Professional Documents
Culture Documents
Thảo Luận LNN Chương 2
Thảo Luận LNN Chương 2
Thảo Luận LNN Chương 2
22) Trình bày các phương thức hoạt động tín dụng của NHNN ? So sánh phương
thức tái cấp vốn với phương thức cho vay cứu cánh ( cho vay nhằm phục hồi khả
năng thanh toán).
* Các phương thức hoạt động tín dụng của NHNN:
- Bảo lãnh ngân hàng: được xem là hình thức hoạt động tín dụng của Ngân hàng nhà nước
nhưng chỉ áp dụng cho tổ chức tín dụng vay vốn nước ngoài theo quyết định của Thủ
tướng Chính phủ.
- Cho vay: là hình thức hoạt động tín dụng của Ngân hàng nhà nước. Theo hình thức này,
Ngân hàng nhà nước cho các tổ chức tín dụng vay ngắn hạn.
- Tạm ứng cho ngân sách nhà nước: là hình thức hoạt động tín dụng của Ngân hàng nhà
nước để xử lí thiếu hụt tạm thời quỹ ngân sách nhà nước theo quyết định của Thủ tướng
Chính phủ. Việc Ngân hàng nhà nước cho ngân sách nhà nước vay hoặc tạm ứng cho
ngân sách nhà nước tức là cung ứng thêm tiền cho lưu thông sẽ gây ra lạm phát và ảnh
hưởng tới chính sách tiền tệ.
- Tái cấp vốn: là hình thức cho các tổ chức tín dụng vay ngắn hạn.
* So sánh phương thức tái cấp vốn với phương thức cho vay cứu cánh:
Nhằm cung ứng vốn ngắn hạn Nhằm phục hồi khả năng thanh toán
và phương tiện thanh toán chocủa các TCTD khi các TCTD này
tổ chức tín dụng. Mục đích lâm và tình trạng mất khả năng thanh
cuối cùng là nhằm cung ứng toán để tránh trường hợp các TCTD
vốn cho nền kinh tế và thực này đi đến phá sản; từ đó gây ảnh
Mục
hiện chính sách tiền tệ quốc hưởng đến và làm mất uy tín cũng
đích
gia như hoạt động bình thường của hệ
thống ngân hàng. Hoạt động này
không nhằm mục tiêu lợi nhuận mà
nghiêng về mục đích thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về tiền tệ.
- Cho vay theo hồ sơ tín dụng; - Cho vay đặc biệt với lãi suất ưu đãi
-Chiết khấu, tái chiết khấu đến mức 0%.
thương phiếu và các giấy tờ
Hình
có giá;
thức
- Cho vay có cầm cố bảo lãnh
thương phiếu và các giấy tờ
có giá.
Ngắn hạn: dưới 12 tháng Tối đa không quá 2 năm đối hoặc
Thời
theo phương án phục hồi đã được
hạn
phê duyệt
Cơ sở - Luật Ngân hàng Nhà nước - Luật Ngân hàng Nhà nước Việt
pháp lý Việt Nam 2010; Nam 2010;
- Thông tư 15/2012/TT- - Thông tư 01/2018/TT-NHNN.
NHNN.
24) Tại sao NHNN lại không bảo lãnh cho các tổ chức, cá nhân thông thường vay
vốn trừ trường hợp bảo lãnh cho tổ chức tín dụng vay vốn nước ngoài theo quyết
định của Thủ tướng Chính Phủ ?
Theo quy định tại Điều 335 BLDS 2015 có đưa ra khái niệm về hành vi bảo lãnh là:
“1. Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền
(sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau
đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo
lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
2. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho
bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh.”
Như vậy, có thể hiểu bảo lãnh là việc khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được
bảo lãnh không thực hiện hoặc không thực hiện đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh sẽ đứng ra
thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh. Do đó, NHNN là cơ quan ngang bộ của
Chính phủ, là ngân hàng trung ương của nước ta nên việc đứng ra bảo lãnh cho các tổ
chức, cá nhân thông thường vay vốn là điều không thể.
Giữa các cá nhận, tổ chức tín dụng vay vốn của nhau thì đây là việc làm hoàn toàn được
phép theo quy định của pháp luật và diễn ra nhiều trong thực tiễn nhưng NHNN sẽ không
đứng ra bảo lãnh trong trường hợp này. Mà NHNN chỉ đứng ra bảo lãnh khi tổ chức tín
dụng vay với nguồn vốn có yếu tố nước ngoài.
Theo Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam, pháp luật có quy định về bảo lãnh tại Điều
25: “Ngân hàng Nhà nước không bảo lãnh cho tổ chức, cá nhân vay vốn, trừ trường hợp
bảo lãnh cho tổ chức tín dụng vay vốn nước ngoài theo quyết định của Thủ tướng Chính
phủ.”
Khi bảo lãnh, NHNN đứng ra bảo lãnh với hai tư cách pháp lý: thứ nhất, đây là một cơ
quan của Chính phủ; thứ hai, đây là ngân hàng trung ương của Việt Nam. Vì vậy, NHNN
là một cơ quan cấp cao, đại diện cho một đất nước nên việc đứng ra bảo lãnh cho một
hoạt động vay vốn nào đó sẽ thể hiện sự đảm bảo, an toàn nhất trên phương diện pháp lý
và tài chính, uy tín cao. Khi các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng của Việt Nam vay vốn
của các đối tác nước ngoài, tập đoàn tài chính lớn của thế giới thì thông thường luôn cần
sự bảo đảm an toàn nhất cho khoản vay. Và để bảo đảm cho khoản vay này thì sẽ thực
hiện thông qua cơ chế bảo lãnh của NHNN.
Nếu NHNN bảo lãnh cho các tổ chức, cá nhân thông thường vay vốn thì sẽ khó kiểm soát
hết tất cả các hoạt động vay vốn, khiến NHNN dễ gặp phải các vấn đề bất lợi khi đứng ra
bảo lãnh, có thể gây mất uy tín cho NHNN trong phạm vi trong nước và quốc tế. Vì vậy,
đối với các tổ chức, cá nhân thông thường cần bảo lãnh để vay vốn thì NHNN đã giao cho
các cơ quan dưới quyền gần gũi với các tổ chức, cá nhân này hơn; giúp dễ quản lý, điều
chỉnh và kiểm soát một cách chặt chẽ nhất.
25) Việc quy định NHNN chỉ bảo lãnh cho các tổ chức tín dụng vay vốn nước ngoài
theo chỉ định của Thủ tướng Chính phủ nhưng lại không bảo lãnh cho các tổ chức
thông thường vay vốn nước ngoài phải chăng đã tạo nên sự phân biệt đối xử giữa
các tổ chức này ? (đều là doanh nghiệp).
Tổ chức tín dụng được hiểu là tổ chức kinh tế kinh doanh tiền tệ, dịch vụ ngân hàng với
nội dung nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung cấp các dịch vụ thanh toán. Về mặt kinh tế, đối
tượng kinh doanh chính, mang tính chất nghề nghiệp của tổ chức tín dụng là tiền tệ và đó
là dấu hiệu để phân biệt tổ chức tín dụng với các loại hình doanh nghiệp khác trong nền
kinh tế quốc dân. Về mặt pháp lý, tổ chức và hoạt động của tổ chức tín dụng thuộc phạm
vi áp dụng Luật các tổ chức tín dụng và chịu sự quản lý nhà nước của Ngân hàng nhà
nước. Chính vì các tổ chức tín dụng chịu sự quản lý nhà nước của NHNN nên khi vay vốn
nước ngoài cần sự bảo lãnh thì chỉ có các tổ chức tín dụng mới được NHNN bảo lãnh còn
các tổ chức thông thường không chịu sự quản lý của NHNN mà chịu sự quản lý của các
cơ quan khác thì sẽ không được NHNN bảo lãnh khi vay vốn nước ngoài.
26) Tại sao NHNN lại phải quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối ? Việc quản lý
được thực hiện như thế nào ?
Ngoại hối là tiền, vàng tiêu chuẩn quốc tế, các giấy tờ có giá và các công cụ thanh toán
bằng tiền nước ngoài. Hoạt động ngoại hối bao gồm hoạt động đầu tư, kinh doanh, mua
bán ngoại hối. Vì vậy, để đảm bảo các hoạt động thanh toán quốc tế cũng như điều hòa
cán cân thanh toán quốc tế thì việc NHNN quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối là
điều hết sức cần thiết.
Theo đó, để quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối thì Nhà nước đã áp dụng các chính
sách, biện pháp vào quá trình nhập, xuất ngoại hối và việc sử dụng ngoại hối trong phạm
vi quốc gia với mục đích là tập trung các nguồn ngoại tệ vào Ngân hàng Nhà nước nhằm
điều hòa chính sách tiền tệ, tạo dự trữ ngoại hối cần thiết phục vụ cho mục tiêu kinh tế và
bảo vệ độc lập chủ quyền về tiền tệ, ngăn chặn thất thoát ngoại hối ảnh hưởng đến cán cân
thanh toán quốc tế.
NHNN quản lý hoạt động ngoại hối bằng phương thức mệnh lệnh hành chính, qua các
quy định hạn chế, cho phép và phương thức thị trường bằng cách xác định các yếu tố theo
cách thị trường điều chỉnh. Quản lý nhà nước về ngoại hối của NHNN có thể diễn ra qua
hoạt động mua, bán ngoại hối trên thị trường trong nước vì mục tiêu chính sách tiền tệ
quốc gia, mua bán ngoại hối trên thị trường quốc tế và thực hiện các giao dịch ngoại hối
khác.
Để đảm bảo an ninh tài chính tiền tệ quốc gia nói chung và đảm bảo dự trữ ngoại hối cần
thiết cho thanh toán quốc tế, thỏa mãn nhu cầu nhập khẩu, mở rộng đầu tư và hợp tác với
nước ngoài nói riêng thì NHNN đã ban hành những quy định về hạn chế giao dịch ngoại
hối, hạn mức ngoại tệ.
II.CÂU HỎI NHẬN ĐỊNH:
1) NHNNVN là cơ quan duy nhất được quyền cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân
hàng cho các TCTD.
- Nhận định sai.
- Bởi vì có một số trường hợp sẽ do Thủ tướng quyết định cấp giấy phép thành lập và hoạt
động ngân hàng cho các tổ chức tín dụng. Ví dụ như ngân hàng chính sách xã hội.
2) Chủ tịch Hiệp hội ngân hàng có thẩm quyền quyết định xử phạt hành chính trong lĩnh
vực tiền tệ ngân hàng.
- Theo Điều 53 thì thẩm quyền xử phạt hành chính trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng thuộc
về thanh tra viên ngân hàng đang thi hành công vụ; Chánh Thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà
nước chi nhánh; Cục trưởng cục thanh tra, giám sát ngân hàng; Chánh Thanh tra, giám sát ngân
hàng; Trưởng đoàn thanh tra do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Chánh Thanh tra, giám sát
ngân hàng ra quyết định có thẩm quyền xử phạt theo quy định tại khoản 3 Điều này.
Vậy Chủ tịch Hiệp hội ngân hàng không có thẩm quyền quyết định xử phạt hành chính
trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng.
3) Mọi TCTD đều được phép vay vốn từ NHNN dưới hình thức tái cấp vốn.
- Ngân hàng Nhà nước xem xét và quyết định tái cấp vốn khi tổ chức tín dụng đáp ứng đầy
đủ các điều kiện sau:
+ Tổ chức tín dụng Việt Nam bao gồm tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo
quy định của Luật các tổ chức tín dụng, trừ tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài, tổ chức tín
dụng liên doanh, sở hữu hợp pháp trái phiếu đặc biệt đang lưu ký tại Sở Giao dịch Ngân hàng
Nhà nước chưa được Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam thanh toán.
+ Trích lập dự phòng rủi ro đối với trái phiếu đặc biệt theo quy định tại Nghị định số
53/2013/NĐ-CP Nghị định số 34/2015/NĐ-CP và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
Vậy tổ tức tín dụng phải đáp ứng được các điều kiện trên thì mới được ngân hàng Nhà nước
xem xét tái cấp vốn.
- Cơ sở pháp lý: Khoản 3 Điều 2 và Điều 4 Luật ngân hàng Nhà nước 2010.
- Theo Khoản 3 Điều 2 thì chức năng của ngân hàng Nhà nước là quản lý nhà nước về tiền tệ,
hoạt động ngân hàng và ngoại hối (sau đây gọi là tiền tệ và ngân hàng); thực hiện chức năng
của Ngân hàng trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng
dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Ngoài ra theo Điều 4 thì ngân hàng Nhà nước không có nhiệm
vụ, quyền hạn quản lý nợ nước ngoài cho Chính Phủ.
Vậy ngân hàng Nhà nước không là cơ quan quản lý nợ nước ngoài của Chính phủ.
5) NHNN phải đóng thuế thu nhập doanh nghiệp cho phần chênh lệch thu chi tài chính
của mình.
- Cơ sở pháp lý: Điều 44 và Điều 45 Luật ngân hàng Nhà nước 2010.
- Theo Điều 44 và Điều 45 thì kết quả tài chính của Ngân hàng nhà nước không vì lợi nhuận và
Ngân hàng Nhà nước được trích từ kết quả tài chính hằng năm để lập các quỹ sau đây: quỹ thực
hiện chính sách tiền tệ quốc gia; quỹ dự phòng tài chính; quỹ khác do Thủ tướng Chính phủ
quyết định. Ngoài ra, thuế thu vào doanh nghiệp thu vào lợi nhuận, mà ngân hàng Nhà nước
hoạt động không là doanh nghiệp và không vì lợi nhuận. Do đó, ngân hàng nhà nước sẽ không
nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho phần thu chi của mình và phần chênh lệch thu chi đó sẽ
được nộp vào ngân sách nhà nước.
Vậy ngân hàng Nhà nước không cần đóng thuế thu nhập doanh nghiệp cho phền chênh lệch
thu chi tài chính của mình.
6) Bộ tài chính là cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho công
ty tài chính, công ty cho thuê tài chính.
- Công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính là tổ chức tín dụng phi ngân hàng, là một loại
hình của tổ chức tín dụng. Thẩm quyền cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho công ty tài
chính và công ty cho thuê tài chính thuộc về Ngân hàng nhà nước.
Vậy Bộ tài chính không là cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho
công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính.
7) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan trực thuộc Quốc Hội.
- NHNNVN là cơ quan ngang bộ của chính phủ – k1 Điều2 NHNNVN. Quốc hội là cơ quan
lập pháp, vấn đề cơ cấu tổ chức. Do hoạt đông ngân hàng là hoạt động nhạy cảm nên cần có sự
quyết định linh hoạt nhưng Quốc hội họp 1 năm 2 lần và việc quyết định rất mất thời gian
8) Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là một pháp nhân.
Điều 45. Chi nhánh, văn phòng đại diện và địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp
1.Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một
phần chức năng của doanh nghiệp kể cả chức năng đại diện theo ủy quyền. Ngành,
nghề kinhdoanh của chi nhánh phải đúng với ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp.
Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
3. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó;
4. Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Theo nội dung quy định nêu trên thì chi nhánh là một đơn vị phụ thuộc trụ sở chính, được
thành lập hợp pháp và có con dấu và tài khoản riêng nhưng chưa độc lập hoàn toàn về tài sản
cũng phải nhân danh trụ sở chính thực hiện các quan hệ pháp luật chứ không nhân danh bản
thân chi nhánh đó. Vì vậy, chi nhánh không có tư cách pháp nhân.
10) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ cho tổ chức tín dụng là ngân hàng vay vốn
NHNNVN cho nhiều tổ chức tín dụng khác ngoài ngân hàng vay vốn nữa
11) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam bảo lãnh cho tổ chức, cá nhân vay vốn khi có chỉ định
của Thủ tướng Chính phủ.
- Chỉ bảo lãnh cho tổ chức tín dụng, không bảo lãnh tổ chức, cá nhân: NHNN cấp 1 => Phạm vi
giao dịch
12) Ngân hàng Nhà nước cho ngân sách Nhà nước vay khi ngân sách bị thiếu hụt do bội
chi.
- Cho ngân sách Nhà nước vay là việc phát hành tiền mà bội cho là do việc chi không hiệu quả
(tiền vẫn còn trong lưu thông) => cho vay tiếp sẻ dẫn đến lạm phát, thời điểm cho vay là cuối
năm => nhập nhằng trong viếc trả tiền.
- khái niệm thiếu hụt tạm thời và bội chi (chi nhiều hơn thu)
Nhận định Sai. Cơ sở pháp lý: Thông tư số 30/2019/TT-NHNN. Dự trữ bắt buộc là số tiền mà
TCTD phải gửi tại NHNN để thực hiện CSTT quốc gia. NHNN quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc
đối với từng loại hình TCTD và từng loại tiền gửi tại TCTD nhằm thực hiện CSTT quốc gia.
NHNN quy định việc trả lãi đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc, tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc của
từng loại hình TCTD đối với từng loại tiền gửi. Các trường hợp ngoại lệ không áp dụng. Theo
đó, có 03 trường hợp tổ chức tín dụng không cần thực hiện dự trữ bắt buộc, cụ thể:
Một là, tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt: Thời gian không thực hiện dự trữ bắt buộc từ
tháng tiếp theo tháng tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định đặt vào
tình trạng kiểm soát đặc biệt đến hết tháng tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước quyết
định chấm dứt kiểm soát đặc biệt.
Hai là, tổ chức tín dụng chưa khai trương hoạt động: Thời gian không thực hiện dự trữ bắt buộc
đến hết tháng tổ chức tín dụng khai trương hoạt động; tổ chức tín dụng thông báo bằng văn bản
cho Ngân hàng Nhà nước (Sở Giao dịch) về ngày khai trương hoạt động trong thời hạn 3 ngày
làm việc kể từ ngày khai trương hoạt động.
Ba là, tổ chức tín dụng được chấp thuận giải thể hoặc có quyết định mở thủ tục phá sản hoặc có
quyết định thu hồi Giấy phép của cơ quan có thẩm quyền: Thời gian không thực hiện dự trữ bắt
buộc từ tháng tiếp theo tháng tổ chức tín dụng được chấp thuận giải thể hoặc quyết định mở thủ
tục phá sản, thu hồi Giấy phép có hiệu lực; tổ chức tín dụng có quyết định mở thủ tục phá sản
gửi Ngân hàng Nhà nước (Sở Giao dịch) quyết định mở thủ tục phá sản trong thời hạn 3 ngày
làm việc kể từ ngày nhận được quyết định này.
14) Hội đồng chính sách tiền tệ quốc gia là đơn vị trực thuộc NHNNVN.
Nhận định sai. Vì căn cứ vào Quyết định số 58/2011/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ về
việc thành lập Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia
“Điều 1. Thành lập Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia để tư vấn cho Chính
phủ và Thủ tướng Chính phủ trong việc hoạch định và quyết định những vấn đề quan trọng về
chủ trương, chính sách tài chính, tiền tệ thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ và Thủ
tướng Chính phủ.
Điều 3. Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia làm việc theo nguyên tắc tư vấn
và theo Quy chế làm việc của Hội đồng do Thủ tướng Chính phủ quy định.”
Ta có thể thấy hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ được thành lập bởi thủ tướng chính phủ và
chủ tịch hội đồng là phó thủ tướng chính phủ không phải chịu sự chỉ đạo từ NHNNVN nên
không là đơn vị trực thuộc.
Theo Nghị định 16/2017/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam thì có Vụ Chính sách tiền tệ là Đơn
vị thực hiện chức năng quản lý nhà nước của NHNNVN nên có Vụ Chính sách tiền tệ là đơn vị
phụ thuộc của NHNNVN.
15) Mọi TCTD đều được phép thực hiện hoạt động kinh doanh ngoại tệ.
Theo quy định tại Điều 36 Pháp lệnh ngoại hối thì không phải tổ chức tín dụng nào cũng được
phép kinh doanh ngoại tệ mà chỉ có những tổ chức tín dụng được được ngân hàng nhà nước cấp
phép mới được kinh doanh ngoại tệ.