Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 24

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


VIỆN ĐÀO TẠO BÁO CHÍ VÀ TRUYỀN THÔNG
-----------------

TIỂU LUẬN CUỐI KÌ

Môn: Pháp luật và đạo đức báo chí truyền thông


Giảng viên học phần: ThS Phạm Đức Thái
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Phương Anh
MSSV: 22030592
Lớp: QH – 2023 – BC.BK
Mã lớp học phần: JOU2019 2

Hà Nội, 27 tháng 12 năm 2023


LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn đến giảng viên của học phần – ThS Phạm Đức
Thái. Nhờ những bài giảng chi tiết của thầy, em đã có thêm nhiều kiến thức bổ
ích về pháp luật và đạo đức nghề Báo, bên cạnh đó, còn có thể hoàn thành bài tập
này một cách tốt nhất. Sự chân thành và tận tình của thầy đã giúp em rất nhiều
trên con đường học tập và đạt được ước mơ của bản thân.

Thứ hai, em xin cam đoan bài tập dưới đây hoàn toàn là của bản thân em, do em
tự tìm hiểu và hoàn thiện, em xin hứa sẽ trích dẫn những dữ liệu em tham khảo
đầy đủ và đúng mực.

Cuối cùng, vì thời gian và kinh nghiệm có hạn, em không thể tránh khỏi những
thiếu sót khi làm bài, em mong nhận được góp ý và nhận xét từ thầy, để em có thể
rút kinh nghiệm và thực hiện những bài tập lần sau tốt hơn.

Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn thầy. Kính chúc thầy nhiều sức khoẻ,
hạnh phúc và thành công.

Kí tên

Phương Anh.
MỤC LỤC
PHẦN 1: SỰ CẦN THIẾT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT BÁO CHÍ 2016 .... 5

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 5

1. Quy định về cơ quan quản lý nhà nước về báo chí, Hội nhà báo Việt
Nam, cơ quan chủ quản báo chí ........................................................................ 6

2. Quy định về đối tượng, điều kiện thành lập; mô hình hoạt động, cơ cấu
tổ chức, cơ chế kinh tế - tài chính của cơ quan báo chí ................................... 8

3. Quy định về việc thoả thuận bổ nhiệm cấp phó của người đứng đầu cơ
quan báo chí ........................................................................................................ 9

4. Quy định về nội dung thông tin báo chí ............................................... 10

5. Quy định về văn phòng đại diện, phóng viên thường trú ....................11

6. Quy định về hoạt động tác nghiệp báo chí ........................................... 12

7. Quy định về tạp chí khoa học; báo in, tạp chí in; báo điện tử, tạp chí
điện tử ................................................................................................................ 13

KẾT LUẬN........................................................................................................ 14

PHẦN 2: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA
NGƯỜI LÀM BÁO VIỆT NAM ..................................................................... 15

MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 15

1. Phát huy tính tự giác, tự rèn luyện đạo đức của mỗi nhà báo và nâng
cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức.......................................................... 15

2. Tạo môi trường thuận lời cho đạo đức nghề nghiệp của nhà báo phát
triển 18

3. Sửa đổi, bổ sung Luật báo chí và tăng tính hiệu lực của Quy định đạo
đức nghề nghiệp ................................................................................................ 20
4. Tăng cường sự quản lý, kiểm tra, giám sát của các cấp, các ngành, các
đoàn thể và toàn xã hội đối với đội ngũ làm báo ........................................... 21

5. Nâng cao ý thức, trách nhiệm người làm báo khi tham gia mạng xã hội
22

KẾT LUẬN........................................................................................................ 23

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 24

PHỤ LỤC .......................................................................................................... 24


PHẦN 1: SỰ CẦN THIẾT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT BÁO CHÍ 2016

MỞ ĐẦU

Trong Báo cáo Chính phủ về kết quả nghiên cứu, rà soát Luật Báo chí năm 2016
và kiến nghị sửa đổi, bổ sung[2] – Báo cáo số 57/BC-BTTTT, ngày 30/3/2022, của
Bộ Thông tin và Truyền thông, thực hiện Quyết định số 2114/QĐ-TTg, ngày
16/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch thực hiện Kết luận số
19-KL/TW của Bộ Chính trị và Đề án Định hướng Chương trình xây dựng Pháp
luật nhiệm kỳ Quốc hội khoá XV, Bộ TT&TT, qua đó đã chỉ ra những thuật lợi,
khó khắn, vướng mắc trong quá trình thi hành Luật Báo chí (được Quốc hội thông
qua ngày 05/4/2016, có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2017) đồng thời đưa ra
những kiến nghị, giải pháp khắc phục.

Luật Báo chí 2016 đã điều chỉnh kịp thời những vấn đề nảy sinh; phần nào khắc
phục những hạn chế trong thực tiễn hoạt động BC. Các điều chỉnh này từng bước
nâng cao hiệu quả của công tác quản lý nhà nước đối với báo chí trong giai đoạn
hiện nay; đặc biệt, tạo ra điều kiện thuận lợi để nền báo chí Việt Nam phát triển.

Các sửa đổi và điều chỉnh trong Luật Báo chí 2016 đã giúp khắc phục những vấn
đề cụ thể mà ngành báo chí đang phải đối mặt. Điều này có ý nghĩa quan trọng
trong việc nâng cao chất lượng thông tin, đảm bảo sự minh bạch và trách nhiệm
trong công tác báo chí. Về cơ bản, Luật Báo chí 2016 quy định khá đầy đủ, rõ
ràng, chi tiết, tạo điều kiện cho hoạt động nghiệp vụ báo chí, đồng thời tạo hành
lang pháp lý cho cơ quan, tổ chức, cá nhân hiểu và hợp tác, hỗ trợ cơ quan báo
chí, tác nghiệp của phóng viên.

Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được triển khai rộng rãi,
nghiêm túc, có chiều sâu, bằng các hình thức đa dạng, thiết thực tới hầu hết các
bộ, ngành, địa phương, hiệp hội. Các cơ quan BC đã tiếp thu, nâng cao nhận thức
và có sự chuyển biến tích cực trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, chỉ đạo
cơ quan BC hoạt động theo quy định; các cơ quan hành chính nhà nước đã thực
thi chính sách và thực hiện nghiêm chỉnh công tác cung cấp thông tin cho báo chí,
truyền thông.

Tuy nhiên, căn cứ vào tình hình thực tế, một số quy định của Luật Báo chí đã bộc
lộ một số hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Bài làm dưới
đây sẽ cố gắng chỉ ra những điểm đáng chú ý, cần thiết sử đổi và bổ sung Luật
Báo chí 2016.

1. Quy định về cơ quan quản lý nhà nước về báo chí, Hội nhà báo Việt Nam, cơ
quan chủ quản báo chí

1.1. Quy định về phân cấp quản lý nhà nước về báo chí

Sau khi thực hiện nghiên cứu, rà soát, Bộ TT&TT nhận thấy Luật Báo chí cần sửa
đổi, bổ sung Luật Báo chí theo hướng tăng cường phân cấp quản lý, giải quyết
thủ tục hành chính cho cơ quan quản lý nhà nước về BC tại địa phương.

1.2. Quy định về quản lý nhà nước về báo chí tại địa phương

Luật Báo chí quy định “Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình có trách nhiệm quản lý nhà nước về báo chí tại địa phương” (Khoản
4 Điều 7, Luật Báo chí). Ở đây, cụm từ “báo chí tại địa phương” chưa được quy
đinh rõ ràng, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, gây khó khăn trong hoạt động
quản lý của nhà nước theo 2 cách hiểu: Các cơ quan báo chí của địa phương (có
cơ quan chủ quản là cơ quan, tổ chức của địa phương) hay các cơ quan báo chí có
trụ sở đặt trên địa bàn (kể cả của Trung ương và các địa phương khác).

Vì vậy cần thiết sửa đổi, chỉnh sửa cụm từ “báo chí tại địa phương” thành “báo
chí của địa phương” hoặc bổ sung chú thích giải thích rõ ràng cụm từ trên, tránh
gây hiểu lầm, hoang mang trong công tác quản lí và thực thi Luật pháp.

1.3. Quy định về thu hồi giấy phép hoạt động báo chí
Trong Luật Báo chí, Điều 18 và Điều 31 đã có quy định về việc cấp các loại giấy
phép trong hoạt động báo chí. Tuy nhiên, chưa có quy định trong việc thu hồi giấy
phép trong trường hợp cơ quan BC không còn đảm bảo điều kiện hoạt động.

Sau khi hoạt động một thời gian, một số cơ quan BC không thực hiện đúng chức
trách, không đáp ứng đủ các điều kiện, không bảo đảm các cam kết đề ra ban đầu.
Các cơ quan BC này có những đóng góp rất hạn chế, nảy sinh nhiều vấn đề, dẫn
đến một số vi phạm trong hoạt động BC, không những thế còn có một số cá biệt
lợi dụng tư cách báo chí để sách nhiễu, thu lợi bất chính.

Tại Điều 59, Luật về quy định hình thức thu hồi giấy phép trong xử lí vi phạm
lĩnh vực báo chí, nhưng chưa có quy định cụ thể về trình tự, thủ tục dẫn đến vướng
mắc trong việc áp dụng. Bên cạnh đó, chưa thể hiện đúng bản chất của vấn đề là
không đủ điều kiện hoạt động, không phải do vi phạm quy định tại Điều 9. Ngoài
ra, việc thu hồi giấy phép còn phải thực hiện theo các quy định có liên quan tại
Luật Xử lí vi phạm hành chính.

1.4. Quy định về vai trò, nhiệm vụ, trách nhiệm của Hội Nhà báo Việt
Nam và các cơ quan chủ quản báo chí

Đối với Hội Nhà báo Việt Nam, tại Điều 8 có quy định Hội Nhà báo Việt Nam
có trách nhiệm “ban hành và tổ chức thực hiện quy định về đạo đức nghề nghiệp
của người làm báo”. Nhưng trong phạm vi Điều lệ Hội chỉ kết luật và xử lý
phạm vi đối tượng là hội viên nhưng chưa có quy định nhiệm vụ, quyền hạn
thường xuyên theo dõi, giám sát, kiểm tra và phối hợp với cơ quan chức năng
(cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan chủ quản…) để kết luận và xử lý đối với
người làm báo ở Việt Nam vi phạm đạo đức nghề nghiệp, vi phạm pháp luật dẫn
đến hiệu quả xử lý vi phạm trong thực tế còn chưa tương xứng với vai trò, vị thế
của Hội Nhà báo Việt Nam.
Đối với Cơ quan BC, tại Điều 15 quy định quyền hạn và nhiệm vụ của cơ quan
chủ quản BC. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều cơ quan chỉ quản còn tồn đọng nhiều
hạn chế, buông lỏng, qua loa trong việc thực hiện vai trò, quyền hạn. Luật Báo
chí chưa có quy định cụ thể về việc xử lý trách nhiệm của cơ quan chủ quản BC.
Do vậy, một số cơ quan BC không có biện pháp chấn chỉnh, xử lí khi cơ quan
BC liên tiếp hoặc chậm trễ trong triển khai hoạt động. Bên cạnh đó, chưa có quy
định liên quan đến việc chấm dứt, giải thể pháp nhân của cơ quan BC sau khi đã
bị thu hồi giấy phép hoạt động, dẫn tới một số cơ quan BC dựa vào đó, vẫn tiếp
tục hoạt đồng dù không có giấy phép.

2. Quy định về đối tượng, điều kiện thành lập; mô hình hoạt động, cơ cấu tổ
chức, cơ chế kinh tế - tài chính của cơ quan báo chí

2.1. Luật Báo chí còn chưa bao quát hết các mô hình, vấn đề của truyền
thông hiện đại

Những yếu tố công nghê, trí tuệ nhân tạo, cung cấp nội dung xuyên biên giới, sản
xuất nội dung để phát huy sức mạnh tổng hợp của nhiều loại hình báo chí, các nền
tảng công nghệ và các phương thức truyền thông mới là xu thế phát triển của Báo
chí hiện đại nhưng Luật Báo chí hiện hành còn chưa bao quát hết.

Thế nhưng, xu thế này đặt ra nhiều thách thức cho công tác quản lý, đặc biệt là
xảy ra sai sót hoặc tranh chấp trên những nền tảng xuyên biên giới chưa tuân thủ
pháp luật Việt Nam.

2.2. Quy định về đối tượng, điều kiện thành lập cơ quan báo chí

Khoản 2 Điều 14 đã quy định đối tượng thành lập cơ quan báo chí, trong đó có:
“tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp”; “tổ chức nghiên cứu khoa học, tổ
chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được tổ chức dưới hình thức
viện hàn lâm, viện theo quy định của Luật Khoa học và công nghệ”.
Tuy nhiên, còn dễ dãi trong việc thành lập các viện nghiên cứu, chưa đảm bảo
điều kiện nghiên cứu khoa học. Thậm chí hiện nay, còn xuất hiện xu thế thành lập
Hội, viện nghiên cứu chỉ để xin giấy phép hoạt động tạp chí. Một số Hội, Viện
nghiên cứu thực hiện áp đặt, can thiệp trái quy định pháp luật vào hoạt động của
tạp chí. Vì vậy, cần bổ sung thêm những điều kiện để việc cấp giấy phép chặt chẽ
và hoạt động BC bền vững, thực chất hơn.

2.3. Loại hình hoạt động và kinh tế báo chí

Do ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19, cùng với sự chi phối cạnh tranh
của các nền tảng nước ngoài, kinh tế báo chí gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó,
sự tham gia điều tiết, hỗ trợ nguồn tài chính cho BC của nhà nước còn thấp, chưa
đồng đều, thường xuyên. Nhiều cơ quan chủ quản còn bỏ ngõ, sai sót, thậm chí
áp đặt trong việc thực hiện bố trí ngân sách đối với các cơ quan BC. Một số cơ
quan báo chí vướng phải tình trạng “báo hoá tạp chí”, “tư nhân hoá báo chí”, gây
nhiều bất cập cho hoạt động BC.

Do đó, Luật Báo chí cần bổ sung, quy định rõ ràng loại hình hoạt động và quy
mô, phương thức hoạt động của cơ quan báo chí cho phù hợp. Ngoài ra, làm rõ
chính sách hỗ trợ đối với các quan BC cho nhiệm vụ phục vụ chính trị, thông tin
thiết yếu. Xác định rõ trách nhiệm của các cấp, ngành, địa phương, cơ quan chủ
quản trong việc bảo đảm, tạo điều kiện tài chính cho các cơ quan BC hoạt động.
Đặc biệt, nêu rõ cơ quan chủ quan không được áp đặt tài chính trái quy định với
các cơ quan BC, đồng thời nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan BC.

3. Quy định về việc thoả thuận bổ nhiệm cấp phó của người đứng đầu cơ quan
báo chí

Điều 23 chỉ quy định tiêu chuẩn người đứng đầu cơ quan BC, Điều 15 quy định
về trách nhiệm của cơ quan chủ quản trong việc bổ nhiệm người đứng đầu cơ
quan BC sau khi có sự thống nhất ý kiến bằng văn bản của Bộ TT&TT. Nhưng tại
Quyết định số 75-QĐ/TW ngày 21/8/2007 về việc ban hành Quy chế bổ nhiệm,
miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí quy định tiêu
chuẩn và thoả thuận đối với cả cấp phó của người đứng đầu cơ quan BC. Dẫn đến
sự khó khăn trong quá trình thực hiện do chưa thống nhất giữa Luật và các quy
định khác.

4. Quy định về nội dung thông tin báo chí

4.1. Luật Báo chí chưa có quy định để thúc đẩy chuyển đổi số báo chí

Nền BC Việt Nam đang theo đuổi xu hướng BC hiện đại, đa nền tảng, đa phương
tiện, ứng dụng công nghệ số để cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, được cá
nhân hoá tới công chúng mọi lúc, mọi nơi, góp phần định hướng dư luận, củng cố
sự đồng thuận và niềm tin xã hội. Vì thế, Luật Báo chí cần sửa đổi, bổ sung những
hành lang pháp lý để xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển các nền
tảng công nghệ số trong nước; phát triển, ứng dụng công nghệ vào các khâu sản
xuất, biên tập thu thập, xử lí dữ liệu, kết nối với công chúng,… chú trọng đẩy
mạnh chuyển đổi số.

4.2. Quy định về tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí

Quy định cụ thể về tổn chỉ, mục đích được nêu trong nhiều điều khoản của Luật.
Tuy nhiên, một số cơ quan báo chí có ý kiến rằng việc tuân thủ tổn chỉ, mục đích
trong một số trường hợp làm nội dung bị cứng, khô khan, không thu hút người
đọc; nhiều cơ quan BC phải đối mặt với khó khăn về nguồn thu nuôi sống toà
soạn. Như vậy, Luật Báo chí nên sửa đổi, bổ sung: Quy định hành vi “thực hiện
không đúng tôn chỉ, mục đích” vào các hành vi bị nghiêm cấm; quy định tỉ lệ tin
bài về cái vấn đề chính trị, thiết yếu hoặc thực hiện theo yêu cầu, chỉ đạo tuyên
truyền ngoài phạm vi tôn chỉ, mục đích cơ quan báo chí được phép đăng tải.

4.3. Phân định nội dung thông tin báo chí với nội dung thông tin phục vụ
thương mại, giải trí
Luật Báo chí cần sửa đổi, bổ sung theo hướng phân định rõ giữa báo chí phục vụ
chính trị, thông tin chính luận, tuyên truyền thiết yếu và các nội dung chỉ phục vụ
mục đích giải trí, thương mại để có biện pháp quản lý phù hợp, bảo đẩm thúc đẩy
sự đóng góp của các nguồn lực xã hội vào hoạt động sản xuất nội dung trong
nước.

4.4. Quy định về liên kết trong hoạt động báo chí

Điều 37 về liên kết trong hoạt động BC, quy định trách nhiệm của cơ quan BC
trong việc liên kết còn chung chung; chưa quy định cụ thể, rõ ràng về hình thức;
điều kiện, năng lực của đối tác liên kết, quy trình, thủ tục liên kết. Do đó Luật Báo
chí cần sửa đổi, bổ sung những quy định, điều kiện, cam kết chặt chẽ, rõ ràng hơn,
tránh để một số thành phần cá biệt lợi dụng, gây nhầm lẫn cho xã hội.

5. Quy định về văn phòng đại diện, phóng viên thường trú

Quy định đây hoạt động của văn phòng đại diện phóng viên thường trú tại địa
phương phải được sự chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước. Tuy nhiên, Luật
hiện hành quy định cơ quan báo chí lập văn phòng đại diện chỉ cần thông báo cho
cơ quan quản lý nhà nước về BC ở địa phương. Bên cạnh đó, một số cơ quan
không thực hiện đủ những yêu cầu trong hồ sơ văn phòng đại diện, phóng viên
thường trú, có cơ quan còn thông báo thành lập “điểm nhận tin”, hoạt động như
văn phòng đại diện, gây lúng túng cho địa phương trong công tác quản lý. Cũng
có tình trạng cơ quan báo chí cử phóng viên hoạt động độc lập nhưng không thông
báo với cơ quan quản lí địa phương, hiện tại chưa có chế tài xử lí.

Tại Điều 22, Luật chỉ quy định về nhà báo và phóng viên thường trú, chưa quy
định về nhiệm vụ, quyền hạn của cộng tác viên, trong khi thực tế đội ngũ này ở
văn phòng đại diện địa phương khá nhiều.

Về số lượng, cũng có những đơn vị mở quá nhiều văn phòng đại diện, phóng viên
thường trú không cần thiết. Về nhân sự, nhiều văn phòng đại diện chỉ có trưởng
văn phòng là có thẻ nhà báo, hoặc một số lại thường xuyên vắng mặt ở văn phòng
để quán xuyến hoạt động của văn phòng.

Tình trạng văn phòng đại diện, phóng viên thường trú hoạt động gây bức xúc tại
nhiều địa phương, do một số cơ quan báo chí buông lỏng quản lý; khoán doanh
thu cho văn phòng đại diện; viết bài chủ yếu tập trung khai thác vấn đề tiêu cực,
mặt trái, vướng mắc của địa phương.

Do đó, Luật Báo chí cần sửa đổi, quy định rõ và đầy đủ những yêu cầu, điều kiện,
nhiệm vụ, trách nhiệm, quy mô của văn phòng đại diện, phóng viên thường trú
hoạt động tại địa phương.

6. Quy định về hoạt động tác nghiệp báo chí

6.1. Quy định về phóng viên

Luật Báo chí đề cập đến chức năng phóng viên, tuy nhiên, chưa có quy định cụ
thể về quyền và nghĩa vụ của phóng viên (khi đội ngũ này chưa đủ điều kiện được
cấp thẻ nhà báo).

Ngoài ra, khi tác nghiệp, do chưa có quy định đối với phóng viên chưa được cấp
thẻ nhà báo cần giấy tờ như nào, dẫn đến các cơ quan, tổ chức yêu cầu khác nhau,
gây khó khăn cho phóng viên tác nghiệp.

Vì thế, Luật Báo chí cần bổ sung trong quy định về quyền, nghĩa vụ và yêu cầu,
tiêu chuẩn của phóng viên. Điều kiện hoạt động tác nghiệp của phóng viến khi
chưa được cấp thẻ nhà báo là phải có giấy giới thiệu do cơ quan báo chí cấp; ban
hành mẫu, yêu cầu đối với giấy giới thiệu để thống nhất, áp dụng thực hiện. Quy
định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khi phối hợp, làm việc,
cung cấp thông tin cho phóng viên.

6.2. Quy định về điều kiện, tiêu chuẩn nhà báo


Điều 27 quy định về điều kiện, tiêu chuẩn được xét cấp thẻ nhà báo. Song còn
thiếu yêu cầu về đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ BC trước khi cấp thẻ nhà báo lần
đầu. Vì thế, một số bộ phận nhà báo, phóng viên thiếu chuẩn mực, ảnh hưởng đến
hoạt động hợp pháp và gây bức xúc; vi phạm đạo đức nghề nghiệp, trái quy định,
thậm chí bị xử lý hình sự.

6.3. Quy định về trình tự, thủ tục cấp, đổi, cấp lại thẻ nhà báo

Điều 28 Luật Báo chí quy định về cấp, đổi, cấp lại thẻ nhà báo. Tuy nhiên một số
hồ sợ đề nghị cấp thẻ nhà báo của cơ quan BC tại địa phương không cần có ý kiến
của Sở như trước đây, gây khó khăn cho công tác quản lý của Sở. Ngoài ra, còn
một số bất cập, vướng mắc như:

Thứ nhất, theo quy định tại điểm d khoản 5 Điều 28, người thuộc đối tượng phải
nộp lại thẻ nhà báo, chỉ được đổi thẻ trong thời hạn 6 tháng là chưa hợp lí. Đồng
thời, cũng chưa có quy định việc nộp lại thẻ cũ khi cấp đổi thử nhà báo theo kỳ
hạn mới.

Thứ hai, chưa có yêu cầu xác thực khai báo tình trạng mất thẻ nhà báo, khiến
nhiều người thực chất không mất thẻ mà khai báo gian dối để có thêm thẻ nhà
báo.

Thứ ba, chưa có quy định xử lý đối với trường hợp chây ì, cố tình không nộp lại
thẻ.

7. Quy định về tạp chí khoa học; báo in, tạp chí in; báo điện tử, tạp chí điện tử

7.1. Quy định về tạp chí khoa học

Các tạp chí khoa học hiện chiếm đến 37% tổng số cơ quan BC, tuy nhiên các quy
định của Luật về tạp chí khoa học còn chưa đầy đủ để tạo cơ sở cho sự phát triển
sản phẩm này; chưa quy định về tiêu chí và điều kiện đảm bảo chất lượng khoa
học, chưa quy định trách nhiệm của cơ quan chủ quản trong việc bảo đảm chất
lượng khoa học. Ngoài ra, cần bổ sung tạo cơ chế đặc thù về mô hình, ngân sách
hoạt động, cơ chế tài chính của tạp chí khoa học; tiêu chuẩn, điều kiện người đứng
đầu khoa học cần đặc thù so với các cơ quan BC khác.

7.2. Quy định về báo in, tạp chí in, báo điện tử, tạp chí điện tử

Tại khoản 3 và 6 Điều 3, báo in gồm báo in và tạp chí in, báo điện tử gồm báo
điện tử và tạp chí điện tử. Đây là vấn đề bất cập khiến bạn đọc nhầm lẫn về tính
chất giữa báo và tạp chí, từ đó góp phần dẫn đến tình trạng “báo hoá tạp chí”.

Khoản 15 Điều 3 quy định: “Tạp chí điện tử là sản phẩm báo chí xuất bản định
kỳ, đăng tin, bài có tính chất chuyên ngành, được truyền dẫn trên môi trường
mạng”. Quy định này chưa có sự phân biệt và lượng hoá rõ ràng giữa báo điện tử
và tạp chí điện tử. Cũng chưa có quy định cụ thể thế nào là định kỳ, xuất bản định
kỳ trong khoảng thời gian bao lâu, Quy định chưa rõ ràng, chưa phân định cụ thể
giữa báo và tạp chí, dẫn đến tình trạng “báo hoá” tạp chí, cơ quan tạp chí lợi dụng
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nói chung của BC để hoạt động như cơ quan báo,
không phù hợp với tính chất của tạp chí; gây khó khăn trong công tác quản lý.

KẾT LUẬN

Luật Báo chí 2016, sau nhiều năm hiện hành đã thể hiện được những ưu điểm, các
quy định của Luật Báo chí phù hợp với Hiến pháp, thống nhất với hệ thống pháp
luật về báo chí và pháp luật liên quan; cơ bản điều chỉnh đầy đủ các mối quan hệ
trong lĩnh vực báo chí, tác động tích cực đến hoạt động báo chí, công tác quản lý
nhà nước về BC và mọi mặt của đời sống xã hội; quyền tự do báo chí, tự do ngôn
luận được bảo đảm. Tuy nhiên, trải qua 6 năm triển khai thi hành, Luật Báo chí
đã bộc lộ một số hạn chế nhất định, được nêu trên, ngoài ra báo chí cũng gặp phải
một số khó khăn chính sách thuế đối với báo chí và quy định về quảng cáo trên
báo chí cần chú tâm khắc phục và sửa đổi để hoàn thiện hơn.
PHẦN 2: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA
NGƯỜI LÀM BÁO VIỆT NAM

MỞ ĐẦU

Với khẩu hiệu "Đổi mới báo chí vì sự nghiệp đổi mới đất nước," BC Việt Nam đã
đạt được sự phát triển đáng kể trong số lượng về loại hình ấn phẩm công nghệ,
mở rộng phạm vi tác động. Vai trò quan trọng của báo chí trong đời sống xã hội
ngày càng được thể hiện rõ, đồng thời quá trình dân chủ hóa đời sống báo chí đã
làm cho thông tin trở nên đa dạng và gần gũi với cuộc sống hàng ngày, tính phản
biện cũng được nâng cao.

Báo chí không chỉ giúp đưa chính sách vào cuộc sống mà còn đưa cuộc sống vào
chính sách và pháp luật bằng những ý kiến xây dựng và bổ sung cho các chính
sách và đạo luật hoàn chỉnh hơn. Đội ngũ những người làm báo, gần 17.000 nhà
báo hiện đang hoạt động trên khắp đất nước, đã có đóng góp lớn trong việc phản
ánh sinh động cuộc sống, khuyến khích đổi mới tích cực và nêu gương những
người tiên tiến.

Tuy nhiên, trong thành công đó, vẫn còn biểu hiện tiêu cực trong đạo đức nghề
báo, đòi hỏi sự chấn chỉnh và khắc phục từ những người làm báo để duy trì uy tín
và đạo đức trong ngành. Dưới đây là các giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao đạo
đức nghề nghiệp của người làm báo, đẩy mạnh uy tín, chất lượng của nền BC Việt
Nam.

1. Phát huy tính tự giác, tự rèn luyện đạo đức của mỗi nhà báo và nâng cao
hiệu quả công tác giáo dục đạo đức

1.1. Phát huy tính tự giác, tự rèn luyện đạo đức là phát huy tinh thần
nội lực của mỗi nhà báo
Sự hình thành và phát triển phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của mỗi nhà báo
không diễn ra một cách tự phát mà đòi hỏi một quá trình tự giáo dục tự rèn luyện
của cá nhân mỗi nhà báo.

Trình rèn luyện đạo đức nghề nghiệp là một quá trình bền bỉ suốt đời thông qua
hoạt động thực tiễn nghề nghiệp. Quá trình tự giáo dục là sự tiếp tục giáo dục đạo
đức ở bên trong, nó biểu hiện tính tích cực trong nhận thức nhà báo. Những phẩm
chất đạo đức nghề nghiệp khi được hình thành bằng giáo dục và được cùng cố
bằng sự tự giáo dục thì sẽ trở thành những nét tính cách ổn định, bền vững, thể
hiện sự trưởng thành của nhà báo. Vì vậy, yếu tố quan trọng nhất giúp nâng cao
đạo đức nghề nghiệp của nhà báo là ý thức, chủ động vươn lên và trau dồi, học
nghề và rèn nghề.

Quá trình giáo dục, tự rèn luyện đạo đức nghề nghiệp luôn gắn liền với quá trình
nhà báo tự nâng cao trình độ nhận thức mọi mặt và năng lực chuyên môn. Điều
cần thiết nhất để nâng cao đạo đức nghề nghiệp của nhà báo chính là nội tại bên
trong bản thân con người họ, trong trái tim khối óc của mỗi nhà báo không chỉ
cần dung nạp lượng kiến thức cần thiết cho nghề nghiệp mà còn phải dành chỗ
cho sự rung cảm. Kiến thức về đạo đức và lương tâm người làm báo cần được bồi
đắp sàng lọc theo năm tháng phấn đấu, hơn thế, nó phải chuyển thành ý thức hệ,
thành suy nghĩ tự nhiên, bản năng của người làm báo. Bên cạnh đó quá trình tự
học còn phải kết hợp với một quá trình lao động cần cù, chăm chỉ và có phương
pháp học tập, làm việc hiệu quả.

1.2. Nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục đạo đức là tăng cường
hệ miễn dịch cho nhà báo

Giáo dục có vai trò quan trọng hàng đầu trong quá trình hình thành và phát triển
nhân cách. Nhờ có giáo dục đạo đức mới dần được phát triển và hoàn thiện trong
Ý thức cá nhân và ý thức xã hội trở thành yếu tố thống trị trong đời sống xã hội.
Vì vậy giáo dục đạo đức là yêu cầu khách quan nhằm nâng cao đạo đức nói chung
đạo đức nghề nghiệp nói riêng cho đội ngũ nhà báo.

Việc giáo dục đạo đức cho sinh viên báo chí không phải chỉ thông qua trường lớp,
thầy cô hay môn học riêng nào, mà cần được giáo dục thông qua tất cả môn học
chuyên ngành đều có thể lồng ghép nội dung này nhằm hình thành nhân cách nhà
báo cho sinh viên ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Ngoài ra các đơn vị thực
tập báo chí cũng cần tạo điệu kiện, sự quan tâm, giám sặt chặt chẽ hơn trong công
tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho các sinh viên báo chí – những nhà báo
tương lai.

Tuy nhiên, công tác giáo dục, bồi dưỡng đạo đức vẫn còn hạn chế, chưa đúng
mức, còn nhiều bất cập. Hàng năm Hội Nhà báo Việt Nam, Bộ TT&TT tổ chức
rất nhiều lớp bồi dưỡng nghiệp vụ nhưng bồi dưỡng đạo đức còn hạn chế.

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức nghề nghiệp nhà báo:

Một là, đẩy mạnh việc học tập tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo. Những quan điểm, lời dạy, tư
tưởng làm báo của Người hết sức thuyết phục, phù hợp và đáng giá: Trung thành
với lý tưởng của đất nước, nhân dân và Đảng Cộng sản; trung thực, khách quan;
gần dân, yêu dân; có tinh thần phê bình và tự phê bình; rèn luyện, học tập suốt
đời.

Hai là, tăng cường giáo dục các giá trị truyền thống đạo đức của dân tộc, quy
ước đạo đức nghề báo. Việt Nam là một quốc gia gắn liền với những truyền thống,
giá trị dân tộc tốt đẹp, đáng tự hào. Tăng cường giáo dục những giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc là tăng hệ miễn dịch, là điểm tựa chỉ đường cho đội ngũ
nhà báo. Song đó, bên cạnh việc giáo dục truyền thống dân tộc là việc đưa quy
định đạo đức nghề nghiệp của nhà báo vào thực tiễn hoạt động báo chí, phát huy
những giá trị tốt đẹp, phẩm chất đạo đức và trách nhiệm người làm báo.
Ba là, gắn giáo dục đạo đức nghề nghiệp với nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ. Năng lực và phẩm chất phải luôn song hành, sự yếu kém về nghiệp vụ
sẽ khó hành nghề, còn sự khuyết điểm trong đạo đức sẽ dẫn dắt nhà báo vào con
đường tiêu cực.

Bốn là, tăng cường giáo dục lý luận chính trị, giáo dục pháp luật cho đội ngũ nhà
báo nói chung, sinh viên nhà báo nói riêng. Khi nhà báo khuyết đi trình độ nhận
thức về lý luận, chính trị thì tính chủ động tự giác trong hành vi đạo đức sẽ giảm
đi và do đó ý nghĩa đạo đức của nó sẽ ít hoặc không có. Việc giáo dục lý luận
chính trị để qua đó vừa tăng bản lĩnh chính trị cho nhà báo vừa nâng cao ý thức
nghề nghiệp cho nhà báo.

2. Tạo môi trường thuận lời cho đạo đức nghề nghiệp của nhà báo phát triển

2.1. Nâng cao đời sống vật chất cho đội ngũ những người làm báo

Báo chí là một hình thái ý thức xã hội năng động nhất trong việc phản ánh hiện
thực cuộc sống. Vì vậy, không thể có một nền báo chí phát triển nếu không có một
xã hội phát triển, hài hoà, lành mạnh. Sự phát triển của đạo đức nghề báo cũng bị
quy định, chi phối bởi sự phát triển của báo chí nói riêng, điều kiện kinh tế - xã
hội nói chung. Vì vậy, việc xây dựng một nền kinh tế lành lạnh, bền vững là điều
kiện để hình thành, củng cố và phát triển những giá trị đạo đức nói chung, đạo
đức nghề báo nói riêng.

Không thể viện vào hoàn cảnh làm tiền đề cho sự tiêu cực, hành động sai trái, vi
phạm đạo đức nghề nghiệp. Nhưng song đó, cũng không thể phủ nhận được tầm
quan trọng của đồng tiền, nếu không đủ kinh tế đáp ứng nhu cầu vật chất của bản
thân nhà báo và gia đình thì nhà bào nào không đủ tính táo, rất dễ sa ngã, “nhúng
chàm” và thực tế, cũng đã có không ít nhà báo gục ngã trước sự cám dỗ của đồng
tiền.
Việc đảm bảo cho nhà báo có được một mức sống ổn định, phải chăng, có thể
sống bằng lao động nghề nghiệp chân chính là điều kiện tốt và cần thiết để họ
phát triển tài năng, đồng thời ngăn ngừa sự vi phạm đạo đức, hạn chế những tiêu
cực ngoài ý muốn. Do thế, để tạo điều kiện cho nhà báo hoạt động nghề nghiệp
một cách hiệu quả, nhân văn, đạo đức thì vấn đề đãi ngộ, lương, phụ cấp, vấn đề
nhuận bút cũng cần được coi trọng và quan tâm.

Trên thực tế, việc hoàn thành điều kiện này không dễ, là một vấn đề nan giải với
không ít cơ quan BC. Trong khi đó, chưa có nhiều nghiên cứu đầy đủ, phù hợp
cho vấn đề này. Ngoài ra, vấn đề khen thưởng, vinh danh, tôn vinh nhà báo…
cũng cần được coi trọng và chú ý hơn.

2.2. Nâng cao tính chuyên nghiệp của nền báo chí

Nâng cao tính chuyên nghiệp của nền báo chí trước hết là nâng cao tính chuyên
nghiệp của nhà báo. Bởi suy cho cùng, để xảy ra những sai phạm trong nội dung
thông tin trên báo chí trước hết là do sự yếu kém của nhà báo.

Nhà báo chuyên nghiệp là người được đào tạo một cách chuyên nghiệp, bài bản,
có trình độ nhận thức và trình độ chuyên môn tốt, có ý thức tự giác, trách nhiệm
nghề nghiệp cao. Bên cạnh đó, nhà báo chuyên nghiệp còn là người xác lập được
một bản lĩnh chính trị vững vàng, không lệch lạc, xa rời nhiệm vụ chính trị, chạy
theo xu hướng, quan niệm sai lầm dẫn đến vi phạm đạo đức và pháp luật.

Song đó, muốn nâng cao tính chuyên nghiệp của nền báo chí, còn phải nâng cao
tính chuyên nghiệp trong giảng dạy, đào tạo báo chí. Điều này có tác động to lớn
đến việc cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho hệ thống báo chí.

Ngoài ra, còn phải nâng cao tính chuyên nghiệp trong khâu chỉ đạo và điều hành
các cơ quan báo chí, nâng cao công tác quản lý và chỉ đạo báo chí. Những người
làm công tác lãnh đạo, quản lý báo chí cũng cần phải được đào tạo, bồi dưỡng
một các bài bản, chuyên nghiệp.
3. Sửa đổi, bổ sung Luật báo chí và tăng tính hiệu lực của Quy định đạo đức
nghề nghiệp

3.1. Tăng cường sức mạnh của luật và các văn bản pháp luật

Với nhiều quy định mới tiến bộ, phản ánh sâu sắc thực tiễn đời sống của báo chí,
Luật Báo chí 2016 đã mở ra một hành lang pháp lý quan trọng, thích hợp với bối
cảnh thời đại cho sự phát triển bền vững của báo chí cách mạng Việt Nam. Đây là
cơ sở vững chắc, là nền tảng hỗ trợ cho những người làm báo, giúp họ thực hiện
nhiệm vụ chính trị, phục vụ xã hội và nhân dân một cách hiệu quả hơn.

Tuy nhiên, trong thực tế, vẫn tồn tại một số khía cạnh cần được sửa đổi toàn diện
để đáp ứng đầy đủ yêu cầu của sự phát triển báo chí trong giai đoạn tiếp theo.
Điều này đòi hỏi sự linh hoạt và nhạy bén trong việc điều chỉnh các điều khoản
pháp luật để đảm bảo rằng chúng phản ánh đúng nhu cầu và thách thức của nền
BC ngày nay. Một số quy định nêu ra chưa được rõ ràng, chặt chẽ, tạo ra nhiều kẽ
hở cho hoạt động quản lý, giám sát, xử lí các vi phạm cần được sửa đổi, bổ sung,
khắc phục nhằm hoàn thiện cơ sở pháp luật cho nền báo chí nói chung, đạo đức
người làm báo nói riêng.

3.2. Tăng tính hiệu lực của Quy định đạo đức nghề nghiệp của người
làm báo Việt Nam

Ngày 16/12/2016 Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam đã ký quyết định số 483/QĐ –
HNBVN ban hành quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo gồm 10 điều
– có hiệu lực thi hành từ 1/1/2017.

Sau thời gian ban hành, thực hiện, 10 Điều quy định đạo đức nghề nghiệp của
người làm báo Việt Nam đã thể hiện những giá trị, vai trò và tính hiệu quả của nó.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện, bên cạnh những mặt tích cực, làm được thì còn
không ít hạn chế, tồn tại trong việc thực hiện 10 điều Quy định đạo đức nghề
nghiệp người làm báo cũng như các quy định về tác nghiệp báo chí. Theo thống
kê của Hội Nhà báo Việt Nam, thời gian qua đã có hàng chục trường hợp nhà báo,
hội viên, phóng viên vi phạm; trong đó, có trường hợp vi phạm pháp luật, 10 điều
Quy định đạo đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam. Để các quy định trên đi
vào đời sống báo chí, có một số giải pháp sau:

Một là, tăng sự ràng buộc và cơ chế giám sát của quy định đạo đức. Đại hội lần
thứ VIII Hội Nhà báo Việt Nam đã quyết định chuyển Quy ước thành Quy định
đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam. Tức là tính pháp lý của quy
định này đã nâng lên, chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, việc thực thi Quy định đạo đức
này chỉ mới hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện và nhận thức của mỗi nhà báo.

Hai là, công tác phổ biến, giáo dục các quy định đạo đức cần được quan tâm chú
ý hơn. Nhiều nhà báo còn thờ ơ trong nhận thức với những yêu cầu về đạo đức
nghề báo. Cũng cần xây dựng, chấn chứng những quy chế đạo đức nghề nghiệp
của các cơ quan, toà soạn báo chí. Chỉ khi nào các quy định đạo đức nghề nghiệp
trở thành máy thịt, trở thành lương tâm và trách nhiệm của nhà báo mỗi khi cầm
bút thì họ sẽ thực hiện một cách tự nguyện, tự giác.

4. Tăng cường sự quản lý, kiểm tra, giám sát của các cấp, các ngành, các đoàn
thể và toàn xã hội đối với đội ngũ làm báo

4.1. Tăng cường công tác, giám sát đối với các cấp Hội cơ sở

Hội Nhà báo Việt Nam, một tổ chức chính trị - xã hội – nghề nghiệp có vai trò
quan trọng trong việc hỗ trợ công tác chỉ đạo, quản lý báo chí, giúp đỡ, giáo dục
Hội viêm. Trong 6 năm qua, Hội đã chủ động và tích cực trong công tác kiểm tra,
tổ chức hơn giám sát. Điều này giúp nắm bắt tình hình chấp hành Điều lệ Hội và
Quy định đạo đức nghề nghiệp, đồng thời đưa ra các chỉ đạo giải quyết kịp thời
cho các vấn đề được phản ánh. Hội đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy hoạt
động của Hội nhà báo ở mọi cấp và đảm bảo tuân thủ Luật Báo chí cũng như 10
điều Quy định đạo đức người làm báo Việt Nam.
4.2. Tăng cường vai trò giám sát của nhân dân, công chúng đối với đội
ngũ nhà báo

Bên cạnh sự quản lý và giám sát từ các cấp và ngành, sự tham gia giám sát của xã
hội đối với đội ngũ nhà báo là rất quan trọng. Khi có hành vi vi phạm đạo đức
nghề báo, sự lên án từ đồng nghiệp, cơ quan báo chí, luật pháp và xã hội cùng
nhau tạo ra sự răn đe và ngăn cản, từ đó giảm thiểu những hành vi vi phạm.

Sự giám sát công bằng của xã hội, nhân dân cũng là một yếu tố tác động rất nhiều
đến đạo đức nghề nghiệp của nhà báo. Vì vậy, cũng phải thường xuyên làm công
tác tuyên truyền, vận động nhân dân đọc, nghe, xem báo chí, hiểu được vai trò và
chức năng thực sự của BC để qua đó tích cực tham gia đóng góp, phản biện lại
BC. Song đó, tiếp tục thực hiện đăng phát công khai những sai phạm về phạm luật
và vi phạm đạo đức nghề nghiệp của cơ quan BC, nhà báo cũng như hình thức xử
phạt của cơ quan quản lý nhà nước về BC trên các phương tiện truyền thông đảm
bảo tính công khai, minh bạch để nhận diện nhận biết và đồng hành lên án.

5. Nâng cao ý thức, trách nhiệm người làm báo khi tham gia mạng xã hội

Trong thời kỳ công nghệ thông tin phát triển, mạng xã hội đã trở thành một yếu
tố quan trọng trong đời sống xã hội. Đối với những người làm việc trong lĩnh vực
báo chí, mạng xã hội không chỉ là một phương tiện truyền thông, mà còn là "vũ
khí tuyên truyền" để chia sẻ thông điệp với công chúng. Tuy nhiên, bên cạnh
những ảnh hưởng tích cực, mạng xã hội cũng mang đến những thách thức và tác
động tiêu cực, tạo ra những hệ lụy không nhỏ trong đời sống và xã hội.

Tuy nhiên, trong quá trình thực thi, có phóng viên và nhà báo sử dụng mạng xã
hội để chia sẻ thông tin thiếu tính định hướng, sử dụng từ ngữ không chuẩn mực,
làm mất lòng tin của nhân dân đối với nhiều vấn đề trong cuộc sống. Môi trường
mạng xã hội, nếu không được quản lý tốt, có thể trở thành nơi phát tán tư tưởng
tiêu cực và quan điểm sai lệch, ảnh hưởng đến chủ trương và định hướng của
Đảng cũng như chính sách pháp luật của Nhà nước.

Vì thể, để tính đạo đức và nhân văn của nghề báo thể hiện trên nền tảng mạng xã
hội cũng như nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho nhà báo, trong thời gian tới, các
cơ quan BC tiếp tục quán triệt và phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước về BC; Nâng cao tinh thần sáng tạo, đổi mới nội
dung và phương thức hoạt động, cũng như tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
và kỷ luật phát ngôn.

Cần có sự hợp tác giữa Hội Nhà báo Việt Nam và Bộ Thông tin Truyền thông để
cải thiện quản lý an ninh mạng. Đặc biệt, cần có giải pháp cụ thể hơn trong việc
quản lý và kiểm soát thông tin trên mạng, xử lí các vi phạm của nhà báo trên
không gian mạng.

KẾT LUẬN

Nâng cao nhận thức đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội là nền tảng vững
chắc để xây dựng đội ngũ người làm báo Cách mạng Việt Nam - Luôn giữ “Tâm
sáng, lòng trong, bút sắc” (Bùi Thuý Hằng – Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà
báo tỉnh Hoà Bình).

Tuy nhiên, thực tế vẫn là có không ít trường hợp nhà báo vi phạm đạo đức nghề
nghiệp, sử dụng danh nghĩa nhà báo như một công cụ đe dọa, sách nhiễu với mục
đích tìm kiếm lợi ích cá nhân. Có những trường hợp nghiêm trọng khi những
người làm báo bị áp đặt, ngòi bút bị "bẻ cong" và thậm chí đối mặt với nguy cơ
sa ngã hoặc rơi vào vòng lao lý.

Vì thế, cần có những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao đạo đức cho người làm
báo hành nghề.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] TS Nguyễn Thị Trường Giang (2020), Pháp luật và đạo đức báo chí, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội.

[2] Báo cáo số 57/BC-BTTTT, ngày 30/3/2022, Bộ Thông tin và Truyền thông,
Báo cáo Chính phủ về kết quả nghiên cứu, rà soát Luật Báo chí năm 2016 và kiến
nghị sửa đổi, bổ sung.

[3] TS Nguyễn Thị Trường Giang (2011), Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo,
NXB Chính trị - Hành chính.

[4] Dự thảo “Báo cáo tổng kết 6 năm thực hiện Luật Báo chí gắn với 10 điều quy
định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo việt nam, quy tắc sử dụng mạng xã
hội của người làm báo Việt Nam” (2023), Hội Nhà báo Việt Nam.

[5] Nâng cao đạo đức nghề nghiệp của người làm báo ở Việt Nam. Báo Đảng
Cộng sản Việt Nam, ngày 18/11/2023.

https://dangcongsan.vn/thoi-su/nang-cao-dao-duc-nghe-nghiep-cua-nguoi-lam-
bao-o-viet-nam-652765.html

PHỤ LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BC Báo chí

Bộ TT&TT Bộ Thông tin & Truyền thông

You might also like