai chế độ” và thúc đẩy
thống nhất Tổ quốc. Văn kiện Đại hội XIX một lần nữa nhấn mạnh phương châm
“Một quốc gia, hai chế độ” không thay đổi, không dao động.
Mười ba là, kiên trì thúc đẩy xây dựng Cộng đồng chung vận mệnh nhân loại.
Báo cáo chính trị tại Đại hội XIX: Nhân dân các nước đồng tâm hiệp lực, xây dựng
Cộng đồng chung vận mệnh nhân loại… Thúc đẩy xây dựng Quan hệ quốc tế kiểu
mới “tôn trọng lẫn nhau, công bằng chính nghĩa, hợp tác cùng thắng”.

447
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Mười bốn là, kiên trì nghiêm trị Đảng toàn diện. Đây là một trong 4 nội dung
của “Bốn toàn diện” trong báo cáo chính trị tại Đại hội XIX.
Mười bốn điều kiên trì nêu trên đã cấu thành “phương lược cơ bản” của Đảng
Cộng sản Trung Quốc trong việc kiên trì và phát triển chủ nghĩa xã hội đặc sắc
Trung Quốc trong thời đại mới.
2.1.3. Những thách thức của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới
Hiện nay, Trung Quốc đang đứng trước nhiều mâu thuẫn xã hội trong thời
đại mới là mâu thuẫn giữa nhu cầu ngày càng cao của nhân dân về cuộc sống tươi
đẹp với sự phát triển không cân bằng, không đầy đủ. Đặc trưng cơ bản của Trung
Quốc hiện nay là vẫn đang trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội và vẫn là nước
đang phát triển lớn nhất thế giới. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc hiện nay đang đứng trước những
khó khăn, thách thức to lớn, tập trung chủ yếu được biểu hiện ở các vấn đề sau:
Động lực phát triển mới về kinh tế: hiện tại những khó khăn cản trở sự phát triển
mới về kinh tế là: Năng lực sáng tạo khoa học kỹ thuật chưa đủ mạnh, cơ cấu ngành
nghề bất hợp lý, phương thức phát triển vẫn chủ yếu theo kiểu thô, cơ sở nông
nghiệp yếu, sự trói buộc bởi tài nguyên thiên nhiên ngày càng nghiêm trọng, bộ
phận các ngành sản xuất cung vượt quá cầu, doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả,
thể chế cơ chế kìm hãm khoa học phát triển còn nhiều, nhiệm vụ đi sâu cải cách mở
cửa và chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế còn khó khăn.
Thực hiện cân bằng giữa phát triển và hưởng thụ công bằng xã hội: Khó khăn này
biểu hiện “ba chênh lệch lớn mới” nảy sinh trong quá trình cải cách là sự phát triển
không cân bằng, không bền vững; khoảng cách phát triển giữa các khu vực, giữa
thành thị và nông thôn, khoảng cách phân phối thu nhập của người dân vẫn còn
lớn; các vấn đề dân sinh liên quan đến lợi ích thiết thân của người dân như giáo
dục, việc làm, bảo đảm xã hội, y tế, nhà ở còn nhiều bất cập.
Mô hình phát triển truyền thống đầu tư lớn, ô nhiễm nhiều: Cơ cấu kinh tế không
hợp lý, một số ngành năng lực sản xuất dư thừa, khả năng khai thác tài nguyên
đã gần đến giới hạn. Diện tích canh tác giảm mạnh, chất lượng đất canh tác thoái
hóa, do đô thị mở rộng, đất được đưa vào sử dụng trong công nghiệp và các loại
“trào lưu khu kinh tế mở”, “trào lưu khu thực nghiệm”, “trào lưu xây dựng bất

448
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

động sản”, “trào lưu làm sân gôn”, diện tích đất canh tác còn giảm đi với tốc độ
hàng chục triệu mẫu mỗi năm. Ngoài ra, để thực hiện mục tiêu toàn dân đều giàu
có vào năm 2050, GDP bình quân đầu người của Trung Quốc cần phải tăng gấp 3
- 4 lần so với hiện nay (Lê & Nguyễn, 2021), đây là nhiệm vụ hết sức khó khăn
do kinh tế Trung Quốc đã qua thời kỳ phát triển nóng và đang trong giai đoạn
giảm tốc.
Tối ưu hóa vấn đề tự quản lý của Đảng, Nhà nước và xã hội: Khó khăn này chủ yếu
biểu hiện là trình độ văn minh xã hội và tố chất văn minh con người vẫn chưa được
nâng cao, một số lĩnh vực tồn tại hiện tượng mất đạo đức, thiếu thành tín; mâu
thuẫn xã hội nhiều hơn; chưa tăng cường xây dựng pháp trị, xây dựng pháp trị chưa
thích ứng, chưa phù hợp với nhu cầu phát triển và mục tiêu đẩy nhanh hiện đại hóa
năng lực xử lý và hệ thống xử lý quốc gia. Việc thắt chặt hơn chính trị nội bộ và
quyết liệt chống tham nhũng cũng làm gia tăng căng thẳng nội bộ, kìm hãm sáng
tạo, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế. Ngoài ra, Trung Quốc có thể sẽ phải
đối mặt với những mâu thuẫn mới nảy sinh về chính trị xã hội như vấn đề ly khai
sắc tộc ở Tân Cương, Tây Tạng, phong trào dân chủ ở Hồng Kông, xu hướng độc
lập của Đài Loan.
Những thách thức có tính toàn cầu: Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung
Quốc phải đối mặt với những thách thức, khủng hoảng tài chính quốc tế bùng phát,
lây lan khiến kinh tế thế giới bất ổn và gây ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế phát
triển tốc độ cao, đến cơ cấu và mô hình kinh tế... Bên cạnh đó, môi trường an ninh
đối ngoại của Trung Quốc ngày càng phức tạp, Mỹ và đồng minh ngày càng gia
tăng sức ép và kiềm chế Trung Quốc, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung chưa có
hồi kết; các điểm nóng về an ninh khu vực như tình hình bán đảo Triều Tiên, biên
giới Trung - Ấn, vấn đề Biển Đông, Hoa Đông diễn biến phức tạp, khó lường, tiềm
ẩn nguy cơ xung đột.
2.2. Một số vấn đề rút ra từ mô hình chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong
thời đại mới đối với Việt Nam hiện nay
Từ mô hình chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới có thể rút
ra một số vấn đề về nhận thức và thực tiễn đối với con đường xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam hiện nay.

449
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

2.2.1. Về nhận thức, tư tưởng, lý luận


Việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn mô hình chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc trong thời đại mới, một mặt cho chúng ta thấy rõ hơn tính phổ biến, tính đặc
thù và sự đa dạng, phong phú của mô hình và con đường thực hiện mục tiêu xã hội
chủ nghĩa trên thế giới hiện nay. Thực chất mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính
đặc thù trong đổi mới chủ nghĩa xã hội hiện nay là phản ánh khách quan mối liên
hệ giữa đặc trưng chung của chủ nghĩa xã hội với những mô hình xã hội xã hội chủ
nghĩa cụ thể vốn rất đa dạng phong phú đòi hỏi các chủ thể cần nhận thức, tổ chức
hiện thực hóa tránh phiến diện và dập khuôn máy móc.
Tính phổ biến của chủ nghĩa xã hội được quy định bởi các giá trị của nó cũng
như các nhân tố quy định và cấu thành nó, là những giá trị phổ biến toàn nhân loại.
không ra đời tự phát, hư vô. Chủ nghĩa xã hội hiện thực được sản sinh ra dựa trên
những tiền đề khách quan về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, vật chất kỹ thuật và
giá trị tinh thần xã hội mà nhân loại, trực tiếp là dưới chủ nghĩa tư bản đã tạo ra.
Đó là nền đại công nghiệp, là giai cấp vô sản hiện đại, các cuộc cách mạng công
nghiệp, cách mạng khoa học - kỹ thuật và ngày nay là cách mạng khoa học- công
nghệ hiện đại và các thành tựu văn minh khác, cùng với các giá trị văn hoá tinh thần
và nhất là tư tưởng xã hội chủ nghĩa mà đỉnh cao là chủ nghĩa xã hội khoa học…
Chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng là học thuyết
khoa học, cách mạng đã luận chứng sâu sắc và đúng đắn, các quy luật, tính quy luật
khách quan, tất yếu, phổ biến của quá trình chuyển biến cách mạng từ hình thái
kinh tế- xã hội tư bản lên hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Những nguyên lý, quy luật, tính quy luật đó mang tính phổ biến đối với tất
cả các quốc gia - dân tộc trên thế giới mà không loại trừ tính đặc thù của bất cứ
quốc gia, dân tộc nào. Bởi vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học
là học thuyết khoa học, cách mạng, là lý luận của phong trào vô sản thế giới, cơ sở
lý luận để các đảng cộng sản và công nhân vận dụng, đề ra đường lối, chiến lược,
sách lược cách mạng của mình. Tính phổ biến của chủ nghĩa xã hội hiện thực biểu
hiện tập trung ở bản chất, đặc trưng và mục tiêu của nó. Chủ nghĩa xã hội hiện
thực, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất là một chế độ xã hội
xoá bỏ áp bức, bóc lột, bất công, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tạo ra các
điều kiện, tiền đề để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng con

450
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

người. Một xã hội đã được C. Mác và Ph. Ănghen phát triển thành luận điểm có
giá trị vĩnh hằng “tự do của mỗi người là điều kiện cho sự tự do và phát triển của
tất cả mọi người” trong tác phẩm Tuyên ngôn Đảng Cộng sản. Chủ nghĩa xã hội
là chế độ xã hội khác về bản chất của mọi chế độ xã hội dựa trên chế độ tư hữu về
tư liệu sản xuất chủ yếu đã có trong lịch sử, thể hiện ở những đặc trưng có tính
phổ quát mà các nước đi lên chủ nghĩa xã hội đang tìm cách xây dựng. Đó là xã
hội xây dựng trên cơ sở nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất
tiên tiến, hiện đại, chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và thực hiện phân phối theo
lao động là chủ yếu. Về chính trị đó là chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa đem lại
quyền dân chủ thực sự cho đại đa số nhân dân, Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Về văn hóa là nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa vừa tiên tiến, hiện đại, khoa học vừa mang đậm tính dân tộc. Về xã hội,
con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện
cá nhân, các dân tộc bình đẳng đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau cùng phát
triển, có quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước trên thế giới.
Nghiên cứu mô hình chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới
cho phép chúng ta khẳng định lại một lần nữa rằng, sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội hiện
thực ở Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của một mô hình đã lỗi thời không tiến kịp
cùng thời đại, chứ không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa
xã hội khoa học như các thế lực chống cộng và cơ hội rêu rao. Cũng chính trong quá
trình đổi mới, cải cách chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Trung Quốc, bên cạnh việc
tiếp tục kiên định đi lên chủ nghĩa xã hội, khẳng định tính đúng đắn của các nguyên
lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin, các giá trị của chủ nghĩa xã hội, tích cực tìm
tòi, bổ sung, phát triển lý luận và hoạt động thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội
phù hợp với điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mình.
Do vậy, khi nghiên cứu, xem xét, đánh giá mô hình chủ nghĩa xã hội ở các
nước trên thế giới cần đứng trên quan điểm duy vật lịch sử để tránh thái độ tả
khuynh khi thấy các đảng cánh tả phủ nhận những nguyên lý cơ bản nhất của chủ
nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội. Đồng thời nâng cao tính tích cực chính trị
đấu tranh phê phán, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong nhận thức và
hành động chống lại con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; kiên quyết
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới; đấu tranh chống khuynh

451
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

hướng tuyệt đối hóa chủ nghĩa Mác - Lênin, đòi áp dụng "nguyên xi" những
nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa xã hội khoa học, khuynh hướng nhân danh
“sáng tạo”, “đổi mới, cải cách”, “tư tưởng đột phá” nhằm phủ nhận chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, đối với mô hình chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại
mới, thông qua nghiên cứu lý luận, một mặt, góp phần bổ sung, hoàn thiện hơn lý
luận về mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nhất là vấn đề
vận dụng những quy luật phổ biến của chủ nghĩa xã hội khoa học, tư tưởng Hồ Chí
Minh vào thực tiễn Việt Nam. Mặt khác, ta có tiếp cận được những kinh nghiệm từ
mô hình chủ nghĩa xã hội đó để tham chiếu, phát triển nhận thức lý luận về chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam; nhận thức rõ hơn những thách thức của quá trình nhận
thức lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đặc biệt là những thách
thức bên trong như biểu hiện giáo điều, rập khuôn máy móc, nhân danh “dân chủ,
đổi mới” để tìm cơ hội làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
2.2.2. Về ý nghĩa thực tiễn
Mô hình chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới khi soi chiếu
vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay cần chú trọng các kinh
nghiệm như: Kinh nghiệm về đảng cầm quyền trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu;
kinh nghiệm trong giải quyết mối quan hệ giữa đảng cầm quyền với Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa; vai trò “kiến tạo” của nhà nước trong nền kinh tế thị trường,
trong bảo đảm và giải quyết những vấn đề xã hội; sự can thiệp của nhà nước vào nền
kinh tế thị trường cũng như mối quan hệ giữa nhà nước pháp với các nhóm kinh tế -
xã hội chủ chốt trong xã hội vì sự thịnh vượng chung, đặc biệt là vào những thời điểm
khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội... để giúp chính phủ tìm kiếm những giải pháp
nhanh chóng, hiệu quả thoát ra khỏi tình hình khủng hoảng đó.
Nghiên cứu mô hình chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới
cho thấy Việt Nam là nước láng giềng có nhiểu điểm tương đồng với Trung Quốc,
Việt Nam một mặt tôn trọng mọi sự tìm tòi lý luận và lựa chọn con đường phát triển
phù hợp với tình hình đất nước của Đảng Cộng sản Trung Quốc; mặt khác, có thể
nghiên cứu tham khảo để hiện thực hóa mục tiêu 100 năm thành lập Đảng đưa Việt
452
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Nam trở thành quốc gia đang phát triển, có thu nhập trung bình cao vào năm 2030;
100 năm thành lập nước trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045.
Việc tham khảo kinh nghiệm thực tiễn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc
sắc Trung Quốc trong thời đại mới là việc làm cần thiết; có ý nghĩa khoa học và thực
tiễn vô cùng sâu sắc không chỉ đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, mà còn đối với
phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế.
3. KẾT LUẬN
Từ sau sự đổ vỡ của mô hình chủ nghĩa xã hội Xô viết ở Liên Xô và Đông Âu,
chủ nghĩa xã hội hiện thực từ một hệ thống thế giới chỉ còn lại một số nước là
Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Triều Tiên, Cuba. Các nước này vẫn kiên trì con
đường phát triển lên chủ nghĩa xã hội, nỗ lực cải cách, đổi mới nhằm tìm kiếm
những mô hình chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện của nước mình và xu thế
phát triển của thế giới. Bên cạnh đó, trên thế giới cũng xuất hiện một số trào lưu
xã hội chủ nghĩa do các đảng cánh tả cầm quyền tuyên bố đi lên chủ nghĩa xã hội
với mô hình khác nhau.
Nghiên cứu mô hình chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới
cung cấp nhiều bài học kinh nghiệm quý báu mà Việt Nam có thể vận dụng vào
thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay. Việc nhận thức và giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa tính phổ biến và đặc thù của chủ nghĩa xã hội liên quan trực
tiếp đến vận mệnh, tương lai của chủ nghĩa xã hội trong đổi mới, cải cách.
Đảng Cộng sản Việt Nam thường xuyên phải tổng kết thực tiễn để rút ra bài
học kịp thời, bao gồm cả những thành tựu và hạn chế nhằm tìm ra những giải
pháp hữu hiệu chỉ đạo công cuộc đổi mới. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
là một quá trình cách mạng khó khăn, phức tạp, lâu dài, phụ thuộc vào nhiều yếu
tố bao gồm cả khách quan và chủ quan, lúc thuận lợi và lúc khó khăn. Thực tiễn
luôn diễn ra sinh động muôn màu muôn vẻ, vì thế, Đảng ta phải tiến hành đánh
giá khách quan cả những thành tựu đạt được và những mặt còn hạn chế ở từng
giai đoạn cách mạng, tìm ra những nguyên nhân và phương hướng kịp thời khắc
phục những yếu kém thì mới khỏi rơi vào chủ nghĩa xã hội không tưởng và nhất
định giành thắng lợi.

453
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Đảng Cộng sản Trung Quốc. (2013). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XVIII Đảng Cộng sản Trung Quốc. Chính trị quốc gia.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Chính trị quốc gia.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2019). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIX.
Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[4]. Đỗ, T. S. (2018). Những sáng tạo mới về lý luận Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc trong Đại hội XIX (21/05/2019). Viện Nghiên Cứu Trung Quốc.
http://www.vnics.org.vn/Default.aspx?ctl=Article&aID=660
[5]. Lê, T. C., & Nguyễn, T. P. (2021). Thành tựu kinh tế, xã hội Trung Quốc sau một
thập niên cầm quyền của Chủ tịch Tập Cận Bình. http://hvctcand.edu.vn/nghien-
cuu-quoc-te/thanh-tuu-kinh-te-xa-hoi-trung-quoc-sau-mot-thap-nien-cam-
quyen-cua-chu-tich-tap-can-binh-ky-2-3691
[6]. Nguyễn, X. C. (2018). Trung Quốc: Nhìn lại quá trình 40 năm cải cách, mở cửa. Tạp
Chí Điện Tử Tổ Chức Nhà Nước. https://tcnn.vn/news/detail/41652/Trung-
Quoc-Nhin-lai-qua-trinh40-nam-cai-cach-mo-cua.html
[7]. Văn tuyển Đặng Tiểu Bình (Vol. 3). (1993). Chính trị Quốc gia.
[8]. 问:党的十九大的主题是什么?[Chủ đề của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 19
của Đảng Cộng sản Trung Quốc là gì]. (2017). 党建-人民网.
http://dangjian.people.com.cn/n1/2017/1117/c415189-29652718.html

454
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

MỘT VÀI MÔ HÌNH, TRÀO LƯU XÃ HỘI CHỦ NGHĨA


TRÊN THẾ GIỚI VÀ MỘT SỐ GỢI Ý CHO VIỆT NAM HIỆN NAY

Trần Thị Tâm


Trường Đại học Công nghệ Giao thông vận tải
Tác giả liên hệ: Trần Thị Tâm, email: tamtt@utt.edu.vn

Tóm tắt: Sau khi mô hình xã hội chủ nghĩa Xô Viết ở các nước Đông Âu và Liên Xô
tan rã, các nước xã hội chủ nghĩa còn lại vẫn kiên định mục tiêu xây dựng chủ nghĩa
xã hội trên cơ sở nắm vững và vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trung
Quốc, Việt Nam, Cuba đã và đang không ngừng đổi mới để tìm kiếm những mô hình
phát triển sáng tạo và phù hợp với điều kiện của nước mình để xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó, thế giới còn xuất hiện một số trào lưu xã hội chủ nghĩa
như trào lưu xã hội dân chủ ở Bắc Âu… Bởi vậy, nghiên cứu một số mô hình và trào
lưu xã hội chủ nghĩa trên thế giới là vấn đề đặc biệt quan trọng, từ đó chúng ta rút ra
bài học kinh nghiệm cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: chủ nghĩa xã hội; xã hội dân chủ; Trung Quốc; Cuba; Bắc Âu.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu đã
và đang đặt ra nhiều câu hỏi liên quan đến việc đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Các thế lực chống cộng đã lợi dụng cơ hội này để chống phá sự nghiệp cách mạng.
Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng
đắn, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Điều đó buộc chúng ta phải nhìn vào kết
quả của con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và việc xây dựng chủ
nghĩa xã hội hoặc trào lưu xã hội chủ nghĩa của một số nước trên thế giới hiện nay
như Trung Quốc, Cu Ba, một số nước Bắc Âu để thấy rằng họ đã và đang đạt được
nhiều thành công. Con đường họ chọn đó là vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của từng quốc gia. Cùng với sự tự chủ sáng suốt của
mình, việc nghiên cứu học tập việc xây dựng chủ nghĩa xã hội của các quốc gia trên
thế giới và rút ra một số gợi ý cho Việt Nam là việc làm hết sức quan trọng để nước
ta vững tin với con đường mà mình đã lựa chọn.

455
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU


2.1. Một số mô hình và trào lưu chủ nghĩa xã hội trên thế giới
Thứ nhất, mô hình “chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”.
Năm 1978, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tiến hành cải cách mở cửa theo
phương châm: “Giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị, đoàn kết nhất trí, hướng về
phía trước”, tiến hành “cải cách làm sinh động bên trong và mở cửa với bên ngoài
để hiện đại hóa”. Tại Đại hội XII (1982), lần đầu tiên Đảng Cộng sản Trung Quốc
(1982) đưa ra khái niệm “Chủ nghĩa xã hội có đặc sắc Trung Quốc”. Năm 1998, sau
20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đặng Tiểu Bình đã khẳng định: “Kết hợp chân
lý phổ biến của chủ nghĩa Mác với thực tế cụ thể của nước ta, đi con đường của
mình, xây dựng chủ nghĩa xã hội có đặc sắc Trung Quốc, đó là kết luận cơ bản mà
chúng ta rút ra được khi tổng kết kinh nghiệm lịch sử lâu dài” (Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, 2021, 131). Đến Đại hội XVI (2002), Đảng Cộng sản Trung
Quốc chính thức dùng khái niệm “chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”. Tại Đại
hội XIX (2017), Đảng Cộng sản Trung Quốc sử dụng khái niệm “chủ nghĩa xã hội
đặc sắc Trung Quốc thời đại mới”. Đó chính là sự kết hợp một cách biện chứng giữa
chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Trung Quốc.
Sau một thời gian cải cách mở cửa, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã chỉ ra “3
cái một”, bao gồm: Xác lập được một chế độ xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc
với 4 trụ cột (chế độ đại hội đại biểu nhân dân, chế độ hiệp thương chính trị và hợp
tác đa đảng, chế độ tự trị dân tộc, chế độ tự quản của quần chúng ở cơ sở); hình
thành nên lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, gồm: lý luận Đặng Tiểu
Bình, tư tưởng “Ba đại diện” của Giang Trạch Dân, quan điểm phát triển khoa học
hài hòa của Hồ Cẩm Đào và tư tưởng bốn toàn diện của Tập Cận Bình; mở ra con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, gồm 5 con đường nhỏ (công
nghiệp hóa kiểu mới, hiện đại hóa nông nghiệp, đô thị hóa nông thôn, phát triển
chính trị và tự chủ sáng tạo đặc sắc Trung Quốc).
Tại Đại hội XVIII, Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ rõ bố cục và mục tiêu phấn
đấu: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, căn cứ chung là giai đoạn
đầu của chủ nghĩa xã hội, mục tiêu chung là ngũ vị nhất thể, nhiệm vụ chung là
thực hiện hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa và phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa”.

456
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Trong đó “ngũ vị nhất thể” bao gồm: xây dựng kinh tế, xây dựng chính trị, xây
dựng văn hóa, xây dựng xã hội, xây dựng văn minh sinh thái (tôn trọng tự nhiên,
thuận theo tự nhiên, bảo vệ tự nhiên). Cụ thể:
Về kinh tế: “chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc” có đặc trưng là chế độ kinh
tế cơ bản lấy chế độ công hữu làm chủ thể, kinh tế nhiều thành phần sở hữu cùng
phát triển, mọi thành phần kinh tế không phân biệt, chủ nghĩa xã hội không phải
dàn hàng ngang cùng tiến mà cần phải cho phép một bộ phận giàu trước rồi mới
xây dựng xã hội cùng khá giả. Đảng Cộng sản Trung Quốc nhận định: “Kinh tế thị
trường không phải là của riêng chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội cũng có thị
trường. Kế hoạch và thị trường đều là biện pháp kinh tế” (Cục Lý luận - Ban Tuyên
truyền Đảng Cộng sản Trung Quốc, 2003, 58).
Về chính trị: kiên trì phát triển đường lối chính trị, kiên trì sự lãnh đạo của
Đảng, nhân dân làm chủ, hoạt động theo luật pháp, tiến hành cải cách hành chính,
xây dựng đất nước pháp trị xã hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản cầm quyền ở Trung
Quốc thực hiện chế độ hợp tác đa đảng, các đảng khác tuân thủ vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản.
Về văn hóa: tại Đại hội XIX, Đảng Cộng sản Trung Quốc khẳng định: “phát
triển văn hóa xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc chính là lấy chủ nghĩa Mác làm
chỉ đạo, giữ vững lập trường văn hóa Trung Hoa, xuất phát từ hiện thực Trung
Quốc đương đại, kết hợp với điều kiện trong thời đại ngày nay” (Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2021, 139).
Về xã hội: xã hội hài hòa là thuộc tính bản chất của chủ nghĩa xã hội đặc sắc
Trung Quốc. Xã hội hài hòa của Trung Quốc bao gồm 4 thuộc tính và 6 đặc trưng.
Bốn thuộc tính là: công bằng trong thu nhập các nguồn lực, hợp lý trong kết cấu xã
hội, quy phạm trong hành vi xã hội, hiệu quả trong hài hòa các lợi ích. Sáu đặc trưng
là: dân chủ pháp trị, công bằng chính nghĩa, trật tự ổn định, thành tín hữu ái, tràn
đầy sức sống, con người và tự nhiên có mối quan hệ hài hòa.
Về văn minh sinh thái: Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nêu quan điểm giải
quyết hài hòa giữa con người và tự nhiên, điều tiết mối quan hệ giữa phát triển kinh
tế với nhân lực, tài nguyên, môi trường.

457
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Trong năm 2021, mặc dù đối diện với nhiều khó khăn và thách thức đan xen
nhau nhưng nền kinh tế vẫn đạt được những thành tựu tốt, các chỉ tiêu chủ chốt
hoàn thành vượt kỳ vọng. Ngày 17/1/2022, Cục thống kê quốc gia đã công bố báo
cáo kinh tế Trung Quốc năm 2021: tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 2021 của
Trung Quốc đạt 114.367 tỷ nhân dân tệ (NDT), đột phá ngưỡng 110.000 tỷ NDT. Tốc
độ tăng trưởng GDP đạt 8,1%, hoàn thành mục tiêu dự kiến trên 6% của cả năm.
Đánh giá tình hình kinh tế chủ yếu cần xem xét bốn chỉ tiêu lớn. Một là, tốc độ
tăng trưởng kinh tế 8,1% là mức tăng trưởng vượt kỳ vọng, đứng đầu trong số các
nền kinh tế chủ chốt trên thế giới. Hai là, về việc làm, sức ép việc làm năm 2021
tương đối lớn nhưng cả năm ghi nhận tăng thêm 12,69 triệu việc làm mới ở khu vực
thành thị, vượt mục tiêu đặt ra là trên 11 triệu. Tỷ lệ thất nghiệp trung bình cả năm
ở khu vực thành thị là 5,1%, thấp hơn mục tiêu đạt ra là khoảng 5,5%. Ba là, giá cả
hàng hóa. Hiện nay lạm phát trên toàn thế giới đang diễn biến khá nghiêm trọng,
lạm phát của Mỹ tăng lên mức cao nhất trong 40 năm qua, nhưng vật giá của Trung
Quốc vẫn duy trì ở mức thấp, ổn định, năm 2021 tăng 0,9%, hoàn thành mục tiêu
kiểm soát ở mức 3%. Bốn là, cán cân thanh toán quốc tế. Năm 2021, kim ngạch xuất
nhập khẩu thương mại hàng hóa vượt 39.000 tỷ NDT, (tương đương 6.050 tỷ USD)
tốc độ tăng trưởng đạt 21,4%, cao nhất từ trước đến nay. Dự trữ ngoại hối 3.250,2 tỷ
USD, giữ vững vị trí số một thế giới.
Thứ hai, mô hình chủ nghĩa xã hội Cuba.
Ngày 1/1/1959, cách mạng Cuba thành công, nhân dân và các chiến sĩ cách
mạng yêu nước Cuba, dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Phi-đen Ca-xtơ-rô đã lật đổ chế
độ độc tài Ba-ti-xta, thiết lập nhà nước công nông đầu tiên ở Tây bán cầu. Trước năm
1991, Cuba xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình Liên Xô. Sự kiện Đông Âu - Liên
Xô buộc Cuba phải thay đổi đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện cải cách
bằng những bước đi thận trọng, có kết quả. Quan niệm về mô hình xã hội xã hội chủ
nghĩa xuất phát từ đặc điểm, nhu cầu của đất nước Cuba và tham khảo thêm những
bài học kinh nghiệm của một số nước khác. Mô hình kinh tế - xã hội của sự phát triển
xã hội chủ nghĩa được Văn kiện Đại hội VII (2016) thông qua. Cụ thể:
Về mục tiêu: Đảng Cộng sản Cuba khẳng định mục tiêu xây dựng đất nước là
có chủ quyền, độc lập, chủ nghĩa xã hội, dân chủ, phồn vinh và bền vững.

458
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Về chính trị: Đảng Cộng sản Cuba là tổ chức chính trị duy nhất và tiên phong
của dân tộc, trên cơ sở tư tưởng Hôxê Mácti, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Phi-
đen Ca-xtơ-rô. Đảng lãnh đạo xã hội và nhà nước, kiên trì mục tiêu chủ nghĩa xã
hội trên cơ sở kết hợp giá trị các quan điểm Mác - Lênin với truyền thống của Cuba;
biểu thị của khối đại đoàn kết nhân dân xung quanh sự lãnh đạo cách mạng, vì
người nghèo và cho người nghèo: “Đảng là linh hồn của sự nghiệp cách mạng” đã
được Đại hội VIII (tháng 4/2021) khẳng định và ghi trong chủ đề của Đại hội.
Về kinh tế: Đảng Cộng sản Cuba đề cao việc “Cập nhật hóa mô hình phát triển
kinh tế- xã hội” tức là đề cao việc điều chỉnh mô hình và biện pháp quản lý kinh tế
- xã hội theo hướng dần thay thế mô hình tập trung, kế hoạch, bao cấp trước đây và
tiếp cận với những thành tựu của cải, đổi mới và thành tựu của văn minh nhân loại
hiện nay.
Hệ thống kinh tế mà Cuba xây dựng sẽ tiếp tục dựa trên nguyên tắc sở hữu xã
hội chủ nghĩa toàn dân đối với những tư liệu sản xuất chính. Đảng Cộng sản Cuba
công nhận và đa dạng hóa các hình thức sở hữu và quản lý để các thành phần kinh
tế quốc doanh và ngoài quốc doanh hoạt động theo pháp luật trên quy mô toàn xã
hội. Thực hiện nguyên tắc phân phối xã hội chủ nghĩa “làm theo năng lực, hưởng
theo lao động”.
Về văn hóa, xã hội: coi trọng các chính sách xã hội nhằm bảo vệ các giá trị, đặc
biệt là những giá trị đạo đức, chính trị, văn hóa, tăng năng suất nhằm tăng của cải
vật chất làm cơ sở cho thực hiện phân phối công bằng. Nhà nước tiếp tục đảm bảo
các dịch vụ giáo dục và y tế không mất tiền cho toàn dân, nâng cao vai trò gia đình
là tế bào cơ bản của xã hội…
Về quyền con người: Đảng Cộng sản Cuba khẳng định phẩm giá, sự bình đẳng
và tự do của con người là trung tâm của mô hình kinh tế - xã hội. Lao động đồng
thời là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi công dân và sẽ được trả lương tùy theo số
lượng và chất lượng của lao động.
Đảng Cộng sản Cuba khẳng định, cần thiết phải có sự thay đổi cơ bản để xây
dựng chủ nghĩa xã hội nhưng phải tôn trọng nguyên tắc cách mạng. Với sự cố gắng,
không ngừng đổi mới tư duy xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội để phù hợp với
tình hình mới, công cuộc xây dựng đất nước của Cuba hiện nay đạt được nhiều
thành tựu quan trọng.

459
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Để nâng cao hiệu quả sản xuất trong nông nghiệp, giảm sự phụ thuộc vào
nhập khẩu lương thực, Chính phủ Cuba đã giao 1,5 triệu ha đất hoang cho nông
dân, trong đó 79% diện tích đất được đưa vào để chăn nuôi gia súc và trồng cây ăn
quả. Trong giai đoạn 2011 - 2016, “Cuba đầu tư 450 triệu USD để thúc đẩy sản xuất
lúa gạo và đáp ứng được 80% nhu cầu tiêu thụ trong nước”. Ngày 28/3/2014 Quốc
hội Cuba đã thông quan “Luật đầu tư mới” thay thế cho luật đầu tư năm 1995.
“Cuba đã ký kết được nhiều thỏa thuận song phương với Tây Ban Nha, Italia, Việt
Nam, Trung Quốc… và duy trì được 42 thỏa thuận đầu tư song phương với các
nước này”. Tính đến tháng 12/2015, Cuba có hơn 1000 dự án đầu tư nước ngoài
đang hoạt động thuộc 340 tổ chức. Những kết quả thu được của việc thực hiện Luật
đầu tư mới đã góp phần không nhỏ giúp Cuba phát triển kinh tế đất nước. Bất chấp
nhiều thách thức và khó khăn lớn về tài chính, cộng với những thiệt hại do cơn bão
Irma gây ra và tình trạng hạn hán kéo dài. Trong đó du lịch, vận tải và viễn thông,
nông nghiệp và xây dựng là những ngành đóng góp lớn vào sự tăng trưởng 1,6%
của nền kinh tế Cuba năm 2017. Đặc biệt ở lĩnh vực du lịch, trong năm 2017, bất
chấp việc chính quyền Donald Trump siết chặt các quy định về đi lại, ngành du lịch
của Cuba vẫn đón hơn 4,7 triệu lượt khách du lịch quốc tế, trong đó số khách đến
với khu nghỉ dưỡng biển nổi tiếng Varadero đạt kỷ lục 1,7 triệu lượt. Du lịch hiện
là lĩnh vực mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn thứ hai cho Cuba, với doanh thu khoảng
2,5 tỷ USD mỗi năm. Năm 2018, Cuba ước đón 5 triệu khách du lịch quốc tế...
Đảng Cộng sản Cuba luôn chú trọng nâng cao đời sống cho nhân dân, phát
triển giáo dục, y tế. Cuba tiếp tục duy trì hệ thống chính sách y tế, giáo dục miễn
phí cho toàn dân, quan tâm đến những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, xem
xét lại chính sách tiền lương và phân nhà thuộc sở hữu nhà nước cho nhân dân thiếu
nhà ở. Tính đến năm 2014, Cuba đã có 85% hộ gia đình có sở hữu riêng về nhà ở;
97% lãnh thổ đã được sử dụng điện; 95,3% dân số được dùng nước sạch, tỷ lệ người
bị nhiễm HIV/AIDS thấp nhất thế giới là 0,03%, đặc biệt tỷ lệ người thất nghiệp ở
Cuba thấp nhất ở Mỹ Latinh ở mức 2,7%.
Hiện nay Cuba là một trong những nước có tỷ lệ đầu tư ngân sách quốc gia
vào giáo dục cao nhất thế giới, khoảng 13,8% GDP. Với nền giáo dục được bao cấp
toàn bộ, Cuba đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, trong đó xóa mù chữ là một

460
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

trong những thành tựu tiêu biểu nhất của nền giáo dục Cuba: “Cuba về cơ bản đã
hoàn thành chỉ tiêu 100% người dân biết chữ”, với trung bình 20 học sinh/1 giáo viên.
Về y tế, mặc dù nền kinh tế còn nhiều khó khăn do bao vây cấm vận của Mỹ,
nhưng Cuba luôn chú trọng phát triển giáo dục, y tế và đã xây dựng được hệ thống
y tế phát triển vượt bậc. Cuba đang duy trì một hệ thống chăm sóc y tế cộng đồng,
phục vụ miễn phí cho tất cả người dân.
Bên cạnh đó, ngành công nghệ sinh học của Cuba cũng khá phát triển, Cuba
đã thành công trong việc điều chế nhiều loại thuốc, vắcxin đặc chủng bao gồm: “33
loại vắcxin, 33 loại thuốc chữa ung thư, 18 loại thuốc chữa bệnh về tim mạch và 7 loại thuốc
chữa các bệnh khác”. Đặc biệt là chế tạo thành công vắcxin chống Covid-19 Abdala có
hiệu quả lên tới trên 90%. Cuba trở thành nhà cung cấp dược phẩm hàng đầu cho
khu vực Mỹ Latinh, và nhiều quốc gia Châu Á. Vừa qua, Cuba cũng giúp đỡ, cung
cấp một lượng lớn vacxin và sẵn sàng chuyển giao công nghệ điều chế vacxin cho
Việt Nam.
Với những thành công trên, tổ chức Y tế thế giới đã đánh giá Cuba là một trong
những quốc gia dẫn đầu thế giới trong lĩnh vực y tế. Những thành tựu thần kỳ của
nền y tế Cuba cho thấy giả thuyết về mối tương quan giữa “năng lực tài chính” với
“khả năng chăm sóc sức khỏe” không phải trường hợp nào cũng đúng, và điều đó cho
thấy một khía cạnh về tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội.
Mặc dù nền kinh tế còn nhiều khó khăn, các thế lực thù địch vẫn luôn chống
phá, nhưng Cuba vẫn luôn đảm bảo được sự ổn định về chính trị. Tại đại hội VIII
Đảng Cộng sản Cuba diễn ra từ ngày 17 đến 19/4/2021 vừa qua, ông Miguel Diaz-
Canel (60 tuổi) kế nhiệm Bí thư thứ nhất Raul Castro lãnh đạo đất nước Cuba, tiếp
tục thực hiện các nhiệm vụ của Cách mạng Cuba và tiến trình cập nhật mô hình
kinh tế-xã hội đã đề ra.
Thứ ba, trào lưu xã hội dân chủ ở các nước Bắc Âu.
Trong số các mô hình xã hội dân chủ hiện nay, các nước Bắc Âu (Đan Mạch,
Phần Lan, Iceland, NaUy, Thuy Điển) được xem là khu vực kiểu mẫu đạt được
nhiều thành tựu trong vấn đề thể chế hóa lý luận dân chủ xã hội, giành được những
giá trị cao trong vấn đề khắc phục tình trạng bất bình đẳng và đói nghèo.

461
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Về kinh tế, các quốc gia theo trào lưu xã hội dân chủ áp dụng kinh tế thị trường
với tính cách là mô hình phát triển từ khá sớm, với sắc thái riêng được gọi là “kinh
tế thị trường nhà nước phúc lợi chung” ở các nước Bắc Âu. Mô hình kinh tế này
thừa nhận và sử dụng linh hoạt các nguyên tắc chung của nền kinh tế thị trường tự
do cạnh tranh, thừa nhận phân hóa giàu nghèo của cơ chế thị trường nhưng có chính
sách khắc phục sự phân hóa đó. Chính sách được sử dụng phổ biến là khuyến khích
mạnh mẽ khu vực tư nhân đầu tư phát triển các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và
dịch vụ, với các quy mô và loại hình rất đa đạng để tạo nguồn thu ngày càng lớn từ
các loại thế cho ngân sách nhà nước; những người có thu nhập càng cao có nghĩa
vụ phải đóng thuế càng cao. Nhà nước dùng ngân sách để tái đầu tư phát triển và
bảo đảm phúc lợi xã hội cho các đối tượng rộng khắp.
Về mặt chính trị, đó là một nền dân chủ tham dự, thu hút các công dân vào
quản lý xã hội; Nhà nước là “Nhà nước phúc lợi chung”, coi trọng các lợi ích công
cộng, lợi ích xã hội.
Về xã hội, các mục tiêu giáo dục phổ thông, cung cấp dịch vụ y tế phổ quát là
đặc biệt quan trọng và được ưu tiên cao nhằm phát triển kinh tế và hưng thịnh quốc
gia liên tục trong nhiều năm. Ngoài ra các nước Bắc Âu đề cao và tập trung việc
giáo dục cho con người.
So với nhiều nước khác ở phương Tây, các nước Bắc Âu bảo đảm phân phối thu
nhập công bằng tốt hơn, chủ yếu thông qua các hình thức trợ cấp hưu trí, y tế, giáo
dục và các khoản phúc lợi xã hội khác cùng với cam kết về việc làm đầy đủ. Mô hình
phúc lợi xã hội ở các nước Bắc Âu có hai trụ cột là an sinh xã hội và dịch vụ công (giáo
dục, y tế, giao thông công cộng...) với mức độ bình đẳng và phổ quát cao. Ở các nước
Bắc Âu, cơ hội việc làm là công bằng và bình đẳng. Tỷ lệ thất nghiệp ở Bắc Âu thấp.
Số liệu Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) cho thấy: năm 2017, ở các nước
khu vực Bắc Âu 77,4% số những người trong độ tuổi lao động có việc làm, trong khi
ở các nước nói tiếng Anh là 72,4% và của châu Âu nói chung là 68,9%. Tỷ lệ phụ nữ
tham gia lao động và chính trị ở khu vực này luôn cao nhất thế giới.
Nền giáo dục ở các nước Bắc Âu được miễn phí hoặc trợ cấp cao. Nhà nước
dành ngân sách lớn đầu tư cho giáo dục (khoảng 3% - 8% GDP), khuyến khích người
dân học tập suốt đời. Nhà nước miễn 100% học phí trong giai đoạn học phổ thông
và hỗ trợ học phí học đại học. Chăm sóc trẻ em rất được quan tâm, thông qua các
462
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

chính sách hỗ trợ của nhà nước, như miễn, giảm thuế hoặc trợ cấp bổ sung kéo dài
1 đến vài năm đối với những người đang nuôi con vị thành niên. Nhà nước dành
tới 2% - 3% GDP cho chăm sóc trẻ em, xây dựng hệ thống các nhà trẻ, trường mẫu
giáo, trung tâm chăm sóc trẻ nhỏ... giúp các bà mẹ yên tâm tham gia thị trường lao
động. Tỷ lệ nhập học của học sinh đến tuổi đi học ở các nước này thuộc nhóm cao
nhất thế giới. Trong lĩnh vực y tế, các nước Bắc Âu cũng đứng đầu thế giới về hệ
thống y tế, bảo hiểm phổ cập và bao trùm, trong đó miễn phí khám, chữa bệnh cho
trẻ vị thành niên (từ 16 tuổi trở xuống) và phụ nữ có thai. Quỹ bảo hiểm chiếm từ
20% - 30% GDP của các nước. Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh ở mức thấp nhất, chỉ
khoảng 3 trẻ/1.000 ca sinh. Tuổi thọ trung bình của người Bắc Âu lên tới 82,3 tuổi.
Các nước Bắc Âu hiện là nhóm nước có chỉ số phát triển con người cao nhất thế
giới. Trong tổng số 189 nước được xếp hạng vào năm 2018: Na Uy xếp thứ nhất, Thụy
Điển: 7, Đan Mạch: 11 và Phần Lan: 15. Nếu xét về chỉ số bất bình đẳng thì các nước
Bắc Âu cũng thuộc nhóm có chỉ số bất bình đẳng thấp nhất trên thế giới. Xét về chỉ
số hạnh phúc năm 2019, các nước Bắc Âu nằm trong nhóm các nước người dân hạnh
phúc nhất: Phần Lan xếp thứ nhất, Đan Mạch: 2, Na Uy: 3 và Thụy Điển: 7.
2.2. Một số vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước
hiện nay
Hiện nay, trước diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và các quốc gia, bản
thân Trung Quốc, Cuba, các nước Bắc Âu cũng đang gặp nhiều khó khăn và đặt ra
một số vấn đề cần phải giải quyết.
Thứ nhất, đối với Trung Quốc.
Hơn 40 năm cải cách mở cửa, Trung Quốc đang đứng trước những thách thức
lớn: năng lực sáng tạo khoa học kỹ thuật chưa đủ mạnh, cơ cấu ngành nghề bất hợp
lý, phương thức sản xuất chủ yếu vẫn dựa vào tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi
trường, tình trạng cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, diện tích đất canh tác giảm hàng
chục triệu mẫu mỗi năm bởi các loại: “trào lưu kinh tế mở”, “trào lưu khu thực
nghiệm”, “trào lưu xây dựng bất động sản”, “trào lưu làm sân golf”.
Làm thế nào để tối ưu hóa vấn đề tự quản lý của Đảng, Nhà nước và xã hội là
vấn đề đặt ra đối với Trung Quốc hiện nay bởi trình độ năng lực, tư tưởng của cán
bộ lãnh đạo chưa cao, có cả cán bộ cấp cao thoái hóa biến chất, mâu thuẫn xã hội
tăng, xây dựng pháp trị chưa thích ứng với nhu cầu phát triển của Đảng, nhà nước
463
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

và sự kỳ vọng của nhân dân. Theo Tổng Bí thư Tập Cận Bình của Trung Quốc,
Trung Quốc ít nhất phải vượt qua 3 bẫy: một là, bẫy thu nhập trung bình; hai là,
bẫy Tacitus (nhà sử học La Mã Tucitus cho rằng, khi quyền lực mất đi niềm tin của
nhân dân, bất luận nói thật hay là nói dối, làm việc tốt hay làm việc xấu, xã hội đều
đưa ra những đánh giá tiêu cực) (theo ông Tập Cận Bình, bẫy này ảnh hưởng rất
nguy hại đến cơ sở cầm quyền và địa vị cầm quyền của Đảng); ba là, bẫy Thucydides
(nhà sử học Hy Lạp cổ đại Thuccydides cho rằng, khi một nước lớn đang trỗi dậy,
cạnh tranh với bá chủ thống trị sẵn có, nguy cơ mà hai bên phải đối mặt chính là kết
thúc cục diện này bằng chiến tranh). Quốc tế lo lắng sau khi Trung Quốc trỗi dậy sẽ
mâu thuẫn với quốc gia bá quyền cũ như Mỹ.
Ở lĩnh vực văn hóa xã hội, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII, Đảng
Cộng sản Trung Quốc thừa nhận: “vấn đề không cân bằng, không hài hòa, không
bền vững trong phát triển vẫn còn nổi cộm, năng lực sáng tạo khoa học kỹ thuật
chưa mạnh, cơ cấu ngành nghề không hợp lý, cơ sở nông nghiệp vẫn còn mỏng; sự
trói buộc của môi trường, tài nguyên căng thẳng hơn…” (Đảng Cộng sản Trung
Quốc, 2013, 16).
Trong điều kiện lịch sử mới, theo Đảng Cộng sản Trung Quốc họ phải nắm
chắc tám yêu cầu cơ bản, đó là: kiên trì địa vị chủ thể của nhân dân; kiên trì giải
phóng và phát triển sức sản xuất; kiên trì thúc đẩy cải cách mở cửa; kiên trì duy
trì công bằng chính nghĩa xã hội; kiên trì đi con đường cùng giàu có; kiên trì thúc
đẩy xã hội hài hòa; kiên trì phát triển hòa bình; kiên trì sự lãnh đạo của Đảng. Đó
chính là thực hiện hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa và sự phục hưng vĩ đại dân tộc
Trung Hoa.
Thứ hai, đối với Cuba.
Cuba cũng tiếp tục phải đối diện với sự chống phá của các thế lực thù địch và
sự bị bao vây, cấm vận bởi Mỹ. Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 tác động tiêu
cực tới nền kinh tế Cuba, nhất là đối với những sảm phẩm xuất khẩu truyền thống
vốn là thế mạnh và đem lại nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho Cuba. Hiện nay Cuba
vẫn phải nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng để phục vụ trong nước. Thêm vào đó
từ năm 2009, Cuba phải trả nợ một loạt các khoản tín dụng vay trước đó… Tất cả
những tác động đó làm cho nền kinh tế Cuba gặp nhiều khó khăn… Vấn đề đặt ra
đối với Đảng Cộng sản Cuba là: việc tìm kiếm một giải pháp nhằm giải quyết sự

464
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

mất cân đối vĩ mô và đảm bảo hiệu quả của nền kinh tế trở thành vấn đề cấp bách
để đất nước có thể tiếp tục phát triển.
Thứ ba, đối với các nước Bắc Âu.
Ngay từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, các nước xã hội dân chủ ở Bắc Âu
cũng đối diện với vấn nạn: muốn có phúc lợi xã hội cao, nhà nước phải đánh thuế
cao các doanh nghiệp. Việc đánh thuế quá cao làm giảm động lực phát triển của
giới đầu tư (nhiều nhà kinh doanh chạy ra nước ngoài, nhiều thanh niên ưu tú sang
Anh hoặc Mỹ hoặc các nước khác để lập nghiệp). Mặt khác phúc lợi xã hội ở mức
cao và kéo dài tạo ra sức ỳ, tâm lý và thói quen dựa vào nhà nước và diễn ra mâu
thuẫn về quyền lợi và nghĩa vụ giữa bộ phận phải đóng thuế nhiều và bộ phận ít có
đóng góp nhưng vẫn được thụ hưởng các phúc lợi. Ví dụ, vào đầu những năm 1980,
19% người Thụy Điển đồng ý rằng vẫn có thể chấp nhận ở một mức nào đó việc
một cá nhân xin hưởng phúc lợi công khi họ không đủ tiêu chuẩn. Đến năm 2011,
tỷ lệ này tăng lên là 40% và giảm xuống còn 36% sau khi chính phủ kiểm soát chặt
chẽ hơn các hệ thống phúc lợi và xuất hiện các chiến dịch chống lại việc lạm dụng
phúc lợi xã hội (Sanandaji, 2021).
Mặc dù có lịch sử phát triển khá lâu, ở một số nước (Thụy Điển, Đan Mạch,
Na Uy…) nhà nước phúc lợi chung đã có thời kỳ phát huy tốt hiệu lực, theo đuổi
chủ nghĩa xã hội từ năm 1970 đến 1990, tuy nhiên trong suốt 30 năm qua, chính phủ
và đảng dân chủ xã hội có xu hướng về phía trung dung. Mặc dù vẫn giữ vai trò
lãnh đạo nhưng đảng xã hội ở các nước này phải liên kết với các đảng khác, tình
trạng đa nguyên cũng khiến cho những sáng kiến chính trị khá vất vả để hiện thực
hóa thành chính sách. Đây là điểm “nghẽn” mà các quốc gia theo hướng xã hội dân
chủ cần phải vượt qua. Điều này thể hiện sự khó khăn cả về lý luận và thực tiễn
trong xây dựng chế độ xã hội dân chủ trong bối cảnh hiện nay.
2.3. Một số gợi ý cho vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, kiên định lập trường và không ngừng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin trong hoàn cảnh mới đồng thời đảm bảo nguyên tắc Đảng Cộng sản
lãnh đạo đất nước
Đảng Cộng sản Trung Quốc tin tưởng rằng, nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin là chân lý khoa học đồng thời cho rằng, chủ nghĩa Mác nhất định sẽ
không ngừng được làm phong phú và phát triển cùng với sự phát triển của thực
465
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

tiễn, mà không phải giáo điều, cứng nhắc, rập khuôn. Kiên định đi con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh
mới đồng thời giữ vững nguyên tắc Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo để xây
dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc là bài học rất có ích đối với Việt Nam.
Hiện nay, Đảng Cộng sản Cuba có nhiều nhận thức mới về mô hình xã hội xã
hội chủ nghĩa xuất phát từ đặc điểm, nhu cầu của đất nước đồng thời giữ gìn
nguyên tắc Đảng Cộng sản Cuba là tổ chức chính trị duy nhất và tiên phong của
dân tộc. Đảng kế thừa những giá trị của các quan điểm Mác - Lênin với đặc trưng
truyền thống Cuba, Đảng là “linh hồn của sự nghiệp cách mạng”- điều này đã được
Đại hội VIII (4/2021) khẳng định và ghi trong chủ đề của Đại hội.
Ở các nước Bắc Âu, các đảng dân chủ xã hội nắm được chính quyền trong một
thời gian dài và thực thi nhiều chính sách theo mục tiêu chính trị của mình. Hiện
nay ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa, các đảng xã hội dân chủ vẫn giữ vai trò là các
đảng đối lập và giữ vị trí quan trọng trong chế độ đa đảng. Tại đây, các đảng xã hội
dân chủ đã có ảnh hưởng khá lớn trong đời sống chính trị - xã hội.
Từ thực tiễn của các quốc gia trên, Việt Nam tiếp tục giữ vững kiên định xây
dựng đất nước theo chủ nghĩa xã hội, không ngừng đổi mới, vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin đồng thời luôn đặt nguyên tắc chế độ nhất nguyên chính trị,
Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức lãnh đạo duy nhất.
Thứ hai, đề cao vị trí, vai trò và lợi của người dân đồng thời xây dựng hệ thống
hành chính kiến tạo, công khai minh bạch.
Trung Quốc, Cuba và các quốc gia Bắc Âu đề cao vai trò và lợi ích của nhân
dân. Tất cả đều khẳng định sự bình đẳng và tự do của con người là trung tâm của
mô hình kinh tế - xã hội. Người dân có khả năng tham gia vào chính trị ngày càng
tích cực hơn và biết tương đối đầy đủ chính phủ đang và sẽ làm gì. Những sáng
kiến chính trị của người dân được lắng nghe tôn trọng và có cơ chế hiện thực để
trình bày, thẩm định và nếu khả thi thì sẽ được pháp luật ủng hộ. Quyền của người
dân được tham gia vào các hoạt động kinh tế và thụ hưởng thành quả của nền kinh
tế thị trường xã hội, được nhà nước và xã hội bảo đảm ở mức tương đối tốt, thông
qua phân phối theo lao động và phúc lợi xã hội.
Trong thời gian vừa qua, chính phủ của các quốc gia này không ngừng thường
xuyên đổi mới cơ chế hoạt động, đổi mới cải cách hành chính ngày càng minh bạch
466
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

hiệu quả, nâng cao uy tín đối với nhân dân. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tiến
hành xử lý nhiều trường hợp cán bộ đảng viên thậm chí cán bộ cấp cao tham ô tham
nhũng, suy thoái đạo đức lối sống. Hệ thống hành chính dựa trên các nguyên tắc
trách nhiệm, minh bạch đã giúp nâng cao hiệu quả hoạt động, uy tín của chính phủ.
Việt Nam hiện nay đang đẩy mạnh xây dựng Chính phủ kiến tạo phát triển
và đẩy mạnh cuộc chiến chống tham nhũng. Trong thời gian gần đây, ở Việt Nam
rất nhiều cán bộ cấp cao, nguyên cán bộ đã nghỉ hưu thậm chí có cả ủy viên trung
ương đảng mắc sai phạm nghiêm trọng trong quá trình quản lý đều bị xử lý để làm
trong sạch Đảng, nâng cao tính minh bạch của bộ máy nhà nước và nâng cao niềm
tin đối với nhân dân. Chính phủ kiến tạo coi trọng vai trò của thị trường nhưng
không tuyệt đối hóa vai trò này mà tích cực can thiệp để định hướng thị trường,
Chính phủ đó phải được tạo dựng trên một thiết chế chính trị dân chủ và tự do.
Nhà nước còn định hướng mục tiêu cho các chủ thể tham gia hoạt động kinh
tế - xã hội, tạo động lực cho các đối tượng tham gia hoạt động kinh tế - xã hội theo
mục tiêu chung, phát huy mặt tích cực, đồng thời khắc phục những hạn chế của nền
kinh tế thị trường. Tạo lập các cân đối trong phát triển, kiểm soát và phân bổ các
nguồn lực trong xã hội, tạo môi trường thích hợp cho các hoạt động kinh tế - xã hội,
thúc đẩy sự phối hợp hoạt động giữa các cấp, các ngành. Nhà nước kiến tạo ở Việt
Nam cần giải quyết những vấn đề cụ thể như: tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính
sách pháp luật, tạo mọi thuận lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh; kiện toàn tổ
chức bộ máy hành chính Nhà nước, bảo đảm tinh gọn, hiệu lực hiệu quả, kỷ luật kỷ
cương, chuyên nghiệp, tập trung cải cách thủ tục hành chính, phòng chống tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực, nhũng nhiễu; giảm thiểu chi phí và thời gian thực hiện
thủ tục hành chính; nâng cao năng lực cạnh tranh...
Thứ ba, phát triển kinh tế thị trường, coi trọng thành phần kinh tế nhà nước
nắm giữ vai trò nên tảng đồng thời tạo điều kiện để kinh tế tư nhân thực sự là động
lực quan trọng của nền kinh tế.
Cùng với mở cửa, đổi mới kinh tế đất nước, Trung Quốc thừa nhận kinh tế thị
trường không phải là của riêng của chủ nghĩa tư bản và cho rằng kế hoạch và thị
trường cũng đều là biện pháp kinh tế. Trung Quốc, Cuba và các nước Bắc Âu đều
coi trọng sở hữu xã hội, chế độ công hữu về tư liệu sản xuất đồng thời khuyến khích
các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tham gia vào sản xuất. Cuba cho rằng

467
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

điều đó sẽ cho phép nhà nước có thể rảnh tay với những hoạt động kinh tế không
chiến lược đối với đất nước và những khu vực mà nhà nước không thể thực hiện
hiệu quả và chất lượng nếu áp dụng hình thức quản lý nhà nước.
Ở các nước Bắc Âu, bên cạnh việc nâng cao tính minh bạch, hiệu quả của các
tổ chức chính phủ và khu vực công còn đảm bảo sự phát triển của kinh tế tư nhân
dưới ảnh hưởng của các yếu tố phi thị trường. Sự quản lý vĩ mô của chính phủ làm
cho khu vực tư nhân tăng và việc tích cực áp dụng công nghệ mới, thúc đẩy sáng
tạo văn hóa doanh nghiệp. Đây là nguồn gốc quan trọng cho sự phát triển lành
mạnh và ổn định của nền kinh tế và xã hội Bắc Âu.
Quan niệm về kinh tế thị trường, sự đánh giá vai trò của các hình thức sở
hữu, các thành phần kinh tế của các quốc gia trên giúp Việt Nam bổ sung vào lý
luận về mô hình chủ nghĩa xã hội, lý luận về kinh tế thị trường đang tồn tại ở nước
ta hiện nay.
Thứ tư, xây dựng hệ thống phúc lợi hiệu quả cho người lao động.
Bên cạnh việc thừa nhận và khuyến khích thành phần kinh tế tư nhân phát
triển thì các quốc gia kể trên đề cao sở hữu xã hội, sở hữu cộng cộng những tư liệu
sản xuất chính và thực hiện nguyên tắc phân phối xã hội chủ nghĩa “làm theo năng
lực, hưởng theo lao động” để khuyến khích lao động phát triển. Bên cạnh đó các
nhà nước tập trung xây dựng hệ thống phúc lợi hiệu quả cho người lao động, tạo
cơ hội bình đẳng cho việc tiếp cận các nguồn lực phát triển và bình đẳng trong việc
hưởng phúc lợi xã hội.
Kết quả nghiên cứu trên cho thấy, các nước Bắc Âu nhìn chung thực hiện các
khoản thuế cao và mang lại lợi ích cho tất cả các công dân. Ở các nước này, thể chế
xã hội dân chủ là động lực chính của cải cách xã hội. Do trình độ phát triển của Việt
Nam chưa thể ngang bằng với các nước Bắc Âu, các chế độ phúc lợi cụ thể đối với
người lao động Việt Nam chỉ có thể xác lập ở mức có thể chấp nhận được và phù
hợp với điều kiện Việt Nam. Qua kinh nghiệm của Bắc Âu cho thấy, để đảm bảo
phúc lợi xã hội bền vững cho mọi người dân, mọi người lao động, cần có sự vào
cuộc tích cực từ phía Nhà nước và cộng đồng. Đối với Nhà nước, chương trình phúc
lợi xã hội bao gồm các chương trình chung hướng tới cho mọi người dân và các
chương trình chuyên biệt, hướng tới những nhóm lao động đặc thù nhưng đều
hướng tới đảm bảo sự công bằng cho mọi người. Đối với cộng đồng, bên cạnh các

468
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

phúc lợi xã hội bắt buộc, cần gia tăng các loại phúc lợi xã hội tự nguyện dựa trên cơ
sở trách nhiệm cộng đồng, truyền thống văn hóa và điều kiện từng vùng, địa
phương để hỗ trợ cho các nhóm đối tượng khác nhau thuộc nhóm “yếu thế” trong
xã hội.
3. KẾT LUẬN
Dưới sự soi đường của chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội đã trở thành
hiện thực từ sau thành công của Cách tháng Mười Nga. Theo thời gian, Liên Xô
không vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh mới nên mô hình
đó đã sụp đổ. Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác - Lênin và mô hình xây dựng chủ nghĩa xã
hội vẫn được vận dụng sáng tạo ở một số nước trên thế giới hiện nay, tiêu biểu đó
là Trung Quốc, Cuba, Việt Nam và các nước Bắc Âu đi theo con đường xã hội dân
chủ. Nhờ sự vận dụng sáng tạo đó mà công cuộc xây dựng đất nước của họ đạt
được nhiều thành công lớn. Tìm hiểu học tập mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội,
tính ưu việt của mô hình xã hội chủ nghĩa ở các quốc gia trên là việc làm có ý nghĩa
đối với Việt Nam. Từ đó, chúng ta kiên định với lựa chọn của mình đồng thời bổ
sung vào lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội như quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Đại hội XIII: “Kiên định và vận dụng, phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên
định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 109).

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Cục Lý luận - Ban Tuyên truyền Đảng Cộng sản Trung Quốc. (2003). 25 vấn đề
lý luận trong công cuộc cải cải cách mở cửa Trung Quốc. Chính trị quốc gia Sự thật.
[2]. Đảng Cộng sản Trung Quốc. (2013). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XVIII. Chính trị quốc gia Sự thật.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021a). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021b). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII (Vol. 2). Chính trị quốc gia Sự thật.
[5]. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội
khoa học (Dùng cho hệ đào tạo cao cấp lý luận chính trị). Lý luận chính trị.

469
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

[6]. Khiếu Linh. (2012, December 11). Về lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc.
Tạp Chí Cộng Sản. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-
/2018/18656/ve-ly-luan-chu-nghia-xa-hoi-dac-sac-trung-quoc.aspx
[7]. Lê, T. C., & Nguyễn, T. P. (2021). Thành tựu kinh tế, xã hội Trung Quốc sau một
thập niên cầm quyền của Chủ tịch Tập Cận Bình. http://hvctcand.edu.vn/nghien-
cuu-quoc-te/thanh-tuu-kinh-te-xa-hoi-trung-quoc-sau-mot-thap-nien-cam-
quyen-cua-chu-tich-tap-can-binh-ky-2-3691
[8]. Nguyễn, P. T. (2021, May 17). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Báo Nhân Dân.
https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-
chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-646305/
[9]. Phạm, T. C. L. (2021). Giá trị chủ yếu trong nội dung dân chủ xã hội ở các nước Bắc
Âu và một số gợi ý đối với Việt Nam hiện nay. Tạp Chí Thông Tin, 470, 110–113.
[10]. Phạm, T. T. L. (2020). Hệ thống phúc lợi xã hội ở các nước Bắc Âu và một số gợi ý
đối với Việt Nam - Tạp chí Cộng sản. Tạp chí cộng sản.
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/the-gioi-van-de-su-kien/-
/2018/816503/he-thong-phuc-loi-xa-hoi-o-cac-nuoc-bac-au-va-mot-so-goi-y-
doi-voi-viet-nam.aspx
[11]. Sanandaji, N. (2021). Tại sao các nước Bắc Âu không còn là ‘thiên đường xã hội chủ
nghĩa’? (Phan Nguyên, Trans.). Nghiên cứu quốc tế.
https://nghiencuuquocte.org/2021/10/28/tai-sao-cac-nuoc-bac-au-khong-con-
la-thien-duong-xa-hoi-chu-nghia/
[12]. Thạch Bình. (2022, January 25). Kinh tế Trung Quốc: Thành tựu năm 2021 và thách
thức năm 2022. https://bnews.vn/kinh-te-trung-quoc-thanh-tuu-nam-2021-va-
thach-thuc-nam-2022/229964.html
[13]. Vũ, T. S. (2019). Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Cuba đối với phát triển kinh tế- xã
hội. Tạp chí xây dựng Đảng. http://xaydungdang.org.vn/Home/
PrintMagazineStory.aspx?ID=3157&print=true

470
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ SỰ SỤP ĐỔ MÔ HÌNH CHỦ NGHĨA


XÃ HỘI Ở LIÊN XÔ VÀ ĐÔNG ÂU ĐỐI VỚI CÔNG TÁC
XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TA HIỆN NAY
Dương Nhật Thái
Trường Đại học Nguyễn Huệ
Tác giả liên hệ: Dương Nhật Thái, email: Duongnhatthai83@gmail.com

Tóm tắt: Từ sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, cho thấy các
Đảng cộng sản cầm quyền và Đảng cộng sản Liên Xô đã nhận thức và vận dụng máy
móc giáo điều chủ nghĩa Mác - Lênin, rơi vào duy tâm, chủ quan duy ý chí, xét lại
chủ nghĩa Mác - Lênin, xa rời những vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng Đảng.
Vì vậy, cần rút ra bài học kinh nghiệm đó là phải xây dựng Đảng vững mạnh cả về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, có đường lối chính trị độc lập tự chủ đúng đắn, phải
luôn coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, tăng cường giáo dục
đạo đức lối sống xã hội chủ nghĩa, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiên
quyết đấu tranh chống tham nhũng, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân
chủ trong Đảng.
Từ khóa: chủ nghĩa xã hội; chỉnh đốn đảng; chủ nghĩa Mác - Lênin; Liên Xô và Đông
Âu; xây dựng Đảng.

1. NGUYÊN NHÂN SỰ SỤP ĐỔ MÔ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở LIÊN XÔ


VÀ ĐÔNG ÂU
Liên Xô là nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, được đánh dấu bằng
Cách mạng Tháng mười Nga (1917) với hơn 70 năm xây dựng và lớn mạnh. Trong
thời điểm khó khăn nhất của lịch sử, dù là can thiệp vũ trang của chủ nghĩa đế quốc,
sự bao vây kinh tế, sự tấn công trực tiếp của chủ nghĩa phát xít, hay chiến tranh thế
giới... không những không làm cho Liên Xô tan rã mà còn lớn mạnh hơn. Liên Xô
từ một nước kinh tế, văn hoá lạc hậu, sức mạnh quân sự chưa phát triển, đã trở thành
cường quốc về kinh tế, khoa học kỹ thuật, quân sự, đồng thời là trụ cột của hệ thống
xã hội chủ nghĩa, đối trọng với Mỹ và chủ nghĩa đế quốc. Những thành tựu đó của
Liên Xô là không thể phủ nhận được.

471
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Nhưng bước vào thời kỳ cải tổ, mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đã bị sụp
đổ, kéo theo hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ theo. Vì sao
trong thời gian ngắn lại xảy ra biến cố nhanh như vậy? Từ sự sụp đổ chế độ xã hội
chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, nhiều học giả trên thế giới, nhiều chính khách và
các Đảng cộng sản đã có lập trường chính trị khác nhau về sự kiện này. Các thế lực
thù địch Phương Tây phấn khởi cực độ chúc mừng nhau, tha hồ xuyên tạc và phủ
nhận lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, họ cho rằng chủ nghĩa xã hội đã thất bại, chủ
nghĩa cộng sản sẽ tiêu vong hoàn toàn; chủ nghĩa xã hội không thể thay thế chủ
nghĩa tư bản. Trong hàng ngũ những người cộng sản có người nhận thức mơ hồ và
cho rằng sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội là kết quả “đẻ non” chưa có sự chuẩn bị
đầy đủ các tiền đề cho nó và họ thiếu lòng tin đối với tiền đồ của chủ nghĩa xã hội.
Một số khác cho rằng chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã là do
chủ nghĩa cơ hội xét lại trong Đảng cộng sản đã thắng thế... làm cho chiến lược “diễn
biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc giành thắng lợi toàn diện mà không mất viên
đạn nào. Dưới các góc độ nhìn nhận nào cũng đều chung quy do yếu kém của công
tác xây dựng đảng và sự lũng đoạn của nhóm người cơ hội, xét lại của các nhà lãnh
đạo cao nhất Đảng cộng sản Liên xô mà đứng đầu là Mikhail Gorbachev với tư duy
mới “cải tổ” gây ra: “Gorbachev đã dốc ra không ít nỗ lực để làm suy yếu Đảng cộng
sản Liên Xô, làm tiêu tan đội ngũ cán bộ, tư tưởng và tổ chức của Đảng, gạt bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với xã hội” (Sự phản bội của Goóc-Ba-Chốp, 1998, 16).
Liên Xô và Đông Âu duy trì quá lâu thể chế kinh tế tập trung bao cấp cao độ,
làm cho nền kinh tế lạc hậu trì trệ, nền kinh tế không tăng trưởng, đời sống nhân
dân lao động gặp nhiều khó khăn... Do đó, Đảng cộng sản Liên xô chủ trương đổi
mới, cải tổ để phát triển đất nước. Thực hiện cải tổ, Đảng cộng sản Liên xô ngay lập
tức phạm vào sai lầm về công tác xây dựng đảng, xa rời quần chúng một cách
nghiêm trọng, đánh mất vai trò và năng lực của đội tiên phong của giai cấp vô sản.
Bắt đầu từ sự từ bỏ những nguyên tắc xây dựng đảng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Biểu hiện trên các nội dung sau đây:
- Hiểu sai về nguyên lý xây dựng đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trước hết, về công tác xây dựng đảng, phải phân biệt Đảng với toàn bộ giai
cấp, Đảng là đội tiên phong chính trị và là đội ngũ có tổ chức chặt chẽ, có giác ngộ
cách mạng nhất của giai cấp, Đảng là người đưa yếu tố tự giác vào phong trào công

472
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

nhân, là người định hướng chính trị và là người giáo dục, động viên, tổ chức quần
chúng hành động cách mạng. Đảng phải cải tổ toàn bộ công tác của mình, không
được hạ thấp Đảng ngang trình độ của quần chúng bình thường. Lênin viết: “Không
được lẫn lộn đảng, tức là đội tiền phong của giai cấp công nhân, với toàn bộ giai
cấp... Chúng ta sẽ chỉ tự lừa dối mình, nhắm mắt trước những nhiệm vụ bao la của
chúng ta, thu hẹp những nhiệm vụ đó lại, nếu chúng ta quên mất sự khác nhau giữa
đội tiền phong và tất cả số quần chúng hướng theo đội tiền phong đó; nếu chúng ta
quên mất rằng đội tiền phong có nghĩa vụ thường xuyên phải nâng các tầng lớp
ngày càng đông đảo đó lên trình độ tiên tiến ấy” (Lênin, 1979, 289-290), “Chỉ đảng
nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò
chiến sĩ tiền phong” (Lênin, 1975, 32). Đối với người đảng viên Đảng cộng sản, điều
đòi hỏi đầu tiên về tư cách là phải giác ngộ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, có trình
độ lý luận nhất định về chủ nghĩa xã hội khoa học, nắm được đường lối, chính sách
của Đảng. Theo Lênin, Đảng cộng sản phải là “trí tuệ, danh dự và lương tâm của
thời đại chúng ta” (Lênin, 1975, 32), vai trò tiên phong của Đảng được thể hiện về
mặt tổ chức và sự gương mẫu của mỗi đảng viên trong hoạt động thực tiễn. Lênin
đã chỉ ra sai lầm cơ bản của phái Mensêvích là phạm phải chủ nghĩa cơ hội trên
những vấn đề tổ chức, đánh giá thấp ý nghĩa quan trọng của tổ chức trong cuộc đấu
tranh giải phóng của giai cấp vô sản. Đảng phải được tổ chức chặt chẽ để bảo đảm
là một đội ngũ thống nhất ý chí và hành động, có kỷ luật nghiêm minh. Đảng tồn
tại không chỉ với những sự thống nhất về cương lĩnh và sách lược, mà còn ở sự
thống nhất về mặt tổ chức, Lênin chỉ ra: “Sự thống nhất trong những vấn đề cương
lĩnh và sách lược là điều kiện tất yếu, nhưng chưa đầy đủ để đảm bảo sự thống nhất
của đảng... Muốn đạt được sự thống nhất trên đây, thì còn phải có sự thống nhất về
tổ chức nữa” (Lênin, 1979, 454-455). Đảng phải là một bộ phận có tổ chức chặt chẽ
của giai cấp công nhân, đảng viên phải tham gia hoạt động trong một tổ chức của
Đảng, phải chịu sự lãnh đạo và kiểm soát của tổ chức, trong Đảng phải có kỷ luật
tập trung. Lênin đã nhận thấy “tổ chức” là nguồn sức mạnh vô địch của giai cấp
công nhân. Trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, giai cấp vô sản không có vũ
khí nào khác hơn là sự tổ chức. Cuộc đấu tranh của Lênin chống chủ nghĩa
Mensêvích cũng chính là cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội của Quốc tế II trên
vấn đề tổ chức và đặt cơ sở lý luận vững chắc cho việc xây dựng Đảng cộng sản về
mặt tổ chức.

473
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Bởi vậy, đòi hỏi những người cộng sản phải nắm vững những nội dung cơ bản
và quán triệt trong hoạt động thực tiễn, đồng thời phải biết vận dụng, phát triển học
thuyết đó một cách sáng tạo, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của nước mình, của
dân tộc mình nhằm phục vụ cho nhiệm vụ chính trị của đảng mình trong từng thời
kỳ cách mạng. Mác và Ăngghen đã từng nhắc nhở học thuyết của các ông không phải
là giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động. Lênin chỉ rõ: “Chúng ta không hề coi
lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại,
chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã
hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành
lạc hậu đối với cuộc sống” (Lênin, 1974, 232). Theo Lênin, thì cần phải đấu tranh với
những thủ đoạn nhằm phủ nhận vai trò của Đảng cộng sản, cho Đảng và giai cấp là
một, Đảng như là một tổ chức câu lạc bộ, mục đích là nhằm không thừa nhận tính
tiên phong của Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Nhưng Đảng cộng sản Liên xô trong thời gian dài đã không thực hiện nguyên
tắc xây dựng đảng theo tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin biểu hiện ở các góc độ
sau đây:
- Đảng không coi trọng kết hợp chủ nghĩa Mác với thực tế nước mình và đặc trưng
của thời đại, không coi trọng và kế thừa phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin.
Về đường lối chính trị, Đảng cộng sản đã xét lại chủ nghĩa Mác - Lênin, xa rời
những vấn đề có tính nguyên tắc Mácxít trong xây dựng Đảng thực hiện đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập, dân chủ cực đoan vô chính phủ, vô nguyên tắc. Bôi nhọ
lịch sử, phi chính trị hoá quân đội, từ bỏ đấu tranh giai cấp. Về quan điểm lý luận
có lúc rơi vào chủ nghĩa duy tâm, chủ quan duy ý chí, công thức hóa con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội. Coi nhẹ công tác tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, phát triển lý
luận. “Trong bộ máy Trung ương, chủ nghĩa Mác - Lênin bị phê phán như là học
thuyết lỗi thời, việc phê phán chủ nghĩa xã hội, Lênin đã trở thành “mốt”, hay nói
một cách khác đây là biện pháp tích cực nhất để tước bỏ vũ khí lý luận của Đảng
cộng sản Liên Xô” (Sự phản bội của Goóc-Ba-Chốp, 1998, 21).
Về thể chế kinh tế, không căn cứ vào tình hình mới để phát triển sáng tạo lý
luận Mác, chủ quan duy ý chí, muốn nhanh chóng có chủ nghĩa xã hội, nên đã xoá
bỏ các hình thức sở hữu trung gian, ồ ạt công hữu hoá trong khi trình độ của lực
lượng sản xuất còn thấp chưa phát triển, đây là sai lầm đi trái quy luật: quan hệ sản
474
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

xuất phải phù hợp với tính chất của lực lượng sản xuất; cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng. Trong quản lý kinh tế duy trì chế độ tập trung bao cấp quá lâu, phân phối
bình quân... Bước vào thời kỳ cải tổ lại ồ ạt tư nhân hoá tràn lan, chủ yếu thực hiện
chính sách “500 ngày” tăng tốc phát triển kinh tế nhưng lại không có cơ chế quản lý
phù hợp dẫn đến thất bại sau đó lại chuyển sang cải tổ chính trị.
Về chính trị - xã hội, đã xử lý các mối quan hệ giữa các thành tố trong hệ thống
chính trị chưa đúng đắn, Đảng lãnh đạo nhưng lại bao biện làm thay, “Đảng trị”,
quan chức nhà nước thì quan liêu tham nhũng... Quyền làm chủ của nhân dân lao
động bị vi phạm, tạo ra rối ren trong xã hội thông qua việc cấm rượu... Chính sách
dân tộc, tôn giáo xử lý không đúng theo nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Công tác tổ chức cán bộ, việc đào tạo, sử dụng tùy tiện, giáo dục, bồi dưỡng cán bộ
lúc tả khuynh lúc hữu khuynh.
- Đảng cộng sản Liên xô đã buông lỏng sự lãnh đạo đối với hệ thống chính trị của chủ
nghĩa xã hội.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng là lực lượng lãnh đạo hệ thống chính
trị của chủ nghĩa xã hội và là một bộ phận của hệ thống đó. Từ chỗ chưa có chính
quyền đến có chính quyền là một bước ngoặt căn bản của cách mạng, là một bước
phát triển về chất trong sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Đảng là đội tiên
phong giác ngộ có tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp, được trang bị lý luận chủ nghĩa
xã hội khoa học, do đó trong hệ thống chính trị chỉ có Đảng mới đủ phẩm chất chính
trị và năng lực, xứng đáng là người lãnh đạo. Lênin viết: “Chủ nghĩa Mác giáo dục
đảng công nhân, là giáo dục đội tiên phong của giai cấp vô sản, đội tiên phong này
đủ sức nắm chính quyền và dẫn dắt toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh
đạo và tổ chức một chế độ mới, đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ
của tất cả những người lao động và những người bị bóc lột để giúp họ tổ chức đời
sống xã hội của họ, mà không cần đến giai cấp tư sản và chống lại giai cấp tư sản”
(Lênin, 1976, 33); “Về nguyên tắc, Đảng cộng sản phải giữ vai trò lãnh đạo, đó là điều
không còn phải nghi ngờ gì nữa” (Lênin, 1976, 453). Đảng phải lãnh đạo xây dựng và
phát huy vai trò của Nhà nước chuyên chính vô sản trong xây dựng xã hội mới; Đảng
phải phát huy vai trò gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đảng là hạt nhân
lãnh đạo, song chuyên chính vô sản không thể được thực hiện chỉ bằng lực lượng của
Đảng mà còn phải nhờ ở những tổ chức chính trị xã hội, đặc biệt là Đảng phải chăm

475
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

lo đến lợi ích và phát huy quyền làm chủ của quần chúng nhân dân lao động trên
mọi lĩnh vực. Trong hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội, Nhà nước là một bộ phận
hợp thành rất quan trọng. Nhà nước gắn liền với Đảng, với quần chúng đông đảo
trên lĩnh vực quản lý xã hội, quản lý kinh tế, là vũ khí mạnh mẽ thực hiện nhiệm vụ
của hệ thống chính trị. Như vậy, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là điều kiện tiên
quyết bảo đảm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Nhưng Đảng cộng sản Liên xô trong thời gian dài đã không thực hiện nguyên
tắc này và còn làm ngược lại biểu hiện: Buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng, thủ tiêu
sức mạnh, tập trung cao độ bao biện làm thay Nhà nước và của cả hệ thống chính
trị, mất dân chủ trong hoạt động của Đảng, mở đường cho những phần tử phản
động phá hoại chính quyền, độc đoán, chuyên quyền đưa đất nước trở lại con
đường tư bản chủ nghĩa.
- Cán bộ của đảng thoái hóa, biến chất xa rời quần chúng nghiêm trọng, không trau dồi
bổ sung lý luận trong Đảng.
Đảng phải tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động vào Đảng, phải thường xuyên đưa những người không đủ tiêu
chuẩn và những phần tử cơ hội ra khỏi Đảng. Đảng phải xứng đáng vai trò đội tiên
phong và lãnh tụ chính trị của giai cấp vô sản. Đảng phải là bộ phận có ý thức giác
ngộ nhất của giai cấp, là hình thức tổ chức cao nhất của giai cấp vô sản. Do đó phải
tuyển lựa đảng viên một cách chặt chẽ, người đảng viên phải thực sự là chiến sĩ tiên
phong cách mạng của giai cấp vô sản, phải phân biệt đảng viên với người cảm tình
đảng. Lênin viết: “Trái lại, các tổ chức đảng của chúng ta bao gồm những người dân
chủ - xã hội chân chính mà càng mạnh mẽ bao nhiêu, và trong nội bộ đảng càng ít
có tình trạng dao động và không kiên định bao nhiêu, thì ảnh hưởng của đảng đối
với những người trong quần chúng công nhân chung quanh đảng và chịu sự lãnh
đạo của đảng, sẽ càng rộng rãi, càng nhiều mặt, càng phong phú, càng hiệu quả bấy
nhiêu” (Lênin, 1979, 288-289). Việc phát triển Đảng phải đi đôi với củng cố Đảng,
hai mặt này gắn bó chặt chẽ với nhau. Làm tốt công tác phát triển Đảng có ý nghĩa
thiết thực góp phần củng cố Đảng. Phát triển Đảng đúng tiêu chuẩn, đúng phương
hướng, qua đó nâng cao chất lượng đảng viên, đó là việc làm cần thiết để nâng cao
sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng. Đồng thời “Phải đuổi ra khỏi Đảng
những kẻ gian giảo, những đảng viên cộng sản đã quan liêu hoá, không trung thực,

476
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

nhu nhược...” (Lênin, 1978a, 154). Như vậy, muốn làm cho đội ngũ của Đảng luôn
luôn trong sạch, có đủ năng lực lãnh đạo hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân, một mặt kết nạp những chiến sĩ ưu tú, đồng thời phải kiên quyết đưa ra
khỏi Đảng những phần tử cơ hội, thoái hoá biến chất.
Nhưng Đảng cộng sản Liên xô trong thời gian dài đã không thực hiện nguyên
tắc này biểu hiện: Nạn cửa quyền hách dịch với quần chúng nhân dân không nắm
được nguyện vọng của dân, không tôn trọng ý kiến nhân dân, chuyên quyền, độc
đoán cá nhân, xa rời quần chúng nhân dân. Cán bộ lãnh đạo tham nhũng, đặc quyền,
đặc lợi ở mức độ khác nhau. Đảng cộng sản Liên Xô đã mất đi hình ảnh của những
người cộng sản chí công vô tư suốt đời phục vụ nhân dân, vào giờ phút lâm nguy
quần chúng nhân dân cũng không chia sẻ với khó khăn của Đảng. Trái lại, với khẩu
hiệu “cải tổ để đem lại cuộc sống cho nhân dân” thì uy tín của Yeltsin trong quần
chúng nhân dân lên cao với chiêu bài: kiên quyết chống đặc quyền, đặc lợi... Phái đối
địch nắm lấy điểm này để kích động, cổ vũ quần chúng chống đối Đảng cộng sản và
chính quyền các cấp ở Liên xô, đẩy quần chúng đối trọng với chính quyền.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ trong đảng bị phá hoại
Theo Mác và Ăngghen, tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản trong
xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng. Đảng phải được tổ chức theo
chế độ tập trung dân chủ, chế độ tập trung dân chủ là nền tảng tổ chức của một
đảng vô sản kiểu mới. Thực hiện chế độ tập trung dân chủ trong Đảng sẽ làm cho
Đảng thống nhất được chính trị, tư tưởng và tổ chức nhằm củng cố và tăng cường
sức mạnh, làm cho mọi chủ trương, đường lối được thực hiện một cách có hiệu quả,
thực hiện tốt chế độ tập trung dân chủ sẽ góp phần ngăn ngừa sự phá hoại của các
phần tử không kiên định, vô chính phủ, cơ hội chủ nghĩa. Lênin viết: “Hiện nay
chúng ta đã trở thành một đảng có tổ chức, điều đó có nghĩa là chúng ta đã tạo ra
một quyền lực, biến uy tín về tư tưởng thành uy tín về quyền lực, khiến cấp dưới
phải phục tùng cấp trên của đảng” (Lênin, 1979, 428-429). Đảng muốn lãnh đạo giai
cấp vô sản và quần chúng lao động trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản,
muốn có sức mạnh, Đảng phải có sự thống nhất về ý chí và hành động. Điều kiện
cho sự thống nhất của Đảng trước hết phải có cương lĩnh chính trị, và sau đó phải
có tổ chức chặt chẽ, làm điều đó sẽ tránh được tình trạng chia rẽ, phân tán ở trong
Đảng. Ngoài hai yếu tố cương lĩnh chính trị và hệ thống tổ chức chặt chẽ, để nguyên

477
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

tắc tập trung dân chủ thực hiện đúng đắn, Đảng phải có một điều lệ thống nhất,
một cơ quan chỉ đạo thống nhất, Đảng phải có một kỷ luật sắt tự giác, nghiêm minh.
Lênin khẳng định: “Từ chối không chịu phục tùng sự lãnh đạo của các cơ quan
trung ương, tức là từ chối không muốn làm người đảng viên, tức là phá hoại đảng”
(Lênin, 1979, 424). Tập trung đi liền với dân chủ, Đảng phải có dân chủ, nếu không
có dân chủ sẽ có nguy cơ thoái hoá thành tổ chức quan liêu. Tập trung càng cao thì
dân chủ càng cao. Không thể có dân chủ mà thiếu tập trung và ngược lại không thể
có tập trung mà thiếu dân chủ. Yêu cầu ý thức giác ngộ của đảng, lòng trung thành đối
với sự nghiệp cách mạng, phải liên hệ, gần gũi với quần chúng lao động và được quần
chúng tin tưởng.
Nhưng Đảng cộng sản Liên xô trong thời gian dài đã không thực hiện nguyên
tắc này biểu hiện: Vấn đề nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng Cộng sản Liên
Xô bị phá hoại làm cho đảng mất khả năng lãnh đạo, mà ngay cả mâu thuẫn trong
đảng cũng không giải quyết nổi. Tệ sùng bái cá nhân, độc đoán chuyên quyền, từ
những năm 1930 đã phá hoại pháp chế dân chủ làm tổn thương nghiêm trọng hình
ảnh của chủ nghĩa xã hội. Từ Đại hội lần thứ XX của Đảng Cộng sản Liên Xô trở đi,
không ngừng phê phán Stalin, mặc dù vậy đảng vẫn không thực sự rút ra bài học
đó. Goócbatrốp nói dân chủ, nhưng thực tế là trong Đảng lại thiếu dân chủ, nhiều
vấn đề quan trọng liên quan đến vận mệnh đất nước đều không thông qua tập thể
bàn bạc và quyết định: “Goócbatrốp thanh trừng hàng loạt trong Đảng... trong 4
năm (1986-1989) thay thế 80 - 90% các bí thư huyện uỷ, thành uỷ, tỉnh uỷ, khu uỷ...
trong khi đó một nửa các bí thư mới thậm chí không được bầu mà chỉ định bổ
sung” (Sự phản bội của Goóc-Ba-Chốp, 1998, 21), “Từ bỏ điều 6 của hiến pháp,
chuyển từ nguyên tắc xây dựng Đảng thống nhất sang liên minh tự nguyện của
các Đảng của các nước cộng hoà... tước bỏ đi nguyên tắc lãnh đạo và xây dựng
tổ chức và hoạt động của Đảng” (Sự phản bội của Goóc-Ba-Chốp, 1998,27-30).
Thời kỳ xảy ra khủng hoảng ở Liên Xô và Đông Âu, người ta đã tiến hành
điều tra xã hội học về đảng: “Đảng Cộng sản Liên Xô đại biểu cho ai”. Kết quả cho
thấy: Đảng Cộng sản Liên Xô đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động chỉ chiếm
7%, đại biểu cho công nhân chỉ chiếm 4%, đại biểu cho toàn thể đảng viên cũng chỉ
chiếm 11%, còn cho rằng Đảng Cộng sản Liên Xô đại biểu cho giới quan chức của
đảng, đại biểu cho cán bộ, đại biểu cho nhân viên công tác ở các cơ quan chiếm 85%.

478
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Xem xét thực tế sau khi Liên Xô sụp đổ, “tầng lớp quý tộc mới” của Nga hiện nay
phần lớn không phải là những người bất đồng chính kiến, mà là quan chức các cấp
trong Đảng Cộng sản Liên Xô trước đây. Chính lớp cán bộ thoái hoá biến chất đó
trong đảng, trước tiên mượn “cải tổ” để phá hủy chế đô xã hội chủ nghĩa. Sau đó,
khi giải thể, họ trở thành những kẻ mới phất lên mà không một điều băn khoăn gì,
mặc sức vơ vét của cải. Đối với một đảng mất lòng dân, xa rời quần chúng nhân dân
như thế, thì đảng đó có cầm quyền hay không cầm quyền cũng không liên quan gì
đến quần chúng nhân dân, quần chúng không quan tâm đảng đó còn hay mất. Điều
đó cũng dễ hiểu, vì sao khi lá cờ trên điện Kremli bị kéo xuống, Matxcơva tĩnh lặng
quần chúng nhân dân không hề có một phản ứng gì, việc chuyển giao chính quyền
rất thuận lợi. Điều đó nghĩa là sự hủ bại trong Đảng Cộng sản Liên Xô là nguyên
nhân tầng sâu khiến nó sụp đổ. Mặt khác, kỷ luật trong đảng bị buông lỏng tập
trung quan liêu, chuyên quyền, độc đoán, dân chủ vô tổ chức, vô chính phủ do đó
các phần tử chống cộng ở ngoài đảng, chúng xúi bẩy mọi người đứng lên từ trong
đảng. Về một ý nghĩa nào đó mà nói, sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu là cuộc tự
đảo chính do bọn người này phát động.
- Không thực hiện đúng: Đảng là một khối thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng.
Sức mạnh của Đảng là sự đoàn kết thống nhất: đoàn kết thống nhất là quy luật
trưởng thành của Đảng. Sự thống nhất nội bộ Đảng là cơ sở để thống nhất giai cấp
vô sản, là điều kiện tất yếu để giai cấp vô sản giành được thắng lợi trong cuộc đấu
tranh cách mạng vô cùng gay go ác liệt giành chính quyền và giữ vững chuyên
chính vô sản. Sự đoàn kết thống nhất trong Đảng bắt nguồn từ bản chất của giai cấp
công nhân, từ sự kết cấu chặt chẽ của Đảng. Muốn đưa cuộc cách mạng của giai cấp
vô sản đến thắng lợi, Đảng “Phải có một sự thống nhất ý chí hết sức chặt chẽ, tuyệt
đối” (Lênin, 1978b, 245), đồng thời đó là nguồn gốc sức mạnh chủ yếu, vô địch, vô
tận của Đảng, là điều kiện để đoàn kết giai cấp.
Nhưng Đảng cộng sản Liên xô trong thời gian dài đã không thực hiện nguyên
tắc này thậm chí còn vi phạm nghiêm trọng: sự mất đoàn kết thống nhất đội ngũ
trong Đảng, mất đoàn kết toàn dân. Đảng cũng như mỗi đảng viên không phát hiện
và sửa chữa sai lầm, không thực hiện tự phê bình và phê bình nhằm nâng cao trí tuệ,
không kịp thời giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ Đảng...

479
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

- Đảng không liên hệ mật thiết với quần chúng, quan liêu, xa rời quần chúng.
Đảng phải liên hệ mật thiết với quần chúng, là hiện thân của mối liên hệ giữa
đội tiên phong với giai cấp công nhân và nhân dân lao động; kiên quyết đấu tranh
để ngăn ngừa và khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng. Quần chúng tin
tưởng ở Đảng, ủng hộ Đảng và theo Đảng làm cách mạng, đồng thời Đảng làm
hết sức mình để phát huy vai trò và khả năng sáng tạo không bao giờ cạn của quần
chúng. Sức mạnh vô địch của Đảng là ở mối liên hệ với nhân dân, cũng như sức
mạnh dời non lấp biển của nhân dân bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng. Lênin
viết: “Để không trở thành đảng của quần chúng chỉ trên lời nói, chúng ta phải thu
hút quần chúng ngày càng rộng rãi tham gia vào tất cả những công việc của đảng”
(Lênin, 1979, 106).
Thực tiễn đã chứng minh: mối liên hệ với quần chúng là quy luật tồn tại, phát
triển và hoạt động của Đảng cộng sản, là nguồn gốc sức mạnh của Đảng, là bảo đảm
cho sự thành công của toàn bộ sự nghiệp cách mạng, nếu không liên hệ với quần
chúng thì Đảng không là cái gì hết. Lênin viết: “Đội tiền phong chỉ làm tròn được
sứ mệnh của nó khi nó biết gắn bó với quần chúng mà nó lãnh đạo và thực sự dẫn
dắt toàn thể quần chúng tiến lên. Nếu không liên minh với những người không phải
là đảng viên cộng sản trong các lĩnh vực hoạt động hết sức khác nhau, thì không thể
nói tới một thành công nào trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản cả” (Lênin,
1978c, 28). Củng cố mối liên hệ này là vấn đề thuộc bản chất của Đảng cộng sản,
thiếu điều kiện này không những không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
mà còn có thể dẫn đến nguy cơ mất chính quyền. Trong giai đoạn Đảng lãnh đạo
chính quyền xây dựng chủ nghĩa xã hội, vấn đề củng cố và tăng cường mối liên hệ
giữa Đảng và nhân dân càng trở nên cấp bách và quan trọng hơn bao giờ hết. Vì
bước vào cách mạng xã hội chủ nghĩa là bước vào một cuộc cách mạng sâu sắc nhất,
toàn diện nhất, triệt để nhất và do đó nó cũng gay go nhất, phức tạp nhất trong lịch
sử loài người. Đó là thời đại rung chuyển vũ bão về chính trị và kinh tế, thời đại
đấu tranh giai cấp cực kỳ sâu sắc. Cuộc cách mạng này đòi hỏi Đảng phải động viên
và phát huy cao nhất tính tích cực và sáng tạo của quần chúng nhân dân, không
như thế thì không thể có chủ nghĩa xã hội được. Lênin đã khẳng định: “Chủ nghĩa
xã hội sinh động sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân”
(Lênin, 1979b, 64) và “một trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ nhất là tự

480
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

cắt đứt liên hệ với quần chúng” (Lênin, 1978a, 426), nếu những ai quên mất những
mối quan hệ khăng khít giữa đội tiên phong và toàn thể quần chúng nhân dân
thì đó sẽ là một tai hoạ.
Nhưng Đảng cộng sản Liên xô trong thời gian dài đã không thực hiện nguyên
tắc này biểu hiện: Đảng cộng sản Liên xô đã xa rời mối liên hệ giữa Đảng và quần
chúng, không phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đội ngũ cán bộ, đảng viên
hoạt động trong các lĩnh vực thì quan liêu không hướng dẫn quần chúng thực hiện
đường lối, nghị quyết của Đảng. Trong Đảng nảy sinh bệnh quan liêu, mệnh lệnh,
xa rời quần chúng, nhất là khi đảng viên có chức, có quyền, làm cho một bộ phận
cán bộ, đảng viên thiếu rèn luyện rơi vào tình trạng thoái hoá, biến chất, xa dần với
nhân dân. Vì vậy, đã làm tiêu vong tổ chức Cộng sản từ gốc rễ của nó, đúng như lời
cảnh báo của Lênin đối với các Đảng cộng sản và đội ngũ đảng viên cộng sản.
- Từ bỏ tính quốc tế của Đảng cộng sản.
Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng trong xây dựng Đảng kiểu mới
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính xuất phát từ vai trò sứ mệnh lịch sử thế giới của
giai cấp công nhân hiện đại mà khi nghiên cứu nguồn gốc, bản chất của giai cấp công
nhân Mác và Ăngghen đã đề ra khẩu hiệu: “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại”. Giai
cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công nghiệp, khi nền sản xuất phát triển, sự
tồn tại của chế độ sở hữu tư bản tư nhân không còn phù hợp, nó tất yếu sẽ bị thay thế
bởi chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, từ đó tạo nên mối đoàn kết giữa các
dân tộc. Đúng như Lênin khẳng định: “Sự phát triển của trao đổi quốc tế và của nền
sản xuất cho thị trường toàn thế giới đã tạo ra một mối quan hệ hết sức chặt chẽ giữa
tất cả các dân tộc trong thế giới văn minh, khiến cho phong trào công nhân hiện đại
phải trở thành và từ lâu đã trở thành một phong trào quốc tế” (Lênin, 1975, 261).
Người nhấn mạnh: “Chỉ có người vô sản mới có khả năng xoá bỏ sự cách biệt giữa
các dân tộc, chỉ có giai cấp vô sản giác ngộ mới xây dựng được tình anh em giữa các
dân tộc khác nhau” (Lênin, 1995, 792). Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân là
bản chất của Đảng cộng sản. Tính quốc tế của Đảng thể hiện trước hết ở chỗ Đảng
được tổ chức và hoạt động theo những nguyên lý của học thuyết Mác - Lênin; Đảng
định ra đường lối, chiến lược, sách lược đối nội và đối ngoại; quan tâm giáo dục đội
ngũ đảng viên và quần chúng lao động về chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân
và “Liên minh với những người cách mạng trong các nước tiên tiến và với tất cả các

481
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

dân tộc bị áp bức chống bọn đế quốc chủ nghĩa thuộc bất cứ loại nào, đó là chính sách
đối ngoại của giai cấp vô sản” (Lênin, 1981, 425).
Nhưng Đảng cộng sản Liên xô trong thời gian dài đã không thực hiện nguyên
tắc này biểu hiện: ngay trong Đảng đã từ bỏ chủ nghĩa yêu nước chân chính gắn với
chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đảng cộng sản Liên xô đã mắc phải chủ nghĩa sôvanh
nước lớn, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin về đoàn kết
quốc tế.
2. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ CHỈNH ĐỐN
ĐẢNG TA HIỆN NAY
Bài học về sự thất bại của Đảng Cộng sản Liên Xô có nhiều trong đó có bài học
về xây dựng Đảng kiểu mới theo tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, đó là công tác
xây dựng Đảng mácxít chân chính. Vì vậy, khẳng định trong quá trình lãnh đạo cách
mạng Việt Nam phải tăng cường xây dựng và chỉnh đốn đảng theo nguyên tắc của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện, đã luôn chăm lo xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Đây là nhiệm vụ thường xuyên
của Đảng để thực hiện vai trò lãnh đạo cách mạng của mình. Người chỉ rõ: “việc cần
làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng”, “thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và
nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình”, “giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như
giữ gìn con ngươi của mắt mình”, “giữ gìn Đảng ta thật trong sạch” (Hồ, 1995,
497,498,503). Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn
Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiền phong, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch vững mạnh
về chính trị tư tưởng và tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách
mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học, luôn gắn bó
với nhân dân” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006, 279). Để thực hiện phương hướng đó
cần nắm vững và thực hiện có hiệu quả những nội dung sau:
Một là, kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới
của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa

482
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh là phải nắm vững mối quan hệ giữa kiên định và phát triển. Nghĩa là, phát
triển trên cơ sở kiên định nguyên tắc cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam, với xu
thế của thời đại. Thực tiễn luôn vận động, phát triển và biến đổi không ngừng nên
lý luận Mác - Lênin cũng cần được bổ sung, phát triển phù hợp với thực tiễn đương
đại. Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống mở, không thể coi những nhận thức đạt
được cho đến ngày nay là những chân lý tuyệt đối cuối cùng. Không ngừng phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin vừa là yêu cầu thực tiễn xã hội, vừa là yêu cầu nội tại
của học thuyết Mác - Lênin. Có phát triển và thông qua phát triển, chủ nghĩa Mác -
Lênin mới tự bảo vệ được mình, mới phát huy sức sống và sức mạnh với thời đại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Vì vậy, bảo vệ, vận dụng và phát triển
sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chính là phát huy sức mạnh, sức sống của chủ
nghĩa Mác - Lênin ở nước ta. Để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, phải kiên quyết đấu tranh với những quan điểm, tư tưởng thù
địch, sai trái, bảo vệ tính khoa học, trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Cần tổ chức nghiên cứu, nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên
tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh từ những luận điểm
chung đến những luận điểm cụ thể, trên từng lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Tăng cường hơn sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất
của các cấp ủy đảng trong đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch; bảo
đảm các hoạt động đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận theo đúng định hướng
của Đảng, chặt chẽ về nguyên tắc, vững vàng trong quan điểm chính trị, sâu sắc về
tính khoa học, hiệu quả trong phương pháp đấu tranh. Cần huy động lực lượng
rộng rãi trong các cơ quan nghiên cứu lý luận, các cơ quan nghiên cứu khoa học,
các cơ quan truyền thông, báo chí... tiến công chống các quan điểm sai trái, thù địch
trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận.
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi
mới; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng trong bối cảnh của tình hình thế giới
hiện nay với những diễn biến hết sức nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo, khó đoán

483
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

định, với nhiều bất ổn, thời cơ, thuận lợi và thách thức, khó khăn đan xen đòi hỏi
Ðảng ta không chỉ cần có bản lĩnh chính trị vững vàng mà phải có trình độ trí tuệ
cao, có tư duy đổi mới, có tầm nhìn chiến lược, biết nhìn xa trông rộng. Sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, khó khăn, gian khổ bởi điểm
xuất phát của nước ta rất thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, luôn bị các thế lực
thù địch chống phá, thực hiện âm mưu và hoạt động diễn biến hòa bình. Ðặc biệt,
sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một sự nghiệp mới mẻ, chưa
có tiền lệ trong lịch sử, lại đang diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa dân tộc cực đoan,
chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế gia
tăng. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức
tạp, quyết liệt hơn. Ðây là quá trình vừa làm vừa học, vừa làm vừa tổng kết, rút
kinh nghiệm, khái quát thành lý luận trên cơ sở lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn của chân
lý, từng bước khắc phục các quan niệm giáo điều, đơn giản trong xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta.
Hai là, phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị.
Đảng ta đặt ra yêu cầu phải thường xuyên đổi mới và chỉnh đốn Đảng để lãnh
đạo hệ thống chính trị, nhất là đối với Nhà nước có chất lượng và hiệu quả ngày
càng cao. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối. Nhà nước thể chế hoá, cụ thể
hoá đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng thành Hiến pháp, pháp
luật, kế hoạch, các chương trình công tác lớn; xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch
vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Đảng không buông lỏng lãnh đạo,
đồng thời không bao biện, làm thay Nhà nước.
Ba là, phải xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, thắt chặt mối quan hệ gắn bó máu thịt
giữa Đảng với nhân dân.
Phải tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên,
hướng vào việc nêu cao phẩm chất cách mạng, nêu cao ý thức phục vụ nhân dân,
thực sự tôn trọng và bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân; rèn luyện phong
cách làm việc khoa học, thiết thực cụ thể, bám sát cơ sở và quần chúng. Đồng thời,
phải nâng cao trình độ kiến thức khoa học xã hội, tự nhiên, năng lực quản lý và tổ
chức thực hiện. Phải tăng cường công tác tổ chức, kiểm tra việc chấp hành các
nguyên tắc tổ chức của Đảng. Các cấp lãnh đạo, cán bộ lãnh đạo phải thực sự lắng
nghe ý kiến của cấp dưới, của đảng viên và nhân dân, có cơ chế để nhân dân bày tỏ
484
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

ý kiến đối với những quyết định lớn, tham gia giám sát vào các công việc của Đảng,
khắc phục lối làm việc quan liêu, xa dân. Chống tệ quan liêu, coi thường, không tôn
trọng quyền làm chủ của quần chúng, xa thực tế, xa quần chúng, không nắm chắc
tình hình mọi mặt của cuộc sống, của cơ sở, tổ chức bộ máy cồng kềnh, nặng giấy
tờ, hình thức, cửa quyền, mệnh lệnh, tham nhũng, lãng phí.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm xây dựng mối liên
hệ giữa Đảng và quần chúng. “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong
thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” (Hồ, 1996, 276). Vì
vậy, trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, càng phải tăng cường vận động
quần chúng tham gia xây dựng Đảng. Đảng là người lãnh đạo quần chúng và phong
trào cách mạng của quần chúng, nhưng cũng chính từ quần chúng và phong trào
cách mạng của quần chúng, Đảng cũng mạnh và trưởng thành lên. Hiện nay, mối
liên hệ trên cần có sự bổ sung nội dung, yêu cầu mới cao hơn, phải thực sự tôn trọng
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, lấy đó làm động lực thúc đẩy công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội; quan tâm đến lợi ích của quần chúng, chăm lo đến đời
sống vật chất và văn hoá của nhân dân; giáo dục quần chúng, làm cho quần chúng
tự giác thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và đấu tranh bảo vệ đường lối,
chính sách đó có hiệu quả.
Bốn là, bảo đảm vai trò nền tảng và hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở đảng, nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Đây là một trong những vấn đề rất quan trọng của công tác xây dựng Đảng
hiện nay nhằm góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Đảng ta xác định: Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Cần có phương
thức thích hợp để nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, phát huy
mạnh mẽ vai trò, hiệu lực của Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, xây dựng một
hệ thống chính trị hoạt động năng động, có hiệu lực và hiệu quả, Phương châm đổi
mới là tiến hành đồng bộ đổi mới tư duy với đổi mới tổ chức, cán bộ, quá trình đổi
mới phải tiến hành thận trọng, từng bước. Cách làm phải thực sự dân chủ, chống
sự áp đặt, chủ quan, hình thức. Để bảo đảm vai trò nền tảng và hạt nhân chính trị
của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên phải tiến
hành bằng nhiều biện pháp, trong đó, phải thường xuyên kiện toàn hệ thống tổ
chức cơ sở đảng. Mỗi tổ chức cơ sở đảng phải có trách nhiệm tổ chức và quy tụ sức

485
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

mạnh của toàn đơn vị hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao; làm tốt công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý và giám sát đảng viên về năng lực hoàn thành
nhiệm vụ và phẩm chất, đạo đức, lối sống; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và
các hiện tượng tiêu cực trong Đảng. Phải căn cứ vào đường lối, chính sách của Đảng
mà tăng cường, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác chính trị, tư tưởng, lý luận
nâng cao trình độ trí tuệ, xây dựng lập trường giai cấp công nhân cho cán bộ, đảng
viên, củng cố sự thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức trong Đảng. Công tác
kết nạp đảng viên nhất thiết phải bảo đảm đúng tiêu chuẩn, thông qua tự phê bình
và phê bình để mọi đảng viên ra sức rèn luyện, học tập, có đủ phẩm chất, kiến thức
và năng lực thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Đồng thời, kiên quyết đưa ra khỏi
Đảng những đảng viên thoái hoá, biến chất về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống,
mất đoàn kết, bè phái, tham nhũng.
Năm là, giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm
sâu sắc đến đạo đức cách mạng, tư tưởng về đạo đức cách mạng của Người đã thực
sự trở thành tài sản tinh thần vô giá của Đảng và của dân tộc Việt Nam. Theo Hồ
Chí Minh: “Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Đó là đạo đức
cách mạng. Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức
vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của
dân tộc, của loài người” (Hồ, 1995a, 252). Đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh là sự
kết hợp hài hoà giữa giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam với tinh
hoa đạo đức nhân loại, đặc biệt là chủ nghĩa nhân đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đạo đức cách mạng thể hiện ở mục tiêu cách mạng. Mục tiêu cao cả nhất của Đảng
cũng như của mỗi đảng viên là giải phóng dân tộc, đồng thời các tiêu chí đó cũng chỉ
đạo hoạt động của Đảng, tư cách đạo đức cách mạng của đảng viên phải được thể hiện
trên thực tế thì Đảng mới có sức mạnh. Theo Bác lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc cũng
là lợi ích của Đảng, Đảng cộng sản Việt Nam không còn lợi ích nào khác ngoài lợi ích
của dân tộc, của Tổ quốc.
Đạo đức cách mạng có nghĩa là phải sống, chiến đấu, lao động và học tập vì
lợi ích chung của Đảng, của Tổ quốc, của toàn thể nhân dân lao động; phải biết đặt
lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên, lên trước lợi ích cá nhân mình. Đạo đức
cách mạng có vị trí vai trò đặc biệt quan trọng, nó là cái “gốc”, là “nền tảng”, là cái

486
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

“căn bản” của người cách mạng. Người khẳng định: “Cũng như sông có nguồn mới
có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không
lãnh đạo được nhân dân” (Hồ, 1995a, 252). Những cán bộ, đảng viên không có đạo
đức cách mạng sẽ mắc phải chứng chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân sẽ sinh ra
các thứ bệnh nguy hiểm. Vì vậy, Đảng ta đã khẳng định: “Học tập, quán triệt làm
theo tư tưởng và tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh” (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 2006, 286). Bởi vì: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong
một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng” (Đảng Cộng sản Việt Nam,
2006, 65). Do đó, việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên
phải thực hiện tốt các yêu cầu sau đây:
- Phải xây dựng lòng trung thành đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân. Sự
trung thành đó trước hết phải có sự giác ngộ sâu sắc lý tưởng, mục tiêu cách mạng
của Đảng, lấy đó làm mục đích hoạt động của mình. Sự trung thành đó thể hiện
trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn nào cũng quyết tâm phấn đấu để thực hiện mục
tiêu, lý tưởng của Đảng, suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng; hết lòng, hết
sức phụng sự nhân dân, thương yêu giúp đỡ nhân dân, kiên quyết chống bệnh quan
liêu, thói gia trưởng, cửa quyền, ức hiếp nhân dân và thói kiêu ngạo.
- Phải xây dựng tinh thần tập thể, ý thức cộng đồng cho cán bộ, đảng viên, làm
cho họ luôn biết đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của cộng đồng lên trên lợi ích cá
nhân; biết hy sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích chung của Đảng; có lối sống “mình vì
mọi người”; gương mẫu trước quần chúng.
- Xây dựng lối sống có tình, có nghĩa, có trước, có sau, nhân hậu, thuỷ chung,
đoàn kết, thương yêu, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau bằng chính những hành động
của mình trong cuộc sống hàng ngày; có thái độ nghiêm khắc đối với chính bản thân
mình; khoan dung, độ lượng và tôn trọng đối với mọi người.
- Giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên có đức tính: cần, kiệm, liêm chính, chí
công vô tư, có nghĩa là phải tận tụy trong công việc, không lười biếng, không tham
ô lãng phí, sống trung thực thẳng thắn đối với mọi người, hết lòng, hết sức phục vụ
sự nghiệp chung, tránh lối sống vị kỷ và chủ nghĩa cá nhân.

487
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

- Phải xây dựng cho cán bộ đảng viên có lòng dũng cảm, ý chí kiên cường
trong đấu tranh ngăn chặn những biểu hiện sai trái, tiêu cực trong cuộc sống và
những hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
Sáu là, đấu tranh phê phán các quan điểm, tư tưởng sai trái của các thế lực phản động.
Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang tiến hành chiến lược
“diễn biến hoà bình” để chống phá cách mạng nước ta. Trong đó, chúng đã triệt để
lợi dụng con bài tôn giáo, dân tộc và “phi chính trị hoá quân đội” làm ngòi nổ. Vì
vậy, vừa phải xây dựng, củng cố hệ tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quán triệt đường lối quan điểm, chủ trương chính sách của Đảng pháp
luật Nhà nước, nhiệm vụ quân đội, vừa phải kiên quyết đấu tranh với các quan
điểm sai trái thù địch, đây là nhiệm vụ thường xuyên và cấp bách của cả hệ thống
chính trị nhất là các nhà khoa học. Đội ngũ các nhà khoa học đặc biệt là khoa học xã
hội và nhân văn phải tiến hành nghiên cứu, bổ sung và phát triển lý luận góp phần
vào bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm
của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà nước. Xây dựng phẩm chất, đạo đức cách
mạng cho cán bộ, đảng viên và quân nhân phù hợp với điều kiện mới, xây dựng và
nâng cao bản lĩnh chính trị, lập trường, quan điểm vững vàng, thế giới quan khoa
học, có kiến thức sâu rộng, có năng lực, có phương pháp tư duy khoa học, sắc bén
về lý luận, nhạy cảm trong thực tiễn, cảnh giác cách mạng cao, dũng cảm, giữ vững
nền tảng tinh thần của quân đội và xã hội. Đồng thời phải bám sát định hướng trong
công tác đấu tranh trên mặt trận lý luận tư tưởng của Đảng, của Quân đội, bám sát
cuộc sống của xã hội, quân đội, đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp đấu tranh;
chủ động đoàn kết phối hợp chặt chẽ với các lực lượng tham gia có hiệu quả vào cuộc
đấu tranh chống chiến lược “diễn biến hoà bình” để xây dựng Quân đội cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Chủ động đấu tranh chống lại chủ nghĩa cá nhân, khắc phục sự suy thoái về
chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ có chức, có quyền. Để
củng cố và phát triển những đức tính tốt đẹp của đạo đức cách mạng: “Chủ nghĩa
cá nhân là như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy

488
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

hiểm” (Hồ, 1995a, 255) như: Bệnh tham lam, bệnh lười biếng, bệnh kiêu ngạo, bệnh
hiếu danh, thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc địa phương, óc lãnh tụ, thiếu tin tưởng và
nhất trí với đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, tham ô, lãng phí, bè cánh,
hủ hoá, lối sống thực dụng, quan liêu, trù dập, thiếu dân chủ vi phạm nguyên tắc...
không yêu thương con người, không thực hiện cần, kiệm, liêm chính, chí công vô
tư. Phải phê bình và tự phê bình, phải thực hiện công tác kiểm tra, giữ gìn kỷ luật
Đảng, đó là “Thang thuốc hay nhất”, “Ta phải tự phê bình ráo riết, và phải lấy lòng
nhân ái, lấy lòng thành thật mà ráo riết phê bình đồng chí mình. Hai việc đó phải
đi đôi với nhau” (Hồ, 1995a, 239), để giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng thực
hành “Chí công vô tư, cần, kiệm, liêm, chính!”, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
Chính trị quốc gia.
[2]. Hồ, C. M. (1995a). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 5). Chính trị quốc gia.
[3]. Hồ, C. M. (1995b). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 12). Chính trị quốc gia.
[4]. Hồ, C. M. (2011). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 8). Chính trị quốc gia.
[5]. Lênin, V. I. (1974). Toàn tập (Vol. 4). Tiến bộ.
[6]. Lênin, V. I. (1975). Toàn tập (Vol. 6). Tiến bộ.
[7]. Lênin, V. I. (1976). Toàn tập (Vol. 33). Tiến bộ.
[8]. Lênin, V. I. (1978a). Toàn tập (Vol. 44). Tiến bộ.
[9]. Lênin, V. I. (1978b). Toàn tập (Vol. 36). Chính trị quốc gia Sự thật.
[10]. Lênin, V. I. (1978c). Toàn tập (Vol. 45). Chính trị quốc gia Sự thật.
[11]. Lênin, V. I. (1979a). Toàn tập (Vol. 8). Tiến bộ.
[12]. Lênin, V. I. (1979b). Toàn tập (Vol. 35). Tiến bộ.
[13]. Lênin, V. I. (1981). Toàn tập (Vol. 32). Tiến bộ.
[14]. Lênin, V. I. (1995). Toàn tập (Vol. 2). Tiến bộ.
[15]. Sự phản bội của Goóc-ba-chốp. (1998). Chính trị quốc gia.

489
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ


GIỮA ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Nguyễn Thị Hoài Thanh, Nguyễn Phương Thủy,
Hồ Thị Thủy, Nguyễn Phạm Nguyệt Linh
Trường Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Hoài Thanh, email: thanhhoai85tn@gmail.com

Tóm tắt: Trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam yêu nước, độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội không chỉ là khát vọng lưu truyền mà còn là hệ giá trị vô giá và
trở thành lẽ sống, lý tưởng phấn đấu, hy sinh mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và
nhân dân kiên định thực hiện. Bài viết phân tích những nội dung cơ bản trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trên cơ
sở đó chỉ ra sự vận dụng của Đảng về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
Từ khóa: độc lập dân tộc; chủ nghĩa xã hội; sự nghiệp đổi mới; mối quan hệ.

1. MỞ ĐẦU
Nhân dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 -
19/5/2021) và bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XV, Đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 (23/5/2021), trong bài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, đồng chí
Nguyễn Phú Trọng - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam nhấn mạnh: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ
bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh” (Nguyễn, 2022, 22). Nhận định của Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng đồng thời cũng là sự phản ánh trọn vẹn khát vọng chính đáng
của toàn dân tộc Việt Nam trong suốt tiến trình cách mạng nước ta và nhờ đó đã
tạo nên những kỳ tích phát triển mới trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội
Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

490
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP DÂN TỘC
VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng tấn công bán đảo Sơn Trà - Đà Nẵng,
mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Nhân dân Việt Nam đã kiên cường
đứng lên đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Tuy nhiên, các phong trào đấu tranh theo
khuynh hướng phong kiến và tư tưởng dân chủ tư sản đều thất bại. Điều đó chứng
tỏ rằng, vẫn là nhân dân giàu lòng yêu nước, có truyền thống chống giặc ngoại xâm,
sẵn sàng ủng hộ và tham gia các phong trào yêu nước; còn các bậc sĩ phu, các nhà
lãnh đạo các phong trào chống thực dân Pháp đều có trí dũng, không thiếu quyết
tâm, nhưng tất cả đều không giải quyết được vấn đề độc lập dân tộc.
Trước bối cảnh khủng hoảng về đường lối cứu nước, với khát vọng giải phóng
dân tộc, với mong muốn cháy bỏng đưa lại cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc cho
nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh - khi ấy là người thanh niên Nguyễn Tất Thành -
đã quyết tâm đi ra tìm đường cứu nước. Qua nhiều năm bôn ba khắp năm châu bốn
biển, năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp cận ánh sáng của học thuyết Mác - Lênin
và đã khẳng định: Con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng vô sản là cuộc
cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để. Cuộc cách mạng đó không chỉ giải phóng
giai cấp, mà còn hướng tới mục tiểu là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, hướng
tới xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Chủ trương độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội như ánh sáng soi đường đối với cách mạng Việt Nam, giải quyết
sự khủng hoảng bế tắc về tư tưởng, đường lối và giai cấp lãnh đạo. Thực chất, cái
đích của ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh chính là hiện thực hoá mục tiêu độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng này trở thành đường lối cơ bản,
xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nội dung của độc lập dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh được Người luận
chứng ở các phương diện:
Một là, Độc lập dân tộc phải gắn liền tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Người từng bộc bạch đầy tâm huyết: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn
tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng
bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” (Hồ, 1995, 161-162).

491
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Hai là, Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt
để trên tất cả các lĩnh vực. Người nhấn mạnh: độc lập mà người dân không có quyền
tự quyết về ngoại giao, không có quân đội riêng, không có nền tài chính riêng….,
thì độc lập đó chẳng có ý nghĩa gì (Hồ, 2011a, 64).
Ba là, Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Trong Di chúc, Người cũng đã thể hiện niềm tin tuyệt đối vào sự thắng lợi của
cách mạng, vào sự thống nhất nước nhà: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân
dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước
ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp
một nhà” (Hồ, 2011c, 506). Có thể khẳng định rằng tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với
thống nhất Tổ quốc, toàn vẹn lãnh thổ là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động
cách mạng của Hồ Chí Minh.
Khi nói về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: “Mục
đích của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách đơn giản và dễ hiểu là không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân” (Hồ, 2011b, 271).
Với một cái nhìn bình dị về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh quả quyết: “mục
đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân” (Hồ,
2011b, 159). Người diễn giải mục đích tổng quát này thành các tiêu chí cụ thể: “Chủ
nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy
được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục
tập quán không tốt dần được xóa bỏ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến bộ, vật chất
ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội” (Hồ, 2011b, 191). Kế
thừa nguyên lý của Chủ nghĩa Mác, Hồ Chí Minh cho rằng chủ nghĩa xã hội là xã hội
thuộc giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản - một xã hội không còn áp bức, bóc lột,
do nhân dân lao động làm chủ, trong đó con người sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
quyền lợi của cá nhân và tập thể vừa thống nhất, vừa gắn bó chặt chẽ với nhau.
Có thể thấy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội đã toát lên sâu sắc về mối quan hệ, về sự gắn kết không tách rời giữa độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

492
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc luôn là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa
xã hội. Độc lập dân tộc là mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ,
là mục tiêu trước hết của quá trình cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh
đạo, đồng thời là điều kiện hàng đầu, quyết định để cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cách
mạng dân tộc dân chủ càng triệt để thì những điều kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội
càng được tạo ra đầy đủ.
Chủ nghĩa xã hội là điều kiện để bảo đảm nền độc lập dân tộc vững chắc. Do đó,
xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng cơ sở cho phát triển của đất nước trên tất cả các
lĩnh vực. Với một chế độ xã hội như trên, chủ nghĩa xã hội sẽ có khả năng làm cho đất
nước phát triển mạnh mẽ, sẽ tạo nền tảng vững chắc để bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Chủ nghĩa xã hội hiện thực cũng sẽ góp phần hạn chế những cuộc chiến tranh phi
nghĩa, bảo vệ được nền hoà bình trên thế giới, độc lập dân tộc sẽ được giữ vững.
Trong bản Di chúc cuối đời để lại, Người viết: “Điều mong muốn cuối cùng
của tôi là toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đoàn kết, phấn đấu, xây dựng một
nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần
xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” (Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
1999, 40). Như vậy có thể thấy, khát vọng lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính
là hướng tới một nước Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc, dân chủ, phồn vinh,
hùng cường, sánh vai với các cường quốc năm châu. Khát vọng ấy của Người hòa
cùng khát vọng của cả dân tộc để tạo nên sức mạnh nội sinh mãnh liệt, đưa đến
thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở thời đại Hồ Chí Minh dưới sự
lãnh đạo của Đảng.

3. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP DÂN
TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội đã trở thành kim chỉ nam, là ngọn đèn soi đường chỉ lối cho cách
mạng Việt Nam, để rồi trong suốt hơn 90 năm qua, Đảng ta luôn đi theo ánh sáng
đó. Thực tiễn sự chỉ đạo của Đảng từ khi Đảng ra đời cho đến nay đã chứng minh
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tiến trình
cách mạng Việt Nam.

493
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 là mốc son đánh dấu sự kết hợp các
nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong
bản chất của Đảng. Trong các văn kiện của Đảng ta, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội luôn được đặt lên hàng đầu.
Đến giai đoạn 1930 - 1945: trong cương lĩnh vắn tắt, sách lược vắn tắt, Chương
trình tóm tắt đã chỉ rõ: “Chủ trương tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2002, 94). Dưới sự lãnh
đạo của Đảng, 20 triệu nhân dân Việt Nam đã tiến hành cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc đưa đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành chính quyền
về tay nhân dân, chấm dứt chế độ phong kiến kéo dài hàng nghìn năm, chấm dứt
sự đô hộ của thực dân Pháp sau gần một thế kỷ. Thắng lợi vĩ đại này của dân tộc
Việt Nam đã đưa nước ta bước sang một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Đến giai đoạn 1945 - 1954: Đảng lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc thắng lợi bằng chiến thắng lịch sử Điện
Biên Phủ chấn động địa cầu. Với Hiệp định Giơnevơ, miền Bắc nước ta hoàn toàn
giải phóng, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân.
Và với giai đoạn 1954 - 1975: Đảng ta xác định nhiệm vụ chung của cả nước là
tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập
và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
và giàu mạnh. Lịch sử Việt Nam chưa lúc nào được chứng kiến sự kết hợp giữa độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên phạm vi, quy mô lớn như thời điểm này của
cách mạng.
Trong suốt những năm tháng chiến tranh khốc liệt, dưới ánh sáng soi đường
của tư tưởng Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, biết bao chiến
sỹ đã kiên cường, bất khuất, anh dũng hy sinh cho độc lập tự do của dân tộc, cho
khát vọng xây dựng một đất nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, nhân dân có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Phần lớn trong số những người ngã xuống mới mười
tám đôi mươi, lứa tuổi đẹp nhất cuộc đời. Họ bước vào cuộc chiến với tâm thế của
494
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

những anh hùng, biết đặt khát khao giành độc lập, tự do lên trên sinh mạng của
chính mình. Họ sống và chiến đấu vì lý tưởng cao đẹp “Không có gì quý hơn độc
lập, tự do”, “tất cả vì Tổ quốc thống nhất ”. Mỗi một chiến sỹ nằm xuống, mỗi một
phần thi thể mất đi là một ánh hào quang soi sáng hơn con đường xây dựng và bảo
vệ tổ quốc.
Sau chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, miền Nam được hoàn toàn giải phóng,
đất nước thống nhất, cả nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, thống
nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội. Dù đất nước đã hòa bình, nhưng nguy cơ chiến
tranh chưa hẳn đã lùi xa, hàng ngày hàng giờ các thế lực thù địch, phản động lưu
vong vẫn nhăm nhe chia cắt, phá hoại đất nước, những loại tội phạm nguy hiểm
vẫn chực chờ cơ hội, thiên tai lũ lụt vẫn hoành hành. Bối cảnh ấy, một lần nữa tiếp
tục đòi hỏi và chứng minh tính đúng đắn, tính cần thiết phải tăng cường thực hiện
đồng thời hai nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, đi đôi với bảo vệ Tổ quốc.
Quá trình lãnh đạo đất nước đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), một lần nữa Đảng khẳng định lại bài
học kinh nghiệm về nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội: Độc lập
dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là
cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011), trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011), chúng ta một lần nữa khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là
khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam
và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử” (Đảng Cộng
sản Việt Nam, 2011, 70).
Trong văn kiện Đại hội XIII, Đảng một lần nữa nhấn mạnh việc chúng ta phải:
“Kiên định vận dụng phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
Trải qua hơn 90 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhất là
35 năm đổi mới đất nước, “chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa

495
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Đất
nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 25). Tuy vậy, bên cạnh những thành tựu, mặt tích
cực là cơ bản, chúng ta cũng còn đang phải đối mặt với những thách thức mới trong
quá trình phát triển đất nước.
Để phát huy cơ đồ, tiềm lực, vị thế, đưa đất nước bước vào thời kỳ phát triển
mới, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, bởi chủ nghĩa xã hội không chỉ mang lại độc lập cho dân
tộc, mà còn là con đường duy nhất đúng đắn để thực hiện khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc. Trong bài viết Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng đã khẳng định: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực
sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá
con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã
hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội.
Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị
tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé”, vì lợi
ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền
vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế
hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu
dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và, chúng ta cần một hệ thống
chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích
của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có” (Nguyễn, 2022, 21-22).
Để đạt những mục tiêu chiến lược, lâu dài như trên, chúng ta cần gắn độc lập
dân tộc với khát vọng phồn vinh, tự lực, tự cường. Độc lập dân tộc là điều kiện, tiền
đề để xây dựng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Ngược lại, đất nước
phồn vinh, hạnh phúc sẽ củng cố cho độc lập dân tộc được vững chắc hơn, lâu dài
hơn. Trước đây, độc lập dân tộc là không bị đô hộ, xâm lược về lãnh thổ thì ngày
nay phải độc lập về kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng. Muốn vậy, dân tộc phải tự
lực và tự cường để không bị thao túng, chi phối và thôn tính.

496
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Tiếp tục thực hành dân chủ trong xã hội, “dân là chủ và dân làm chủ” để
phát huy tiềm năng và năng lực sáng tạo của nhân dân, tạo động lực mạnh mẽ để
xây dựng nước nhà nhất định trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh,
hạnh phúc.
Tiếp tục thực hiện và phát huy công bằng xã hội - yêu cầu nội tại của chế độ
xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang phấn đấu xây dựng, cũng chính là mục tiêu, là
động lực kích thích mạnh mẽ tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người dân, tùy
theo khả năng, sức lực của mình, cùng đồng tâm tham gia xây dựng và phát triển
đất nước.
Khơi dậy khát vọng văn minh - tiêu chí quan trọng của tiến bộ xã hội, cũng là
một đặc trưng của xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, phù hợp với giá trị tiến bộ phổ
quát mà nhân loại đang hướng tới. Cụ thể hơn, cần hướng tới xây dựng một xã hội
“Về điều kiện vật chất: có thể đáp ứng nhu cầu cao của con người về sự thụ hưởng,
tạo điều kiện cho sự phát triển con người. Về văn hóa tinh thần: con người có môi
trường văn hóa để phát triển, hoàn thiện nhân cách của mình; có đời sống tinh thần
lành mạnh, đời sống đạo đức tiến bộ; con người được tự do lao động, sáng tạo, phát
huy hết khả năng để hoàn thiện bản thân và đóng góp cho sự phát triển xã hội; con
người sống thân thiện, hài hòa với tự nhiên”.
Khơi dậy khát vọng hạnh phúc, với các tiêu chí cơ bản: sự hài lòng về cuộc
sống (sự hài lòng về điều kiện kinh tế - vật chất; về mối quan hệ với gia đình và xã
hội; về an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, dịch vụ xã hội; sự hài lòng về hoạt động của
các cơ quan công quyền); đánh giá về tuổi thọ trung bình và sự hài lòng về môi
trường sống (sự quan tâm của chính quyền trong xây dựng cảnh quan đô thị, làng
xã; việc bảo vệ môi trường nước và xử lý nước thải, rác thải; việc bảo vệ rừng và
môi trường cây xanh).

4. KẾT LUẬN
Như vậy, xuyên suốt chiều dài lịch sử của Việt Nam, hệ giá trị độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, trong ý thức và trong hành động vẫn luôn là mục tiêu, lý tưởng,
là chiến lược phù hợp xu thế thời đại. Những thành tựu đạt được về phát triển kinh
tế, sự ổn định về chính trị, sự tiến bộ về văn hóa là những minh chứng của sự đúng
đắn trong đường lối kiên định giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã

497
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Vận dụng linh hoạt tư tưởng của chủ tịch
Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong sự
nghiệp đổi mới ở nước ta là việc làm có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở phản bác một
cách thuyết phục, đanh thép các luận điệu sai trái, thù địch; củng cố niềm tin của
nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc đổi mới theo định hướng xã
hội chủ nghĩa; phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại để vượt
qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc, từng bước hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh” ở nước ta hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2002). Văn kiện Đảng toàn tập (Vol. 2). Chính trị quốc
gia.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Chính trị quốc gia.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
(Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[4]. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. (1999). Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[5]. Hồ, C. M. (1995). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 4). Chính trị quốc gia.
[6]. Hồ, C. M. (2011a). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 4). Chính trị quốc gia.
[7]. Hồ, C. M. (2011b). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 10). Chính trị quốc gia.
[8]. Hồ, C. M. (2011c). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 12). Chính trị quốc gia.
[9]. Nguyễn, P. T. (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính trị quốc gia - Sự thật.

498
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI


VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI - SỰ VẬN DỤNG
CỦA ĐẢNG TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Trịnh Hùng Thanh
Trường Đại học Nguyễn Huệ
Tác giả liên hệ: Trịnh Hùng Thanh, email: thanhhunghvct@gmail.com

Tóm tắt: Trong hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc của Hồ Chí Minh về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội là một bộ phận hết sức quan trọng, có giá trị lý luận và thực
tiễn to lớn đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây là tư tưởng
mang bản chất cách mạng, khoa học và là một trong những sáng tạo lớn, đóng góp
vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin nhưng được Người diễn đạt giản dị,
dễ hiểu, có sức cảm hóa, thuyết phục rất lớn đối với nhân dân. Từ yêu cầu thực tiễn
của công cuộc đổi mới đất nước, với tinh thần tiếp tục tăng cường nghiên cứu lý luận
và tổng kết thực tiễn, bài viết đi sâu nghiên cứu làm sáng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh
về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và sự vận dụng
của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
Từ khóa: chủ nghĩa xã hội; thời kỳ quá độ; tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã
hội; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chủ nghĩa xã hội.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cứu
nước đúng đắn - con đường cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa
xã hội. Nhưng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là gì, con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ra sao và làm thế nào để xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
thì không phải ngay một lúc có được câu trả lời hoàn chỉnh, chính xác và không
phải ai cũng có thể hiểu được. Với cách tiếp cận từ thực tiễn cách mạng Việt Nam,
với lối diễn đạt giản dị, dễ hiểu có sức cảm hóa, thuyết phục rất lớn đối với nhân
dân, Hồ Chí Minh đã từng bước làm sáng tỏ, phác thảo nên những nét cơ bản về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

499
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

2. NỘI DUNG
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam
Quan điểm Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam bắt nguồn từ lý tưởng về một xã hội công bằng, bình đẳng, nhân
dân được sống trong tự do và hạnh phúc. Người cho rằng các vấn đề dân tộc cơ bản
chỉ có thể được giải quyết triệt để trong CNXH, ngược lại, CNXH chỉ có thể trở
thành hiện thực trên cơ sở những quyền cơ bản của dân tộc được giải quyết một
cách triệt để. Đó là hai mặt của sự nghiệp cách mạng nhằm giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội và giải phóng con người. Đây cũng chính là thực chất của CNXH theo
cách hiểu của Hồ Chí Minh, cho nên khi định nghĩa CNXH là gì, Người đã giải thích
một cách dễ hiểu: “Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm
làm cho nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc
làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc” (Hồ, 2011, 415). Tóm lại, “Chủ nghĩa
xã hội là làm cho mọi người dân được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến bộ” (Hồ,
2011, 521). Đó là những luận điểm tuy giản dị, mộc mạc nhưng rất sâu sắc, phản
ánh những đặc trưng bản chất nhất của CNXH mà nhân dân ta đang phấn đấu để
đạt tới.
Có thể khái quát những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội, về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam như sau:
Về kinh tế: Nền kinh tế chúng ta xây dựng là nền kinh tế XHCN trong thời kỳ
quá độ. Quá độ nghĩa là chưa hoàn chỉnh, nhưng về nội dung, nền kinh tế đó vẫn
phải đảm bảo các mặt về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ chế quản lý, cơ
cấu kinh tế, chế độ phân phối,… Mục tiêu của nền kinh tế XHCN là nhằm cải thiện
và không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chú ý đến nền kinh tế nước ta là sản xuất nhỏ, nông
nghiệp lạc hậu, muốn phát triển phải gắn với sự phát triển của sức sản xuất, của
khoa học - kỹ thuật, tạo ra một nền công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại.
Người có tư duy sớm về công nghiệp hóa như là một quy luật tất yếu trong thời kỳ
quá độ lên CNXH ở một nước chưa trải qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa.
Người quan tâm đến cơ cấu kinh tế công - nông - thương nghiệp, lấy nông nghiệp

500
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

làm mặt trận chính, thương nghiệp là cầu nối giữa công nghiệp và nông nghiệp
nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của nhân dân.
Nhận thức sâu sắc về đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH ở một nước vốn
là thuộc địa, với nền kinh tế nông nghiệp chậm phát triển, Chủ tịch Hồ Chí Minh
sớm có tư duy về sự tồn tại các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, trong đó Người
nhấn mạnh sở hữu nhà nước là của toàn dân. Và gắn với các hình thức sở hữu là
các thành phần kinh tế đa dạng với kinh tế nhà nước là chủ đạo. Người còn chú
trọng đến hợp tác quốc tế. Dựa trên tinh thần nhân văn “bốn bể đều là anh em”,
Người đã sớm có tầm nhìn xa và bản lĩnh về khai thác tiềm năng và tranh thủ sự
ủng hộ, giúp đỡ của các nước trên thế giới đối với Việt Nam, sẵn sàng mở cửa và
hợp tác với các nước trên thế giới. Mục tiêu kinh tế của CNXH trong thời kỳ quá độ
theo tư tưởng Hồ Chí Minh, vừa bảo đảm những nội dung cơ bản nhất của một nền
kinh tế XHCN theo nguyên lý Mácxít, vừa phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam. Người
nói: “Đảng và Nhà nước ta dùng lực lượng của nhân dân để xây dựng cho nhân
dân một đời sống ngày càng sung sướng. Đó là chủ nghĩa xã hội” (Hồ, 2011e, 432).
Hồ Chí Minh đưa ra cách tiếp cận về CNXH từ những đặc trưng, bản chất của
CNXH. Theo cách tiếp cận này, CNXH không chỉ đơn thuần là một xã hội khác, trái
với chủ nghĩa tư bản mà bản chất của CNXH là một xã hội vừa cao hơn về trình độ,
vừa “đẹp hơn”, ưu việt hơn chủ nghĩa tư bản trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Về kinh tế, theo Hồ Chí Minh là phải: “xây dựng nền tảng vật chất kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội... có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa
học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền
kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu
dài” (Hồ, 2011d, 412). Người nhấn mạnh vấn đề tăng năng suất lao động trên cơ sở
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
Về cơ cấu kinh tế, Người đã đề cập cả cơ cấu ngành, cơ cấu kinh tế vùng, lãnh
thổ và các thành phần kinh tế. Người chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành
phần trong thời kỳ quá độ. Đặc biệt cần ưu tiên phát triển kinh tế quốc doanh, tạo
nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội; khuyến khích, hướng dẫn, giúp đỡ cho hình
thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động phát triển; trong tổ chức hợp tác xã.
Người rất coi trọng quan hệ phân phối và quản lý kinh tế, chủ trương thực hiện
nguyên tắc phân phối theo lao động: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không

501
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

làm không hưởng. Đồng thời, Người bước đầu đề cập vấn đề khoán trong sản xuất:
“chế độ làm khoán là một điều kiện của chủ nghĩa xã hội... làm khoán là ích chung
và lợi riêng... làm khoán tốt thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện nay” (Hồ,
2011c, 537). Đây là quan điểm quan trọng, thể hiện tầm nhìn trong việc giải phóng
sức sản xuất, tạo động lực cho kinh tế phát triển, vận hành đúng quy luật tự nhiên.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn tính chất khó khăn, lâu dài, phức tạp của thời
kỳ quá độ, Người xác định bước đi trong xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở
nước ta đó là: phải dần dần, thận trọng từng bước một, từ thấp đến cao, không được
chủ quan nôn nóng, đốt cháy giai đoạn. Phải thực hiện “đi bước nào vững chắc bước
ấy”. Về bước đi trong cải tạo nông nghiệp, Người nói: “... lúc đầu là cải cách ruộng
đất, sau tiến lên một bước là tổ chức tổ đổi công sao cho tốt, cho khắp, lại tiến lên
hình thức hợp tác xã dễ dàng, rồi tiến lên hợp tác xã cao hơn...” (Hồ, 2011c, 390).
Trong phát triển công nghiệp, Người sớm nhắc nhở phải đề phòng bệnh duy ý chí,
chủ quan, nóng vội. Người nói: mấy năm kháng chiến ta chỉ có nông thôn, bây giờ
mới có thành thị... nếu muốn công nghiệp hoá gấp là chủ quan... Ta cho nông nghiệp
là quan trọng và ưu tiên, rồi đến tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ, song mới
đến công nghiệp nặng... Mặt khác, Người đề cập đến việc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến
vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, nhưng lưu ý rằng: tiến nhanh, tiến mạnh không phải
là làm bừa, làm ẩu, chớ đem ý muốn chủ quan thay cho điều kiện thực tế khách quan.
Về chính trị: Chủ Tịch Hồ Chí Minh cho rằng, cái lớn nhất, điều không gì có thể
so sánh từ thắng lợi của cuộc cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng là mang lại quyền
dân chủ cho người dân; cuộc cách mạng đó đã biến người nô lệ thành người tự do.
Tiêu ngữ của nước Việt Nam mới: “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Độc lập - Tự do -
Hạnh phúc” phản ánh thành quả lớn nhất, bản chất của chế độ chính trị mới chưa hề
có trong lịch sử Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao
nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây
dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương do dân cử ra” (Hồ, 2011b, 232).
Chế độ chính trị do dân làm chủ là làm chủ bằng nhà nước thông qua nhà
nước và thể hiện ở nhà nước. Vì vậy, phải xây dựng nhà nước theo đúng tiêu chí là
nhà nước dân chủ. Trước hết, đó là một nhà nước của dân, của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Có nhiều biểu hiện thể hiện

502
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

quyền hạn của dân trong nhà nước kiểu mới, đó là quyền bầu cử và ứng cử vào các
cơ quan nhà nước; quyền kiểm soát đại biểu do mình bầu ra; quyền kiểm soát nhà
nước và “không chấp nhận” chính phủ nếu chính phủ làm trái ý dân; quyền bãi
miễn đại biểu quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra
không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Nhân dân làm chủ thông qua nhà
nước. Muốn vậy, phải hình thành được các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm
chủ của nhân dân. Các thiết chế đó được thể hiện trong tất cả các cơ quan nhà nước,
từ quốc hội, chính phủ, đến các cơ quan tư pháp. Điều quan trọng nhất của thiết chế
dân chủ là dựa vào dân, lấy dân làm gốc, liên hệ chặt chẽ với dân, lắng nghe ý kiến
của dân và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Thiết chế đó thể hiện một bộ máy nhà
nước trong sạch, vững mạnh, hạn chế dần tiêu cực, quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Trong mục tiêu chính trị của xã hội XHCN, cùng với nâng cao chất lượng và
trách nhiệm của nhà nước, một nội dung quan trọng là phải giữ vững, phát huy vai
trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Nhiệm vụ quan trọng và nặng nề của Đảng là
lãnh đạo nhân dân xây dựng xã hội mới, thắng bần cùng và lạc hậu. Mục tiêu chính
trị của chế độ mới, của CNXH là xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh - mạnh về
chính trị, tư tưởng, đạo đức, văn hóa - để đảm đương nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng
ở một đất nước trong lịch sử chưa có tiền lệ. Vai trò lãnh đạo của Đảng có tầm quan
trọng đặc biệt trong sự nghiệp biến một nước nghèo nàn, lạc hậu thành một nước
có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa, khoa học kỹ - thuật tiên
tiến. Đảng phải có bản lĩnh và đổi mới tư duy mạnh mẽ, chống bảo thủ, giáo điều,
rập khuôn, máy móc. Đảng phải có đội ngũ đảng viên, cán bộ tuyệt đối trung thành
với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc; phải thật sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, chống tham ô, lãng phí,
quan liêu, nêu cao tinh thần trách nhiệm, ý thức phục vụ nhân dân, xứng đáng vừa
là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Cùng với xây
dựng Đảng, xây dựng nhà nước là củng cố, tăng cường sức mạnh của Mặt trận dân
tộc thống nhất, vì đây là hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo
ra động lực chủ yếu của sự nghiệp cách mạng.
Về văn hóa - xã hội, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, văn hóa được hiểu theo nghĩa
rộng và nghĩa hẹp. Nghĩa rộng bao hàm cả những vấn đề xã hội, con người, đạo
đức, lối sống, tư tưởng… Nghĩa hẹp được hiểu theo từng lĩnh vực cụ thể như văn

503
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

hóa, văn nghệ, giáo dục,… Năm 1961, trả lời phóng viên thường trú của báo
L’Humanité (Nhân đạo) tại Hà Nội về việc làm sao có thể biến nước Việt Nam lạc
hậu thành một nước tiên tiến, Hồ Chí Minh trả lời: “Có lẽ cần phải để lên hàng đầu
những cố gắng của chúng tôi nhằm phát triển văn hóa. Chủ nghĩa thực dân đã kìm
hãm nhân dân chúng tôi trong vòng ngu muội để chúng dễ áp bức. Nền văn hóa
nảy nở hiện thời là điều kiện cho nhân dân chúng tôi tiến bộ” (Hồ, 2011e, 191) .
Mục tiêu xây dựng văn hóa xã hội chủ nghĩa theo quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh là phải giữ gìn được cốt cách dân tộc và tiếp thu tinh hoa của nhân loại.
Trong cốt cách dân tộc thì đặt lên hàng đầu là chủ nghĩa yêu nước mà hạt nhân là
tinh thần độc lập, tự cường, tự chủ, tiếp đến là luân lý, tức là những khía cạnh về
đạo đức như biết hy sinh vì lợi ích của quần chúng, rồi đến khía cạnh về xã hội như
vấn đề phúc lợi xã hội, vấn đề dân quyền.
Về các vấn đề xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm xây dựng một xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, làm cho “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được
học hành” (Hồ, 2011a, 187). Người đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng và thực hiện
các chính sách xã hội như chăm lo cho thương binh và các gia đình liệt sĩ; quan tâm
việc học hành, chữa bệnh của nhân dân, đặc biệt là người già, trẻ em, phụ nữ, người
tàn tật. Người chú trọng văn hóa tâm linh, quan tâm đến đồng bào dân tộc thiểu số,
người theo tôn giáo. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng của Người là xây dựng
mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người.
Để có được chủ nghĩa xã hội thực sự vì con người, trước hết phải có con người
xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh: “Muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội phải có con người thấm nhuần đạo đức xã hội chủ nghĩa” (Hồ,
2011e, 293). Việc xây dựng con người mới - con người xã hội chủ nghĩa đòi hỏi mỗi
cán bộ, đảng viên, từng cá nhân không ngừng học tập, rèn luyện, tu dưỡng bản thân
về mọi mặt, có như vậy mới thực sự góp phần của mình vào sự nghiệp xây dựng
đất nước ngày càng giàu mạnh.
2.2. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay
Mỗi thắng lợi và mỗi bước đi lên của cách mạng Việt Nam đều gắn liền với
công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự soi đường, dẫn dắt của tư tưởng Hồ

504
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Chí Minh. Trong sự nghiệp đổi mới, trước những diễn biến phức tạp của tình hình
thế giới, với những khó khăn ở trong nước, Đảng ta đã kiên định chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng và phát triển sáng tạo vào thực tiễn đất
nước và đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Từ một nước nghèo
và lạc hậu, Việt Nam đã vươn lên trở thành một nước đang phát triển, có thu nhập
trung bình, có thêm nhiều điều kiện, tiền đề thuận lợi để vững bước trên con đường
mà Đảng ta, nhân dân ta và Bác Hồ kính yêu đã lựa chọn. Đúng như Đảng ta đã
nhận định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa
bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” (Đảng Cộng
sản Việt Nam, 2021, 25). Thành tựu của 36 năm đổi mới đã khẳng định đường lối đổi
mới của Đảng ta dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
là đúng đắn, là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường
đi lên CNXH phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại.
Trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, với tinh
thần “nhìn thẳng vào sự thật”, “nói rõ sự thật”, Đảng ta đã nhận thức một cách sâu
sắc hơn lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH, về con
đường đi lên CNXH. Sự phát triển nhận thức của Đảng ta thể hiện trên các nội dung
cơ bản sau:
Một là, về tính chất lâu dài, khó khăn, phức tạp của thời kỳ quá độ. Tại Đại hội
VI (1986), Đảng ta xác định rằng, từ CNTB lên CNXH tất yếu phải trải qua thời kỳ
quá độ và độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội
cụ thể của mỗi nước. Đối với nước ta, do xuất phát điểm về các lĩnh vực của đời
sống xã hội đều rất thấp kém, nên thời kỳ quá độ rất lâu dài và khó khăn, trải qua
nhiều chặng đường, nhiều bước quá độ nhỏ với những nhiệm vụ tương ứng. Đảng
ta chỉ rõ: “Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền
sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu
dài và rất khó khăn. Ðó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt
để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất và kiến trúc thượng tầng” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1998a, 374).
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Cương lĩnh 1991) Đảng ta xác định: “Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất

505
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

rất thấp” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1998b, 133). Tổng kết 15 năm đổi mới, tại Đại
hội IX, nhận thức của Đảng ta về thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam tiếp tục
được bổ sung, cụ thể hóa lên một bước: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự
nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với
nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, 84). Tới Đại hội XI, Đảng ta đã khái quát về thời
kỳ quá độ lên CNXH “là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức
tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều
bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen” (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 2011, 70). Thời kỳ quá độ là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để,
đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới. Đồng thời, với sự lâu dài đó, thời kỳ quá
độ phải trải qua nhiều bước phát triển với nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội
đan xen cùng phát triển. Tư tưởng này đã định hướng các nhiệm vụ, nội dung của
thời kỳ quá độ ở nước ta và là nhân tố quyết định thành công của công cuộc đổi mới
ở Việt Nam.
Trong sự nghiệp phát triển đất nước theo định hướng XHCN, Đảng ta ngày
càng nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn về mục tiêu và đặc trưng, bản chất của CNXH
trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ
rõ mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam gồm 8 đặc trưng, các đặc trưng đó
cũng chính là mục tiêu cần đạt tới. Đặc trưng thứ nhất là: “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh” là đặc trưng cơ bản nhất, cốt lõi nhất và biểu hiện tập
trung nhất bản chất của CNXH mà nhân dân ta xây dựng. Tổng kết, đánh giá 35 năm
thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên CNXH, Đảng ta khẳng định: “lý luận về đường lối đổi mới, về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn
thiện và từng bước được hiện thực hóa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 103).
Hai là, nhận thức rõ hơn về những nội dung của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. Về mục tiêu của thời kỳ quá độ: Trên cơ sở tính chất và đặc điểm
của thời kỳ quá độ, Cương lĩnh 1991 xác định “Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi

506
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ
nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp,
làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh” (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 1998b, 136). Đồng thời, xác định rõ hơn mục tiêu của các giai đoạn phát
triển trong thời kỳ quá độ. Trên cơ sở đó và căn cứ vào tình hình thực tiễn đất nước,
Đại hội VII đã đề ra mục tiêu tổng quát của 5 năm (1991-1995) là: “vượt qua khó
khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị,
đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng
hoảng hiện nay” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991, 60). Và nhiệm vụ bao trùm, mục
tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt
tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo. Đây được coi là
những dấu mốc, mục tiêu cần đạt được của chặng đường đầu trong thời kỳ quá độ.
Với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân ta, 10 năm đầu đổi mới đã đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng. Đại hội VIII (1996) của Đảng nhận
định nước ta đã kết thúc chặng đường đầu tiên và bắt đầu bước vào chặng đường
tiếp theo của thời kỳ quá độ lên CNXH với nội dung trọng tâm là đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ: “Mục tiêu tổng
quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng
kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn
hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng
phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra
sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 70). Trên cơ sở các thành
tựu đạt được của hơn 35 thực hiện công cuộc đổi mới, Đại hội XIII của Đảng tiếp
tục xây dựng mục tiêu: “Phấn đấu đến năm 2030, là nước đang phát triển có công
nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 217).
Như vậy, có thể hình dung lộ trình, bước đi và mục tiêu của các giai đoạn
phát triển trong thời kỳ quá độ là tương đối rõ ràng. Việc xác định cụ thể mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội cho từng giai đoạn là sự thể hiện nhận thức mới của Đảng
về thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Đó là những định hướng, những tiêu chí cơ

507
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

bản để toàn Đảng, toàn dân phấn đấu trong suốt thời kỳ quá độ ở nước ta. Về cơ
cấu kinh tế, xã hội và các hình thức sở hữu trong thời kỳ quá độ. Trên nền tảng quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Ðảng Cộng sản Việt
Nam nhận thức rõ hơn trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu
sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, những cơ
cấu, tính chất, vị trí các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều cùng với những
biến đổi to lớn về cơ cấu kinh tế, xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp
xã hội là mối quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp
tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Ðảng.
Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung
là: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh.
Cùng với tổng kết thực tiễn, nhận thức và sự vận dụng của Đảng ta về CNXH,
con đường đi lên CNXH ngày càng sát thực, cụ thể hóa. Nhưng, trong quá trình xây
dựng CNXH, bên cạnh những thời cơ, vận hội, nước ta đang phải đối mặt với nhiều
thách thức, khó khăn cả trên bình diện quốc tế, cũng như từ các điều kiện thực tế
trong nước tạo nên. Trong bối cảnh đó, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH
và con đường quá độ lên CNXH, chúng ta cần tập trung giải quyết những vấn đề
quan trọng nhất:
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Theo con đường Hồ Chí Minh đã chọn, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là
mục tiêu cao cả của toàn Đảng, toàn dân ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân
ta đã đấu tranh giành được độc lập dân tộc, từng bước quá độ lên CNXH. Trong
điều kiện nước ta, sau khi giành được độc lập dân tộc phải đi lên CNXH, vì đó là
quy luật tiến hóa trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Chỉ có CNXH mới
đáp ứng được khát vọng của toàn dân tộc: độc lập cho dân tộc, dân chủ cho nhân
dân, cơm no áo ấm cho mọi người dân Việt Nam. Thực tiễn phát triển đất nước cho
thấy, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở
bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh” là tiếp tục con đường cách mạng mà Hồ Chí Minh
đã chỉ ra. Đổi mới, vì thế, là quá trình vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh,
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, chứ không phải là thay đổi mục tiêu.

508
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Tuy nhiên, khi thực hiện kinh tế thị trường, chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, chúng ta phải tận dụng các mặt tích cực của nó, đồng thời phải biết cách ngăn
chặn, phòng tránh các mặt tiêu cực, bảo đảm nhịp độ phát triển nhanh, bền vững
trên tất cả mọi mặt đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa; không vì phát
triển, tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá mà làm phương hại các mặt khác của cuộc
sống con người. Không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng
trưởng kinh tế đơn thuần. Vấn đề đặt ra là, trong quá trình phát triển vẫn giữ vững
định hướng XHCN, biết cách sử dụng các thành tựu mà nhân loại đã đạt được để
phục vụ cho công cuộc xây dựng CNXH, nhất là thành tựu khoa học - công nghệ
hiện đại, làm cho tăng trưởng kinh tế luôn đi liền với sự tiến bộ, công bằng xã hội,
sự trong sạch, lành mạnh về đạo đức, tinh thần.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn lực, trước
hết là nội lực để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường tất yếu mà đất nước ta phải trải
qua. Chúng ta phải tranh thủ thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ, của
điều kiện giao lưu, hội nhập quốc tế để nhanh chóng đưa nước ta trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Xây dựng CNXH là sự nghiệp của toàn dân,
do Đảng lãnh đạo, phải đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân, nghĩa là phải
biết phát huy mọi nguồn lực vốn có trong dân để xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh
phúc cho nhân dân. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, ngày nay, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước phải dựa vào nguồn lực trong nước là chính, có phát huy mạnh
mẽ nội lực mới có thể tranh thủ sử dụng hiệu quả các nguồn lực bên ngoài. Trong
nội lực, nguồn lực con người là vốn quý nhất. Nguồn lực của nhân dân, của con
người Việt Nam bao gồm trí tuệ, tài năng, sức lao động, của cải thật to lớn. Để phát
huy tốt sức mạnh của toàn dân tộc xây dựng và phát triển đất nước, cần giải quyết
tốt các vấn đề sau:
Tin dân, dựa vào dân, xác lập quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế, làm
cho chế độ dân chủ được thực hiện trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người,
nhất là ở địa phương, cơ sở, làm cho dân chủ thật sự trở thành động lực của sự phát
triển xã hội.
Chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân để nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực. Xã hội chủ nghĩa với giá trị cốt lõi, bền vững và tốt đẹp mà chúng ta đang hướng
509
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

tới là một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người; sự phát triển về
kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội; một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương
trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn.
Thực hiện nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, trên
cơ sở lấy liên minh công - nông - trí thức làm nòng cốt, tạo nên sự đồng thuận xã
hội vững chắc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Xây dựng CNXH phải biết tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi, tận dụng
tối đa sức mạnh của thời đại. Ngày nay, sức mạnh của thời đại tập trung ở cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ, xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Chúng ta
phải tranh thủ tối đa các cơ hội do xu thế đó tạo ra để nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế; phải có cơ chế, chính sách đúng để thu hút vốn đầu tư, kinh nghiệm quản
lý và công nghệ hiện đại, thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Muốn vậy, chúng ta phải có đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ. Tranh thủ hợp tác phải đi đôi với thường xuyên khơi dậy chủ nghĩa yêu
nước, tinh thần dân tộc chân chính của mọi người Việt Nam nhằm góp phần làm
gia tăng tiềm lực quốc gia.
Chủ động hội nhập quốc tế phải gắn liền với nhiệm vụ trau dồi bản lĩnh và
bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là cho thanh, thiếu niên - lực lượng rường cột của
nước nhà, để không tự đánh mất mình bởi xa rời cội rễ dân tộc. Chỉ có bản lĩnh và
bản sắc dân tộc sâu sắc, mạnh mẽ đó mới có thể loại trừ các yếu tố độc hại, tiếp thu
tinh hoa văn hóa loài người, làm phong phú, làm giàu thêm nền văn hóa dân tộc.
Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước, đẩy mạnh
đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thực hiện cần kiệm xây dựng
CNXH. Thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân cần đến vai trò lãnh đạo của một Đảng cách mạng
chân chính, một Nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân. Muốn vậy, phải:
Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, một Đảng “đạo đức, văn
minh”. Cán bộ, đảng viên gắn bó máu thịt với nhân dân, vừa là người hướng dẫn,
lãnh đạo nhân dân, vừa hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, gương mẫu trong mọi
việc. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,

510
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

vì nhân dân; thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia một cách đồng bộ để phục
vụ đời sống nhân dân. Cần nhận thức sâu sắc rằng, nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: pháp quyền
dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích
của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể
hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại
đa số nhân dân.
Bằng các giải pháp thiết thực, cụ thể, hình thành một đội ngũ cán bộ liêm khiết,
tận trung với nước, tận hiếu với dân; kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy chính quyền
những “ông quan cách mạng”, lạm dụng quyền lực của dân để mưu cầu lợi ích
riêng; phát huy vai trò của nhân dân trong cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Giáo dục mọi
tầng lớp nhân dân ý thức biết cách làm giàu cho đất nước, khơi dậy khát vọng phát
triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, hăng hái đẩy mạnh tăng gia sản xuất kinh
doanh gắn liền với tiết kiệm, chống lãng phí để xây dựng nước nhà. Trong điều kiện
đất nước còn nghèo, tiết kiệm phải trở thành quốc sách, đồng thời cũng là một chuẩn
mực đạo đức, hành vi văn hóa. Đúng như Hồ Chí Minh đã căn dặn, một dân tộc
biết “cần”, biết “kiệm” là một dân tộc văn minh, tiến bộ; dân tộc đó chắc chắn sẽ
thắng được nghèo nàn, lạc hậu, ngày càng giàu có về vật chất, cao đẹp về tinh thần.

3. KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội là tư tưởng khoa học, cách mạng, phản ánh rõ tư duy lý luận và phương pháp
biện chứng duy vật của Hồ Chí Minh, phù hợp với đặc điểm, hoàn cảnh của Việt
Nam. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội là cơ sở, nền tảng trực tiếp để Đảng và Nhà nước ta hoạch định và
hoàn thiện đường lối, chính sách, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong công
cuộc đổi mới hiện nay. Trong giai đoạn hiện nay, để vững bước trên con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta phải kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn lực, trước hết là nội lực để đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; củng cố và tăng cường sức mạnh của khối đoàn

511
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

kết toàn dân tộc; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đồng thời phải
tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống; kiên quyết đấu tranh chống những luận điểm xuyên tạc
tư tưởng Hồ Chí Minh, khắc phục những nhận thức mơ hồ về chủ nghĩa xã hội,
hoài nghi về tính hiện thực của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII.
Chính trị quốc gia.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1998a). Văn kiện Đảng toàn tập (Vol. 47). Chính Trị
Quốc Gia Sự Thật.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1998b). Văn kiện Đảng toàn tập (Vol. 51). Chính Trị
Quốc Gia Sự Thật.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
Chính trị quốc gia.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Chính trị quốc gia.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
(Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[7]. Hồ, C. M. (2011a). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 4). Chính trị quốc gia.
[8]. Hồ, C. M. (2011b). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 6). Chính trị quốc gia.
[9]. Hồ, C. M. (2011c). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 10). Chính trị quốc gia.
[10]. Hồ, C. M. (2011d). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 12). Chính trị quốc gia.
[11]. Hồ, C. M. (2011e). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 13). Chính trị quốc gia.

512
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA -


TỪ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐẾN SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG

Lê Văn Thủ
Học viện Chính trị khu vực III
Tác giả liên hệ: Lê Văn Thủ, email: lethutk31@gmail.com

Tóm tắt: Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa là một nội
dung được thể hiện sâu sắc cả trên bình diện lý luận lẫn thực tiễn. Tư tưởng ấy đã
được Đảng ta vận dụng một cách thấu suốt và phát huy giá trị trong thực tiễn, góp
phần vào việc định hình con người mới ở Việt Nam hiện nay. Những thành tựu to
lớn qua hơn 30 năm đổi mới đã góp phần minh chứng giá trị trường tồn của tư tưởng
Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa; thể hiện sự vận dụng, tìm tòi, sáng
tạo của Đảng ta trong xây dựng và phát huy nhân tố con người; đồng thời cũng đặt
ra những vấn đề cần phải giải quyết trong xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa
phù hợp với thời cuộc để đưa đất nước vững bước đi lên con đường mà Đảng, Bác
Hồ cùng với dân tộc đã xác lập, lựa chọn.
Từ khóa: tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ nghĩa xã hội; con người mới xã hội chủ nghĩa;
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; sự vận dụng của Đảng.

1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI XÃ HỘI


CHỦ NGHĨA
Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa” (Hồ, 2011c, 66). Điều đó cho thấy Hồ Chí Minh
đã đặt con người vào ví trí trung tâm, có vai trò quyết định trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Trong tư tưởng của Người, con người mới xã hội chủ nghĩa
mang những phẩm chất, đặc trưng của chế độ xã hội chủ nghĩa, gắn với sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
trên mọi lĩnh vực và được thể hiện khái quát trên những khía cạnh cơ bản sau:
Thứ nhất, Hồ Chí Minh đã định diện những phẩm chất cơ bản về con người mới xã
hội chủ nghĩa.

513
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người mới xã hội chủ nghĩa phải biết yêu
Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội. Bởi theo Người, có yêu Tổ quốc thì
mỗi cá nhân mới tự nguyện chiến đấu, hy sinh vì đất nước, mới ra sức lao động, sản
xuất, thực hành tiết kiệm để Tổ quốc thêm giàu mạnh; có yêu nhân dân mới biết
thấu hiểu và sẻ chia những vui buồn, những công tác nặng nhọc với nhân dân; từ
yêu Tổ quốc, yêu nhân dân mà thêm yêu chủ nghĩa xã hội, “vì có tiến lên chủ nghĩa
xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu
mạnh thêm” (Hồ, 1998, 334 ). Con người mới xã hội chủ nghĩa phải có tư tưởng mới,
loại bỏ những tư tưởng cũ kỹ, lạc hậu do xã hội cũ để lại để hướng đến lối sống
trong sáng, có khát vọng hướng tới hạnh phúc, tự do bằng chính sức lao động, sáng
tạo của mình. Cũng theo Hồ Chí Minh, con người mới xã hội chủ nghĩa cần phải có
tình yêu thương giữa người với người, biết sống bao dung, độ lượng như đạo lý
làm người của dân tộc Việt Nam. Đồng thời, con người mới xã hội chủ nghĩa phải
có tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao
động các nước trên thế giới bởi theo Người, “Dù màu da có khác nhau, trên đời này
chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ
có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: Tình hữu ái vô sản” (Hồ, 2011a, 287).
Thứ hai, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng con người mới đi đôi với công cuộc
cải tạo xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Khi nói đến xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh luôn gắn
với các hoạt động cải tạo xã hội đối với mọi thành phần, giai tầng trong xã hội. Với
thanh niên, Người yêu cầu phải ra sức học tập chính trị, kỹ thuật, văn hóa; với công
nhân phải siêng năng, khẩn trương, khiêm tốn, phải đẩy mạnh tăng gia sản xuất và
thực hành tiết kiệm; với phụ nữ phải nâng cao tinh thần yêu nước và giác ngộ xã
hội chủ nghĩa, gắng học tập văn hóa, chính trị, kỹ thuật và hăng hái thi đua thực
hiện “cần kiệm xây dựng Tổ quốc, cần kiệm xây dựng gia đình”; với thầy cô giáo,
“phải phấn đấu nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên môn nhằm thiết thực giải quyết
các vấn đề do cách mạng nước ta đề ra… cùng nhau tổ chức và quản lý đời sống vật chất và
tinh thần ở các trường học ngày một tốt hơn” (Hồ, 1998, 373); với nhân dân lao động là
những người chủ tập thể của tất cả những của cải vật chất và văn hóa nên phải thấm
nhuần sâu sắc tư tưởng “mình vì mọi người, mọi người vì mình”, phải chăm lo việc
nước như chăm lo việc nhà. Trong tư tưởng của Người, chính những hoạt động cải

514
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

tạo xã hội gắn với lao động, công tác của mọi thành phần, giai cấp chính là nền tảng
để xây dựng xã hội chủ nghĩa cũng như hình thành nên con người mới một cách
đúng đắn, bền vững.
Thứ ba, Hồ Chí Minh đã vạch rõ chiến lược xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh, muốn xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa thì văn
hóa giáo dục là một mặt trận quan trọng. Trong thư gửi các cán bộ giáo dục, học sinh,
sinh viên các trường và các lớp bổ túc văn hóa, Người căn dặn: “Trong việc giáo dục và
học tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa,
văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất” (Hồ, 2011b, 647). Người đề cao vai trò của
văn hóa trong việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, cho nên Người yêu
cầu nội dung văn hóa phải có ý nghĩa giáo dục, “Văn hóa phải gắn liền với lao động
sản xuất. Văn hóa xa đời sống, xa lao động là văn hóa suông” (Hồ, 1998, 361), “văn
hóa phải xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức”. Trong trường học
xã hội chủ nghĩa, Người yêu cầu học đi với lao động, lý luận đi với thực hành, cần
cù đi với tiết kiệm, các thầy, các cô, các cháu phải luôn bồi dưỡng tư tưởng xã hội
chủ nghĩa, gột rửa tư tưởng cá nhân chủ nghĩa mới có thể thành người cách mạng,
thành người cộng sản chân chính. Theo Người, xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa cần đặc biệt chú trọng đến thiếu niên, nhi đồng bởi tương lai, đây là lực lượng
trực tiếp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Vì vậy, cần giáo dục cẩn
thận để các cháu có tư cách, đạo đức của người xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa
để có thể gánh vác sự nghiệp cách mạng, xây dựng đất nước. Những quan điểm ấy
của Người vẫn còn nguyên giá trị và tiếp tục soi rọi để Đảng ta vận dụng vào việc
xây dựng, hoàn thiện con người Việt Nam với những phẩm chất, yêu cầu phù hợp
với bối cảnh hiện nay.

2. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA HIỆN NAY
2.1. Quan điểm của Đảng về xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa
Thứ nhất, Đảng đã xác lập vai trò, vị trí con người là trung tâm, là chủ thể của công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tại Đại hội VI, Đảng đã khẳng định: “Việc phát huy yếu tố con người và lấy việc
phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động” (Đảng Cộng sản Việt Nam,
515
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

1986, 86). Trên cơ sở tư duy Đổi mới của Đại hội toàn quốc lần thứ VI, Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội toàn
quốc lần thứ VII của Đảng thông qua nhấn mạnh yêu cầu phát huy nhân tố con
người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân,
kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống
tinh thần của nhân dân; giữa đáp ứng nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài;
giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội; bảo vệ tự do tôn giáo, tín ngưỡng và
chống lợi dụng tự do tôn giáo, tín ngưỡng làm tổn hại đến lợi ích Tổ quốc và nhân
dân. Trong đường lối phát triển kinh tế của Đại hội VIII của Đảng, nguồn lực con
người trở thành động lực cho sự phát triển nhanh và bền vững. Đến Đại hội IX, con
người được khẳng định là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trên cơ sở tổng kết 25 năm thực hiện đường lối
Đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 (Đại hội VII), Đại hội XI của Đảng Cộng
sản Việt Nam tiếp tục nhất quán coi “con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là
mục tiêu của sự phát triển” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011,100). Nhấn mạnh thêm
về con người là động lực của sự phát triển, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII của Đảng khẳng định con người và nền văn hóa Việt Nam thực sự trở thành
sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Nhận thức sâu
sắc và đầy đủ về vị trí của con người chính là nền tảng để Đảng, Nhà nước định
hình, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của
công cuộc đổi mới, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, Đảng đã định hình và xây dựng những phẩm chất của con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh mới
Vận dụng, kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa,
Đảng ta đã dần định hình và xây dựng những phẩm chất căn bản của con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tại Đại hội VIII,
trong chăm lo phát triển nguồn lực con người, đảm bảo công bằng xã hội, Đảng đề
ra mục tiêu: “Xây dựng con người Việt Nam có trình độ trí tuệ cao, thể chất tốt, có
nhân cách, bản lĩnh, có tâm hồn trong sáng, nếp sống tốt đẹp là mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội” (Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, 1996, 41). Đại hội XI khi đề cập
đến những định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an
ninh, đối ngoại đã chỉ rõ: “xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý

516
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có
văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính” (Đảng Cộng sản Việt Nam,
2011, 76-77). Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9/6/2014, của Hội nghị Trung ương 9
khóa XI, về xây dựng và phát triển văn hóa con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước đã xác định: Xây dựng “con người Việt Nam phát
triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân
văn, dân chủ và khoa học” và “phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực
sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ
pháp luật”. Luật Giáo dục năm 2019 khi đề cập đến mục tiêu giáo dục cũng khẳng
định: giáo dục nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam có đạo đức, tri thức,
văn hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý thức công
dân; có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh việc phát huy giá trị văn hóa,
sức mạnh con người Việt Nam với chủ trương: “xây dựng con người Việt Nam thời
đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại” (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 2021, 143). Qua mỗi giai đoạn, mỗi nấc thang phát triển mới,
việc Đảng cụ thể hóa các đặc tính chuẩn mực cơ bản đó thành những giá trị cốt lõi
để giáo dục, thực hành, rèn luyện trong đời sống và công tác của cán bộ, đảng viên
và toàn thể nhân dân chính là sự thể hiện việc xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa một cách cụ thể, thiết thực.
Thứ ba, Đảng đã đề ra các phương hướng, biện pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện con
người Việt Nam, gắn với công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cùng với việc khẳng định vị trí con người, xác định những phẩm chất con
người Việt Nam trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng đã đề ra các phương
hướng toàn diện, biện pháp cụ thể để con người Việt Nam phát triển toàn diện, đáp
ứng yêu cầu xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong Cương
lĩnh Đại hội VII, Đảng đã đề ra định hướng xây dựng nền văn hoá mới và con người
mới với giải pháp: “Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, các đoàn thể,
nhà trường, gia đình, từng tập thể lao động và tập thể dân cư trong việc chăm lo bồi
dưỡng hình thành con người mới...” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2017). Để xây dựng
con người Việt Nam, phát triển nguồn lực con người, Đại hội VIII của Đảng đã nêu
lên 3 nội dung quan trọng: Phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo;

517
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; Thực hiện tốt các chính
sách xã hội và công bằng xã hội. Để đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân
lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đại hội IX đã xác định cần tạo
chuyển biến cơ bản, toàn diện về giáo dục và đào tạo và thực hiện 7 biện pháp cụ
thể. Xác định giáo dục là quốc sách hàng đầu để xây dựng con người, phát triển
nguồn nhân lực phục vụ công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, Đảng chỉ rõ cần
“Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển
toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn với
thực tiễn” (Ban Tuyên giáo Trung ương, 2016, 45-46). Về mục tiêu xây dựng con
người, Đại hội XII nhấn mạnh: “Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ chuẩn
mực con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế; tạo môi trường để hoàn thiện nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể
chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật…
Có giải pháp khắc phục sự xuống cấp về đạo đức xã hội, khắc phục những mặt hạn
chế của con người Việt Nam” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 127). Xem văn hóa
là sức mạnh nội sinh của dân tộc, là yếu tố cấu thành phẩm chất con người Việt
Nam, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021) đã xác định: “Tập trung khơi
dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, niềm tự hào, ý chí tự cường, lòng nhân ái, tinh
thần đoàn kết, đồng thuận xã hội và khát vọng phát triển đất nước của toàn dân tộc.
Xây dựng các cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước của mọi
người dân Việt Nam” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 143). Đây là những phương
hướng, biện pháp đồng bộ, toàn diện, thấm đẫm tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người mới xã hội chủ nghĩa mà đã được Đảng vận dụng trên con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
2.2. Những kết quả đạt được và hạn chế trong xây dựng con người Việt Nam hiện nay
Kết quả đạt được
Có thể khẳng định, những thành tựu mà đất nước ta đạt được trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt qua 36 năm đổi mới chính là sản phẩm
kết tinh bao công sức, trí tuệ, mồ hôi, xương máu của con người Việt Nam, những
con người tiêu biểu đại diện cho sự phát triển xã hội trong thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, những “con người của thời đại”. Trong sự thành
công đó có vai trò rất lớn của quá trình xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa

518
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

mà Đảng đã thực hiện. Nhìn tổng thể, con người Việt Nam hiện nay đều có tinh
thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tư duy đổi mới, năng động, sáng tạo hơn; đã
hình thành nếp sống văn minh, tác phong công nghiệp, chủ động hội nhập trong
môi trường toàn cầu hóa. Những giá trị đạo đức truyền thống định hình nên
phẩm chất con người Việt Nam vẫn được giữ gìn, phát huy và thay đổi theo
hướng phù hợp với nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Thể chất, trí tuệ,
tầm vóc con người từng bước được nâng cao. Công tác phòng, chống tham
nhũng, quan liêu, lãng phí, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong
nội bộ cán bộ, đảng viên, nhân dân có chuyển biến tích cực, góp phần xây dựng
hệ thống chính trị trong sạch, môi trường văn hóa, xã hội lành mạnh và bồi đắp
niềm tin của nhân dân đối với chế độ xã hội chủ nghĩa. “Công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên được đẩy
mạnh” (Hội đồng Lý luận Trung ương, 2020, 156) đã góp phần hình thành nên
một thế hệ trẻ sống có lý tưởng cách mạng, tư tưởng chính trị vững vàng, có hiểu
biết về thế giới quan, nhân sinh quan khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. “Thể chế bảo đảm cho quyền, lợi ích chính đáng,
sự phát triển của con người ngày càng được hoàn thiện theo nguyên tắc “thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát
triển”” (Hội đồng Lý luận Trung ương, 2020, 154) đã giúp con người Việt Nam
ngày càng phát triển toàn diện, đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng đất
nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hạn chế
Bên cạnh đó, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa hiện nay vẫn còn tồn
tại nhiều hạn chế và đối mặt với những thách thức to lớn. Hệ giá trị chuẩn mực văn
hóa và con người Việt Nam làm cơ sở triển khai trong thực tiễn chưa được ban hành.
“Lĩnh vực xây dựng con người còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Tiêu cực xã hội và
tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn liền với tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, xa rời dân, vô cảm trước những đề nghị chính
đáng của dân, mất dân chủ là nghiêm trọng, đáng lo ngại” (Hội đồng Lý luận Trung
ương, 2020, 159). Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin của nhân dân vào
chế độ xã hội chủ nghĩa. Đất nước mở cửa, hội nhập trong dòng chảy cuộc cách

519
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

mạng 4.0 đã tạo ra nhiều đột phá về phát triển kinh tế nhưng cũng để lại nhiều hệ
lụy khi nhiều người bị tiêm nhiễm bởi lối sống, văn hóa phương Tây và những tư
tưởng cực đoan, độc hại, đặc biệt là giới trẻ dẫn đến bản sắc văn hóa dân tộc bị mai
một; ngả nghiêng, dao động khi nhìn nhận công cuộc xây dựng đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Sự chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng
Việt Nam ngày càng tinh vi với nhiều phương thức, thủ đoạn mới phức tạp. Công
tác giáo dục, đào tạo con người vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, đặc biệt là giáo dục
tư tưởng chính trị cho giới trẻ. Một số phong trào thi đua yêu nước chưa đi vào thực
chất để khơi dậy tinh thần, nhiệt huyết cống hiến, hy sinh của các tầng lớp nhân
dân vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN NAY
Một là, xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam phù hợp với công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong bối cảnh mới.
Để xây dựng và hoàn thiện con người mới xã hội chủ nghĩa hiện nay, cần sớm
nghiên cứu, đúc kết và ban hành hệ giá trị chuẩn mực con người Việt Nam thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Hệ giá trị đó cần gắn với những
giá trị truyền thống tốt đẹp về con người Việt Nam đã được định hình trong dòng
chảy văn hóa của dân tộc; đồng thời đáp ứng đầy đủ những đòi hỏi khách quan của
công cuộc hội nhập, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Hệ giá trị chuẩn mực về con người mới chính là cơ sở để ban hành các chủ trương,
biện pháp cũng như định hướng xây dựng con người Việt Nam trong bối cảnh mới,
gắn với công cuộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Quan trọng hơn, khi hệ giá trị con người
Việt Nam được xây dựng và ban hành, gắn với giá trị truyền thống của dân tộc sẽ
góp phần lưu giữ và định hình bản sắc con người Việt Nam; văn hóa sẽ trở thành
nguồn lực to lớn, là bệ đỡ vững chắc để phát triển con người. Đồng thời, trong một
thế giới mở với sự phát triển vũ bão của cách mạng công nghiệp, những đòi hỏi mới
về phẩm chất, kỹ năng con người đã có sự biến đổi sâu sắc đòi hỏi con người Việt
Nam cần sớm nhận diện và tiếp biến mới có thể hội nhập để phát triển cũng như
xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

520
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Hai là, tăng cường đổi mới toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực.
Nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của giáo dục trong việc xây dựng và
phát triển con người Việt Nam, ngay từ sớm Đảng và Nhà nước ta khẳng định giáo
dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, phát
triển nguồn nhân lực con người ở nước ta là kế sách lâu dài làm biến đổi lớn trong
đời sống xã hội, phát triển “nguyên khí quốc gia”, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực làm cho nước nhà thịnh vượng. Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục đào
tạo phù hợp với xu thế phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ nhân loại,
đổi mới mô hình dạy học và thay đổi mô hình đào tạo thông qua việc áp dụng công
nghệ số; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động
của các cơ sở giáo dục - đào tạo và sự gắn kết của giáo dục gia đình - nhà trường -
xã hội - bản thân người học, giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Việc đổi mới này
chú trọng phát triển năng lực và phẩm chất, tính tích cực chủ động của người học,
bảo đảm hài hòa đức, trí, thể, mỹ, thực hiện triết lý nhân sinh của nền giáo dục “dạy
người, dạy chữ, dạy nghề” phải xây dựng được hệ thống giáo dục mở, xã hội học
tập, phát huy tính tích cực chủ động tự học, tự nghiên cứu của người học. Việc cần
thiết phải chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, kỹ năng
thực hành, kỹ năng nghiên cứu khoa học gắn với cuộc cách mạng công nghệ 4.0,
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, tiếp thu truyền thống văn hóa dân tộc, tinh
hoa văn hóa nhân loại, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tăng cường
giáo dục thể chất, phát triển tầm vóc con người Việt Nam. Bên cạnh đó, cần đầu tư
đội ngũ cán bộ, giáo viên đáp ứng yêu cầu thực tiễn đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao. Phải xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể để đào tạo, bồi dưỡng và
có cơ chế đánh giá và sử dụng nhân tài đúng đắn giúp phát huy hết thế mạnh của
nhân tài trong xây dựng đất nước, quê hương. Cần coi trọng và nâng cao chất lượng
giáo dục nghề nghiệp tạo ra những người lao động có chuyên môn vững vàng và
định hướng giá trị lao động phù hợp với nhu cầu xã hội. Đặc biệt quan tâm phát
triển giáo dục vùng núi, vùng sâu, vùng xa, khu vực biên giới, hải đảo tạo điều kiện
thuận lợi để mọi người dân được hưởng thụ thành quả của nền giáo dục. Hòa cùng
xu thế hội nhập và hợp tác quốc tế trong đào tạo, bồi dưỡng để phấn đấu bắt kịp

521
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

trình độ tiên tiến trên thế giới, nhanh chóng tham gia vào đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao cho thị trường lao động trong nước và quốc tế.
Ba là, đổi mới, nâng cao hiệu quả và sự lan tỏa các phong trào thi đua yêu nước, gắn
với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng con người mới luôn gắn với công cuộc
cải tạo xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa với vai trò rất quan trọng của các
phong trào thi đua. Trong xây dựng, hoàn thiện con người hiện nay, các phong trào
thi đua yêu nước cần gắn với thực chất, khơi dậy tiềm năng sáng tạo cũng như ý
thức đóng góp của mọi tầng lớp nhân dân vào mục tiêu mà phong trào hướng đến.
Do đó, cần đổi mới, nâng cao hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước với mục
đích thiết thực, gắn với từng đối tượng, con người cụ thể để mỗi người nhận thức
được vai trò cũng như ý nghĩa của việc thực hiện thi đua yêu nước để ra sức phấn
đấu trong lao động, học tập, công tác nhằm góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng các phòng trào thi đua gắn với những yêu
cầu, đòi hỏi cấp thiết từ cuộc sống cũng chính là cách để rèn luyện, giáo dục, hướng
con người đến những giá trị, mục đích tốt đẹp; tránh xa những cái xấu, lối sống lệch
chuẩn, vị kỷ đang tồn tại trong xã hội hiện nay nhằm góp phần hoàn thiện nhân
cách, giá trị con người mới một cách đúng đắn và thiết thực.
Bốn là, thực hiện tốt công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và
các tầng lớp nhân dân.
Đạo đức cách mạng là một phẩm chất căn bản, có tính bao quát tạo nên giá trị,
đặc trưng của con người mới xã hội chủ nghĩa; đồng thời cũng là hạt nhân định
hướng cho ý thức và hành động để mỗi cá nhân tự giác cống hiến cho sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước nhà. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói:
“Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” (Hồ, 1998, 336), và thực hiện thắng lợi công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội chính là nhiệm vụ cách mạng vẻ vang đó. Do đó, nội hàm xây
dựng con người mới hiện nay cần thực hiện tốt công tác giáo dục đạo đức cách mạng
cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là cán bộ, đảng viên để họ
tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình,
gương mẫu trong mọi việc. Chủ động phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi các
biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển
522
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

hóa”, các hành vi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong nội bộ cán bộ, đảng viên và
nhân dân để tạo lập môi trường trong sạch, vững mạnh trong đảng và hệ thống chính
trị, góp phần quan trọng bồi đắp nên con người mới “vừa hồng vừa chuyên”, đáp
ứng yêu cầu, đòi hỏi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Năm là, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách chăm lo, phát triển toàn diện
con người.
Suy cho cùng, động lực cơ bản của sự phát triển lịch sử là hoạt động thực tiễn
của con người phù hợp với các quy luật khách quan. Vì vậy, con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của xã hội thông qua hoạt động cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội
và chính bản thân mình và việc xây dựng con người mới cũng không nằm ngoài
quy luật ấy. Ở nước ta, “Quá trình đổi mới về kinh tế - xã hội là cơ sở để hình thành
con người với những phẩm chất mới. Quá trình này đòi hỏi con người phải tự tin,
chủ động, sáng tạo, năng động, thường xuyên học tập và tự bồi dưỡng về tri thức
và đạo đức nghề nghiệp, bồi dưỡng về lý tưởng chính trị và bản lĩnh nghề nghiệp
để phấn đấu cho việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, 2008, 285-286). Do đó, mọi chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước phải xuất phát từ việc không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần vì hạnh phúc của người dân, phát triển kinh tế với văn hóa xã hội, thực hiện
tiến bộ công bằng, đảm bảo lợi ích chính đáng người dân, quốc gia, dân tộc. Đặc
biệt, thực hiện công bằng trong quan hệ phân phối tiền lương và thu nhập, chất
lượng dịch vụ y tế, phát triển bảo hiểm xã hội, nâng cao mức sống cho nhân dân,
tạo cơ hội bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch
vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành
thị, đồng bằng và miền núi. Bên cạnh đó cần nâng cao ý thức, trách nhiệm mọi công
dân sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, mở rộng dân chủ và giữ vững
kỷ luật kỷ cương trong xã hội góp phần xây dựng xã hội công bằng, tiến bộ, văn
minh. Quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng chính sách: người có
công, người nghèo, người yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số. Cùng với việc điều
tiết các nguồn thu nhập xã hội nhằm giảm bớt sự phân hóa giàu nghèo, phải cải
thiện môi trường sống và đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng, tăng cường các hoạt động
văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao lành mạnh nhằm tạo điều kiện cho con người
Việt Nam phát triển toàn diện. Những điều này không chỉ từng bước hiện thực hóa

523
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

những giá trị tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội trong đời sống mà còn vun đắp niềm tin
của mỗi người dân vào chế độ, đồng thời định hình, hoàn thiện nhân cách, phẩm
chất của con người mới, phù hợp với yêu cầu mới, thời đại mới để thực hiện công
cuộc xây dựng đất nước tiến lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

4. KẾT LUẬN
Đi lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lâu dài, đầy thử thách nhưng là con
đường đúng đắn và vinh quang mà dân tộc Việt Nam hướng đến. Trong quá trình
này, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa đóng vai trò đặc biệt quan trọng,
ảnh hưởng trực tiếp đến con đường đi lên của dân tộc, đến sự thành bại của cách
mạng Việt Nam. Do đó, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về con người mới
xã hội chủ nghĩa, nắm bắt đúng những yêu cầu, đòi hỏi về xây dựng con người Việt
Nam trong bối cảnh hiện nay là vấn đề cốt yếu trong quá trình lãnh đạo cách mạng
của Đảng nhằm góp phần xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, niềm
tự hào dân tộc, phát triển đầy đủ về thể chất, thẩm mỹ, trí tuệ, vững vàng về bản
lĩnh chính trị, có nhân cách sống cao đẹp, có khát vọng cống hiến để phát huy những
thành quả cách mạng mà các thế hệ cha anh đã vun đắp, đưa đất nước vững bước
đi lên chủ nghĩa xã hội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương. (1996). Tìm hiểu Văn kiện Đại hội VIII của
Đảng. Chính trị quốc gia.
[2]. Ban Tuyên giáo Trung ương. (2016). Tài liệu học tập các Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Chính trị quốc gia.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1986). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Chính trị quốc gia.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam,. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
Chính trị Quốc gia.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2017). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-

524
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

hoi-dang/lan-thu-vii/cuong-linh-xay-dung-dat-nuoc-trong-thoi-ky-qua-do-
len-chu-nghia-xa-hoi-1558
[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
(Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[8]. Hồ, C. M. (1998). Về chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính trị quốc gia.
[9]. Hồ, C. M. (2011a). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 11). Chính trị quốc gia.
[10]. Hồ, C. M. (2011b). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 12). Chính trị quốc gia.
[11]. Hồ, C. M. (2011c). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 13). Chính trị quốc gia Sự thật.
[12]. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. (2008). Đảng Cộng sản
Việt Nam vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh trong sự nghiệp đổi mới [Đề tài khoa học cấp Bộ (2005 - 2007)].
[13]. Hội đồng Lý luận Trung ương. (2020). 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính trị quốc gia.

525
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI


TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Phạm Thanh Thủy


Trường Đại học Đà Lạt
Tác giả liên hệ: Phạm Thanh Thủy, email: thuypt@dlu.edu.vn

Tóm tắt: Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội là một trong những nội dung đặc sắc trong di
sản lý luận quý báu Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, những quan
điểm của Người về tính tất yếu và đặc trưng, bản chất của chủ nghĩa xã hội là những
chỉ dẫn quý báu đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đổi mới và phát triển
đất nước. Sức sống mãnh liệt của tư tưởng Hồ Chí Minh qua những đổi thay của thời
đại được minh chứng bằng những thành tựu của Việt Nam sau hơn 35 năm đổi mới
cùng xu hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Trong bài viết, tác giả tập trung
phân tích, làm sáng tỏ giá trị lý luận và thực tiễn trong quan điểm của Hồ Chí Minh
về tính tất yếu và đặc trưng, bản chất của chủ nghĩa xã hội. Qua đó, góp phần khẳng
định những quan điểm của Người vẫn nguyên giá trị trong giai đoạn hiện nay.
Từ khóa: tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ nghĩa xã hội; tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội;
đặc trưng của chủ nghĩa xã hội; Việt Nam.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, nhà tư tưởng kiệt xuất của Việt
Nam. Người đã để lại cho Đảng và dân tộc ta một di sản tư tưởng quý báu. Một
trong những nội dung quan trọng có giá trị khoa học, cách mạng và thực tiễn sâu
sắc trong di sản đó chính là tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội. Những quan
điểm đó có giá trị nền tảng, là chỉ dẫn mang tính nguyên tắc đối với công cuộc đổi
mới xây dựng chủ nghĩa xã hội và phát triển đất nước.
Trước những đổi thay của thời đại, đặc biệt là khi các thế lực thù địch không
ngừng chống phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, phủ nhận thành quả của công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta thì việc nghiên cứu làm rõ và khẳng
định giá trị trong quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội giai đoạn hiện
nay càng cần thiết. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội hàm chứa nhiều giá

526
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

trị to lớn nhưng trong khuôn khổ bài viết này tác giả tập trung làm rõ giá trị của hai
nội dung sau trong thời đại ngày nay.

2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU


Sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin cùng với phương pháp
phân tích, tổng hợp và phương pháp logic - lịch sử, tác giả tập trung làm rõ hai nội
dung trong giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội. Đó là tính tất yếu
và đặc trưng của chủ nghĩa xã hội.
2.1. Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội
Khẳng định tính tất yếu khách quan của chủ nghĩa xã hội là một trong những
đóng góp lớn của Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam. Xuất phát từ khát vọng
của nhân dân Việt Nam và nhân loại cần lao, nhận thức rõ thực tiễn của đất nước
cũng như xu thế phát triển của thời đại sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành
công, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã khẳng định đi lên chủ
nghĩa xã hội là tất yếu.
Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chỉ
có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt
chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất,
việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc, nói tóm lại
là nền cộng hòa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho
đến nay chỉ là những vách tường dài ngăn cản những người lao động trên thế giới
hiểu nhau và yêu thương nhau” (Hồ, 2011a, 496). Người còn chắc chắn rằng: “sớm
hoặc muộn, tất cả các dân tộc đều sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội” (Hồ, 2011e, 7) và “ngày
nay gần một nửa loài người tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ cộng sản chủ
nghĩa” (Hồ, 2011e, 607). Đó là xu thế khách quan, “không có lực lượng nào ngăn trở
được mặt trời mọc, không có lực lượng gì ngăn trở được loài người tiến lên. Cũng
không có lực lượng gì ngăn trở được chủ nghĩa xã hội phát triển”. Theo Người, “Nói
một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao
động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm được ấm no và sống
một đời hạnh phúc” (Hồ, 2011f, 415). Mà độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc, hòa bình
và phát triển không chỉ là ước vọng của nhân dân Việt Nam mà còn là khát vọng của
toàn thể nhân loại. Chính vì thế, đi lên chủ nghĩa xã hội còn là nguyện vọng của nhân

527
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

dân Việt Nam cũng như toàn thể nhân loại. Đồng thời, trong thời điểm đó thì chính
“sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi, chủ nghĩa xã hội chỉ còn làm cái
việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi” (Hồ, 2011a, 28).
Với những lý do trên cùng với kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội của
Liên Xô, Trung Quốc đã cho Người cơ sở để khẳng định tiến lên chủ nghĩa xã hội
là bước phát triển tất yếu ở các nước cũng như Việt Nam sau khi nước ta giành được
độc lập. Mặc dù ở thời điểm đó các dân tộc trong quá trình xây dựng một xã hội
mới có những khó khăn nhất định thì đây vẫn là xu thế chung của nhân loại.
Quan điểm của Hồ Chí Minh vẫn nguyên giá trị trong giai đoạn hiện nay.
Ở Việt Nam, đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu của Việt Nam khi đi theo con
đường cách mạng vô sản. Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh trong từng giai đoạn cụ thể, Đảng luôn kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong tiến trình cách mạng Việt Nam.
Hơn thế, ý chí, khát vọng của người dân Việt Nam vẫn là độc lập dân tộc gắn liền
với CNXH. Ngay cả khi chủ nghĩa xã hội hiện thực rơi vào khủng hoảng trầm trọng,
sụp đổ ở Liên Xô và một số nước Đông Âu, với bản lĩnh chính trị vững vàng, Đảng
nhìn nhận “lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người
cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch
sử” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991, 8). Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội với
những thành tựu đã đạt được là tư liệu để Đảng khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã
hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử” (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 2011, 24). Và Đại hội lần thứ XII (2016) của Đảng nhấn mạnh:
“Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt
Nam và xu thế phát triển của lịch sử” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 167). Sau 35
năm đổi mới tuy còn những hạn chế nhưng Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu:
đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển,
trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh; bộ mặt đất nước, đời sống của nhân dân
thật sự thay đổi; dân chủ XHCN được phát huy và mở rộng; đại đoàn kết toàn dân
tộc được củng cố, tăng cường. Công tác xây dựng Ðảng, xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN và hệ thống chính trị được đẩy mạnh; sức mạnh về mọi mặt của đất

528
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ
XHCN được giữ vững; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng đi vào chiều sâu; vị
thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao… Đặc biệt, trong bối
cảnh đại dịch Covid-19 tác động mạnh đến nước ta, gây nhiều thiệt hại về kinh tế -
xã hội, nhưng với sự nỗ lực cố gắng vượt bậc chúng ta đã hạn chế tối đa những thiệt
hại, đảm bảo an sinh và phúc lợi xã hội cho nhân dân, đồng thời thực hiện được
nghĩa vụ quốc tế cao cả. Tất cả những điều này càng minh chứng cho giá trị thực
tiễn trong quan điểm của Hồ Chí Minh về tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội. Hơn
nữa, chính những thành tựu đạt được trong xây dựng chủ nghĩa xã hội là cơ sở để
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhận định “đất nước ta chưa bao
giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 2021, 25). Đồng thời, xác định tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt là “kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 33)
và đề ra mục tiêu “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 36).
Trên bình diện thế giới, chủ nghĩa xã hội từ chỗ là một trào lưu tư tưởng đã trở
thành một phong trào hiện thực được bắt đầu từ khi Cách mạng tháng Mười Nga
thành công, sau đó đã trở thành một hệ thống thế giới từ giữa thế kỷ XX. Trong quá
trình vận động do khuyết điểm về mô hình nên các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào
thoái trào, đến năm 1991 chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu
tan rã. Trở mình bằng đường lối đổi mới, cải cách đúng đắn, công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội Trung Quốc, cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên và nhiều nước
khác đã đạt nhiều thành tựu quan trọng. Thực tế “Trung Quốc đã trở thành nền
kinh tế thứ hai thế giới và cường quốc lớn nhất đang trỗi dậy; Việt Nam đạt nhiều
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; Cuba hiên ngang trước bao vây cấm vận, kiên
định xây dựng quốc gia xã hội chủ nghĩa độc lập, có chủ quyền, dân chủ, thịnh
vượng và bền vững; các nước xã hội chủ nghĩa khác đều có nhiều thành công trong
xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội” (Nguyễn, 2021). Những thành tựu của các nước
này thêm minh chứng sinh động cho sức sống và khả năng tự đổi mới để đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Bên cạnh đó, Liên Xô cũ và Đông Âu vốn là nơi chịu tổn thất nặng nề nhất sau
sự biến chính trị cuối thập niên 80 đầu thập niên 90, đến nay các Đảng cộng sản đã

529
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

nhanh chóng phục hồi, đổi mới hoạt động, củng cố cơ sở, lấy lại uy tín trong xã hội.
Tại khu vực Á, Phi và Mỹ Latinh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng có
nhiều dấu hiệu mới. Đáng chú ý, chủ nghĩa xã hội đang được thực hiện với mô hình
và con đường mới ở Venezuela và một số quốc gia Mỹ Latinh khác trong hơn hai
thập kỷ vừa qua. Thể hiện sự kiên định chiến đấu vì mục tiêu xây dựng chủ nghĩa
xã hội thế kỷ XXI. Từ đó cho thấy, với tư cách là một tất yếu lịch sử, chủ nghĩa xã
hội tiếp tục có những con đường mới trong thế giới hiện nay.
Vấn đề chú ý nữa là chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những
mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó. Dưới tác động của đại dịch COVID-19 và cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư chúng ta lại chứng kiến cuộc khủng hoảng nhiều
mặt cả về y tế, xã hội lẫn chính trị, kinh tế. Đồng thời, “Các phong trào phản kháng
xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua càng
làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Thực tế
là các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do” mà phương Tây ra sức
quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân - yếu tố bản chất nhất của dân chủ”. Hơn
thế, “Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho
lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn” (P. T. Nguyễn, 2021, 5-6).
Hiện thực này cung cấp những dữ liệu quan trọng cho chúng ta khẳng định
đi lên chủ nghĩa xã hội vẫn là xu thế tất yếu hiện nay. Điều này càng chứng minh
hệ tư tưởng Mácxit trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh về tính tất yếu của chủ nghĩa
xã hội vẫn nguyên giá trị.
2.2. Đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội
Theo các nhà kinh điển C. Mác, Ph.Ăngghen và V.I. Lênin, chủ nghĩa xã hội là
giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội chủ nghĩa cộng sản. Những đặc trưng
cơ bản phản ánh bản chất và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội có thể khái quát gồm:
chủ nghĩa xã hội giải phóng giai cấp, dân tộc, xã hội, con người, tạo điều kiện cho
con người phát triển toàn diện; là chế độ do nhân dân lao động làm chủ; có nhà
nước kiểu mới mang bản chất giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và
ý chí của nhân dân lao động; có nền văn hóa phát triển cao, kế thừa và phát huy
những giá trị của văn hóa dân tộc và tinh hóa văn hóa nhân loại; đảm bảo bình

530
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc và có quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các
nước trên thế giới.
Kế thừa và phát triển những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí
Minh cho rằng xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội có bản chất khác hẳn các xã hội
khác đã tồn tại trong lịch sử. Đồng thời, Người đã làm sáng tỏ những đặc trưng,
bản chất của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
Giá trị lý luận trong quan điểm của Hồ Chí Minh về đặc trưng, bản chất của chủ
nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, xã hội xã hội chủ nghĩa gồm những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội do nhân dân làm chủ.
Đây chính là đặc trưng về chính trị mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra mang tầm vóc
thời đại. Theo Người, xã hội chủ nghĩa là chế độ xã hội “do nhân dân lao động làm
chủ”. Trong đó nhà nước là của dân, do dân và vì dân, “địa vị cao nhất là dân, vì
dân là chủ” (Hồ, 2011c, 434) đồng thời cũng do nhân dân làm chủ. Trong chế độ đó
mọi quyền lợi, quyền lực, quyền hạn thuộc về nhân dân và mọi hoạt động xây dựng,
bảo vệ đất nước, bảo vệ chế độ xã hội cũng thuộc về nhân dân. Nhân dân là người
quyết đinh vận mệnh cũng như sự phát triển của đất nước. Do vậy, chủ nghĩa xã
hội chính là sự nghiệp của nhân dân, dựa vào sức mạnh của toàn thể nhân dân để
đưa lại quyền lợi cho nhân dân. Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị, xã hội cũng
như mỗi cán bộ, đảng viên đều phải hướng tới việc phát huy quyền là chủ và làm
chủ thực sự của nhân dân.
Thứ hai, có nền kinh tế phát triển cao, công nông nghiệp hiện đại, khoa học và
kĩ thuật tiên tiến gắn với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Hồ Chí Minh chỉ cho chúng ta thấy một trong những điểm quan trọng của chủ
nghĩa xã hội chính là đặc trưng về kinh tế. Đây là chế độ xã hội phát triển cao về
kinh tế “với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại và khoa học kỹ thuật tiên tiến”
(Hồ, 2011f, 372). Một xã hội có một nền kinh tế phát triển dựa trên cơ sở năng suất
lao động xã hội cao, sức sản xuất luôn phát triển với nền tảng ứng dụng có hiệu quả
những thành tựu khoa học kỹ thuật của nhân loại. Đồng thời là “một nền kinh tế
thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể” (Hồ, 2011f, 376).
Cùng với đó thì công cụ lao động, phương tiện trong quá trình sản xuất phát triển

531
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

dần đến “máy móc, sức điện, sức nguyên tử” (Hồ, 2011e, 600). Đặc biệt, phải dựa
trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu “lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng,...
làm của chung” (Hồ, 2011d, 390).
Thứ ba, là một chế độ xã hội không còn người bóc lột người, đảm bảo sự công
bằng và hợp lý trong các quan hệ xã hội, phát triển cao về văn hóa, đạo đức, con người.
Ở đặc trưng này, Hồ Chí Minh đã phản ánh khát vọng ngàn đời của dân tộc
Việt Nam cũng như của nhân loại tiến bộ. Phải nhận thức rằng, xã hội xã hội chủ
nghĩa là giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Mặc dù trong xã hội này còn
tồn đọng những tàn dư của xã hội cũ nhưng không có chế độ người bóc lột người,
không còn áp bức, bất công. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội gắn liền với sự
phát triển văn hóa của nhân dân, là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức
và con người. Hơn nữa, chủ nghĩa xã hội không chỉ làm cho nhân dân lao động
thoát khỏi nạn bần cùng mà còn đem đến cho mọi người cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Người khẳng định: “chỉ ở trong chế
độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của
mình, phát huy tính cách và sở trường riêng của mình” (Hồ, 2011e, 610). Điểm quan
trọng nữa Hồ Chí Minh chỉ ra là chủ nghĩa xã hội bảo đảm tính công bằng và hợp
lý trong các quan hệ xã hội. Đồng thời, “ai cũng phải lao động và có quyền lao động”
và ai cũng được hưởng thành quả lao động của mình theo nguyên tắc “làm nhiều
thì hưởng nhiều, làm ít thì hưởng ít, không làm thì không hưởng” (Hồ, 2011d, 390),
những người già yếu, ốm đau, bệnh tật được quan tâm, chăm sóc. Các dân tộc đều
bình đẳng, miền núi được giúp đỡ để tiến kịp với miền xuôi, không có sự phân biệt
giữa thành thị và nông thôn, không có sự phân biệt về chủng tộc, “những người lao
động hiểu nhau và yêu thương nhau” (Hồ, 2011a, 469).
Thứ tư, là công trình tập thể của nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Giá trị trong đặc trưng này của Hồ Chí Minh là chỉ rõ sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội chính là công trình tập thể của nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Chính nhân dân là chủ thể cũng là lực lượng quyết định tốc độ xây dựng và
sự vững mạnh của chủ nghĩa xã hội. Đích cuối cùng của xã hội chủ nghĩa là đem lại
ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân “tất cả lợi ích đều vì dân, tất cả quyền hạn
đều của dân” (Hồ, 2011b, 232) vì thế nhân dân phải lãnh trách nhiệm xây dựng xã
hội này. Người khẳng định “chủ nghĩa xã hội là do quần chúng nhân dân tự mình
532
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

xây dựng nên” và trong sự nghiệp đó “cần có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng
chân chính của giai cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân” (Hồ, 2011g,
391). Hồ Chí Minh chắc chắn rằng “Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng
một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì
mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến
thành công” (Hồ, 2011g, 391).
Như vậy, những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội nêu trên theo quan điểm của
Hồ Chí Minh thể hiện một chế độ xã hội có sự phát triển về mọi mặt. Có thể nói, đó
cũng là mục tiêu của CNXH mà Đảng và nhân dân ta hướng tới, một xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Một chế độ xã hội ưu việt trong lịch sử xã hội loài người.
Giá trị thực tiễn trong quan điểm của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của chủ
nghĩa xã hội.
Vận dụng sáng tạo những quan điểm của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất
của chủ nghĩa xã hội trong thực tiễn Việt Nam. Mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa dần
được xác định rõ. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII (1991), Đảng xác định mô hình xã hội xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam gồm 6 đặc trưng cơ bản. Cụ thể: “Do nhân dân lao động
làm chủ; Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc văn hoá dân tộc; Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công,
làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết
và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất
cả các nước trên thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991b, 111). Đó chính là những
đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mà nhân dân ta xây dựng và
hướng tới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Sau 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và 20 năm thực
hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã có sự điều chỉnh, bổ sung và phát triển những đặc
trưng của chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện mới ở các kỳ Đại hội X, XI. Trong
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta xác định xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội gồm tám đặc trưng của CNXH. Cụ
533
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

thể là: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ;
có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc
trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát
triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước
trên thế giới" (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 70).
Thông qua hai bản Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội chúng ta thấy sự điều chỉnh, bổ sung của Đảng Cộng sản Việt Nam ở
một số đặc trưng rất phù hợp với điều kiện mới. Đặc biệt là trong Cương lĩnh 2011
đưa vào đặc trưng thể hiện mục tiêu tổng quát là “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”. Đặc trưng nữa là ''có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản''.
Điều đó thể hiện vị trí đặc biệt quan trọng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa trong hệ thống chính trị của Việt Nam. Nhà nước ấy thể hiện quyền lực của
nhân dân, do nhân dân xây dựng và bảo vệ, hướng tới phục vụ lợi ích của nhân
dân. Đây là một trong những điều kiện tiên quyết để thực hiện và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân. Việc xác định đặc trưng ''Con người có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” cũng bao hàm đặc trưng một chế
độ xã hội không còn người bóc lột người mà Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh. Hay điều
chỉnh cụm từ “chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu'' thành “quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp'' trong đặc trưng về kinh tế thể hiện sự phát triển sáng tạo,
đúng đắn trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tám đặc trưng trên là
thành quả của đổi mới nhận thức lý luận về CNXH phù hợp với thực tiễn Việt Nam,
thể hiện tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta xây dựng, mang sắc thái riêng của
mô hình CNXH Việt Nam và sẽ được từng bước hiện thực hóa trong cuộc sống.
Những nội dung này lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng và nhấn
mạnh trong đặc trưng của chủ nghĩa xã hội.
Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi
mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng

534
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

được hoàn thiện và từng bước hiện thực hóa. Trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
dù không tách biệt đặc trưng của chủ nghĩa xã hội nhưng nó được biểu hiện cụ thể
trong tất cả các lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội. Trên cơ sở bám sát thực tiễn, xu
hướng phát triển của đất nước và thế giới, Đảng đưa ra các định hướng bao quát
những vấn đề phát triển quan trọng của đất nước trong đó nổi bật là: xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tiếp tục đẩy mạnh
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; thực hành và phát huy rộng
rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò của nhân dân; hoàn thiện
toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư;
phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, sức khỏe của nhân
dân; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa,
chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng…” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021,
37-38). Những định hướng này thể hiện phần nào những đặc trưng, bản chất của
chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng hiện nay.
Trên đây là hai quan điểm mang giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc của Hồ Chí
Minh về chủ nghĩa xã hội. Thay lời tổng kết về giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về
tính tất yếu và đặc trưng của chủ nghĩa xã hội tác giả xin được trích quan điểm của
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Trong đó,
Tổng Bí thư nêu rõ cái chúng ta cần đó là: “một xã hội mà trong đó sự phát triển là
thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm
giá con người. Sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ
không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Một xã hội
nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ
không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá
nhân và các phe nhóm. Sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm
môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để
khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi
trường. Và một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân

535
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”
(P. T. Nguyễn, 2021, 5-6). Chứng tỏ rằng chủ nghĩa xã hội vẫn là tương lai của xã
hội loài người và quan điểm của Hồ Chí Minh về tính tất yếu cũng như đặc trưng,
bản chất của chủ nghĩa xã hội vẫn nguyên giá trị.

3. KẾT LUẬN
Có thể nói, những quan điểm của Hồ Chí Minh về tính tất yếu, đặc trưng bản
chất của chủ nghĩa xã hội đã phần nào thể hiện tính ưu việt của xã hội xã hội chủ
nghĩa. Đây là những giá trị lý luận cơ bản nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người luôn trải qua những bước thăng trầm,
sự phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa nói chung và Việt Nam nói riêng
cũng không nằm ngoài quy luật đó. Mặc dù chủ nghĩa xã hội có thời gian lâm vào
thoái trào nhưng hiện đang có dấu hiệu phục hồi, những nước đi lên theo con đường
xã hội chủ nghĩa đã tích cực cải cách, đổi mới và đã thu được những thành tựu quan
trọng tác giả đã đề cập ở trên. Điều đó chứng tỏ xu hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội
trên toàn thế giới vẫn là tất yếu khách quan. Chính biểu hiện sự phục hồi của chủ
nghĩa xã hội, những thành tựu Việt Nam đã đạt được sau hơn 35 năm đổi mới cùng
xu hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay cho phép chúng ta khẳng
định giá trị trường tồn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội. Nếu vận
dụng một cách đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội chắc
chắn rằng chúng ta tiếp tục gặt hái được nhiều thành tựu lớn. Từ đó, góp phần làm
cho con đường đến với chủ nghĩa xã hội của Việt Nam gần hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991a). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Chính trị quốc gia Sự thật.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991b). Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII.
Chính trị quốc gia Sự thật.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Hà Nội : Chính trị quốc gia Sự thật.

536
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.
Hà Nội: Chính trị quốc gia Sự thật.
[5]. Hồ, C. M. (2011a). Toàn tập (Vol. 1). Chính trị quốc gia - Sự thật.
[6]. Hồ, C. M. (2011b). Toàn tập (Vol. 6). Chính trị quốc gia - Sự thật.
[7]. Hồ, C. M. (2011c). Toàn tập (Vol. 7). Chính trị quốc gia - Sự thật.
[8]. Hồ, C. M. (2011d). Toàn tập (Vol. 10). Chính trị quốc gia - Sự thật.
[9]. Hồ, C. M. (2011e). Toàn tập (Vol. 11). Chính trị quốc gia - Sự thật.
[10]. Hồ, C. M. (2011f). Toàn tập (Vol. 12). Chính trị quốc gia - Sự thật.
[11]. Hồ, C. M. (2011g). Toàn tập (Vol. 15). Chính trị quốc gia - Sự thật.
[12]. Nguyễn, P. T. (2021). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tạp chí Cộng sản, 966, 5-6.
[13]. Nguyễn, V. T. (2021). Chủ nghĩa xã hội: Một tất yếu của lịch sử thế giới. Báo
Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. https://dangcongsan.vn/bao-ve-nen-tang-tu-
tuong-cua-dang/chu-nghia-xa-hoi-mot-tat-yeu-cua-lich-su-the-gioi-
601099.html

537
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

BƯỚC CHUYỂN TRONG QUAN NIỆM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN


VIỆT NAM VỀ MÔ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Phạm Thu Trang


Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
Tác giả liên hệ: Phạm Thu Trang, email: trangissi@gmail.com

Tóm tắt: Quá trình đổi mới của đất nước ta qua hơn 35 năm đã thực sự đem lại những
thay đổi rất rõ nét trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Thành tựu của đổi mới
giúp chúng ta nhận thức đầy đủ thêm một bước, bổ sung, phát triển một số phương
diện nhất định trong lý luận về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH
ở nước ta nhưng đồng thời cũng làm bộc lộ nhiều vấn đề bất cập mà chưa được lý
luận giải quyết thỏa đáng. Bài viết này sẽ làm rõ mô hình chủ nghĩa xã hội của nước
ta thời kỳ trước đổi mới trong nhận thức, quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam
(ĐCSVN) trong tương quan so sánh với giai đoạn từ năm 1986 đến nay thông qua các
văn kiện chính của Đảng như: Cương lĩnh 1991, Văn kiện Đại hội lần thứ X, Cương
lĩnh 2011 và gần đây nhất là Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng... Trên cơ sở đó
thấy được bước chuyển trong quan niệm của Đảng về mô hình chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam với các kết quả đạt được và những vấn đề đang đặt ra hiện nay.
Từ khóa: chủ nghĩa xã hội; mô hình chủ nghĩa xã hội; quá trình đổi mới.

1. MỞ ĐẦU
Mô hình CNXH là một khái niệm tổng quát, bao gồm những đặc trưng chung
nhất về kinh tế, chính trị - xã hội, văn hóa tư tưởng... Quan niệm về mô hình CNXH
của từng quốc gia phụ thuộc vào các điều kiện lịch sử cụ thể của từng quốc gia đó,
thể hiện nhận thức của các Đảng Cộng sản về xã hội mà quốc gia đó dự kiến xây
dựng. Trong thực tiễn nghiên cứu lý luận CNXH ở Việt Nam, khái niệm mô hình
CNXH ở Việt Nam chưa được định danh một cách cụ thể trong các Văn kiện của
Đảng mà thường được thay thế bằng những khái niệm tương đương như “quan
niệm về xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng” (Cương lĩnh 1991, Cương
lĩnh 2011) hay “quan niệm về chủ nghĩa xã hội” hoặc các “đặc trưng” của CNXH ở
Việt Nam...

538
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

2. QUAN NIỆM CỦA ĐCSVN VỀ MÔ HÌNH CNXH TRƯỚC NĂM 1986


Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975, ĐCSVN về cơ bản mới thể hiện những
nhận thức bước đầu về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là những nhận thức
khái quát nhất về xã hội xã hội chủ nghĩa theo tinh thần, quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin thể hiện chung nhất trên các phương diện kinh tế, văn hóa, xã hội và
về chính sách đối ngoại.
Trên phương diện kinh tế, Đảng ta chủ trương: xây dựng một nền kinh tế quốc
dân “có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến”
làm cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong giai đoạn này,
Đảng đã đưa ra quan điểm thừa nhận có sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành
phần, đặc biệt là thừa nhận và bảo đảm quyền sở hữu ruộng đất thực tế của nông
dân. Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế đã góp
phần xác lập và khẳng định vị trí chủ thể của kinh tế hộ nông dân; tạo điều kiện cho
sản xuất nông nghiệp - hoạt động kinh tế chủ yếu có bước phát triển vượt bậc. Tuy
nhiên, quan điểm về sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, do nhiều nguyên
nhân khác nhau, đã không được thực hiện nhất quán và lâu dài.
Trên phương diện chính trị, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội đã được Đảng vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp cách mạng
chưa có tiền lệ: cả nước cùng một lúc tiến hành thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược
là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước ở miền
Nam. Đường lối chính trị đúng đắn này đã thể hiện phương châm chiến lược sáng
tạo của Đảng về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện cụ
thể của Việt Nam. Mối quan hệ hữu cơ giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội đã
được thể hiện sinh động trong việc xác định nhiệm vụ cách mạng cụ thể ở miền Bắc
và miền Nam trên cơ sở mục tiêu chung của sự nghiệp cách mạng của cả nước.
Trên phương diện văn hóa, quá trình xây dựng đời sống văn hóa mới ở miền
Bắc, cũng như những vùng giải phóng ở miền Nam - đã chứng tỏ sự vận dụng quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hóa vô sản - văn hóa xã hội chủ nghĩa để
xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam.
Trên phương diện xã hội, Đảng ta đã cố gắng vận dụng công bằng, bình đẳng
xã hội trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nhất quán với chủ trương lấy

539
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

phân phối theo lao động là hình thức phân phối chủ yếu, chú ý quan tâm những gia
đình chính sách. Về con người, Đảng ta đã vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người xã hội chủ nghĩa, coi đó là tiền đề, điều kiện để xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội.
Về chính sách đối ngoại, Đảng chủ trương nhất quán quan điểm luôn tranh
thủ tối đa sự giúp đỡ của các nước trong khối xã hội chủ nghĩa, các lực lượng yêu
chuộng hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới. Việt Nam luôn trung thành với
tinh thần quốc tế vô sản, kết hợp với chủ nghĩa yêu nước chân chính của dân tộc.
Có thể khẳng định rằng ở giai đoạn này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhận
thức ở mức độ khái quát nhất về các nội dung mang tính bản chất của chủ nghĩa xã
hội trên các lĩnh vực. Trên cơ sở tư duy của Đảng về các đặc trưng chủ nghĩa xã hội
nêu trên, là cơ sở xác định đặc điểm, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tuy nhiên, cũng phải đánh giá khách quan thì thời kỳ này tư duy của Đảng về nhận
thức mô hình chủ nghĩa xã hội còn rất nhiều hạn chế, bất cập, đòi hòi cần phải tiếp
tục được làm sáng rõ các giai đoạn sau.
Sau năm 1975, đất nước thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong hai
nhiệm kỳ Đại hội IV (1976) và Đại hội V (1982), Đảng đã có bước chuyển nhất định
trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội. Đại hội IV nêu rõ những đặc điểm của đất nước
thống nhất. Trên cơ sở đặc điểm, Đại hội đã đề ra đường lối chung của công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là: “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy
quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động; tiến hành đồng thời ba cuộc cách
mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng về khoa học - kỹ thuật, cách mạng
tư tưởng văn hóa, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền
sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới, xây dựng con người mới
xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu;
không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh
chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc
lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung
của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2004, 523-524).

540
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Từ đường lối chung đó, Đảng đã cụ thể hóa tư duy về mô hình chủ nghĩa xã
hội thành những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở nước ta lúc đó. Những đặc trưng
được thể hiện cụ thể trên tất các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, chính
sách đối ngoại.
Nhìn chung, quan niệm của ĐCSVN về mô hình đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam từ năm 1976 đến năm 1986 tuy có những bước phát triển nhất định, song về
cơ bản, vẫn chịu ảnh hưởng trực tiếp của cơ chế quản lý kế hoạch hóa, tập trung
quan liêu, hành chính và bao cấp; chịu ảnh hưởng trực tiếp của hoàn cảnh và quy
luật của chiến tranh và bên cạnh đó là những diễn biến phức tạp của tình hình quốc
tế. Chủ nghĩa xã hội mới chỉ được nhận thức chung theo mô hình Xô Viết, những
nét đặc thù của chủ nghĩa xã hội Việt Nam chưa được định hình một cách cụ thể

3. BƯỚC CHUYỂN TRONG QUAN NIỆM CỦA ĐCSVN VỀ MÔ HÌNH CNXH


TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY
Tư duy, nhận thức về mô hình của chủ nghĩa xã hội đặt ra cấp bách nhằm trả
lời câu hỏi lớn từ thực tiễn: Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là gì? Đổi mới để có nhận
thức mới, nhận thức đúng về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong lộ trình đổi mới
toàn diện: từ đổi mới tư duy đến đổi mới về tổ chức, cán bộ và phương thức lãnh
đạo, từ đổi mới kinh tế đến đổi mới chính trị, đổi mới đối nội và đối ngoại...
Giai đoạn đầu của đổi mới, từ năm 1986 đến năm 1991 là giai đoạn tìm tòi, đột
phá trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết thực tiễn trong nước và thế giới. Tại Đại hội VI
(1986), Đảng chủ trương đổi mới tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội, xác định việc
xây dựng một cương lĩnh mới làm nền tảng tư tưởng chính trị định hướng cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
Đại hội VII (1991) của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991). Nhiều nội
dung lý luận và thực tiễn được Cương lĩnh đặt ra. Trong đó có nội dung rất quan
trọng là xác định những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng. Khái niệm “những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội” đã được nêu ra trong Văn
kiện Đại hội VII. Đây được xem là bước đột phá về tư duy chính trị của Đảng về mô

541
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Cương lĩnh năm 1991 đã xác định xã hội xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
“ - Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế
độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng
lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991, 8-9).
Với việc xác định những đặc trưng trên của xã hội xã hội chủ nghĩa, tư duy
của Đảng về chủ nghĩa xã hội đã tiệm cận tới những nét bản chất của chủ nghĩa xã
hội trong điều kiện Việt Nam. Mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam lần đầu tiên
được nhận diện và khắc phục bước đầu tư duy máy móc, giáo điều, rập khuôn theo
mô hình Xô Viết trước đây. Mặc dù chưa hoàn toàn đầy đủ nhưng các đặc trưng
vừa nêu đã chỉ ra những mặt, những phương diện liên quan đến mô hình, cấu trúc
xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, quan hệ đối nội, đối ngoại. Điều này tạo cơ sở để toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân hiện thực hóa thành chế độ xã hội có kết cấu hạ tầng về cơ sở vật chất tinh
thần với thiết chế thượng tầng phù hợp.
Sau Đại hội VII, Đảng tổ chức Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ
(1994) tiếp tục phát triển và cụ thể hóa tư tưởng mà Đại hội VII đã xác định. Hội
nghị đã nêu một số quan điểm của Đảng về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong điều
kiện mới. Trong đó, bước đầu xác định mục tiêu của quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội là phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Đại hội VIII (1996) của Đảng tiếp tục có nhận thức mới chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Đặc biệt Đảng khẳng định trong bất kỳ tình huống khó khăn nào cũng không
dao động, xa rời mục tiêu “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Đại hội đã rút ra

542
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

sáu bài học sau 10 năm đổi mới, trong đó có những bài học liên quan đến tư duy nhận
thức về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội còn cụ thể hóa mục tiêu của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có sơ sở vật chất
- kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng,
an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Đại hội IX (2001) của Đảng là Đại hội mở đầu thế kỷ XXI ở Việt Nam. Đại hội
đã có nhiều nhận thức mới về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội IX đã
xác định rằng, mục tiêu chung của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
là độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Mục tiêu chung này đã được bổ sung thêm nội dung dân chủ
so với Đại hội VII, Đại hội VIII. Đại hội IX cũng xác định rõ: động lực chủ yếu để
phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân
với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập
thể và xã hội, phát huy mọi tìềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của
toàn xã hội.
Đại hội X (2006) của Đảng nhận định rằng: nhận thức về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn, hệ thống các quan điểm
về công cuộc đổi mới về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam đã hình thành những nét cơ bản. Bước phát triển mới là Đại hội X
đã bổ sung, phát triển một số nội dung của Cương lĩnh năm 1991 về đặc trưng của
xã hội xã hội chủ nghĩa. Đại hội X, xác định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân
chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải
phóng khỏi ách áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển
toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương
trợ, giúp nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và
hợp tác với các nước trên thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006, 17-18). Nhận

543
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

thức mới của Đại hội X là cơ sở định hướng quan trọng, là tiền đề để Đại hội XI của
Đảng kế thừa, tiếp thu để bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991.
Đại hội XI (2011) trên cơ sở tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991,
khẳng định ý nghĩa to lớn của Cương lĩnh. Đại hội XI đã bổ sung, phát triển Cương
lĩnh năm 1991 làm nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta trong quá trình đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tư duy mới về mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã có thêm bước
phát triển để phù hợp với bản chất của chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Về đặc trưng của
xã hội xã hội chủ nghĩa, Cương lĩnh năm 2011 xác định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu
nghị và hợp tác với các nước trên thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 70) .
So với Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh năm 2011 đã tiếp thu, kế thừa các nội
dung phản ánh trong 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa đã được xác định từ
Đại hội VII, 8 đặc trưng mà Đại hội X đề xuất bổ sung, phát triển; đồng thời điều
chỉnh, bổ sung, phát triển hầu hết các nội dung thuộc các đặc trưng khác (để có
được tám đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa trong Cương lĩnh năm 2011). Xem xét
tổng thể các đặc trưng có thể thấy tư duy mới, bước chuyển mới của Đảng về mô
hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thể hiện ở một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, so với Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011 đã bổ sung hai đặc trưng
mới: một là, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; hai là, có Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng
Cộng sản lãnh đạo. Trong Văn kiện Đại hội X, hai đặc trưng quan trọng này cũng
đã được nêu ra khi nói về chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng. Song, trong
Cương lĩnh 2011, tiêu chí dân chủ được đặt trước tiêu chí công bằng. Thực tiễn cho
thấy, dân chủ và việc thực hiện dân chủ giữ vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng
trong đời sống xã hội. Dân chủ không những là mục tiêu, mà còn là động lực thúc
544
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội theo hướng phát triển nhanh và bền vững. Khi dân
chủ được bảo đảm mới có thể nói đến công bằng và đến lớn mạnh, những điều đó
mới thể hiện sự văn minh.
Việc bổ sung đặc trưng ''có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản'' thể hiện vị trí
đặc biệt quan trọng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong hệ thống
chính trị của Việt Nam. Nhà nước ấy thuộc về nhân dân; do nhân dân xây dựng
hướng tới phục vụ lợi ích của nhân dân; là cơ quan quyền lực của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Mục tiêu căn bản của công cuộc đổi mới nói chung, của đổi
mới chính trị và đổi mới hệ thống chính trị nói riêng, ở nước ta chính là xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
là một trong số điều kiện tiên quyết để thực hiện và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân.
Thứ hai, nếu Cương lĩnh năm 1991 xác định xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội
''do nhân dân lao động làm chủ'', thì trong Văn kiện Đại hội X và Cương lĩnh 2011,
đặc trưng thứ hai được điều chỉnh thành ''do nhân dân làm chủ''. Rõ ràng, khái niệm
''nhân dân” trong Văn kiện Đại hội X có nội hàm rộng hơn so với khái niệm ''nhân
dân lao động'' được đề cập trong Cương lĩnh năm 1991. Điều này cho phép thực
hiện khối đại đoàn kết toàn dân tộc và huy động sức mạnh của toàn dân vào sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, đặc trưng thứ hai trong Cương lĩnh năm 1991 ''Có một nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản
xuất chủ yếu'' được Cương lĩnh 2011 bổ sung bằng ''Có nền kinh tế phát triển cao
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp''. Điều
này là cần thiết và đúng đắn. Bởi lẽ, theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quy
luật về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là
xương sống của mọi hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ sở hữu (chế độ công hữu)
không đồng nhất với quan hệ sản xuất. Dù đóng vai trò hết sức quan trọng, song
quan hệ sở hữu cũng chỉ là một trong 3 yếu tố (quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và
quan hệ phân phối) cấu thành quan hệ sản xuất. Quan điểm mới này là sự cụ thể

545
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

hóa bài học được nêu tại Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (bài học về sự
phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất).
Thứ tư, cụm từ ''được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công” trong đặc
trưng thứ tư của Cương lĩnh 1991 (cụm từ “được giải phóng khỏi áp bức, bất công”
ở đặc trưng thứ 5 của mô hình chủ nghĩa xã hội nêu trong Văn kiện Đại hội X) được
Cương lĩnh 2011 lược bỏ và xác định là ''Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Điều này là hợp lý, bởi lẽ, sự ''ấm no, tự
do, hạnh phúc'' của con người cũng đã bao hàm ý nghĩa được giải phóng khỏi áp
bức, bóc lột và bất công.
Thứ năm, Cương lĩnh năm 2011 xác định ''con người có điều kiện phát triển
toàn diện'' (trong Cương lĩnh 1991 viết: ''Con người có điều kiện phát triển toàn diện
cá nhân'', cũng Văn kiện Đại hội X ghi ''con người được phát triển toàn diện''). Việc
bổ sung cụm từ ''có điều kiện” thể hiện rằng trong chủ nghĩa xã hội sự phát triển
của con người luôn được tạo điều kiện, đồng thời phải căn cứ vào trình độ phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thứ sáu, đặc trưng thứ 5 của Cương lĩnh năm 1991 viết: ''Các dân tộc trong
nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ”; còn trong Văn kiện
Đại hội X viết: ''Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương
trợ, giúp nhau cùng tiến bộ''. Trong Cương lĩnh năm 2011, đặc trưng này được điều
chỉnh thành: ''Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng
và giúp nhau cùng phát triển''. Việc thay thuật ngữ ''tương trợ'' bằng thuật ngữ ''tôn
trọng'' làm cho đặc trưng này có nội dung toàn diện hơn (với 4 tiêu chí: bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau), bởi thuật ngữ ''tương trợ” và ''giúp nhau” (trong
Văn kiện Đại hội X), về cơ bản, có nội dung như nhau.
Thứ bảy, nếu Cương lĩnh 1991 xác định đặc trưng thứ 6 của chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam là “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế
giới'', thì trong Văn kiện Đại hội lần thứ X và trong Cương lĩnh 2011, nó được diễn
đạt một cách chính xác hơn đó là: ''Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước
trên thế giới''. Cụm từ ''với các nước trên thế giới'' rộng hơn cụm từ ''với nhân dân
tất cả các nước trên thế giới''. Nó thể hiện mối quan hệ hữu nghị và hợp tác của Việt
Nam không chỉ với nhân dân các nước, mà cùng với nhà nước, chính phủ và các tổ
chức phi chính phủ của các nước trên thế giới.
546
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Những đặc trưng trên là thành quả của đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội
phù hợp với thực tiễn Việt Nam; là kết hợp hài hòa giữa “cái phổ biến” và “cái đặc
thù”; mang sắc thái riêng của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam và được từng
bước hiện thực hóa trong cuộc sống.
Từ nghiên cứu tổng kết thực tiễn thường xuyên từ năm 1991, sau 20 năm thực
hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại
hội XI thông qua biểu quyết đã quyết định giữ nguyên tên của Cương lĩnh năm 1991
(chỉ ghi thêm: bổ sung, phát triển năm 2011), thể hiện tính nhất quán của Đảng khi
xác định vai trò to lớn của Cương lĩnh: làm nền tảng chính trị tư tưởng cho toàn bộ
hoạt động của Đảng, Nhà nước, của toàn xã hội trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội trong suốt thời kỳ quá độ. Theo đó, các đặc trưng thể hiện mô hình xã hội xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng đã được thường xuyên đổi mới để có tư duy mới về
các thuộc tính bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tóm lại, từ mô hình chủ nghĩa xã hội với sáu đặc trưng năm 1996 tới mô hình
tám đặc trưng năm 2011 là một bước chuyển vượt bậc trong xử lý mối quan hệ cái
phổ biến với cái đặc thù về chủ nghĩa xã hội trền nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay của Đảng, xuất phát từ thực tiễn
Việt Nam. Đó là bước chuyển, đồng thời cũng là luận điểm chỉ đạo và quán xuyến
toàn bộ sự nghiệp đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta
từ năm 1986 đến nay.
Với những bước chuyển này, trong báo cáo chính trị Đại hội XIII đã khẳng
định các kết quả đạt được như sau: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30
năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý
luận về đường lối đổi mới, về CNXH và con đường đi lên CNXH của Việt Nam
ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Đất nước đã đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm
trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả
về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ,
tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 103-104). Đây
cũng chính là những minh chứng rõ nét cho việc xây dựng mô hình CNXH theo
đường lối và chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đã định sẵn.

547
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

4. MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC


Bước chuyển trong quan niệm của Đảng cộng sản Việt Nam về mô hình chủ
nghĩa xã hội đạt được những kết quả sau:
Một là, Đảng ta đã quán triệt một cách khoa học và bổ sung, phát triển sáng
tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin trong dự báo về chủ nghĩa xã hội
với những nét phổ biến, đồng thời với những nét đặc thù, từ điều kiện cụ thể của
từng quốc gia, dân tộc vào điều kiện cụ thể Việt Nam, kết hợp với tư tưởng Hồ Chí
Minh về chủ nghĩa xã hội Việt Nam để từng bước hoàn thiện mô hình xã hội xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.
Chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là giai đoạn đầu
của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội tiến bộ, ưu việt
hơn tất cả các xã hội trước đó về các đặc trưng kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
nhằm giải phóng con người khỏi mọi tình trạng áp bức, bóc lột, bất công. Để xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội, những người cộng sản phải hình dung, phác
thảo ra được những đường nét cơ bản nhất của mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa
(mà chúng ta gọi đó là những ''đặc trưng''). Nếu không phác thảo được mô hình,
những đường nét cơ bản thì rất khó xác định mục tiêu phấn đấu, định hướng để
xây dựng chủ nghĩa xã hội và biến chúng thành hiện thực trong cuộc sống. Hơn
nữa, những đặc trưng thể hiện mô hình đó phải phù hợp với quy luật phát triển của
lịch sử xã hội loài người, phản ánh được nét đặc sắc của truyền thống dân tộc và xu
thế phát triển của thời đại. Đây là đòi hỏi tất yếu nhưng cũng rất khó khăn đối với
các Đảng Cộng sản trong quá trình lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là
trong bối cảnh tình hình hiện nay, khi mà chủ nghĩa xã hội trên thế giới vẫn đang
còn trong tình trạng thoái trào.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã có những dự báo về những đặc
trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa dựa trên thực tiễn đương thời. Tuy không coi đó
là mô hình bất biến, song các ông đã hình dung và phác thảo về chủ nghĩa xã hội -
một chế độ xã hội ưu việt và tiến bộ hơn so với các chế độ xã hội trước đó, thể hiện
trên một số nét cơ bản như sau: (1) Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải
phóng con người khỏi mọi ách bóc lột về kinh tế và nô dịch về tinh thần, tạo điều
kiện cho con người phát triền toàn diện; (2) Cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội
được tạo ra bởi lực lượng sản xuất tiên tiến, hiện đại; (3) Chủ nghĩa xã hội là từng
548
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

bước xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất (chủ yếu); (4) Chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao
động mới với năng suất cao; (5) Chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối
theo lao động; (6) Chủ nghĩa xã hội là một xã hội dân chủ, dân chủ gấp nhiều lần
dân chủ tư sản; (7) Nhà nước trong chủ nghĩa xã hội là nhà nước dân chủ kiểu mới,
thể hiện bản chất giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của
nhân dân lao động; (8) Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, các quan hệ giai cấp - dân tộc
- quốc tế được giải quyết phù hợp, kết hợp lợi ích giai cấp - dân tộc với chủ nghĩa
quốc tế trong sáng.
Trên cơ sở nhận thức về thời đại, nhận thức về dân tộc và sức mạnh dân tộc
từ thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Đảng ta ngày càng rõ hơn. Trong quá trình đổi
mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta nhận
thấy việc xác định đúng mô hình chủ nghĩa xã hội là yếu tố có ý nghĩa quyết định
đến sự thành công của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hơn nữa,
như Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng gần đây nhất đã khẳng định: “Cả lý luận và
thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới
về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ
đại, đầy thử thách khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích, lâu dài,
không thể nóng vội. Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ trương, đường lối đúng,
đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng
hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình
tham gia thực hiện đường lối của Đảng vì thấy đường lối đó đáp ứng đúng yêu cầu,
nguyện vọng của mình. Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của
phát triển” (Nguyễn, 2021).
Hai là, Đảng ta nhận thức đúng hơn, rõ ràng, cụ thể hơn những đặc trưng phản
ánh các thuộc tính của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên tất cả các phương diện liên
quan trực tiếp: về mục tiêu chung, về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, về con người
cùng với các phương diện đối nội, đối ngoại...

549
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Về mục tiêu chung, Đảng ta đã xác định là: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh” và từng bước làm rõ hơn về nội hàm của mục tiêu chung, thể
hiện bản chất của chủ nghĩa xã hội mà Đảng, nhân dân ta xây dựng.
Giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là những giá trị xã hội tốt đẹp nhất,
ước mơ ngàn đời của loài người, cho nên cũng là mục tiêu phấn đấu của chủ nghĩa
xã hội. Vì vậy, đây là đặc trưng phổ quát, có tính bản chất của xã hội xã hội chủ
nghĩa, nó thể hiện sự khác nhau căn bản, sự tiến bộ hơn hẳn của chế độ xã hội chủ
nghĩa so với các chế độ xã hội trước đó. Xây dựng xã hội “dân chủ, công bằng, văn
minh” là quá trình vô cùng khó khăn, gian khổ và lâu dài trong hoàn cảnh và điều
kiện Việt Nam - một nước đang phát triển, chưa có “nền đại công nghiệp”. Đảng ta
đã vạch ra phương hướng, chính sách cụ thể, có cơ sở lý luận - thực tiễn để thực
hiện trong hiện thực: nước mạnh gắn với dân giàu, công bằng và văn minh, bảo
đảm dân chủ; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức; phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; hoàn thiện nhà nước pháp quyền với nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa.
Bên cạnh xác định mục tiêu chung, Đảng cũng đã xác định các mục tiêu cụ thể
về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, về con người cùng với các phương diện đối
nội, đối ngoại... Mỗi mục tiêu thể hiện từng phương diện cụ thể của mô hình chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Ba là, thông qua tổng kết thực tiễn thường xuyên Đảng Cộng sản Việt Nam đã
từng bước phát triển, lãm rõ lý luận nhằm lấy lý luận đó soi sáng cho hoạt động
thực tiễn. Việc hiện thực hóa các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
đã chứng minh mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn.
Sự đổi mới đất nước đặt ra đòi hỏi phải có một mô hình chủ nghĩa xã hội của
riêng Việt Nam, vừa phản ánh những giá trị phổ quát của chủ nghĩa xã hội, vừa
phản ánh những đặc điểm đặc thù của Việt Nam được thể hiện bằng những đặc
trưng bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, các phương hướng cơ bản
để hiện thực hóa đặc trưng, các giải pháp, cách thức tiến hành mang ý nghĩa đột
phá… Phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa phải được phản ánh
trong các mục tiêu chiến lược: Mục tiêu chung của công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội và mục tiêu đặc thù khi kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội gắn với
550
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

mục tiêu của từng chặng đường, của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từng giai
đoạn. Việc xác định rõ các tiêu chí bằng định tính, định lượng cho chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam cũng đòi hỏi phải phân tích đầy đủ, sâu sắc các mối quan hệ, bối cảnh
quốc tế và trong nước, dự báo khoa học các xu thế, triển vọng, những thời cơ, thách
thức đang đặt ra.
Trong hơn 35 năm đổi mới nhiều vấn đề lý luận mới, chưa từng có đã được
tổng kết từ thực tiễn và đưa vào áp dụng trong thực tế, mang lại những hiệu quả
kinh tế, xã hội to lớn như: khoán trong nông nghiệp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước, đảng viên làm kinh tế, kinh tế hàng hóa đa thành phần đến kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa… Sự đúc kết
nên 8 đặc trưng, 8 phương hướng và 8 mối quan hệ lớn để xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam cũng chính là kết quả của sự sáng tạo lý luận của Đảng ta trong
công cuộc đổi mới, bắt đầu từ thực tiễn đổi mới tư duy. Tất cả các vấn đề đó đều là
kết quả vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội, việc tổng
kết những bài học kinh nghiệm của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế
giới và thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc ở Việt Nam.

5. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐANG ĐẶT RA


Bên cạnh những kết quả đạt được, quan niệm của ĐCSVN về mô hình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cần phải tiếp tục làm rõ hơn nữa những vấn đề sau:
Một là, Đảng cần phải luận giải thuyết phục bằng những phân tích làm rõ kiểu,
mô hình chủ nghĩa xã hội nảy sinh, phát triển và được thực hiện hóa.
Vì khi dự báo về triển vọng của chủ nghĩa xã hội nói chung, Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn nhất quán quan điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội là tuân theo quy
luật tiến hóa của lịch sử. Cương lĩnh năm 1991 ghi rõ: Lịch sử thế giới đang trải qua
những bước quanh co, song, loài người cuối cùng cũng nhất định sẽ tiến tới chủ
nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử. Cương lĩnh 2011, trên cơ sở Cương
lĩnh năm 1991, một lần nữa khẳng định: “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử loài
người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 13).
Với các quốc gia, dân tộc khác nhau thì cần có luận giải thuyết phục đâu là
điều kiện cần, điều kiện đủ để ra đời, tồn tại và phát triển các thuộc tính thể hiện
mô hình đa dạng, phong phú của chủ nghĩa xã hội. Nếu được như vậy, một mặt
551
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

góp phần vào phát triển lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học; mặt khác, cũng góp
phần vào tuyên truyền, củng cố niềm tin của nhân loại, trong đó có nhân dân ta vào
tương lai của chủ nghĩa xã hội hiện thực.
Hai là, nhiều nội dung của các đặc trưng thể hiện mô hình chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam cần tiếp tục được nghiên cứu để bổ sung, phát triển và làm sáng rõ hơn.
Về các đặc trưng thể hiện mô hình của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, dù từng
bước phát triển và được xác định, gồm 8 đặc trưng trong Cương lĩnh năm 2011. Tuy
nhiên, chắc chắn là chưa thể đầy đủ và đã hoàn thiện, còn nhiều vấn đề mà trong
điều kiện hiện nay cần phải làm sáng rõ hơn. Các đặc trưng này đã phản ánh được
mặt khác biệt của chủ nghĩa xã hội so với chế độ xã hội dựa trên áp bức, bóc lột
người và người, nhất là so với chủ nghĩa tư bản hiện đại hay chưa? Mặt khác, trong
từng đặc trưng cũng cần làm rõ hơn đâu là điểm khác biệt của chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam với các quốc gia, dân tộc khác.
Trên thực tế vẫn còn nhiều ý kiến cho rằng, đặc trưng bao trùm là: dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, thì ngay các nước tư bản cũng xác định
như vậy, thậm chí họ còn hiện thực hóa mục tiêu đó bao gồm tổng thể các yếu tố,
nội dung cấu thành đặc trưng rồi. Nếu chỉ dừng lại như vậy đã đủ, đúng mục tiêu
tổng quát của chủ nghĩa xã hội chưa, là điều mà Đảng trong quá trình đổi mới tư
duy chính trị của mình cần phải tiếp tục làm rõ hơn.
Ba là, Đảng ta cần cụ thể hóa hơn nữa các loại hình mục tiêu trong Cương lĩnh
năm 2011.
Các mục tiêu đó là, mục tiêu chung của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội;
mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; mục tiêu của
chặng đường trước mắt và các chặng đường tiếp theo. Trong đó, phải làm rõ quan
hệ giữa mục tiêu của từng chặng đường với mục tiêu của Chiến lược phát triển
thông qua các giai đoạn cụ thể. Trong đó, phải làm rõ mục tiêu của từng chặng
đường, với mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn 2011 - 2020
và giai đoạn 2020 - 2045.
Cương lĩnh năm 2011 xác định: “Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá
độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với
kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta

552
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay đến
thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành
một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 2011, 25). Mục tiêu này đã hoàn toàn đúng, đủ, khả thi chưa? Nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là gì? Việc xây dựng được
về cơ bản nền tảng về kinh tế của chủ nghĩa xã hội phải căn cứ vào những tiêu chí
gì để không bị hiểu chung chung, trừu tượng? Xây dựng nước ta trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa bao gồm những
tiêu chí gì? Kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp cũng mới
chỉ đạt được định tính, chưa rõ tiêu chí định lượng.
Trong văn kiện đại hội XIII các mục tiêu cũng đã được chi tiết hóa và cụ thể,
song để đạt được các kết quả này trên thực tế còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố cả
chủ quan và khách quan, nhất là khi có sự tác động, ảnh hưởng sâu sắc của các yếu
tố như dịch bệnh Covid-19 trong suốt những năm vừa qua.

6. KẾT LUẬN
Như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin
và Tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam để từng bước tạo ra những bước
chuyển mới trong nhận thức về mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những đặc
trưng phản ánh các thuộc tính của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên tất cả các
phương diện đã được nhận thức đầy đủ và cụ thể hơn. Tuy nhiên, nhận thức của
Đảng ta về mô hình chủ nghĩa xã hội vẫn còn những vấn đề đặt ra đòi hỏi cần phải
được luận giải một cách thuyết phục bằng những phân tích làm rõ kiểu, mô hình
chủ nghĩa xã hội nảy sinh, phát triển và được hiện thực hóa. Nhiều vấn đề về các
đặc trưng thể hiện mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cần tiếp tục được nghiên
cứu để bổ sung, phát triển và làm sáng rõ hơn trong các giai đoạn sau này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sự thật.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1994). Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm
kỳ khóa VII. Chính trị quốc gia.

553
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1995). Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá VII. Chính trị quốc gia.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1996). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII. Chính trị quốc gia.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1997). Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá VIII. Chính trị quốc gia.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
Chính trị quốc gia.
[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2004). Văn kiện Đảng toàn tập (Vol. 37). Chính trị
quốc gia.
[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2005). Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới. Chính
trị quốc gia.
[9]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
Chính trị quốc gia.
[10]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Chính trị quốc gia.
[11]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2015). Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - Thực
tiễn qua 30 năm đổi mới: 1986 – 2016. Chính trị Quốc gia.
[12]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
Chính trị Quốc gia.
[13]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
(Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[14]. Nguyễn, T. B. (2021). Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về con đường đi
lên CNXH. Cổng Thông tin Điện tử Bộ Nội vụ. https://www.moha.gov.vn/tin-
noi-bat/bai-viet-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-ve-con-duong-di-len-
cnxh-46173.html

554
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

VAI TRÒ THẾ GIỚI QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN KHOA HỌC
CỦA HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA CÁC MÁC
ĐỐI VỚI CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
An Thị Ngọc Trinh
Trường Đại học Bách Khoa, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên hệ: An Thị Ngọc Trinh, email: antrinh38@hcmut.edu.vn

Tóm tắt: Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, việc nghiên cứu sự phát triển của xã hội loài
người đã được các nhà khoa học phân tích ở nhiều góc độ và cách tiếp cận khác nhau.
Dựa trên kết quả nghiên cứu lý luận và tổng thể quá trình lịch sử, C.Mác đã thực hiện
một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng. Trong đó, học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội được xem là “hòn
đá tảng” của quan niệm duy vật về lịch sử, có sức sống vượt thời gian. Với bản chất
khoa học và cách mạng, những kết luận mà C.Mác nêu ra trong học thuyết đã trở thành
cơ sở lý luận khoa học để các đảng cộng sản nhận thức về tính chất thời đại và đề ra
đường lối cách mạng đúng đắn cho sự vận động, phát triển của xã hội loài người. Bài
viết làm sáng tỏ giá trị học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác với tư cách là cơ
sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học để Việt Nam nhận thức và có những
bước đi phù hợp trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; kiên quyết đấu tranh với
những tư tưởng chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, thông qua thực tiễn xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong hơn ba mươi lăm năm đổi mới để chứng minh
giá trị khoa học và tính cách mạng trong học thuyết của C.Mác.
Từ khóa: Học thuyết của C. Mác; hình thái kinh tế xã hội; chủ nghĩa xã hội; thế giới
quan; phương pháp luận.

1. QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ TỰ NHIÊN CỦA SỰ PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH THÁI
KINH TẾ - XÃ HỘI THEO ĐIỂM CỦA C.MÁC
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác chứng minh tiến trình lịch sử - tự
nhiên của xã hội loài người. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một nội dung quan
trọng của chủ nghĩa duy vật lịch sử, vạch ra những quy luật cơ bản của sự vận động
phát triển xã hội, là phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo xã hội.
Theo quan điểm của C.Mác, có thể khái quát, hình thái kinh tế - xã hội là một phạm

555
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã hội ở từng nấc thang lịch
sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với
một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương
ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Như vậy, phạm trù hình thái
kinh tế - xã hội chỉ rõ kết cấu xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định bao gồm
ba yếu tố cơ bản, phổ biến: lực lượng sản xuất, cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất của xã hội, tiêu chuẩn khách quan để phân
biệt các thời đại kinh tế khác nhau, yếu tố xét đến cùng quyết định sự vận động,
phát triển của hình thái kinh tế - xã hội. Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản
xuất của một xã hội trong sự vận động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh
tế của xã hội đó. Cơ sở hạ tầng được hình thành một cách khách quan trong quá
trình sản xuất vật chất của xã hội. Đây là toàn bộ các quan hệ sản xuất tồn tại trên
thực tế mà trong quá trình vận động của nó hợp thành một cơ cấu kinh tế hiện
thực. Kiến trúc thượng tầng là sự thể hiện các mối quan hệ giữa người với người
trong lĩnh vực tinh thần, tiêu biểu cho bộ mặt tinh thần của đời sống xã hội. Ba yếu
tố cơ bản trên đã tạo nên sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội, thông qua sự
tác động tổng hợp của hai quy luật cơ bản là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất và quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội. Khi lực lượng sản xuất phát triển về
chất, đòi hỏi phải xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới, tất
yếu dẫn đến sự thay đổi về chất của cơ sở hạ tầng. Khi cơ sở hạ tầng xã hội biến đổi
về chất dẫn đến sự biến đổi, phát triển căn bản (nhanh hay chậm, ít hay nhiều) của
kiến trúc thượng tầng xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội cũ mất đi, hình thái kinh tế
mới, tiến bộ hơn ra đời. Cứ như vậy, lịch sử xã hội loài người là một tiến trình nối
tiếp nhau từ thấp đến cao của các hình thái kinh tế - xã hội: cộng sản nguyên thủy,
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Đây chính là
sự thống nhất giữa quy luật chung cơ bản, phổ biến với quy luật đặc thù và quy
luật riêng của lịch sử.
Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội đã làm sáng tỏ những quy luật chi phối
sự phát sinh, phát triển, diệt vong tất yếu của một hình thái kinh tế - xã hội nhất
định và thay thế nó bằng một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn. Sự vận động của
các giai đoạn phát triển của xã hội loài người đều do tác động của các quy luật khách

556
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

quan chi phối, không phụ thuộc vào ý chí, nguyện vọng, chủ quan của con người.
Đó là quá trình lịch sử - tự nhiên của xã hội. C.Mác viết: “Tất cả sự phát triển của
các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên” (C.Mác và
Ph.Ăngghen, 1995b, 166). Quan điểm trên thể hiện rõ tính khoa học về lịch sử phát
triển của xã hội, đưa tới một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về quá trình
phát triển của xã hội loài người. Có thể nói, C.Mác là người đầu tiên trong lịch sử
triết học của nhân loại phát hiện ra quy luật phát triển của lịch sử loài người. Đề cập
công lao to lớn này của C.Mác, Ph.Ăng ghen viết: “Giống như Đác uyn đã tìm ra
quy luật phát triển của thế giới hữu cơ, Mác đã tìm ra quy luật phát triển của lịch
sử xã hội loài người” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995a, 496).
Nghiên cứu về hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, C.Mác khẳng định
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời là tất yếu khách quan của lịch
sử xã hội. Chủ nghĩa tư bản không phải là nấc thang, phát triển cuối cùng của xã
hội loài người. Chính những mâu thuẫn cơ bản trong lòng xã hội tư bản đã quyết
định sự vận động, phát triển của xã hội loài người. Những tiền đề vật chất cho sự
vận động, phát triển xã hội đã xuất hiện ngay trong lòng xã hội tư bản. Đó là lực
lượng sản xuất hiện đại với tính chất xã hội hóa cao và giai cấp vô sản tiên tiến, cách
mạng, đã phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Tiền đề lý luận cho sự vận động
phát triển xã hội đã xuất hiện, đó là hệ tư tưởng Mác - Lênin khoa học và cách mạng.
Sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa bằng hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa phải thông qua đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng
xã hội. Nghiên cứu học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác, V.I.Lênin viết:
“Sau khi nghiên cứu quy luật phát triển của xã hội loài người, Mác đã hiểu rằng chủ
nghĩa tư bản phát triển tất nhiên đưa đến chủ nghĩa cộng sản - đây là điều căn bản
- khi chứng minh chân lý đó, Mác chỉ dựa trên việc nghiên cứu xã hội tư bản đó một
cách chính xác nhất, tỉ mỉ nhất, sâu sắc nhất, nhờ việc nắm vững đầy đủ tất cả những
cái mà khoa học trước đây đã cung cấp” (V.I.Lênin, 1978, 361).
Sự vận động của các quy luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế - xã
hội phát triển thay thế nhau từ thấp đến cao đó là con đường phát triển chung của
nhân loại. Bên cạnh đó, con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị tác động
của các quy luật chung, còn bị tác động bởi các điều kiện đặc thù và tự nhiên, về
chính trị, về truyền thống văn hóa, về điều kiện kinh tế. C.Mác và Ph.Ăghghen gọi

557
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

là sự phát triển đột biến, đứt đoạn, không bình thường như đã tiếp diễn ra ở một số
xã hội nhất định. Nhận định này được V.I.Lênin tiếp tục phát triển khi chỉ rõ: “Tính
quy luật chung của sự phát triển trong lịch sử toàn thế giới đã không loại trừ mà
trái lại, còn bao trùm một số giai đoạn phát triển mang những điểm về hình thức,
hoặc về trình tự của sự phát triển đó” (V.I.Lênin, 1978b, 431). Bản chất của việc “bỏ
qua” một hay vài hình thái kinh tế - xã hội là sự phát triển rút ngắn của xã hội. Đó
là rút ngắn các giai đoạn, bước đi của nền văn minh loài người, cốt lõi là sự tăng
trưởng nhảy vọt của lực lượng sản xuất. V.I.Lênin kế thừa tư tưởng của C.Mác và
Ph.Ăngghen đã dự đoán khả năng các nước lạc hậu phát triển lên chủ nghĩa xã hội,
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh toàn bộ lịch sử xã hội loài người phát triển
tuần tự qua tất cả các giai đoạn của các hình thái kinh tế - xã hội đã có, nhưng do
đặc điểm về lịch sử, về không gian, thời gian, về sự tác động của nhân tố khách
quan và nhân tố chủ quan, có những quốc gia phát triển tuần tự, có những quốc gia
phát triển bỏ qua một hay vài hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Vì vậy, việc phát
triển bỏ qua một hay một vài hình thái kinh tế - xã hội, bên cạnh những điều kiện
khách quan của thời đại, còn phù thuộc vào nhân tố chủ quan của mỗi quốc gia,
dân tộc. Lênin đã nhấn mạnh rằng: đi lên chủ nghĩa xã hội - giai đoạn đầu của hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa - là “điều không tránh khỏi” đối với tất cả
các quốc gia. Vận dụng và phát triển quan điểm của C. Mác và Ph.Ăngghen trong
điều kiện mới, sau cách mạng tháng Mười, V.I.Lênin khẳng định: “với sự giúp đỡ
của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô -
Viết, và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản không
phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa (hiểu theo nghĩa con đường rút
ngắn )” (V.I.Lênin, 1978b, 295). Tuy nhiên, đi lên chủ nghĩa xã hội như thế nào, bằng
con đường nào thì mỗi quốc gia cũng “hoàn toàn không giống nhau”, phải kết hợp
tính phổ biến và tính đặc thù để tìm ra con đường, cách thức xây dựng chủ nghĩa
xã hội vừa đúng với quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi quốc
gia. Theo đó, đi lên chủ nghĩa xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ là
một tất yếu nhằm chuẩn bị mọi điều kiện vật chất, kỹ thuật, đời sống tinh thần của
chủ nghĩa xã hội, tạo sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

558
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Đây là thời kỳ khó khăn, phức tạp, đối với những nước có điểm xuất phát thấp thì
còn khó khăn, phức tạp hơn nhiều lần.
Như vậy, học thuyết của C.Mác không chỉ xác định các yếu tố cấu thành nên
hình thái kinh tế - xã hội, mà còn phân tích sự vận động của xã hội trong một quá
trình phát triển liên tục theo quy luật khách quan. Đó là một học thuyết cho đến nay
vẫn tràn đầy sức sống và sẽ mãi trường tồn mãnh liệt, là cơ sở phương pháp luận
để nghiên cứu, xem xét, phân tích lịch sử xã hội và nhận thức đúng đắn về nội dung,
tính chất của thời đại ngày nay.
Giá trị khoa học bền vững và ý nghĩa cách mạng của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác là sự thống nhất biện chứng giữa
tính khoa học và tính cách mạng sâu sắc. Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội là một
vấn đề mang tính chất nền tảng, từ đó quan niệm duy vật biện chứng về xã hội
không còn là một giả thuyết, mà được chứng minh một cách khoa học và trở thành
kim chỉ nam cho nhận thức và hành động của các đảng cộng sản và phong trào cách
mạng thế giới.
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội ra đời đem lại một cuộc cách mạng trong
toàn bộ quan niệm về lịch sử xã hội. Đây là biểu hiện tập trung của quan niệm quy
vật biện chứng về lịch sử xã hội, bác bỏ quan niệm trừu tượng, duy vật tầm thường,
duy tâm, phi lịch sử về xã hội trước đó, trở thành hòn đá tảng của khoa học xã hội,
cơ sở phương pháp luận khoa học và cách mạng cho sự phân tích lịch sử xã hội. Lý
luận hình thái kinh tế - xã hội đã giải quyết một cách khoa học về vấn đề phân loại
các chế độ xã hội và phân kỳ lịch sử, thay thế các quan niệm duy tâm, siêu hình
trước đó đã thống trị trong khoa học xã hội. Chỉ ra động lực phát triển của lịch sử
xã hội không phải do một lực lượng tinh thần hoặc lực lượng siêu nhiên thần bí nào
cả, mà do hoạt động thực tiễn của con người, trước hết là thực tiễn sản xuất vật chất
dưới sự tác động của các quy luật khách quan.
Xuất phát từ việc đánh giá cao chủ nghĩa duy vật lịch sử, V.I.Lênin đã bảo vệ
kiên định những nguyên lý lý luận của C.Mác, khẳng định bản chất khoa học và
cách mạng trong lý luận về hình thái kinh tế - xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Lênin,
cách mạng Tháng Mười Nga thành công, và với sự ra đời của nhà nước xã hội chủ
nghĩa đầu tiên trên thế giới đã mở đầu thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội. Tiếp đó là sự ra đời của nhiều nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, châu
559
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Á, châu Mỹ đã minh chứng cho tính chất khoa học và cách mạng của học thuyết
Mác xít về hình thái kinh tế - xã hội, mà những người từng phê phán C.Mác cũng
phải khẳng định “có sức thuyết phục như bản thân sự thật”.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa
học và cách mạng trong đấu tranh bác bỏ những quan điểm thù địch, sai trái, phiến
diện về xã hội. Sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu,
các học giả tư sản tỏ ra phản đối học thuyết của Mác về hình thái kinh tế xã hội. Tuy
nhiên, cần khẳng định rằng, sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông
Âu không phải là sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội, mà chỉ là sự thất bại của mô
hình cụ thể về xây dựng chủ nghĩa xã hội - mô hình Xô Viết. Một trong những
nguyên nhân của sự sụp đổ đó là chưa vận dụng và thực hiện đúng đắn học thuyết
của Mác về hình thái kinh tế - xã hội. Những bài học thành công và thất bại của mô
hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sẽ giúp cho mô hình chủ nghĩa xã hội
trong tương lai tránh được sai lầm, khuyết điểm. Bên cạnh đó, học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội cũng là cơ sở lý luận, khoa học để phê phán quan điểm của một số
học giả khi tuyệt đối hóa cách tiếp cận về phát triển xã hội bằng các nền văn minh,
Alvin Toffler là một điển hình. Mặc dù nghiên cứu của họ mang tính duy vật, biện
chứng về sự phát triển xã hội, có những dự báo khá rõ ràng về những biến đổi tương
lai,… tuy nhiên những nghiên cứu của họ chưa chỉ ra chủ nhân của từng xã hội, lực
lượng quan trọng thực hiện sự chuyển biến giữa các hình thái kinh tế xã hội; chưa
chỉ rõ nguồn gốc sâu xa của những biến đổi xã hội cũng như tính tất yếu của sự
chuyển biến sang hình thái kinh tế xã hội mới cao hơn. Điều này càng chứng minh
tính khoa học trong học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của Mác. Do vậy, có thể
nói, trong thời đại ngày nay, trước sự phát triển vô cùng đa dạng và phức tạp của
các dân tộc, quốc gia thì quan niệm duy vật về lịch sử mà nội dung cốt lõi là lý luận
hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác vẫn là công cụ sắc bén nhất giúp con người
nhận thức và tìm ra tiến trình vận động và phát triển của xã hội. Với học thuyết của
Mác về hình thái kinh tế - xã hội, con người hoàn toàn có thể tin tưởng vững chắc
rằng, mặc dù lịch sử xã hội loài người phải trải qua sự vận động và phát triển với
những khúc quanh co, phức tạp, thì xu hướng chung của nó vẫn cứ diễn ra theo con
đường lịch sử tự nhiên, đó là sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội
và đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan.

560
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Hiện nay, so với thời đại của C.Mác, khoa học - công nghệ có những bước tiến
nhảy vọt góp phần tạo ra một lực lượng sản xuất phát triển mà nhân loại chưa từng
chứng kiến. Quá trình quốc tế hóa mà C.Mác nói đến vào thế kỷ XIX đã thực sự trở
thành quá trình toàn cầu hóa trong thời đại chúng ta. Ở các mức độ khác nhau, tất
cả các nước đều bị cuốn vào toàn cầu hóa, bởi vì nó đã xâm nhập vào khắp nơi, trụ
lại ở khắp nơi và thiết lập những mối liên hệ ở khắp nơi. Trong bối cảnh đó, lý luận
về hình thái kinh tế - xã hội của Mác cần được bổ sung, phát triển. V.I.Lênin - Người
đã không ngừng bảo vệ, phát triển học thuyết Mác, đã nhiều lần nhấn mạnh:
“Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất
khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa
học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu
họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống” (V.I.Lênin, 1978c, 213).

2. VAI TRÒ THẾ GIỚI QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN KHOA HỌC CỦA
HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI ĐỐI VỚI CON ĐƯỜNG ĐI
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam
thật sự chưa có tiền lệ trong lịch sử nhưng đây là con đường có tính tất yếu khách
quan, phù hợp với lịch sử của dân tộc Việt Nam. Đây là sự nghiệp khó khăn, lâu
dài, vô cùng phức tạp, vì nó phải tạo ra sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Trước yêu cầu trên, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
đã nhấn mạnh: Thành công hay thất bại trong nắm vững và xử lý những khó khăn
thách thức trước mắt và lâu dài phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường
lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, sự đồng lòng
của nhân dân ta. Vì vậy, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác đóng vai
trò là thế giới quan và phương pháp luận quan trọng trong việc hình thành quan
điểm khoa học, định hướng nhận thức đúng đắn và hoạt động thực tiễn nhằm đạt
kết quả tối ưu nhất. Vai trò thế giới quan và phương pháp luận khoa học của học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội đối với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
- Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở khoa học cho việc xác định con đường
phát triển của Việt Nam. Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách

561
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục
tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu
khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Năm 1930, trong Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã chủ trương: tiến hành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai
đoạn tư bản chủ nghĩa. Vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới, chủ
nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa không còn, phong trào xã hội chủ nghĩa lâm vào giai đoạn khủng hoảng, thoái
trào, gặp rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định:
Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã
hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tại
Đại hội thứ XI của Đảng (tháng 1-2011), trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), chúng ta một
lần nữa khẳng định: "Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa
chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp
với xu thế phát triển của lịch sử" (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 37). Đây chính là
sự lựa chọn đúng đắn, có khả năng, có điều kiện để thực hiện. Mặc dù chủ nghĩa tư
bản đang có sự điều chỉnh để thích nghi với cuộc cách mạng khoa học - công nghệ,
nhưng bản chất của chủ nghĩa tư bản không thay đổi. Vì thế, Đảng ta đã lựa chọn
hướng đi phù hợp với lịch sử cụ thể của Việt Nam là thực hiện quá độ lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, thời kỳ quá độ gián tiếp với “đặc điểm to nhất
là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, 42).
Qua quá trình tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận hình thái kinh tế - xã hội
của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ ra thực chất của việc bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay:
“Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những
thành tựu của nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là về
khoa học công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế
hiện đại” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, 84). Đây là tư tưởng mới, phán ánh nhận

562
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

thức mới, tuy duy mới của Đảng ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Thế giới quan của chủ nghĩa duy vật lịch sử mà nội dung cốt lõi là học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội của Mác đã giúp Đảng cộng sản Việt Nam nhìn nhận con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn mới, bối cảnh mới. Quán triệt và vận
dụng, phát triển sáng tạo lý luận học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa
Mác - Lênin trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, Việt Nam tiếp tục khẳng định: Với lợi thế
của thời đại, trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0, sau khi
giành được chính quyền, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chúng ta có thể tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đây là một cuộc đấu
tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài bởi vì, “chúng ta phải xây dựng một
xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải
thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ hàng
ngàn năm... biến nước ta từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, 56). Tuy nhiên, muốn “tiến lên chủ nghĩa xã hội”
thì không phải “cứ ngồi mà chờ” là sẽ có được chủ nghĩa xã hội. Đối với những
nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội như Việt Nam, để phát
triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, V.I.Lênin chỉ rõ: “trong một
nước tiểu nông, trước hết các đồng chí phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi
xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội”... phải học hỏi kinh
nghiệm từ các nước phát triển theo cách thức: “Dùng cả hai tay mà lấy những cái
tốt của nước ngoài” (V.I.Lênin, 1978d, 228-229). Vì vậy, trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, bên cạnh phát huy tất cả những nội lực, tiềm năng của đất nước, Việt
Nam đã và đang không ngừng kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những thành tựu, giá
trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản
trên quan điểm khoa học, đặc biệt là những thành tựu về khoa học và công nghệ,
thành tựu về quản lý để phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội, đặc biệt là xây
dựng nền kinh tế hiện đại, phát triển nhanh lực lượng sản xuất.
- Vai trò thế giới quan, phương pháp luận của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đối
với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam chính là đổi mới tư duy. Chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một hành trình trong cả nhận
thức và bước đi, trong cả tư duy lý luận và thực tiễn vận động, phát triển mà bắt đầu

563
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

từ tư duy, nhận thức lý luận. Nếu không đổi mới nhận thức, thay đổi tư duy, đặc biệt
là tư duy lý luận thì sẽ không có thành tựu của sự nghiệp đổi mới đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa như hiện nay. Một trong những điểm nhấn của thế giới quan,
phương pháp luận của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội chính là phương pháp
biện chứng, đó là sự vận động biến đổi không ngừng của thế giới. Đó chính là những
yếu tố đã góp phần xây dựng lý luận về đổi mới, về con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội, về thời kỳ quá độ, về xây dựng kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa,
về mô hình chủ nghĩa xã hội, về các bước đi, cách thức đi lên chủ nghĩa xã hội, đó
chính là thế giới quan mới về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Thực tiễn công cuộc đổi
mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta hơn ba mươi năm qua và sự phát triển
của một số nước xã hội chủ nghĩa khác đã và đang chứng minh điều đó. Những thành
tựu của thực tiễn 35 năm đổi mới đã minh chứng cho việc giải quyết hài hòa giữa lợi
ích quốc gia và lợi ích chính đáng của từng người dân, đã đem lại những chuyển biến
rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam. Năm 1996, Việt Nam ra khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội; năm 2008, ra khỏi tình trạng một nước kém phát triển, có mức
thu nhập trung bình và năm 2020, với gần 100 triệu dân, thu nhập bình quân đầu
người đạt 3.521 USD. Diện mạo đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn gấp nhiều lần,
đời sống nhân dân được nâng cao rõ rệt về vật chất, văn hóa, tinh thần, về mức sống
và chất lượng cuộc sống; nhất là về ăn, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh, dịch vụ cuộc
sống. Hệ thống chính trị được xây dựng, củng cố vững mạnh, bảo đảm sự ổn định
chính trị của đất nước. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo của Tổ quốc. Đối ngoại, hội
nhập quốc tế không ngừng mở rộng, kết hợp nội lực với ngoại lực, nâng cao vị thế
của Việt Nam, tạo môi trường hòa bình, hợp tác và phát triển… Xét trên nhiều
phương diện cho thấy những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 35 năm đổi mới
đất nước đã khẳng định phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã giải
quyết tốt vấn đề xã hội đặt ra, khẳng định tính đúng đắn về sự lựa chọn con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước. Phát biểu tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới,
30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa.

564
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh
mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng
ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy
tín quốc tế như ngày nay” (Nguyễn, 2021, 3). Như vậy, có thể thấy sự đúng đắn trong
nhận thức, tư duy và hành động của Việt Nam về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội, một chế độ xã hội mà con người được tự do,
sống hòa bình và hữu ái giữa các cộng đồng, một xã hội thực sự vì con người; một xã
hội luôn đảm bảo “phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, nhân ái,
đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, phát triển bền
vững, hài hòa để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương
lai” (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1994).
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó
khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan
xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Thành tựu đạt được trong hơn 35
năm đổi mới chính là kết quả của tinh thần đoàn kết, thống nhất tư tưởng, ý chí và
hành động của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trên con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. Đây cũng chính là điều kiện, tiền đề để Việt Nam thực hiện mục
tiêu “đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 36) mà Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra.
- Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác là cơ sở thế giới quan và phương
pháp luận khoa học để Việt Nam đấu tranh chống lại nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong điều kiện, hoàn cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông
Âu sụp đổ, chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ, thì học thuyết hình thái kinh tế -
xã hội của Mác giúp chúng ta nhìn nhận, đánh giá bối cảnh mới, đánh giá cục diện
thế giới, các mối quan hệ quốc tế, xu hướng thời đại, thực trạng tình hình đất nước
và con đường phát triển trong tương lai. Hiện nay, các thế lực phản động, thù địch
chống phá Đảng ngày càng có hệ thống, tổ chức chặt chẽ, thủ đoạn rất tinh vi, chống
phá toàn diện trên nhiều phạm vi, lĩnh vực, không chỉ đơn thuần là vấn đề lý luận
mà còn bao hàm cả các vấn đề thực tiễn mới nảy sinh. Những hoạt động chống phá
đều nhằm tác động vào nhận thức, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng

565
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

nhân dân, nhất là với những người thiếu bản lĩnh, nhận thức mơ hồ và những kẻ
bất mãn vì cho rằng mình không được trọng dụng, đãi ngộ... từ đó gây hoài nghi,
suy giảm niềm tin vào Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong hàng ngũ cách mạng
cũng có những cá nhân bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của
chủ nghĩa xã hội, quy kết nguyên nhân tan rã của Liên Xô và một số nước xã hội
chủ nghĩa Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự lựa chọn con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội… Vì vậy, lý luận về hình thái kinh tế - xã hội có
ý nghĩa rất quan trọng đối với việc nâng cao nhận thức về bản chất khoa học và cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, quán triệt sâu sắc đường lối của Đảng cộng sản
Việt Nam về xây dựng chủ nghĩa xã hội, củng cố niềm tin, lý tưởng cách mạng, kiên
định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở đánh giá đúng tình hình trong
nước, khu vực, thế giới và dự báo xu thế phát triển của thời đại, Đại hội XIII của
Đảng đã xác định phương hướng công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ 2021 - 2026
là: “Tiếp tục kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội và đường lối đổi mới của Đảng… Nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, tạo sự
thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội; coi trọng hơn nữa công tác đấu
tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù
địch. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 36).
Đứng trước một số biểu hiện chệch hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã sớm
nhận ra phải xây dựng một mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam với tám đặc trưng
cơ bản. Trên cơ sở xác định rõ mục tiêu, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã
xác định tám phương hướng và mười hai nhiệm vụ cơ bản đòi hỏi toàn Đảng, toàn quân
và toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường,
phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức xây dựng
đất nước ta to đẹp hơn, đàng hoàng hơn, thực hiện thành công mục tiêu xây dựng
"một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người. Mô hình chủ nghĩa
xã hội này cũng chính "là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên
nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người”
(Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1994; Nguyễn, 2021).

566
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

3. KẾT LUẬN
Trước những biến đổi của lịch sử thế giới và trước những luận điểm sai trái
phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
nói riêng, tính khoa học và tính cách mạng của lý luận về hình thái kinh tế - xã hội
của C.Mác vẫn giữ nguyên giá trị lý luận và ý nghĩa thời đại sâu sắc. Nếu như thế
giới quan của học thuyết hình thái là cơ sở lý luận giúp Việt Nam xác định con
đường, bước đi, thì phương pháp luận của học thuyết giúp chúng ta giải quyết tốt
những vấn đề đặt ra trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực tiễn qua 35
năm qua đổi mới. Trên cơ sở phương pháp luận của học thuyết, Việt Nam đã giải
quyết tốt các mối quan hệ giữa kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội; mối quan hệ
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đây là mối quan hệ cốt lõi, mang tính nền
tảng cho việc giải quyết tốt các mối quan hệ khác. Điều này phù hợp với thực tiễn
chung của thế giới, của toàn cầu hóa, của sự phát triển khoa học công nghệ, hội
nhập quốc tế và điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Như vậy, bước vào thế kỷ XXI, những điều kiện lịch sử mới đã quy định vai
trò của thế giới quan và phương pháp luận của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
ngày càng quan trọng, đòi hỏi phải bảo vệ, phát triển lý luận hình thái kinh tế - xã
hội để ngày càng phát huy tác dụng và sức sống của học thuyết đối với thời đại và
đất nước. Với tinh thần khoa học và khách quan, chúng ta cần nghiên cứu, làm rõ
những giá trị mang tính khoa học - thực tiễn bền vững của học thuyết đối với con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là vô cùng cần thiết. Sứ mệnh của chúng
ta là tiếp tục lan tỏa giá trị của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác trên
tinh thần của một học thuyết khoa học, cách mạng và phát triển - mãi là hòn đá tảng
cho nghiên cứu về xu hướng phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập (Vol. 19). (1995a). Chính trị quốc gia.
[2]. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập (Vol. 23). (1995b). Chính trị quốc gia.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
Chính trị quốc gia.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Chính trị quốc gia.
567
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

[5]. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. (1994). Mấy vấn đề về chủ nghĩa Mác
- Lê-nin trong giai đoạn hiện nay. Trung tâm Thông tin - Tư liệu.
[6]. Nguyễn, P. T. (2021, May 17). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Báo Nhân Dân, 23945.
https://nhandan.vn/tin-tuc-su-kien/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-
chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-646305/
[7]. V.I.Lênin. (1978a). Toàn tập (Vol. 41). Tiến bộ.
[8]. V.I.Lênin. (1978b). Toàn tập (Vol. 45). Tiến bộ.
[9]. V.I.Lênin. (1978c). Toàn tập (Vol. 33). Tiến bộ.
[10]. V.I.Lênin. (1978d). Toàn tập (Vol. 36). Tiến bộ.

568
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

GÓP PHẦN TÌM HIỂU QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC
CỦA ĐẢNG VỀ ĐỐI NGOẠI TRONG 35 NĂM ĐỔI MỚI (1986 - 2021)

Đào Duy Tùng


Học viện Chính trị khu vực II
Tác giả liên hệ: Đào Duy Tùng, email: daoduytung.hvctkv2@gmail.com

Tóm tắt: Đường lối đối ngoại là một bộ phận trong đường lối lãnh đạo chung của
Đảng. Ở mỗi giai đoạn cách mạng, đường lối đối ngoại đều có mục tiêu, yêu cầu,
nhiệm vụ cụ thể và góp phần phục vụ đường lối chung. Sau 35 năm thực hiện đường
lối đổi mới, “chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát
triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới... Đất nước ta chưa
bao giờ có cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 2021, 25). Cùng thành tựu chung của đất nước, công tác đối ngoại đã đạt
được nhiều kết quả quan trọng. Để đạt được những kết quả đó, nguyên nhân đầu
tiên bắt nguồn từ sự hình thành và phát triển nhiều nhận thức mới của Đảng, trong
đó có nhận thức về đối ngoại. Bài viết góp phần làm rõ quá trình phát triển nhận thức
của Đảng về đối ngoại trong 35 năm đổi mới.
Từ khóa: Đảng Cộng sản Việt Nam; đường lối đối ngoại 35 năm đổi mới; thành tựu
đổi mới; nhận thức về đối ngoại thời kỳ đổi mới; đối ngoại Việt Nam.

1. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ ĐỐI NGOẠI
TRONG 35 NĂM ĐỔI MỚI
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986), Đảng đã đề ra đường
lối đổi mới toàn diện đất nước bắt đầu bằng việc đổi mới tư duy lý luận, trong đó
bước đầu có một số thay đổi trong nhận thức về đối ngoại. Trên cơ sở nhận thức
đặc điểm nổi bật của tình hình thế giới là cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đang
diễn ra mạnh mẽ sẽ đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa lực lượng sản xuất, Đại hội
nhận định: “xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế
độ kinh tế - xã hội khác nhau, cũng là những điều kiện rất quan trọng đối với công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006, 364).
Đảng chủ trương phải đặc biệt coi trọng kết hợp các yếu tố dân tộc và quốc tế, các
yếu tố truyền thống và thời đại, sử dụng tốt mọi khả năng mở rộng quan hệ thương

569
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

mại, hợp tác kinh tế và khoa học, kỹ thuật với các nước ngoài hệ thống xã hội chủ
nghĩa, với các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước
ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi.
Sau gần hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, tháng 5/1988, Bộ Chính trị
ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TW về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình
mới. Nghị quyết có những nhận định quan trọng như: Nền kinh tế thế giới ngày
càng quốc tế hóa; khả năng đẩy lùi nguy cơ chiến tranh thế giới không ngừng tăng
lên; cách mạng khoa học kỹ thuật và các bước nhảy vọt của lực lượng sản xuất thế
giới đã đặt ra cho các nước thuộc cả hai hệ thống nhiều vấn đề cấp bách phải giải
quyết; xu thế đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình giữa các nước có chế
độ khác nhau ngày càng phát triển; Châu Á - Thái Bình Dương đang trở thành một
trung tâm năng động nhất về kinh tế, chính trị. Theo đó, Nghị quyết đã đề ra chủ
trương kiên quyết chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ tình trạng đối đầu sang đấu
tranh và hợp tác, cùng tồn tại hòa bình; lợi dụng sự phát triển của cách mạng khoa
học - kỹ thuật và xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới để tranh thủ vị trí có lợi
nhất trong phân công lao động quốc tế; kiên quyết mở rộng quan hệ hợp tác quốc
tế, ra sức đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Đây là bước phát triển trong nhận thức
của Đảng về nhiều vấn đề then chốt thuộc lĩnh vực đối ngoại như: quan hệ chính
trị quốc tế, mục tiêu đối ngoại, đoàn kết quốc tế và tập hợp lực lượng trong quan hệ
quốc tế của Việt Nam. Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị có giá trị như một
cương lĩnh đối ngoại của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
Đại hội lần thứ VII của Đảng (6/1991), tiếp tục chủ trương mở rộng quan hệ đối
ngoại. Đại hội khẳng định: “Hợp tác, bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước,
không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, trên cơ sở nguyên tắc cùng tồn
tại hòa bình” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2007, 114), với phương châm “Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc
lập và phát triển” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2007, 49). Nhiệm vụ đối ngoại bao trùm
là giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận
lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần
tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ. Đại hội VII còn nhấn mạnh: cần nhạy bén và dự báo được những
diễn biến phức tạp và thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế để có những chủ
trương đối ngoại phù hợp.
570
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6/1996), tiếp tục khẳng định mở rộng quan hệ
quốc tế, hợp tác nhiều mặt với các nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu vực và
quốc tế. Đồng thời chủ trương mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các
đảng khác; mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính
phủ. Đặc biệt, lần đầu tiên, trên lĩnh vực kinh tế, tại Đại hội VIII, Đảng đưa ra chủ
trương “thử nghiệm để tiến tới thực hiện đầu tư ra nước ngoài” (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 2015, 375).
Đại hội lần thứ IX của Đảng (4/2001) đề ra chủ trương chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực. Trên cơ sở những thành
tựu sau 15 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, Đại hội IX phát
triển phương châm được nêu tại Đại hội VII “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” thành
“Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế,
phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, 42).
Đây được xem là bước phát triển về chất trên tiến trình thực hiện quan hệ đối ngoại
của Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Cụ thể hóa nhận thức của Đảng tại Đại hội IX, tháng 11/2001, Bộ Chính trị ra
Nghị quyết số 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế. Tiếp đến, Hội nghị lần thứ 9 Ban
Chấp hành Trung ương khóa IX (01/2004) nhấn mạnh yêu cầu chuẩn bị tốt các điều
kiện trong nước để sớm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO); kiên quyết
đấu tranh với mọi biểu hiện của các lợi ích cục bộ làm kìm hãm tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
Đại hội lần thứ X (4/2006), Đảng nêu quan điểm: thực hiện nhất quán đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng
mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế.
Đại hội lần thứ XI (01/2011), Đảng đề ra chủ trương “triển khai đồng bộ, toàn
diện, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế” ”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 322). Hội nhập quốc tế giờ đây không còn bó hẹp
trong lĩnh vực kinh tế (Đại hội lần thứ X) mà mở rộng ra tất cả các lĩnh vực khác, kể
cả chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa - xã hội. Đây là điểm mới trong nhận
thức đối ngoại đa phương về hội nhập quốc tế toàn diện. Toàn diện ở đây được hiểu
571
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

là không chỉ chủ động tham gia hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực mà còn là
“tích cực và chủ động”, thể hiện tầm nhìn, trách nhiệm và vị thế sẵn sàng của Việt
Nam khi tham gia vào các diễn đàn quốc tế. Tính toàn diện trong đối ngoại nói
chung và đối ngoại đa phương nói riêng của Việt Nam cũng được quy định bởi sự
lãnh đạo toàn diện của Đảng trong mọi hoạt động của hệ thống chính trị, đặc biệt
trong hoạt động đối ngoại; mục tiêu của chính sách đối ngoại và sự đa dạng của các
mối quan hệ đối ngoại trong quá trình hội nhập. Ngoài ra, Đại hội XI cũng chính
thức đưa ra phương châm cho công tác đối ngoại nhân dân là: “chủ động, linh hoạt,
sáng tạo và hiệu quả; tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động của nhân dân thế
giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 322).
Để đẩy mạnh chủ trương “tích cực và chủ động hội nhập quốc tế” đề ra tại
Đại hội XI, tranh thủ tối đa sức mạnh của thời đại để phục vụ sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, Bộ Chính trị ban
hành Nghị quyết số 22-NQ/TW (4/2013) về hội nhập quốc tế. Theo đó, Nghị quyết xác
định mục tiêu: “Hội nhập quốc tế phải nhằm củng cố môi trường hòa bình, tranh
thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững,
nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; quảng bá hình
ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng cường sức mạnh tổng hợp
quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần tích cực vào sự
nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” (Bộ Chính
trị, 2013). Nghị quyết xác định 5 định hướng cơ bản trên một số lĩnh vực chủ yếu để
thực hiện hiệu quả mục tiêu đề ra. Sự ra đời của Nghị quyết số 22-NQ/TW tạo nên
sự thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân về hội nhập quốc tế trong tình
hình mới.
Đại hội lần thứ XII của Đảng (01/2016) đã chỉ rõ: “chủ động và tích cực đóng
góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016,
154); “chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là
ASEAN và Liên hợp quốc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 154). Nhận thức này đặt
ra yêu cầu mới: công tác đối ngoại đa phương không chỉ phải chuyển từ tham dự
sang chủ động tham gia, nhất là vào quá trình xây dựng và định hình các quy tắc,
luật lệ mới mà còn phải phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương. Đây

572
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

là bước chuyển lớn trong tư duy đối ngoại đa phương của Việt Nam ở tầm cao nhất,
tiếp tục thể hiện tính tiếp nối, trách nhiệm, sẵn sàng của Việt Nam tham gia xây dựng
cơ chế, luật chơi ở mọi cấp độ.
Nhằm cụ thể hóa đường lối đối ngoại Đại hội XII, tạo sự đồng bộ giữa đối ngoại
Đảng và đối ngoại nhân dân đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, Bộ Chính trị ban hành
Chỉ thị số 04-CT/TW (7/2011) về đối ngoại nhân dân và Chỉ thị số 32-CT/TW (02/2019)
về quan hệ đối ngoại Đảng.
Đối với công tác đối ngoại đa phương, ngày 08/8/2018, Ban Bí thư ban hành
Chỉ thị số 25-CT/TW về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030. Chỉ
thị xác định mục tiêu cho công tác đối ngoại đa phương thời gian tới là “nỗ lực vươn
lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt hoặc hòa giải tại các diễn đàn, tổ chức đa phương
có tầm quan trọng chiến lược đối với đất nước”, phù hợp với khả năng và điều kiện
cụ thể của nước ta. Điều này thể hiện bước phát triển trong nhận thức của Đảng về
đối ngoại đa phương - chuyển từ “tham dự” sang “chủ động tham gia” và phát huy
vai trò “nòng cốt”, dẫn dắt của Việt Nam.
Đại hội lần thứ XIII (2021) của Đảng trên cơ sở tổng kết 35 năm thực hiện
đường lối đổi mới đất nước đã có sự kế thừa, bổ sung, phát triển trong nhận thức
về công tác đối ngoại đáp ứng yêu cầu cách mạng giai đoạn mới. Một là, Đại hội tiếp
tục đề cao quan điểm chỉ đạo “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan
hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc” (Đảng Cộng sản Việt
Nam, 2021, 161). Quan điểm này đề cao lợi ích quốc gia - dân tộc. Lợi ích quốc gia -
dân tộc là kim chỉ nam, tiêu chí cao nhất trong triển khai hoạt động đối ngoại. Tuy
nhiên, Việt Nam không theo chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, mà “trên cơ sở các nguyên tắc
cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác,
cùng có lợi” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 161-162). Hai là, Đại hội tiếp tục khẳng
định tầm quan trọng của đối ngoại - mặt trận có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước vào thế có lợi nhất trước những chuyển
biến mau lẹ, khó lường của tình hình thế giới, khu vực. Theo đó trong giai đoạn mới,
“tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất

573
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 162).
Ba là, Đại hội xác định đối ngoại đa phương được đặt ở vị trí quan trọng trong tổng
thể các nhiệm vụ đối ngoại. Ðây là bước phát triển quan trọng về lý luận và thực
tiễn từ Ðại hội XII đồng thời cũng là sự ghi nhận thành tựu của đối ngoại đa phương
trong nhiều năm qua. Văn kiện đã làm rõ các nội hàm nhiệm vụ theo tinh thần Chỉ
thị 25-CT/TW của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm
2030; nhấn mạnh cần “chủ động tham gia phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ
chế đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mê
Kông; tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính
trị - kinh tế quốc tế, trong những vấn đề và các cơ chế quan trọng có tầm chiến lược,
phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện cụ thể” (Đảng Cộng sản Việt Nam,
2021, 163). Bốn là, khẳng định “nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, phong cách
chuyên nghiệp, đổi mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và hội
nhập quốc tế; chủ động thích ứng trước chuyển biến của tình hình” (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 2021, 165). Đây chính là quan điểm nhấn mạnh nhân tố con người - yếu
tố quyết định, mang tính đột phá nhằm bảo đảm đáp ứng được các yêu cầu nhiệm
vụ đối ngoại ngày một cao hơn trong tình hình mới. Các nội hàm “chuyên nghiệp”,
“sáng tạo” và “chủ động thích ứng” được gắn với phương châm triển khai các hoạt
động đối ngoại. Đó vừa là yêu cầu, vừa là sự ghi nhận phẩm chất của những người
làm công tác đối ngoại. Năm là, Đại hội khẳng định sự cần thiết phải “xây dựng nền
ngoại giao toàn diện, hiện đại” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 162). Tính hiện đại
của ngoại giao được thể hiện ở việc phát triển và nâng tầm phương thức triển khai
công tác đối ngoại, trình độ của đội ngũ cán bộ, tổ chức bộ máy, cơ sở hạ tầng, công
nghệ và trang thiết bị,… đạt trình độ khu vực và vươn tầm quốc tế, giúp thúc đẩy
hiệu quả lợi ích quốc gia - dân tộc và thích ứng linh hoạt với chuyển biến của tình
hình mới.
Tóm lại, có thể khẳng định rằng, đường lối đối ngoại của Đảng sau 35 năm đổi
mới là kết quả của quá trình bổ sung, phát triển trong nhận thức của Đảng về đối ngoại
trước diễn biến của tình hình thế giới, khu vực cũng như thế và lực của đất nước. Quá
trình bổ sung, phát triển nhận thức của Đảng về đối ngoại trong 35 năm đổi mới góp
phần làm sáng tỏ hệ thống lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

574
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

2. THÀNH TỰU ĐỐI NGOẠI TRONG 35 NĂM ĐỔI MỚI


Qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng về đối ngoại, công tác đối
ngoại của nước ta đã đạt được một số thành tựu nổi bật.
“Nhìn tổng thể, đối ngoại đã phối hợp chặt chẽ với các ngành, lĩnh vực dưới
sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện của Đảng và quản lý thống nhất
của Nhà nước, phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc và hệ thống chính
trị, đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ: Phát huy vai trò tiên phong trong giữ vững môi
trường hoà bình, ổn định, bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích
quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa; Chủ động, tích cực đẩy mạnh
hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng; Huy động nguồn lực to lớn từ bên ngoài phục
vụ phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; Nâng
cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên thế giới” (Thành tựu, phương hướng nhiệm vụ
trọng tâm trong công tác đối ngoại theo nghị quyết Đại hội XIII, 2021).
Từ thế bị bao vây, cấm vận trước đổi mới, hiện nay nước ta đã có quan hệ
ngoại giao với 189 nước trong tổng số 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, trong
đó 3 nước có “quan hệ đặc biệt”, 17 nước “đối tác chiến lược” và 13 nước “đối tác
toàn diện”. Trên bình diện đa phương, Việt Nam là thành viên tích cực và có trách
nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng như Liên hợp quốc, ASEAN,
APEC, ASEM, WTO,... (Nguyễn, 2021).
Quan hệ láng giềng hữu nghị giữa nước ta với Lào và Campuchia được củng
cố. Trong quan hệ với Trung Quốc, tổng thể khuôn khổ quan hệ láng giềng, đối tác
hợp tác chiến lược toàn diện được tăng cường. Quan hệ với các nước ASEAN phát
triển tốt đẹp trên mọi lĩnh vực. Tuy không phải là thành viên sáng lập nhưng kể từ
khi được gia nhập, Việt Nam ngày càng có nhiều đóng góp và giữ vị trí quan trọng
trong ASEAN.
Quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt với các nước bạn bè truyền thống tại
Châu Á, Trung Đông, Châu Phi, Mỹ Latinh tiếp tục được thúc đẩy, chú trọng mở ra
các cơ hội mới về hợp tác kinh tế - thương mại, đẩy mạnh hợp tác trên các diễn đàn
quốc tế.
Hiện nay, nước ta đã có quan hệ thương mại với 224 thị trường và đối tác. 71
nước đã công nhận quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam. Với mạng lưới 15 FTA

575
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

đã ký, trong đó có các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA,… nước ta là một trong
số ít nước tham gia hầu hết các liên kết kinh tế quan trọng. Kết quả là các chỉ tiêu
kinh tế đối ngoại những năm gần đây đều đạt và vượt kế hoạch, đóng góp quan
trọng vào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đưa Việt Nam trở thành một trong 10 nước
tăng trưởng nhanh nhất thế giới 5 năm qua.
Hoạt động đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân được
triển khai chủ động, tích cực, ngày càng đồng bộ, thống nhất, hiệu quả, gắn kết ngày
càng chặt chẽ. Nhận thức và tư duy về đối ngoại được nâng cao và không ngừng
đổi mới. Cơ chế chính sách về hội nhập quốc tế ngày càng hoàn thiện, tạo nền tảng
và điều kiện thuận lợi cho công tác đối ngoại của các cấp, các ngành từ trung ương
đến địa phương cũng như cho hoạt động của các cơ quan đại diện nước ngoài.
Ngoại giao văn hoá và thông tin đối ngoại góp phần quan trọng nâng cao vị thế,
quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam. Công tác bảo hộ công dân được
triển khai đồng bộ và hiệu quả, xử lý kịp thời nhiều tình huống, vụ việc khẩn cấp
và phức tạp chưa có tiền lệ để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
Việt Nam ở nước ngoài.
Trong đại dịch Covid-19, chúng ta đã triển khai quyết liệt, kịp thời và hiệu quả
công tác ngoại giao y tế/vắc-xin trên cả kênh song phương và đa phương. Đến nay,
nước ta đã nhận được trên 151 triệu liều vắc-xin, đạt 100% mục tiêu đề ra, góp phần
quan trọng vào công tác phòng, chống dịch hiệu quả đi đôi với phục hồi, phát triển
kinh tế - xã hội. Việt Nam cũng đã kịp thời viện trợ vật tư y tế và tài chính cho trên
50 quốc gia và tổ chức quốc tế (Thành tựu, phương hướng nhiệm vụ trọng tâm trong
công tác đối ngoại theo nghị quyết Đại hội XIII, 2021).
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, đối ngoại hiện nay còn tồn tại
những hạn chế nhất định: “Hoạt động đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có lúc,
có việc chưa thật chủ động và hiệu quả chưa cao. Chúng ta còn thiếu những giải
pháp đồng bộ, hữu hiệu để hạn chế tối đa các tác động tiêu cực trong quá trình đẩy
mạnh hội nhập quốc tế; nhận thức và chỉ đạo thực tiễn có lúc chưa theo kịp những
chuyển biến mau lẹ, phức tạp của tình hình; sự phối hợp, kết hợp giữa các ngành,
các cấp, các địa phương còn thiếu chặt chẽ; công tác nghiên cứu chiến lược, dự báo
tình hình chưa thật bài bản, kết quả chưa được như mong muốn” (Nguyễn, 2021).

576
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP


Trước bối cảnh mới của tình hình thế giới, khu vực và đất nước, để góp phần
thực hiện thành công nhiệm vụ công tác đối ngoại Đại hội XIII đã đề ra, trong thời
gian tới, chúng ta cần thực hiện đồng bộ, hiệu quả một số giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại
Con người luôn là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của mọi
việc. Không phải ngẫu nhiên mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc bắt đầu chuẩn bị thành
lập Đảng bằng việc đào tạo và huấn luyện cán bộ. Người khẳng định: “Cán bộ là
cái gốc của mọi công việc. Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt
hoặc kém”; “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”.
Trong công tác đối ngoại thì yếu tố con người lại càng quan trọng và có ý
nghĩa hơn vì cán bộ đối ngoại là người trực tiếp triển khai các chủ trương, đường
lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, những công việc liên quan đến lợi ích quốc
gia, dân tộc. Do đó, việc xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ làm đối ngoại luôn
được coi là một nhiệm vụ trọng tâm của ngành ngoại giao, có ý nghĩa quyết định
đối với thành công của mọi hoạt động đối ngoại. Quá trình hình thành và phát triển
của nền ngoại giao Việt Nam, chúng ta tự hào là đã có những thế hệ cán bộ ngoại
giao tài đức, trong đó có nhiều nhà ngoại giao lớn, có tầm cỡ thế giới và đã làm nên
những kỳ tích ngoại giao của nước nhà. Trước yêu cầu, đòi hỏi trong giai đoạn mới
đối với công tác đối ngoại, người cán bộ làm công tác đối ngoại cần phải có bản lĩnh
chính trị vững vàng, luôn tin tưởng vào chủ trương, đường lối, chính sách đối ngoại
của Đảng và Nhà nước; có tư duy hiện đại trong nghiên cứu, phân tích, đánh giá
tình hình để tham mưu, đề xuất chính sách, chiến lược; có nền tảng kiến thức toàn
diện, tổng hợp về nhiều lĩnh vực và quan trọng hơn hết, phải có lòng tự hào về lịch
sử truyền thống của dân tộc, của ngành ngoại giao và có khát khao cống hiến vì một
đất nước Việt Nam ngày càng hùng cường, phát triển mạnh mẽ hơn; tỉnh táo trước
sự tác động, lôi kéo của các thế lực thù địch, chủ động tích cực phòng ngừa không
để “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, vướng vào tham nhũng, tiêu cực.
Thứ hai, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt sâu sắc nội dung đường lối,
chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta hiện nay trong toàn hệ thống chính trị, toàn
xã hội

577
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Đại hội XIII đã xác định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập,
tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan
hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc
cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng hợp
tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là
thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế” (Đảng Cộng sản Việt
Nam, 2021, 161-162). Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt sâu sắc nội dung
đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước nhằm tạo sự đoàn kết, thống
nhất trong nhận thức và triển khai thực hiện nhiệm vụ đối ngoại trong thực tiễn.
Trong giai đoạn hiện nay, công tác tuyên truyền cần coi trọng vai trò của báo chí,
truyền thông; chú trọng tới các doanh nghiệp trong và ngoài nước; các nhà đầu tư
nước ngoài.
Thứ ba, thường xuyên cập nhật, nghiên cứu, hiểu rõ diễn biến của tình hình thế giới,
khu vực, trong nước
Đại hội XIII dự báo: “Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến
rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 105). “Khu
vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Đông Nam Á có vị trí chiến lược ngày càng
quan trọng, là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất
ổn” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 105). Diễn biến tình thế giới và khu vực là cơ
sở để Đảng đề ra chủ chương, đường lối đối ngoại. Nếu không hiểu rõ, nắm bắt
được tình hình thế giới, khu vực hoặc nhận thức chậm, sai bản chất thì chủ trương,
đường lối đối ngoại đề ra không hiệu quả, nhiều khi còn ảnh hưởng tiêu cực đến
quá trình phát triển của đất nước. Những tồn tại, hạn chế trong công tác đối ngoại
thời gian vừa qua một phần bắt nguồn từ việc nắm bắt, nhận thức chưa đúng, kịp
thời diễn biến tình hình thế giới và khu vực. Hiện nay, chiến lược ngoại giao các
nước lớn, tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, vị trí địa lý chính trị
của khu vực châu Á - Thái Bình Dương,… là một trong những yếu tố quan trọng
chi phối mạnh mẽ tới đường lối đối ngoại của nhiều nước. Trong thời gian sắp tới,
đòi hỏi chúng ta phải “tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến
lược về đối ngoại, không để bị động, bất ngờ” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 165).

578
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Đối với nước ta, sau 35 thực hiện đường lối đổi mới, đất nước đã đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với
những năm trước đổi mới. Do đó đội ngũ làm công tác đối ngoại cần phải thay đổi
tư duy về thế và lực của đất nước hiện nay so với giai đoạn trước. “Chiêng” đã “to”,
để “tiếng” lớn, đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh đổi mới nhận thức, sáng tạo trong
công tác, tìm ra cách làm mới, tìm kiếm các đối tác mới, hướng đi mới. Chủ động
đề xuất những sáng kiến trong các diễn đàn khu vực và quốc tế.
Thứ tư, đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối và chính sách
đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta hiện nay
Xuyên tạc, phủ nhận đường lối đối ngoại của Việt Nam là một trong những
nội dung được các đối tượng phản động, cơ hội bất mãn về chính trị thường xuyên
sử dụng nhằm chống phá Đảng và Nhà nước ta. Mục đích hòng gieo rắc sự hoài
nghi trong dân chúng về tính đúng đắn trong đường lối và chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước, chia rẽ quan hệ của Việt Nam với các nước trong khu vực và
thế giới, từ đó hạ thấp vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế.
Thành tựu của đối ngoại trong thời gian vừa qua và đặc biệt là thực tiễn việc
“các nước đánh giá cao và mong muốn Việt Nam đóng vai trò lớn hơn trong các cơ
chế đa phương toàn cầu và khu vực (Thành tựu, phương hướng nhiệm vụ trọng tâm
trong công tác đối ngoại theo nghị quyết Đại hội XIII, 2021); “vị thế địa chiến lược của
Việt Nam tiếp tục gia tăng trong chính sách của các nước lớn với khu vực” (TG&VN,
2021) là những minh chứng không thể phủ nhận, không thể đánh lừa dư luận của
các thế lực thù địch khi xuyên tạc, phủ nhận đường lối, chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước ta.
Biện pháp hữu hiệu nhất để đấu tranh, bác bỏ các luận điệu xuyên tạc, phủ
nhận đường lối và chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước của các thế lực thù
địch là chúng ta phải đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá hình ảnh của Việt Nam sau
35 năm đổi mới nói chung, thành tựu của đối ngoại nói riêng và đặc biệt là sự đóng
góp của Việt Nam đối với khu vực và thế giới đã được bạn bè quốc tế công nhận
trong thời gian vừa qua.

579
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

4. KẾT LUẬN
Hiện nay, trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển thì
đối ngoại không chỉ là sự tiếp nối chính sách đối nội mà còn là động lực mạnh mẽ
cho sự phát triển của các quốc gia, dân tộc. Với thế và lực của đất nước sau 35 năm
thực hiện đường lối đổi mới và kiên định phục vụ lợi ích quốc gia dân tộc, dựa vào
nền tảng tư tưởng hòa hiếu của dân tộc xây dựng sự đồng lòng nhất trí trong toàn
Đảng, toàn quân và toàn dân, đối ngoại Việt Nam sẽ ngày càng phát triển mạnh và
thích ứng nhanh trước những biến chuyển của tình hình, tiếp tục đóng vai trò là
mặt trận hàng đầu trong việc giữ vững môi trường hòa bình, tạo điều kiện thuận
lợi cho phát triển và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, từng bước hiện
thực hóa mục tiêu “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát
triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Bộ Chính trị. (2013). Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về
hội nhập quốc tế.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
Chính trị quốc gia.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2007). Văn kiện Đảng toàn tập (Vol. 47). Chính trị
quốc gia.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2007). Văn kiện Đảng toàn tập (Vol. 51). Chính trị
quốc gia.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Chính trị quốc gia.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2015). Văn kiện Đảng toàn tập (Vol. 55). Chính trị
quốc gia.
[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
Chính trị Quốc gia.
[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
(Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.

580
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

[9]. Nguyễn, P. T. (2021, December 14). Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc. Báo điện tử Chính phủ.
https://baochinhphu.vn/toan-van-phat-bieu-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-
trong-tai-hoi-nghi-doi-ngoai-toan-quoc-102305526.htm
[10]. TG&VN. (2021, January 19). Những dấu ấn của công tác đối ngoại trong 35 năm
đổi mới: Đồng hành cùng dân tộc, phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân. Cổng
Thông Tin ASEAN Việt Nam - Ban Chỉ Đạo Thông Tin, Tuyên Truyền ASEAN.
https://aseanvietnam.vn/post/nhung-dau-an-cua-cong-tac-djoi-ngoai-trong-
35-nam-djoi-moi-djong-hanh-cung-dan-toc-phung-su-to-quoc-va-phuc-vu-
nhan-dan
[11]. Thành tựu, phương hướng nhiệm vụ trọng tâm trong công tác đối ngoại theo nghị
quyết Đại hội XIII. (2021, December 14). VietNamNet News.
https://vietnamnet.vn/thanh-tuu-phuong-huong-nhiem-vu-trong-tam-trong-
cong-tac-doi-ngoai-theo-nghi-quyet-dai-hoi-xiii-815704.html

581
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI


VÀ VẤN ĐỀ PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI
TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Phạm Thị Thúy Vân
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Tác giả liên hệ: Phạm Thị Thúy Vân, email: phamthithuyvan@hpu2.edu.vn

Tóm tắt: Phát huy nhân tố con người luôn được xem là yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Bài viết làm rõ những
nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, đồng thời phân tích các
biện pháp chủ yếu nhằm phát huy nhân tố con người trong giai đoạn hiện nay theo
tư tưởng Hồ Chí Minh. Qua đó cho thấy, đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta, việc trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện những di huấn của Người
vào việc phát huy tối đa năng lực của con người trong lao động, trong hoạt động sáng
tạo là yếu tố cơ bản đảm bảo thành công của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Từ khóa: con người; con người hiện thực; phát huy nhân tố con người; chủ nghĩa xã
hội; tư tưởng Hồ Chí Minh.

1. MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi các các vấn đề về con người là mối quan tâm
thường trực, là mục tiêu hướng tới trong mọi tư tưởng và hành động của mình. Từ
lúc ra đi tìm đường cứu nước đến khi trở thành lãnh tụ và đến lúc phải “từ biệt thế
giới này” không bao giờ Người xa rời mục tiêu đó. Tư tưởng về con người của Hồ
Chí Minh là một di sản quý báu, chiều sâu trong tư tưởng đó là triết lý nhân sinh
sâu sắc, là tinh thần, phương pháp luận để giải quyết vấn đề con người. Đó là hệ
thống tư tưởng về bản chất con người, về niềm tin vững chắc vào sức mạnh của con
người, phản ánh con đường giải phóng con người một cách triệt để nhằm xây dựng
một chế độ xã hội trong đó con người có điều kiện phát triển toàn diện và phát huy
hết mọi năng lực sáng tạo vốn có của mình. Cho đến nay, hệ thống tư tưởng đó vẫn
còn giữ nguyên giá trị, có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Chính

582
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

vì vậy, việc trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người
nhằm phát huy nhân tố con người trong thời đại mới chính là sự chuẩn bị tích cực, chủ
động nguồn nhân lực chất lượng cao cho tương lai của đất nước trên con đường
phát triển theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa.

2. NỘI DUNG
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
Thứ nhất, con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh là những cá nhân hiện thực,
khách quan gắn với từng giai đoạn lịch sử và từng thời kỳ cách mạng cụ thể.
Kế thừa quan điểm con người hiện thực của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí
Minh cho rằng, không có vấn đề chính trị - xã hội nào lại không xoay quanh vấn đề
con người và không có con người chung chung trừu tượng, mà chỉ có những con
người hiện thực, sống và lao động trong một xã hội hiện thực. Với Hồ Chí Minh,
“con người thật” - tức là con người xét trong các quan hệ xã hội hiện thực, trong các
điều kiện sống hiện thực với nhiều bình diện và nhiều chiều khác nhau. Tùy theo
từng thời điểm lịch sử gắn liền với từng thời kỳ cách mạng, Hồ Chí Minh dùng khái
niệm này hay khái niệm khác để chỉ “con người” và xem xét nó trong tổng hoà các
quan hệ xã hội của nó. Trong những năm 20 của thế kỷ XX, Người thường dùng các
khái niệm “người bản xứ”, “người mất nước”, “người bị bóc lột”,... và đối lập với
họ là những tên “thực dân”, “viên chức tàn bạo”, “kẻ diễm phúc có đặc quyền đặc
lợi”,... Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, con người Việt Nam đã trở thành người tự
do, là người làm chủ đất nước, thực hiện đại đoàn kết để kháng chiến chống thực
dân Pháp. Hồ Chí Minh thường dùng các khái niệm “đồng bào”, “nhân dân”,
“dân”,... và qua đó đặt con người trong quan hệ gắn bó với khối thống nhất của
cộng đồng dân tộc. Trong thời kỳ cải cách ruộng đất và cải tạo xã hội chủ nghĩa, Hồ
Chí Minh đã nói rõ về con người trong các quan hệ giai cấp. Sau khi miền Bắc hoàn
thành công cuộc cải cách và cải tạo nói trên thì Hồ Chí Minh dùng những khái niệm
phù hợp với các quan hệ xã hội mới, như “lao động chân tay”, “lao động trí óc”,
“công nhân”, “nông dân tập thể”, “người chủ tập thể”,... Ngoài các quan hệ xã hội,
Người còn xem xét con người theo giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp,... Đó đều là
những con người hiện thực, cụ thể và khách quan.

583
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Thứ hai, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, bản chất con người là tổng hoà các quan
hệ xã hội.
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất xã hội của con
người, Hồ Chí Minh cũng thống nhất quan điểm cho rằng, con người là một thực thể
mang tính xã hội. Tính xã hội đó được hình thành trong tổng hoà các quan hệ xã hội
với nhiều cấp độ khác nhau. Tuy nhiên, điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh là ở chỗ,
khi xem xét các mối quan hệ hiện thực của con người, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn
mạnh đến sự tác động, chi phối lẫn nhau giữa các quan hệ đó trong sự hình thành
bản chất xã hội của chính con người. Hồ Chí Minh không chỉ chú ý đến các quan hệ
bên ngoài con người, mà còn nhìn sâu vào bên trong, để thấy các mối quan hệ bên
trong của con người. Ở những quan hệ bên ngoài, Hồ Chí Minh cho rằng, con người
có cấp độ bản chất Người, cấp độ bản chất giai cấp, cấp độ bản chất dân tộc, nhân
loại; các cấp độ này có mối quan hệ đan xen và chi phối lẫn nhau. Xuất phát từ cách
xem xét ấy, Hồ Chí Minh đã nêu lên một định nghĩa về con người rất độc đáo, mang
đậm nét bản sắc văn hóa phương Đông và Việt Nam. Người nói: “Chữ người, nghĩa
hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bạn bè. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng
nữa là cả loài người” (Hồ, 2011b, 130). Ở những mối quan hệ bên trong, bằng cách
tiếp cận duy vật biện chứng về bản chất con người, Hồ Chí Minh cho rằng, bên
trong con người hiện thực luôn tồn tại mối quan hệ giữa phần thiện và phần ác,
giữa đức và tài, giữa hay và dở, giữa tốt và xấu, hiền và dữ,... bao gồm cả tính người
- mặt xã hội và tính bản năng - mặt sinh học của con người. Từ đó, Hồ Chí Minh đi
đến nhận định rằng, con người dù “có thế này, thế khác”, “dù là xấu, tốt, văn minh
hay dã man đều có tình” (Hồ, 2011c, 99), đều có xu hướng vươn đến chân - thiện -
mỹ. Đây là một quan niệm độc đáo của Hồ Chí Minh. Độc đáo hơn là ở chỗ, Hồ Chí
Minh cho rằng, cuộc đấu tranh giữa thiện và ác trong con người là gốc. Nếu trong
con người, cái thiện chiến thắng cái ác, thì cái thiện trong xã hội, cái thiện trên thế
giới cũng có thêm sức mạnh để giành chiến thắng trước cái ác. Người viết: “Trong
mình có hai phe: một phe thiện và một phe ác. Hai phe cùng đấu tranh với nhau.
Nếu đấu tranh để phe thiện thắng thì phe ác phải bại. Nếu không đấu tranh mà để
cho phe thiện bại, thì là hỏng”, vì vậy, “phải đấu tranh để anh thiện thắng. Nếu anh
thiện trong mình thắng thì phe thiện trong nước, ngoài nước sẽ mạnh” (Hồ, 2011c,
100). Do đó, để khơi dậy cái thiện, làm cho cái thiện nảy nở, phát triển, mỗi người

584
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

cần chủ động đấu tranh với cái xấu, cái ác trong bản thân mình để nâng mình lên
trong mọi hoàn cảnh. Con người trong cách tiếp cận của Hồ Chí Minh còn là sự
thống nhất giữa con người cá nhân và con người xã hội. Con người vừa là một chỉnh
thể đơn nhất mang những phẩm chất riêng, vừa là một thực thể xã hội mang những
phẩm chất của một hệ thống các quan hệ xã hội trong sự thống nhất biện chứng
giữa cái chung với cái đặc thù và cái riêng. Cụ thể hơn, trong khi luôn nhấn mạnh
và coi trọng con người tập thể, con người xã hội, Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm
đến con người cá nhân. Chính vì vậy, Người đã khẳng định, chủ nghĩa xã hội không
hề phủ nhận cá nhân, chà đạp lên lợi ích cá nhân, mà ngược lại, hơn hẳn bất kỳ một
chế độ xã hội nào trong lịch sử, chủ nghĩa xã hội luôn tôn trọng lợi ích cá nhân, tạo
điều kiện tốt nhất cho sự phát triển tự do và toàn diện của cá nhân.
Thứ ba, trong lý luận về vai trò chủ thể của con người, Hồ Chí Minh quan tâm
trước hết đến mặt tư tưởng, đến sức mạnh tinh thần của con người đối với sự phát
triển của xã hội và của chính bản thân con người.
Đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời căn cứ vào điều
kiện thực tiễn của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã có những nhận thức, đánh
giá đúng đắn về vai trò của con người. Theo Hồ Chí Minh, con người không chỉ là
mục tiêu của sự phát triển xã hội, mà còn là chủ thể của lịch sử, là động lực quan
trọng thúc đẩy sự phát triển lịch sử nhân loại. Hồ Chí Minh quan tâm trước hết đến
mặt tư tưởng, đến sức mạnh tinh thần của chính con người. Cụ thể, đối với sự phát
triển của xã hội, dựa trên sự hiểu biết sâu sắc hiện thực xã hội và con người Việt
Nam, đồng thời vận dụng sáng tạo phương pháp hành động biện chứng Mácxít,
Hồ Chí Minh đã luận chứng một cách khoa học về vai trò động lực tinh thần trong
con người, về tính năng động của yếu tố tinh thần trong sự phát triển của lịch sử.
Đây là điểm rất độc đáo, đặc sắc, đậm chất biện chứng và đậm chất phương Đông
của Hồ Chí Minh. Sức mạnh tinh thần ấy, theo Hồ Chí Minh, được hình thành từ
khát vọng giành cho được độc lập tự do của cả dân tộc và truyền thống yêu nước,
kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm được hun đúc từ ngàn năm dựng nước
và giữ nước của cha ông. Đó là sức mạnh đoàn kết của tình đồng chí; là ý chí quyết
chiến quyết thắng, không ngại gian khổ, hy sinh; là ý chí trung thành với Đảng, với
nhân dân; kiên cường chiến đấu vì độc lập - tự do của Tổ quốc. Người viết: “Dù
địch có những vũ khí tối tân, hùng binh ác tướng, nhưng chúng ta lại có những thứ

585
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

vũ khí mạnh mẽ hơn, bền bỉ hơn chúng. Chúng ta có ý chí quật cường không núng
của dân tộc, chúng ta có sự đoàn kết của toàn dân. Chúng ta có lòng hy sinh cảm tử
của chiến sĩ ở tiền tuyến. Chúng ta có sức kiên quyết nhẫn nại của đồng bào ở hậu
phương. Đó là những vũ khí luôn luôn chiến thắng quân thù, chứ không lực lượng
nào chiến thắng được những vũ khí đó” (Hồ, 2011a, 219). Từ đó Người đi đến yêu
cầu: “Muốn có con người xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa thì phải xây dựng
tư tưởng xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa” (Hồ, 2011f, 69). Tư tưởng xã hội chủ
nghĩa nói tóm tắt là phải “đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên,
lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình” (Hồ, 2011e, 603). Đối với sự phát triển của
bản thân con người, sức mạnh tinh thần sẽ giúp cho con người, bằng chính năng lực
của mình, tự đấu tranh để thoát khỏi mọi sự áp bức bất công, thoát khỏi mọi sự tha
hóa để có thể trở về bản chất người tốt đẹp nhất. Nhấn mạnh vai trò sức mạnh tinh
thần đối với sự phát triển của chính bản thân con người, Hồ Chí Minh không sa vào
duy tâm, ảo tưởng. Bởi lẽ, Người đã dựa trên quan điểm hết sức biện chứng khi
xem xét con người trong sự thống nhất của hai mặt đối lập: thiện và ác, hay và dở,
tốt và xấu,... Sức mạnh tinh thần đó theo Hồ Chí Minh, thể hiện ở sự tự điều chỉnh
của mỗi người, ở sự tự ý thức của mỗi cá nhân. Điều này có nghĩa, mỗi người “khi
làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước”, mà “nghĩ đến đồng bào, đến
toàn dân” (Hồ, 2011g, 672), thì sẽ “làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở
như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi” (Hồ, 2011g, 672). Chỉ có như vậy,
mỗi người mới có thể chủ động đấu tranh với cái xấu, cái ác trong bản thân mình
để hoàn thiện bản thân.
Thứ tư, trong vấn đề xây dựng con người mới, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng
giáo dục và tự giáo dục, coi trọng nội dung xây dựng và mở rộng dân chủ nhằm
nâng cao các giá trị làm người.
Hồ Chí Minh luôn khẳng định rằng, con người vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của cách mạng. Theo Người, để tiếp tục phát huy nhân tố con người, cần có
nhiều biện pháp, nhưng giáo dục và đào tạo và biện pháp quan trọng bậc nhất;
“không có giáo dục, không có cán bộ, thì cũng không nói gì đến kinh tế, văn hóa”
(Hồ, 2011d, 345). Bởi vì giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng
cho con người. Giáo dục có vai trò tạo điều kiện, định hướng cho tất cả mọi người
không phân biệt giai cấp, đảng phái, chính kiến, giàu nghèo,... được học tập, được

586
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

phát huy năng lực và sở trường của mình. Thông qua giáo dục, cái thiện trong mỗi
con người sẽ ngày càng nhiều thêm và cái ác sẽ mất dần đi. Con người được giáo
dục toàn diện sẽ trở thành những con người mới - chủ nhân tương lai của đất nước,
góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh. Để xây dựng con người
mới, Hồ Chí Minh cũng đặc biệt chú trọng đến vấn đề xây dựng và mở rộng dân
chủ, nâng cao các giá trị làm người. Bởi Người cho rằng, dân chủ là một nhu cầu tất
yếu của con người, nó thuộc bản chất người. Và như vậy, không ai có quyền tước
bỏ đi cái thuộc tính bản chất ấy, cái bản chất luôn muốn vươn tới sự tự do để khẳng
định khả năng phát triển của con người. Chính bởi vậy, xuất phát từ hoàn cảnh cụ
thể của Việt Nam, vốn là một nước thuộc địa nửa phong kiến, trình độ dân trí lại
thấp kém, Hồ Chí Minh sớm nhận thức sự cần thiết phải thực hành dân chủ rộng
rãi để nhân dân hiểu quyền và nghĩa vụ của mình, biết đấu tranh giành lấy tự do,
hạnh phúc mà họ xứng đáng được hưởng. Do đó, Người luôn dành sự quan tâm
đặc biệt đến vấn đề xây dựng một chế độ dân chủ chân chính thay cho chế độ thực
dân - phong kiến. Với Hồ Chí Minh, dân chủ không chỉ là vấn đề lợi ích, quyền lực
và thể chế gắn với chế độ nhà nước, luật pháp mà còn là những giá trị làm người,
giá trị thuộc về phẩm giá, nhân cách, tự trọng và tự chủ của con người. Bởi, nhân tố
con người chỉ được khai thác và phát huy tối đa khi con người thực sự làm chủ tự
nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ chính mình. Ở nước ta, chế độ dân chủ nhân dân
là một nấc thang trong quá trình phát triển của dân tộc, là kết quả tất yếu của cuộc
đấu tranh cách mạng nhằm xây dựng một xã hội mới. Nó không chỉ phủ định chế
độ quân chủ đã tồn tại hàng ngàn năm, mà còn phủ định chế độ thực dân - một chế
độ xã hội “phi nhân tính” do thực dân Pháp áp đặt vào Việt Nam.
2.2. Phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, con người luôn được xem là nguồn tài
nguyên, của cải đích thực và quý giá nhất. Vì vậy, mục đích phát triển kinh tế - xã
hội của mỗi quốc gia, xét đến cùng, phải vì con người, cho con người, tạo môi trường
thuận lợi để con người có cuộc sống hạnh phúc, có sức khoẻ và có cơ hội phát huy
mọi năng lực sáng tạo. Nhận thức được điều đó, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề

587
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

con người, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định vai trò đặc biệt của nhân tố con
người với tính cách là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Thực tế cũng cho thấy, qua hơn 30 năm đổi mới đất nước, Đảng đã phát huy
được sức mạnh của mỗi con người Việt Nam cũng như của cả dân tộc cho sự nghiệp
giải phóng đất nước. Từ việc nhận thức rõ con người vừa là mục tiêu vừa là động lực
phát triển đất nước, Đảng đã đưa ra nhiều quan điểm và giải pháp phát huy nhân tố
con người, nhằm khơi dậy tiềm năng, sức sáng tạo, lòng tự tôn tự hào dân tộc, nhân
cách cao đẹp của con người Việt Nam nhằm đáp ứng đòi hỏi của tình hình mới. Quá
trình đổi mới luôn xuất phát từ lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy
vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân nên đã giành được những thành tựu to lớn
có ý nghĩa lịch sử. Kinh tế - xã hội của đất nước do đó có bước phát triển, đời sống
mọi mặt của nhân dân từng bước được nâng cao; chính trị, xã hội ổn định;... Những
thành tựu đó chính là những minh chứng cụ thể cho sức mạnh to lớn của con người
Việt Nam. Tuy nhiên, cùng với những kết quả đạt được thì việc phát huy nhân tố
con người Việt Nam trong xây dựng, phát triển đất nước thời gian qua vẫn còn tồn
tại một số bất cập, hạn chế. “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ
phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn
nghiêm trọng, tập trung vào số Đảng viên có chức vụ trong bộ máy Nhà nước”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 185). Bên cạnh đó, “Đạo đức, lối sống trong gia
đình, học đường, xã hội có mặt xuống cấp đáng lo ngại, gây bức xúc cho xã hội”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 72); chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn
thấp so với yêu cầu; “chưa chú trọng đúng mức giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng
làm việc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 113-114); chưa tạo ra được môi trường
thuận lợi cho việc phát huy tối đa nhân tố con người Việt Nam;... Những bất cập
này đã cản trở việc phát huy nhân tố con người Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới
ở nước ta hiện nay.
Chính vì vậy, trước yêu cầu của tình hình mới, việc tiếp tục nghiên cứu và vận
dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về con người vào việc phát huy nhân tố con
người nhằm khơi dậy và phát huy mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của con
người được xem là một trong những nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt. Để phát
huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa một cách hiệu

588
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

quả, cần phải có một hệ thống các biện pháp đồng bộ, trong đó, cần tập trung vào
một số biện pháp chủ yếu sau:
Một là, đẩy mạnh phát triển giáo dục và đào tạo để phát triển toàn diện con
người Việt Nam.
Sự biến đổi không ngừng của hoàn cảnh xã hội đòi hỏi mỗi con người cần phải
liên tục cập nhật kỹ năng, hoàn thiện mình để thích ứng với tình hình mới. Do đó,
để nâng cao trình độ, phát triển toàn diện năng lực của mỗi cá nhân thì giáo dục và
đào tạo được xem là một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu. Một mặt,
giáo dục phác thảo trước mô hình nhân cách cần đạt đến, nó tác động đến đối tượng
giáo dục một cách có hệ thống, có mục đích và theo một tổ chức chặt chẽ. Mặt khác,
giáo dục truyền lại những thành tựu của nền văn minh xã hội theo con đường ngắn
nhất, hiệu quả nhất. Nhân cách con người được hoàn thiện bởi một nền giáo dục xã
hội và tự giáo dục toàn diện sẽ trở thành những người vừa “hồng”, vừa “chuyên”;
vừa có phẩm chất, vừa có năng lực, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng
một nước Việt Nam mới. Theo đó, để phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, cần thiết phải xây dựng một xã hội
học tập, một xã hội văn minh với các giá trị chân, thiện, mỹ, đồng thời hình thành
ở mỗi cá nhân năng lực sáng tạo và tư duy phản biện, có kỹ năng tự học, khả năng
giao tiếp, hợp tác nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Để làm được điều này,
quá trình đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp
giáo dục và đào tạo phải đảm bảo tính cơ bản, toàn diện, thiết thực, hiện đại và có
hệ thống, coi trọng giáo dục tư tưởng và ý thức công dân, bảo tồn và phát huy
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Nội dung
giáo dục phải toàn diện, đồng thời bám sát yêu cầu của xã hội, đào tạo chuyên sâu
các ngành nghề, lĩnh vực, cung cấp đủ kiến thức và kỹ năng làm việc trong các
ngành công nghiệp hiện đại, các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ tiên tiến. Đồng thời, chú
trọng giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc,
ý thức trách nhiệm xã hội của các tầng lớp nhân dân, nhất là tầng lớp thanh niên.
Coi trọng bồi đắp con người giàu lòng nhân ái, khoan dung, chân thành, tín nghĩa,
trọng đạo lý, cần cù, chăm chỉ, tiết kiệm, sáng tạo, hiện đại, có nhân cách tốt, lối
sống đẹp. Trong thực hiện giáo dục và đạo tạo nhằm phát huy nhân tố con người
Việt Nam, cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, vừa khẳng định

589
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

những giá trị tốt đẹp, có ý nghĩa cơ bản, quyết định bản sắc văn hóa, con người Việt
Nam, vừa ngăn chặn, phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái thấp hèn làm ảnh hưởng
đến sự phát triển toàn diện của con người.
Thứ hai, quan tâm giải quyết hài hoà các quan hệ lợi ích theo phương châm bảo
đảm công bằng xã hội trong từng chính sách, từng bước phát triển.
Lợi ích chính là điểm mấu chốt, là một trong những động lực hàng đầu nhằm
phát huy nhân tố con người. Theo đó, để phát huy vai trò của nhân tố con người
trong sự nghiệp đổi mới đất nước, không thể không đặt ra vấn đề giải quyết hài
hoà giữa lợi ích cá nhân với lợi ích cộng đồng và lợi ích toàn xã hội, giữa lợi ích
trực tiếp trước mắt với lợi ích lâu dài, giữa lợi ích vật chất với lợi ích tinh thần,…
Việc kết hợp hài hoà và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các lợi ích đó sẽ tạo
ra động lực nhằm phát huy nhân tố con người trong thời kỳ mới. Thực tiễn đất
nước cũng chứng minh, khi nào chúng ta kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích
tập thể, lợi ích xã hội sẽ tạo ra được trạng thái lành mạnh trong từng đơn vị tập
thể và xã hội, do vậy mà tính tích cực xã hội và tinh thần sáng tạo được phát huy,
kinh tế phát triển, chính trị xã hội ổn định; nếu ngược lại sẽ kìm hãm, cản trở sự
phát triển của đất nước, thậm chí tiêu cực xã hội và tệ nạn xã hội gia tăng. Trước
yêu cầu của tình hình mới hiện nay, để kết hợp hài hòa các quan hệ lợi ích, phát
huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần
tôn trọng và bảo đảm cho sự phát triển của lợi ích cá nhân chính đáng của con
người. Theo đó, các chế độ, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải được cụ thể
hóa để thực sự trở thành công cụ thực hiện công bằng xã hội, từng bước hiện thực
hóa các giá trị xã hội chủ nghĩa vào thực tiễn đời sống xã hội của đất nước, bảo
đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới.
Công bằng nhưng không cào bằng là nguyên tắc đạo đức tối thượng trong điều
kiện hiện nay, thể hiện ở việc lợi ích mà mỗi cá nhân được hưởng tương xứng với
công lao, sự đóng góp của họ. Để bảo đảm công bằng cần thực hiện tốt các hình
thức phân phối, đây là động lực trực tiếp kích hoạt nhu cầu, động cơ lợi ích cá
nhân chính đáng phát triển, đồng thời phản ánh những giá trị đạo đức tiến bộ. Bên
cạnh đó, phải đặt lợi ích cá nhân trong mối quan hệ với lợi ích xã hội, trong đó
“phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết”; trong những trường hợp nếu có
xung đột thì phải hy sinh lợi ích cá nhân. Đây cũng chính là điều mà sinh thời Chủ

590
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Mỗi người trong Đảng phải hiểu rằng: lợi ích
cá nhân nhất định phải phục tùng lợi ích của Đảng. Lợi ích của mỗi bộ phận nhất
định phải phục tùng lợi ích của toàn thể. Lợi ích tạm thời nhất định phải phục
tùng lợi ích lâu dài” (Hồ, 2011a, 290). Và khi “lợi ích chung của Đảng mâu thuẫn
với lợi ích riêng của cá nhân, thì phải kiên quyết hy sinh lợi ích của cá nhân cho
lợi ích của Đảng. Khi cần đến tính mệnh của mình cũng phải vui lòng hy sinh cho
Đảng” (Hồ, 2011a, 291).
Thứ ba, xây dựng và thực hiện một cơ chế dân chủ trong mọi mặt của đời sống
xã hội nhằm tạo môi trường, điều kiện thiết yếu để phát huy tính tích cực và sáng
tạo của con người trong các lĩnh vực.
Nhân tố con người chỉ được khai thác và phát huy tối đa khi con người thực
sự làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ chính mình. Để phát huy tính tích
cực, tự giác, sáng tạo của con người trong mọi hoạt động thì nhất thiết phải xây
dựng và thực hiện một cơ chế dân chủ, trong đó ngày càng quan tâm đến dân chủ
trực tiếp nhằm hiện thực hoá những giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa trong đời sống
xã hội. Đây cũng là điều mà sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan
tâm, chú ý. Vì với Người, dân chủ có vai trò to lớn trong việc phát huy tính tích cực
và sáng tạo của con người, từ đó góp phần thúc đẩy đến sự phát triển xã hội. Hồ
Chí Minh thấy rõ sức mạnh của dân chủ như một sức mạnh giải phóng, giải phóng
ý thức tư tưởng, giải phóng mọi tiềm năng xã hội, nhờ đó phát huy được mọi khả
năng sáng tạo, sáng kiến của nhân dân, tạo ra những nguồn lực dồi dào cho tiến bộ
và phát triển. Như thế, việc phát huy dân chủ không chỉ tạo cơ hội thuận lợi cho tất
cả mọi người có thể cống hiến năng lực của mình cho xã hội, mà còn có ý nghĩa tạo
điều kiện cho việc thực hiện cơ chế phản biện xã hội với tinh thần lành mạnh, xây
dựng và phát huy trách nhiệm công dân. Nói cách khác, thông qua quá trình dân
chủ hoá, trí tuệ của toàn dân được huy động và đóng góp vào sự phát triển chung
của xã hội. Phát huy dân chủ đòi hỏi mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân
dân làm mục tiêu. Các cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức trong hệ thống chính trị, cán
bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải nêu gương thực hành dân chủ, tuân thủ
pháp luật, đề cao đạo đức xã hội trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Bên cạnh
đó, cần không ngừng nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm

591
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân. Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện
trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp. Phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công
dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội, đồng thời xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức,
cá nhân lợi dụng dân chủ, gây rối nội bộ vi phạm dân chủ, làm phương hại đến
quyền làm chủ của nhân dân. Thực hiện dân chủ còn phải đi đôi với tăng cường kỷ
cương pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa; khắc phục mọi biểu hiện dân chủ cực
đoan hoặc lợi dụng “dân chủ” để chia rẽ khối đại đoàn kết, làm rạn nứt sự đồng
thuận xã hội.
Thứ tư, phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam trong thời đại mới.
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội
chủ nghĩa”. Quan điểm này của Hồ Chí Minh chứa đựng những nội dung rộng
lớn cả về lý luận và thực tiễn về việc xây dựng một chế độ mới mà ở đó con người
“sống với nhau có tình có nghĩa” và có điều kiện phát triển toàn diện. Để tạo ra
được xã hội tốt đẹp ấy cách hành xử của con người phải mang tính nhân văn sâu
sắc, phải thấm đẫm tình người, phải tạo nên cái Thiện bằng cách Thiện. Do vậy,
việc tiếp tục phát triển hệ giá trị của con người trong thời đại mới hiện nay, nhằm
làm cho phần Thiện trong mỗi con người, và trong toàn xã hội ngày càng “nảy nở
như hoa mùa xuân” chính là một trong những biện pháp hết sức cần thiết. Phát
triển hệ giá trị của con người Việt Nam còn là sự khẳng định vai trò động lực tinh
thần trong con người, tính năng động của yếu tố tinh thần đối với sự phát triển
của xã hội và của chính bản thân con người. Có thể thấy, trải qua hàng nghìn năm
lịch sử, dân tộc Việt Nam đã hun đúc nên nhiều giá trị truyền thống quý báu, tiêu
biểu là: yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc; đoàn kết; nhân ái; trung thực, trách
nhiệm; cần cù, sáng tạo. Đó cũng chính là những giá trị tiêu biểu, cốt lõi của con
người Việt Nam. Để làm cho những giá trị tốt đẹp này không ngừng nảy nở, lan
toả và bồi đắp thêm đòi hỏi phải thực hiện những nội dung, như: chú trọng xây
dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam
phù hợp với điều kiện hiện nay; tiếp tục rà soát chính sách phát triển hệ giá trị của
con người, bổ sung, hoàn thiện những chính sách đúng đắn còn tác dụng, loại bỏ
những chính sách đã lạc hậu, không còn phù hợp với thực tiễn hiện nay. Đổi mới
nội dung, phương pháp tuyên truyền, giáo dục, định hướng giá trị cho con người
Việt Nam, đẩy mạnh phong trào “Thi đua yêu nước” gắn với cuộc vận động học

592
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong toàn xã hội một
cách thiết thực, hiệu quả, tránh hình thức, vận dụng sáng tạo phương pháp “nêu
gương” của Hồ Chí Minh: trong gia đình, cha mẹ là tấm gương cho con cái; thầy
cô giáo là một tấm gương về đạo đức tự học và sáng tạo để học sinh noi theo; ở
ngoài xã hội, cấp trên nêu tấm gương cho cấp dưới. Đặc biệt, cần phải phát huy
năng lực tự giáo dục giá trị của mỗi người dân; hình thành trong mỗi người dân
năng lực đánh giá, thẩm định giá trị, để có thể phân biệt đúng - sai, tích cực - tiêu
cực, cao cả - thấp hèn, thiện - ác, hướng con người vươn tới chân, thiện, mỹ để hoàn
thiện bản thân. Chỉ có như vậy, mỗi người mới có thể chủ động đấu tranh với mọi
hiện tượng tiêu cực để nâng mình lên trong mọi hoàn cảnh. Như thế, thực hiện
theo những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc phát triển hệ giá trị của
con người Việt Nam trong thời đại mới chính là tiến hành cuộc cách mạng xã hội,
tiến hành cải tạo/tự cải tạo trong mỗi con người.
Thứ năm, khắc phục các trở lực trong việc phát huy nhân tố con người hiện nay.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chú ý đến việc phát huy các
yếu tố tích cực, phát huy các động lực trong phát triển con người. Tuy nhiên, nét
độc đáo trong cách tư duy biện chứng của Người là ở chỗ, bên cạnh việc chỉ ra các
nguồn động lực của sự phát triển, Người còn lưu ý, cảnh báo và ngăn ngừa các
yếu tố kìm hãm, triệt tiêu mặt tích cực trong mỗi con người, đó là chủ nghĩa cá
nhân. Tác hại của chủ nghĩa cá nhân vô cùng lớn, nó sinh ra trăm thứ bệnh, như
tham ô, lãng phí, quan liêu,... Chủ nghĩa cá nhân huỷ hoại chính con người, làm
suy đồi con người, mất nhân tính, đi ngược xu thế phát triển của loài người. Vận
dụng quan điểm của Hồ Chí Minh, trước yêu cầu của tình hình mới hiện nay, bên
cạnh việc phát huy những yếu tố tích cực trong mỗi con người, thì việc hạn chế và
ngăn chặn những mặt tiêu cực kìm hãm sự phát triển của con người cũng là một
trong những biện pháp hết sức quan trọng. Để làm được điều này, cần thiết phải
đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục về tác hại của chủ nghĩa cá nhân, lối sống cá
nhân chủ nghĩa để mọi người biết phân biệt việc bảo vệ lợi ích cá nhân chân chính
với chủ nghĩa cá nhân là hai nội dung khác nhau về bản chất. Bảo vệ lợi ích cá
nhân chân chính là bảo vệ những lợi ích được pháp luật thừa nhận, bảo vệ; những
lợi ích này không mâu thuẫn với lợi ích của người khác, của tập thể, cộng đồng,
xã hội và cao hơn là lợi ích của Tổ quốc, dân tộc. Cần tuyên dương những tấm

593
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

gương người tốt việc tốt và nhân rộng những điển hình tốt, hình thành trong xã
hội và trong mỗi người niềm tin về chân - thiện - mỹ. Trong tuyên truyền, giáo
dục cần khơi dậy những giá trị truyền thống tốt đẹp như tinh thần nhân ái, lòng
yêu thương con người, tinh thần đoàn kết, nhân văn,... Bên cạnh đó, thực hiện
từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật đề vừa giáo dục nhưng cũng vừa răn đe,
ngăn ngừa, trừng trị thích đáng với những hành vi tham ô, lãng phí, tham nhũng,
hành vi vi phạm lợi ích tập thể, cộng đồng, xã hội. Đồng thời, tích cực xây dựng,
tạo lập môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội lành mạnh cho việc xây dựng con người
mới sống có văn hóa, nghĩa tình, trách nhiệm. Bởi môi trường văn hóa tiến bộ,
lành mạnh sẽ làm cho các giá trị văn hóa thấm sâu vào mọi mặt đời sống xã hội,
được thể hiện cụ thể trong sinh hoạt, công tác, quan hệ hàng ngày của cộng đồng
và từng con người, tạo sức đề kháng đối với các sản phẩm độc hại. Ngoài ra, cần
tích cực đẩy mạnh việc tự rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân trong Đảng và trong toàn xã hội, thực hành dân chủ
trong Đảng là cơ sở để thực hành dân chủ rộng rãi trong toàn xã hội, phát huy
được sức mạnh của quần chúng nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội trong cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân.

3. KẾT LUẬN
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, việc luôn nhận thức sâu sắc
vai trò to lớn của nhân tố con người và lấy đó làm điểm tựa vững chắc là điều kiện
để chúng ta đưa sự nghiệp đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đến thắng lợi. Phát huy nhân tố con người, luôn đặt con người - con người
hiện thực - vào trung tâm của mọi suy nghĩ và hành động nhằm thúc đẩy sự phát
triển của xã hội, đó là một vấn đề có tính quy luật. Trong giai đoạn hiện nay, đối
với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, việc trở lại với tư tưởng Hồ Chí
Minh, thực hiện những di huấn của Người nhằm phát huy tối đa năng lực của con
người trong lao động, trong hoạt động sáng tạo là yếu tố cơ bản đảm bảo thành
công của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

594
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam,. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
Chính trị Quốc gia.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
(Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[3]. Hồ, C. M. (2011a). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 5). Chính trị quốc gia.
[4]. Hồ, C. M. (2011b). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 6). Chính trị quốc gia.
[5]. Hồ, C. M. (2011c). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 8). Chính trị quốc gia.
[6]. Hồ, C. M. (2011d). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 10). Chính trị quốc gia.
[7]. Hồ, C. M. (2011e). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 11). Chính trị quốc gia.
[8]. Hồ, C. M. (2011f). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 12). Chính trị quốc gia.
[9]. Hồ, C. M. (2011g). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 15). Chính trị quốc gia.

595
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LÀ SỰ LỰA CHỌN ĐÚNG ĐẮN


Trương Văn Viên
Học viện Chính trị khu vực I
Tác giả liên hệ: Trương Văn Viên, email: truongvienhvct1@gmail.com

Tóm tắt: Ngay từ khi ra đời cho đến nay, Đảng ta luôn khẳng định, chủ nghĩa xã hội
là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và Nhân dân ta, đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn
đúng đắn, tất yếu của cách mạng Việt Nam. Nhờ đó, cách mạng Việt Nam đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ: “Đi lên
chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch
sử” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011b, 13). Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 92 năm
qua đã chứng tỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn đúng đắn phù hợp
với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại.
Từ khóa: chủ nghĩa xã hội; thời kỳ quá độ; đi lên chủ nghĩa xã hội; độc lập dân tộc
gắn liền chủ nghĩa xã hội; kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Với học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, C. Mác và Ph. Ăngghen xem xét sự
phát triển xã hội loài người là một tiến trình lịch sử - tự nhiên. Đồng thời, các ông
chỉ rõ, mặc dù sự thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình
lịch sử - tự nhiên, nhưng sự thay thế ấy bao giờ cũng phải trải qua một thời kỳ quá
độ nhất định. Bên cạnh đó, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin cũng dự báo
khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong những
điều kiện lịch sử cụ thể.
Vận dụng và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện lịch
sử của cách mạng Việt Nam, Đảng ta khẳng định, theo quy luật tiến hóa của lịch sử,
loài người nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội và kiên định con đường đó. Đi lên
chủ nghĩa xã hội là tư tưởng nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành
lập đến nay. Đó là con đường phát triển lâu dài và trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ

596
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

phát triển đất nước, Đảng ta luôn phải bổ sung, hoàn thiện và phát triển, đáp ứng
những yêu cầu mới của thời đại.

2. NỘI DUNG
2.1. Lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
2.1.1. Cơ sở lý luận
Thứ nhất, việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dựa trên quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự ra đời tất yếu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, C. Mác đã chỉ ra sự vận động phát
triển của xã hội từ thấp đến cao. C. Mác coi các phương thức sản xuất châu Á, cổ
đại, phong kiến, tư sản hiện đại là những thời đại tiến triển dần dần của các hình
thái kinh tế - xã hội. Khi nghiên cứu các quy luật của sự phát triển xã hội nói chung
và chủ nghĩa tư bản nói riêng, C. Mác đã đi đến kết luận khoa học rằng sẽ xuất hiện
một hình thái kinh tế - xã hội mới là hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa
xã hội khoa học đã khẳng định rằng sự ra đời của chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn
mới trong lịch sử phát triển của nhân loại, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra bước phát
triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất: “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống
trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và
đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại” (C.Mác và
Ph.Ăngghen, 1995a, 603). Nhưng, như C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ ra, trong xã
hội đầy đối kháng giai cấp đó, con người càng chinh phục tự nhiên, cải tạo tự nhiên
bao nhiêu thì tình trạng người áp bức, bóc lột người càng được mở rộng bấy nhiêu.
Lực lượng sản xuất càng được cơ khí hóa, hiện đại hóa, càng mang tính xã hội hóa
cao bao nhiêu thì quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất từ chỗ đóng vai trò là yếu tố mở
đường cho lực lượng sản xuất phát triển ngày càng trở thành lực cản đối với sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của lực lượng sản
xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất trở
thành mâu thuẫn kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản.

597
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Sự phát triển mạnh mẽ của đại công nghiệp cơ khí và cùng với nó, sự trưởng
thành cả về chất và lượng của giai cấp công nhân - vốn là sản phẩm của chính chủ
nghĩa tư bản - đã tạo ra tiền đề kinh tế và xã hội để tiến tới thủ tiêu chủ nghĩa tư
bản. Diễn đạt tư tưởng đó, C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng “giai cấp tư sản không
những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ
khí ấy chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, những người vô sản” (C.Mác
và Ph.Ăngghen, 1995a, 605), “tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng
với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản
thân nền đại công nghiệp” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995a, 610). Và “làm tròn sự
nghiệp giải phóng thế giới ấy, đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại”
(C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995b, 333) .
Nếu C. Mác và Ph. Ăngghen đã luận chứng sâu sắc về tính tất yếu phải diệt
vong của chủ nghĩa tư bản và cũng một tất yếu như thế đối với sự ra đời, sự thắng
lợi của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản; đã phát hiện ra vai trò lịch sử thế giới
của giai cấp vô sản cách mạng, dự báo về cách mạng vô sản nổ ra ở những nước tư
bản chủ nghĩa đã phát triển ở trình độ cao, thì V.I.Lênin lại nhìn thấy những cái mới
xuất hiện ở thời đại mình, ông đã nhìn thấy tính chất phát triển không đều của chủ
nghĩa tư bản và khả năng chín muồi một tình thế cách mạng ở những mắt xích xung
yếu nhất. Và, cách mạng vô sản có thể nổ ra ở một số nước, thậm chí ở một nước, ở
những nước mà chủ nghĩa tư bản mới chỉ phát triển trung bình, mới hình thành các
quan hệ tư bản chủ nghĩa mà cũng có thể ở những nước chậm phát triển, còn lạc
hậu, còn tồn tại các quan hệ tiền tư bản. Tư tưởng đó của V.I.Lênin đặt cơ sở lý luận
khoa học về quá độ tới chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa ở những nước lạc hậu.
Thứ hai, việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dựa trên lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Về phạm trù thời kỳ quá độ, trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gôta, C. Mác
khẳng định: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời
kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một
thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là
nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995b, 47).

598
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Như vậy, theo quan điểm của C. Mác “thời kỳ quá độ” là thời kỳ vận động “chuyển
tiếp” từ xã hội cũ (tư bản chủ nghĩa) lên xã hội mới (cộng sản chủ nghĩa).
Về tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin khẳng định: “Về
lý luận, không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng
sản, có một thời kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ đó không thể không bao gồm những
đặc điểm hoặc đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế xã hội ấy. Thời kỳ quá độ ấy
không thể nào lại không phải là một thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang
giãy chết và chủ nghĩa cộng sản đang phát sinh, hay nói một cách khác, giữa chủ
nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn, và chủ nghĩa cộng sản đã
phát sinh nhưng vẫn còn rất non yếu” (Lênin, 1977, 309-331). Như vậy, để chuyển
từ xã hội tư bản và các chế độ xã hội trước đó lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua một
bước phát triển ở giai đoạn quá độ cần thiết và tất yếu.
Đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải tạo cách mạng
sâu sắc, triệt để xã hội tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội, xây dựng từng bước cơ sở vật chất - kỹ thuật và đời sống tinh thần
của chủ nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ lâu dài, gian khổ, bắt đầu từ khi giai cấp công
nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền đến khi xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội. Về kinh tế, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội,
tất yếu tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần. Về chính trị, trong thời kỳ quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội giai cấp công nhân thiết lập, và tăng cường
chuyên chính vô sản, trấn áp giai cấp tư sản, xây dựng một xã hội không giai cấp.
Về tư tưởng - văn hóa, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội còn
tồn tại nhiều tư tưởng khác nhau, chủ yếu là tư tưởng vô sản và tư tưởng tư sản,
giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản từng bước
xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa. Về xã hội, trong thời kỳ quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp và sự khác biệt
giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội; các giai cấp, tầng lớp vừa hợp tác, vừa đấu tranh
với nhau.
Về các hình thức quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác -
Lênin đưa ra và phân tích hai hình thức quá độ lên chủ nghĩa xã hội: Khi phân tích
mâu thuẫn cơ bản ở các nước tư bản phát triển, C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ rõ từ
xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội cộng sản chủ nghĩa phải trải qua một thời kỳ lịch

599
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

sử lâu dài, đó là thời kỳ quá độ từ xã hội còn khác biệt giai cấp lên xã hội không còn
khác biệt giai cấp, đó là hình thức quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội đối với các nước mà chủ nghĩa tư bản đã phát triển. Ngoài việc trình bày con đường
lịch sử - tự nhiên tuần tự trải qua tất cả các hình thái trong sự phát triển của xã hội,
các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đưa ra dự báo về con đường phát triển
“rút ngắn” tại các nước tiền tư bản, các nước này có thể quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa.
Về điều kiện quan trọng để thực hiện quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
giai đoạn tư bản chủ nghĩa đối với các nước tiền tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã
hội, Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin cũng chỉ rõ: 1) Phải có được tấm
gương của một cuộc cách mạng vô sản đã thắng lợi. 2) Phải có được sự giúp đỡ, ủng
hộ tích cực của các nước tiên tiến và giai cấp vô sản các nước đó. 3) Phải có một
chính đảng vô sản đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
2.1.1. Cơ sở thực tiễn
Thứ nhất, việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trước hết xuất
phát từ thực tiễn, từ sự vận động của lịch sử và yêu cầu phát triển của xã hội Việt Nam.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam nổi lên hai mâu thuẫn mâu
thuẫn cơ bản: mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp; và xuất hiện nhu cầu phải
tìm ra con đường để giải quyết triệt để hai mâu thuẫn đó. Tại thời điểm này, xã hội
Việt Nam đã trải qua những cuộc thử nghiệm lịch sử để lựa chọn con đường đi cho
dân tộc. Tuy nhiên, các phong trào yêu nước từ lập trường phong kiến, đến lập
trường dân chủ tư sản đều không thành công, xã hội rơi vào bế tắc, khủng hoảng
về đường hướng phát triển.
Sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, tại làng Kim Liên, huyện Nam
Đàn, tỉnh Nghệ An, một miền quê giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm hấp thụ tinh thần yêu nước nồng nàn, lòng thương
dân sâu sắc và ý chí đấu tranh kiên cường, bất khuất của ông cha. Người rất khâm
phục tinh thần yêu nước của các cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Hoàng Hoa
Thám… nhưng Người cũng sớm nhận ra hạn chế của con đường cứu nước của các
cụ: “Cụ Phan Châu Trinh chỉ yêu cầu người pháp thực hiện cải lương. Anh nhận ra
điều đó là sai lầm, chẳng khác gì xin giặc rủ lòng thương. Cụ Phan Bội Châu dựa vào

600
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Nhật để đuổi Pháp. Điều đó nguy hiểm chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, reo beo cửa
sau”. Cụ Hoàng Hoa Thám còn thực tế hơn vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp. Nhưng
theo lời người ta kể thì cụ cũng nặng cốt cách phong kiến” (Trần, 1976, 12-13). Người
nhận ra rằng, muốn cứu nước, giải phóng dân tộc phải tìm một con đường
mới. Người nung nấu quyết tâm đi tìm con đường mới để cứu nước, cứu dân.
Với lòng yêu nước thiết tha và ý chí, khát vọng cháy bỏng giải phóng dân tộc,
ngày 05/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rời Cảng Sài Gòn,
bắt đầu hành trình tìm đường cứu nước. Người quyết định sang Phương Tây, nơi
khởi nguồn của chủ nghĩa thực dân, quê hương của các cuộc cách mạng tư sản, để
tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ “Tự do”, “Bình đẳng”, “Bác ái”; xem
nước Pháp và các nước khác làm như thế nào rồi sẽ trở về giúp đồng bào. Bôn ba
khắp năm châu, bốn biển để nghiên cứu, tìm hiểu về các cuộc cách mạng điển hình,
kiểm nghiệm nhiều học thuyết, nhiều con đường đấu tranh của giai cấp công nhân,
nhân dân các nước thuộc địa. Người nghiên cứu bản Tuyên ngôn Độc lập của nước
Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm
1791, Người nhận thấy: “Cách mạng Pháp cũng như cách mạng Mỹ, nghĩa là cách
mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong
thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi,
mà nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát
khỏi vòng áp bức. Cách mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy” (Hồ, 2011a, 296). Vì
vậy, Người không đi theo con đường cách mạng tư sản.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công, chủ nghĩa xã hội từ lý luận
trở thành hiện thực, đồng thời mở ra một thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ xã hội. Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 trở thành biểu tượng
và tạo động lực to lớn thôi thúc các dân tộc thuộc địa, trong đó có Việt Nam, noi
theo. Đánh giá ảnh hưởng và tác động sâu sắc của Cách mạng Tháng Mười tới thắng
lợi của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Trong thế giới
bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân
chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình
đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam” (Hồ, 2011a,
304), và Người khẳng định cách mạng Việt Nam muốn thắng lợi phải đi theo con
đường của Cách mạng Tháng Mười Nga.

601
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Năm 1920, Người đọc bản Sơ thảo luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa của Lênin trên báo Nhân đạo. Người tìm thấy trong luận cương của Lênin ánh
sáng chân lý của thời đại, tìm thấy con đường giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội,
giải phóng con người. Con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, đó là: giải phóng
dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản” (Hồ, 2011c, 30). Sau này nói về cảm tưởng khi đọc Luận
cương, Người viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi,
sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phải khóc lên, ngồi một mình trong
buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị
đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng
của chúng ta” (Hồ, 2011c, 562) .
Mùa Xuân năm 1930, Người chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam và thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Đây là bước ngoặt lịch sử
trọng đại, chấm dứt cuộc khủng hoảng kéo dài về đường lối chính trị và về tổ chức
của các phong trào yêu nước Việt Nam. Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng, Người
chỉ rõ: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản” (Hồ, 2011b, 1), đó chính là con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam.
Tháng 8/1945, với tư duy chính trị cực kỳ nhạy cảm và sắc bén, dự báo chính
xác, phân tích kịp thời và thấu đáo tình hình trong nước và quốc tế, nhận rõ thời cơ
cách mạng đã chín muồi, Chủ Tịch Hồ Chí Minh nêu rõ quyết tâm “Dù phải đốt
cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho kỳ được độc lập dân tộc”,
“đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là lãnh
tụ Hồ Chí Minh, dân tộc ta đã vùng lên phá tan gông xiềng nô lệ hơn 80 năm của
chế độ thực dân, xóa bỏ chế độ phong kiến kéo dài hàng nghìn năm, lập nên nước
Việt Nam Dân chủ cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam
Á, mở ra một thời đại mới rực rỡ nhất trong lịch sử quang vinh của dân tộc - Thời
đại Hồ Chí Minh.
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám ở nước ta, bọn thù trong, giặc ngoài
cấu kết với nhau mưu toan lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ, hòng áp đặt ách
cai trị nước ta một lần nữa. Trước tình thế hiểm nghèo, Chủ tịch Hồ Chí Minh và

602
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân cùng một lúc chống cả 3 thứ giặc: “giặc đói”, “giặc
dốt” và “giặc ngoại xâm”. Với sách lược khôn khéo, linh hoạt, Người đã chèo lái
con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua mọi thác ghềnh, hiểm nguy, trong tình
thế “ngàn cân treo sợi tóc”, vừa tranh thủ thời gian xây dựng lực lượng về mọi mặt,
vừa ra sức bảo vệ, củng cố chính quyền cách mạng mới được xác lập, còn rất non
trẻ. Trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, ngày 19/12/1946,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, hiệu triệu toàn dân
tộc đồng lòng, chung sức tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ, với ý chí sắt đá:
“Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm
nô lệ”. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, theo ngọn cờ “kháng chiến, kiến quốc”
Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các kế hoạch quân sự của kẻ thù
mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động
địa cầu”.
Kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc được hoàn
toàn giải phóng, nhân dân ta bước vào thời kỳ cách mạng mới, cùng một lúc thực
hiện cả hai nhiệm vụ chiến lược là: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục
đấu tranh hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, cùng Đảng ta hoạch định đường lối và lãnh
đạo nhân dân ra sức đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường xây dựng
Đảng, củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ
nghĩa,… làm cho miền Bắc ngày càng vững mạnh về mọi mặt, trở thành hậu phương
vững chắc cho tiền tuyến lớn miền Nam.
Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là tâm nguyện cháy bỏng, là nỗi
trăn trở khôn nguôi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người từng nói: “Nước Việt Nam
là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn song chân lý đó
không bao giờ thay đổi!” (Hồ, 2011d, 532); “Miền Nam luôn ở trong trái tim tôi”.
Trước lúc đi xa, Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta bản Di chúc lịch sử trong
đó khẳng định một ý chí mãnh liệt, một quyết tâm sắt đá và một niềm tin tất thắng:
“Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế
quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng

603
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà” (Hồ, 2011e, 623). Thực hiện di huấn
của Người, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã phát huy cao độ chủ nghĩa anh
hùng cách mạng, sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại,
làm nên thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh
cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu non
sông về một mối, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử nước ta - kỷ nguyên độc lập,
thống nhất, hòa bình, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, dưới sự lãnh đạo của
Đảng và của chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã tìm ra con đường phát
triển đặc thù - đó là con đường quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, đi lên chủ
nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa phong kiến. Cách thức phát triển này cho
phép giải quyết một cách triệt để mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp của xã
hội Việt Nam vào đầu thế kỷ XX. Con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội phản ánh sự lựa chọn khách quan của chính thực tiễn - lịch sử dân tộc mang
đậm tính đặc thù của Việt Nam đã được khẳng định. Với mục tiêu đã xác định, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh, kết hợp với sự
ủng hộ giúp đỡ cả về vật chất và tinh thần của các nước xã hội chủ nghĩa, cách mạng
Việt Nam đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành độc lập, tự do cho dân
tộc, đưa đất nước thống nhất và bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, Việt Nam hoàn toàn có đủ khả năng và điều kiện để quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Việt Nam là một quốc gia chưa trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa,
nghĩa là đối với nước ta quá độ trực tiếp để đi lên chủ nghĩa xã hội như C. Mác đã
chỉ ra trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gôtha là không có khả năng. Bởi vậy, con
đường phát triển “rút ngắn”, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa chính là con đường phát triển của Việt Nam. Với những điều kiện mà chủ
nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra, xét trong bối cảnh quốc tế và đất nước hiện nay, nước
ta hoàn toàn có đủ điều kiện và khả năng để đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa, bởi các lý do sau:
Một là, nếu như các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng đối với
các nước tiền tư bản chủ nghĩa cần phải có được tấm gương của một cuộc cách mạng
vô sản đã thắng lợi để làm bài học, thì đối với Việt Nam, cho đến nay, tấm gương
604
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

của các cuộc cách mạng vô sản đã phong phú, bao hàm khá nhiều bài học sinh động
về sự thành công và thất bại.
Hai là, nếu như các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng cần
phải có sự giúp đỡ tích cực của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước tiền tư
bản chủ nghĩa mới có thể rút ngắn được con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, thì ở
Việt Nam hiện nay, có thể thấy rằng, Đảng và Nhà nước ta đã có đủ kinh nghiệm
và bản lĩnh trong việc tranh thủ sự ủng hộ của lực lượng xã hội tiến bộ trên thế giới
cũng như của giai cấp công nhân quốc tế để xây dựng đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Ba là, chúng ta có một điều kiện quốc tế thuận lợi quan trọng khác, đó là cuộc
Cách mạng công nghiệp 4.0. Cuộc cách mạng này tạo ra thời cơ thuận lợi, nếu chúng
ta biết tận dụng sẽ rất có lợi cho công cuộc phát triển đất nước.
Bốn là, nếu như các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn luôn nhấn
mạnh vai trò của Đảng vô sản trong việc lãnh đạo cách mạng, thì trong tiến trình
cách mạng ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố có vai trò quyết định
đối với sự phát triển của đất nước.
Thứ ba, những thắng lợi của Việt Nam trong thế kỷ XX là cơ sở, là minh chứng thực
tiễn cho sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng
lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những
thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống
trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân
tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống
xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng
mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm
tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.
Những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam là thực tiễn sinh động khẳng định

605
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với
thực tiễn Việt Nam, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân.
2.2. Kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Một là, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay là khách quan.
Mặc dù tình hình thế giới có nhiều biến đổi, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông
Âu và Liên Xô sụp đổ, nhưng chúng ta có thể khẳng định rằng, kiên định con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay vẫn là khách quan có cơ sở lý luận khoa
học và cách mạng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường, cùng
với những nhận thức lý luận mới của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng được làm sáng tỏ, nhất là từ sự
nghiệp đổi mới đến nay. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, thông qua Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011),
khẳng định: “Trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường
lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 2011a, 180). Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta khẳng
định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định
đường lối đổi mới của Đảng” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 109).
Hai là, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô không phải là sự
sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung, mà chỉ là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã
hội không phù hợp.
Trong quá trình hình thành và phát triển, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
khác đã đạt được những thành tựu to lớn về nhiều mặt, đã từng là chỗ dựa cho
phong trào cách mạng thế giới, chỗ dựa cho việc đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hạt
nhân, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội. Nhưng do chậm khắc phục những hạn chế, khiếm khuyết
trong mô hình chủ nghĩa xã hội, lại mắc phải những sai lầm về đường lối cải tổ,
cộng với sự chống phá của các thế lực đế quốc, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô
và Đông Âu đã bị sụp đổ.

606
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Từ sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, các nước
xã hội chủ nghĩa còn lại vẫn kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở
vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đổi mới để tìm kiếm những
mô hình phát triển phù hợp với điều kiện của nước mình. Trung Quốc năm 1978,
Đặng Tiểu Bình tiến hành cải cách, xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc.
Công cuộc đổi mới của Việt Nam, Lào, Cuba và một số trào lưu xã hội chủ nghĩa
trên thế giới đã chứng tỏ sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin, khẳng định con đường
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn,
phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
Ba là, chủ nghĩa tư bản về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công, chủ
nghĩa tư bản không thể tự giải quyết được những mâu thuẫn vốn có của mình, muốn giải
quyết phải thay thế chủ nghĩa tư bản bằng một chế độ xã hội tiến bộ hơn là chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa tư bản trong quá trình tồn tại của mình, mặc dù trải qua nhiều cuộc
khủng hoảng và suy thoái, nhiều bước quanh co, phức tạp, gây ra nhiều tội ác cho
loài người (chiến tranh xâm lược, nạn khủng bố, phân biệt chủng tộc…), song chủ
nghĩa tư bản đã tạo ra những lực lượng sản xuất khổng lồ, hiện đại, thúc đẩy nền
văn minh nhân loại. Chủ nghĩa tư bản là một chế độ xã hội lỗi thời về mặt lịch sử,
song hiện tại “chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là
một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ
nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực
lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không
giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã
hội vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc
đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011b, 12). Điều đó là những minh chứng cho thấy cách
thức phát triển kiểu tư bản chủ nghĩa đang chứa đựng nhiều nguy cơ bất ổn và
không bền vững, những tiền đề cho sự phủ định chủ nghĩa tư bản đang ngày càng
chín muồi trong lòng chủ nghĩa tư bản.
Bốn là, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa mà nhân
dân ta lựa chọn tất yếu phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài, khó khăn, phức tạp với nhiều
bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen.

607
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại phải trải qua mấy chục năm
chiến tranh để lại hậu quả nặng nề, các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá
hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, cho nên nhất thiết phải trải qua một thời
kỳ quá độ lâu dài, khó khăn, phức tạp với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức
kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Tính chất đan
xen, phức tạp và lâu dài của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta biểu hiện
rõ nét ở đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với
nhiều thành phần kinh tế dựa trên các hình thức sở hữu khác nhau.
Năm là, những thành tựu đã đạt được qua 35 năm đổi mới đã khẳng định con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với khát vọng của dân tộc và xu thế phát
triển của thời đại.
Qua hơn 35 năm đổi mới, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã
đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật. Kinh tế
vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng được duy trì ở mức khá cao;
tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên. Công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng hệ thống chính trị được đặc biệt chú trọng, đạt
nhiều kết quả tích cực. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng
phí chuyển biến mạnh mẽ, có bước đột phá, được tiến hành quyết liệt, có hiệu quả,
ngày càng đi vào chiều sâu, gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Chính trị - xã
hội ổn định; quốc phòng, an ninh không ngừng được củng cố, kiên quyết, kiên trì
đấu tranh giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; quan hệ
đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và hiệu quả; vị thế, uy tín của
Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 77-
78). Những thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát
triển, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta phù hợp với khát
vọng của dân tộc, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

3. KẾT LUẬN
Từ những trình bày trên có thể khẳng định sự lựa chọn con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta là hoàn toàn đúng đắn, đã được Đảng ta khẳng định: “Đi
lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng

608
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011b, 13).
Những thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, của 30 năm thực hiện
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, đặc biệt,
của 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã tiếp tục khẳng định
“con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam
và xu thế phát triển của thời đại” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 104).

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (1995a). Toàn tập (Vol. 4). Chính trị quốc gia.
[2]. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập (Vol. 19). (1995b). Chính trị quốc gia.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011a). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Chính trị quốc gia.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011b). Về những điểm mới của Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).
Chính trị quốc gia.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
(Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[6]. Hồ, C. M. (2011a). Hồ Chí Minh toàn tập (Vol. 2). Chính trị quốc gia - Sự thật.
[7]. Hồ, C. M. (2011b). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 3). Chính trị quốc gia.
[8]. Hồ, C. M. (2011c). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 12). Chính trị quốc gia.
[9]. Hồ, C. M. (2011d). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 14). Chính trị quốc gia.
[10]. Hồ, C. M. (2011e). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 15). Chính trị quốc gia.
[11]. Lênin, V. I. (1977). Toàn tập (Vol. 39). Tiến bộ.
[12]. Trần, D. T. (1976). Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch. Sự thật.

609
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

GIÁ TRỊ THỜI ĐẠI CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Nguyễn Thị Thanh Xuân
Trường Đại học Kỹ thuật Y - Dược Đà Nẵng
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Thanh Xuân, email: ntthanhxuan@dhktyduocdn.edu.vn

Tóm tắt: Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã đi xa hơn 50 năm, song đối với dân tộc
Việt Nam, Người vẫn đồng hành với chúng ta trên con đường xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu chung,
đặc biệt hưởng ứng cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 trong quá trình hội nhập và phát
triển. Trong quá trình xây dựng tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Người đã rất trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin,
kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo, phù hợp với điều kiện lịch sử và hoàn cảnh
cụ thể của nước ta. Đó là hệ thống quan điểm, tư tưởng khoa học về chủ nghĩa xã hội:
quan niệm về chủ nghĩa xã hội, tính tất yếu, đặc trưng cơ bản, mục tiêu, nội dung,
động lực, tính chất, đặc điểm, nhiệm vụ, nguyên tắc và con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có giá trị thời đại sâu sắc, đã, đang và sẽ soi
đường cho cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội,
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế.
Từ khóa: tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ nghĩa xã hội; quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam; giá trị lý luận và thực tiễn; giá trị thời đại.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hiến dâng tất cả những gì có thể của cuộc đời mình
cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, dân tộc, nhân dân ta và bạn bè quốc tế. Tên
tuổi và sự nghiệp của Người sống mãi trong lòng nhân dân ta và trong trái tim nhân
loại. Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta một tài sản tinh thần vô
cùng to lớn và quý báu trong đó có tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

610
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Mặc dù hiện nay, thực tế nước ta và thế giới đã và đang có những thay đổi sâu
sắc, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam vẫn còn nguyên giá trị đối với dân tộc và thời đại, điều đó
được thể hiện trong nhiều văn kiện của Ðảng và Nhà nước cũng như nhân dân ta.
Tiếp thu, kế thừa, vận dụng và phát triển học thuyết Mác - Lênin ở Việt Nam,
Hồ Chí Minh đã đưa ra một hệ thống quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam gồm rất nhiều nội dung nhưng trong phạm
vi bài viết này, tác giả trình bày một số vấn đề về tính tất yếu, nhận thức về chủ
nghĩa xã hội, cách tiếp cận chủ nghĩa xã hội, quan niệm về bản chất, mục tiêu, nội
dung, động lực, các phản động lực (trở lực), con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
phương thức, biện pháp tiến hành chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

2. NỘI DUNG
Một là, tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Theo Hồ Chí Minh: Tiến lên chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu ở Việt
Nam sau khi đất nước đã dành được độc lập sẽ đi theo con đường cách mạng vô sản.
Con đường cách mạng của dân tộc Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội - một sự lựa chọn đúng đắn của Hồ Chí Minh và thực tế đã chứng
minh con đường phát triển đó là tất yếu, duy nhất đúng, phù hợp với điều kiện của
Việt Nam và xu thế tất yếu của thời đại.
Trong tác phẩm Hồ Chí Minh toàn tập, (tái bản 2011), cho thấy từ năm 1953
Hồ Chí Minh khẳng định: Tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đường
khác nhau. Có nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội như Liên Xô. Có nước thì
phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội như các nước Đông
Âu, Trung Quốc, Việt Nam ta (Hồ, 2011e, 293).
Lịch sử xã hội loài người phát triển qua các chế độ: công xã nguyên thủy, chiếm
hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa;
nhưng tùy vào hoàn cảnh cụ thể mà các nước chọn lựa theo con đường khác nhau,
thực tế có hai phương thức: hoặc là đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước tư bản chủ
nghĩa như Liên Xô hoặc là bỏ qua một hay một vài chế độ xã hội như các nước Đông
Âu, Trung Quốc, Việt Nam.

611
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Trong tác phẩm Hồ Chí Minh toàn tập (tái bản 2011), khẳng định: Trong điều
kiện một đất nước với chế độ phong kiến kéo dài, chế độ thuộc địa nửa phong kiến
tàn phá thì “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người
không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm
no trên quả đất, và làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh
phúc… (Hồ, 2011a, 461).
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở vững chắc cho việc lựa chọn con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam là do điều kiện lịch sử
khách quan của xã hội Việt Nam quyết định, vừa là một tất yếu của lịch sử xã hội
Việt Nam trong thời đại ngày nay, vừa đáp ứng được khát vọng của nhân dân trong
quá trình đấu tranh tự giải phóng mình. Mặt khác, sự phát triển của xã hội Việt
Nam luôn chịu sự tác động qua lại với thế giới và không nằm ngoài dòng chảy cách
mạng chung của thời đại.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021) khẳng định: “đất nước
đang đứng trước nhiều thời cơ và thách thức đan xen, nhiều vấn đề về chiến lược
mới đặt ra cần phải giải quyết, từ tình hình quốc tế, khu vực…” (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 2021a, 8). Nhưng “với định hướng đúng đắn, khát vọng phát triển mạnh
mẽ và quyết tâm chính trị cao, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nhất định sẽ lập
nên thành tựu phát triển vì một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, cùng tiến
bước, sánh vai với các cường quốc năm châu, thực hiện thành công tâm nguyện của
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước nguyện của toàn dân tộc ta (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 2021a, 11).
Hai là, quan niệm (nhận thức) của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội:
Trong tác phẩm Hồ Chí Minh toàn tập (tái bản 2011), Hồ Chí Minh cho rằng:
“Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng,
làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”,
là “làm sao cho dân giàu, nước mạnh” (Hồ, 2011i, 390, 2011g, 415), quan niệm này
rất mộc mạc và dễ hiểu.
So sánh với các chế độ xã hội đã tồn tại trong lịch sử ta thấy được sự khác nhau
về bản chất của chủ nghĩa xã hội với các chế độ khác. Trong tác phẩm Hồ Chí Minh

612
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

toàn tập (tái bản 2011), Hồ Chí Minh cho rằng: Trong xã hội giai cấp bóc lột thống
trị, chỉ có lợi ích cá nhân của một số rất ít người thuộc giai cấp thống trị là được thỏa
mãn, còn lợi ích cá nhân của quần chúng lao động thì bị giày xéo. Trái lại, trong chế
độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là chế độ nhân dân lao động làm chủ, thì
mỗi người là một bộ phận của tập thể, giữ một vị trí nhất định và đóng góp một
phần công lao trong xã hội. Cho nên lợi ích cá nhân là nằm trong lợi ích của tập thể,
là một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập thể được bảo đảm thì lợi
ích riêng của cá nhân mới có điều kiện được thỏa mãn (Hồ, 2011h, 610).
Như vậy, Hồ Chí Minh cho rằng chủ nghĩa xã hội là xã hội ở giai đoạn đầu
của chủ nghĩa cộng sản. Mặc dù còn tồn đọng tàn dư của xã hội cũ nhưng chủ nghĩa
xã hội không còn áp bức, bóc lột, xã hội do nhân dân lao động làm chủ, trong đó
con người sống ấm no, tự do, hạnh phúc, quyền lợi của cá nhân và tập thể vừa thống
nhất, vừa gắn bó chặt chẽ với nhau.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021) nêu rõ: “Giải quyết hài
hòa các quan hệ lợi ích giữa các giai tầng trong xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam,
2021a, 50), đồng thời “Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong
chiến lược phát triển đất nước” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 51). Sau 35 năm
đổi mới đất nước, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã chú trọng:
“Phát triển toàn diện con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội”, “từng bước hoàn thiện đồng bộ và thực hiện
có hiệu quả chính sách xã hội…”, “bảo đảm cơ bản an sinh xã hội, quan tâm nâng
cao phúc lợi xã hội cho người dân…”, “tiếp tục cải thiện chính sách tiền lương; mở
rộng bảo hiểm xã hội; tỷ lệ bảo hiểm y tế đạt trên 90%” và “đời sống nhân dân được
cải thiện rõ rệt” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 65).
Ba là, cách tiếp cận chủ nghĩa xã hội: Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội
với nhiều cách khác nhau thể hiện rõ sự đa dạng và sáng tạo.
Thứ nhất, Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội khoa học từ khát vọng cứu
nước, giải phóng dân tộc và lập trường chủ nghĩa yêu nước chân chính. Điều này
cho thấy nhận thức chủ nghĩa xã hội đầu tiên là chủ nghĩa yêu nước chân chính.
Trong tác phẩm Hồ Chí Minh toàn tập (tái bản 2011), đã thể hiện rõ nhận định
của Hồ Chí Minh: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào

613
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

khác con đường cách mạng vô sản” (Hồ, 2011f, 314) vì đó là cuộc cách mạng triệt
để nhất, sâu sắc nhất và toàn diện nhất trong lịch sử.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, năm 1930 cũng xác định: “Làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi đến xã hội cộng sản” (Hồ, 2011b, 1).
Trong kho tàng tư tưởng Hồ Chí Minh, hạt nhân cốt lõi là tư tưởng về độc lập
dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, suy cho cùng chính là độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, đây là con đường cứu nước của Người và cũng là bài học bách
chiến bách thắng của cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng. Trong tác phẩm Hồ Chí
Minh toàn tập, (tái bản 2011), xác định: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền
với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi
ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm” (Hồ, 2011f, 173).
Thứ hai, Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ đạo đức nhằm mục đích
hướng tới giá trị nhân đạo, nhân văn vì con người.
Kế thừa quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: Sự phát triển tự do
của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người, Hồ Chí
Minh đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội đáp ứng mục tiêu vì con
người, cho con người, về vấn đề này thể hiện rõ tính nhân văn sâu sắc.
Khi tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ đạo đức, trong tác phẩm Hồ Chí Minh toàn tập
(tái bản 2011), nhắc nhở: “Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình,
có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình nghĩa thì sao gọi là hiểu
chủ nghĩa Mác - Lênin được” (Hồ, 2011c, 668), làm được như thế mới có đạo đức
cách mạng. Đồng thời Hồ Chí Minh đưa ra luận điểm “Muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Như vậy, ngay từ đầu cần đặt ra
nhiệm vụ xây dựng con người có những phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho con người
mới xã hội chủ nghĩa, làm gương, có tư tưởng, tác phong xã hội chủ nghĩa. Mỗi
bước xây dựng những con người như vậy thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa
“xây dựng chủ nghĩa xã hội” và “con người xã hội chủ nghĩa”, là một nấc thang
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội việc giáo dục, rèn luyện đạo đức
cho cán bộ, đảng viên và mỗi người dân Việt Nam có tầm quan trọng đặc biệt và đi
đôi với vấn đề này là tăng cường đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân dưới mọi hình
thức. Vận dụng quan điểm này Đảng ta ra sức giáo dục, rèn luyện đạo đức cho cán
614
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

bộ, Đảng viên, nhân dân, kiên trì, kiên quyết thực hiện tốt Nghị quyết TƯ 4 khóa XI
về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” góp phần đẩy lùi, hạn chế
những tiêu cực, sai trái để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước và đem lại niềm tin cho nhân dân.
Thứ ba là Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ văn hóa.
Với một nền văn minh nông nghiệp lúa nước, chế độ ruộng công, nước ta là
nơi có thiên tai khắc nghiệt nên rất cần có sự đoàn kết, cố kết cộng đồng để tạo nên
sức mạnh, cùng nhau khắc phục hậu quả của thiên tai. Hiện nay, dưới ánh sáng tư
tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa truyền thống đoàn kết của cha ông, chúng ta cùng
nhau đoàn kết, đồng thuận ý Đảng lòng dân để chống lại nghèo nàn, lạc hậu, thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chống lại dịch
bệnh, chống lại những tiêu cực sai trái để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, văn hóa có quan hệ
mật thiết với chính trị, kinh tế, xã hội - là quá trình xây dựng một nền văn hóa có sự
kết tinh, kế thừa, phát triển những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc,
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, kết hợp dân tộc và quốc tế, truyền thống với
hiện đại.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021) khẳng định: “Kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 33).
Những thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, đặc biệt trong
10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã tiếp tục khẳng định
đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử là kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu
thế phát triển của thời đại (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 104).
Bốn là, các đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội:
Kế thừa quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn cách mạng Việt
Nam, Hồ Chí Minh đưa ra các đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội về chính trị,
kinh tế, văn hóa đạo đức và các quan hệ xã hội, chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội,
cụ thể là:
615
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

- Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội có chế độ dân chủ.


Trong tác phẩm Hồ Chí Minh toàn tập (tái bản 2011), khẳng định: Chế độ dân
chủ trong xã hội xã hội chủ nghĩa được thể hiện trước hết là xã hội do nhân dân làm
chủ, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, địa vị cao
nhất là nhân dân. Nhà nước là của dân, do dân và vì dân. Mọi quyền lợi, quyền lực,
quyền hạn thuộc về nhân dân và mọi hoạt động xây dựng, bảo vệ đất nước, bảo vệ
chế độ xã hội cũng thuộc về nhân dân (Hồ, 2011j, 10).
Qua đặc trưng chính trị trong xã hội xã hội chủ nghĩa cho thấy tính nhân văn
cao cả của Hồ Chí Minh, mặt khác Người nhận thức rất sâu sắc về sức mạnh, địa vị
và vai trò của nhân dân; về sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội khi Đảng lãnh đạo
dựa vào nhân dân, huy động được nhân lực, tài lực, trí lực của nhân dân để đem lại
lợi ích cho nhân dân.
- Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lựơng
sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Trong tác phẩm Hồ Chí Minh toàn tập (tái bản 2011), cho rằng: Lực lượng sản
xuất hiện đại trong chủ nghĩa xã hội biểu hiện: Công cụ lao động, phương tiện lao
động trong quá trình sản xuất “đã phát triển dần đến máy móc, sức điện, sức
nguyên tử”. Quan hệ sản xuất trong xã hội xã hội chủ nghĩa được Hồ Chí Minh diễn
đạt là: Lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng,... làm của chung; là tư liệu sản xuất thuộc
về nhân dân. Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không
ăn, tất nhiên trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con (Hồ, 2011g, 390). Đây là tư
tưởng Hồ Chí Minh về chế độ công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu và thực hiện
nguyên tắc phân phối: làm theo năng lực hưởng theo lao động trong xã hội xã hội
chủ nghĩa. Với ý nghĩa này mang lại giá trị lý luận cũng như thực tiễn cao, được thể
hiện rõ trong quan niệm của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
- Xã hội xã hội chủ nghĩa có trình độ phát triển cao về văn hoá và đạo đức, bảo đảm sự
công bằng, hợp lý trong các quan hệ xã hội.
Sự phát triển cao về văn hóa và đạo đức của xã hội xã hội chủ nghĩa thể hiện:
xã hội không còn người bóc lột người; con người được tôn trọng, được bảo đảm đối
xử công bằng, bình đẳng và các dân tộc đoàn kết, gắn bó với nhau.
Trong tác phẩm Hồ Chí Minh toàn tập (tái bản 2011), Hồ Chí Minh khẳng định:
Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới “chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo
616
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

đảm cho nó được thỏa mãn” (Hồ, 2011h, 610); “chỉ ở trong chế độ xã hội chủ nghĩa
thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính
cách riêng và sở trường riêng của mình” (Hồ, 2011h, 610).
Như vậy, chủ nghĩa xã hội là cơ sở, là tiền đề để tiến tới chế độ xã hội hòa bình,
đoàn kết, ấm no, tự do, hạnh phúc, bình đẳng, bác ái, vì con người. Chủ nghĩa xã
hội bảo đảm tính công bằng và hợp lý trong các quan hệ xã hội. Đấy là xã hội đem
lại quyền bình đẳng trước pháp luật cho mỗi công dân; mọi cộng đồng người đoàn
kết chặt chẽ trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ; ai cũng phải lao động
và ai cũng có quyền lao động (Hồ, 2011i, 377), ai cũng được hưởng thành quả lao
động của mình trên nguyên tắc làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít thì hưởng ít,
không làm thì không hưởng, tất nhiên là trừ những người chưa có khả năng lao
động hoặc không còn khả năng lao động (Hồ, 2011g, 390).
- Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản.
Trong tác phẩm Hồ Chí Minh toàn tập (tái bản 2011) cho rằng: Trong chế độ xã
hội chủ nghĩa, nhân dân là chủ thể, là lực lượng quyết định tốc độ xây dựng và sự
vững mạnh của chủ nghĩa xã hội (Hồ, 2011d, 232).
Với những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh
chính là cơ sở quan trọng cho việc Đảng ta xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội cho
phù hợp với điều kiện khách quan và thực tiễn phong phú dưới tác động của xu thế
toàn cầu hóa, hội nhập và đặc biệt là ảnh hưởng bởi cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ tư. Trong tác phẩm Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (2021), đồng chí Nguyễn Phú Trọng khẳng
định: Chúng ta xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa với giá trị cốt lõi, bền vững và tốt
đẹp mà nhân loại hướng tới là: một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì
con người; sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội; một xã
hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn; sự
phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong
lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai; một hệ thống chính trị mà quyền lực thực
sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân. Đây cũng
chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhân dân ta
đã lựa chọn và phấn đấu thực hiện (Nguyễn, 2021, 9).

617
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Như vậy, mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh” là xuất phát từ quan niệm của Hồ Chí Minh về bản chất của chủ nghĩa xã
hội. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng ta đã thông qua Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)
thể hiện rõ quan niệm của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội với 8 đặc trưng của mô hình
xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng. Đó là kết quả của quá trình đổi
mới tư duy và nhận thức lại một cách đúng đắn quan niệm về chủ nghĩa xã hội dưới
ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng ta (2021) khẳng
định: Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm
1991), lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 2021b, 322).
Năm là, mục tiêu, nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội:
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng thành công chế độ
chính trị mới do Đảng cộng sản lãnh đạo và phải giữ vững sự lãnh đạo của Đảng,
nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dân là chủ và làm chủ, một xã
hội bình đẳng. Xây dựng một nền kinh tế có công, nông nghiệp hiện đại, khoa học
kỹ thuật tiên tiến, nhằm đem lại năng suất cao, trong thời kỳ quá độ cần phải thực
hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa góp phần “làm cho người nghèo thì đủ ăn,
người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm”. Trong kinh tế thực hiện
quan hệ phân phối theo nguyên tắc làm theo năng lực, hưởng theo lao động, bước
đầu Hồ Chí Minh đề cập đến vấn đề khoán trong sản xuất. Trong tác phẩm Hồ Chí
Minh toàn tập (tái bản 2011) cho rằng: Chế độ làm khoán là một điều kiện của chủ
nghĩa xã hội, nó khuyến khích người công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến
bộ. Làm khoán là ích chung và lại lợi riêng…; làm khoán tốt thích hợp và công bằng
dưới chế độ ta hiện nay (Hồ, 2011e, 344).
Về cơ cấu các thành phần kinh tế, Hồ Chí Minh chủ trương phát triển cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần, cụ thể là 5 thành phần: kinh tế quốc doanh, kinh tế hợp
tác xã, kinh tế cá nhân, nông dân, thủ công nghệ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư
bản nhà nước. Đồng thời, xác định vị trí và xu hướng vận động của từng thành phần
618
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

kinh tế. Ưu tiên phát triển kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa
xã hội. Xây dựng một nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa có tính chất “dân tộc, khoa
học, đại chúng” góp phần “sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ”,
“soi đường cho quốc dân đi”. Xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa có tư tưởng,
tác phong xã hội chủ nghĩa, có đạo đức, năng lực làm chủ để thực hiện tốt nhiệm
vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là những cơ sở rất
quan trọng để Đảng ta hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách qua các thời
kỳ của cách mạng Việt Nam.
Về vấn đề này, sau 10 năm thực hiện cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011)
và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã tạo những bước
tiến quan trọng. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021) của Đảng
ta khẳng định: “Mục tiêu, đặc trưng, những phương hướng cơ bản và những quan
hệ lớn mang tính quy luật trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc tiếp tục được bổ sung, cụ thể hóa, phát triển với những nhận thức quan trọng
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 99).
Sáu là, động lực (nội lực và ngoại lực) của chủ nghĩa xã hội:
Trong nội lực Hồ Chí Minh quan niệm động lực quan trọng và quyết định
nhất chính là con người mà cụ thể là nhân dân lao động trong đó nòng cốt là công
nhân - nông dân - trí thức. Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành
công của sự nghiệp cách mạng, xét trên hai bình diện cá nhân và cộng đồng, đối với
sự nghiệp giải phóng con người, Người đặc biệt phải quan tâm tới giải phóng phụ
nữ vì họ là một nửa xã hội: “Nếu không giải phóng được phụ nữ là xây dựng chủ
nghĩa xã hội chỉ một nữa”. Điều này thể hiện tầm văn hóa, nhãn quan chính trị rộng
lớn cũng như chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Mặt khác, để phát huy động lực
con người phải phát huy sức mạnh đoàn kết của cả cộng đồng dân tộc. Sự nghiệp
cách mạng, xây dựng chủ nghĩa xã hội là công sức đóng góp của tất cả các dân tộc
anh em dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Động lực về kinh tế, góp
phần phát triển sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất, làm cho
mọi người, mọi nhà trở nên giàu có, ích quốc lợi dân, gắn liền với phát triển kinh tế
- kỹ thuật, kinh tế - xã hội, đây là động lực được Hồ Chí Minh rất coi trọng. Nhóm
động lực văn hóa, khoa học, giáo dục, pháp luật đạo đức… đây là những động lực tinh
thần không thể thiếu của chủ nghĩa xã hội.
619
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Bên cạnh nội lực, theo Hồ Chí Minh để phát huy sức mạnh tổng hợp trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội cần phải kết hợp với ngoại lực, đó là: phải kết hợp được với
sức mạnh thời đại; tăng cường đoàn kết quốc tế; gắn chủ nghĩa yêu nước với chủ
nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân và sử dụng những thành quả khoa học - kỹ
thuật của thế giới… Giữa nội lực và ngoại lực, ngoại lực là rất quan trọng nhưng
nội lực là yếu tố quyết định nhất. Thực hiện quan điểm này, chúng ta luôn nêu cao
tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực cánh sinh là chính; đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ,
ủng hộ, hợp tác quốc tế. Tăng cường kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại để tạo ra sức mạnh tổng hợp đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII ( 2021), Đảng ta khẳng định:
“Phát huy nhân tố con người, lấy nhân dân làm trung tâm”, xây dựng “Kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình phát triển tổng quát của nền kinh
tế Việt Nam” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 99). “Hoàn thiện và nhận thức sâu
sắc hơn đường lối đối ngoại, độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa
phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại…; chú trọng nâng cao hiệu quả hội
nhập quốc tế trong tình hình mới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 101). Kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động,
tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực,
tranh thủ ngoại lực trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là
quan trọng nhất (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 110-111).
Song song với việc xác định động lực, Hồ Chí Minh đã phát hiện và đưa ra
những trở lực (lực cản, phản lực) của chủ nghĩa xã hội, đây là nét độc đáo trong
phong cách tư duy Hồ Chí Minh, đó là: bệnh thoái hoá, biến chất của cán bộ; chủ
nghĩa cá nhân; tham ô lãng phí; chia bè phái mất đoàn kết nội bộ; chủ quan, bảo
thủ, giáo điều; lười biếng... Người cho rằng các căn bệnh trên sẽ phá hoại đạo đức
cách mạng, làm suy giảm uy tín và ngăn trở sự nghiệp cách mạng của Đảng, làm
cho chủ nghĩa xã hội trở nên xơ cứng, không có sức hấp dẫn, và đó chính là giặc nội
xâm. Để xây dựng chủ nghĩa xã hội, khai thông những động lực của chủ nghĩa xã
hội thì cần nhận diện, khắc phục, đấu tranh chống lại những phản động lực. Thật
vậy, sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không nằm ngoài cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ
nghĩa cá nhân, nhưng đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không có nghĩa là dày

620
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

xéo lên lợi ích cá nhân. Vì trong chủ nghĩa xã hội, lợi ích cá nhân chính đáng cần
được tôn trọng và bảo vệ. Đó là cơ sở lý luận rất quan trọng để Đảng ta kiên quyết,
kiên trì thực hiện tốt Nghị quyết TƯ4 khóa XI.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII ( 2021) Đảng ta khẳng định:
“Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí” (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 2021a, 193) và “xử lý nghiêm minh, kịp thời những hành vi
tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng, cản trở việc
chống tham nhũng, lãng phí, không có vùng cấm, không có ngoại lệ” (Đảng Cộng
sản Việt Nam, 2021a, 194). “Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm
toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, xử lý nghiêm minh các vụ việc…” (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 2021a, 195).
Bảy là, con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Hồ Chí Minh cho rằng nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội với hình thái quá độ
gián tiếp từ một xã hội thuộc địa nửa phong kiến tiến lên chủ nghĩa xã hội. Về vấn đề này
Người đã cụ thể và làm phong phú thêm lý luận Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Song song với việc xác định con đường, Hồ Chí Minh đã có những bước sáng
tạo trong việc xác định nguyên tắc có tính phương pháp luận như: Xây dựng chủ
nghĩa xã hội là một hiện tượng phổ biến mang tính quốc tế, cần quán triệt các
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, có thể tham khảo, học tập các nước
anh em, nhưng phải vận dụng một cách sáng tạo. Việc xác định bước đi và biện
pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ yếu xuất phát từ điều kiện thực tế, đặc điểm
dân tộc, nhu cầu và khả năng thực tế của nhân dân; nêu phương châm thực hiện
bước đi trong xây dựng chủ nghĩa xã hội là: dần dần, thận trọng từng bước một, từ
thấp đến cao, không chủ quan nôn nóng; việc xác định bước đi phải luôn luôn căn
cứ vào các điều kiện khách quan. Sinh thời Người nhắc nhở rằng, bước ngắn, bước
dài là tùy theo hoàn cảnh, chớ ham làm mau, ham rầm rộ. Trong tác phẩm Hồ Chí
Minh nhà tư tưởng lỗi lạc (2009), tác giả Song Thành khẳng định: “xây dựng chủ
nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, không thể một sớm, một chiều,
phải trải qua nhiều bước, nhưng đi bước nào vững chắc bước ấy, cứ tiến dần dần”
(Song, 2005, 587). Đây là cơ sở lý luận quan trọng để Đảng ta nhận thức và chỉ đạo thực
tiễn. Trong tác phẩm Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
621
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (2021), đồng chí Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “càng
đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức được rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu
sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội” (Nguyễn, 2021, 25).
Về biện pháp tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đưa ra nhiều
biện pháp khác nhau nhưng có hai biện pháp có giá trị rất lớn đó là: Xây dựng chủ
nghĩa xã hội phải có kế hoạch, biện pháp, quyết tâm và đem của dân, tài dân, sức
dân, làm lợi cho dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Đây là hai biện
pháp cơ bản, quyết định lâu dài trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Để thực
hiện được hai biện pháp này cần phải coi trọng khâu tổ chức thực hiện, chẳng hạn
“chỉ tiêu 1, biện pháp 10, quyết tâm 20…”.
Như vậy, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với đặc điểm lớn nhất
là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa trong điều kiện xuất phát điểm thấp, chiến tranh kéo
dài, bước vào thời kỳ quá độ trong điều kiện đất nước bị chia cắt nhưng với những
quan điểm, tư tưởng, cách tiếp cận mới về chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh ở Việt
Nam đã được khẳng định, kế thừa, vận dụng và phát triển trong sự nghiệp đổi mới ở
nước ta và cách làm của chủ nghĩa xã hội ở bối cảnh thế giới hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam bao quát những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất trên cơ sở kế thừa,
vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và điều kiện thực tiễn của
nước ta. Tư tưởng đó trở thành tài sản vô giá, cơ sở lý luận và kim chỉ nam cho việc
xây dựng, kiên trì giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta, bên cạnh đó
gợi mở nhiều vấn đề xác định hình thức, biện pháp và bước đi lên chủ nghĩa xã hội
phù hợp với những đặc điểm dân tộc và xu thế vận động của thời đại ngày nay.
Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là vấn đề lý luận và thực tiễn rất quan trọng, liên quan
trực tiếp đến đường lối chính trị của Đảng, phương hướng phát triển của đất nước.
Từ đó Đảng ta tiếp tục tìm tòi, ngày càng làm sáng tỏ hơn về chủ nghĩa xã hội và
con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

622
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

Đảng ta ngay từ khi mới ra đời và trong suốt tiến trình cách mạng luôn khẳng
định: chủ nghĩa xã hội là lý tưởng, mục tiêu của Đảng và nhân dân ta; tiến lên chủ
nghĩa xã hội là tất yếu khách quan của cách mạng Việt Nam.
Văn kiện Đảng toàn tập, (2002) khẳng định: “bỏ qua thời kỳ tư bổn chủ nghĩa mà
tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2002b, 94).
Thực tế, đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được xác định một
cách có hệ thống tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (năm 1960), Văn
kiện Đảng toàn tập (2000) xác định: “… đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững
chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và cũng cố
miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất
nước nhà” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2002a, 922). Với đường lối này với nhiều phong
trào thi đua sôi nổi đã phát huy được tinh thần cần kiệm, tự lực tự cường xây dựng
chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta. Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng với Đảng ta vận dụng, phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin đã hoạch định ra đường lối, lãnh đạo nhân dân ta xây dựng Đảng
vững mạnh, cũng cố chính quyền của dân, do dân, vì dân, đẩy mạnh phát triển kinh tế
- xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng nền văn hóa, con
người xã hội chủ nghĩa… làm cho miền Bắc ngày càng vững mạnh, trở thành hậu
phương vững chắc cho tiền tuyến miền Nam. Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng ta
lần thứ IV (1976) với khẩu hiệu “Tất cả vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân
dân” đã đề ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Báo cáo chính
trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV (1976)
khẳng định: Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân
dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất,
cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng
khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm
vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể
xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa
mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa… (Đảng cộng sản Việt Nam, 1976, 67).
Đại hội VI (1986) tiếp tục thực hiện đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cùng
với việc khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện trên tất cả các các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội… trước hết tập trung vào lĩnh vực trọng tâm là kinh tế,

623
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

đổi mới tư duy, nhận thức, hoạt động thực tiễn của Đảng, Nhà nước và nhân dân
ta, Đại hội đã mở ra một bước chuyển cơ bản cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Đặc biệt Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng ta lần thứ VII (1991),
Đảng ta đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, đã nêu ra sáu đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội về các lĩnh vực: chính
trị, kinh tế, văn hóa, con người, dân tộc, quốc tế. Nếu như trong Cương lĩnh thành
lập Đảng (1930) và Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam (1951) của Đảng,
chủ nghĩa xã hội được nêu ra mới là mục tiêu, lý tưởng thì trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) chủ nghĩa xã hội
vừa là mục tiêu trực tiếp, vừa là hoạt động thực tiễn rộng lớn của toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân ta để thực hiện mục tiêu đó. Cuốn sách Về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (2003), tác giả Nguyễn Đức Bình khẳng định:
“đây thực sự là một bản phác họa đầu tiên về một mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, thay thế cho mô hình chủ nghĩa xã hội theo kiểu cũ đã được thực hiện ở nước
ta trong nhiều năm trước” (Nguyễn, 2003, 141). Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng
ta lần thứ VIII (1996) đã kế thừa các quan điểm về xây dựng chủ nghĩa xã hội của
các Đại hội trước, trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) khẳng
định: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ
hơn” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996, 67). Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng ta
lần thứ IX (2001), đã làm sáng tỏ, bổ sung thêm các vấn đề về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI
(2011) trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) đã làm rõ hơn mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội của
nước ta qua 8 đặc trưng cơ bản trên các lĩnh vực và khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa
xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng cộng sản
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 70).
Đặc biệt, giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là cơ sở lý luận quan trọng cho Đảng ta hoạch
định đường lối, chủ trương, mục tiêu, phương hướng, nội dung, bước đi, biện pháp
xây dựng chủ nghĩa xã hội qua các thời kỳ, đặc biệt được thể hiện rõ trong Văn kiện
Đại hội Đại biểu lần thứ XIII (2021) của Đảng ta nhấn mạnh: Qua 35 năm tiến hành

624
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước
được hiện thực hóa. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới (Đảng Cộng
sản Việt Nam, 2021a, 25).
Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, đặc biệt là 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại
hội XII, Đảng ta đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm quý báu, 5 quan điểm chỉ đạo, đề
ra mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể đến năm 2025, 2030, và 2045, thực hiện
tốt 6 nhiệm vụ trọng tâm và 3 đột phá chiến lược. Với hướng đi đúng đắn, khát
vọng phát triển mãnh liệt và quyết tâm chính trị cao, đất nước ta nhất định sẽ lập
nên kỳ tích phát triển mới vì một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, cùng tiến
bước, sánh vai với các cường quốc năm châu, thực hiện thành công tâm nguyện của
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng của toàn dân tộc ta (Đảng Cộng sản Việt
Nam, 2021a, 205).

3. KẾT LUẬN
Từ thực tiễn cách mạng nước ta, trong cuốn sách Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam (2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng khẳng định: Mỗi thắng lợi và bước đi lên của cách mạng Việt Nam đều gắn
liền với công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự soi đường, dẫn dắt của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Trong sự nghiệp đổi mới, trước bao diễn biến phức tạp của
tình hình thế giới với những khó khăn ở trong nước, Đảng ta đã kiên định chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng và phát triển sáng tạo vào thực tiễn
đất nước và đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Từ một nước
nghèo và lạc hậu, Việt Nam đã vươn lên trở thành một nước đang phát triển, có thu
nhập trung bình. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín
quốc tế như ngày nay; có thêm nhiều điều kiện, tiền đề thuận lợi để vững bước trên
con đường mà Đảng ta, nhân dân ta và Bác Hồ kính yêu đã lựa chọn. Thành tựu
của 35 năm đổi mới đã khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta dựa trên nền tảng
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là đúng đắn, sáng tạo phù hợp với
thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại (Nguyễn, 2021, 237-238).

625
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Hiện nay, chúng ta đang xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện, bối cảnh
trong nước và quốc tế có nhiều thay đổi so với trước nhưng những nội dung cơ bản
của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam cùng với toàn bộ di sản tư tưởng của Người vẫn là cơ sở thế giới
quan, phương pháp luận, mãi mãi là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho sự nghiệp
đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay và mai sau. Nhiệm vụ quan trọng của
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta là không ngừng sáng tạo để tìm ra những cách
thức, bước đi, cách làm phù hợp với tình hình mới, làm sống động tư tưởng Hồ Chí
Minh trước thực tiễn mới đồng thời góp phần làm phong phú thêm lý luận về chủ
nghĩa xã hội khoa học ở thời đại ngày nay vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ công bằng, văn minh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Đảng cộng sản Việt Nam. (1976). Báo cáo chính trị của BCH Trung ương Đảng tại
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Sự thật.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1996). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII. Chính trị quốc gia.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2002a). Văn kiện Đảng Toàn tập (Vol. 21). Chính trị
quốc gia.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2002b). Văn kiện Đảng toàn tập (Vol. 2). Chính trị
quốc gia.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Chính trị quốc gia.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021a). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật.
[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021b). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII (Vol. 2). Chính trị quốc gia Sự thật.
[8]. Hồ, C. M. (1995). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 8). Chính trị quốc gia.
[9]. Hồ, C. M. (2002). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 9). Chính trị quốc gia.
[10]. Hồ, C. M. (2011a). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 1). Chính trị quốc gia.
[11]. Hồ, C. M. (2011b). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 3). Chính trị quốc gia.

626
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN”

[12]. Hồ, C. M. (2011c). Hồ Chí Minh toàn tập (Vol. 5). Chính trị quốc gia.
[13]. Hồ, C. M. (2011d). Hồ Chí Minh toàn tập (Vol. 6). Chính trị quốc gia.
[14]. Hồ, C. M. (2011e). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 8). Chính trị quốc gia.
[15]. Hồ, C. M. (2011f). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 9). Chính trị quốc gia.
[16]. Hồ, C. M. (2011g). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 10). Chính trị quốc gia.
[17]. Hồ, C. M. (2011h). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 11). Chính trị quốc gia.
[18]. Hồ, C. M. (2011i). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 12). Chính trị quốc gia.
[19]. Hồ, C. M. (2011j). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 13). Chính trị quốc gia Sự thật.
[20]. Nguyễn, Đ. B. (2003). Về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Chính trị quốc gia.
[21]. Nguyễn, P. T. (2021). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính trị quốc gia Sự thật.
[22]. Song, T. (2005). Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc. Lý luận chính trị.

627
Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc gia
XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM:
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Tập 1

NHÀ XUẤT BẢN ĐÀ NẴNG


Số 03 - Đường 30 Tháng 4 - Q. Hải Châu - TP. Đà Nẵng
ĐT: 0236 3797814 - 3797823 Fax: 0236 3797875
www.nxbdanang.vn

Chịu trách nhiệm xuất bản:


Giám đốc: NGUYỄN THÀNH
Chịu trách nhiệm nội dung:
Tổng biên tập: NGUYỄN KIM HUY
Biên tập: NGUYỄN THỊ THANH THỦY
Bìa: TRẦM THỊ TRẠCH OANH

Liên kết xuất bản: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
Địa chỉ: 459 Tôn Đức Thắng - Quận Liên Chiểu - Thành phố Đà Nẵng

In 300 cuốn khổ 20,5 x 29,5 cm. In tại Công ty TNHH In ấn - QC&TM Thành Tín
Địa chỉ: 12 Nguyễn Phi Khanh, Phường Thạc Gián, Quận Thanh Khê, TP. Đà Nẵng
Số ĐKXB: 2034-2022/CXBIPH/4-63/ĐaN cấp ngày 20/6/2022
Số QĐXB: 630/QĐ-NXBĐaN Nhà xuất bản Đà Nẵng
Mã ISBN: 978-604-84-6722-7. In xong và nộp lưu chiểu Tháng 6/2022

You might also like