V I Vàng

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 6

VỘI VÀNG

(Xuân Diệu)
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian;
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt....
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi ?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa ?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

* Mở bài
“Nếu bây giờ chỉ có một nhà thơ được xướng tên trong Thơ mới thì hầu như tất cả đều gọi ông
là Xuân thần” (theo Nguyễn Đăng Mạnh), quả đúng là như vậy. Xuân Diệu là một trong những
nhà thơ lớn của Việt Nam, được mệnh danh là "ông hoàng thơ tình" nổi tiếng với nhiều tác phẩm
đặc sắc viết về tình yêu. Không giống như những nhà thơ mới cùng thời, Xuân Diệu đã sớm
khẳng định được cái tôi riêng biệt trong chất sống sôi nổi, cuồng say của mình. Đặc biệt, một
trong những vần thơ đặc sắc của ông không thể không kể đến là "Vội vàng". Vội vàng là một
sáng tác rất tiêu biểu, nói lên tiếng của một trái tim đang khát khao, cuồng si với lẽ sống cuộc
đời. Bài cũng chứa đựng cả nỗi trăn trở, khắc khoải, lo âu của Xuân Diệu trước sự trôi nhanh vội
vã của thời gian.

*Thân bài
1. Nhan đề và ý nghĩa nhan đề :
- “Vội vàng” là một từ ngữ có nghĩa là muốn sử dụng thời gian một cách nhanh chóng để hoàn
thành một việc gì đó. Với Xuân Diệu, nhà thơ được biết đến với biệt danh “Ông hoàng thơ tình”,
tiêu đề “Vội vàng” thể hiện một triết lý sống mới của ông. Theo như triết lý này, sống vội vàng
không chỉ đơn thuần là sống nhanh, sống gấp rút, sống ích kỉ. Thay vào đó, đó là cách sống biết
tận hưởng mọi giá trị tốt đẹp trong cuộc sống và tận hiến cho những giá trị đó trong thế giới hiện
tại.
- Nhan đề Vội vàng có ý nghĩa khái quát một quan niệm nhân sinh mới mẻ, tích cực của nhà thơ
Xuân Diệu:
+ Đó là một thái độ sống gắn bó, yêu quí cuộc đời, biết tận hưởng tất cả những vẻ đẹp, những giá
trị của cuộc sống trần gian.
+ Vội vàng không đồng nghĩa với lối sống chỉ biết đến hưởng thụ, ích kỉ, đề cao vật chất mà mà
phải biết tận hưởng một cách cao đẹp; tận hưởng đi cùng với nâng niu, sáng tạo.
- Nhan đề này còn gián tiếp phê phán thái độ sống, thờ ơ, lãng quên, trốn tránh thực tại…
2 . Bố cục
Bài thơ “Vội vàng” được chia thành ba đoạn khác nhau.
- Đoạn đầu tiên (13 câu thơ đầu): bộc lộ tình yêu cuộc sống trần thế, thể hiện niềm khao khát
sống vội vàng và yêu đời hết mình.
- Đoạn thứ hai (từ câu thứ 14 đến câu thứ 29) thể hiện sự nuối tiếc về kiếp người và thời gian.
- Đoạn cuối cùng giục giã cuống quýt, vội vàng để tận hưởng tuổi trẻ và cuộc đời.

3. Quy luật sắp xếp khổ thơ


Từ yêu tha thiết cuộc sống trần thế đến lo âu, băn khoăn trước bước đi của thời gian, cuối cùng là
triết lí “sống vội” để “tận hưởng, tận hiến”.
4. Nội dung các khổ thơ
a. 4 câu thơ đầu
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
- “Tắt” và “buộc”: 2 động từ mạnh có sắc thái tiêu cực
- “Nắng” và “hương”: hình ảnh ẩn dụ cho hương sắc, cho những gì tinh túy và đẹp đẽ nhất trên
đời.
Tắt nắng đi => màu đừng nhạt
Buộc gió lại => hương đừng bay
=> Tác giả không đơn giản chỉ muốn tắt một ngọn đèn hay buộc một sợi dây, mà là muốn tắt ánh
nắng, buộc cơn gió, những điều vốn trái với quy luật của tạo hóa mà con người không thể làm
được. Tuy nhiên, nắng, màu, hương, gió ở đây chính là những gì đẹp đẽ và tinh túy nhất của
cuộc sống trần thế. Xuân Diệu muốn tắt nắng, muốn buộc gió chính là muốn giữ lại giai đoạn
đẹp nhất, xuân sắc nhất đời người => Mong muốn kỳ lạ, táo bạo nhưng mãnh liệt => Bộc lộ tình
yêu đời, yêu thiên nhiên tha thiết của tâm hồn người thi sĩ.
b. 7 câu thơ tiếp
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
- Bức tranh xuân tình:

 Thời gian: tuần tháng mật => là quãng thời gian ngọt ngào nhất của đôi lứa, là quãng thời
gian thiên nhiên xinh đẹp động lòng nhất.
 Cảnh vật: ong bướm, hoa của đồng nội xanh rì, lá của cành tơ, yến anh, khúc tình si, ánh
sáng, thần Vui.

=> Cảnh vật có đôi lứa, quấn quýt và tràn đầy hạnh phúc, tình ý.
=> Với niềm yêu đời nồng nàn và tha thiết, Xuân Diệu cảm thấy cảnh vật thiên nhiên cũng thấm
đượm ngọt ngào và đam mê mãnh liệt như tuần trăng mật của đôi lứa.
=> Xuân Diệu làm hiện lên cả một vườn xuân đầy màu sắc, đầy sức sống, tươi non, mơn mởn
như một thiên đường ngay tại mặt đất.
*So sánh vẻ đẹp được ca ngợi trong thơ của Xuân Diệu với các nhà thơ khác:
Khác với Vũ Đình Liên hay Tản Đà “Trần thế em nay chán nửa rồi” (Muốn làm thằng Cuội):
muốn đi tìm chốn bồng lai tiên cảnh vì quá chán ngán trần thế, muốn trốn tránh hiện thực, Xuân
Diệu chọn cách đối mặt với thực tại và nhìn vào các khía cạnh tốt đẹp của cuộc sống. Ông cảm
thấy cảnh sắc trần thế vốn đã như một thiên đường xinh đẹo, vậy thì cần gì phải tìm chốn bồng
lai tiên cảnh ở đâu xa? Xuân Diệu được coi là “nhà thơ mới của các nhà thơ mới” cũng chính là
vì quan niệm nhân sinh sâu sắc này, quan niệm mà ông vẫn luôn gửi gắm trong các tác phẩm của
mình.
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
=> Quan niệm về cái đẹp: Con người trong độ tuổi xuân sắc là chuẩn mực cao nhất của cái đẹp.
c. 2 câu thơ tiếp
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
d. 13 câu tiếp: quan niệm về thời gian và tuổi trẻ
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian;
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
- Thời gian trong mắt của Xuân Diệu, thời gian không ngừng trôi và sẽ không giữ lại bất kì một
khoảnh khắc nào, dù là đẹp đẽ nhất. Xuân tới rồi cũng sẽ qua đi. Xuân mơn mởn, nhưng rồi cũng
sẽ già => Bước đi tuyến tính của thời gian trong quá khứ, hiện tại và tương lai => Mùa xuân
không đơn thuần chỉ thời gian mà còn ẩn dụ cho tuổi xuân của đời người.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian;
=> Giọng điệu ưu hoài, suy tư: Tại sao thời gian qua đi mà tuổi xuân con người không tài nào
giữ lại.. Tại sao lòng tôi còn muốn được yêu đời, được sống tha thiết nhưng tuổi đời lại giới hạn.
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
- “Nói làm chi”: Cách nói phủ định thẳng thắn, phản đối quan niệm về thời gian tuần hoàn của
người xưa, đồng thời khẳng định triết lý thời gian tuyến tính.
- Nếu người xưa tin rằng sinh mệnh của con người là tuần hoàn, đi rồi trở lại và lấy vũ trụ làm
thước đo, thì trong quan điểm của Xuân Diệu, ông tin rằng sinh mệnh của con người là hữu hạn,
một đi không trở lại, đếm bằng từng mùa xuân đi qua cuộc đời.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
- Bộc lộ tâm trạng “tiếc cả đất trời”. Từ đây, Xuân Diệu bắt đầu nhìn cảnh vật trước mắt với sự
chia ly, buồn tủi.
e. 7 câu tiếp: Bức tranh thiên nhiên và tâm trạng của nhà thơ.
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt....
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi ?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa ?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
- Thiên nhiên được nhân hóa, nhuộm màu sắc chia li. Thông qua cảnh sắc buồn tẻ ấy, tác giả đã
bộc lộ tâm trạng của chính mình: giận hờn, trách móc thời gian lạnh lùng vô tình; lo lắng, sợ hãi
tuổi xuân trôi nhanh, đồng thời bộc lộ tình yêu đời tha thiết.
- Khác với thiên nhiên ở khổ thơ thứ nhất, một cảnh sắc tràn đầy ái ân hạnh phúc, thì thiên nhiên
được mô tả ở những câu thơ trên sau khi tác giả đã chiêm nghiệm về triết lý thời gian tuyến tính
thể hiện một nỗi u sầu không tài nào giấu được.
d. 10 câu cuối: Lời giục giã sống vội để tận hưởng, tận hiến.
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- “Ta muốn ôm”: lời tuyên bố triết lý sống.
- Các hình ảnh: sự sống mơn mởn, mây đưa, gió lượn, cánh bướm, tình yêu, cái hôn nhiều, non
nước, cây cỏ, mùi thơm, ánh sáng => Thể hiện thiên nhiên phong phú, đa dạng, tràn đầy hương
thơm và ánh sáng của cuộc sống.
=> Khơi gợi niềm khao khát được tận hưởng cuộc sống.
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
- “cắn”: trạng thái cảm xúc sung sướng tột đỉnh của tình yêu,

=> Bộc lộ niềm khao khát và sự vỡ òa cảm xúc không thể kìm nén của Xuân Diệu khi đã tìm
thấy triết lý sống của đời mình.
* Cảm nhận về triết lí “sống vội” của Xuân Diệu:
- Phải vội vàng để cảm nhận được nie
5. Nghệ thuật được sử dụng trong các khổ thơ
*Bốn câu thơ đầu: [ Tôi muốn … đừng bay đi.]
- Thể thơ ngũ ngôn
- Điệp ngữ “tôi muốn” → tạo ra âm điệu cho bài thơ, bộc lộ trực tiếp cái tôi cá nhân đầy bản lĩnh
,nhấn mạnh những khát vọng không tưởng của nhà thơ là “tắt nắng” và “buộc gió”.
- Dùng đại từ “tôi” thay vì đại từ “ta”.
⇒ Lời thơ ngắn gọn, nhịp thơ gấp gáp, XD đã thể hiện một ý muốn táo bạo, muốn chế ngự thiên
nhiên, lo sợ bước đi của thời gian nên muốn giữ lại tất cả hương vị của cuộc đời.
*Bảy câu thơ tiếp theo: [ Của ong bướm … cặp môi gần ]
- Liệt kê , rất nhiều các sự vật hiện tượng “ong bướm”, “hoa của đồng nội”, “ lá của cành tơ”,
“yến anh”, “ánh sáng chớp hàng mi” → bức tranh mùa xuân vô cùng phong phú, đa dạng, sống
động.
- Điệp ngữ “Này đây” được đặt trước các sự vật, hiện tượng và kết hợp với hình ảnh, âm thanh,
màu sắc → các sự vật, hiện tượng không xuất hiện bình tĩnh mà nó liên tiếp, hối hả, dồn dập như
đang tranh nhau ùa vào bức tranh mùa xuân của XD.
- Sử dụng dấu chấm phẩy cuối các câu thơ → cho thấy hơi thơ không hề bị đứt đoạn mà nó rất
liền mạch và càng về sau càng dồn dập, sôi nổi.
- Hình ảnh thơ hấp dẫn, gợi cảm , căng tràn sức sống.
- Sử dụng ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “ngon” + biện pháp hoán dụ + so sánh - lấy khái niệm thời
gian là “Tháng Giêng” so sánh “cặp môi gần” → sự so sánh độc đáo và mới mẻ, lấy con người
làm chuẩn mực của cái đẹp thay vì thiên nhiên như trong thơ xưa.
⇒ Bức tranh mùa xuân ngập tràn ánh sáng, âm thanh, bức tranh chính là biểu tượng cho vẻ đẹp
của cuộc sống và được tác giả cảm nhận bằng tất cả các giác quan, từ thị giác để nhìn hình thái
xinh đẹp đến thính giác để lắng nghe nhịp điệu thiên nhiên.
* Hai câu thơ tiếp theo: [ Tôi sung sướng … mới hoài xuân]
- Câu thơ có dấu chấm ở giữa dòng, sự mới mẻ trong cú pháp → cho thấy trong cùng một câu
thơ mà lại có 2 luồng cảm xúc cùng xuất hiện trong trái tim của XD. Tâm trạng sung sướng - vội
vàng xuất hiện tưởng như đối lập nhưng không hề mâu thuẫn.
 Khi tác giả đang vui vẻ, sung sướng tận hưởng mùa xuân, tình yêu, tuổi thanh xuân hừng
hực thì ngay lập tức lại cảm thấy tiếc nuối tuổi thanh xuân , cảm thấy đời người hữu hạn
 Không đợi mùa xuân đi qua ông mới hối tiếc mà ông hối tiếc ngay lúc nó còn đang rạo
rực nhất
→ XD luôn bị ám ảnh bởi bước đi của thời gian.
*9 câu thơ tiếp theo: [ Xuân đương tới … cả đất trời ]
- Biện pháp điệp ngữ, điệp cấu trúc. Điệp từ “nghĩa là” → tạo thành câu định nghĩa ,giải thích để
tìm ra quy luật của cuộc sống, mang tính chất khẳng định.
- Lấy “ xuân” ẩn dụ cho tuổi trẻ của con người.
- Hàng loạt các cặp từ đối lập “ tới” >< “ qua”, “ non” >< “già” , “xuân hết” >< “tôi mất”→ nhấn
mạnh sự chảy trôi nhanh chóng đáng sợ, cái lạnh lùng nghiệt ngã của quy luật thời gian.
- Đối lập quy luật con người >< thiên nhiên ( “còn trời đất” – “ chẳng còn tôi” ) , quy luật của đất
trời >< quy luật của đời người (“tuổi trẻ” – “ chẳng hai lần thắm lại”)
- Từ ngữ giàu cảm xúc :”bâng khuâng” ,”tiếc”
- Giọng thơ tranh biện, đối thoại.
*7 câu thơ tiếp theo : [Mùi tháng năm… chẳng bao giờ nữa]
- Biện pháp nhân hóa : “cơn gió - thì thào”, “sông núi - than thầm tiễn biệt’’, “chim- đứt tiếng”,...
→ Biến sự vật hiện tượng vô tri , vô giác trở nên có cảm xúc như con người.
- Ngôn từ, hình ảnh độc đáo : tháng năm - chỉ thời gian một cách trừu tượng nhưng được gắn với
các từ như mùi (khứu giác), rớm ( thị giác), vị (vị giác) → ẩn dụ chuyển đổi cảm giác → thời
gian được hình dung như một giọt lệ chia phôi.
- Điệp từ “phải chăng” , điệp ngữ “chẳng bao giờ nữa” → nối kết ý thơ, nhấn mạnh sự trôi chảy
của thời gian, một đi không trở lại.
- Câu thơ đa dạng (câu cảm thán), câu hỏi tu từ
- Từ ngữ giàu cảm xúc, lột tả được tâm trạng của nhà thơ: “chia phôi”, “tiễn biệt”,” hờn”, “sợ
phai tàn”.
- Giọng thơ dù tha thiết yêu đời nhưng cũng trở nên buồn, tiếc nuối, nặng nề, ngậm ngùi.
⇒ Khu vườn xuân tràn đầy nhựa sống bỗng trở nên u buồn, lặng lẽ, thiên nhiên trở nên ảm đạm
bởi tâm hồn nhạy cảm, sự tiếc nuối, ngậm ngùi của tác giả. → sự vội vàng níu kéo tuổi trẻ.
*10 câu thơ cuối: [Mau đi … cắn vào người.]
- Một câu cảm thán: “Mau đi thôi!” - Câu thơ như tiếng gọi gấp rút, một câu mệnh lệnh đầy giục
giã, đánh thức cảm nhận thời gian và mau chóng tận hưởng mùa xuân và tuổi trẻ.
- Câu thơ mở đầu 3 chữ, đặt ở chính giữa dòng thơ → cái “tôi” đầy khao khát, đang đứng giữa
trần gian, dang tay ôm hết mọi cảnh sắc tươi đẹp của trần thế.
- Từ cái “tôi” riêng ,tác giả đã hòa mình vào cái “ta” chung của thế hệ trẻ → thể hiện khát khao:
hãy trân trọng từng phút, từng giây sống hết mình, cháy hết mình.
- Điệp ngữ “ta muốn” lặp lại 5 lần, điệp từ “và”, “cho” → nhấn mạnh khát vọng tận hưởng vẻ
đẹp cuộc đời và sống đẹp từng giây từng phút.
- Biện pháp liệt kê: mây đưa, gió lượn, cánh bướm, tình yêu, non, nước, mây, cỏ…→ Gợi tả vẻ
đẹp tươi, mơn mởn, sự đa dạng, phong phú của thiên nhiên, của cuộc đời khiến nhà thơ đắm say,
ngây ngất…
- Sử dụng hàng loạt các động từ mạnh : “ riết”, “say”, “thâu” ,”cắn”
- Các từ chỉ mức độ : chếnh choáng, đầy, no nê → diễn tả cảm xúc ào ạt, dâng trào.
- Giọng thơ sôi nổi, dồn dập, háo hức.

*Kết bài
Bài thơ Vội vàng thể hiện ý thức về giá trị của cuộc sống, nhắc nhở chúng ta phải biết trân trọng
và cống hiến hết mình, tận hưởng từng giây từng phút của cuộc đời mình nhất là những năm
tháng tuổi trẻ.Đặc biệt,các hình thức nghệ thuật, hình ảnh được kết hợp điêu luyện, chỉnh chu,
đào sâu về cả mạch cảm xúc và mạch lý luận đã góp phần nhấn mạnh tư tưởng được tác giả gửi
gắm trong bài thơ.Đây có thể coi như một bài thơ trữ tình tiêu biểu trong phong trào thơ mới,
mang lại một dấu ấn đặc biệt giữa các tác phẩm buồn lắng đọng, xứng danh “nhà thơ mới nhất
trong các nhà thơ mới”. Dẫu ra đời từ những năm 30 của thế kỷ trước, nhưng những giá trị nhân
vân và nghệ thuật bài thơ đem đến vẫn mãi được ca tụng, vang danh, khiến cho ta nhớ mãi cái
tên Xuân Diệu.

You might also like