lịch sử báo chí

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 7

MỞ ĐẦU

Lịch sử Việt Nam ta đã từng ghi dấu lại những trang vàng rực rỡ về tinh thần yêu nước, ý chí
quật cường của nhân dân trong cuộc đấu tranh giành lại tự do, độc lập cho dân tộc. Trong
muôn vàn khó khăn, ngọn lửa cách mạng đã được thắp lên và lan tỏa ra khắp cả đất nước, và
báo chí đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc khơi dậy ý thức dân tộc, cổ vũ tinh
thần đấu tranh của nhân dân. Giai đoạn từ năm 1925 đến năm 1945 được xem là giai đoạn
lịch sử đầy biến động của Việt Nam, với ách áp bức của thực dân Pháp và sự trỗi dậy của
phong trào yêu nước. Nền kinh tế thuộc địa, xã hội bất công, mâu thuẫn giai cấp ngày càng
gay gắt trở thành động lực thúc đẩy nhu cầu giải phóng dân tộc.

Giai đoạn 1925 – 1945 đã đánh dấu một mốc son chói lọi trong lịch sử báo chí Việt Nam.
Nảy sinh từ nhu cầu giải phóng dân tộc, báo chí cách mạng ra đời và phát triển mạnh mẽ, trở
thành tiếng nói của nhân dân, là công cụ tuyên truyền, cổ động, giáo dục và tổ chức quần
chúng vô cùng hiệu quả, góp phần quan trọng vào việc thức tỉnh tinh thần dân tộc, đoàn kết
nhân dân và lãnh đạo phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.

Vào thời điểm này, báo chí cách mạng có sự phát triển vô cùng mạnh mẽ, với nhiều tờ báo
tiêu biểu như Thanh Niên, Bôn-sê-vích, Công Nông Binh, Việt Nam Độc Lập, Cờ Giải
Phóng… 1Những tờ báo này có nội dung phong phú, đa dạng, tập trung vào các chủ đề như
phản ánh thực trạng xã hội, tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin, cổ vũ phong trào yêu nước,
tố cáo, vạch trần tội ác của bọn thực dân Pháp. Ngoài ra còn có các tờ báo như Tạp chí Đỏ và
báo Tranh đấu sau này được thay thế bằng báo Cờ vô sản và Tạp chí Cộng sản hay những tờ
báo như báo Cờ đỏ, Cờ lãnh đạo, Tiến lên, Công nông binh lần lượt xuất hiện ở các Xứ ủy
Nam Kỳ, Bắc Kỳ và Trung Kỳ. 2Không chỉ vậy, hình thức tuyên truyền trong báo chí cách
mạng cũng rất linh hoạt, đa dạng, từ báo in cho đến truyền đơn, khẩu hiệu, ca dao, hò vè…
nhằm phù hợp với tình hình hoạt động bí mật, khó khăn.

Hiểu rõ vai trò, vị trí, đặc điểm của báo chí Việt Nam giai đoạn 1925 – 1945 không chỉ góp
phần làm sáng tỏ lịch sử báo chí dân tộc, đánh giá đúng đắn đóng góp to lớn của báo chí
trong công cuộc giải phóng dân tộc mà còn mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Tiểu luận này sẽ
đi sâu phân tích, đánh giá vai trò của báo chí Việt Nam 1925 – 1945 một cách khoa học,
khách quan, cung cấp cho người đọc những thông tin hữu ích về giai đoạn lịch sử hào hùng
này. Lịch sử là trang sử vàng son ghi dấu lại những chiến công hiển hách của cha ông ta, và
báo chí là một phần không thể thiếu trong bức tranh lịch sử ấy. Nghiên cứu báo chí Việt Nam
1925 – 1945 giúp thế hệ trẻ trân trọng giá trị lịch sử, hun đúc tinh thần yêu nước, tự hào dân
tộc, đồng thời tiếp cận vấn đề một cách tổng quan, đầy đủ hơn so với các nghiên cứu trước
đây.

1
Nguyễn Thúy Hằng (2015), Báo chí Cách mạng Việt Nam trước năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, 24/05/2024.
Trưng bày báo chí cách mạng Việt Nam 1925-1945. (2024). đã lấy lại May 7, 2024, từ
baochinhphu.vn
2
Nguyễn Thúy Hằng (2015), Báo chí Cách mạng Việt Nam trước năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, 24/05/2024.
TÌNH HÌNH KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI 1925-1945

 Tổng quan:

Từ năm 1925 đến năm 1945 được xem là thời kỳ chuyển đổi và đấu tranh của Việt Nam.
Trong những năm 1925-1945, Việt Nam trải qua một giai đoạn đầy biến động, được đánh dấu
bằng những chuyển đổi quan trọng trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội. Kinh tế
nông nghiệp và chịu ảnh hưởng của thực dân Pháp, mặc dù chịu ảnh hưởng sâu sắc của thực
dân Pháp, nền kinh tế Việt Nam thời kỳ này vẫn chủ yếu là nông nghiệp. Tuy nhiên, năng
suất nông nghiệp còn thấp, do chính quyền thực dân áp đặt các chính sách bóc lột và hạn chế
phát triển kinh tế của người dân Việt.

Phong trào đấu tranh giành độc lập do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Trong bối cảnh
chính trị đàn áp của thực dân Pháp, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vươn lên trở thành một lực
lượng lãnh đạo phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc. Phong trào này tập trung vào mục
tiêu giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp và giành quyền tự do, độc lập
cho đất nước.

Điều kiện xã hội khó khăn và áp bức tàn bạo của thực dân Pháp, bên cạnh những khó khăn về
kinh tế, người dân Việt Nam còn phải chịu đựng những điều kiện xã hội vô cùng tồi tệ. Nạn
đói và dịch bệnh hoành hành khiến cuộc sống của người dân vô cùng cơ cực. Ngoài ra, thực
dân Pháp áp dụng nhiều chính sách bóc lột, áp bức tàn bạo, gây ra những đau thương tột cùng
cho người dân Việt Nam.

Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội 1925 - 1930:

- Kinh tế:

Sau khi Thế chiến thứ nhất kết thúc, Đế quốc Pháp nổi lên là kẻ chiến thắng nhưng cũng
không tránh khỏi việc phải đối mặt với những hậu quả nặng nề. Để giải quyết những thách
thức này, thực dân Pháp tiếp cận tàn nhẫn hơn đối với việc khai thác thuộc địa, đặc biệt tập
trung vào Đông Dương như một khu vực trọng điểm để khai thác tài nguyên trong đế quốc.
Hàng rào thuế quan cũng được áp đặt để kiểm soát thương mại hơn nữa. Hơn nữa, người
Pháp đã thành lập nhiều ngành công nghiệp chế biến quặng kẽm và thiếc, cũng như sản xuất
tơ lụa, sợi, gỗ, diêm, đường và xay xát. Kết quả là ngoại thương trải qua một giai đoạn phát
triển mới. Pháp thực hiện chính sách độc chiếm thị trường và sử dụng hàng rào thuế quan để
ngăn chặn hàng nhập khẩu từ các nước khác. Giao thông vận tải (bao gồm đường sắt, đường
bộ và đường thủy) được phát triển nhằm phục vụ mục đích phát triển và quân sự. Đường sắt
xuyên Đông Dương nối thêm các đoạn Đồng Đăng - Na Sầm và Vinh - Đông Hà. Nhiều cảng
biển mới được xây dựng như cảng Bến Thủy, cảng Hòn Gai. Ngân hàng Đông Dương kiểm
soát nền kinh tế Đông Dương, phát hành tiền giấy và cho vay lãi.

Từ năm 1930, kinh tế Việt Nam bước vào thời kỳ suy thoái, khủng hoảng, bắt đầu từ nông
nghiệp. Lúa gạo bị sụt giá, ruộng đất bị bỏ hoang. Trong công nghiệp, sản lượng các ngành
hầu hết đều suy giảm. Xuất nhập khẩu đình đốn, hàng hóa khan hiếm, giá cả đắt đỏ. Cuộc
khủng hoảng kinh tế ở Việt Nam rất nặng nề so với các thuộc địa khác của Pháp, cũng như
so với các nước trong khu vực. Cho đến tháng 9 - 1930, với sự ra đời của Xô viết đã phần nào
thực hiện được quyền làm chủ của quần chúng, từ đó điều hành mọi mặt trong đời sống xã
hội.

Kinh tế Việt Nam giai đoạn 1936 - 1939 nhìn chung là giai đoạn phục hồi và tăng trưởng, tuy
nhiên vẫn còn nhiều hạn chế và phụ thuộc vào Pháp. Đầu năm 1936, tình hình chính trị xã
hội nước ta vẫn cơ bản ổn định như năm trước. Chính sách cai trị của thực dân Pháp không có
gì mới. Những hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế đã được khắc phục, nhưng nền kinh tế
gặp nhiều trở ngại để phát triển. Cuộc sống của nhân dân có phần ổn định hơn, nhưng vẫn
còn nhiều khó khăn. Tình hình chính trị tuy có những chuyển biến tích cực, rõ nét hơn nhưng
không đều, vẫn chưa xuất hiện một phong trào cách mạng nào lớn mạnh trên phạm vi cả
nước.

Chính sách bóc lột kinh tế của thực dân Pháp và phát xít Nhật tại Việt Nam. Thực dân Pháp
thi hành chính sách "Kinh tế chỉ huy", kiểm soát chặt chẽ nền kinh tế Việt Nam. Tăng mức
thuế hiện có và đặt thêm nhiều loại thuế mới, khiến người dân phải chịu gánh nặng về tài
chính. Sa thải một số công nhân viên chức, giảm tiền lương và tăng giờ làm, dẫn đến tình
trạng thất nghiệp và đời sống người lao động khó khăn. Quân Nhật cướp ruộng đất của nông
dân, khiến họ mất đi nguồn sinh kế. Bắt buộc nông dân phải nhổ lúa, khoai để trồng đay, một
loại cây không có giá trị dinh dưỡng, dẫn đến nạn đói lớn.Hậu quả của những chính sách bóc
lột này là sự đói nghèo cùng cực cho người dân Việt Nam. Ước tính có hơn 2 triệu người chết
đói vào cuối năm 1944 và đầu năm 1945.

- Chính trị:

Các chính sách mới được Đế quốc Pháp đưa ra, đồng thời duy trì các hoạt động độc tài và
củng cố sự cai trị của họ thông qua việc thành lập các thể chế mị dân. Ngoài ra, những thay
đổi về chính trị và hành chính đã được đưa ra để giải quyết các vấn đề ở Đông Dương. Nhiều
nỗ lực đã được bọn chúng thực hiện nhằm hạn chế và giám sát chặt chẽ mọi hình thức liên lạc
giữa những người yêu nước với các nhóm cách mạng Việt Nam và các thực thể bên ngoài
như Pháp, Trung Quốc, Liên Xô và Quốc tế Cộng sản. Ngày càng có nhiều cơ sở xuất bản, in
ấn, với hàng chục tờ báo bằng chữ Quốc ngữ, chữ Pháp, phục vụ cho việc bóc lột và thống trị
Đông Dương. Việt Nam bị thâm nhập mạnh mẽ bởi các trào lưu tư tưởng, khoa học, kỹ thuật
và các xu hướng của văn hóa Tây phương.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930, đánh dấu một bước ngoặt có ý nghĩa
lịch sử trong sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Với mục tiêu nhằm đòi cải thiện cuộc
sống, công nhân thì đòi tăng lương và giảm giờ lao động, còn nông dân thì đòi giảm các loại
sưu, thuế … Từ tháng 2 đến tháng 4 năm 1930 đã nổ ra rất nhiều cuộc đấu tranh của nông
dân và công nhân. Các tổ chức quần chúng cách mạng do Đảng lãnh đạo đã thu hút số lượng
người tham gia đông đảo chưa từng có. Phong trào này đặc biệt dâng cao vào tháng 9 ở hai
tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, hay còn gọi là “Phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh. Từ đây quần
chúng được tự do tham gia các hoạt đọng trong đoàn thể cách mạng, tự do hội họp. Các đội
từ vệ đỏ và tòa án nhân dân cũng được thành lập.

Từ năm 1930 đến năm 1931, hệ thống tổ chức của đảng bị thiệt hại nặng nề do các cuộc tấn
công khủng bố của kẻ thù, cách mạng bước vào thời kỳ suy tàn. Từ năm 1932, chúng đã ra
sức củng cố hệ thống an ninh, nhằm tạo khả năng chủ động và nhanh chóng ứng phó với các
cuộc đấu tranh mới ở những địa bàn trọng điểm diễn ra các phong trào cách mạng. Ngoài ra,
chúng còn xuất bản sách báo, gieo rắc mê tín, ảo tưởng, bi quan trong nhân dân, nhất là lớp
trẻ thanh niên.

Sau năm 1933, phong trào đấu tranh của công nhân và nông dân ngày càng lan rộng. Do tích
lũy được kinh nghiệm trước đó cùng với sự vững chắc của Đảng, một số đồng chí ứng cử vào
Hội đồng thành phố Sài Gòn để viết bài về cuộc sống và chiến đấu của những người Cộng
sản ở Côn Đảo, tuyên truyền triết học Mác - Lênin,... Ngày 26-7-1936, tại một nơi ở nước
ngoài, Trung ương Đảng đã tổ chức hội nghị mở rộng và chính thức quyết định chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược, đề ra chiến lược mới, thành lập Mặt trận Nhân dân phản đế Đông
Dương (Mặt trận Dân chủ Thống nhất Đông Dương).

Ngày 26/7/1936, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định thành lập Mặt trận
Dân chủ phản đế Đông Dương, tập hợp các đảng phái, các tầng lớp nhân dân yêu nước, phù
hợp với điều kiện Việt Nam lúc bấy giờ. Những mâu thuẫn kinh tế cơ bản trong xã hội vẫn
chưa được giải quyết. Dưới danh nghĩa Mặt trận Dân chủ, nhiều cuộc đấu tranh được quần
chúng đông đảo ủng hộ. Cuộc bầu cử đại biểu thay thế cho hai vị đại biểu của Mặt trận bị nhà
cầm quyền bãi miễn vì hoạt động báo chí cách mạng vào Viện dân biểu Trung Kỳ.

Nhiều đảng phái chính trị hoạt động, trong đó có đảng cách mạng, đảng theo xu hướng cải
lương, đảng phản động … Các đảng tận dụng cơ hội đẩy mạnh hoạt động, tranh giành ảnh
hưởng quần chúng. Tuy nhiên chỉ có Đảng Cộng sản Đông Dương là đảng mạnh nhất, có tổ
chức chặt chẽ và có chủ trương rõ ràng.

Đầu tháng 9 - 1939, Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ, phát xít Đức kéo vào nước Pháp.
Đến tháng 6 - 1940, chính phủ tư sản đầu hàng bán đứng nước Pháp cho Đức. Vào tháng 9
năm 1940, Nhật Bản tràn vào Đông Dương, khiến chính quyền thực dân Pháp đầu hàng và
nhượng lại Đông Dương cho Nhật. Hai đế quốc phát xít này cùng nhau áp bức nhân dân ta,
đồng thời tranh giành quyền thống trị Đông Dương bằng mọi cách. Trong thời kỳ này, một số
tổ chức tay sai của Nhật Bản ra đời, hoạt động chống phá cách mạng và người Pháp, phục vụ
cho mưu đồ xâm lược của Nhật. Những tổ chức này đưa ra khẩu hiệu độc lập giả dối để lừa
bịp nhân dân, nhưng khi bị Pháp khủng bố thì lại tan rã.

- Xã hội:

Trong xã hội Việt Nam thời kỳ này, những mâu thuẫn ngày càng trở nên sâu sắc, mang tính
đối kháng gay gắt, chủ yếu thể hiện ở mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với chính quyền
thực dân Pháp cùng bọn tay sai phản động của chúng. Mâu thuẫn này xuất phát từ nhiều
nguyên nhân, có thể kể đến như nền thống trị tàn bạo của thực dân Pháp, áp bức bóc lột nhân
dân Việt Nam về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Hay do sự phân hóa giai cấp trong xã hội
ngày càng rõ nét, với sự xuất hiện của các tầng lớp tư sản, trung lưu và giai cấp công nhân.
Sự chênh lệch giàu nghèo, bất công xã hội gia tăng. Sự xâm nhập và ảnh hưởng của các tư
tưởng và phong trào cách mạng trên thế giới, đặc biệt là Cách mạng Tháng Mười Nga năm
1917, đã khơi dậy tinh thần đấu tranh vì độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam.

Hậu quả lớn nhất mà cuộc khủng hoảng kinh tế gây ra đối với xã hội là làm trầm trọng hơn
tình trạng đói khổ của các tầng lớp nhân dân lao động. Mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc,
trong đó có hai mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và
mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến. Đến cuối năm 1930 đầu năm 1931, khi xô
viết xuất hiện thì các lớp dạy chữ Quốc ngữ mới được chính quyền cách mạng mở ra cho các
tầng lớp nhân dân. Các tệ nạn còn tồn tại tại trước đó như rượu chè, cờ bạc, ma túy hay mê
tín dị đoan cũng dần bị xóa bỏ. Nhờ vậy mà trật tự xã hội được đảm bảo, tinh thần đoàn kết,
tương trợ lẫn nhau cũng từ đó được hình thành.

Cuộc sống của phần lớn người dân trong xã hội thực dân hết sức cơ cực. Vì vậy, họ hăng hái
tham gia phong trào đấu tranh đòi quyền lợi về tự do, cơm áo dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Đông Dương. Họ đấu tranh giành lại độc lập, tự do từ tay thực dân Pháp. Họ đấu
tranh đòi đủ ăn, đủ mặc, cải thiện điều kiện sống. Đảng Cộng sản Đông Dương đưa ra những
chính sách hợp lòng dân, lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng một xã
hội công bằng, bình đẳng.

Những chính sách của thực dân Pháp cùng phát xít Nhật không chỉ ảnh hưởng đến giai cấp
nông dân mà còn tác động đến tất cả các giai cấp và tầng lớp trong xã hội Việt Nam, ngoại
trừ một số tay sai của đế quốc, đại địa chủ và tư sản mại bản. Đây là một minh chứng cho sự
tàn khốc và bất nhân của chủ nghĩa thực dân và phát xít, khiến cuộc sống của người dân Việt
Nam trở nên khốn cùng.

Sự tiến triển của báo chí trong thời kì 1925 – 1945:


Từ năm 1925 đến năm 1930 là giai đoạn sơ khai của báo chí cách mạng Việt Nam. Hầu hết
các tờ báo ra đời và phát triển đều thuộc tổ chức của giai cấp vô sản ở nước ta, có khoảng 11
tờ báo thuộc các cơ sở Đảng từ trung ương đến địa phương cả trong và ngoài nước. Nội dung
các tờ báo chủ yếu tuyên truyền chủ nghĩa Cộng sản, chủ nghĩa Mác Lê-nin và giáo dục ý
thức đấu tranh giai cấp. Ở thời kỳ này, Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập ra báo Thanh Niên
(21/06/1925), đây được xem là mốc mở đầu của dòng Báo chí Cách mạng Việt Nam. Sau báo
Thanh Niên, các tờ báo như Kông Nông, Lính Kách mệnh,… cũng được Nguyễn Ái Quốc
sáng lập ra sau đó. Nhằm thức tỉnh quần chúng nhân dân đứng lên giải phóng dân tộc, Đông
Dương Cộng sản Đảng đã sản xuất ra tờ Búa liềm. Cũng cùng chung mục đích mà các tờ báo
như Tạp chí Công hội Đỏ, Lao động, Bôn-sơ-vích và Cờ Đỏ lần lượt được ra đời.

Tuy mỗi năm Việt Nam đóng cửa 30-40 tờ báo, song số lượng báo chí vẫn phát triển. Năm
1930, Việt Nam có 132 tờ báo, năm 1931 con số là 167 tờ báo và đến năm 1935 đã lên đến
267 tờ báo. Thời gian này Pháp ban hành khoảng 30 văn bản nhằm kiểm tra chặt chẽ hoạt
động báo chí ở Việt Nam. Người Pháp đặt ra 2 vấn đề quan tâm hàng đầu là báo chí và tù
chính trị. Vào ngày 05/08/1930, cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam cho ra số
đầu tiên của Tạp chí Đỏ. Sau đó 10 ngày, cơ quan trung ương của Đảng ra số 1 của Báo
Tranh đấu. Từ đây các tờ báo ở địa phương và cơ sở cũng được xuất bản. Hai tờ báo Cờ Vô
sản và Tạp chí Cộng sản ra đời thay thế cho Tạp chí Đỏ và Tranh đấu. Tháng 6/1934 Ban chỉ
huy ngoài nước của Đảng Cộng sản Đông Dương cho xuất bản Tạp chí Bôn-sơ-vích. Các tờ
báo như Cờ Đỏ, Cờ lãnh đạo, Giải phóng, Tiến lên, Cờ đỏ,… xuất hiện ở các Xứ ủy Nam Kỳ,
Bắc Kỳ, Trung Kỳ rồi ngừng xuất bản liên tục.

Báo chí Cách mạng giai đoạn 1936-1939, tháng 6-1936, báo chí cách mạng bắt đầu hoạt động
công khai cùng với sự hoạt động bán hợp pháp của Đảng lãnh một sứ mạng lịch sử mới, công
khai tuyên truyền chủ nghĩa Mác Lê-nin, truyền truyền cho Đại hội VII của chủ nghĩa cộng
sản. Báo chí Cách mạng được bày bán rộng rãi ở nhiều nơi cùng với báo chí tiến bộ mang từ
nước ngoài vào. Sự lãnh đạo của Đảng ta đối với báo chí giai đoạn này cũng đã đạt đến trình
độ nghệ thuật, điều này được thể hiện ở cách thức ra đời và phát triển của báo chí.

Cuối năm 1939, đầu năm 1940, trong khi số lượng báo chí giảm đáng kể, Đảng vẫn chưa thể
có một tờ báo thống nhất cho toàn Đảng, mà chỉ là báo của Xứ ủy như Giải phóng (Bắc Kỳ),
Bẻ Xiềng sắt (Trung Kỳ), Tiến lên (Nam Kỳ). Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5-
1941), Đảng đã chỉ đạo, “trong lúc này không nên đưa chủ nghĩa cộng sản ra tuyên truyền,
huy hiệu cờ đỏ búa liềm cũng không nên dùng luôn. Các sách báo tuyên truyền không nên
dùng danh nghĩa Đảng nhiều, phải lấy danh nghĩa các đoàn thể cứu quốc và Việt Minh thay
vào”.3 Cũng vào năm 1941, báo Việt Nam Độc Lập ra số đầu tiên. Sang đến năm 1942 xuất
bản Báo Cứu Quốc và Báo Cờ Giải Phóng. Sau cuộc Nhật đảo chính Pháp (3/1945) Đảng ta
phát động cao trào kháng Nhật cứu nước tiến tới tổng khởi nghĩa các báo của các lực lượng
vũ trang từ khu căn cứ địa kháng Nhật và khu giải phóng được xuất bản như: Tiếng súng khởi
nghĩa, Quân giải phóng…

3
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 7 (1940-1945), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000,
tr.126.
Tài liệu tham khảo

1. Nguyệt Hà. (2015, 8 28). Trưng bày báo chí cách mạng Việt Nam 1925-1945.
Đã truy lục 5 9, 2024, từ Báo Điện tử Chính phủ:
https://baochinhphu.vn/trung-bay-bao-chi-cach-mang-viet-nam-1925-1945
102189387.htm
2. Quát, Đ.D., Hưng, Đ.Q. & Thông, V.D. (2010). Tổng quan lịch sử báo chí Cách mạng Việt
Nam [tệp PDF] NXB Chính trị Quốc gia. baochi.pdf (dangcongsan.vn) [truy cập
07/05/2024].

3. Anh, V.N., Bình, Đ.T., Hùng, N.Q., … & Quế, N.S. (2014). Chương 2: Việt Nam từ năm
1930 đến năm 1945. Trong Ninh, V.D., & Đệ, T.B. (Chủ biên), Lịch sử 12 (tr. 90 – 120).
NXB giáo dục Việt Nam.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 7 (1940-1945), Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.126.

You might also like