Professional Documents
Culture Documents
Chương 3. Utilitarianism and Maximin Criterion Theory
Chương 3. Utilitarianism and Maximin Criterion Theory
M E
N W2
W1
•M
E
•
•N
W3
W2
W1
0
Độ thoả dụng của nhóm A (UA)
Hình 3-4. Đường khả năng thoả dụng và phân phối PLXH tối ưu
Như vậy, mọi điểm nằm trên đường khả năng thoả dụng xã hội đều là những điểm đạt hiệu
quả Pareto, điểm nằm ngoài là vượt quá khả năng phúc lợi của xã hội nên không thể đạt tới, và
những điểm nằm bên trong là chưa đạt hiệu quả. Rõ ràng, khi có thêm ĐBQ xã hội, có thể thấy
rõ một điểm hiệu quả như M sẽ không được xã hội ưa thích bằng một điểm chưa hiệu quả N vì
điểm N nằm trên ĐBQ cao hơn tức là phản ánh mức PLXH lớn hơn.
Tất nhiên, điểm tối đa hoá PLXH là điểm E vì tại đó, đường khả năng thoả dụng của xã hội đã
tiếp xúc với ĐBQ cao nhất có thể đạt tới. Rõ ràng, một điểm phân phối PLXH tối ưu chắc chắn phải
là một điểm hiệu quả Pareto.
Đến đây, chúng ta đã có đủ các công cụ để phân tích một số lý thuyết nổi bật về phân phối lại
thu nhập và tối đa hoá PLXH.
3.2.1. Thuyết vị lợi
Thuyết vị lợi coi PLXH suy cho cùng chỉ phụ thuộc vào độ thỏa dụng cá nhân, được định
nghĩa là một thước đo về một số tính cách và sở thích của cá nhân như sự thỏa mãn, hài lòng
hay mong muốn. Thuyết này được xây dựng dựa trên quan điểm triết học về phúc lợi do Jeremy
Bentham đề xướng đầu thế kỷ 19.
Khi nghiên cứu phân phối thu nhập theo quan điểm của thuyết vị lợi ta dựa trên các giả
định sau:
• Các cá nhân có hàm thỏa dụng biên đồng nhất và chỉ phụ thuộc vào mức thu nhập của họ.
• Các hàm thỏa dụng biên này tuân theo qui luật mức thỏa dụng biên theo thu nhập giảm dần.
• Tổng mức thu nhập sẵn có là cố định và không thay đổi khi tiến hành phân phối lại.
Nội dung thuyết vị lợi cho rằng: PLXH chỉ phụ thuộc vào độ thỏa dụng của các cá nhân.
PLXH là tổng đại số độ thỏa dụng của tất cả các thành viên trong xã hội và mục tiêu của xã hội
là phải tối đa hóa tổng số đó. Nói cách khác, nếu có n cá nhân trong xã hội mà mức thỏa dụng
của người thứ i là Ui thì PLXH W là tổng mức thỏa dụng của các cá nhân. Nó còn được gọi là
hàm PLXH tổng.
n
W = U1 + U2 + ...+ Un = u i (3.6)
i =1
Độ thỏa dụng của nhóm B (UB)
c
d
O m a O'
b
Thu nhập của A Thu nhập của B
Hình 3-6. Phân phối thu nhập tối ưu theo thuyết vị lợi
Độ thỏa dụng biên của A được xác định trên trục tung bắt đầu từ O, của B được xác định từ
O’. Theo giả định thứ hai, độ thỏa dụng biên của A và B chỉ phụ thuộc vào thu nhập và có chiều
dốc xuống, được ký hiệu là MUA và MUB.
Giả sử điểm phân phối thu nhập ban đầu là a. Tại đây, A là người giàu và B là người
nghèo. Nếu chuyển ab đồng thu nhập từ A sang B thì tổng độ thoả dụng mà người A bị giảm đi
là diện tích nằm bên dưới đường MUA, hay diện tích abcd. Tuy nhiên, khi lượng thu nhập này
được chuyển cho người B thì độ thoả dụng của anh ta sẽ tăng thêm được diện tích nằm bên dưới
MUB, tức là diện tích abfe. Do cả hai đều có hàm thoả dụng biên giống nhau, và tuân theo qui
luật độ thoả dụng biên giảm dần, đồng thời tại điểm a, thu nhập của người A lớn hơn người B
nên chắc chắn đường MUA tại đây nằm bên dưới đường MUB, có nghĩa là việc chuyển giao thu
nhập từ A sang B sẽ làm tổng PLXH tăng thêm được diện tích gạch chéo cdef. Lập luận trên gợi
ý rằng: Chừng nào mà thu nhập còn chưa bằng nhau thì độ thỏa dụng biên cũng không bằng nhau
và tổng thỏa dụng (hay tổng PLXH) còn có thể được tăng lên bằng cách phân phối lại thu nhập
cho người nghèo hơn. Chỉ tại điểm m, tại đó thu nhập và độ thỏa dụng biên của cả hai đều bằng
nhau thì tổng PLXH mới đạt tối đa. Phân phối lại từ a đến m sẽ làm tổng PLXH tăng thêm được
diện tích ned.
Vậy, điều kiện để tạo ra được sự phân phối thu nhập tối ưu nhất theo thuyết vị lợi là chính
phủ nên tiến hành phân phối lại cho đến khi:
MU1 = MU2 = … = MUn (3.7)
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng kết luận trên đây chỉ có được khi các giả định đã nêu được thỏa
mãn nhưng thực tế thì không hẳn lúc nào cũng diễn ra theo xu hướng đó. Thứ nhất, nếu các cá
nhân có các hàm thỏa dụng biên khác nhau thì không có gì đảm bảo điểm phân phối thu nhập tối
ưu lại chính là điểm giữa đoạn OO’. Tức là, phân phối thu nhập theo thuyết vị lợi chưa chắc đã
mang lại sự bình đẳng tuyệt đối. Thứ hai, mặc dù qui luật độ thỏa dụng biên giảm dần đúng với
đa số các hàng hóa nhưng chưa chắc đã đúng với thu nhập. Nếu mức thỏa dụng biên theo thu
nhập của các cá nhân đều không đổi, tức là đường MUA và MUB đều nằm ngang thì mỗi đồng
lấy đi từ người B sẽ làm anh ta mất đi một mức thỏa dụng đúng bằng mức thỏa dụng tăng thêm
khi A có đồng thu nhập ấy. Khi đó, chính sách phân phối lại của chính phủ không có ý nghĩa gì
đối với việc cải thiện PLXH. Thứ ba, mô hình trên giả định tổng thu nhập xã hội là cố định,
nhưng trên thực tế việc phân phối lại thường kèm theo sự thất thoát về nguồn lực, có nghĩa là nếu
càng cố gắng phân phối lại thì kích thước của “chiếc bánh” dùng để chia cho hai người càng
giảm. Phân phối lại thu nhập cần tính đến cả những khoản mất mát về tính hiệu quả này. Như
vậy, ngay cả khi chấp nhận giả định là các cá nhân có hàm thỏa dụng biên như nhau thì cũng
chưa thể kết luận rằng mục tiêu của chính sách phân phối thu nhập sẽ đạt đến sự bình đẳng tuyệt
đối về thu nhập.
Ngoài ra, như đã nêu, thuyết vị lợi bị nhiều nhà triết học và kinh tế học chỉ trích, vì họ cho
rằng xã hội cần coi trọng việc tăng phúc lợi cho người nghèo hơn là người giàu. Trên cơ sở đó,
nhiều nhà nghiên cứu đã cố gắng tìm cách gắn cho độ thỏa dụng của người nghèo một trọng số
lớn hơn độ thỏa dụng của người giàu, và do vậy đã tạo ra nhiều dạng hàm phúc lợi vị lợi mới, và
vì thế, thuyết vị lợi ban đầu coi độ thoả dụng của người giàu và người nghèo bằng nhau còn được
gọi là thuyết vị lợi giản đơn.
3.2.3. Thuyết cực đại thấp nhất (Thuyết Rawls)
Khó khăn nêu trên có thể được giải quyết bằng cách tiến hành một chính sách phân phối lại
sao cho có thể tối đa hóa thu nhập cho những người ở đáy thang thu nhập xã hội. Nguyên tắc này
do nhà triết học Mỹ John Rawls (1971) đưa ra, trong đó ông chỉ đặt trọng số bằng 1 đối với
người có mức thỏa dụng thấp nhất, còn những người khác có trọng số bằng 0. Khi đó, hàm
PLXH có dạng:
W = minimum {U1, U2,…, Un} (3.9)
Theo thuyết này, PLXH chỉ phụ thuộc vào lợi ích của người nghèo nhất. Vì vậy, muốn có
PLXH đạt tối đa thì phải cực đại hóa độ thỏa dụng của người nghèo nhất. Đó là lý do vì sao
thuyết này có tên thuyết cực đại thấp nhất.
Rõ ràng là theo thuyết Rawls thì xã hội chỉ quan tâm đến phúc lợi của người nghèo, nên bất
kể sự phân phối lại thu nhập nào chỉ làm tăng lợi ích của người giàu mà không làm thay đổi lợi
ích của người nghèo thì không có ý nghĩa gì trong việc nâng cao PLXH.
Độ thỏa dụng của nhóm B (UB)
E
1.1.1.1.1.1.1.1 W
*
U2 W1
Đường bàng quan xã hội