Thảo Luận LNN Chương 2

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 36

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT DÂN SỰ




THẢO LUẬN MÔN LUẬT NGÂN HÀNG


THẢO LUẬN CHƯƠNG HAI
LỚP: DÂN SỰ 44B2

Môn: Luật ngân hàng

DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM THẢO LUẬN


ST Họ và tên MSSV
T
1 Nguyễn Ngọc Quế Trân 1953801012291
2 Trần Thị Huyền Trang 1953801012300
3 Ngô Thu Uyên 1953801012321
4 Trần Lê Phương Uyên 1953801012324
5 Dương Hữu Yến Vân 1953801012325
6 Nguyễn Thị Tường Vi 1953801012330

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 3 năm 2022

I. CÂU HỎI TỰ LUẬN:


1) Anh (chị) hãy lý giải tại sao Việt Nam lại chọn mô hình NHTƯ là cơ quan ngang
bộ của Chính phủ.(không thuộc Quốc hội hay Bộ Tài chính).
Điều 39 Luật Tổ chức Chính phủ 2015 quy định cụ thể: Bộ, cơ quan ngang bộ là cơ quan
của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về một hoặc một số ngành, lĩnh vực
và dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc. Ở Việt Nam, trong thời
kì phong kiến trước khi bị thực dần Pháp xâm lược (năm 1858), việc phát hành tiền tệ là
việc đúc tiền của vua, chúa. Trong gần 20 năm thực dân Pháp củng cố chế độ cai trị, ở
Việt Nam lưu thông nhiều loại tiền khác nhau. Năm 1875, Ngân hàng Đông Dương
(Banque de rindochine - viết tắt là BIC) được thành lập ở Paris để phát hành giấy bạc và
tiền kim loại cho các xứ thuộc địa của Pháp ở châu Á. Trên đất Việt Nam, Pháp đặt hai
chi nhánh đầu tiên ở Hải Phòng và Sài Gòn,
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã sớm đặt
nền móng cho một nền tài chính - tiền tệ độc lập. Trong hoàn cảnh khỏ khăn chưa đủ điều
kiện vật chất để thành lập ngân hàng trung ương, ngày 15 tháng 11 năm 1945, cơ quan Ấn
loát thuộc Bộ tài chính đã được Chính phủ cho phép thành lập với nhiệm vụ sản xuất tở
bạc Việt Nam để đưa ra lưu hành. Ngày 31 tháng 01 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí
sắc lệnh số 18b cho phép Bộ trưởng Bộ tài chính phát hành tờ bạc tài chính Việt Nam để
thay thế cho đồng bạc Đông Dương. Ngày 03 tháng 02 năm 1946, cơ quan Tổng phát
hành giấy bạc Việt Nam trực thuộc Bộ tài chính chính thức ra đời và hoạt động.
Như vậy, trong những năm đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, chức năng
phát hành tiền và điều hoà lưu thông tiền tệ do Bộ tài chính thực hiện.
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật, vị trí pháp lí của Ngân hàng nhà nước
Việt Nam (sau đây gọi tắt là Ngân hàng nhà nước) ngày càng được xác định cụ thể.
Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 1990 tại Điều 1 quy định: Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam (gọi tắt là Ngân hàng Nhà nước), là cơ quan của Hội đồng bộ trưởng, có
chức năng quản lí nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng, ngân hàng trong cả nước, nhằm
ổn định giá trị đồng tiền; là cơ quan duy nhất phát hành tiền của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Khoản 1 Điều 1 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam do Quốc hội thông qua ngày
12/12/1997 quy định: "Ngân hàng nhà nước Việt Nam (sau đây gọi tắt là Ngân hàng nhà
nước) là cơ quan của Chỉnh phủ và là ngăn hàng trung ương của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam". Để xác định rõ hơn địa vị pháp lí của Ngân hàng nhà nước Việt
Nam trong bộ máy của Chính phủ, Điều 2 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2010
quy định: Ngân hàng nhà nước Việt Nam là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân
hàng trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Như vậy, theo quy định này, Ngân hàng nhà nước vừa có vị trí là một bộ trong cơ cấu tổ
chức của Chính phủ, vừa có vị trí là ngân hàng trung ương.
Mà NHTW lại là nơi phát hành tiền tệ, do đó cần có sự quản lí chặt chẽ của nhà nước. VN
sau chiến tranh tỷ lệ lạm phát cực cao nên mô hình NHTW theo kiểu CTTNHH hay cổ
phần nó mang tính tư nhân thì không hợp lí vì nhà nước sẽ là người quản lí tốt hơn vì hiểu
được thời cục , tình hình đất nước hơn bất kì chủ thể nào mà sẽ ra các chính sách vực dậy
nền kinh tế thông qua sự quản lí NHTW của mình
2) Tại sao pháp luật ngân hàng Việt Nam lại quy định: “NHNNVN là một pháp
nhân”. Hãy chứng minh
Theo quy định Điều 84 Bộ luật dân 2005 tổ chức có tư cách pháp nhân có đầy đủ yếu tố
sau: Được thành lập cách hợp pháp ;Có cấu tổ chức chặt chẽ; Có tài sản riêng tách bạch
với tài sản thành viên tự chịu trách nhiệm tài sản Nhân danh tham gia vào quan hệ pháp
luật. Như vậy, dễ dàng chứng minh Ngân hàng nhà nước pháp nhân theo điều kiện Thứ
nhất, ngân hàng nhà nước Việt Nam thành lập cách hợp pháp theo quy định pháp luật.
Thứ nhất, Ngân hàng nhà nước thuộc sở hữu nhà nước, do Nhà nước thành lập theo sắc
lệnh của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà số 15/SL ngày 06/5/1951.
Thứ hai, Ngân hàng nhà nước có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Từ khi thành lập đến nay, cơ
cấu tổ chức của Ngân hàng nhà nước có sự thay đổi qua các thời kì: - Giai đoạn từ 1951 -
1987: Hệ thống ngân hàng được tổ chức theo mô hình một cấp. Theo đó, Ngân hàng nhà
nước là hệ thống tổ chức thống nhất toàn ngành, là pháp nhân duy nhất. Ở trung ương có
Ngân hàng nhà nước trung ương là cơ quan lãnh đạo toàn bộ hệ thống các chi nhánh Ngân
hàng nhà nước và các ngân hàng chuyên doanh trực thuộc. Do mô hình tố chức như vậy
nên trong giai đoạn này, Ngân hàng nhà nước là một định chế hỗn hợp, vừa có tư cách
của cơ quan thuộc Chính phủ vừa có tư cách của ngân hàng trung ương và tư cách của
ngân hàng trung gian. Hệ thống tổ chức của Ngân hàng nhà nước trong giai đoạn từ 1951
- 1987: - Giai đoạn thí điểm cải cách hệ thống ngân hàng (1987 - 1990): Nhà nước tiến
hành cải cách thí điểm hệ thống ngân hàng phù hợp với nền kinh tế vận hành theo cơ chế
thị trường. Tương tự như các nước xã hội chủ nghĩa khác, Nhà nước ta tiển hành cải cách
hệ thống ngân hàng từ một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp. Nội dung cơ bản của
cuộc cải cách này là phân chia chức năng quản lí nhà nước và chức năng kinh doanh trong
hệ thống ngân hàng. Ở nước ta, quá trình cảĩ cách hệ thống ngân hàng trải qua giai đoạn
thí điểm. Việc cải cách thí điểm hệ thống ngân hàng được thực hiện trên cơ sở Quyết định
của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng số 218/QĐ ngày 3/7/1987 về việc cho làm thử chuyển
hoạt động ngân hàng sang kinh doanh XHCN, Nghị định của Chủ tịch Hội đồng bộ
trưởng số 53/HĐBT ngày 26/3/1988. Trong giai đoạn thí điểm cải cách hệ thống ngân
hàng, sự đổi mới về tổ chức của Ngân hàng nhà nước là từng bước chuyển giao chức năng
kinh doanh (chức năng của ngân hàng trung gian) cho các ngân hàng chuyên doanh. - Giai
đoạn sau cải cách hệ thống ngân hàng năm 1990: Trên cơ sở Pháp lệnh Ngân hàng nhà
nước Việt Nam, Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính năm 1990,
hệ thống ngân hàng được tổ chức theo mô hình hai cấp. Ngân hàng nhà nước là cơ quan
của Chính phủ và là ngân hàng trung ương. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992, Luật
tổ chức Chính phủ, Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 1997, Ngân hàng nhà nước
được tổ chức thành hệ thống tập trung, thống nhất có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Điều 7 Luật
Ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2010 quy định: Ngân hàng nhà nước được tổ chức
thành hệ thống tập trung, thống nhất, gồm bộ máy điều hành và các đơn vị hoạt động
nghiệp vụ tại trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện, đơn vị trực thuộc khác.
Thứ ba, Ngân hàng nhà nước có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước, được Nhà nước
giao vốn, tài sản để hoạt động. Đối với ngân hàng trung ương, luật của các nước quy định
về chế độ vốn pháp định với những nét đặc thù. Với loại hình ngân hàng trung uơng thành
lập dưới hình thức công ty cổ phần, nhà nước quy định cụ thể mức vốn pháp định. Với
loại hình ngân hàng trung ương thuộc sở hữu nhà nước, luật ngân hàng trung ương của
các nước quy định chế độ vốn pháp định theo hai phương thức: Mức vốn pháp định được
quy định cụ thể. Ở Việt Nam, Điều 42 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam quy định: vốn
pháp định của Ngân hàng nhà nước do ngân sách nhà nước cấp. Mức vốn pháp định của
Ngân hàng nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Ngoài vốn pháp định, Ngân
hàng nhà nước còn được Nhà nước giao các loại tài sản sản khác và được lập quỹ từ
chênh lệch thu chi nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Thứ tư, Ngân hàng nhà nước nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật.
3) Tại sao ngoài việc quản lý tổ chức và hoạt động của các TCTD, NHNNVN còn
quản lý việc vay và trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp khác?
CSPL: thông tư 03/2016/TT-NHNN, thông tư 05/2017/TT-NHNN. Đầu tiên khái niệm
của Vay nước ngoài của các doanh nghiệp là các khoản vay do doanh nghiệp được thành
lập và hoạt động theo luật pháp hiện hành của Việt Nam (kể cả các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài) trực tiếp ký vay với Bên cho vay nước ngoài theo phương thức tự vay,
tự chịu trách nhiệm trả nợ, hoặc vay thông qua việc phát hành các trái phiếu ra nước ngoài
(trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu ngân hàng...).
Vay nước ngoài của các doanh nghiệp bao gồm: Vay có bảo lãnh của Chính phủ; Vay có
bảo lãnh của ngân hàng hoặc các hình thức bảo đảm khác được quy định theo Điều 23
Quy chế này; Vay không có bảo lãnh hoặc bảo đảm.
Bảo lãnh vay vốn nước ngoài là cam kết của Cơ quan bảo lãnh với Bên cho vay nước
ngoài về việc trả nợ đầy đủ, đúng hạn của Bên đi vay (các doanh nghiệp). Trường hợp
Bên đi vay không trả được nợ hoặc trả không đủ nợ khi đến hạn, Cơ quan bảo lãnh sẽ chịu
trách nhiệm trả nợ thay cho Bên đi vay.
Bảo lãnh vay vốn nước ngoài có 2 loại: Bảo lãnh của Chính phủ: do Bộ Tài chính hoặc
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được Chính phủ uỷ quyền cấp theo quy chế bảo lãnh của
Chính phủ đối với vay vốn nước ngoài; Các khoản vay có bảo lãnh của Chính phủ được
quản lý như vốn vay của Chính phủ.
Bảo lãnh của ngân hàng: do các ngân hàng của Việt Nam cấp theo Quy chế bảo lãnh và
tái bảo lãnh do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định. Các khoản bảo lãnh
này không được coi là bảo lãnh của Chính phủ.
3 khoản vay thuộc đối tượng phải thực hiện đăng ký với Ngân hàng Nhà nước bao gồm:
khoản vay trung, dài hạn nước ngoài; khoản vay ngắn hạn được gia hạn mà tổng thời hạn
của khoản vay là trên 1 năm; khoản vay ngắn hạn không có hợp đồng gia hạn nhưng còn
dư nợ gốc tại thời điểm tròn 1 năm kể từ ngày rút vốn đầu tiên, trừ trường hợp Bên đi vay
hoàn thành việc trả nợ khoản vay trong thời gian 10 ngày kể từ thời điểm tròn 1 năm kể từ
ngày rút vốn đầu tiên. Ngân hàng Nhà nước (Vụ Quản lý ngoại hối) thực hiện việc xác
nhận đăng ký, đăng ký thay đổi đối với các khoản vay có kim ngạch vay trên 10 triệu
USD (hoặc loại ngoại tệ khác có giá trị tương đương) và các khoản vay nước ngoài bằng
đồng Việt Nam. Quản lý việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế, cấp bảo lãnh Chính phủ cho các tổ chức tín dụng vay vốn nước ngoài
theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, hướng dẫn và kiểm tra việc bảo lãnh của các
ngân hàng thương mại.
Trong việc quản lý vay và trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp khác, NHNN có chức
năng chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính xây dựng kế hoạch tổng
hạn mức vay thương mại hàng năm của các doanh nghiệp trình Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt; Tổng hợp tình hình thực hiện vay và trả nợ nước ngoài hàng năm đối với các
khoản vay của doanh nghiệp báo cáo Thủ tướng Chính phủ và đồng gửi Bộ Tài chính để
tổng hợp tình hình vay, trả nợ nước ngoài chung hàng năm của cả nước; Điều hành kế
hoạch tổng hạn mức vay thương mại nước ngoài hàng năm của các doanh nghiệp; tổ chức
việc đăng ký các khoản vay nước ngoài của các doanh nghiệp. Việc ngân hàng quản lý
việc cho vay và trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp khác là để đảm bảo việc nguồn
tiền không bị tổn thất quá lớn đối với doanh nghiệp trong nước và ngoài nước, điều chỉnh
lượng vay và trả nợ cân bằng tránh việc vỡ nợ giữa chừng khi đầu tư kinh doanh, tranh
việc chuyển nợ của doanh nghiệp thành nợ của Chính phủ, việc kiểm soát các khoản vay
nước ngoài ngắn hạn của doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện về vay ngắn hạn do
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định cho từng thời kỳ. Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam trình Thủ tướng Chính phủ duyệt hạn mức dư nợ ngắn hạn hàng
năm, bao gồm cả hạn mức thư tín dụng trả chậm cho các ngân hàng. Việc rút vốn vay và
chuyển tiền trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp phải thực hiện qua các ngân hàng hoạt
động trên lãnh thổ Việt Nam được phép hoạt động ngoại hối. Trường hợp rút vốn, trả nợ
bằng tài sản hàng hoá (vô hình hoặc hữu hình) không thực hiện qua ngân hàng, doanh
nghiệp phải báo cáo theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, và khi cần thiết,
phải có ý kiến của cơ quan quản lý Nhà nước của ngành, lĩnh vực có liên quan. Bảo đảm
các doanh nghiệp vay vốn nước ngoài có nghĩa vụ sử dụng vốn vay đúng mục đích, không
được sử dụng vốn vay ngắn hạn để đầu tư cho các dự án trung và dài hạn, hoàn trả nợ
(gốc và lãi) theo đúng cam kết trong hợp đồng vay nợ ký với Bên cho vay nước ngoài, tự
chịu mọi rủi ro và trách nhiệm trước pháp luật của Nhà nước trong quá trình thực hiện
khoản vay và trả nợ.
4) Chứng minh NHNNVN là ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, Ngân hàng nhà nước Việt Nam được tổ chức
theo mô hình ngân hàng một cấp. Theo mô hình này, Ngân hàng nhà nước Việt Nam vừa
có chức năng ngân hàng trung ương, thực hiện các hoạt động kinh doanh vừa là cơ quan
của Chính phủ. Kể từ sau cải cách hệ thống ngân hàng theo cơ chế kinh tế thị trường,
Ngân hàng nhà nước Việt Nam không còn thực hiện kinh doanh đối với nền kinh tế mà
thực hiện hai chức năng cơ bản là quản lí nhà nước về ngân hàng và chức năng ngân hàng
trung ương của đất nước.
Việc phát hành tiền tệ chính thức và hợp pháp theo những quy định trong luật pháp và
được chính phủ phê duyệt nhằm đảm bảo sự thống nhất trong lưu thông tiền tệ của đất
nước. Tiền VNĐ được phát hành bởi ngân hàng trung ương là hợp pháp duy nhất được
cưỡng chế dùng trong thanh toán. Nhiệm vụ của ngân hàng trung ương còn ở việc xác
định số lượng tiền cần phát hành, thời điểm và phương thức phát hành tùy thuộc vào tình
hình phát triển kinh tế để đảm bảo sự ổn định tiền tệ.
Ngân hàng nhà nước Việt Nam thực hiện quản lí nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân
hàng như: cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động đối với tổ chức tín dụng, cấp, thu
hồi giấy phép hoạt động ngân hàng đối với các tổ chức khác; quản lí việc vay, trả nợ nước
ngoài của doanh nghiệp.... với chức năng là ngân hàng trung ương.
Ngân hàng nhà nước thực hiện các hoạt động như phát hành tiền, điều hoà lưu thông tiền
tệ, cung ứng các dịch vụ ngân hàng cho các tổ chức tín dụng, tạm ứng ngân sách nhà
nước, phát hành trái phiếu cho chính phủ, mở tài khoản, cung cấp dụch vụ thông tin. Ngân
hàng nhà nước Việt Nam là ngân hàng của các ngân hàng vì có tất cả các chức năng như
nhận tiền gửi, tái cấp vốn, cho vay đặc biệt, cung cấp hệ thống thanh toán liên ngân hàng
5) Trình bày cơ cấu tổ chức, lãnh đạo, điều hành NHNNVN. Hội đồng chính sách
tiền tệ quốc gia có phải là một bộ phận thuộc NHNN hay không? Chức năng của cơ
quan này?
Do chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ngân hàng nhà nước vừa mang tính quản lí nhà
nước chuyên ngành, vừa mang tính điều hành kinh tế nên hệ thống tổ chức có những khác
biệt so với các cơ quan quản lí nhà nước chuyên ngành ở các lĩnh vực khác.
Theo quy định của Điều 7 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Ngân hàng nhà nước
được tổ chức thành hệ thống tập trung, thống nhất gồm bộ máy điều hành và các đơn vị
hoạt động nghiệp vụ tại trụ sở chính, các chi nhánh, văn phòng đại diện, các đơn vị trực
thuộc khác.
Trụ sở chính của Ngân hàng nhà nước Việt Nam đặt tại Hà Nội, là trung tâm lãnh đạo,
điều hành mọi hoạt động của Ngân hàng nhà nước.
Chi nhánh Ngân hàng nhà nước là đơn vị phụ thuộc của Ngân hàng nhà nước, không có
tư cách pháp nhân, chịu sự lãnh đạo và điều hành tập trung thống nhất của thống đốc. Chi
nhánh Ngân hàng nhà nước thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo uỷ quyền của Thống
đốc.
Văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của Ngân hàng nhà nước, có nhiệm vụ đại diện
theo sự uỷ quyền của Thống đốc. Khác với chi nhánh Ngân hàng nhà nước, văn phòng đại
diện không được tiến hành hoạt động nghiệp vụ ngân hàng.
Các đơn vị trực thuộc Ngân hàng nhà nước gồm có các đơn vị sự nghiệp (cơ sở đào tạo,
nghiên cứu khoa học, cung ứng dịch vụ tin học, thông tin và báo chí chuyên ngành ngân
hàng) V.V..
Lãnh đạo, điều hành NHNNVN:
Bộ máy lãnh đạo, điều hành ngân hàng trung ương ở các nước có hình thức tổ chức đa
dạng nhưng có thể khái quát thành hai dạng chính là bộ máy lãnh đạo, điều hành tập thể
và bộ máy lãnh đạo điều hành theo chế độ một lãnh đạo (thủ trưởng chế).
Với mô hình bộ máy lãnh đạo, điều hành ngân hàng trung ương hoạt động theo chế độ tập
thể thì ngoài thống đốc (chủ tịch) là người đại diện của ngân hàng trung ương còn có hội
đồng quản trị (hoặc hội đồng chính sách tiền tệ hoặc hội đồng ngân hàng trung ương). Cơ
chế hội đồng quản trị thường được áp dụng đối với loại hình ngân hàng trung ương thành
lập dưới dạng công ty cổ phần. Ví dụ: Hội đồng quản trị của Hệ thống dự trữ liên bang
Hoa Kỳ (FED), Hội đồng quản trị của Ngân hàng quốc gia Hungari... Cơ chế hội đồng
chính sách tiền tệ hay hội đồng ngân hàng trung ương thường được áp dụng đối với loại
hình ngân hàng trung ương thuộc sở hữu nhà nước. Ví dụ: Hội đồng chính sách tiền tệ của
Ngân hàng trung ương Pháp, Ngân hàng trung ương Hàn Quốc... phổ biến ở các nước, hội
đồng quản trị, hội đồng chính sách tiền tệ, hội đồng ngân hàng trung ương là cơ cấu có
quyền lực đối với hoạt động của ngân hàng trung ương.
Với mô hình bộ máy lãnh đạo, điều hành ngân hàng trung ương hoạt động theo chế độ
một lãnh đạo thì thống đốc hoặc chủ tịch ngân hàng trung ương là người duy nhất chịu
trách nhiệm trước nhà nước về toàn bộ hoạt động của ngân hàng trung ương. Chẳng hạn,
theo Điều 10 Luật ngân hàng nhân dân Trung Quốc năm 1995, thống đốc là người lãnh
đạo và chịu trách nhiệm hoàn toàn đối với hoạt động của ngân hàng trung ương trước Nhà
nước.
Ở Việt Nam trước đây, theo quy định tại Điều 4 và Điều 14 Pháp lệnh Ngân hàng nhà
nước Việt Nam năm 1990, việc quản trị Ngân hàng nhà nước do hội đồng quản trị đảm
nhiệm còn việc điều hành đặt dưới quyền của Thống đốc.
Điều 11 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 1997 quy định: Thống đốc Ngân hàng
nhà nước là thành viên Chính phủ, chịu trách nhiệm lãnh đạo và điều hành Ngân hàng nhà
nước.
Điều 8 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2010 quy định:
1. Thống đốc Ngân hàng nhà nước là thành viên của Chính phủ, là người đứng đầu và
lãnh đạo Ngân hàng nhà nước; chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, trước Quốc
hội về quản lí nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng.
2. Thống đốc Ngân hàng nhà nước có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Tổ chức và chỉ đạo thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia theo thẩm quyền;
b) Tổ chức và chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ngân hàng nhà nước theo quy
định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan;
c) Đại diện pháp nhân của Ngân hàng nhà nước.
Như vậy, cơ chế lãnh đạo Ngân hàng nhà nước ở Việt Nam theo chế độ thủ trưởng chế.
Thống đốc Ngân hàng nhà nước là chức vụ vừa chịu trách nhiệm trước cơ quan hành pháp
(Chính phủ), vừa chịu trách nhiệm trước cơ quan lập pháp (Quốc hội).
Chức năng của Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia quy định tại điều 2 Quyết định
số 58/2011/QDD-TTG, điều 4 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì Hội đồng Tư vấn
chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia được thành lập để tư vấn cho Chính phủ và Thủ
tướng Chính phủ trong việc hoạch định và quyết định những vấn đề quan trọng về chủ
trương, chính sáchtài chính, tiền tệ thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ và Thủ
tướng Chính phủ. Vậy nên,
6) Có ý kiến cho rằng: Việc quy định thành lập chi nhánh NHNNVN ở mỗi tỉnh,
thành phố như hiện nay là không cần thiết, làm cho bộ máy quản lý hành chính cồng
kềnh, hoạt động kém hiệu quả. Anh (chị) có đồng ý với quan điểm trên hay không?
Giải thích?
Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi tắt là
Chi nhánh) là đơn vị phụ thuộc của Ngân hàng Nhà nước, chịu sự lãnh đạo và điều hành
tập trung, thống nhất của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (sau đây gọi tắt là Thống đốc)
có chức năng tham mưu, giúp Thống đốc quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân
hàng trên địa bàn và thực hiện một số nghiệp vụ ngân hàng Trung ương theo sự uỷ quyền
của Thống đốc. Chi nhánh là đơn vị hạch toán, kế toán phụ thuộc; có con dấu và bảng cân
đối tài khoản theo quy định của pháp luật.
Chi nhánh của NHNN được bố trí tại tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Hầu hết các đơn vị này có chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức giống nhau, mặc dù
mỗi địa phương mang một đặc thù riêng, mức độ hoạt động kinh tế, hoạt động ngân hàng
và từ đó yêu cầu đối với các dịch vụ của NHNN có khác nhau. Điều này đã làm cho bộ
máy NHNN trở nên cồng kềnh, giảm tính tập trung thống nhất của toàn hệ thống và
nguồn lực NHNN bị phân tán. Với xu hướng tập trung hoá các hoạt động thanh toán và
thanh tra giám sát ngân hàng; hướng đổi mới hoạt động cung ứng tiền mặt và dịch vụ an
toàn kho quỹ …, tổ chức và hoạt động của hệ thống chi nhánh sẽ có sự thay đổi căn bản
theo hướng hình thành các chi nhánh khu vực, không phụ thuộc vào địa giới hành chính.
Vậy nên, nhóm em đồng ý với quan điểm trên
7) Anh (chị) có nhận xét gì về vị trí pháp lý và vai trò của NHNNVN hiện nay? Có ý
kiến cho rằng nên nâng cao hơn nữa vị thế và tính độc lập của NHNN trong bộ máy
nhà nước ta hiện nay để NHNN có thể phát huy tích cực hiệu quả hoạt động của
mình. Anh (chị) hãy bày tỏ suy nghĩ của mình?
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, Ngân hàng Trung
ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối; thực hiện chức năng của Ngân hàng
Trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ
tiền tệ cho Chính phủ; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của
Ngân hàng Nhà nước.
Ngân hàng nhà nước vừa có tư cách pháp lý của cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành
vừa có tư cách pháp lý của ngân hàng trung ương nên chức năng của nó cũng được pháp
luật quy định theo hai phương diện: Chức năng quản lý nhà nước và chức năng ngân hàng
trung ương.
Các chức năng của Ngân hàng nhà nước thể hiện bằng các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể
được quy định tại Điều 4 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2010.
Theo đó, với vị trí và chức năng này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đóng vai trò rất
quan trọng trong quản lý nhà nước lĩnh vực Ngân hàng nói riêng, trong công tác điều
hành bộ máy nhà nước nói chung. Vì vậy, pháp luật hiện hành trao cho Ngân hàng Nhà
nước các nhiệm vụ, quyền hạn bao gồm nhiệm vụ, quyền hạn trong công tác quản lý
chung với vai trò là một cơ quan ngang bộ như các Bộ khác trong cơ cấu tổ chức của bộ
máy nhà nước đồng thời thực hiện nhiệm vụ quản lý các lĩnh vực cụ thể trong phạm vi
xây dựng như: quản lý về hoạt động tiền tệ, ngoại hối, hoạt động kinh doanh vàng, nghiệp
vụ ngân hàng, công tác kiểm tra, thanh tra,...
Về địa vị pháp lý, NHNN Việt Nam vẫn giữ nguyên như thể hiện trong Luật NHNN Việt
Nam 1997 để phù hợp với thể chế chính trị và Hiến pháp 1992. Tuy nhiên, cách thiết kế
trong Luật NHNN 2010 đã thể hiện rõ hơn vị trí của NHNN là cơ quan ngang Bộ của
Chính phủ, đồng thời xác định rõ các chức năng, nhiệm vụ của NHNN với tư cách là
NHTƯ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện các chức năng về quản
lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng, qua đó, khẳng định mối quan hệ
chặt chẽ giữa hai chức năng quan trọng của một NHTƯ: Thực thi CSTT và giám sát an
toàn hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng. Đây là nội dung quan trọng đã được
thực tiễn chứng minh qua cuộc khủng hoảng tài chính ở các nước vừa qua. Theo đó, cơ
cấu tổ chức, đội ngũ cán bộ và cơ chế vận hành được thiết kế, xây dựng theo hướng đảm
bảo thực hiện được đồng thời cả hai chức năng nói trên.
Vai trò của chính sách tiền tệ trong nền kinh tế
Trong nền kinh tế vĩ mô, chính sách tiền tệ có vai trò vô cùng quan trọng trong việc điều
tiết khối lượng tiền lưu thông trong toàn bộ nền kinh tế. Theo đó, thông qua chính sách
tiền tệ, ngân hàng Trung ương có thể kiểm soát hệ thống tiền tệ, từ đó kiềm chế và đẩy lùi
lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra,
chính sách tiền tệ còn là công cụ để kiểm soát toàn bộ hệ thống các ngân hàng thương mại
và các tổ chức tín dụng. Cụ thể như sau:
Khống chế tỷ lệ thất nghiệp - Tạo ra công ăn việc làm
Chính sách tiền tệ dù mở rộng hay thu hẹp cũng sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử
dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh doanh, từ đó ảnh hưởng tới tỷ
lệ thất nghiệp. Theo đó, để có một tỷ lệ thất nghiệp giảm thì nền kinh tế phải chấp nhận
một tỷ lệ lạm phát tăng lên.
Điều này đặt ra cho ngân hàng Trung ương trách nhiệm phải vận dụng các công cụ tiền tệ
để góp phần tăng cường, mở rộng đầu tư sản xuất kinh doanh, đồng thời tham gia tích cực
vào sự tăng trưởng liên tục, ổn định và khống chế tỷ lệ thất nghiệp không vượt quá mức
tăng thất nghiệp tự nhiên.
Tăng trưởng kinh tế
Đối với chính sách tiền tệ, tăng trưởng kinh tế chính là mục tiêu hàng đầu và quan trọng
nhất. Sự tăng trưởng kinh tế được thể hiện thông qua hai yếu tố: Lãi suất và số cầu tổng
quát. Theo đó, khối tiền tệ tăng hay giảm đều có tác động mạnh đến lãi suất và số cầu
tổng quát, từ đó tác động đến sự gia tăng đầu tư sản xuất, tác động lên tổng sản lượng
quốc gia, nghĩa là tác động lên sự tăng trưởng của nền kinh tế. Do đó, chính sách tiền tệ
phải nhằm vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế thông qua tăng hay giảm khối tiền tệ thích
hợp trong nền kinh tế.
Ổn định giá cả trên thị trường
Trong nền kinh tế vĩ mô cũng như vi mô, ổn định giá cả có ý nghĩa quan trọng giúp cho
Nhà nước hoạch định phương hướng phát triển kinh tế hiệu quả vì đã loại trừ được sự
biến động của giá cả. Việc ổn định giá cả sẽ giúp cho môi trường đầu tư ổn định từ đó góp
phần thu hút vốn đầu tư, thúc đẩy các doanh nghiệp, các cá nhân sản xuất đem lại nguồn
lợi cho mình cũng như xã hội.
Ổn định lãi suất
Việc ổn định lãi suất chính là thực hiện lãi suất tín dụng cung ứng phương tiện thanh toán,
cho nền kinh tế quốc dân thông qua nghiệp vụ tín dụng ngân hàng. Theo đó, dựa trên các
quỹ cho vay được tạo lập từ các nguồn tiền gửi của xã hội và với một hệ thống lãi suất
linh hoạt, phù hợp với sự vận động của cơ chế thị trường.
Ổn định thị trường tài chính và ngoại hối
Chính sách tài chính tiền tệ làm ổn định thị trường tài chính để điều hành nền kinh tế của
mỗi chính phủ. Ổn định thị trường tài chính cũng được thúc đẩy bởi sự ổn định lãi suất,
biến động trong lãi suất có thể gây nên sự mất ổn định cho các tổ chức tài chính.
Đối với thị trường ngoại hối, việc tỷ giá ổn định không chỉ có tác động tích cực mà nó còn
có ý nghĩa rất lớn đối với việc củng cố niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài bởi chính sách
tỷ giá luôn là một yếu tố vĩ mô quan trọng để nhà đầu tư nước ngoài xem xét khi họ có ý
định đầu tư vào một quốc gia nào đó. Biến động tỷ giá sẽ ảnh hưởng đến sức mua của
đồng tiền, từ đó tác động đến hoạt động của nền kinh tế ( tùy theo mức độ hướng ngoại
của nền kinh tế).
Tuy nhiên, bên cạnh các vai trò quan trọng thì chính sách tiền tệ cũng tồn tại một vài hạn
chế nhất định:
Hiệu lực của chính sách tiền tệ sẽ thấp khi đầu tư tư nhân không nhạy cảm với lãi suất.
Khi lãi suất tăng, chi phí (vốn) đầu vào của doanh nghiệp tăng lên, điều này làm cho giá
hàng hoá đầu ra tiếp tục tăng cao, lạm phát không được kiểm soát. Do vậy, chính sách
tiền tệ sẽ kém hiệu quả.
Chính sách tiền tệ sẽ kém hiệu quả nếu chính phủ không cam kết kiểm soát việc in thêm
tiền. Theo đó, khi chính phủ muốn kiểm soát lạm phát bằng việc sử dụng chính sách tiền
tệ thắt chặt, trước áp lực bù đắp thâm hụt ngân sách, chính phủ có thể in thêm tiền. Điều
đó sẽ gây tác động ngược chiều với chính sách tiền tệ thắt chặt.
Việc sử dụng chính sách tiền tệ mở rộng có thể khiến lãi suất xuống mức quá thấp, điều
này khiến cho các cá nhân không muốn gửi tiền vào ngân hàng và quyết định nắm giữ
tiền mặt. Điều này khiến hệ thống ngân hàng thương mại sẽ thiếu vốn cho vay và nó sẽ
tác động đến việc đầu tư tư nhân không thể mở rộng, làm giảm hiệu quả của chính sách.
Vị trí pháp lí của Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Khoản 1 Điều 1 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam do Quốc hội thông qua ngày
12/12/1997 quy định: "Ngân hàng nhà nước Việt Nam (sau đây gọi tắt là Ngân hàng nhà
nước) là cơ quan của Chính phủ và là ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam". Để xác định rõ hơn địa vị pháp lí của Ngân hàng nhà nước Việt
Nam trong bộ máy của Chính phủ, Điều 2 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2010
quy định: Ngân hàng nhà nước Việt Nam là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân
hàng trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Như vậy, theo quy định này, Ngân hàng nhà nước vừa có vị trí là một bộ trong cơ cấu tổ
chức của Chính phủ, vừa có vị trí là ngân hàng trung ương.
Với vị trí pháp lí là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, theo quy định của Hiến pháp năm
2013, Luật tổ chức Chính phủ, Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Ngân hàng nhà nước
là cơ quan ngang bộ có chức năng quản lí nhà nước về tiền tệ và ngân hàng.
Với vị trí pháp lí của ngân hàng trung ương, Ngân hàng nhà nước là ngân hàng phát hành
tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.
Hoạt động vì lợi ích chung của quốc gia là một trong những dấu hiệu thể hiện tính công
quyền của ngân hàng trung ương. Chính vì vậy, luật ngân hàng trung ương của các nước
thường quy định cụ thể về mục tiêu hoạt động của ngân hàng trung ương. Chẳng hạn,
Điều 3 Chương I Luật ngân hàng Cộng hoà liên bang Đức (thông qua ngày 26/7/1957)
quy định nhiệm vụ và mục tiêu hoạt động của Ngân hàng Liên bang Đức như sau: Ngân
hàng liên bang Đức có nhiệm vụ điều tiết hoạt động lưu thông tiền tệ và cung ứng tín
dụng cho nền kinh tế nhằm mục đích ổn định tiền tệ... Còn Ngân hàng quốc gia Hungary,
mặc dù được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần nhưng có mục tiêu hoạt động là
nhằm hỗ trợ việc thực hiện các chương trình kinh tế của Chính phủ thông qua chính sách
tiền tệ và tín dụng, ổn định và bảo vệ sức mua trong và ngoài nước của đồng tiền quốc gia
(Điều 3,4 Luật ngân hàng quốc gia Hungary năm 1991).
Tính độc lập
Hiện nay, NHNN là một cơ quan hành chính nhà nước với tất cả các ràng buộc, quy định
của hành chính. Với cơ cấu như vậy, khó có thể độc lập và có chính sách kiên quyết và đủ
sức nặng. Do đó, tăng cường tính độc lập cho NHNN là mục tiêu cần hướng tới nhằm đạt
được hiệu quả trong thực thi CSTT và ổn định thị trường tài chính tiền tệ nói chung.
Thứ nhất, cần phải nhấn mạnh rằng, sự độc lập này không thể đến từ một quyết định
thuần tuý, từ văn bản giấy tờ mà phải đến từ việc thiết kế hệ thống, thể chế, nội dung của
NHNN, cấu trúc lại bộ máy của NHNN.
Thứ hai, sự độc lập này chỉ có tính chất tương đối. Nói “tương đối” là bởi có những cái
cho NHNN độc lập họ cũng không dám độc lập vì nó phải nằm trong một hệ thống, nhất
là trong hệ thống quản lý kinh tế của chúng ta những chỉ tiêu kinh tế đan xen nhau, những
chỉ tiêu kinh tế của NHNN còn phụ thuộc vào cả nền kinh tế. Cho nên điều quan trọng là
tạo điều kiện cho NHNN độc lập để họ điều hành tốt, thực hiện đúng chức năng của họ,
còn cái gì đòi hỏi có sự phối hợp thì cũng không nên quá đòi hỏi sự độc lập ở đây.
Thứ ba, vấn đề của NHNN Việt Nam không nằm ở chỗ lựa chọn mô hình NHTƯ nào mà
lựa chọn cấp độ độc lập tự chủ nào cho phù hợp với NHNN trong bối cảnh hiện nay.
Với cấp độ độc lập thứ nhất, “độc lập chủ trong thiết lập mục tiêu hoạt động”, ngoài các
lý do về trình độ phát kinh tế, tính đặc thù về thể chế chính trị và hệ thống pháp luật,
trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống tài chính nói riêng đang trong
quá trình chuyển đổi mạnh mẽ, việc dự báo dựa trên các biến số kinh tế - tài chính là rất
khó khăn. Bên cạnh đó, năng lực thống kê và dự báo của chúng ta hiện vẫn còn rất hạn
chế. Vì vậy, mức độ độc lập này không phù hợp với NHNN Việt Nam ít nhất là trong thời
gian trung hạn.
Với cấp độ độc lập thứ hai, “độc lập tự chủ trong thiết lập chỉ tiêu hoạt động”, tương tự
như lý do vừa nêu ở trên, cấp độ độc lập tự chủ này cũng tỏ ra không phù hợp với NHNN
Việt Nam trong giai đoạn trước mắt. Tuy nhiên, trong tương lai, cấp độ độc lập này có thể
được cân nhắc, xem xét khi điều kiện cho phép (các biến số kinh tế - tài chính đã trở nên
ổn định hơn; năng lực thống kê, dự báo được cải thiện).
Theo ý kiến của các chuyên gia, tại thời điểm hiện nay, cấp độ “Độc lập tự chủ trong lựa
chọn công cụ điều hành” tỏ ra phù hợp với NHNN Việt Nam hơn cả, đặc biïåt laâ trong
bối cảnh việc điều hành CSTT ở nước ta đã từng bước được đổi mới theo nguyên tắc thị
trường, dần loại bỏ các công cụ trực tiếp và sử dụng các công cụ gián tiếp. Hơn nữa, mức
độ độc lập tự chủ này cho phép dung hòa giữa mục tiêu của CSTT với các mục tiêu của
chính sách kinh tế trong một giai đoạn nhất định.[i]
8) NHNNVN có được phép tiến hành hoạt động ngân hàng không? Tại sao? Lợi
nhuận có được xử lý như thế nào?
Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh cung ứng thường xuyên một hoặc một số nghiệp
vụ như nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
NHNNVN được phép tiến hành hoạt động ngân hàng. Đó là, huy động vốn của nhân dân,
điều hòa và mở rộng tín dụng để nâng cao sản xuất của nhân dân và phát triển kinh tế nhà
nước. Vì Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt
động ngân hàng và ngoại hối; thực hiện chức năng Ngân hàng trung ương về phát hành
tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Hoạt
động của Ngân hàng Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền; bảo đảm sự an toàn hoạt
động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm sự an toàn, hiệu quả của hệ
thống thanh toán quốc gia; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Thông tư 72 năm 1992 của Bộ tài chính quy định chế độ quản lý tài chính đối với ngân
hàng nhà nước. Lợi nhuận có được phải nộp vào NSNN sau khi được Bộ Tài chính kiểm
tra xét duyệt quyết toán Tài chính năm.
9) Chính sách tiền tệ quốc gia là gì? Việc thực hiện chính sách tiền tệ này như thế
nào? Bằng hiểu biết của mình, anh (chị) hãy cho ví dụ thực tiễn.
Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 quy định: “Chính sách tiền tệ quốc gia là các quyết
định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm quyết định
mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng
các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra”.
Theo Luật NHNN năm 2010, Thống đốc NHNN quyết định việc sử dụng công cụ thực
hiện CSTT quốc gia, bao gồm tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp
vụ thị trường mở và các công cụ, biện pháp khác theo quy định của Chính phủ.
- Tái cấp vốn: Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của NHNN nhằm cung ứng vốn ngắn
hạn và phương tiện thanh toán cho TCTD. NHNN quy định và thực hiện việc tái cấp vốn
cho TCTD theo các hình thức như cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá; chiết
khấu giấy tờ có giá; các hình thức tái cấp vốn khác.
- Lãi suất: NHNN công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác để
điều hành CSTT, chống cho vay nặng lãi. Trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến
bất thường, NHNN quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa các
TCTD với nhau và với khách hàng, các quan hệ tín dụng khác.(Xem Bảng lãi suất của
NHNN)
- Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam được hình thành trên cơ sở cung cầu
ngoại tệ trên thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. NHNN công bố tỷ giá hối đoái,
quyết định chế độ tỷ giá, cơ chế điều hành tỷ giá. (Xem Bảng số liệu tỷ giá trung tâm của
NHNN)
- Dự trữ bắt buộc: Dự trữ bắt buộc là số tiền mà TCTD phải gửi tại NHNN để thực hiện
CSTT quốc gia. NHNN quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với từng loại hình TCTD và
từng loại tiền gửi tại TCTD nhằm thực hiện CSTT quốc gia. NHNN quy định việc trả lãi
đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc, tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc của từng loại hình TCTD
đối với từng loại tiền gửi. (Xem Bảng tỷ lệ dự trữ bắt buộc của NHNN)
- Nghiệp vụ thị trường mở: NHNN thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thông qua việc
mua, bán giấy tờ có giá đối với TCTD; quy định loại giấy tờ có giá được phép giao dịch
thông qua nghiệp vụ thị trường mở.
Ví dụ: Kinh tế trong nước năm 2021 đối mặt với những khó khăn chưa từng có do tác
động nghiêm trọng của đại dịch COVID-19 lên đời sống nhân dân và sản xuất, kinh
doanh, lưu thông hàng hóa, dịch vụ. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước đã kịp thời
đưa ra các quyết sách hỗ trợ nền kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam với sứ mệnh điều hành chính sách tiền tệ, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ
mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế đã chỉ đạo toàn ngành ngân hàng triển khai nhiều giải pháp
căn cơ để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, duy trì vốn cho sản xuất, góp
phần thực hiện chính sách an sinh xã hội.
Chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng đồng hành với doanh nghiệp và người dân
vượt qua khó khăn trong đại dịch
Bám sát các chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, ngay từ đầu
năm, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã chủ động, quyết liệt, chỉ đạo hệ thống các tổ chức
tín dụng (TCTD) triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ
(CSTT), phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa (CSTK) và các chính sách vĩ mô khác
nhằm bảo đảm kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời triển khai
hàng loạt các giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn, đồng hành với doanh nghiệp và người
dân. Điều hành CSTT của NHNN phù hợp với xu hướng của nhiều Ngân hàng Trung
ương trên thế giới, mặt khác có những đặc điểm riêng phù hợp với đặc thù và tính chất
cấp bách của tình hình trong nước, bao gồm những nhóm giải pháp sau đây:
Thứ nhất, bảo đảm thanh khoản trên thị trường tiền tệ, tạo điều kiện để các TCTD tiếp
tục giảm lãi suất cho vay, sẵn sàng nguồn vốn hỗ trợ các TCTD đẩy mạnh tín dụng. Đại
dịch COVID-19 khiến nhiều hoạt động ngưng trệ, di chuyển của người dân bị hạn chế,
sản xuất, lưu thông đứt gãy, dòng tiền gián đoạn. Giải pháp hỗ trợ thanh khoản được hầu
hết các Ngân hàng Trung ương triển khai nhằm hỗ trợ các thị trường vận hành thông suốt,
duy trì dòng tiền, hỗ trợ ngân hàng và doanh nghiệp bảo đảm khả năng thanh toán. Tương
tự, thanh khoản được duy trì dồi dào tại hệ thống các TCTD trên cơ sở NHNN mua lượng
lớn ngoại tệ, đưa tiền đồng ra thị trường, đồng thời hằng ngày chào mua giấy tờ có giá
trên thị trường mở nhằm phát tín hiệu sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản, ổn định thị trường tiền
tệ. Điều này thể hiện qua việc lãi suất liên ngân hàng - là mức lãi suất vay mượn lẫn nhau
kỳ hạn ngắn giữa các TCTD đã giảm xuống mức rất thấp trong lịch sử, khoảng từ
0,5%/năm đến 0,9%/năm cuối tháng 9, giảm chi phí vốn đầu vào cho TCTD, qua đó tạo
điều kiện thuận lợi để các TCTD giảm lãi suất cho vay.
Thứ hai, ổn định lãi suất điều hành ở mức thấp, tạo điều kiện để mặt bằng lãi suất cho vay
và huy động của TCTD giảm. Với đặc điểm của một nền kinh tế đang phát triển, nhu cầu
vốn lớn song lại phụ thuộc nhiều vào hệ thống ngân hàng nên việc giảm lãi suất cho vay
tại Việt Nam không dễ dàng. Để kịp thời tháo gỡ khó khăn của doanh nghiệp và người
dân, ngay trong năm 2020 khi dịch bệnh mới xuất hiện, NHNN đã 3 lần giảm lãi suất điều
hành với mức giảm từ 1,5%/năm đến 2%/năm và là một trong những Ngân hàng Trung
ương giảm lãi suất mạnh nhất khu vực; trong năm 2021, NHNN giữ nguyên các mức lãi
suất thấp này, kết hợp với việc duy trì thanh khoản dồi dào trên thị trường tiền tệ. Kết quả
là, đến cuối tháng 9-2021, lãi suất huy động và cho vay bằng VND bình quân của các
TCTD giảm tương ứng khoảng 0,46%/năm và 0,72%/năm so với cuối năm 2020 sau khi
đã giảm khoảng 1%/năm trong năm 2020. Lãi suất cho vay bình quân đối với các lĩnh
vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ (gồm lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; công
nghiệp hỗ trợ; doanh nghiệp vừa và nhỏ; xuất khẩu; ứng dụng công nghệ cao) là
4,4%/năm.
Thứ ba, bảo đảm cung ứng vốn tín dụng đầy đủ và kịp thời cho nhu cầu sản xuất, kinh
doanh trong nền kinh tế, linh hoạt điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng đối
với các TCTD theo hướng tăng trưởng tín dụng đi đôi với chất lượng. Với đặc thù thị
trường tài chính phụ thuộc nhiều vào hệ thống ngân hàng, việc điều hành tín dụng luôn
cần có sự hài hòa, hợp lý. Tăng trưởng tín dụng quá cao gây rủi ro lạm phát, song tăng
trưởng tín dụng quá thấp lại có thể ảnh hưởng đến nguồn vốn cho tăng trưởng kinh tế.
Trên cơ sở mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6,5% và lạm phát khoảng 4% do Quốc hội và
Chính phủ đề ra, NHNN đã đưa ra chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng 12% trong
năm 2021, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến tình hình thực tế.
Bên cạnh đó, NHNN tiếp tục chỉ đạo các TCTD tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả,
tập trung tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên; kiểm soát chặt chẽ tín dụng
vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, chứng khoán, các dự án xây dựng -
chuyển giao - vận hành (BOT), dự án xây dựng - vận hành (BT) giao thông; tăng cường
quản lý rủi ro đối với tín dụng tiêu dùng; tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và
người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng, góp phần hạn chế tín dụng đen.
Trên cơ sở đó, tín dụng tăng trưởng ngay từ đầu năm và cao hơn so cùng kỳ năm 2020,
kịp thời đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Đến cuối tháng 10-2021, tín dụng tăng trưởng
8,72% so với cuối năm 2020, tăng 14,29% so với cùng kỳ 2020 (cùng kỳ năm 2020 tăng
6,71% so với cuối năm 2019 và tăng 10,24% so với cùng kỳ 2019). Cơ cấu tín dụng
chuyển dịch tích cực theo hướng tập trung vốn cho lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, cả 5
lĩnh vực ưu tiên có mức tăng trưởng tín dụng cao hơn mức tăng của cùng kỳ năm 2020,
hỗ trợ tích cực quá trình cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển thủy sản, công nghiệp
hỗ trợ, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp ứng dụng công
nghệ cao. Tăng trưởng tín dụng các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, chứng
khoán, tiêu dùng vẫn trong tầm kiểm soát của NHNN.
Thứ tư, ổn định thị trường ngoại tệ. Nền kinh tế Việt Nam có độ mở cao (tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu cuối năm 2020 khoảng 200% GDP), việc điều hành tỷ giá của Việt Nam
luôn phải đối mặt với những thách thức đến từ bên ngoài như việc các nước lớn đang dần
thu hẹp các gói nới lỏng tiền tệ, đồng USD lên giá... Ngay cả đối với thị trường trong
nước, yếu tố tâm lý cũng luôn thường trực mỗi khi thị trường tài chính thế giới biến động.
Trước tình hình đó, công tác điều hành tỷ giá vẫn tiếp tục bảo đảm linh hoạt, bám sát
cung cầu thị trường, các cân đối vĩ mô, tiền tệ và mục tiêu CSTT. Trong khi xu hướng rút
vốn khỏi các nước mới nổi và đang phát triển khiến đồng tiền của nhiều nước trong khu
vực mất giá khá lớn so với USD (USD tăng 4,65%, Baht Thái giảm 11,2%, Ringgit
Malaysia giảm 2,68%, Đô-la Singapore giảm 1,95%) thì tỷ giá VND/USD tiếp tục ổn
định, đến cuối tháng 10, tỷ giá trung tâm tương đương cuối năm trước. Thanh khoản thị
trường thông suốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp được đáp ứng đầy đủ, kịp thời.
Thứ năm, triển khai nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng
bởi đại dịch COVID-19. Ngân hàng nhà nước chỉ đạo các TCTD đồng hành, sát cánh với
các doanh nghiệp, người dân thông qua triển khai hàng loạt các giải pháp hỗ trợ khách
hàng bị ảnh hưởng bởi đại dịch, liên tục rà soát, chỉnh sửa để các biện pháp hỗ trợ ngày
càng thiết thực hơn
10) Tái cấp vốn là gì? Cách thức vận hành công cụ này thế nào ? Thực tế việc sử
dụng công cụ này hiện nay ?
Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng có bảo đảm của Ngân hàng Nhà nước nhằm cung
ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các ngân hàng thương mại và các tổ
chức tín dụng bao gồm các hoạt động: chiết khấu, tái chiết khấu các chứng từ có giá, cho
vay có đảm bảo bằng các chứng từ có giá. Mục tiêu: + Đáp ứng vốn kịp thời cho các
NHTM + Điều tiết lượng tiền trong lưu thông phù hợp với mục tiêu.
Theo quy định của pháp luật hiện hành tổ chức tín dụng được vay vốn của NHNN là các
tổ chức tín dụng là ngân hàng được vay ngắn hạn bằng việc tái cấp vốn của NHNN thông
qua các hình thức cho vay lại theo hồ sơ tín dụng, chiết khấu, cho vay, cầm cố chứng từ
có giá.
Ngoài ra TCTD là ngân hàng trong trường hợp đặc biệt tạm thời mất khả năng thanh toán
có nguy cơ mất an toàn cho hệ thống các tổ chức dụng thì NHNN sẽ là đứng ra cho vay
như cứu cánh cuối cùng.
Tái cấp vốn hình thành trên cơ chế NHNN cho các TCTD là ngân hàng vay trên cơ sở bù
đắp thiếu hụt trong thanh toán để đáp ứng nhu cầu về vốn cho các TCTD để cung ứng vốn
cho khách hàng, tạo ra kênh cung ứng vốn tín dụng có sự kiểm soát của NHNN.
Khi nhu cầu của khách hàng cần vốn lên cao trong khi các tổ chức tín dụng thiếu tiền
( với vai trò là chủ thể duy nhất được quyền phát hành tiền và thực hiện chính sách tiền tệ
quốc gia NHNN không kinh doanh tiền tệ, không trực tiếp giao dịch với khách hàng mà
phải thông qua ngân hàng trung gian là các tổ chức tín dụng) thì TCTD là ngân hàng sẽ
gửi yêu cầu lên NHNN để vay, NHNN dựa vào hồ sơ tín dụng để cho TCTD vay.
NHNN cung ứng tiền cho TCTD khi dựa vào tình hình thực tế của đất nước. Nếu như tình
hình đất nước lạm phát lên cao thì NHNN sẽ điều chỉnh tăng lãi suất vay ngắn hạn nhằm
mục đích hạn chế lượng tiền lưu thông trên thị trường, Để tránh tình trạng lạm phát khi
bơm tiền vào thị trường quá nhiều sẽ dẫn đến lạm phát. Để đảm bảo có thể rút vốn về khi
cần thiết tạo tính linh hoạt để các ngân hàng huy động vốn thêm từ bên ngoài, nhanh
chóng thu nguồn vốn về để đảm bảo ổn định tỷ giá cho kinh tế thị trường. Ngược lại nếu
như tình hình đất nước giảm lạm phát thì NHNN sẽ tiến hành giảm lãi suất vay ngắn hạn
nhằm mục đích phân bổ hợp lý số tiền lưu thông trên thị trường, kích thích kích cầu, nâng
cao tỷ giá, kích thích sử dụng tiền…, Như vậy TCTD là ngân hàng có vai trò quan trọng
trong việc hoạch định các chính sách của NHNN.
12) Khái niệm lãi suất ? Hiện nay NHNN sử dụng công cụ lãi suất để điều tiết nền
kinh tế như thế nào ?
- Lãi suất ngân hàng chính là giá của quyền sử dụng một khoản tiền trong một thời hạn
nhất định mà người sử dụng khoản tiền ấy phải trả cho người sở hữu khoản tiền. Lãi suất
ngân hàng thường được thể hiện bằng tỉ lệ phần trăm, phần nghìn hoặc phần vạn trên số
tiền gửi hoặc cho vay trong một thời hạn nhất định (năm, tháng, ngày). Lãi suất tiền gửi
và cho vay có thể cao thấp khác nhau tùy theo thời gian gửi hoặc vay dài hay ngắn, tùy
loại ngân hàng, phương thức trả trước hay trả sau và tùy vào từng thời kỳ.
- Lãi suất ngân hàng là tỷ lệ giữa mức lãi với tiền vốn gửi vào hoặc cho vay trong một
thời kỳ hay tỉ lệ giữa chi phí phải trả trên một lượng tiền nhất định để được sử dụng lượng
tiền ấy trong khoảng thời gian do ngân hàng quy định hoặc thoả thuận phù hợp với hệ
thống ngân hàng và với những khách hàng trao đổi nghiệp vụ với ngân hàng.
Đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi
suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể
làm kích thích hay kìm hãm sản xuất. Nó là 1 công cụ rất lợi hại. Cơ chế điều hành lãi
suất được hiểu là tổng thể những chủ trương chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân
hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ
nhất định.
NHTƯ muốn kiểm soát được lãi suất, bởi vì lãi suất có tác động mạnh đến tiết kiệm và
đầu tư, qua đó tác động vào tăng trưởng kinh tế và giá cả. Lãi suất là nhân tố trung tâm
của nền kinh tế, nó biểu hiện sự tác động của cung - cầu tiền tệ và quyết định khối lượng
đầu tư của nền kinh tế, tức là quyết định đến sản lượng, công ăn việc làm, giá cả và lạm
phát. Sự nhạy cảm của lãi suất đối với đầu tư là rất lớn, vì vậy mà ít có Nhà nước nào quy
định trực tiếp lãi suất Ngân hàng.
Để thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng, NHTW thường điều chỉnh hạ lãi suất để kích
thích NHTM và tổ chức tín dụng sử dụng tiền vay của NHTW để tăng cường tín dụng cho
nền kinh tế.
Để thực hiện chính sách tiền tệ hạn chế, NHTW điều chỉnh tăng lãi suất để hạn chế quy
mô tín dụng các NHTM cho nền kinh tế.
Đây là công cụ kinh hoạt và được NHTW sử dụng để điều hành chính tiền tệ quốc gia.
Như vậy, để thực hiện chính sách tiền tệ như đã xây dựng. NHTW của các nước sử dụng
các công cụ trên để điều hành tiền tệ quốc gia nhằm thực hiện các mục tiêu của chính sách
kinh tế đã định.
Ở Việt Nam hiện nay, NHNNVN công bố lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn và quy
định lãi suất cơ bản, làm cơ sở cho các NHTM xác định lãi suất cho vay, từ lãi suất này sẽ
tác dụng điều chỉnh lãi suất cho vay, lãi suất chiết khấu, lãi suất tiền gửi qua các NHTM.
13) Lãi suất cơ bản là gì ? Ý nghĩa của lãi suất cơ bản ? Có ý kiến cho rằng nên bỏ
quy định về lãi suất cơ bản vì nó hạn chế quyền tự do kinh doanh của các TCTD.
Anh (chị) có suy nghĩ gì về vấn đề này ?
Lãi suất cơ bản là một công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam trong ngắn hạn. Theo Luật Ngân hàng Nhà nước, lãi suất cơ bản chỉ áp dụng
cho Đồng Việt Nam, do Ngân hàng Nhà nước công bố, làm cơ sở cho các tổ chức tín
dụng ấn định lãi suất kinh doanh. Lãi suất cơ bản được xác định dựa trên cơ sở lãi suất thị
trường liên ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước, lãi suất
huy động đầu vào của tổ chức tín dụng và xu hướng biến động cung-cầu vốn. Theo Luật
Dân sự, các tổ chức tín dụng không được cho vay với lãi suất cao gấp rưỡi lãi suất cơ bản.
(1,5)
Ý nghĩa của lãi suất cơ bản
Cơ chế cho các tổ chức tín dụng ấn định mức lãi suất kinh doanh
Lãi suất cơ bản có ý nghĩa mang tính xuyên suốt không bao giờ có thể quên bởi đó chính
là cơ sở mà các tổ chức tín dụng khác dùng làm căn cứ ấn định lãi suất kinh doanh. Bởi
lãi suất cơ bản sẽ được xác định dựa trên cơ sở lãi suất của chính thị trường liên ngân
hàng. Bên cạnh đó còn có sự tham gia của lãi suất nghiệp vụ trên thị trường mở của các
ngân hàng nhà nước, lãi suất huy động vốn đầu tư từ các tổ chức tín dụng có xu hướng
biến động và cung cầu vốn thị trường. Theo quy định, các tổ chức tín dụng sẽ lấy lãi suất
cơ bản của Ngân hàng Nhà nước để làm thước đo không được phép cho vay với mức lãi
suất vượt quá 1,5 lần.
Cơ sở tham chiếu và bồi thường rủi ro
Bên cạnh đó, lãi suất thấp còn chính là cơ sở tham chiếu và bồi thường rủi ro. Theo như
nghiên cứu, rủi ro vỡ nợ chính là yếu tố quyết định chính lãi suất cơ bản của chính ngân
hàng được tính cho bên vay. Từ đó, ngân hàng sẽ dựa vào chính mục đích, khả năng vỡ
nợ từng khách hàng để tính lãi suất cơ bản cụ thể.
Mặc dù yếu tố này không được liệt kê cụ thể nhưng những khoản đó được quy định rõ
ràng giữa bên vay và bên cho vay. Lãi suất cơ bản cũng được coi chính là một khoản chi
phí dùng trong những khoản bồi thường rủi ro và người vay phải chịu. Cơ sở có uy tín và
chất lượng để ngân hàng có thể xác định được chính là lịch sử tín dụng của người đi vay
một cách chi tiết.
Theo nhóm thì vẫn giữ lãi suất cơ bản nhưng chỉ để tham khảo
Không bỏ quy định về lãi suất trong Bộ luật Dân sự sớm là có cái lý của nó. Vì thực tế
hoạt động cho vay có lãi suất ngân hàng và lãi suất tín dụng đen. Bỏ quy định lãi vay
không được vượt quá 150% so lãi suất cơ bản thì lấy gì trị nạn cho vay ăn lời bên ngoài.
Đặc thù xã hội và kinh tế là vậy nhưng lãi suất cơ bản chúng ta đang áp dụng hiện nay lại
méo mó, không phản ánh quy luật cung cầu thị trường. Méo mó ở chỗ cơ quan quản lý ấn
định lãi suất cơ bản như một thông điệp về hành chính để buộc các ngân hàng phải căn cứ
theo.
Giải bài toán này, theo tôi là vẫn giữ lãi suất cơ bản nhưng chỉ để các ngân hàng tham
khảo khi đưa ra lãi suất kinh doanh. Cách vận hành lãi suất cơ bản tham khảo, không bắt
buộc này là theo thông lệ quốc tế. Khi đó lãi suất kinh doanh của ngân hàng tăng hay
giảm so lãi suất cơ bản là bình thường vì tuỳ theo chiến lược, nguồn vốn, hiệu quả kinh
doanh... mà từng ngân hàng đưa ra mức lãi riêng.
14) Dự trữ bắt buộc là gì ? Tại sao NHNN lại quy định các TCTD phải dự trữ bắt
buộc? Việc quy định dự trữ bắt buộc như thế nào ? Cách thức vận hành công cụ
này? Thực tế việc sử dụng công cụ này ?
+ Dự trữ bắt buộc là số tiền mà TCTD phải gửi vào tài khoản tại NHNN nhằm thực hiện
chính sách tiền tệ quốc gia. Dữ trự bắt buộc nhằm tạo tính thanh khoản, đảm bảo an toàn,
điều tiết khối lượng tiền, thực hiện CSTT.
+ NHNN quy định các TCTD phải dự trữ bắt buộc vì đối với việc duy trì tiền dự trữ bắt
buộc là điều cần thiết nhằm bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền vào ngân hàng đồng thời
bảo đảm cho NHNN có thể điều chỉnh được khả năng tạo tiền của các ngân hàng thương
mại nhằm thực thi chính sách tiền tệ của mình.
+ NHNN quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc như sau:
- Áp dụng đối với từng loại hình tổ chức tín dụng.
- Áp dụng đối với từng loại tiền gửi.
- Trả lại tiền gửi dự trữ và tiền gửi vượt dự trữ.
+ Cách thức vận hành công cụ dự trự bắt buộc: Việc thay đổi tỉ lệ dự trữ bắt buộc ảnh
hưởng đến lượng tiền cung ứng theo ba cách:
Thứ nhất, khi NHNN quyết định tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc, bộ phận dự trữ dư thừa trước
đây của các TCTD chuyển thành dự trữ bắt buộc, làm giảm khả năng cho vay của các
TCTD.
Thứ hai, tỷ lệ dự trả bắt buộc là một thành phần trong mẫu số của hệ số mở rộng tiền gửi.
Vì thế sự tăng lên của tỉ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm giảm hệ số mở rộng tiền gửi và khả
năng mở rộng tiền gửi của TCTD.
Thứ ba, tỉ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên làm giảm mức cung vốn của các TCTD trên thị
trường. Trong điều kiện nhu cầu vốn khả dụng không thay đổi, sự giảm sút này làm tăng
lãi suất TCTD, từ đó dẫn đến tăng các mức lãi suất dài hạn và giảm bớt khối lượng tiền
cung.
+ Cơ chế hoạt động của công cụ dự trữ bắt buộc nhằm khống chế khả năng tạo tiền, hạn
chế mức tăng bội số tín dụng của các ngân hàng thương mại. Công cụ dự trữ bắt buộc
mang tính áp đặt trực tiếp, đầy quyền lực và cực kỳ quan trọng để điều khiển lạm phát,
khôi phục hoạt động kinh tế trong trường hợp nền kinh tế phát triển chưa ổn định và khi
các công cụ thị trường mở tái chiết khấu chưa đủ mạnh để có thể đảm trách điều hoà mức
cung tiền tệ cho nền kinh tế.
15) Hiểu thế nào là tỷ giá hối đoái ? Tỷ giá được hình thành như thế nào ? NHNN sử
dụng công cụ tỷ giá như thế nào, nhằm mục đích gì ?
+ Tỷ giá hối đoái là tỷ lệ giữa giá trị đồng nội tệ với giá trị của đồng tiền nước ngoài. Tỷ
giá hối đoái của đồng Việt Nam là giá của một đơn vị tiền tệ nước ngoài tính bằng đơn vị
tiền tệ của Việt Nam.
+ Tỷ giá hối đoái của Việt Nam được hình thành dựa trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trên thị
trường có sự điều tiết của nhà nước. Ngân hàng nhà nước Việt Nam có nhiệm vụ công bố
tỷ giá hối đoái có quyết định chế độ tỷ giá, cơ chế điều tỷ giá (khoản 1 Điều 13 Luật
NHNNVN). Với quy định này tỷ giá hối đoái. Việt Nam hiện nay được quản lý theo
phương thức thả nổi có sự điều tiết của nhà nước.
+ NNHN điều tiết bằng cách tham gia vào TT ngoại tệ LNH: TT mua bán ngoại tệ có tổ
chức giữa các TCTD là thành viên TT & NHNN, do NHNN tổ chức, giám sát và điều
hành; NHNN tham gia TT với tư cách là người mua, người bán cuối cùng, thực hiện can
thiệp khi cần thiết vì mục tiêu CSTTQG.
+ NHNN sử dụng công cụ tỷ giá như thế nào, nhằm mục đích cân bằng giá trị đồng nội tệ
vì giá cả ngoại tệ biến động, làm ảnh hưởng đến dự trữ ngoại hối, ảnh hưởng đến giá trị
của đồng nội tệ. Việc sử dụng chế độ tỷ giá hối đoái này sẽ giúp cho nguồn lực được cân
bằng và phân bố hiệu quả. Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi giúp cho nền kinh tế thế giới
được ổn định, cán cân thanh toán trở nên cân bằng, hạn chế được các rủi ro và bất lợi đối
với nền kinh tế.
16) Theo anh(chị), tỷ giá hiện nay ở nước ta đã phản ánh đúng thực tế giá trị đồng
tiền Việt Nam hay chưa ? Nếu chưa thì tại sao ?
Theo nhóm em, tỷ giá hiện nay ở nước ta chưa phản ánh đúng thực tế giá trị đồng tiền
Việt Nam.
+Tỷ giá là mức giá tại một thời điểm đồng tiền của một quốc gia hay khu vực có thể được
chuyển đổi sang đồng tiền của quốc gia hay khu vực khác. Theo đó tỷ giá được tính bằng
số đơn vị nội tệ trên một đơn vị ngoại tệ. Khi tỷ giá giảm đồng nghĩa với việc đồng nội tệ
lên giá và ngoại tệ giảm giá, ngược lại tỷ giá tăng thì đồng nội tệ giảm còn ngoại tệ sẽ lên
giá. Hiện nay, tỷ giá được niêm yết theo thị trường giao dịch, có nghĩa là đồng tiền yết giá
đứng trước, đồng tiền định giá đứng sau.
Vì:
+Lạm phát là vấn đề không thể tránh khỏi ở mỗi quốc gia. Tỷ lệ lạm phát ở mức chấp
nhận của Việt Nam hiện nay là dưới 4%/năm. Thế nhưng do nền kinh tế có nhiều biến
động đã kéo theo tỷ lệ lạm phát cao khiến cho đồng tiền bị mất giá.
+Chính sách quản lý và phát hành tiền tệ còn chưa nghiêm ngặt. Nguồn tiền cung lớn hơn
do với nhu cầu sử dụng đã để lại hậu quả làm giá trị tiền tệ bị suy giảm.
+ Mệnh giá của đồng tiền và giá trị tương đương = 1 lượng vàng không được nhà nước
đảm bảo quy định. Mặc dù có mệnh giá lên đến 500 nghìn cao nhất trên thế giới những
giá trị lại không cao. Nó chỉ có giá trị tại lãnh thổ Việt Nam.
VD: Đồng tiền Việt Nam có mệnh giá cao lên tới 500.000 VNĐ nhưng tỷ giá hối đoái rất
thấp. Bởi thế, Việt Nam nằm thứ 3 trong các nước có giá trị tiền tệ thấp nhất thế giới.
17) Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở (theo luật NHNNVN đã sửa đổi, bổ sung)?
So sánh với khái niệm cũ (luật chưa sửa đổi). Rút ra nhận xét và lý giải tại sao quy
định này lại được sửa đổi.
+ Theo điều 15 Luật NHNNVN thì nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động mua bán giấy tờ
có giá giữa NHNN và TCTD (như tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gởi, tín phiếu NHNN
và các loại giấy tờ có giá khác).
-Đối tượng của việc vụ thị trường mở là các giấy tờ có giá, NHNN quy định loại giấy tờ
có giá được phép giao dịch thông qua nghiệp vụ thị trường mở. Đây không phải là thị
trường chứng khoán bởi vì chủ thể tham gia vào thị trường mở chỉ có NHNN và các
TCTD. NHNN sẽ tham gia vào thị trường mở với tư cách người mua hoặc người bán của
thị trường mở
+ Theo quy định tại khoản 4 Điều 9 Luật NHNNVN 1997 thì nghiệp vụ thị trường mở là
nghiệp vụ mua, bán các giấy tờ có giá ngắn hạn do Ngân hàng Nhà nước thực hiện trên
thị trường tiền tệ nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Ngân hàng Nhà nước thực
hiện nghiệp vụ thị trường mở thông qua việc mua, bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền
gửi, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác trên thị
trường tiền tệ để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia (Điều 21 Luật NHNNVN 1997)
Nhận xét: Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở so với khái niệm cũ đã quy định rõ ràng
hơn về chủ thể tham gia vào thị trường mở là NHNN và các TCTD. Thêm vào đó, uật
NHNNVN 2010 quy định thêm về giấy tờ có giá trị tại khoản 2 Điều 15 nhằm làm rõ hơn
về các đối tượng được phép giao ddịch thông qua nghiệp vụ thị trường mở.
18) Cách thức vận hành công cụ nghiệp vụ thị trường mở như thế nào ? Ưu và
nhược điểm của công cụ này, từ đó rút ra nhận xét về công cụ này so với các công cụ
thực hiện CSTT khác.
+ Nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện thông qua phương thức đấu thầu gồm có: đấu
thầu khối lượng và đấu thầu lãi suất. Đấu thầu khối lượng là việc xét thầu trên cơ sở khối
lượng dự thầu của các tổ chức tín dụng, khối lượng giấy tờ có giá Ngân hàng Nhà nước
cần mua hoặc bán và lãi suất do Ngân hàng Nhà nước thông bá
+ Ưu điểm:
-Sử dụng công cụ này sẽ đảm bảo độ linh hoạt và chính xác cao. Trong thị trường mở, tác
động vào cung ứng tiền có thể sử dụng ở bất kỳ mức độ nào để thay đổi dự trữ hoặc cơ số
tiền lớn hay nhỏ. Ngân hàng trung ương có thể thực hiện bằng cách mua, bán khối lượng
lớn hay nhỏ chứng khoán. Ngân hàng trung ương dễ dàng đảo ngược tình thế khi có một
quyết định sai lầm về việc sử dụng công cụ này bằng cách lập tức đảo ngược lại việc sử
dụng công cụ đó.
-Ngân hàng trung ương dễ dàng đảo ngược tình thế khi có một quyết định sai lầm về việc
sủ dụng công cụ này bằng cách lập tức đảo ngược việc sủ dụng cơng cụ đó.Ví dụ, nếu
Ngân hàng trung ương thấy rằng cung ứng tiền tệ qua nhanh do đó mua quá nhiều giấy tờ
có giá trên thị trường mở thì nó có thể sửa chữa ngay bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán
các giấy tờ có giá đó trên thị trường mở.
- Đảm bảo được tính cạnh tranh, đặc biệt trong đấu thầu lãi suất. Các ngân hàng tham gia
nghiệp vụ thị trường mở một cách tự nguyện theo các nguyên tắc của thị trường, không
mang tính chất bắt buộc và không phải chịu một “khoản thuế” như công cụ dự trữ bắt
buộc.
+Nhược điểm:
– Thị trường mở là một bộ phận của thị trường tài chính. Do vậy, công cụ này sẽ chỉ phát
huy tối đa hiệu quả khi có một thị trường tài chính phát triển. Hàng hoá của thị trường
phải phong phú, có khả năng đáp ứng các nhu cầu khác nhau của khách hàng. Về bản thân
mình, NHTW phải có khả năng dự báo tốt vốn khả dụng của toàn bộ hệ thống ngân hàng.
– Ảnh hưởng của nghiệp vụ thị trường mở tới cơ số tiền tệ có thể bị triệt tiêu bởi các tác
động ngược chiều nên dự trữ của ngân hàng không tăng – giảm tương ứng sau các hoạt
động mua – bán chứng khoán của NHTW. Các tác động ngược chiều này gồm có dòng
chảy ngược chiều của vốn do mất cân đối trong cán cân thanh toán hoặc do số dư tiền gửi
của ngân sách tại NHTW tăng lên làm cho các hoạt động mua hoặc bán chứng khoán của
NHTW bị triệt tiêu một phần hoặc toàn bộ.
– Khi lãi suất thị trường giảm như là một kết quả do tiền cơ sở tăng lên, không phải lúc
nào khối lượng tín dụng của nền kinh tế cũng tăng lên tương ứng. Điều này còn phụ thuộc
vào khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, mức độ rủi ro và ổn định của môi trường đầu
tư.
Nhận xét: công cụ nghiệp vụ thị trường mở
19) Trình bày hoạt động phát hành tiền của NHNNVN. Khi nào NHNN phát hành
tiền? Nguyên tắc phát hành tiền?
+ Theo quy định tại Điều 17 Luật NHNNVN thì hoạt động phát hành tiền là hoạt động
phát hành tiền là hoạt động của Ngân hàng NN cung ứng tiền vào lưu thông làm cân bằng
với lượng hàng hóa, làm phương tiện thanh toán và còn để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của
chính phủ.
+ Ngân hàng nhà nước độc quyền phát hành tiền, nhưng không vì thế mà phát hành một
cách tùy tiện. Trước khi phát hành cần căn cứ theo các nguyên tắc sau: Dựa trên cơ sở trữ
kim làm đảm bảo: Khối lượng giấy bạc ngân hàng phát hành vào lưu thông phải được
đảm bảo bằng dự trữ kim loại quý hiện có trong kho dự trữ của ngân hàng.
+ Nguyên tắc phát hành tiền có đảm bảo hàng hóa: Theo nguyên tắc này, đảm bảo duy
nhất cho khối lượng tiền trong lưu thông giờ đây là hàng hoá, thông qua các chứng khoán
của chính phủ hoặc các giấy nhận nợ được phát hành từ các doanh nghiệp. Yêu cầu phát
hành tiền dựa vào cơ sở hàng hóa nhằm duy trì vừa đủ cho nhu cầu của nền kinh tế.
+ Nguyên tắc phát hành tiền: Nguyên tắc khối lượng tiền phát hành ra phải đảm bảo bằng
kim loại quí hiện có trong kho dự trữ của ngân hàng; Nguyên tắc phát hành tiền phải được
đảm bảo bằng hàng hóa thể hiện trên mệnh giá kỳ phiếu thương mại (thông qua hoạt động
tín dụng chiết khấu).
20) NHNNVN phát hành tiền qua những phương thức nào ? Ưu và nhược điểm từng
phương thức phát hành ?
* Các phương thức phát hành tiền của NHNNVN:
- Phát hành tiền qua các ngân hàng trung gian (tái cấp vốn): là việc NHNN phát hành tiền
thông qua các tổ chức tín dụng. Khi NHNN tái cấp vốn cho các tổ chức tín dụng thì ngoài
tính chất là công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ thì NHNN đang thực hiện thêm chức
năng phát hành thêm một lượng tiền vào lưu thông. Đây thực chất là một công cụ để Ngân
hàng Nhà nước điều tiết khối lượng tiền lưu thông.
- Phát hành qua kênh cho vay đối với Chính phủ (tạm ứng cho NSNN): là việc ngân hàng
nhà nước tạm ứng cho ngân sách nhà nước một khoản tiền nhất định.
- Phát hành qua kênh nghiệp vụ thị trường mở: NHNN phát hành tiền thông qua hành vi
mua các giấy tờ có giá của Chính phủ (tín phiếu, trái phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn) nhằm
phát hành, đẩy thêm một lượng tiền ra lưu thông.
- Phát hành qua kênh thị trường ngoại hối: NHNN mua ngoại hối trên thị trường để phát
hành tiền.
21) Hoạt động tín dụng của NHNN khác gì với hoạt động tín dụng của các TCTD ?
Lý do dẫn đến sự khác biệt đó ?
Tiêu chí Ngân hàng nhà nước Tổ chức tín dụng
- Các khoản tiền gửi, các khoản tiền đi - Vốn từ các thành viên 1 tổ
Nguồn
vay và khoản vốn tự có. chức. Ví dụ: các hợp tác xã, công
vốn
ty, xí nghiệp
- Nhận tiền gửi: nhận tiền của tổ chức, - Nhận tiền gửi: nhận tiền của tổ
cá nhân dưới hình thức tiền gửi không chức dưới hình thức tiền gửi
kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn,
kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ tiền gửi tiết kiệm, phát hành
phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín
tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn phiếu và các hình thức nhận tiền
trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi gửi khác theo nguyên tắc có hoàn
tiền theo thỏa thuận. trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người
- Cấp tín dụng: cho vay, chiết khấu, gửi tiền theo thỏa thuận.
Hoạt cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo - Cấp tín dụng: cho vay, chiết
động lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp khấu, cho thuê tài chính, bao
tín dụng khác. thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và
- Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
khoản: cung ứng phương tiện thanh - Cung ứng dịch vụ thanh toán
toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, qua tài khoản: ở lĩnh vực này tổ
lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy chức tín dụng phi ngân hàng
nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng không được phép hoạt động.
và các dịch vụ thanh toán khác cho
khách hàng thông qua tài khoản của
khách hàng.
- Có thể nhận tiền gửi và xoay vòng - Hoạt động của quỹ tín dụng phải
đồng tiền, có thể đem cho vay qua các đảm bảo bù đắp chi phí và có tích
hoạt động của Ngân hàng nó đã tạo ra lũy để phát triển. Số tiền tạo ra
Khả
1 hệ số tiền. không lớn bằng ngân hàng
năng
thương mại.
sinh lời
- Lãi suất có thể thấp hơn ngân
- Lãi suất cao hơn quỹ tín dụng phi hàng thương mại.
ngân hàng.
Thời - Không bị pháp luật khống chế - Thời hạn hoạt động của công ty
tài chính tối đa là 50 năm. Trường
hợp cần gia hạn thời hạn hoạt
gian hoạt động, phải được Ngân hàng Nhà
động nước Việt Nam chấp thuận,
nhưng mỗi lần gia hạn không quá
50 năm

22) Trình bày các phương thức hoạt động tín dụng của NHNN ? So sánh phương
thức tái cấp vốn với phương thức cho vay cứu cánh ( cho vay nhằm phục hồi khả
năng thanh toán).
* Các phương thức hoạt động tín dụng của NHNN:
- Bảo lãnh ngân hàng: được xem là hình thức hoạt động tín dụng của Ngân hàng nhà nước
nhưng chỉ áp dụng cho tổ chức tín dụng vay vốn nước ngoài theo quyết định của Thủ
tướng Chính phủ.
- Cho vay: là hình thức hoạt động tín dụng của Ngân hàng nhà nước. Theo hình thức này,
Ngân hàng nhà nước cho các tổ chức tín dụng vay ngắn hạn.
- Tạm ứng cho ngân sách nhà nước: là hình thức hoạt động tín dụng của Ngân hàng nhà
nước để xử lí thiếu hụt tạm thời quỹ ngân sách nhà nước theo quyết định của Thủ tướng
Chính phủ. Việc Ngân hàng nhà nước cho ngân sách nhà nước vay hoặc tạm ứng cho
ngân sách nhà nước tức là cung ứng thêm tiền cho lưu thông sẽ gây ra lạm phát và ảnh
hưởng tới chính sách tiền tệ.
- Tái cấp vốn: là hình thức cho các tổ chức tín dụng vay ngắn hạn.

* So sánh phương thức tái cấp vốn với phương thức cho vay cứu cánh:

Cho vay tái cấp vốn Cho vay đặc biệt


Đối - Các tổ chức tín dụng đang - Tổ chức tín dụng lâm vào tình trạng
tượng hoạt động bình thường. mất khả năng chi trả, đe doạ sự ổn
- Kể từ ngày Ngân hàng Nhà định của hệ thống các tổ chức tín
nước đặt tổ chức tín dụng vào dụng;
kiểm soát đặc biệt, khoản cho - Tổ chức tín dụng có nguy cơ mất
vay tái cấp vốn đối với tổ khả năng chi trả do sự cố nghiêm
chức tín dụng đó được chuyển trọng khác.
thành khoản cho vay đặc biệt -> Các TCTD rơi vào trường hợp
kiểm soát đặc biệt.

Nhằm cung ứng vốn ngắn hạn Nhằm phục hồi khả năng thanh toán
và phương tiện thanh toán chocủa các TCTD khi các TCTD này
tổ chức tín dụng. Mục đích lâm và tình trạng mất khả năng thanh
cuối cùng là nhằm cung ứng toán để tránh trường hợp các TCTD
vốn cho nền kinh tế và thực này đi đến phá sản; từ đó gây ảnh
Mục
hiện chính sách tiền tệ quốc hưởng đến và làm mất uy tín cũng
đích
gia như hoạt động bình thường của hệ
thống ngân hàng. Hoạt động này
không nhằm mục tiêu lợi nhuận mà
nghiêng về mục đích thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về tiền tệ.
- Cho vay theo hồ sơ tín dụng; - Cho vay đặc biệt với lãi suất ưu đãi
-Chiết khấu, tái chiết khấu đến mức 0%.
thương phiếu và các giấy tờ
Hình
có giá;
thức
- Cho vay có cầm cố bảo lãnh
thương phiếu và các giấy tờ
có giá.
Ngắn hạn: dưới 12 tháng Tối đa không quá 2 năm đối hoặc
Thời
theo phương án phục hồi đã được
hạn
phê duyệt
Cơ sở - Luật Ngân hàng Nhà nước - Luật Ngân hàng Nhà nước Việt
pháp lý Việt Nam 2010; Nam 2010;
- Thông tư 15/2012/TT- - Thông tư 01/2018/TT-NHNN.
NHNN.

24) Tại sao NHNN lại không bảo lãnh cho các tổ chức, cá nhân thông thường vay
vốn trừ trường hợp bảo lãnh cho tổ chức tín dụng vay vốn nước ngoài theo quyết
định của Thủ tướng Chính Phủ ?
Theo quy định tại Điều 335 BLDS 2015 có đưa ra khái niệm về hành vi bảo lãnh là:
“1. Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền
(sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau
đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo
lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
2. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho
bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh.”
Như vậy, có thể hiểu bảo lãnh là việc khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được
bảo lãnh không thực hiện hoặc không thực hiện đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh sẽ đứng ra
thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh. Do đó, NHNN là cơ quan ngang bộ của
Chính phủ, là ngân hàng trung ương của nước ta nên việc đứng ra bảo lãnh cho các tổ
chức, cá nhân thông thường vay vốn là điều không thể.
Giữa các cá nhận, tổ chức tín dụng vay vốn của nhau thì đây là việc làm hoàn toàn được
phép theo quy định của pháp luật và diễn ra nhiều trong thực tiễn nhưng NHNN sẽ không
đứng ra bảo lãnh trong trường hợp này. Mà NHNN chỉ đứng ra bảo lãnh khi tổ chức tín
dụng vay với nguồn vốn có yếu tố nước ngoài.
Theo Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam, pháp luật có quy định về bảo lãnh tại Điều
25: “Ngân hàng Nhà nước không bảo lãnh cho tổ chức, cá nhân vay vốn, trừ trường hợp
bảo lãnh cho tổ chức tín dụng vay vốn nước ngoài theo quyết định của Thủ tướng Chính
phủ.”
Khi bảo lãnh, NHNN đứng ra bảo lãnh với hai tư cách pháp lý: thứ nhất, đây là một cơ
quan của Chính phủ; thứ hai, đây là ngân hàng trung ương của Việt Nam. Vì vậy, NHNN
là một cơ quan cấp cao, đại diện cho một đất nước nên việc đứng ra bảo lãnh cho một
hoạt động vay vốn nào đó sẽ thể hiện sự đảm bảo, an toàn nhất trên phương diện pháp lý
và tài chính, uy tín cao. Khi các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng của Việt Nam vay vốn
của các đối tác nước ngoài, tập đoàn tài chính lớn của thế giới thì thông thường luôn cần
sự bảo đảm an toàn nhất cho khoản vay. Và để bảo đảm cho khoản vay này thì sẽ thực
hiện thông qua cơ chế bảo lãnh của NHNN.
Nếu NHNN bảo lãnh cho các tổ chức, cá nhân thông thường vay vốn thì sẽ khó kiểm soát
hết tất cả các hoạt động vay vốn, khiến NHNN dễ gặp phải các vấn đề bất lợi khi đứng ra
bảo lãnh, có thể gây mất uy tín cho NHNN trong phạm vi trong nước và quốc tế. Vì vậy,
đối với các tổ chức, cá nhân thông thường cần bảo lãnh để vay vốn thì NHNN đã giao cho
các cơ quan dưới quyền gần gũi với các tổ chức, cá nhân này hơn; giúp dễ quản lý, điều
chỉnh và kiểm soát một cách chặt chẽ nhất.
25) Việc quy định NHNN chỉ bảo lãnh cho các tổ chức tín dụng vay vốn nước ngoài
theo chỉ định của Thủ tướng Chính phủ nhưng lại không bảo lãnh cho các tổ chức
thông thường vay vốn nước ngoài phải chăng đã tạo nên sự phân biệt đối xử giữa
các tổ chức này ? (đều là doanh nghiệp).
Tổ chức tín dụng được hiểu là tổ chức kinh tế kinh doanh tiền tệ, dịch vụ ngân hàng với
nội dung nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung cấp các dịch vụ thanh toán. Về mặt kinh tế, đối
tượng kinh doanh chính, mang tính chất nghề nghiệp của tổ chức tín dụng là tiền tệ và đó
là dấu hiệu để phân biệt tổ chức tín dụng với các loại hình doanh nghiệp khác trong nền
kinh tế quốc dân. Về mặt pháp lý, tổ chức và hoạt động của tổ chức tín dụng thuộc phạm
vi áp dụng Luật các tổ chức tín dụng và chịu sự quản lý nhà nước của Ngân hàng nhà
nước. Chính vì các tổ chức tín dụng chịu sự quản lý nhà nước của NHNN nên khi vay vốn
nước ngoài cần sự bảo lãnh thì chỉ có các tổ chức tín dụng mới được NHNN bảo lãnh còn
các tổ chức thông thường không chịu sự quản lý của NHNN mà chịu sự quản lý của các
cơ quan khác thì sẽ không được NHNN bảo lãnh khi vay vốn nước ngoài.
26) Tại sao NHNN lại phải quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối ? Việc quản lý
được thực hiện như thế nào ?
Ngoại hối là tiền, vàng tiêu chuẩn quốc tế, các giấy tờ có giá và các công cụ thanh toán
bằng tiền nước ngoài. Hoạt động ngoại hối bao gồm hoạt động đầu tư, kinh doanh, mua
bán ngoại hối. Vì vậy, để đảm bảo các hoạt động thanh toán quốc tế cũng như điều hòa
cán cân thanh toán quốc tế thì việc NHNN quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối là
điều hết sức cần thiết.
Theo đó, để quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối thì Nhà nước đã áp dụng các chính
sách, biện pháp vào quá trình nhập, xuất ngoại hối và việc sử dụng ngoại hối trong phạm
vi quốc gia với mục đích là tập trung các nguồn ngoại tệ vào Ngân hàng Nhà nước nhằm
điều hòa chính sách tiền tệ, tạo dự trữ ngoại hối cần thiết phục vụ cho mục tiêu kinh tế và
bảo vệ độc lập chủ quyền về tiền tệ, ngăn chặn thất thoát ngoại hối ảnh hưởng đến cán cân
thanh toán quốc tế.
NHNN quản lý hoạt động ngoại hối bằng phương thức mệnh lệnh hành chính, qua các
quy định hạn chế, cho phép và phương thức thị trường bằng cách xác định các yếu tố theo
cách thị trường điều chỉnh. Quản lý nhà nước về ngoại hối của NHNN có thể diễn ra qua
hoạt động mua, bán ngoại hối trên thị trường trong nước vì mục tiêu chính sách tiền tệ
quốc gia, mua bán ngoại hối trên thị trường quốc tế và thực hiện các giao dịch ngoại hối
khác.
Để đảm bảo an ninh tài chính tiền tệ quốc gia nói chung và đảm bảo dự trữ ngoại hối cần
thiết cho thanh toán quốc tế, thỏa mãn nhu cầu nhập khẩu, mở rộng đầu tư và hợp tác với
nước ngoài nói riêng thì NHNN đã ban hành những quy định về hạn chế giao dịch ngoại
hối, hạn mức ngoại tệ.
II.CÂU HỎI NHẬN ĐỊNH:

1) NHNNVN là cơ quan duy nhất được quyền cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân
hàng cho các TCTD.
- Nhận định sai.
- Bởi vì có một số trường hợp sẽ do Thủ tướng quyết định cấp giấy phép thành lập và hoạt
động ngân hàng cho các tổ chức tín dụng. Ví dụ như ngân hàng chính sách xã hội.

2) Chủ tịch Hiệp hội ngân hàng có thẩm quyền quyết định xử phạt hành chính trong lĩnh
vực tiền tệ ngân hàng.

- Nhận định sai.

- Cơ sở pháp lý: Điều 53 Nghị định 88/2019/NĐ-CP.

- Theo Điều 53 thì thẩm quyền xử phạt hành chính trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng thuộc
về thanh tra viên ngân hàng đang thi hành công vụ; Chánh Thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà
nước chi nhánh; Cục trưởng cục thanh tra, giám sát ngân hàng; Chánh Thanh tra, giám sát ngân
hàng; Trưởng đoàn thanh tra do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Chánh Thanh tra, giám sát
ngân hàng ra quyết định có thẩm quyền xử phạt theo quy định tại khoản 3 Điều này.

 Vậy Chủ tịch Hiệp hội ngân hàng không có thẩm quyền quyết định xử phạt hành chính
trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng.

3) Mọi TCTD đều được phép vay vốn từ NHNN dưới hình thức tái cấp vốn.

- Nhận định sai.

- Cơ sở pháp lý: Khoản 4 Thông tư 18/2015/TT-NHNN

- Ngân hàng Nhà nước xem xét và quyết định tái cấp vốn khi tổ chức tín dụng đáp ứng đầy
đủ các điều kiện sau:

+ Tổ chức tín dụng Việt Nam bao gồm tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo
quy định của Luật các tổ chức tín dụng, trừ tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài, tổ chức tín
dụng liên doanh, sở hữu hợp pháp trái phiếu đặc biệt đang lưu ký tại Sở Giao dịch Ngân hàng
Nhà nước chưa được Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam thanh toán.
+ Trích lập dự phòng rủi ro đối với trái phiếu đặc biệt theo quy định tại Nghị định số
53/2013/NĐ-CP Nghị định số 34/2015/NĐ-CP và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.

Vậy tổ tức tín dụng phải đáp ứng được các điều kiện trên thì mới được ngân hàng Nhà nước
xem xét tái cấp vốn.

4) NHNN là cơ quan quản lý nợ nước ngoài của Chính phủ.

- Nhận định sai.

- Cơ sở pháp lý: Khoản 3 Điều 2 và Điều 4 Luật ngân hàng Nhà nước 2010.

- Theo Khoản 3 Điều 2 thì chức năng của ngân hàng Nhà nước là quản lý nhà nước về tiền tệ,
hoạt động ngân hàng và ngoại hối (sau đây gọi là tiền tệ và ngân hàng); thực hiện chức năng
của Ngân hàng trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng
dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Ngoài ra theo Điều 4 thì ngân hàng Nhà nước không có nhiệm
vụ, quyền hạn quản lý nợ nước ngoài cho Chính Phủ.

 Vậy ngân hàng Nhà nước không là cơ quan quản lý nợ nước ngoài của Chính phủ.

5) NHNN phải đóng thuế thu nhập doanh nghiệp cho phần chênh lệch thu chi tài chính
của mình.

- Nhận định sai.

- Cơ sở pháp lý: Điều 44 và Điều 45 Luật ngân hàng Nhà nước 2010.

- Theo Điều 44 và Điều 45 thì kết quả tài chính của Ngân hàng nhà nước không vì lợi nhuận và
Ngân hàng Nhà nước được trích từ kết quả tài chính hằng năm để lập các quỹ sau đây: quỹ thực
hiện chính sách tiền tệ quốc gia; quỹ dự phòng tài chính; quỹ khác do Thủ tướng Chính phủ
quyết định. Ngoài ra, thuế thu vào doanh nghiệp thu vào lợi nhuận, mà ngân hàng Nhà nước
hoạt động không là doanh nghiệp và không vì lợi nhuận. Do đó, ngân hàng nhà nước sẽ không
nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho phần thu chi của mình và phần chênh lệch thu chi đó sẽ
được nộp vào ngân sách nhà nước.

 Vậy ngân hàng Nhà nước không cần đóng thuế thu nhập doanh nghiệp cho phền chênh lệch
thu chi tài chính của mình.

6) Bộ tài chính là cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho công
ty tài chính, công ty cho thuê tài chính.

- Nhận định sai.


- Cơ sở pháp lý: Khoản 9 Điều 04 Luật Ngân hàng nhà nước 2010; Khoản 1, Khoản 4 Điều 4
Luật Các tổ chức tín dụng 2020.

- Công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính là tổ chức tín dụng phi ngân hàng, là một loại
hình của tổ chức tín dụng. Thẩm quyền cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho công ty tài
chính và công ty cho thuê tài chính thuộc về Ngân hàng nhà nước.

 Vậy Bộ tài chính không là cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho
công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính.

7) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan trực thuộc Quốc Hội.

- Nhận đinh sai.

- NHNNVN là cơ quan ngang bộ của chính phủ – k1 Điều2 NHNNVN. Quốc hội là cơ quan
lập pháp, vấn đề cơ cấu tổ chức. Do hoạt đông ngân hàng là hoạt động nhạy cảm nên cần có sự
quyết định linh hoạt nhưng Quốc hội họp 1 năm 2 lần và việc quyết định rất mất thời gian

8) Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là một pháp nhân.

- Nhận định sai

- theo quy định tại Luật doanh nghiệp 2014 thì:

Điều 45. Chi nhánh, văn phòng đại diện và địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp

1.Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một
phần chức năng của doanh nghiệp kể cả chức năng đại diện theo ủy quyền. Ngành,
nghề kinhdoanh của chi nhánh phải đúng với ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp.

Cũng tại Bộ luật dân sự quy định:

Điều 84. Pháp nhân

Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:

1. Được thành lập hợp pháp;

2. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;

3. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó;

4. Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Theo nội dung quy định nêu trên thì chi nhánh là một đơn vị phụ thuộc trụ sở chính, được
thành lập hợp pháp và có con dấu và tài khoản riêng nhưng chưa độc lập hoàn toàn về tài sản
cũng phải nhân danh trụ sở chính thực hiện các quan hệ pháp luật chứ không nhân danh bản
thân chi nhánh đó. Vì vậy, chi nhánh không có tư cách pháp nhân.

9) Thống đốc ngân hàng là thành viên của Chính phủ.

- Nhận định đúng

- Cspl: Điều 8 LNHNN

10) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ cho tổ chức tín dụng là ngân hàng vay vốn

- Nhận định sai

- CSPL : điều 24, 11 LNHNN, khoản 1 Điều 4 LTCTD

NHNNVN cho nhiều tổ chức tín dụng khác ngoài ngân hàng vay vốn nữa

11) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam bảo lãnh cho tổ chức, cá nhân vay vốn khi có chỉ định
của Thủ tướng Chính phủ.

- Nhận định sai. CSPL: Điều 25 LNHNN

- Chỉ bảo lãnh cho tổ chức tín dụng, không bảo lãnh tổ chức, cá nhân: NHNN cấp 1 => Phạm vi
giao dịch

12) Ngân hàng Nhà nước cho ngân sách Nhà nước vay khi ngân sách bị thiếu hụt do bội
chi.

- Nhận định sai. CSPL: Điều 26.

- Cho ngân sách Nhà nước vay là việc phát hành tiền mà bội cho là do việc chi không hiệu quả
(tiền vẫn còn trong lưu thông) => cho vay tiếp sẻ dẫn đến lạm phát, thời điểm cho vay là cuối
năm => nhập nhằng trong viếc trả tiền.

- khái niệm thiếu hụt tạm thời và bội chi (chi nhiều hơn thu)

Thiếu hụt tạm thời Bội chi

NS đã thiếu hụt khi vào lúc kết thúc năm


NS thiếu hụt nhưng còn trong năm NS
ngân sách à cho vay sẽ lạm phát
13) Mọi tổ chức thực hiện hoạt động ngân hàng đều phải thực hiện dự trữ bắt buộc.

Nhận định Sai. Cơ sở pháp lý: Thông tư số 30/2019/TT-NHNN. Dự trữ bắt buộc là số tiền mà
TCTD phải gửi tại NHNN để thực hiện CSTT quốc gia. NHNN quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc
đối với từng loại hình TCTD và từng loại tiền gửi tại TCTD nhằm thực hiện CSTT quốc gia.
NHNN quy định việc trả lãi đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc, tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc của
từng loại hình TCTD đối với từng loại tiền gửi. Các trường hợp ngoại lệ không áp dụng. Theo
đó, có 03 trường hợp tổ chức tín dụng không cần thực hiện dự trữ bắt buộc, cụ thể:

Một là, tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt: Thời gian không thực hiện dự trữ bắt buộc từ
tháng tiếp theo tháng tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định đặt vào
tình trạng kiểm soát đặc biệt đến hết tháng tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước quyết
định chấm dứt kiểm soát đặc biệt.

Hai là, tổ chức tín dụng chưa khai trương hoạt động: Thời gian không thực hiện dự trữ bắt buộc
đến hết tháng tổ chức tín dụng khai trương hoạt động; tổ chức tín dụng thông báo bằng văn bản
cho Ngân hàng Nhà nước (Sở Giao dịch) về ngày khai trương hoạt động trong thời hạn 3 ngày
làm việc kể từ ngày khai trương hoạt động.

Ba là, tổ chức tín dụng được chấp thuận giải thể hoặc có quyết định mở thủ tục phá sản hoặc có
quyết định thu hồi Giấy phép của cơ quan có thẩm quyền: Thời gian không thực hiện dự trữ bắt
buộc từ tháng tiếp theo tháng tổ chức tín dụng được chấp thuận giải thể hoặc quyết định mở thủ
tục phá sản, thu hồi Giấy phép có hiệu lực; tổ chức tín dụng có quyết định mở thủ tục phá sản
gửi Ngân hàng Nhà nước (Sở Giao dịch) quyết định mở thủ tục phá sản trong thời hạn 3 ngày
làm việc kể từ ngày nhận được quyết định này.

14) Hội đồng chính sách tiền tệ quốc gia là đơn vị trực thuộc NHNNVN.

Nhận định sai. Vì căn cứ vào Quyết định số 58/2011/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ về
việc thành lập Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia

“Điều 1. Thành lập Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia để tư vấn cho Chính
phủ và Thủ tướng Chính phủ trong việc hoạch định và quyết định những vấn đề quan trọng về
chủ trương, chính sách tài chính, tiền tệ thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ và Thủ
tướng Chính phủ.

Điều 3. Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia làm việc theo nguyên tắc tư vấn
và theo Quy chế làm việc của Hội đồng do Thủ tướng Chính phủ quy định.”
Ta có thể thấy hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ được thành lập bởi thủ tướng chính phủ và
chủ tịch hội đồng là phó thủ tướng chính phủ không phải chịu sự chỉ đạo từ NHNNVN nên
không là đơn vị trực thuộc.

Theo Nghị định 16/2017/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam thì có Vụ Chính sách tiền tệ là Đơn
vị thực hiện chức năng quản lý nhà nước của NHNNVN nên có Vụ Chính sách tiền tệ là đơn vị
phụ thuộc của NHNNVN.

15) Mọi TCTD đều được phép thực hiện hoạt động kinh doanh ngoại tệ.

Nhận định sai.

Cơ sở pháp lý: Điều 36 Pháp lệnh ngoại hối

Theo quy định tại Điều 36 Pháp lệnh ngoại hối thì không phải tổ chức tín dụng nào cũng được
phép kinh doanh ngoại tệ mà chỉ có những tổ chức tín dụng được được ngân hàng nhà nước cấp
phép mới được kinh doanh ngoại tệ.

You might also like