Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 145

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI

KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ

ĐỀ CƯƠNG TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN

Họ và tên: Lê Thị Diễm Quỳnh


Lớp: K9D

2021-2022

Mục lục:

1
Contents
Câu 1. Vì sao nói sự ra đời của chủ nghĩa Mác – Lênin là một tất yếu lịch sử?........5

Câu 2. Phân tích điều kiện, tiền đề hình thành chủ nghĩa Mác. Thực chất và ý
nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện?......................8

Câu 3: Thế nào là vấn đề cơ bản của triết học? Nội dung vấn đề cơ bản của triết
học?.................................................................................................................................16

Câu 4. Trình bày định nghĩa phạm trù vật chất của Lenin và ý nghĩa phương pháp
luận của định nghĩa.......................................................................................................17

Câu 5. Tại sao nói định nghĩa vật chất của Lênin ra đời là bước ngoặt trong lịch sử
triết học?.........................................................................................................................19

Câu 6. Trình bày quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vận động của
vật chất và ý nghĩa phương pháp luận của nó. Thế nào là hiện tượng đứng im
tương đối?.......................................................................................................................20

Câu 7. Trình bày quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về nguồn gốc và bản chất
của ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề này.............................................23

Câu 8. Trình bày nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội của ý thức? Tại sao nó,
bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan?......................26

Câu 9: Phân tích luận điểm: “Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan”..............................................................................................................................28

Câu 10: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa của
vấn đề này trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.................................29

Câu 11: Trình bày nội dung “Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến” và ý nghĩa
phương pháp luận của nguyên lý này? Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam hiện nay.
.........................................................................................................................................31

* Liên hệ......................................................................................................................33

Câu 12: Trình bày nội dung “Nguyên lý về sự phát triển” và ý nghĩa phương pháp
luận của nguyên lý này. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam hiện nay........................34
2
Câu 13. Trình bày nội dung của cặp phạm trù cái chung cái riêng. Ý nghĩa của vấn
đề này trong hoạt động nhận thức và thực tiễn..........................................................38

B. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng..........................................38

Câu 14: Trình bày nội dung của cặp phạm trù “Nguyên nhân và kết quả”. Ý nghĩa
của vấn đề này trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn?........................40

Câu 15: Trình bày nội dung của cặp phạm trù “Tất nhiên và ngẫu nhiên”. Ý nghĩa
của vấn đề này trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn?........................42

Câu 16. Phân tích nội dung quy luật “Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập”. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật này trong hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn?......................................................................................................44

Câu 17. Phân tích nội dung của quy luật “Chuyển hóa từ những sự thay đổi về
lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại” (quy luật lượng chất). Ý
nghĩa phương pháp luận?.............................................................................................48

Câu 18. Phân tích nội dung quy luật “Phủ định của phủ định”. Ý nghĩa phương
pháp luận........................................................................................................................51

Câu 19: Thực tiễn là gì? Phân tích vai trò của thực tiễn đối với nhận thức............54

20. Phân tích con đường biện chứng của quá trình nhận thức. Ý nghĩa phương
pháp luận........................................................................................................................57

Câu 21: Tại sao nói sản xuất vật chất và phương thức sản xuất là cơ sở của sự tồn
tại và phát triển của xã hội loài người?.......................................................................63

Câu 22: Sản xuất vật chất là gì. Vai trò của sản xuất đối với sự tồn tại của xã hội 66

Câu 23: Lực lượng sản xuất là gì? Cấu trúc của lực lượng sản xuất?......................67

Câu 24. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất. Ý nghĩa phương pháp luận đối với sự nghiệp đổi mới ở việt nam hiện nay...68

Câu 25: Hình thái kinh tế - xã hội là gì? Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn....................................................73

3
Câu 26. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng. Ý nghĩa phương pháp luận của nó trong đổi mới ở VN...................................75

Câu 27: Phân tích luận điểm: Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là
một quá trình lịch sử - tự nhiên. Liên hệ với việc lựa chọn con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam.........................................79

Câu 28. Trình bày quan điểm triết học mac lenin về bản chất con người. Tại sao
nói quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo chân chính ra lịch sử....................84

Câu 29: Tồn tại xã hội là gì? Nêu những yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội và phân
tích vai trò của nó? Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội......87

Câu 30 :Trình bày khái niệm giai cấp ? Vì sao đấu tranh gai cấp trong xã hội có
giai cấp là động lực phát triển xã hội ?........................................................................89

Câu 31: Trình bày nguồn gốc, bản chất của nhà nước, đặc trưng của nhà nước ? 92

Câu 32: Trình bày khái niệm cách mạng xã hội, vì sao nói cách mạng xã hội chủ
nghĩa là cuộc cách mạng xã hội triệt để nhất ?...........................................................95

Câu 33 : Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng đối với sự nghiệp đổi mới kinh tế và đổi mới hệ
thống chính trị ở Việt Nam hiện nay...........................................................................97

Câu 34: Phân tích nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất ? Liên hệ thực tiễn Việt Nam.....................................102

Câu 34: Nêu những đặc điểm của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.......................................107

Câu 35: Vai trò chủ quan của C. Mác - Ph. Ăngghen đối với sự ra đời triết học
Mác – Lênin ?...............................................................................................................111

Câu 36: Nguyên tắc khách quan là như thế nào? Cơ sở lý luận và sự vận dụng
nguyên tắc khách quan trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay..................111

Câu 37: Cơ sở triết học của quan điểm toàn diện?.................................................112

Câu 38: Vai trò của lý luận đối với thực tiễn?..........................................................117
4
Câu 39: Thế nào về sự phù hợp giữa QHSX với trình độ của LLSX?...................121

Câu 40: Sản xuất vật chất và vai trò của nó đối với sự tồn tại và phát triển của xã
hội loài người?..............................................................................................................125

Câu 41: Trình bày vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử. Ý
nghĩa của vấn đề này trong việc quán triệt bài học “Lấy dân làm gốc”................127

Câu 42: Tại sao nói quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo chân chính ra lịch
sử? Phê phán những quan điểm sai lầm về vấn đề này?.........................................132

Câu 43: Phân tích mối quan hệ giữa cá nhân - tập thể – xã hội. Ý nghĩa của vấn đề
này ở nước ta hiện nay?..............................................................................................135

Câu 44: Trình bày các kiểu và hình thức nhà nước đã có trong lịch sử. Nêu đặc
điểm của Nhà nước CHXHCN Việt Nam..................................................................139

Câu 45: Cách mạng xã hội là gì? Vai trò của nó trong sự phát triển của xã hội?.144

Câu 45: Tính chất, lực lượng và động lực của cách mạng xã hội là gì. Phân tích
điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của cách mạng xã hội?.......................147

Câu 46: Bạo lực cách mạng là gì? Vai trò của nó trong cách mạng xã hội...........151

Câu 47: Mục đích và yêu cầu của việc học tập, nghiên cứu môn học Những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin?.........................................................................154

Câu 1. Vì sao nói sự ra đời của chủ nghĩa Mác – Lênin là một tất yếu lịch sử?

5
* Khái niệm triết học mác leenin: “Triết học mác Lenin là hệ thống quan điểm
DVBC về TN, XH và TD – Thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng
của GCCN và NDLĐ để nhận thức và cải tạo thế giới”

1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội.

- Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện
cách mạng công nghiệp:

Vào cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện và
lan rộng ra các nước Tây Âu tiên tiến không những làm cho phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa trở thành hệ thống kinh tế thống trị, tính hơn hẳn của chế độ tư bản so với
chế độ phong kiến thể hiện rõ nét, mà còn làm thay đổi sâu sắc cục diện xã hội mà trước
hết là sự hình thành và phát triển của giai cấp vô sản.

- Sự xuất hiện giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tính cách một lực lượng chính trị -
xã hội độc lập:

Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình thành và phát triển
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong lòng chế độ phong kiến. Giai cấp vô
sản cũng đã đi theo giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ phong kiến. Đồng
thời với sự phát triển đó, mâu thuẫn vốn có, nội tại nằm trong phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa ngày càng thể hiện sâu sắc và gay gắt hơn. Mâu thuẫn giữa vô sản với tư
sản, vốn mang tính đối kháng, đã biểu hiện thành đấu tranh giai cấp. Giai cấp tư sản
không còn đóng vai trò là giai cấp cách mạng trong xã hội. Đến những năm 40 của thế
kỷ XIX, giai cấp vô sản đã xuất hiện với tư cách là một lực lượng chính trị - xã hội độc
lập và đã ý thức được những lợi ích cơ bản của mình để tiến hành đấu tranh tự giác
chống giai cấp tư sản.

- Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản đặt ra yêu cầu khách quan là nó phải được
soi sáng bằng lý luận khoa học. Mác và Ăng ghen sáng lập Chủ nghĩa Mác là lời giải
6
đáp cho yêu cầu xã hội đứng trên lập trường của giai cấp vô sản.

- Sự phát triển của CNTB làm cho mâu thuẫn kinh tế cơ bản của CNTB bộc lộ gay gắt
giữa LLSX có tính XHH ngày càng cao với QHSX mang tính tư nhân TBCN dựa trên
chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX.

1.2. Tiền đề lý luận.

Triết học cổ điển Đức, đặc biệt với hai nhà triết học tiêu biểu là Hêghen và Phoiơbắc, là
nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác.

C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa triết học cổ điển Đức, đặc biệt là phép biện chứng
duy tâm và tư tưởng duy vật về những vấn đề cơ bản của triết học để xây dựng nên phép
biện chứng duy vật và mở rộng nhận thức sang cả xã hội loài người, làm cho chủ nghĩa
duy vật trở nên hoàn bị và triệt để.

Kinh tế chính trị học Anh, với những đại biểu xuất sắc là A.Xmit và Đ.Ricacđô, mà
đặc biệt là lý luận về kinh tế hàng hóa; học thuyết giá trị thặng dư là cơ sở của hệ thống
kinh tế tư bản chủ nghĩa.

Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như Xanh Ximông
và Sáclơ Phuriê và những dự đoán thiên tài mà trước hết là lịch sử loài người là một quá
trình tiến hóa không ngừng, chế độ sau tiến bộ hơn chế độ trước; rằng sự xuất hiện các
giai cấp đối kháng trong xã hội là kết quả của sự chiếm đoạt; đồng thời phê phán chủ
nghĩa tư bản là ở đó con người bị bóc lột và lừa bịp, chính phủ không quan tâm tới dân
nghèo. Khẳng định xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội công nghiệp mà trong đó, công
nông nghiệp đều được khuyến khích, đa số người lao động được bảo đảm những điều
kiện vật chất cho cuộc sống,... là cơ sở để chủ nghĩa Mác phát triển thành lý luận cải tạo
xã hội.

7
1.3. Tiền đề khoa học tự nhiên.

Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với nhiều phát
minh quan trọng, cung cấp cơ sở tri thức khoa học để tư duy biện chứng trở thành khoa
học.

Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lương đã dẫn đến kết luận triết học là sự phát
triển của vật chất là một quá trình vô tận của sự chuyển hoá những hình thức vận động
của chúng.

Thuyết tế bào xác định sự thống nhất về mặt nguồn gốc và hình thức giữa động vật và
thực vật; giải thích quá trình phát triển của chúng; đặt cơ sở cho sự phát triển của toàn
bộ nền sinh học; bác bỏ quan niệm siêu hình về nguồn gốc và hình thức giữa thực vật
với động vật.

Thuyết tiến hoá: đã khắc phục được quan điểm cho rằng giữa thực vật và động vật
không có sự liên hệ; là bất biến; do Thượng Đế tạo ra và đem lại cho sinh học cơ sở
khoa học, xác định tính biến dị và di truyền giữa các loài.

 Chủ nghĩa Mác ra đời là một tất yếu lịch sử. Sự ra đời của nó không những do
nhu cầu nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy giờ, do sự kế thừa những
thành tựu trong lý luận và được kiểm chứng bằng các thành tựu của khoa học, mà còn
do bản thân sự phát triển của lịch sử đã tạo ra những tiền đề khách quan cho sự ra đời
của nó. Bởi vậy, chủ nghĩa Mác “Cung cấp cho loài người và nhất là cho giai cấp công
nhân, những công cụ nhận thức vĩ đại” và Đảng Cộng sản Việt Nam “kiên định chủ
8
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động của Đảng”.

Câu 2. Phân tích điều kiện, tiền đề hình thành chủ nghĩa Mác. Thực chất và ý
nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện?
Triết học Mác - Lênin ra đời từ nửa cuối thế kỷ XIX và phát triển cho đến ngày
nay. Từ khi ra đời, triết học Mác - Lênin đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử
triết học và trở thành thế giới quan, phương pháp luận của hoạt động nhận thức cũng
như hoạt động thực tiễn của con người.

Những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác nhìn chung, có hai nguồn
gốc ra đời của triết học là nguồn gốc tri thức và nguồn gốc xã hội. Đối với triết học Mác
thì nguồn gốc ra đời biểu hiện thành các điều kiện sau:

2.1. Điều kiện, tiền đề hình thành chủ nghĩa Mác.

2.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội.

- Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện
cách mạng công nghiệp:
Vào cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp xuất
hiện và lan rộng ra các nước Tây Âu tiên tiến không những làm cho phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa trở thành hệ thống kinh tế thống trị, tính hơn hẳn của chế độ tư
bản so với chế độ phong kiến thể hiện rõ nét, mà còn làm thay đổi sâu sắc cục diện xã
hội mà trước hết là sự hình thành và phát triển của giai cấp vô sản.

- Sự xuất hiện giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tính cách một lực lượng chính trị -
xã hội độc lập:
Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình thành và phát
triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong lòng chế độ phong kiến. Giai cấp

9
vô sản cũng đã đi theo giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ phong kiến.
Đồng thời với sự phát triển đó, mâu thuẫn vốn có, nội tại nằm trong phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng thể hiện sâu sắc và gay gắt hơn. Mâu thuẫn giữa vô sản
với tư sản, vốn mang tính đối kháng, đã biểu hiện thành đấu tranh giai cấp. Giai cấp tư
sản không còn đóng vai trò là giai cấp cách mạng trong xã hội. Đến những năm 40 của
thế kỷ XIX, giai cấp vô sản đã xuất hiện với tư cách là một lực lượng chính trị - xã hội
độc lập và đã ý thức được những lợi ích cơ bản của mình để tiến hành đấu tranh tự giác
chống giai cấp tư sản.

- Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản đặt ra yêu cầu khách quan là nó phải được
soi sáng bằng lý luận khoa học. Mác và Ăng ghen sáng lập Chủ nghĩa Mác là lời giải
đáp cho yêu cầu xã hội đứng trên lập trường của giai cấp vô sản.

- Sự phát triển của CNTB làm cho mâu thuẫn kinh tế cơ bản của CNTB bộc lộ gay gắt
giữa LLSX có tính XHH ngày càng cao với QHSX mang tính tư nhân TBCN dựa trên
chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX.

2.1.2. Điều kiện về mặt lý luận.

-Sự kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy triết
học.

-Sự ra đời của triết học mác phù hợp với quy luật của lịch sử tư tưởng nhân
loại, là sự kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy
triết học nhân loại.

-Xây dựng học thuyết mới trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng có
mối qua hệ hữu cơ với nhau.

-Triết học mác ra đời là sự tác động qua lại với quá trình các ông kế thừa và
cải tạo học thuyết kinh tế chính trị của Anh và lý luận của chủ nghĩa xã hội.

10
-Các ông vừa phê phán chủ nghĩa duy tâm, vừa đánh giá cao tư tưởng biện
chứng của Heghen, của Phơbach, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ; đó là chủ nghĩa duy vật biện
chứng trong việc xem xét giới tự nhiên, xả hội và tư duy con người. Từ những
điều kiện trên, chủ nghĩa Mác-Lênin được ra đời.

- Đến đầu thể kỉ 19 nền khoa học của nhân loại được phát triển mạnh mẽ
trong các lĩnh vực của khoa học tự nhiên và xã hội.

- Trong khoa học tự nhiên: có 3 phát minh vĩ đại là:

+ Học thuyết tế bào: sự sống là sản phẩm của giới tự nhiên là quá trình phát
triển đấu tranh có chọn lọc của giới tự nhiên chứ không phải do thượng đế
sáng tạo.

+ Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng: có sự phát sinh ra và mất đi
của năng lượng chỉ có sự chuyển biến từ dạng này sang dạng khác.

+ Thuyết tiến hóa của Đắc Uyn: các loài đang tồn tại hiện nay là sinh ra từ
các loài khác bằng con đường tự nhiên và sự biến đổi động vật thực vật là do
chọn lọc tự nhiên và chọn lọc nhân tạo.

- Trong khoa học xã hội:

+ Triết học cổ điển Đức (Hêghen, Phơ Bách)

+ Kinh tế chính trị học cổ điển Anh (A.Smith và Đ.Ricaiđô)

+ Chủ nghĩa không tưởng phê phán (H.Xanhximong, S.phuriê, R.Oen)

 Từ những điều kiện trên, chủ nghĩa Mác - Lênin được ra đời.

11
Tóm lại, Triết học Mác cũng như toàn bộ Chủ nghĩa Mác ra đời như một tất yếu
lịch sử, không những vì nó là sự phản ảnh thực tiễn xã hội, nhất là thực tiển cách mạng
của giai cấp vô sản mà còn là sự phát triển hợp quy luật của lịch sử tư tưởng nhân loại.

2.2. Thực chất và ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực
hiện

Sự ra đời của triết học Mác vào những năm 40 của thế kỷ XIX đã được thừa nhận
là một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học. Cuộc cách mạng này đã đưa triết học
nhân loại từ thời kỳ chủ yếu là “giải thích thế giới” sang thời kỳ không chỉ “giải thích
thế giới”, mà còn “cải tạo thế giới”. Rõ ràng là, với sự ra đời của triết học Mác, lịch sử
triết học của nhân loại đã chuyển sang một thời kỳ mới về chất. Thực chất của cuộc
cách mạng này được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện
chứng trong lịch sử triết học trước đó, C.Mác đã tạo nên sự thống nhất hữu cơ không
thể tách rời giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng - đó là chủ nghĩa duy
vật biện chứng.

Trước khi triết học Mác ra đời, trong suốt chiều dài lịch sử triết học, chủ nghĩa
duy vật thường tách khỏi phương pháp biện chứng. Trong triết học Hy Lạp cổ đại, có
thể nói, đã có sự thống nhất nhất định giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện
chứng ở một số nhà triết học duy vật. Sự thống nhất này được thể hiện rõ nhất trong
triết học của Hêraclít. Tuy nhiên, sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp
biện chứng trong triết học của Hêraclít còn ở trình độ thấp. Hơn nữa, cả chủ nghĩa duy
vật lẫn phương phép biện chứng của Hêraclít đều còn ở trình độ thô sơ, chất phác, đúng
như Ph.Ăngghen đã đánh giá: "Cái thế giới quan ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về thực
chất thì đúng đó là thế giới quan của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên đã
được Hêraclít trình bày một cách rõ ràng: mọi vật đều tồn tại và đồng thời lại không tồn

12
tại, vì mọi vật đang trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều không
ngừng phát sinh và tiêu vong".

Ở thời kỳ Phục Hưng và Cận đại, chủ nghĩa duy vật đã có bước phát triển về chất
so với chủ nghĩa duy vật thời Hy Lạp cổ đại. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật thời kỳ này,
về cơ bản, vẫn là chủ nghĩa duy vật siêu hình. Nghĩa là chủ nghĩa duy vật vẫn tách rời
phương pháp biện chứng. Các nhà triết học cổ điển Đức, nhất là Hêghen, đã đối lập
phương pháp biện chứng với phương pháp siêu hình, tạo ra một giai đoạn phát triển về
chất trong phương pháp nhận thức. Tuy nhiên, phương pháp biện chứng của Hêghen lại
dựa trên nền thế giới quan duy tâm. Nói khác đi, phương pháp biện chứng của Hêghen
không gắn kết hữu cơ với chủ nghĩa duy vật, mà gắn kết hữu cơ với chủ nghĩa duy tâm.
Cho nên, phương pháp biện chứng đó không thực sự trở thành khoa học, mặc dù nó có
đóng góp nhất định cho sự phát triển tư duy nhân loại. Đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật
trước Mác là chủ nghĩa duy vật nhân bản của L.Phoiơbắc. Nhưng, chủ nghĩa duy vật
nhân bản của L.Phoiơbắc lại là chủ nghĩa duy vật siêu hình, nghĩa là nó vẫn tách khỏi
phương pháp biện chứng.
Trong triết học của C.Mác, chủ nghĩa duy vật gắn kết, thống nhất hữu cơ với
phương pháp biện chứng. Chủ nghĩa duy vật được C.Mác làm giàu bằng phương pháp
biện chứng, còn phương pháp biện chứng được ông đặt trên nền chủ nghĩa duy vật.
Đồng thời, cả chủ nghĩa duy vật lẫn phương pháp biện chứng đều được C.Mác phát
triển lên một trình độ mới về chất. Do vậy, sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật
và phương pháp biện chứng trong triết học Mác hơn hẳn về chất so với sự thống nhất
giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại. Vì
vậy, đây chính là bước phát triển cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện.

Thứ hai, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện vĩ đại nhất của cuộc
cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện.

Chủ nghĩa duy vật trước C.Mác đã đóng một vai trò to lớn đối với sự phát triển của xã
hội, của khoa học và triết học. Tuy nhiên, đó là chủ nghĩa duy vật không triệt để. Nghĩa
13
là nó chỉ duy vật trong giải thích thế giới tự nhiên, nhưng còn duy tâm trong giải thích
xã hội, lịch sử, tinh thần. Do vậy, chủ nghĩa duy vật trước C.Mác đã không đánh đổ
được chủ nghĩa duy tâm một cách hoàn toàn. Chủ nghĩa duy tâm vẫn còn nơi ẩn trú của
nó là lĩnh vực xã hội, lịch sử, tinh thần. Chủ nghĩa duy vật của C.Mác đã giải thích một
cách duy vật, khoa học không chỉ thế giới tự nhiên, mà cả lĩnh vực xã hội, lịch sử, tinh
thần. Do vậy, chủ nghĩa duy vật của C.Mác là chủ nghĩa duy vật triệt để nhất, hoàn bị
nhất. Không phải ngẫu nhiên mà V.I.Lênin đã khẳng định: “Triết học của Mác là một
chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị”. Rằng, “chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành
tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt
chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan
niệm về lịch sử và chính trị”. Như vậy, với quan niệm duy vật về lịch sử, C.Mác đã kết
thúc thời kỳ nghiên cứu xã hội, lịch sử một cách tùy tiện, lộn xộn, mở ra một thời kỳ
mới trong nghiên cứu xã hội, lịch sử bằng việc chỉ ra quy luật hình thành, vận động và
phát triển của xã hội, của lịch sử. Ph.Ăngghen đã so sánh phát minh này của C.Mác như
phát minh của Đácuyn trong khoa học tự nhiên: “Giống như Đácuyn đã tìm ra quy luật
phát triển của thế giới hữu cơ, Mác đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người”.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác “chỉ cho ta thấy rằng, do chỗ lực lượng sản xuất
lớn lên, thì từ một hình thức tổ chức xã hội này, nảy ra và phát triển lên như thế nào một
hình thức tổ chức đời sống xã hội khác, cao hơn; chẳng hạn, chủ nghĩa tư bản đã nảy
sinh ra như thế nào từ chế độ phong kiến”. Về bản chất, chủ nghĩa duy vật lịch sử của
C.Mác - quan niệm duy vật về lịch sử - cũng là chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhưng thể
hiện được tính đặc thù của lĩnh vực lịch sử – lĩnh vực hoạt động của con người. Chính
chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng đã trở thành cơ sở thế giới
quan và phương pháp luận cho C.Mác nghiên cứu kinh tế, phát hiện ra học thuyết giá trị
thặng dư, hiểu được sự phát sinh, phát triển, diệt vong tất yếu của hình thái kinh tế - xã
hội tư bản chủ nghĩa. Do vậy, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện vĩ đại
nhất của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện.

Thứ ba, với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, C.Mác đã khắc phục được sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của
14
con người. Trên cơ sở đó, triết học của ông đã trở thành công cụ nhận thức và cải tạo
thế giới của nhân loại tiến bộ.

Trước khi triết học Mác ra đời, các nhà triết học thường tập trung chủ yếu vào
giải thích thế giới, mà ít chú ý tới cải tạo thế giới. Đúng như C.Mác đã từng nhận định:
“Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là
cải tạo thế giới”. Cũng đã có một số nhà triết học muốn cải tạo thế giới nhưng lại bằng
con đường không tưởng - dựa vào các lực lượng siêu nhiên, bằng “khai sáng”, mở mang
dân trí, bằng con đường giáo dục đạo đức,v.v.. Có thể nói, không một nhà triết học nào
trước C.Mác hiểu được thực tiễn và vai trò của nó đối với cải tạo thế giới. Các nhà triết
học khai sáng Pháp muốn thay thế các quan hệ xã hội phong kiến lạc hậu, lỗi thời bằng
các quan hệ xã hội tiến bộ hơn cũng không hiểu được rằng, phải thông qua hoạt động
thực tiễn của đông đảo quần chúng mới thực hiện được điều này. Ngay cả L.Phoiơbắc -
đại biểu lớn nhất của chủ nghĩa duy vật trước C.Mác - “cũng chỉ coi hoạt động lý luận là
hoạt động đích thực của con người, còn thực tiễn thì chỉ được ông xem xét và xác định
trong hình thức biểu hiện Do Thái bẩn thỉu của nó mà thôi”. Không phải ngẫu nhiên mà
sau này, C.Mác đã nhận định: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ
trước đến nay – kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc – là sự vật, hiện thực, cái cảm
giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ
không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn”.

Trung tâm chú ý của triết học Mác không chỉ là giải thích thế giới, mà quan trọng hơn là
cải tạo thế giới. Khác với các nhà triết học trước đó, C.Mác đã chỉ ra rằng, chỉ có thể cải
tạo được thế giới thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Với việc đưa phạm trù
thực tiễn vào lý luận nhận thức nói riêng, vào triết học nói chung, C.Mác đã làm cho
triết học của ông hơn hẳn về chất so với toàn bộ triết học trước đó. Trong triết học Mác,
không có sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của con người, trước hết là
hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản. Hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản được
15
soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, định hướng bởi chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Ngược lại, hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản lại là cơ sở, động lực
cho sự phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Giữa
triết học Mác với hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản có sự thống nhất hữu cơ với
nhau. Đúng như C.Mác đã khẳng định: “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ
khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình”.
Do vậy, triết học Mác đã trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của giai cấp vô
sản và của toàn thể nhân loại tiến bộ.

Thứ tư, với việc sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, C.Mác đã khắc phục được sự đối lập giữa triết học với các khoa học cụ thể.

Trước khi triết học Mác ra đời, triết học hoặc là hòa tan, ẩn giấu đằng sau các
khoa học khác, hoặc đối lập với chúng. Chẳng hạn, ở phương Đông cổ đại, triết học
thường ẩn giấu đằng sau các học thuyết về chính trị, tôn giáo, đạo đức,v.v.. Ở Hy Lạp
cổ đại, triết học được coi là “khoa học của các khoa học”. Trong thời kỳ Trung cổ, triết
học được coi là “bộ môn” của thần học, có nhiệm vụ chứng minh sự tồn tại của Thượng
đế. Ở thời kỳ Cận đại, triết học được coi là mêthaphisica với nghĩa là nền tảng thế giới
quan của con người, như quan niệm của R.Đêcáctơ; hoặc triết học được coi là tổng thể
tri thức của con người trong quan niệm của Ph.Bêcơn, v.v.. Trong triết học cổ điển Đức,
triết học lại được coi là “khoa học của các khoa học”. Quan hệ giữa triết học Mác với
các khoa học cụ thể là quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Các khoa học cụ
thể cung cấp cho triết học Mác các tư liệu, dữ kiện, thông số khoa học để triết học Mác
khái quát. Ngay sự ra đời của triết học Mác cũng không thể thiếu những tiền đề khoa
học tự nhiên. Chính những thành tựu của khoa học tự nhiên nửa đầu thế kỷ XIX đã làm
bộc lộ những hạn chế, sự bất lực của phương pháp siêu hình trong nhận thức thế giới;
đồng thời cung cấp cơ sở khoa học cho sự ra đời của phương pháp biện chứng. Trong
quan hệ với các khoa học cụ thể, triết học Mác đóng vai trò thế giới quan, phương pháp
16
luận chung nhất. Thực tiễn phát triển mạnh mẽ của các khoa học cụ thể càng làm tăng
vai trò thế giới quan, phương pháp luận của triết học Mác. Đúng như một nhà khoa học
tự nhiên ở thế kỷ XX đã nhận xét: “Các khái quát hóa triết học cần dựa trên các kết quả
khoa học. Tuy nhiên, một khi đã xuất hiện và được truyền bá rộng rãi, chúng thường rất
ảnh hưởng đến sự phát triển tiếp tục của tư tưởng khoa học, khi chúng chỉ ra một trong
rất nhiều phương hướng phát triển có thể có”. Như vậy, sự ra đời của triết học Mác đã
chấm dứt mâu thuẫn giữa triết học với các khoa học cụ thể.

Cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn vô cùng to lớn đối với thời đại. Chính cuộc cách mạng này đã làm cho chủ nghĩa
xã hội không tưởng có cơ sở để trở thành khoa học. Cuộc cách mạng này cũng làm cho
triết học thay đổi cả về vai trò, chức năng và nhiệm vụ. Triết học Mác đã trở thành
công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ.

Câu 3: Thế nào là vấn đề cơ bản của triết học? Nội dung vấn đề cơ bản của triết
học?

* Khái niệm: Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại là vấn
đề về mối quan hệ giữa tồn tại với tư duy, giữa ý thức với vật chất.

* Đặc điểm:

- Đó là vấn đề rộng nhất, chung nhất đóng vai trò nền tảng, định hướng để giải
quyết những vấn đề khác.

- Nếu không giải quyết được vấn đề này thì không có cơ sở để giải quyết các vấn
đề khác, ít chung hơn của triết học.
- Việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học như thế nào không chỉ thể hiện được
lập trường, thế giới quan của các nhà triết học mà còn là cơ sở tạo ra phương hướng
nghiên cứu và giải quyết những vấn đề còn lại của triết học.

17
Theo Ph.Ăngghen, “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện
đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”.
* Nội dung vấn đề cơ bản của triết học:

- Mặt thứ nhất: Vấn đề cơ bản của triết học giải quyết mối quan hệ giữa ý thức với
vật chất. Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước cái nào có sau, cái nào quyết định
cái nào. Vật chất có trước và quyết định ý thức hoặc ngược lại ý thức có trước và quyết
định vật chất. Giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học như thế nào là cơ
sở phân chia các nhà triết học và các học thuyết của họ thành 2 trường phái đối lập nhau
là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.

+ Chủ nghĩa duy vật: Học thuyết cho rằng vật chất, giới tự nhiên là cái có trước và
quyết định ý thức của con người là chủ nghĩa duy vật

+ Chủ nghĩa duy tâm: Học thuyết cho rằng ý thức, tinh thần, ý niệm, cảm giác là
cái có trước và quyết định thế giới tự nhiên là chủ nghĩa duy tâm

- Mặt thứ hai: Vấn đề cơ bản của triết học giải quyết mối quan hệ giữa khách thể
với chủ thể nhận thức hay trả lời cho câu hỏi con người có khả năng nhận thức được thế
giới hay ko? Giải quyết mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết học như nào là cơ sở
phân chia các nhà triết học và học thuyết của họ thành phái khả tri và bất khả tri.

+ Thuyết khả tri: Học thuyết khẳng định con người có khả năng nhận thức được
thế giới vật chất và sự vật hiện tượng.

Học thuyết khẳng định khả năng nhận thức của con người, con người về nguyên
tắc có thể hiểu được bản chất của sự vật hay nói cách khác ý thức của con người có
được về sự vật về nguyên tắc là phù hợp với bản thân sự vật.

+ Thuyết bất khả tri: Học thuyết khẳng định con người không có khả năng nhận
thức được thế giới vật chất và sự vật hiện tượng.

Học thuyết phủ nhận khả năng nhận thức của con người, con người về nguyên tắc
không thể hiểu được bản chất của đối tượng. Các hình ảnh tính chất đặc điểm của đối
tượng mà các giác quan con người thu được trong quá trình nhận thức chỉ là hình thức
18
bên ngoài hạn hẹp và cắt xén đối tượng cho dù có tính xác thực cúng ko cho phép con
người đồng nhất chúng với đối tượng vì đó ko phải là cái tuyệt đối đáng tin cậy. Học
thuyết phủ định khả năng vô hạn của nhận thức

Câu 4. Trình bày định nghĩa phạm trù vật chất của Lenin và ý nghĩa phương pháp
luận của định nghĩa
4.1. Khái niệm:

“Vật chất Là 1 phạm trù của triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh và tồn tại ko lệ thuộc vào cảm giác.”

4.2. Nội dung cơ bản của định nghĩa

- Vật chất là thực tại khách quan cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý thức và ko lệ
thuộc vào ý thức.

+ Vật chất là 1 phạm trù của triết học ý muốn nói phạm trù này là sản phẩm của sự
trửu tượng hóa ko có sự tồn tại cảm tính

+ Vật chất là tất cả những gì đã và đang hiện hữu thực sự bên ngoài ý thức con
người và hiện thực này mang tính khách quan chứ không phải chủ quan

+ Mọi sự vật từ vi mô đến vĩ mô từ những cái chưa biết đến những cái đã biết, từ
những sự vật đơn giản nhất đến những hiện tượng vô cùng kì lạ dù tồn tại trong tự nhiên
hay xã hội cũng đều là những đối tượng tồn tại khách quan độc lập với ý thức nghĩa là
đều thuộc phạm trù vật chất

+ Cả con người và xã hội đều là một dạng của vật chất

- Vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan của con người thì đem lại cho
con người cảm giác

+ Vật chất luôn biểu hiện sự tồn tại của mình dưới dạng các thực thể

19
+ Các thực thể này khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác động vào các giác quan sẽ đem
lại cho con người những cảm giác. Mặc dù ko phải mọi sự vật hiện tượng khi tác động
lên giác quan đều được giác quan con người nhận biết song nếu nó tồn tại khách quan
độc lập với ý thức con người thì nó vẫn là vật chất

+ Trả lời cho câu hỏi trong mặt thứ nhất của các vấn đề cơ bản của triết học

- Vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó

+ Vật chất luôn tồn tại khách quan không lệ thuộc vào các hiện tượng tinh thần còn
hiện tượng tinh thần lại luôn luôn có nguồn gốc từ các hiện tượng vật chất và những gì
có được trong các hiện tượng tinh thần ấy chẳng qua cũng chỉ là chép lại chụp lại, là bản
sao của các sự vật hiện tượng đang tồn tại hay còn gọi là hiện thực khách quan

+ Về nguyên tắc con người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Trong thế giới
vật chất ko có cái gì là ko thể biết chỉ có cái đã biết và cái chưa biết do hạn chế trong
từng giai đoạn lịch sử nhất định

+ Bác bỏ thuyết bất khả tri (mặt thứ 2 vấn đề cơ bản)

4.3. Ý nghĩa phương pháp luận

Định nghĩa này đã bao quát cả 2 mặt của vấn đề cơ bản của triết học, thể hiện rõ lập
trường duy vật biện chứng. Lênin đã giải đáp toàn bộ vấn đề cơ bản của triết học đứng
trên lập trường của Chủ nghĩa duy vật biện chứng.

- Coi vật chất là có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc khách quan của cảm
giác, ý thức, ý thức con người là sự phản ánh của thực tại khách quan đó. Con người có
khả năng nhận thức thế giới.
- Định nghĩa này bác bỏ quan điểm duy tâm về phạm trù vật chất. (Vật chất có
trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức).
- Định nghĩa này khắc phục tính chất siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật
chất của chủ nghĩa duy vật trước Mác (quan niệm vật chất về các vật thể cụ thể, về
nguyên tử, không thấy vật chất trong đời sống xã hội là tồn tại).
20
- Định nghĩa vật chất của Lê Nin bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy vật tầm
thường về vật chất (coi ý thức cũng là 1 dạng vật chất).
- Định nghĩa này bác bỏ thuyết không thể biết.
- Định nghĩa này đã liên kết chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy vật
lịch sử thành một thể thống nhất. (Vật chất trong tự nhiên, vật chất trong xã hội đều là
những dạng cụ thể của vật chất mà thôi, đều là thực tại khách quan).
- Mở đường cổ vũ cho khoa học đi sâu khám phá ra những kết cấu phức tạp hơn
của thế giới vật chất.
Định nghĩa này không quy vật chất về vật thể cụ thể, vì thế sẽ tạo ra kẻ hở cho chủ
nghĩa duy tâm tấn công, cũng không thể quy vật chất vào 1 khái niệm nào rộng hơn để
định nghĩa nó, vì không có khái niệm nào rộng hơn khái niệm vật chất. Vì thế chỉ định
nghĩa nó bằng cách đối lập nó với ý thức để định nghĩa vạch rõ tính thứ nhất và tính thứ
2, cái có trước và cái có sau.

Câu 5. Tại sao nói định nghĩa vật chất của Lênin ra đời là bước ngoặt trong lịch sử
triết học?
*Khái niệm: (phần trên).

“Vật chất là 1 phạm trù của triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh và tồn tại ko lệ thuộc vào cảm giác.”

*Giải thích câu hỏi:

Thực chất và ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ănghen thực
hiện. Triết học Mác ra đời đã khắc phục được sự lệch rời giữa thế giới quan duy vật và
phép biện chứng tạo ra hình thức cao nhất của chủ nghĩa duy vật đó là chủ nghĩa duy
vật biện chứng và hình thức cao nhất của phép biện chứng là biện chứng duy vật.

21
- Việc sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong những phát hiện vĩ đại
trong cuộc cách mạng do Mác và Ănghen thực hiện trong triết học.

- Triết học Mác ra đời đã làm cho vai trò, vị trí của triết học là quan hệ giữa triết
học với các khoa học khác có sự thay đổi.

- Triết học Mác không chỉ giải thích thế giới mà chủ yếu là để cải tạo thế giới.

- Triết học Mác còn là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, nó chỉ ra
cho giai cấp công nhân con đường đấu tranh để giải phóng Mác nói "Giống như triết
học thấy ở giai cấp vô sản mới vũ khí vật chất thì giai cấp vô sản tìm thấy ở triết học
một vũ khí tinh thần".

- Triết học Mác có sự gắn bó giữa tính khoa họcvà tính cách mạng giữa lý luận với
thực tiễn. Đó là triết học sáng tạo.

Câu 6. Trình bày quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vận động của
vật chất và ý nghĩa phương pháp luận của nó. Thế nào là hiện tượng đứng im
tương đối?
6.1. Khái niệm vận động và các hình thức vận động của vật chất:

* Khái niệm vận động:

“Vận động là 1 phương thức tồn tại của vật chất, là 1 thuộc tính cố hữu của vật
chất bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ kể cả sự thay
đổi đơn giản cho đến tư duy”

- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất

- Vật chất và vận động không tách rời nhau. Ở đâu có vật chất thì ở đó có vận
động, và ở đâu có vận động thì ở đó phải có vật chất. Bất cứ sự vật, hiện tượng nào, dù
trong tự nhiên hay xã hội, dù vô cùng lớn hay vô cùng nhỏ, dù thuộc giới vô sinh hay
hữu sinh đều ở trong trạng thái biến đổi không ngừng. Vật chất chỉ có thể tồn tại được
bằng cách vận động và thông qua sự vận động mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Vì vậy,
nhận thức sự vận động của sự vật cũng chính là nhận thức bản thân sự vật.

22
- Vận động của vật chất là tự thân vận động và mang tính phổ biến. Vận động tồn
tại vĩnh viễn ko thể tạo ra cũng ko thể bị tiêu diệt điều này đã được chứng minh bằng
quy luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng do đó vận động của một vật thể cụ thể có
thể tăng, giảm, nhưng vận động của toàn thế giới vật chất bao giờ cũng là một số không
thay đổi. Định luật chuyển hóa và bảo toàn năng lượng đã cho thấy, nếu một hình thức
vận động nào đó của sự vật mất đi thì tất yếu nảy sinh một hình thức vận động khác
thay thế. Các hình thức vận động có thể chuyển hóa lẫn nhau, nhưng vận động của vật
chất luôn luôn được bảo toàn cả về mặt chất và lượng.

* Các hình thức vận động cơ bản của vật chất (5 hình thức)

- Vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian)
- Vận động vật lý (vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, các quá trình
nhiệt, điện, từ,...).
- Vận động hóa học (vận động của các nguyên tử, sự biến đổi các chất vô cơ, hữu
cơ trong những quá trình hóa hợp và phân giải).
- Vận động sinh học (sự biến đổi của các cơ thể sống, sự trao đổi chất giữa cơ thể
sống và môi trường...).
- Vận động xã hội (quá trình biến đổi và thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội;
sự biến đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, v.v. của đời sống xã hội).

* Ý nghĩa phương pháp luận:


Giữa các hình thức vận động có sự khác nhau về chất, có quy luật vận động riêng.
Song chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật thiêt với nhau, trong đó hình
thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp và bao hàm trong
đó những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể có
nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân nó bao giờ cũng được đặc trưng bởi
hình thức vận động cao nhất mà nó có.

Ví dụ, đối với động vật thì vận động sinh học là vận động đặc trưng, mặc dù trong
cơ thể động vật còn có các vận động cơ học, vật lý và hóa học. Không thấy được điều

23
đó sẽ không phản ánh được bản chất của sự vật.

6.2. Đứng im tương đối

Thế giới vật chất bao giờ cũng ở trong quá trình vận động không ngừng. Nhưng
điều đó ko những không loại trừ mà còn bao hàm trong đó hiện tượng đứng im tương
đối.

- Đứng im là trạng thái ổn định về chất của sự vật hiện tượng trong những mối
quan hệ điều kiện cụ thể (sự vật hiện tượng chưa thay đổi căn bản về chất nó còn là nó
chứ chưa biến đổi thành cái khác).

- Đứng im là 1 dạng vận động, là hình thức chứng thực sự tồn tại thực sự của vật
chất, là điều kiện cho sự vận động chuyển hóa của vật chất.

- Vận động là tuyệt đối còn đứng im là tương đối.

*Hiện tượng đứng im chỉ là tương đối và tạm thời, sở dĩ như vậy là vì:

- Thứ nhất, hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong một mối quan hệ nhất định, chứ
ko phải trong mọi mối quan hệ cùng 1 thời điểm. Ví dụ, con tàu đứng im so với bến
cảng, còn so với mặt trời thì nó đang vận động theo sự vận động của trái đất.

- Thứ hai, hiện tượng đứng im chỉ xảy ra đối với một hình thức vận động nhất
định trong một lúc nào đó, chứ không phải đối với tất cả mọi hình thức vận động trong
cùng một lúc. Ví dụ, con tàu đứng im xét về hình thức vận động cơ học, trong khi đó
các hình thức vận động lý, hóa không ngừng diễn ra trong bản thân nó.

- Thứ ba, hiện tượng đứng im chỉ là biểu hiện của một trạng thái vận động - vận
động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối. Chính nhờ trạng thái ổn định này
mà vật chất biểu hiện thành các sự vật, hiện tượng cụ thể và qua đó sự vật mới có điều
kiện để thực hiện sự phân hóa tiếp theo. Bởi vậy, trạng thái đứng im tương đối biểu
hiện như một quá trình vận động trong phạm vi chất của sự vật còn ổn định; nó còn là
nó, chứ chưa chuyển thành cái khác. Nhưng trạng thái thăng bằng, ổn định này sẽ bị sự
vận động là tuyệt đối phá vỡ.

24
Tóm lại: Trong quan hệ giữa vận động và đứng im, vận động là tuyệt đối, vĩnh
viễn, đứng im là tương đối, tạm thời; vận động là tuyệt đối không hề loại trừ mà còn
hàm chứa cả sự đứng im, còn sự đứng im không phải là một trạng thái cố định mà là
một dạng của vận động.

Câu 7. Trình bày quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về nguồn gốc và bản chất
của ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề này.
7.1. Khái niệm.

“Ý thức là sự phản ánh năng động sáng tạo hình ảnh khách quan của thế giới VC
vào bộ óc người và được bộ óc người cải biến đi.”

7.2. Nguồn gốc của ý thức.

a. Nguồn gốc tự nhiên (Thuộc tính phản ánh của vật chất và sự ra đời của ý
thức).

* Bộ óc người:

- Ý thức là một thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao của bộ óc con
người, là chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt đọng sinh lý thần kinh, nhưng đó phải là
bộ óc sống và hoạt động bình thường.

- Điều này lý giải vì sao những người bị tổn thương não thì ý thức tinh thần của họ
bị rối loạn, thất thường.

* Thế giới khách quan:

- TGKQ được phản ánh vào bộ óc người thông qua hoạt động của các giác quan,
giúp hình thành nên ý thức ở con người.

 phản ảnh

- Phản ánh là thuộc tính chung của mọi dạng vật chất. Đó là năng lực giữ lại, tái
hiện của hệ thống vật chất này, những đặc điểm của hộ thống vật chất khác trong quá

25
trình tác động qua lại.  Định nghĩa vật chất của Lênin

- Cùng với sự tiến hoá của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của nó cũng phát
triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Trong đó ý thức là hình thức phản ánh
cao nhất của thế giới vật chất.

b. Nguồn gốc xã hội (Vai trò của lao động và ngôn ngữ trong sự hình thành và
phát triển của ý thức).

* Lao động:

– Khái niệm: Lao động là hoạt động có mục đích của con người, là quá trình con
người sử dụng CCLĐ tác động vào thế giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất để
thỏa mãn nhu cầu con người.

- Vai trò của lao động:

+ Giúp con người cải tạo thế giới và hoàn thiện bản thân. (từ dáng đi khom chuyển
thành đi thẳng giải phóng 2 chi trước).
+ Hoàn thiện dần chức năng của bộ óc, tư duy phát triển, nhận thức sự vật có hệ
thống và sâu sắc hơn.
+ Lao động có tác dụng “nối dài giác quan” của con người trong khám phá nhận
thức thế giới.
+ Lao động sản xuất còn là cơ sở của sự hình thành và phát triển ngôn ngữ.

* Ngôn ngữ:

- Khái niệm: Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. nó trở
thành “vỏ vật chất” của tư duy; là hiện thực trực tiếp của ý thức; là phương thức để ý
thức tồn tại và thể hiện ra bên ngoài. Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể tồn tại và
thể hiện.

- Vai trò của ngôn ngữ

+ Trong lao động, con người tất yếu có những quan hệ với nhau và có nhu cầu cần
trao đổi kinh nghiệm. Từ đó nảy sinh sự “cần thiết phải nói với nhau một cái gì đấy”. Vì
26
vậy, ngôn ngữ ra đời và phát triển cùng với lao động.
 Lao động và ngôn ngữ, đó chính là nguồn gốc xã hội quyết định sự hình thành
và phát triển ý thức.

7.3. Bản chất của ý thức.

Trong lịch sử triết học, triết học duy tâm quan niệm ý thức là một thực thể độc lập,
là thực tại duy nhất, từ đó cường điệu tính năng động của ý thức đến mức coi ý thức
sinh ra vật chất chứ không phải là sự phản ánh của vật chất.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào
bộ não con người thông qua thực tiễn, nên: bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan, là sự phản ánh sáng tạo thế giới vật chất.

- Ý thức là sự phản ảnh thế giới vào bộ óc người trên cơ sở lao động và ngôn ngữ.

- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Điều đó có nghĩa là nội
dung của ý thức là do thế giới khách quan quy định, nhưng ý thức là hình ảnh chủ quan,
là hình ảnh tinh thần chứ không phải là hình ảnh vật lý, vật chất như chủ nghĩa duy vật
tầm thường quan niệm.

- Khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, cùng có nghĩa là ý
thức là sự phản ánh tự giác, sáng tạo thế giới.

+ Phản ánh ý thức là sáng tạo, vì nó bao giờ cũng do nhu cầu thực tiễn quy định.
Nhu cầu đó đòi hỏi chủ thể phản ánh phải hiệu được cái được phản ánh. Trên cơ sở đó
hình thành nên hình ảnh tinh thần và những hình ảnh đó ngày càng phản ánh đúng đắn
hơn hiện thực khách quan, Song, sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo của phản ánh,
dựa trên cơ sở phản ánh.

+ Phản ánh ý thức là sáng tạo, vì phản ánh đó bao giờ cũng dự trên hoạt động thực
tiễn và là sản phẩn của các quan hệ xã hội. Là sản phẩm của các quan hệ xã hội, bản
chất của ý thức là có tính xã hội.
 Quan điểm trên của triết học Mác về nguồn gốc và bản chất của ý thức hoàn
toàn đối lập với chủ nghĩa duy tâm khi chủ nghĩa duy tâm coi ý thức, tư duy là cái có
27
trước, sinh ra vật chất và chủ nghĩa duy vật tầm thường coi ý thức là một dạng vật chất
hoặc coi ý thức là sự phản ánh giản đơn, thụ động về thế giới vật chất.

7.4. Ý nghĩa phương pháp luận.

- Do ý thức chỉ là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nên trong nhận thức
và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan. Cần phải chống bệnh chủ
quan duy ý chí.
- Do ý thức là sự phản ánh tự giác, sáng tạo hiện thực, nên cần chống tư tưởng thụ
động và chủ nghĩa giáo điều xa rời thực tiễn.

Câu 8. Trình bày nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội của ý thức? Tại sao nó,
bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan?

* Khái niệm – nguồn gốc ý thức:

8.1. Khái niệm.

“Ý thức là sự phản ánh năng động sáng tạo hình ảnh khách quan của thế giới VC vào
bộ óc người và được bộ óc người cải biến đi.”

8.2. Nguồn gốc của ý thức.

a. Nguồn gốc tự nhiên (Thuộc tính phản ánh của vật chất và sự ra đời của ý thức).

* Bộ óc người:

- Ý thức là một thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao của bộ óc con người, là
chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt đọng sinh lý thần kinh, nhưng đó phải là bộ óc
sống và hoạt động bình thường.

- Điều này lý giải vì sao những người bị tổn thương não thì ý thức tinh thần của họ bị
rối loạn, thất thường.

* Thế giới khách quan:

28
- TGKQ được phản ánh vào bộ óc người thông qua hoạt động của các giác quan, giúp
hình thành nên ý thức ở con người.

 phản ảnh

- Phản ánh là thuộc tính chung của mọi dạng vật chất. Đó là năng lực giữ lại, tái hiện
của hệ thống vật chất này, những đặc điểm của hộ thống vật chất khác trong quá trình
tác động qua lại.  Định nghĩa vật chất của Lênin

- Cùng với sự tiến hoá của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của nó cũng phát triển
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Trong đó ý thức là hình thức phản ánh cao
nhất của thế giới vật chất.

b. Nguồn gốc xã hội (Vai trò của lao động và ngôn ngữ trong sự hình thành và phát
triển của ý thức).

* Lao động:

– Khái niệm: Lao động là hoạt động có mục đích của con người, là quá trình con người
sử dụng CCLĐ tác động vào thế giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất để thỏa mãn
nhu cầu con người.

- Vai trò của lao động:

+ Giúp con người cải tạo thế giới và hoàn thiện bản thân. (từ dáng đi khom chuyển
thành đi thẳng giải phóng 2 chi trước).

+ Hoàn thiện dần chức năng của bộ óc, tư duy phát triển, nhận thức sự vật có hệ thống
và sâu sắc hơn.

+ Lao động có tác dụng “nối dài giác quan” của con người trong khám phá nhận thức
thế giới.

+ Lao động sản xuất còn là cơ sở của sự hình thành và phát triển ngôn ngữ.

* Ngôn ngữ:

29
- Khái niệm: Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. nó trở thành
“vỏ vật chất” của tư duy; là hiện thực trực tiếp của ý thức; là phương thức để ý thức tồn
tại và thể hiện ra bên ngoài. Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện.

- Vai trò của ngôn ngữ

+ Trong lao động, con người tất yếu có những quan hệ với nhau và có nhu cầu cần trao
đổi kinh nghiệm. Từ đó nảy sinh sự “cần thiết phải nói với nhau một cái gì đấy”. Vì
vậy, ngôn ngữ ra đời và phát triển cùng với lao động.

 Lao động và ngôn ngữ, đó chính là nguồn gốc xã hội quyết định sự hình thành và
phát triển ý thức.

* Tại sao nó, bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan?

- Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở khả năng hoạt
động tâm – sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin, chọn lọc
thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có nó có
thể tạo ra những thông tin mới và phát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận. Tính
chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức còn được thể hiện ở quá trình con
người tạo ra những giả tưởng, giả thuyết, huyền thoại... trong đời sống tinh thần của
mình hoặc khái quát bản chất, qui luật khách quan, xây dựng các mô hình tư tưởng, tri
thức trong các hoạt động của con người.

- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nghĩa là: ý thức là hình ảnh về
thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan qui định cả về nội dung, cả về
hình thức biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà nó đã cải
biến thông qua lăng kính chủ quan của con người. Theo Mác: ý thức “chẳng qua chỉ là
vật chất được di chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”.

- Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý
thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các qui luật sinh
học mà chủ yếu là của các qui luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện

30
sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện
thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.

Câu 9: Phân tích luận điểm: “Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan”.
*Khái niệm: “Ý thức là sự phản ánh năng động sáng tạo hình ảnh khách quan của
thế giới VC vào bộ óc người và được bộ óc người cải biến đi.”

*Phân tích:

- Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở khả năng hoạt
động tâm – sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin, chọn lọc
thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có nó có
thể tạo ra những thông tin mới và phát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận. Tính
chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức còn được thể hiện ở quá trình con
người tạo ra những giả tưởng, giả thuyết, huyền thoại... trong đời sống tinh thần của
mình hoặc khái quát bản chất, qui luật khách quan, xây dựng các mô hình tư tưởng, tri
thức trong các hoạt động của con người.

- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nghĩa là: ý thức là hình ảnh về
thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan qui định cả về nội dung, cả về
hình thức biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà nó đã cải
biến thông qua lăng kính chủ quan của con người. Theo Mác: ý thức “chẳng qua chỉ là
vật chất được di chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”.

- Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý
thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các qui luật sinh
học mà chủ yếu là của các qui luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện
sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện
thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.

31
Câu 10: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa của
vấn đề này trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
10.1. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.

a. Khái niệm.

- “Vật chất: Là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, pháp ánh,
và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.”
- “Ý thức: là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan hay ý thức chỉ chẳng qua
là hình ảnh của thế giới khách quan được di chuyển vào trong bộ óc người và cải biến
đi.”

b. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.

Triết học Mác – Lênin khẳng định trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì
vật chất quyết định ý thức và ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật
chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.

* Vai trò của vật chất đối với ý thức:

Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định vật chất có trước ý thức, quyết định ý thức, ý
thức là cái phản ánh, cho nên là cái có sau, là cái bị quyết định. Ý thức là thuộc tính của
một dạng vật chất sống có tổ chức cao, tổ chức đặc biệt. Đó là bộ óc người. Do vậy,
không có bộ óc người thì không thể có ý thức. Hơn nữa, ý thức tồn tại phụ thuộc vào
hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh thế giới khách quan.

- Vật chất là nhân tố quyết định phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức trong
hoạt động thực tiễn.

- Vật chất là tiền đề, nguồn gốc cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của ý thức.
- Điều kiện vật chất như thế nào thì ý thức như thế đó.
- Vật chất biến đổi thì ý thức biến đổi theo.
- Vật chất là điều kiện để biến ý thức thành hiện thực

32
* Vai trò của ý thức đối với vật chất.

Nhờ có ý thức, con người nhận thức đựơc quy luật vận động, phát triển của thế
giới khách quan. Mặc dù vật chất quyết định ý thức, nhưng ý thức cũng có tính năng
động, sáng tạo, cho nên thông qua hoạt động thực tiễn của con người có thể tác động
trở lại vật chất bằng cách thúc đẩy hoặc kìm hãm ở một mức độ nào đó các điều kiện
vật chất, góp phần cải biến thế giới khách quan.

- Ý thức tác động lại vật chất theo hai chiều hướng:

+ Tích cực: Ý thức có thể trở thành động lực phát triển cuả vật chất.

+ Tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát triển của vật chất
khi ý thức phản ánh sai, phản ánh xuyên tạc các quy luật vận động khách quan của vật
chất.

c. Ý nghĩa phương pháp luận.

- Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật
chất là nguồn gốc của ý thức, song ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con người; vì vậy con người phải tôn trọng tính khách quan, đồng
thời phát huy tính năng động, chủ quan của mình.

- Ý thức có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng và thành công khi
phản ánh đúng đắn, sâu sắc thế giới khách quan. Ngược lại, ý thức, tư tưởng có thể làm
cho con người hoạt động sai và thất bại khi con người phản ánh sai thế giới khách quan.

=> Vì vậy, phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức đồng thời khắc phụ
bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động. ỷ lại hoặc bênh chủ quan duy ý chí.

- Đảng ta đã chỉ rõ: Mọi đường lối chủ chương của Đảng phải xuất phát từ thực tế,
tôn trọng quy luật khách quan.

* Đối với hoạt động thực tiễn của bản thân:


33
- Phát huy năng động, sáng tạo của ý thức trong quá trình học tập và công tác.

- Chống bệnh chủ quan duy ý chí, có thái độ tích cực trong học tập và công tác,...

Câu 11: Trình bày nội dung “Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến” và ý nghĩa
phương pháp luận của nguyên lý này? Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam hiện nay.
* Nội dung nguyên lí về mối liên hệ phổ biến

A. Khái niệm

- Mối liên hệ là 1 phạm trù của triết học dùng để chỉ các mối quan hệ rằng buộc
tương hỗ, quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yêu tố, bộ phận trong 1 đối tượng
hoặc giữa các đối tượng với nhau.

- Liên hệ là quan hệ giữa 2 đối tượng nếu sự thay đổi của 1 trong chúng nhất định
làm đối tượng kia thay đổi

- Mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ mối liên hệ chung nhất phổ biến nhất có ở mọi
sự vật hiện tượng diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên xã hội tư duy

- Những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện
tượng của thế giới

- Cô lập (tách rời) là trạng thái của đối tượng khi sự thay đổi của đối tượng này ko
ảnh hưởng đến các đối tượng khác ko làm chúng thay đổi

B. Tính chất

- Mọi đối tượng đều trong trạng thái vừa cô lập vừa liên hệ quy định và chuyển hóa lẫn
nhau (vd: quan hệ giữa cơ thể sống và môi trường)

- Tính khách quan của các mối liên hệ: Theo quan điểm biện chứng duy vật: các mối
liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm
đó, sự quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự
vật, hiện tượng (hoặc trong chính bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập
34
không phụ thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng
các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.

- Tính phổ biến của các mối liên hệ: Thể hiện ở chỗ bất kì nơi đâu trong tự nhiên
hay trong xã hội tư duy đều có vô vàn các mối liên hệ đa dạng. Mối liên hệ qua lại, quy
định, chuyển hóa lẫn nhau ko những diễn ra ở mọi sự vật hiện tượng tự nhiên xã hội tư
duy mà còn diễn ra giữa các mặt các yếu tố các quá trình của mỗi SV HT.

- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: các sự vật, hiện
tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vai trò,
vị trí khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng một mối liên hệ
nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn
khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật thì cũng có những tính chất và
vai trò khác nhau.

C. Ý nghĩa phương pháp luận.

- Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện.
- Đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần xem xét sự vật
trong mối liên hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của
chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác. Chỉ trên cơ
sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật và xử lý có hiệu quả các vấn đề của đời sống
thực tiễn.

- Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình huống
trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận
thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn; phải xác định rõ vị trí, vai
trò khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những điều kiện cụ thể để từ đó có được
những giải pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn. Như
vậy, trong nhận thức và thực tiễn cần áp dụng quan điểm toàn diện và cần phải tránh xa,
khắc phục quan điểm phiến diện siêu hình và còn phải tránh, khắc phục quan điểm chiết
trung, ngụy biện.
35
* Liên hệ
-Trong cuộc sống khi giải quyết các tình huống cần phải xem xét quá trình cũng
như các hoạt động từ quá khứ đến hiện tại trong các mối liên hệ qua lại lẫn nhau để có
cách giải quyết xử lý tốt nhất.

- Vận dụng quan điểm về sự phát triển vào hoạt động thực tiễn nhằm thúc đẩy các
sự vật phát triển theo đúng quy luật vốn có của nó đòi hỏi chúng ta phải tìm ra mâu
thuẫn của sự vật và bằng hoạt động thực tiễn mà giải quyết mâu thuẫn, phải thấy được
sự phát triển là quá trình khó khăn, phức tạp.

Do đó vận dụng quan điểm về sự phát triển vào thực tiễn xây dựng Chủ nghĩa xã
hội ở nước ta hiện nay, trong điều kiện Chủ nghĩa xã hội đã thoái trào và sụp đổ; Chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch không ngừng chống phá các nước Xã hội chủ
nghĩa còn lại thì quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam là kiên quyết chống lại quan
điểm bảo thủ, trì trệ, bệnh giáo điều, định kiến và nhận định: Chủ nghĩa xã hội hiện
đứng trước nhiều khó khăn thử thách, lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh
co, song loài người cuối cùng nhất định tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật phát
triển tất yếu của lịch sử.

- Vận dụng quan điểm về sự phát triển vào hoạt động thực tiễn nhằm thúc đẩy các sự vật
phát triển theo đúng quy luật vốn có của nó đòi hỏi chúng ta phải tìm ra mâu thuẫn của
sự vật và bằng hoạt động thực tiễn mà giải quyết mâu thuẫn, phải thấy được sự phát
triển là quá trình khó khăn, phức tạp. Do đó vận dụng quan điểm về sự phát triển vào
thực tiễn xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, trong điều kiện Chủ nghĩa xã
hội đã thoái trào và sụp đổ; Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch không ngừng
chống phá các nước Xã hội chủ nghĩa còn lại thì quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam là kiên quyết chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, bệnh giáo điều, định kiến và
nhận định: Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn thử thách, lịch sử thế giới
đang trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định tiến tới chủ
nghĩa xã hội vì đó là quy luật phát triển tất yếu của lịch sử

36
Câu 12: Trình bày nội dung “Nguyên lý về sự phát triển” và ý nghĩa phương pháp
luận của nguyên lý này. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam hiện nay.
a. Khái niệm:

“Phát triển là 1 phạm trù của triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên của
sự vật từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện
hơn”

b. Nội dung nguyên lý của sự phát triển:

* Nguồn gốc của sự phát triển:

- Nằm trong chính bản thân của sự vật hiện tượng.

- Là kết quả của việc giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình
tồn tại và phát triển của sự vật.

* Tính chất của sự phát triển:

- Tính khách quan:

Do nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân của SV, HT.

Đó là quá trình giải quyết những mâu thuẫn vố có trong quá trình tồn tại và phát
triển của sự vật, làm cho SV luôn phát triển.

Do đó phát triển là tiến trình khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con
người

- Tính phổ biến:

Diễn ra trong mọi lĩnh vữ TN, XH, TD; trong tất cả moi SV, HT và trong mọi quá
trình, mọi giai đoạn của SV, HT đó; trong mỗi quá trình biến đổi đã bao hàm khả năng
dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù hợp với quy luật khách quan.
- Tính đa dạng phong phú:

37
Phát triển là khuynh hướng chung của mọi SV, HT, song mỗi SV, mỗi HT, mỗi
lĩnh vực hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau. Tồn tại ở
những không gian và thời gian khác nhau sự vật sẽ phát triển khác nhau.
+ Trong tự nhiên: phát triển thể hiện ở sự tăng cường khả năng thích nghi cơ thể
trước môi trường, ở khả năng tự sinh sản ra chính mình với trình dộ ngày càng hoàn
thiện hơn.
+ Trong xã hội: phát triển thể hiện ở khả năng chinh phục TN, cải tạo XH nhằm
giải phóng con người.
+ Trong Tư Duy: phát triển thể hiện ở khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đúng
đắn hơn hiện thực khách quan.
- Tính thừa kế:
Tiếp thu, bổ sung cái mới.

*Khuynh hướng của sự phát triển:


- Phát triển không ngoại trừ sự lặp lại, thậm chí tạm thời đi xuống trong trường hợp
cá biệt, nhưng xu hướng chung là đi lên, tiến bộ.
- Phát triển bao hàm cả sự phủ định cái cũ và nảy sinh cái mới, SV dường như lặp
lại cái cũ dựa trên cơ sở cao hơn.
Do vậy, sự phát triển được hình dung như “Đường xoáy ốc” theo chiều tiến lên từ
thấp đến cao.

c. Ý nghĩa phương pháp luận.

Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận thức
thế giới và cải tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trong mọi nhận thức và thực tiễn cần
phải có quan điểm phát triển.
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến,
đối lập với sự phát triển.

38
Quan điểm phát triển luôn đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên. Phát
triển là một quá trình biện chứng, bao hàm tính thuận nghịch, đầy mâu thuẫn, vì vậy đòi
hỏi chúng ta phải nhận thức được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong
quá trình phát triển.

Xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển cần phải đặt quá trình đó
trong nhiều giai đoạn khác nhau, trong mối quan hệ biện chứng giữa quá khứ, hiện tại
và tương lai trên cơ sở khuynh hướng phát triển đi lên. Đồng thời, phải phát huy vai trò
nhân tố chủ quan của con nguời để thúc đẩy quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng
theo đúng qui luật.

Như vậy, với tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, phép
biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mac-Lênin giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong
nhận thức và thưc tiễn. Khẳng định vai trò đó của phép biện chứng duy vật, phải có
quan điểm phát triển trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.

d. Liên hệ với thực tiễn VN.

Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, khó khăn,
nhiều thử thách và cũng có lúc sự lãnh đạo của Đảng mắc phải những bệnh chung của
các nước xã hội chủ nghĩa như: Bệnh giáo điều, bệnh bảo thủ trì trệ, chủ quan duy ý
chí… dẫn đến sự suy thoái, khủng hoảng kinh tế xã hội. Tuy nhiên, Đảng vẫn khẳng
định “Chủ nghĩa xã hội trên thế giới từ những bài học thành công và thất bại cũng như
từ những khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra
bước phát triển mới. Nhận định này xuất phát từ nguyên lý về sự phát triển và quan
điểm phát triển trong triết học Mác Lênin và thực tiễn tình hình thế giới cũng như tình
hình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Bệnh bảo thủ trì trệ và bệnh giáo điều cùng với bệnh chủ quan duy ý chí là những
căn bệnh chung của các nước Xã hội chủ nghĩa và nó gây ra hậu quả tất yếu là làm cản

39
trở, thậm chí kéo lùi sự phát triển của kinh tế - xã hội, đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm
trọng.

Trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước, Đảng ta luôn đấu tranh phê phán
với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến.

Vận dụng quan điểm về sự phát triển vào hoạt động thực tiễn nhằm thúc đẩy các
sự vật phát triển theo đúng quy luật vốn có của nó đòi hỏi chúng ta phải tìm ra mâu
thuẫn của sự vật và bằng hoạt động thực tiễn mà giải quyết mâu thuẫn, phải thấy được
sự phát triển là quá trình khó khăn, phức tạp. Do đó vận dụng quan điểm về sự phát
triển vào thực tiễn xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, trong điều kiện Chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch không ngừng chống phá các nước Xã hội chủ
nghĩa thì quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam cần phải kiên quyết chống lại quan
điểm bảo thủ, trì trệ, bệnh giáo điều, định kiến và nhận định: Chủ nghĩa xã hội hiện
đứng trước nhiều khó khăn thử thách, lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh
co, song loài người cuối cùng nhất định tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật phát
triển tất yếu của lịch sử.

Câu 13. Trình bày nội dung của cặp phạm trù cái chung cái riêng. Ý nghĩa của vấn
đề này trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
* Nội dung.

A. Khái niệm

 Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ 1 sự vật, 1 hiện tượng nhất định.

 Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính,
những mối liên hệ lặp lặp lại phổ biến ở nhiều SV, HT, quá trình.

 Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính
chỉ vốn có ở 1 sự vật, hiện tượng (1 cái riêng) nào đó mà ko lặp lại ở SV HT
nào khác.

40
B. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng
- Cái chung tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để thể hiện mình. Nghĩa là
ko có cái chung nào tồn tại thuần túy tách rời khỏi cái riêng.

+ Sở dĩ cái chung được gọi là cái chung vì nó được khái quát từ nhiều cái riêng.

- Cái riêng là cái toàn bộ phong phú hơn cái chung. Còn cái chung là cái bộ phận
nhưng sâu sắc hơn cái riêng.

+ Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì nó phản ánh những thuộc tính chung bản chất
lặp đi lặp lại ở nhiều sự vật.

+ Còn cái riêng phong phú hơn cái chung vì nó tổng hợp cái chung và cái đơn nhất.

Cái riêng = cái chung + cái đơn nhất

- Trong quá trình phát triển của sự vật trong những điều kiện nhất định, cái đơn
nhất và cái chung có thể chuyển hóa cho nhau.

+ Cái chung chuyển hóa thành cái đơn nhất đó là quá trình tồn tại và tiêu vong dần
dần của cái cũ.

+ Cái đơn nhất chuyển hóa thành cái chung đó là quá trình ra đời và phát triển của
cái mới.

C. Ý nghĩa phương pháp luận

- Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng. Nên muốn tìm cái chung cần xuất phát từ
những cái riêng, từ những sự vật, hiện tượng, quá trình riêng lẻ.

- Để giải quyết những vấn đề riêng một cách hiệu quả thì ko thể lảng tránh việc
giải quyết những vấn đề chung.

- Vì cái chung sâu sắc hơn cái riêng nên phải dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng
và khi áp dụng cái chung vào cái riêng phải cá biệt hóa cho phù hợp với đặc điểm cụ thể
của từng cái riêng.

41
- Cần tạo điều kiện để cái chung bất lợi và cái đơn nhất có lợi có thể chuyển hóa
được nhau.

* Liên hệ.

Trong cuộc sống khi giải quyết các tình huống cần phải xem xét quá trình cũng
như các hoạt động từ quá khứ đến hiện tại trong các mối liên hệ qua lại lẫn nhau để có
cách giải quyết xử lý tốt nhất.

Câu 14: Trình bày nội dung của cặp phạm trù “Nguyên nhân và kết quả”. Ý nghĩa
của vấn đề này trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn?
a, Nội dung cặp phạm trù “Nguyên nhân và kết quả”.

* Khái niệm.

“Nguyên nhân là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt
trong 1 SV hoặc giữa các SV với nhau gây ra những biến đổi nhất định nào đó”

“Kết quả là phạm trù triết học dùng để chỉ sự biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn
nhau của các mặt trong 1 SV hoặc giữa các SV với nhau gây ra”

*Phân biệt: Nguyên nhân – Nguyên cớ - Điều Kiện.

- Nguyên cớ là cái xuất hiện cùng với nguyên nhân, nhưng nó không sinh ra kết quả.

- Điều kiện là những yếu tố giúp nguyên nhân sinh ra kết quả, nhưng bản thân điều kiện
không sinh ra kết quả.

* Tính khách quan và phổ biến của mối quan hệ nhân quả.

- Tính khách quan: không có SV, HT nào mà không có nguyên nhân, mà chỉ có chúng
ra chưa tìm ra nguyên nhân của HT đó, và cũng không có 1 HT nào không sinh ra kết
quả mà chỉ có chúng ta chưa tìm ra được kết quả của nó.

42
- Tính phổ biến: mọi SV, HT đều nảy sinh từ những SV, HT khác. Trong đó cái sinh ra
cái khác gọi là nguyên nhân và cái được sinh ra gọi là kết quả.

* Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả.

- Nguyên nhân sinh ra kết quả:

+ Nguyên nhân sinh ra kết quả, nên guyên nhân luôn có trước kết quả. Còn kết quả chỉ
xuất hiện sau khi đã có nguyên nhân tác động.

+ Một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả khác nhau tùy thuộc vào từng hoàn cảnh
cụ thể.

+ Một kết quả có thể gây nên bởi nhiều nguyên nhân khác nhau tác động riêng lẻ hay
tác động đồng thời cùng một lúc.

- Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân:

VD: Thi được kết quả cao  vui vẻ, tạo động lực chăm học hơn.

+ Kết quả là do nguyên nhân sinh ra, nhưng sau khi xuất hiện, kết quả lại ảnh hưởng trở
lại với nguyên nhân

+ Sự ảnh hưởng đó có thể diễn ra theo 2 chiều hướng: kết quả có thể thúc đẩy hoặc cản
trở sự hoạt động của nguyên nhân.

- Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí được cho nhau:

+ 1 SV, HT nào đấy trong MQH này là nguyên nhân, nhưng trong MQH khác nó lại là
kết quả. Một SV, HT nào đó được coi là nguyên nhân hay kết quả bao giờ cũng ở trong
1 quan hệ xác định cụ thể.

+ Trong tính vô thận của TG vật chất, không có hiện tượng nào được coi là nguyên
nhân đầu tiên và cũng không có hiện tượng nào được coi là kết quả cuối cùng. Do vậy,
MQH nhân quả vô cùng, vô tận.

B, Ý nghĩa phương pháp luận:

- Cần tìm nguyên nhân của hiện tượng ở trong chính hiện tượng đó.
43
- Phải tìm nguyên nhân trong mối liên hệ xảy ra trước khi xuất hiện kết quả.

- Cần phân loại các nguyên nhân cho đúng để có cơ sở tác động thích hợp.

- Cần khai thác, tận dụng các kết quả đã đã đạt được để tạo điều kiện để thúc đẩy
nguyên nhân phát huy tác dụng theo hướng tích cực.

Câu 15: Trình bày nội dung của cặp phạm trù “Tất nhiên và ngẫu nhiên”. Ý nghĩa
của vấn đề này trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn?
15.1.1. Khái niệm tất nhiên và ngẫu nhiên.

Tất nhiên (tất yếu) là cái do bản chất , do những nguyên nhân bên trong của sự vật , hiện
tượng quyết định và trong những điều kiện nhất định, nó phải xảy ra như thế , chứ
không thể khác.

Ngâu nhiên là cái không do mối liên hệ bản chất , bên trong quyết định mà nó là ngẫu
hợp của hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Do đó, nó có thể xuất hiện hoặc không xuất
hiện , có thể xuất hiện như thế này hoặc như thế khác.

15.1.2 Điểm giống nhau và khác nhau giữa tất nhiên và ngẫu nhiên.

a. Khác nhau:

Tất nhiên là cái do chính bản chất của quá trình quyết định.Ngaaiux nhiên là cái
không do bản chất của quá trình quy định một cách trực tiếp, không bắt buộc phải có
với quá trình đó.

b. Giống nhau:

Tất nhiên và ngẫu nhiên đều phản ánh những mối liên hệ đặc biệt về chất của thế
giới khách quan mà những mối liên hệ này không nằm trong phạm trù khác. Tất nhiên
và ngẫu nhiên đều do những nguyên nhân xác định quy định.

15.1.3 Phê phán quan điểm sai lầm về tất nhiên và ngâu nhiên.

44
Tuyêt đối hóa tất nhiên, phủ định ngẫu nhiên: Đây là quan điểm sai lầm vì rơi vào
“thuyết định mệnh”, xem con người chỉ là trò chơi của số phận và đã hạ thấp trình độ
của tất nhiên xuống trình độ của ngẫu nhiên.

Tuyệt đối hóa ngẫu nhiên, phủ nhận tất nhiên:Quan điểm này đã xuyên tạc nhiệm vụ
của khoa học, hướng khoa hoc đi vào con đường thần bí, khoa học chỉ là kết quả của
ngẫu nhiên, phục tùng ngẫu nhiên, là chỗ dựa cho tôn giáo . Đây cũng là điểm tựa của
chủ nghĩa bi quan bất lực trước cuộc sống, xa lánh việc làm cách mạng cải tạo tự nhiên
và xã hội.

15.1.4. Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại bên
ngoài, độc lập với ý thức của loài người và có quan hệ biện chứng với nhau.

Tất nhiên và ngẫu nhiên là biểu hiên sự thống nhất của hai mặt đối lập .

Tất nhiên và ngẫu nhiên không phải tồn tại cô lập mà tồn tại trong sự thống nhất hữu cớ
với nhau. Không có ngẫu nhiên thuần túy, hay tất nhiên thuần túy . Bất cứ hiên tượng
quá trình nào cũng đều là sự thống nhất giữa tất nhiên và ngẫu nhiên . Tất nhiên bao giờ
cũng vạch đường cho mình đi xuyên qua vô số ngẫu nhiên, còn ngẫu nhiên bao giờ cũng
là hình thức biểu hiên nội dung của cái tất nhiên, làm cho cái tất nhiên đa dạng nhiều vẻ
hơn.

Sư phân biệt giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ là tương đối . Trong những điều kiện cụ
thể, tất nhiên có thể trở thành ngẫu nhiên và ngược lại.

15.2. Ý nghĩa phương pháp luận.

Nếu tất nhiên là cái nhất định phải xuất hiên theo quy luật nội tại của nó, còn ngẫu
nhiên có thể xuất hiện hay không xuất hiện thì trong hoạt động thực tiễn phải dựa trên
cơ sở những mối liên hệ tất nhiên, phải căn cứ vào tất nhiên để đề ra phương hướng
hoạt động chứ không phải dựa vào ngẫu nhiên và dừng lại ở ngẫu nhiên.

45
Con người có thể tạo ra những điều kiện để biến ngẫu nhiên thành tất nhiên cần thiết
cho hoạt động thực tiễn. Và trong hoạt động thực tiễn phải xem xét sự chuyển hóa giữa
tất nhiên và ngẫu nhiên để không rơi vào tình trạng chủ quan nóng vội , duy ý chí.

Nhiệm vụ của khoa học là phải vạch ra cái tất nhiên ẩn dấu đằng sau cái ngẫu nhiên ,
đồng thời giúp con người ngăn ngừa sự tác động của ngẫu nhiên không có lợi và sử
dụng ngẫu nhiên có lợi.

Câu 16. Phân tích nội dung quy luật “Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập”. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật này trong hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn?
a. Nội dung quy luật “Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập”.

* Vị trí quy luật.

- Là 1 trong 3 quy luật của phép BCDV.

- Là hạt nhân của phép BCDV.

- Quy luật vạch ra nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển.

- Các mặt đối lập tồn tại ở tất cả.

* Khái niệm mâu thuẫn:

- Mâu thuẫn biện chứng là sự liên hệ tác động qua lại lẫn nhau của hai mặt đối lập biện
chứng.

- Những mặt đối lập là những mặt có đặc điểm, thuộc tính, tính quy định có khuynh
hướng phát triển trái ngược nhau tồn tại khách quan trong sự vật.

- Thống nhất của các mặt đối lập được hiểu theo 3 nghĩa: Các mặt đối lập nương tựa
vào nhau, làm điều kiện, tiền đề tồn tại cho nhau; giữa hai mặt đối lập có những yếu tố
đồng nhất, giống nhau, tương đồng nhau; giữa hai mặt đối lập có trạng thái cân bằng,
tác động ngang nhau.

46
- Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động lẫn nhau, bài trừ, phủ định lẫn nhau của
các mặt đối lập.

* Các tính chất chung của mâu thuẫn:

- Tính khách quan: các mặt đối lập là cái vốn có, tồn tại bên trong SV, không phải do
con người nghĩ ra và áp đặt cho chúng.

- Tính phổ biến: mâu thuẫn tồn tại trong mọi SV, HT, mọi lĩnh vực từ tự nhiên, xã hội
đến tư duy con người.

- Tính đa dạng phong phú: mỗi SV, HT luôn có nhiều loại mâu thuẫn khác nhau, mỗi
loại có vai trò khác nhau đối với quá trình vận động và phát triển của SV.

* Các hình thức của mâu thuẫn:

- Mâu thuẫn bên trong là mâu thuân do sự tác đông giữa các mặt, các khuynh hướng
trong cùng một sự vật.

- Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn diễn ra trong mối quan hệ giữa sự vật đó với sự vật
khác.

- Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chát của sự vật quy định sự phát triển ở
tất cả các giai đoạn của sự vật.

- Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phưng diện nào đó của
sự vật.

- Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất định của sự
vật.

47
- Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn ra đời tồn tại trong một gia đoạn phát triển nào đó của
sự vật, nhưng không phải đóng vai trò chi phối mà bị mâu thuẫn chủ yếu chi phối.

- Mâu thuẫn đối kháng

- Mâu thuẫn không đối kháng

* Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động lẫn nhau, sự bài trừ, phủ định thẩm
thấu, triển khai của các mặt đối lập.

- Tác động lẫn nhau: sự tác động của các điện tích âm dương.

- Sự bài trừ, phủ địng lẫn nhau: đấu tranh giai cấp trong XH.

- Thẩm thấu lẫn nhau: thầy truyền kiến thức cho trò.

- Triển khai các mặt đối lập: sử dụng các chuyên gia tư bản, kế thừa thành tựu CNTB.

* Nội Dung Quy Luật:

- Sự thống nhất của các mặt đối lập cấu thành mâu thuẫn biện chứng là tương đối vì:

+ Mâu thuẫn biện chứng bao hàm cả sự “thống nhất” và “đấu tranh” của các mặt đối lập
chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định khi SV chưa chuyển hóa thành cái khác.

+ Đứng im ở phương diện này còn vận động ở phương diện khác.

- Đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối vì:

+ Mọi SV, HT luôn trong quá trình vận động, biến đổi, trong thống nhất có đấu tranh,
trong đấu tranh có thống nhất.

+ Đấu tranh của mặt đối lập làm cho SV cũ mất đi, SV mới ra đời do các mặt đối lập
luôn có xu hướng bài trừ, phủ định, triển khai, chuyển hóa lẫn nhau.

 Vì vậy, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự phát triển.

* Quá trình đáu tranh của các mặt đối lập:

Thống nhất  Khác biệt  Đấu tranh  Chuyển hóa.

48
* Thực chất quy luật: Mọi SV, HT đều chứa đựng những khuynh hướng đối lập tạo
thành những mâu thuẫn trong bản thân mình, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập tạo thành xung lựu nội tại của sự vận động và phát triển, dẫn tới sự mất đi của
cái cũ và ra đời cá mới. (Nguồn gốc vận động, phát triển).

b. Ý nghĩa phương pháp luận

- Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực cho sự phát triển nên trong thực tiễn ta cần phải
xác định mẫu thuận và giải quyết nó.

- Để xác định mâu thuẫn cần phải xác định các mặt đối lập và tìm ra những mối liên hệ,
tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập đó.

- Khi giải quyết mâu thuẫn phải xác định đúng trạng thái chín muồi của mâu thuẫn. Tìm
ra phương thức, phương tiện và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn một cách
hiệu quả.

- Phân biệt mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng. 2 mâu thuẫn này giải quyết khác
nhau. (Không đối kháng là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, nên cách giải quyết không
dùng vũ lực).

*Vận dụng vào Việt Nam.

Những mâu thuẫn phát sinh trong nền kinh tế thị trường. Ổn định và đổi mới về chính
trị là hai mặt đối lập thống nhất biện chứng. Có ổn định thì mới đổi mới được. Muốn ổn
định được thì cần phải giải quyết những mâu thuẫn sau:

- Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.

- Mâu thuẫn giữa hình thái trước đây và nền kinh tế thị trường.

49
- Mâu thuẫn giữa nền kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ
nghĩa.

Câu 17. Phân tích nội dung của quy luật “Chuyển hóa từ những sự thay đổi về
lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại” (quy luật lượng chất). Ý
nghĩa phương pháp luận?
A. Khái niệm

 Chất là phạm trù triết học chỉ tính quy định khách quan vốn có của các sự
vật, hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho sự vật là nó
mà không phải cái khác
Ví dụ, cái bàn, cái ghế, v.v.
- Để hiểu chất là gì cần hiểu thuộc tính là gì? Thuộc tính về chất là một khía cạnh
nào đó về chất của sự vật được bộc lộ ra khi tác động qua lại với các sự vật khác. Mỗi
sự vật có nhiều thuộc tính. Tổng hợp những thuộc tính cơ bản tạo thành chất cơ bản của
sự vật. Như vậy, sự vật cũng có nhiều chất. Chất của sự vật là khách quan, vì đó là chất
của sự vật, không do ai gán cho sự vật. Nó do thuộc tính của sự vật quy định.
 Lượng là phạm trù triết học chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật,
hiện tượng về mặt quy mô, trình độ phát triển, biểu thị con số các thuộc tính,
các yếu tố cấu thành sự vật.
- Lượng được thể hiện thành số lượng, đại lượng, trình độ, quy mô, nhịp điệu của
sự vận động và phát triển. Chẳng hạn chỉ kích thước dài hay ngắn, quy mô to hay nhỏ,
trình độ cao hay thấp, tốc độ nhanh hay chậm v.v. Ví dụ, khi nói sinh viên năm thứ hai,
thì sinh viên là chất để phân biệt với công nhân, bộ đội, còn năm thứ hai chính là lượng,
chỉ trình độ của sinh viên.
- Lượng là cái khách quan vốn có của sự vật. Đối với những sự vật liên quan tới
tình cảm khi nhận thức lượng không thể xác định bằng các đại lượng con số mà phải
trừu tượng hoá bằng định tính. Ví dụ, lòng tốt, tình yêu, v.v.

50
*Lưu ý là sự phân biệt chất và lượng cũng chỉ là tương đối. Cái trong mối quan hệ
này được coi là chất thì trong mối quan hệ khác được coi là lượng. Ví dụ, số 4 trong mối
quan hệ phân biệt với các số nguyên, dương khác thì nó được coi là chất. Nhưng trong
mối quan hệ số 4 có tổng số bằng 4 số 1 cộng lại, hay bằng 2 số 2 cộng lại thì khi ấy nó
được coi là lượng.
B. Nội dung quy luật.
* Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất:
- Mỗi sự vật đều có lượng, chất và chúng thay đổi trong quan hệ chặt chẽ với nhau.
Lượng thay đổi nhanh hơn chất, nhưng không phải mọi thay đổi của lượng đều ngay lập
tức làm thay đổi căn bản về chất. Sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi về chất chỉ
trong giới hạn nhất định. Vượt quá giới hạn đó sẽ làm cho sự vật không còn là nó, chất
cũ mất đi, chất mới ra đời.
- Giới hạn mà trong đó, sự thay đổi về lượng (tăng lên hoặc giảm đi) chưa làm thay
đổi về chất được gọi là độ. Nói cách khác, độ là phạm trù triết học chỉ sự thống nhất
giữa lượng và chất, là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng (tăng lên hoặc
giảm đi) chưa làm cho sự thay đổi căn bản về chất của sự vật diễn ra. Ví dụ, độ của chất
sinh viên là từ khi nhập học tới trước khi bảo vệ thành công đồ án, luận văn tốt nghiệp.
- Những điểm giới hạn mà khi sự thay đổi về lượng đạt tới đó sẽ làm cho sự thay
đổi về chất của vật diễn ra được gọi là điểm nút. Thời điểm bảo vệ thành công đồ án,
hoặc luận văn tốt nghiệp của sinh viên là điểm nút để chuyển từ chất sinh viên lên chất
cử nhân.
- Sự thay đổi về chất do những thay đổi về lượng trước đó gây ra gọi là bước
nhảy. Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu
của một giai đoạn phát triển mới. Bước nhảy vọt làm cho sự vật phát triển bị gián đoạn.
* Những thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng:
Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng mới (làm thay đổi quy
mô, nhịp điệu, tốc độ v.v phát triển của sự vật). Ví dụ, khi trở thành cử nhân thì tốc độ
đọc, hiểu vấn đề tốt hơn khi còn là sinh viên, v.v. Như vậy, không chỉ sự thay đổi về

51
lượng gây nên những thay đổi về chất mà cả sự thay đổi về chất cũng gây nên những
thay đổi về lượng.
* Các hình thức của bước nhảy:
- Bước nhảy để chuyển hoá về chất của sự vật hết sức đa dạng, phong phú với
nhiều hình thức khác nhau. Dựa trên nhịp điệu thực hiện bước nhảy, người ta chia bước
nhảy thành:
o Bước nhảy đột biến, chất của sự vật biến đổi một cách nhanh chóng ở tất cả
các bộ phận cơ bản, cấu thành sự vật.
o Bước nhảy dần dần là quá trình thay đổi về chất diễn ra bằng con đường
tích luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và mất đi dần dần những nhân tố
của chất cũ.
o Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi về chất tất cả các mặt, các bộ
phận, các yếu tố cấu thành sự vật.
o Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi một số mặt, một số yếu tố, bộ
phận của sự vật đó.
Trong lĩnh vực xã hội, thay đổi về lượng được gọi là “tiến hoá”, thay đổi về chất
được gọi là “cách mạng”.
Tóm lại, sự thống nhất giữa lượng và chất trong sự vật tạo thành độ của sự vật.
Những thay đổi về lượng dần dần đến giới hạn nhất định thì xảy ra bước nhảy, chất cũ
bị phá vỡ, chất mới ra đời cùng với độ mới. Đó chính là cách thức phát triển của sự vật.
Quá trình này diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng vận động, biến đổi.
C. Ý nghĩa phương pháp luận.

Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn:

+ Để có đủ tri thức về sự vật phải nhận thức đầy đủ cả mặt chất và mặt lượng của
nó.

52
+ Ko ngừng tích lũy về lượng để đạt đến sự thay đổi về chất. Tránh thái độ chủ quan
chưa đủ về lượng để đạt đến sự thay đổi về chất. Tránh thái độ chủ quan chưa đủ lượng
đã thực hiện bước nhảy.

+ Tích lũy đủ về lượng phải kiên quyết thực hiện bước nhảy và sử dụng linh hoạt các
bước nhảy.

+ Tìm cách tác động vào phương thức liên kết của các sự vật để có sự vật mới.

Câu 18. Phân tích nội dung quy luật “Phủ định của phủ định”. Ý nghĩa phương
pháp luận.
A. Khái niệm

 Phủ định biện chứng là sự phủ định tự thân của sự vật; là sự phủ định tạo điều
kiện, tiền đề cho sự phát triển.

 Phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác kết cấu vật chất này bằng kết
cấu sự vật khác.

 Vd: Trong sự phát triển của gia đình, con giỏi hơn cha tức là con đã phủ định
cha. Ông cha ta thường hay nói “con hơn cha là nhà có phúc” là ý như vậy.
+ Trong ngành sản xuất điện thoại thông minh, iPhone 13 là sự phủ định
đối với iPhone 12.

B. Tính chất

 Tính khách quan: Sự vật hiện tượng tự phủ định mình do mâu thuẫn bên trong
gây ra.

 Tính kế thừa: Loại bỏ các yếu tố ko phù hợp và cải tạo các yếu tố của sự vật hiện
tượng cũ còn phù hợp để đưa vào sự vật hiện tượng mới.

 Tính sáng tạo: Cái mới tiến bộ hơn cái cũ. Ko có cái mới nào ra đời từ hư vô.
53
- Phủ định biện chứng là vòng khâu tất yếu của sự liên hệ và sự phát triển.

VD:
+ Trong bất kỳ loài sinh vật nào, các thế hệ con cái đều kế thừa những yếu tố
tích cực của cha mẹ và bỏ qua những yếu tố lạc hậu.

Tuy vậy, cũng cần lưu ý là, những nhân tố tích cực của sự vật cũ được giữ lại
vẫn phải được cải tạo, phải được biến đổi cho phù hợp với điều kiện mới.

C. Nội dung:

- “Phủ định của phủ định” là khái niệm khái quát chu kỳ phát triển của sự vật, hiện
tượng; sự phát triển của sự vật qua (2 lần) những lần phủ định biện chứng dường
như trở lại sự vật xuất phát, ban đầu nhưng cao hơn.

- Sau hai lần phủ định ( phủ định của phủ định) được thực hiện, hoàn thành chu kỳ
của sự phát triển, mỗi lần phủ định là một lần giả quyết mâu thuẫn là kết quả.

- Đường xoáy ốc là hình thức diễn đạt rõ nhất đặc trưng quá trình phát triển
biện chứng ở tính kế thừa, tính lặp lại và tính tiến lên.

- Sự phát triển dường như lặp lại những trên cơ sở mới cao hơn là đặc điểm
quan trọng nhất của quy luật phủ định của phủ định.

- Sự phát triển của sự vật qua 2 hoặc nhiều lần phủ định biện chứng dường như
trở lại sự vật xuất phát ban đầu nhưng cao hơn.

- Quy luật phủ định của phủ định phản ánh mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái bị
phủ định và cái phủ định do có kế thừa nên nó lưu giữ nội dung tích cực của
các giai đoạn trước trên cơ sở mới cao hơn.

- VD: Một quả trứng là sự khẳng định ban đầu (trong điều kiện được ấp) =>
Phủ định lần 1 tạo ra gà mái con => Phủ định lần 2 (gà mái con lớn lên) sinh
ra nhiều quả trứng.

D. Ý nghĩa

54
- Vì cái mới xuất hiện là cái tất yếu phải xuất hiện phù hợp với quy luật phát triển
của sự vật hiện tượng cho nên chúng ta phải có thái độ ủng hộ cái mới.

- Cần chống 2 khuynh hướng:

+ Thái độ phủ định sạch trơn sự vật cũ ko biết tiếp thu những cái hay trong quá
khứ.

+ Thái độ bảo thủ khư khư giữ cái lỗi thời cản trở sự phát triển của lịch sử.

Câu 19: Thực tiễn là gì? Phân tích vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
* Khái niệm.

“Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử –
xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.”

- Các hình thức của thực tiễn.


 Hoạt động sản xuất vật chất nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng và trao
đổi của con người, là hình thức cơ bản, quan trọng nhất của thực tiễn.

 Hoạt động cải tạo xã hội (chính trị -xã hội) là hoạt động nhằm cải tạo
hiện thực xã hội, cải biến những quan hệ xã hội như đấu tranh giai cấp,
đấu tranh giải phóng dân tộc, mít tinh, biểu tình…

 Hoạt động thực nghiệm là hình thức đặc biệt của thực tiễn. Thực
nghiệm bao gồm thực nghiệm sản xuất, thực nghiệm khoa học và thực
nghiệm xã hội được tiến hành trong điều kiện nhân tạo

 Các hoạt động thực tiễn không cơ bản như giáo dục, nghệ thuật, pháp
luật, đạo đức v.v được mở rộng và có vai trò ngày càng tăng đối với sự
phát triển của xã hội

55
“Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người; là quá
trình tao thành tri thức về thế giới khách quan trong bộ óc con người.”

- Đặc trưng của nhận thức:


o Có tính hệ thống, tính khái quát cao, tính lôgic chặt chẽ.

o Cơ sở của lý luận là những tri thức kinh nghiệm thực tiễn.

o Lý luận có thể phản ánh được bản chất của sự vật, hiện tượng.

* Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:

– Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức. Không có thực tiễn thì không thể có nhận
thức.
Điều này có nghĩa là thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận thức, cho lý luận. Mọi tri
thức dù trực tiếp hay gián tiếp đối với người này hay người kia, thế hệ nay hay thế hệ
khác, ở trình độ kinh nghiệm hay lý luận, xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn.
Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc lộ
những thuộc tính, những tính quy luật để cho con người nhận thức chúng.
Sở dĩ như vậy, bởi con người quan hệ với hế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà
bằng thực tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận
thức ở con người được hình thành và phát triển.
Ban đầu, con người thu nhận những tài liệu cảm tính. Sau đó, con người tiến hành so
sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa… để phản ánh bản chất, quy
luật vận động của các sự vật, hiện tượng trong thế giới, từ đó xây dựng thành các khoa
học, lý luận.

– Thực tiễn là mục đích của nhận thức..

56
Thực tiễn là mục đích của nhận thức vì nhận thức dù về vấn đề khía cạnh hay ở lĩnh
vực gì đi chăng nữa thì cũng phải quay về phục vụ thực tiễn. Nhận thức mà không phục
vụ thực tiễn thì không phải là “nhận thức” theo đúng nghĩa.
Do vậy, kết quả nhận thức phải hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn. Lý luận, khoa học chỉ có ý
nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn.

– Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng, sai của nhận thức..
- Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức.
Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức là thực tiễn cung cấp năng
lượng nhiều nhất, nhanh chóng nhất giúp con người nhận thức ngày càng toàn diện và
sâu sắc về thế giới.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn làm biến đổi thế giới, con người cũng biến đổi luôn
cả bản thân mình, phát triển năng lực thể chất, trí tuệ của mình. Nhờ đó, con người ngày
càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của thế giới, làm phong phú
và sâu sắc tri thức của mình về thế giới.
Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức. Nhu cầu
thực tiễn đòi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận, nó
thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các ngành khoa học. Khoa học ra đời chính vì chúng
cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người.

* Vai trò của lý luận đối với thực tiễn


– nhận thức đóng vai trò soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Lý luận khoa học, thông
qua hoạt động thực tiễn của con người góp phần làm biến đổi thế giới khách quan và
biến đổi thực tiễn.
– nhận thức khoa học góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên tập hợp quần chúng để
tạo thành phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của đồng đảo quần chúng.
- nhận thức đóng vai trò định hướng, dự báo cho hoạt động thực tiễn, giúp hoạt động
thực tiễn chủ động, tự giác, làm cho hoạt động thực tiễn bớt mò mẫm, vòng vo, chủ
động, tự giác hơn.
57
* Ý nghĩa phương pháp:

Trong quá trình nhận thức phải luôn thấy rõ vai trò của hoạt động thực tiễn, không
xa rời thực tiễn. Trong học tập và nghiên cứu khoa học phải kết hợp hoạt động sản xuất
với học tập với phương châm “học đi đôi với hành” mới có kết quả. Luôn bám sát thực
tiễn, dựa vào thực tiễn, tránh chủ quan, duy ý chí, quan liêu, giáo điều. Tránh sự tuyệt
đối hóa vai trò của thực tiễn để tránh rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ
nghĩa. Đặc biệt đối với sinh viên trường Đại học Kiểm sát Hà Nội - những nhà làm luật
tương lai, thấy được vai trò của thực tiễn với nhận thức là vô cùng quan trọng trong điều
tra xét xử, giúp xử đúng người đúng tội, tránh oan sai, bỏ xót tội phạm...

20. Phân tích con đường biện chứng của quá trình nhận thức. Ý nghĩa phương
pháp luận.
A. Khái niệm, nguồn gốc, bản chất

“Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người, là quá trình
tạo thành tri thức về thế giới khách quan trong bộ óc con người”

- Nhận thức là 1 quá trình biện chứng có vận động và phát triển, là quá trình đi từ chưa
biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều hơn, từ chưa biết đến đầy đủ đến biết đầy đủ hơn

- Nhận thức là quá trình tác động biện chứng giữa chủ thể nhận thức và khách thể nhận
thức trên cơ sở hoạt động thực tiễn của con người

- Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan 1 cách tích cực, chủ động, sáng
tạo bởi con người trên cơ sở thực tiễn mang tính lịch sử cụ thể

I. Khâu thứ nhất: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng.

* Nhận thức cảm tính

58
- Là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức, gắn liền với thực tiễn

- Ở giai đoạn này nhận thức của con người phản ánh trực tiếp khách thể thông qua các
giác quan

+ Cảm giác:

Là hình thức đầu tiên, đơn giản nhất của quá trình nhận thức ở giai đoạn cảm tính

Nảy sinh do sự tác động trực tiếp của khách thể lên các giác quan con người, đưa lại cho
con người những thông tin trực tiếp đơn giản nhất về 1 thuộc tính riêng lẻ của sự vật

Cảm giác chính là hình ảnh chủ quan của thế gian khách quan

+ Tri giác:

“Là 1 hình thức nhận thức của giai đoạn trực quan sinh động (nhận thức cảm tính)”

Là kết quả của sự tác động trực tiếp của sự vật đồng thời lên nhiều cảm giác của con
người

Tri giác là tổng hợp của nhiều cảm giác

Tri giác đem lại hình ảnh trọn vẹn hơn cảm giác nhưng vẫn là hình ảnh trực tiếp, cảm
tính về sự vật

+ Biểu tượng:

“là hình ảnh của sự vật được con người giữ lại trong trí nhớ.”

Là hình thức cao nhất và phức tạp nhất của nhận thức cảm tính

Là hình ảnh sự vật được tái hiện trong óc nhờ trí nhớ (khác cảm giác với tri giác)

Giống tri giác ở chỗ vẫn là hình ảnh cảm tính nhưng tương đối hoàn chỉnh hơn về sự
vật.

Hình thức cao nhất của biểu tượng là sự tưởng tượng.

59
Nhận thức cảm tính chưa đem lại hiểu biết sâu sắc khái quát trong tính chỉnh thể về sự
vật thế nên để hiểu được bản chất sự vật sâu sắc hơn hoàn chỉnh hớn nhận thức phải
chuyển lên hình thức cao hơn là nhận thức lý tính

* Tư duy trừu tượng. (Nhận thức lý tính)

“Tư duy trừu tượng là sự phản ánh khái quát và gián tiếp hiện thực khách quan.”

- Bắt nguồn từ trực quan sinh động.

- Thông qua tư duy trừu tượng con người phản ánh sự vật 1 cách gián tiếp khái quát hơn
đầy đủ hơn.

- Tư duy trừu tượng, hay nhận thức lý tính, được thể hiện ở các hình thức như khái
niệm, phán đoán và suy lý:

+ Khái niệm:

“Là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh khái quát gián tiếp 1 hoặc 1 số
thuộc tính chung có tính bản chất nào đó của 1 nhóm sự vật, hiện tượng được biểu thị
bằng 1 từ hay 1 cụm từ”. (VD: thủ đô, tổ quốc…)

Được hình thành trên cơ sở hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người

Để phản ánh đúng thực tiễn khái niệm cũng luôn phải phát triển biến đổi cho phù hợp

Đều nằm trong mối liên hệ với các khái niệm khác

+ Phán đoán:

“Là hình thức liên hệ các khái niệm, phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng
của thế giới trong ý thức của con người”

Được biểu hiện dưới hình thức ngôn ngữ thành 1 mệnh đề bao gồm lượng từ, chủ từ, hệ
từ, vị từ

Hệ từ đóng vai trò quan trọng nhất vì nó biểu thị mối quan hệ của sự vật phản ánh

Có 3 loại cơ bản: phán đoán đơn nhất, phán đoán đặc thù, phán đoán phổ biến

60
* Suy lý (suy luận và chứng minh)

“Suy lý là một hình thức của tư duy trừu tượng trong đó xuất phát từ một hoặc nhiều
phán đoán làm tiền đề để rút ra phán đoán mới làm kết luận.”

Ví dụ: Ta có 2 phán đoán làm tiền đề: “Giấy rất dễ cháy” và “Sách làm từ dấy”. Từ 2
phán đoán này, ta đi đến phán đoán mới: “Sách rất dễ cháy”.

Nếu như phán đoán là sự liên hệ giữa các khái niệm, thì suy lý là sự liên hệ giữa các
phán đoán. Suy lý là công cụ hùng mạnh của tư duy trừu tượng, thể hiện quá trình vận
động của tư duy đi từ những cái đã biết đến nhận thức những cái chưa biết một cách
gián tiếp.

* Sự thống nhất biện chứng giữa trực quan sinh động (nhận thức cảm tính) và tư
duy trừu tượng (nhận thức lý tính).

– Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng là hai giai đoạn khác nhau về chất, có đặc
điểm và vai trò khác nhau trong việc nhận thức sự vật khách quan.

Trực quan sinh động là sự phản ánh trực tiếp, cụ thể, sinh động sự vật. Còn tư duy trừu
tượng là phản ánh gián tiếp, mang tính trừu tượng khái quát.

Trực quan sinh động mang lại những hình ảnh bề ngoài, chưa sâu sắc về sự vật. Còn tư
duy trừu tượng phản ánh được những mối liên hệ bên trong, bản chất, phổ biến, tất yếu
của sự vật. Do đó, tư duy trừu tượng phản ánh sự vật sâu sắc hơn và đầy đủ hơn.

– Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng thống nhất biện chứng với nhau, liên hệ, tác
động lẫn nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, không tách rời nhau.

Chúng cùng phản ánh thế giới vật chất, có cùng một cơ sở sinh lý duy nhất là hệ thần
kinh của con người và điều cùng chịu sự chi phối của thực tiễn lịch sử – xã hội.

– Trực quan sinh động là cơ sở của tư duy trừu tượng. Không có trực quan sinh động thì
không có tư duy trừu tượng. Trái lại, trực quan sinh động mà không có tư duy trừu
tượng thì không thể nắm bắt được bản chất và quy luật của sự vật.

61
Vì vậy, cần phải phát triển trực quan sinh động lên tư duy trừu tượng; tư duy trừu tượng
sẽ giúp trực quan sinh động trở nên chính xác. Trên thực tế, chúng thường diễn ra đan
xen vào nhau trong quá trình nhận thức.

– Một hình thức đặc biệt của nhận thức là trực giác.

Trực giác là năng lực nắm bắt trực tiếp chân lý không cần lập luận lô-gic trước.

Trực giác có những tính chất như bỗng nhiên, bất ngờ, tính trực tiếp và tính không ý
thức được. Tuy nhiên, tính bỗng nhiên, bất ngờ của trực giác không có nghĩa nó không
dựa gì trên tri thức trước đó mà nó dựa trên những kinh nghiệm, những hiểu biết được
tích lũy từ trước.

Trực giác là tri thức trực tiếp song có liên hệ với tri thức gián tiếp. Trực giác được môi
giới bởi toàn bộ thực tiễn và nhận thức có trước của con người, bởi kinh nghiệm của
quá khứ.

Tính không ý thức được của trực giác không có nghĩa nó đối lập với ý thức, với những
quy luật hoạt động của lô-gic. Trực giác là kết quả hoạt động trước đó của ý thức. Trực
giác là kết quả của sự dồn nén trí tuệ và tri thức dẫn đến sự “bùng nổ” bằng nhiều thao
tác tư duy phát triển ở trình độ khác nhau.

Trực giác là sản phẩm của tài năng và sự say mê, sự kiên trì lao động khoa học một cách
nghiêm túc.

II. Khâu thứ hai: Từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.

– Nhận thức đến trình độ tư duy trừu tượng rồi thi ta phải quay trở về thực tiễn để kiểm
tra. Chỉ có qua thực tiễn ta mới có thể xác định được nhận thức đó là đúng đắn hay sai
lầm.

Mục đích của nhận thức là để định hướng cho hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động cải
tạo thế giới. Đến lượt mình, hoạt động sản xuất vật chất là cơ sở cho sự tồn tại và phát
triển của xã hội.

62
– Quay trở về thực tiễn, nhận thức hoàn thành một chu trình biện chứng của nó. Trên cơ
sở hoạt động thực tiễn, một chu trình nhận thức mới lại bắt đầu và cứ thế mãi mãi.

B. Ý nghĩa phương pháp luận.

Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận đòi hỏi chúng ta quán triệt quan điểm
thực tiễn.

Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, từ nhu cầu thực tiễn;
lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn (thước đo) nhận thức; coi trọng công tác tổng kết thực tiễn.

Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn; nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến bệnh
chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu; ngược lại, nếu tuyệt đối hoá vai trò
của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa.

Câu 21: Tại sao nói sản xuất vật chất và phương thức sản xuất là cơ sở của sự tồn
tại và phát triển của xã hội loài người?
* Khái niệm.

“Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động trực tiếp
hoặc gián tiếp vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên để tạo ra của cải
xã hội, nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển – nhu cầu phong phú và vô tận của
con người”.

– Sản xuất là hoạt động đặc trưng riêng có của con người và của xã hội loài người. Đó
là quá trình hoạt động có mục đích và không ngừng sáng tạo của con người.

Ở thế giới loài vật không có hoạt động sản xuất. Có thể nói, điểm khác biệt căn bản giữa
xã hội loài người với thế giới động vật là ở chỗ: Con người lao động sản xuất, còn loài
vật thì không.

* Hoạt động sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội

63
– Hoạt động sản xuất xã hội bao gồm:

+ Sản xuất vật chất: Ví dụ như sản xuất xe máy, tủ lạnh, lúa gạo, thịt, cá, xà phòng…

+ Sản xuất tinh thần: Ví dụ như sáng tác bài hát, tiểu thuyết, phim…

+ Sản xuất ra bản thân con người: Đó là hoạt động duy trì nòi giống của con người.

Trong các loại hoạt động sản xuất nêu trên, sản xuất vật chất giữ vai trò là cơ sở của sự
tồn tại và phát triển của xã hội, và xét đến cùng quyết định toàn bộ sự vận động của đời
sống xã hội.

– Khi sản xuất vật chất tức là con người đã lao động.

Chính lao động đã đem lại những thay đổi to lớn và mang tính quyết định cho con người
như:

+ Cơ thể con người không ngừng hoàn thiện và phát triển, có dáng đi thẳng, không còn
gù lưng như loài vượn. Có sự phân hóa chức năng giữa chân, tay và bộ óc. Các giác
quan của con người cũng phát triển.

+ Trong quá trình lao động sản xuất, con người xuất hiện nhu cầu “nói chuyện” với
nhau. Nếu không giao tiếp được với nhau, con người không thể lao động sản xuất.

Do đó, tiếng nói, chữ viết (tức là ngôn ngữ) xuất hiện, trở thành phương tiện để giao
tiếp, trao đổi, truyền bá tri thức, kinh nghiệm từ thế hệ này sang thế hệ khác.

+ Nhờ lao động sản xuất, buôn bán, tiêu thụ hàng hóa, giữa con người xuất hiện những
mối quan hệ xã hội trong mọi lĩnh vực như chính trị, tôn giáo, đoàn thể, nghệ thuật…

– Sản xuất là yêu cầu khách quan của sự sinh tồn xã hội.

Trong bất kỳ xã hội nào, con người đều có những nhu cầu tiêu dùng từ cấp độ tối thiểu
đến cấp độ thưởng thức như ăn, mặc, nghe nhạc, xem phim, đi lại, đi du lịch…

Muốn thỏa mãn những nhu cầu trên thì con người phải sản xuất. Bởi vì sản xuất là điều
kiện của tiêu dùng. Sản xuất càng phát triển thì hàng hóa càng nhiều, tiêu dùng càng

64
phong phú và ngược lại. Bất cứ xã hội nào cũng không thể tồn tại, phát triển nếu không
tiến hành sản xuất vật chất.

– Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự tiến bộ xã hội.

Suốt chiều dài lịch sử của xã hội loài người, nền sản xuất của cải xã hội không ngừng
phát triển từ thấp đến cao.

Từ chỗ chỉ dùng công cụ lao động bằng đá (thời kỳ đồ đá ở xã hội nguyên thủy), con
người dần dần chế tạo được công cụ bằng đồng (vào thời kỳ đồ đồng ở xã hội cổ đại),
sắt (vào thời kỳ đồ sắt từ thời cổ đại đến trung đại).

Sau đó, nhờ cuộc cách mạng công nghiệp để phục vụ sản xuất, con người đã biết dùng
máy móc động cơ hơi nước, các hệ thống cơ khí hóa, hiện đại hóa (vào thời cận đại và
hiện đại).

Ngày nay, công cụ sản xuất của con người đã rất hiện đại, vượt quá sự tưởng tượng
của loài người cách đây không lâu.

Mỗi khi nền sản xuất phát triển đến một giai đoạn mới thì cách thức sản xuất của con
người thay đổi, năng suất lao động tăng cao, quan hệ giữa con người với con người
trong quá trình sản xuất thay đổi…, kéo theo sự thay đổi trong mọi mặt của đời sống xã
hội.

Như vậy, chính là nhờ sự sản xuất ra của cải vật chất để duy trì sự tồn tại và phát triển
của mình, con người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của
xã hội với tất cả sự phong phú và phức tạp của nó.

Bởi thế, đối với các hiện tượng của đời sống xã hội, ta chỉ có thể đạt tới một sự giải
thích có căn cứ nếu sự giải thích ấy được bắt nguồn từ nền sản xuất vật chất của xã
hội.

Câu 22: Sản xuất vật chất là gì. Vai trò của sản xuất đối với sự tồn tại của xã hội
* Sản xuất vật chất là gì

65
- Sản xuất vật chất là quá trình mà trong đó con người sử dụng công cụ lao động tác
động trực tiếp hoặc gián tiếp vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên
nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.

* Vai trò của sản xuất đối với sự tồn tại của xã hội

- Sản xuất là hoạt động đặc trưng riêng có của con người và xã hội loài người, là hoạt
động ko ngừng sáng tạo ra giá trị vật chất và tinh thần nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu
tồn tại và phát triển của con người.

- Sự sản xuất xã hội tức là sản xuất và tái sản xuất ra đời sông hiện thực, bao gồm 3
phương diện: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần, sản xuất ra bản thân con người.

+ Sản xuất tinh thần là hoạt động sáng tạo ra các giá trị tinh thần nhằm thỏa mãn nhu
cầu tồn tại và phát triển của con người và xã hội.

+ Sản xuất bản thân con người ở phạm vi cá nhân, gia đình là việc sinh đẻ và nuôi dạy
con cái để duy trì nòi giống; ở phạm vi xã hội là sự tăng trưởng dân sô phát triển con
người.

+ Sản xuất vật chất quyết định toàn bộ sự vận động, phát triển của đời sống xã hội.

Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người: sản xuất
vật chất là tiền đề trực tiếp tạo ra “tư liệu sinh hoạt của con người” nhằm duy trì sự tồn
tại và phát triển của con người

Sản xuất vật chất là tiền đề của mọi hoạt động lịch sử của con người: sản xuất vật chất
là cơ sở hình thành nên quan hệ kinh tế vật chất giữa người với người từ đó tạo nên
quan hệ giữa người với người về chính trị, pháp luật,… nhờ sự sản xuất ra của cải vật
chất để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình con người đông thời sáng tạo ra toàn bộ
đời sống vật chất và đời sống tinh thần của xã hội với tất cả sự phong phú phức tạp của

Sản xuất vật chất là điều kiện chủ yếu sáng tạo ra bản thân con người: nhờ hoạt động
sản xuất vật chất mà con người hình thành nên ngôn ngữ, nhận thức, tư duy, tình cảm…

66
Sản xuất vật chất còn là điều kiện cơ bản quyết định nhất đối với sự hình thành phát
triển phẩm chất xã hội của con người

Để nhận thức và cải tạp xã hội phải xuất phát từ đời sống sản xuất từ nền sản xuất
vật chất xã hội. Ko thể dùng tinh thần để giải thích đời sống tinh thần, để phát triển
xã hội phải bắt đầu từ phát triển đời sống kinh tế vật chất.

Câu 23: Lực lượng sản xuất là gì? Cấu trúc của lực lượng sản xuất?
* Khái niệm lực lượng sản xuất
Trong qúa trình thực hiện sản xuất vật chất, con người tác động vào giới tự nhiên,
chinh phục giới tự nhiên bằng tổng hợp các sức mạnh hiện thực của mình, sức mạnh đó
được khái quát trong khái niệm lực lượng sản xuất.
“Lực lượng sản xuất là sự thống nhất hữu cơ giữa người lao động với tư liệu sản
xuất, trước hết là công cụ lao động.”
* Cấu trúc LLSX:
Lực lượng sản xuất là sức sản xuất của xã hội, lực lượng sản xuất bao gồm: Người
lao động và tư liệu sản xuất: VD: công nhân, máy móc…
- Người lao động gồm: sức khoẻ, kỹ năng và tri thức. VD: công nhân, nông dân
- Tư liệu sản xuất gồm: công cụ lao động và đối tượng lao động. VD: đất đai, cày
cuốc
+ Công cụ lao động: Công cụ sản xuất và phương tiện vật chất khác. VD: máy
móc, cày bừa…
+ Đối tượng lao động: có 2 loại một loại có sẵn trong tự nhiên, một loại do lao
động con người tạo ra. VD: kim loại, than đá…
Trong lực lượng sản xuất, chủ nghĩa duy vật lịch sử đánh giá cao vai trò của người
lao động và công cụ lao động. Người lao động là nhân tố hàng đầu của lực lượng sản

67
xuất. Khẳng định điều đó, V.I.Lênin viết: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể
nhân loại là công nhân, là người lao động”.
Công cụ lao động là khí quan vật chất “nối dài”, “nhân lên” sức mạng của con
người trong quá trình biến đổi giới tự nhiên. Nó là yếu tố quyết định trong tư liệu sản
xuất. trình độ phát triển của công cụ lao động vừa là thước đo trình độ chinh phục tự
nhiên của con người, vừa là tiêu chuẩn phân biệt sự khác nhau giữa thời đại kinh tế – kỹ
thuật trong lịch sử. C.Mác viết: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ
chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ, chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu
lao động nào”.

Câu 24. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất. Ý nghĩa phương pháp luận đối với sự nghiệp đổi mới ở việt nam hiện nay.
A. Khái niệm

“Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở
một quá trình lịch sử nhất định. Phương thức sản xuất bao gồm 2 mặt là lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất.”

“Lực lượng sản xuất: Là mối quan hệ giữa người lao động với tư liệu sản xuất tạo ra
sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên
theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội.”

- Người lao động là con người có tri thức, kỹ năng lao động và năng lực sáng tạo nhất
định trong quá trình sản xuất của xã hội

- Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất bao gồm tư liệu lao
động và đối tượng lao động

“Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất”

68
+ Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa vào đó
để tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm
đáp ứng theo yêu cầu sản xuất của con người

Ví dụ: những công cụ lao động như cày, cuốc, máy kéo, dệt, máy, xe tải…; những nhiên
liệu sản xuất như xăng, dầu, điện…

Phương tiện lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất cùng với công cụ lao động
mà con người sử dụng để tác động lên đối tượng lao động trong quá trình sản xuất vật
chất

Công cụ lao động là những phương tiện vật chất mà con người trực tiếp sử dụng để tác
động vào đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng để tạo ra của cải vật chất phục vụ
nhu cầu con người và xã hội (Là yếu tố cách mạng nhất trong LLSX)

+ Đối tượng lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà lao động con người
dùng tư liệu lao động tác động lên nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử
dụng của con người

Ví dụ: sắt, thép, xi măng, sỏi, bông, len, sợi vải… Đó là những vật liệu, nguyên liệu
“thô” để làm đầu vào của sản xuất

B. Đặc điểm LLSX

- Đặc trưng chủ yếu của LLSX là mối quan hệ giữa người lao động và công cụ lao động.

- Thể hiện năng lực thực tiễn cơ bản nhất là năng lực hoạt động sản xuất vật chất của
con người.

- Người lao động là nhân tố hàng đầu giữ vai trò quyết định vì người lao động là chủ thể
sáng tạo và sử dụng công cụ lao động.

- LLSX luôn có tính khách quan.

- Trình độ của LLSX là sự phát triển của người lao động và công cụ lao động.

69
- LLSX có tính lịch sử, tính khách quan, tính xã hội.

- LLSX thuộc về con người.

* Người lao động là nhân tố quan trọng nhất trong LLSX vì:

- Người lao động có lợi ích đây là động lực tự thân của LLSX.

- Người lao động có kĩ năng tay nghề kinh nghiệm điều này tạo nên nguồn vốn của sản
xuất.

- Người lao động có trình độ học vấn là điều kiện để phát triển nhanh LLSX.

C. Quan hệ sản xuất

- Kết cấu của quan hệ sản xuất là:

Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất

Quan hệ về tổ chức quản lí sản xuất

Quan hệ về phân phối sản phẩm lao động.

 Các mặt này tác động qua lại, chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau.

 Mang tính khách quan, quyết định mọi quan hệ xã hội.

D. Mối quan hệ biện chứng

* Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của LLSX

1. Vai trò quyết định của LLSX đối với QHSX

- LLSX là nội dung còn QHSX là hình thức. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình
thức thì nội dung quy định hình thức do đó LLSX quy định QHSX còn QHSX tác động
trở lại to lớn đối với LLSX. Khi LLSX thay đổi thì QHSX phải thay đổi theo cho phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX đó.

70
- Trong mối quan hệ giữa LLSX và QHSX thì LLSX giữ vai trò quyết định. LLSX phát
triển đến một mức độ nhất định làm cho QHSX phải biến đổi theo phù hợp với nó.

- Sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là sự phù hợp biện chứng, sự
phù hợp bao hàm mâu thuẫn. Đây là sự phù hợp giữa một yếu tố động (LLSX luôn biến
đổi) với một yếu tố mang tính ổn định tương đối (QHSX ổn định hơn, ít biến đổi hơn).

2. Sự tác động ngược trở lại của QHSX đối với LLSX

- Nếu QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì thúc đẩy LLSX phát triển,
nếu ko phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX.

- QHSX tác động trở lại LLSX theo hai xu hướng tích cực hoặc tiêu cực:

+ Sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là sự phù hợp các yếu tố cấu
thành nên QHSX: quan hệ sở hữu, quản lí, phân phối và yếu tố tạo nên LLSX.

+ Sự không phù hợp của QHSX đối với LLSX thể hiện ở: QHSX lạc hậu so với trình độ
của LLSX; Các yếu tố của QHSX không đồng bộ, có yếu tố vượt quá xa so với trình độ
của LLSX.

- Sự phát triển không ngừng của LLSX là nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn. Nếu muốn
giải quyết mâu thuẫn để tạo ra một PTSX mới hay sự phù hợp mới thì phải kích thích
LLSX phát triển.

 Quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển xã hội.

E. Sự vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất ở Việt Nam.

- Trước đổi mới: Chúng ta vận dụng quy luật này chưa tốt cả nhận thức và hoạt động
thực tiễn xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất một cách ồ ạt trong khi đó
đang tạo địa bàn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Xây dựng chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất một cách tràn lan, trong khi đó trình độ lực lượng sản xuất còn thấp kém
và phát triển không đồng đều.
71
- Từ đổi mới 1986 đến nay: Chúng ta có những chủ trương đổi mới để sửa chữa những
sai lầm để cải tạo Xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế. Đó là xóa bỏ chế độ tập trung
quan liêu bao cấp phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

+ Đối với lực lượng sản xuất: Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến việc phát triển lực
lượng sản xuất thông qua sự công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.

+ Đối với quan hệ sản xuất: Được chú trọng trên cả 3 mặt quan hệ xã hội đối với tư liệu
sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý, quan hệ trong phân phối sản phẩm làm ra.

Câu 25: Hình thái kinh tế - xã hội là gì? Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
* Khái niệm:

“Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ
xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu QHSX đặc trưng cho xã hội đó
phù hợp với một trình độ nhất định của LLSX, và với một kiến trúc thượng tầng tương
ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy”.

* Các yếu tố hợp thành một hình thái kinh tế – xã hội:


Một hình thái kinh tế – xã hội có 3 yếu tố cơ bản cấu thành:
- Một là: các LLSX của xã hội ở một trình độ phát triển nhất định, đóng vai trò
quyết định quan hệ sản xuất
- Hai là: hệ thống QHSX được hình thành trên cơ sở thực trạng phát triển của
LLSX, đóng vai trò quyết định kiến trúc thượng tầng và các quan hệ xã hội khác.
- Ba là: hệ thống kiến trúc thượng tầng được xác lập trên cơ sở hạ tầng kinh tế,
đóng vai trò là các hình thức chính trị, pháp luật, đạo đức, văn hoá…. của các quan hệ
sản xuất của xã hội.

Ngoài những yếu tố cơ bản trên, mỗi hình thái kinh tế – xã hội còn có các yếu tố
khác như: Quan hệ dân tộc, quan hệ giai cấp, quan hệ gia đình…
72
* Ý nghĩa phương pháp luận của lý luận hình thái kinh tế – xã hội

Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã hội. Với sự
ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó hạt nhân là lý luận hình thái kinh tế – xã
hội đã cung cấp một phương pháp luận thực sự khoa học trong nghiên cứu về lĩnh vực
xã hội.
- Thứ nhất, theo lý luận hình thái kinh tế – xã hội, sản xuất vật chất chính là cơ sở
của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định trình độ phát triển của nền
sản xuất và do đó cũng là nhân tố quyết định trình độ phát triển của đời sống xã
hội và lịch sử nói chung. Vì vậy, không thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng hoặc từ
ý chí chủ quan của con người để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội,
mà phải xuất phát từ bản thân thực trạng phát triển của nền sản xuất xã hội, đặc
biệt là từ trình độ phát triển của phương thức sản xuất xã hội với cốt lõi là trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện thực.
- Thứ hai, theo lý luận hình thái kinh tế – xã hội, xã hội không phải là sự kết hợp
một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống động.
Các phương tiện của đời sống xã hội tồn tại trong một hệ thống cấu trúc thống
nhất chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sản xuất đóng vai trò là
quan hệ cơ bản nhất, quyết định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách
quan để phân biệt các chế độ xã hội khác nhau.
- Thứ ba, theo lý luận hình thái kinh tế – xã hội, sự vận động, phát triển của xã hội
là một quá trình lịch sử – tự nhiên, tức là quá trình diễn ra theo các quy luật khách
quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan, do vậy muốn nhận thức và giải
quyết đúng đắn, có hiệu quả những vấn đề của đời sống xã hội thì phải đi sâu
nghiên cứu các quy luật vận động, phát triển của xã hội.
Những giá trị khoa học trên đây của lý luận hình thái kinh tế – xã hội là những giá
trị về mặt phương pháp luận chung nhất của việc nghiên cứu về xã hội và lịch sử nhân
loại, lịch sử các cộng đồng người, nó không thể thay thế cho những phương pháp đặc

73
thù trong các quá trình nghiên cứu về từng lĩnh vực cụ thể của xã hội. V.I. Lênin từng
dạy rằng: lý luận đó “không bao giờ có tham vọng giải thích tất cả, mà chỉ có ý muốn
vạch ra một phương pháp… “duy nhất khoa học” để giải thích lịch sử”.

Câu 26. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng. Ý nghĩa phương pháp luận của nó trong đổi mới ở VN.
A. Khái niệm

1. Cơ sở hạ tầng là gì?

“Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất
định.”

- Như thế, về mặt kết cấu, cơ sở hạ tầng gồm có:

Quan hệ sản xuất thống trị

Những quan hệ sản xuất là tàn dư của xã hội trước đó

Những quan hệ sản xuất là mầm mống của xã hội sau (đặc trưng cho cơ sở hạ tầng đó)

Mỗi quan hệ sản suất có vị trí vai trò khác nhau

Ví dụ: Trong hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa, có quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa (thống trị), quan hệ sản xuất phong kiến (đã lỗi thời của xã hội trước) và quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa (mầm mống của tương lai)

2. Kiến trúc thượng tầng là gì?

“Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội, những thiết chế
tương ứng và những quan hệ nội tại của chúng được hình thành trên một cơ sở hạ tầng
nhất định.”

- Về mặt kết cấu, kiến trúc tượng tầng gồm các thành tố:

Những quan điểm, tư tưởng xã hội: Đó là những quan điểm về chính trị, pháp quyền,
triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật…
74
Những thiết chế xã hội tương ứng: Đó là nhà nước (gồm quốc hội, chính phủ, quân đội,
công an, tòa án…), đảng phái, giáo hội, hội nghề nghiệp và những đoàn thể xã hội khác.

Trong đó, mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm và quy luật phát triển riêng.
Nhưng chúng đều liên hệ với nhau và đều nảy sinh từ cơ sở hạ tầng, phản ánh cơ sở hạ
tầng, trong đó nhà nước là yếu tố có quyền lực mạnh mẽ nhất. Chính nhờ có nhà nước
mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới trở thành tư tưởng thống trị toàn xã hội.

– Hệ tư tưởng và thiết chế của giai cấp thống trị quyết định tính chất cơ bản của toàn
bộ kiến trúc thượng tầng.

- Tính giai cấp của kiến trúc thượng tầng thể hiện rõ ở sự đối lập về quan điểm tư tưởng
và cuộc đấu tranh chính trị – tư tưởng của các giai cấp đối kháng.

- Mâu thuẫn đối kháng trong kiến trúc thượng tầng bắt nguồn từ mâu thuẫn trong cơ sở
hạ tầng.

B. Mối quan hệ biện chứng

1. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.

Đó là quy luật phổ biến của mỗi hình thái kinh tế – xã hội.

- Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng bởi vì quan hệ vật chất quyết định
quan hệ tinh thần và xét đến cùng kinh tế quyết định chính trị xã hội. Do đó, giai cấp
nào giữ địa vị thống trị về mặt kinh tế thì nó cũng thống trị về mặt kiến trúc thượng tầng
xã hội.

- Kiến trúc thượng tầng không thể khởi phát từ đâu ngoài cơ sở hạ tầng của nó. Cơ sở hạ
tầng như thế nào thì kiến trúc thượng tầng như thế ấy.

– Nếu cơ sở hạ tầng có sự thay đổi thì sớm muộn kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi
theo. Quá trình thay đổi đó không chỉ diễn ra trong giai đoạn cách mạng từ hình thái
kinh tế – xã hội này sang hình thái kinh tế – xã hội khác, mà còn diễn ra trong bản thân
mỗi hình thái kinh tế – xã hội.

75
- Trong xã hội có đối kháng giai cấp, sự thay đổi đó phải thông qua quá trình đấu tranh
giai cấp gay go, phức tạp. Nguyên nhân của quá trình đó xét đến cùng là do sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, sự phát triển của lực lượng sản xuất chỉ trực
tiếp gây ra sự biến đổi của cơ sở hạ tầng sau đó nó mới làm cho kiến trúc thượng
tầng biến đổi theo.

2. Kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại lên cơ sở hạ
tầng.

- Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại to lớn mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng.

- Sự tác động của kiến trúc thượng tầng thể hiện trước hết ở chức năng chính trị xã hội
của nó.

- Kiến trúc thượng tầng có chức năng bảo vệ, là công cụ đắc lực để củng cố, duy trì sự
phát triển của cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đồng thời đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng cũ và
kiến trúc thượng tầng cũ.

- Đồng thời, mỗi bộ phận, yếu tố khác nhau thuộc kiến trúc thượng tầng cũng đều có
khả năng tác động ít nhiều lên cơ sở hạ tầng. Trong đó, nhà nước có vai trò đặc
biệt quan trọng, có khả năng tác động lớn nhất và trực tiếp nhất lên cơ sở hạ tầng (đặc
biệt trong xã hội chủ nghĩa)

- Tất nhiên, sự vận động của các bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng không phải bao
giờ cũng theo một hướng duy nhất. Đôi khi, giữa các bộ phận này cũng nảy sinh tình
trạng không đồng đều, thậm chí mâu thuẫn, chống đối nhau.

- Nếu không có chính quyền của giải cấp công nhân và nhân dân lao động thì không thể
xây dựng được cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa xã hội.

- Nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ đắc lực để cải tạo và xóa bỏ cơ sở hạ tầng cũ,
tạo lập cơ sở hạ tầng mới.

- Sự tác động của kiến trúc thượng tầng nếu phù hợp, cùng chiều phát triển với cơ sở hạ
tầng thì sự tác động đó mang lại hiệu quả thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Còn trong trường

76
hợp nếu làm trái quy luật thì sự tác động của kiến trúc thượng tầng lên cơ sở hạ tầng sẽ
là tiêu cực, cản trở sự phát triển xã hội.

C. Liên hệ với thực tế tình hình quá độ ở Việt Nam hiện nay

1. Cơ sở hạ tầng

– Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam hiện nay bao gồm các kiểu quan hệ
sản xuất gắn liền với các hình thức sở hữu khác nhau.

Ở Việt Nam hiện nay, các hình thức sở hữu cơ bản gồm sở hữu nhà nước (hay sở hữu
toàn dân, trong đó nhà nước là đại diện của nhân dân), sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân.
Các thành phần kinh gồm kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể, hợp tác xã; kinh tế tư nhân;
kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài.

Ví dụ:

Kinh tế nhà nước: Tiêu biểu là các tập đoàn Viettel, PVN, EVN, Vietnam Airline,
Vinamilk…

Kinh tế tập thể, hợp tác xã: Tiêu biểu là các hợp tác xã nội nghiệp, công nghiệp ở các
địa phương.

Kinh tế tư nhân: Tiêu biểu là các tập đoàn Vingroup, FLC, Massan, Vietjet…

Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Tiêu biểu là Toyota Vietnam, Huyndai Vietnam…

Đó là nền kinh tế hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là động lực quan
trọng của nền kinh tế, các thành phần kinh tế khác được khuyến khích phát triển hết mọi
tiềm năng.

2. Kiến trúc thượng tầng

– Trong xây dựng kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước Việt Nam
khẳng định:

77
Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Xây dựng
hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang tính chất giai cấp công nhân, do đội tiên
phong của giai cấp công nhân là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, bảo đảm để nhân
dân là người làm chủ xã hội.

Các tổ chức, bộ máy thuộc hệ thống chính trị như Đảng Cộng sản, Quốc hội, Chính phủ,
quân đội, công an, tòa án, ngân hàng… không tồn tại vì lợi ích của riêng nó mà là để
phục vụ nhân dân, thực hiện cho được phương châm mọi lợi ích, quyền lực đều thuộc
về nhân dân.

Câu 27: Phân tích luận điểm: Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là
một quá trình lịch sử - tự nhiên. Liên hệ với việc lựa chọn con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam.
“Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ
xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho
xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến
trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy”.

1. Sự vận động, phát triển và thay thế nhau của các hình thái kinh tế – xã hội trong lịch
sử chịu sự tác động, chi phối của các quy luật xã hội khách quan.

– Mỗi hình thái kinh tế – xã hội nhất định có các thành tố tương ứng là lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.

Các thành tố đó tác động qua lại với nhau theo những quy luật xã hội khách quan: Đó là
quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.
78
– Xét đến cùng, sự thay thế hình thái kinh tế – xã hội này bằng một hình thái kinh tế –
xã hội khác bắt nguồn sâu xa từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công
cụ lao động.

Khi lực lượng sản xuất phát triển đến mức một mức độ nhất định mà quan hệ sản xuất
hiện tồn trở nên mâu thuẫn, chật hẹp, trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất đó, thì
tất yếu sẽ diễn ra cách mạng xã hội để xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp.

Khi đó cơ sở hạ tầng mới cũng xuất hiện, kéo theo kiến trúc thượng tầng mới tương
ứng. Và đương nhiên, hình thái kinh tế – xã hội mới xuất hiện thay thế cho hình thái
kinh tế – xã hội cũ.

Như thế, sự phát triển, thay thế nhau từ thấp lên cao của các hình thái kinh tế – xã hội
chịu sự tác động, chi phối của các quy luật nội tại: Quy luật quan hệ sản xuất phải phù
hợp với lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng sinh ra kiến trúc thượng tầng.

Rõ ràng, đây là quá trình lịch sử – tự nhiên. Tức là quá trình này không phải ngẫu nhiên.
Tuy là quá trình diễn ra thông qua hoạt động của con người (tức là mang tính “lịch sử”),
nhưng không phải do con người, vĩ nhân hoặc đấng siêu nhiên nào đó sắp đặt, mà là quá
trình tự thân, theo quy luật khách quan (tức là mang tính “tự nhiên”).

2. Quy luật chi phối các hình thái kinh tế – xã hội là quy luật xã hội, thể hiện thông qua
hoạt động của con người, nhưng không vì thế mà quy luật đó không mang tính khách
quan.

Quy luật xã hội không những phụ thuộc vào ý thức, ý chí con người mà ngược lại, khi
xét đến cùng, quy luật xã hội quyết định, chi phối cả ý thức, ý chí của con người. Mỗi
hình thái kinh tế – xã hội được coi như một cơ thể xã hội phát triển theo những quy luật
vốn có của nó.

Sống trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội, con người làm ra lịch sử của mình, đó là xã
hội. Nhưng xã hội của con người vận động theo quy luật khách quan không phụ thuộc
vào ý muốn chủ quan của con người, không phụ thuộc vào vĩ nhân hay mệnh trời.

– Lịch sử nhân loại đã chứng kiến sự tiến hóa của các hình thái kinh tế – xã hội.
79
Quá trình tiến hóa là quá trình kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế – xã hội như: Xã
hội cộng sản nguyên thủy được kế tiếp bằng xã hội chiếm hữu nô lệ, sau đó được kế tiếp
bằng xã hội phong kiến, tiếp đó là sự kế tiếp của xã hội tư bản chủ nghĩa… Quá trình
tiến hóa đó là khách quan, là quá trình lịch sử – tự nhiên.

3. Lịch sử phát triển ở một số quốc gia có thể có những đặc trưng riêng biệt, nhưng sự
riêng biệt đó vẫn là một bộ phận của quá trình lịch sử – tự nhiên.

– Khi nghiên cứu quy luật phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội, C. Mác đi đến
kết luận khoa học rằng sẽ xuất hiện một hình thái kinh tế – xã hội mới thay thế cho hình
thái tư bản chủ nghĩa: Đó là hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn
đầu là hình thái xã hội chủ nghĩa.

Với sự ra đời của nước Nga Xô-viết sau Cách mạng tháng Mười năm 1917, nhân loại đã
được kiểm chứng kết luận của Mác.

Sự sụp đổ của Liên Xô không phải là sụp đổ của tư tưởng xã hội chủ nghĩa mà là sự thất
bại của một mô hình không thích hợp. Mô hình phát triển của Trung Quốc đã phần nào
đã chứng minh điều này.

– Như thế, nếu xem xét ở phạm vi toàn nhân loại thì sự phát triển của các hình thái kinh
tế – xã hội trên thực tế đã theo một tuần tự từ thấp lên cao, tuần tự của quá trình lịch sử
– tự nhiên.

Song, nếu chỉ xét riêng ở phạm vi một quốc gia riêng lẻ, thì do các yếu tố lịch sử, không
gian và thời gian, không phải quốc gia nào cũng phải trải qua tất cả các hình thái kinh tế
– xã hội một cách tuần tự, mà có thể bỏ qua một hoặc một vài hình thái kinh tế – xã hội
nào đó.

Liên hệ với việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa ở Việt Nam.

Ví dụ: Việt Nam và Lào là hai quốc gia đã bỏ qua hình thái tư bản chủ nghĩa để quá độ
từ hình thái phong kiến lên hình thái xã hội chủ nghĩa.

80
Rõ ràng, một số quốc gia như Việt Nam, Lào… dù là quốc gia riêng biệt nhưng vẫn là
bộ phận thuộc nhân loại, gắn với nhân loại. Sự bỏ qua hình thái tư bản chủ nghĩa ở các
quốc gia đó không hề mâu thuẫn với tính tuần tự của các hình thái kinh thế – xã hội trên
toàn nhân loại.

Học thuyết hình thái kinh tế – xã hội của C. Mác có ý nghĩa khái quát đối với toàn nhân
loại, nên nếu chỉ lấy hoàn cảnh đóng khung ở một quốc gia riêng biệt để minh họa phản
bác thì minh họa đó không mang có giá trị.

– Sở dĩ có hiện tượng “phát triển rút ngắn”, bỏ qua một hoặc một vài hình thái kinh tế –
xã hội ở một số quốc gia là vì có quy luật kế thừa của lịch sử loài người.

Quy luật kế thừa luôn cho phép một cộng đồng người vốn có xuất phát điểm thấp, cơ sở
kinh tế lạc hậu có thể giao lưu, hợp tác, kế thừa từ những cộng đồng người khác đang có
trình độ phát triển cao hơn.

Trong lịch sử nhân loại thường xuất hiện những trung tâm phát triển cao hơn về sản
xuất vật chất, kỹ thuật, văn hóa, chính trị… Nhờ có quá trình giao lưu, hợp tác với
các trung tâm đó, nhất là trong bối cảnh của toàn cầu hóa và cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ 4 (cách mạng 4.0), một số nước vốn có xuất phát điểm thấp có thể rút
ngắn tiến trình lịch sử mà không phải lặp lại tuần tự các quá trình đã qua của lịch sử các
hình thái kinh tế – xã hội.

– Trong thời đại ngày nay, chiến lược phát triển rút ngắn để đi lên chủ nghĩa xã hội ở
một số quốc gia như Việt Nam chẳng những không mâu thuẫn với quy luật phát triển
theo một quá trình lịch sử – tự nhiên, mà còn là biểu hiện sinh động của quá trình lịch
sử – tự nhiên ấy.

Chỉ khi người ta “rút ngắn” quá trình phát triển một cách duy ý chí, bất chấp quy luật
khách quan thì lúc đó chiến lược “rút ngắn” mới đối lập với quá trình lịch sử – tự nhiên.

Có thể nói, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (cách mạng 4.0) và bối cảnh toàn cầu
hóa hiện nay chính là cơ hội, là điều kiện thuận lợi, tạo cơ sở thực tế để Việt Nam thực
hiện thành công công cuộc Đổi Mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
81
Câu 28. Trình bày quan điểm triết học mac lenin về bản chất con người. Tại sao
nói quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo chân chính ra lịch sử
1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội

- Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là giới tự nhiên.

+ Cũng do đó, bản tính tự nhiên của con người bao hàm trong nó tất cả bản tính sinh
học, tính loài của nó.

+ Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con
người. Vì vậy, có thể nói: Giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”; con người là
một bộ phận của tự nhiên; là kết quả của quá trình phát triển và tiến hóa lâu dài của môi
trường tự nhiên.

+ Tuy nhiên mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất con người.

+ Con người là bộ phận đặc biệt quan trọng của giới tự nhiên nhưng lại có thể biến
đổi giới tự nhiên và chính bản thân mình đây cũng là điểm khác biệt giữa con người và
cá thực thể sinh học khác

- Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là phương
diện xã hội của nó.

+ Hoạt động xã hội quan trọng nhất của con người là lao động sản xuất ra của cải vật
chất.

+ Nhờ có lao động sản xuất mà con người về mặt sinh học có thể trở thành thực thể
xã hội, có lý tính có bản năng xã hội khác biệt với con vật phải sống dựa hoàn toàn vào
các sản phẩm của tự nhiên

- Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải biến giới
tự nhiên:

82
+ Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất. Hoạt động
sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người.

+ Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và
tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ

và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy lao động là điều kiện kiên quyết, cần thiết và
chủ yếu quyết định sự hình thành và phát triển của con người cả về lẫn phương diện
sinh học và phương diện xã hội

- Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa mặt
sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi con
người là thống nhất.

+ Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng
bản chất để phân biệt con người với loài vật.

2. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã
hội

+ Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con người vượt lên
thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: Quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã
hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng, đều
mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao
trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con
người.

+ Không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội.
Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định,
một thời đại nhất định.

+ Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời
đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội…), con người mới bộc
lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.

83
+ Ở con người, mặt tự nhiên tồn tại trong sự thống nhất với mặt xã hội.

+ Quan niệm bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội mới giúp cho
chúng ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, mặt sinh
vật ở con người.

3. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử

+ Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người.
Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh.
Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử – xã hội.

- Con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng
thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội.

+ Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái
lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên,
tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình. Trong quá trình cải biến tự
nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình.

+ Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là
phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật
của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội
phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra.

+ Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó,
không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.

- Bản chất con người, trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận
động biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù hợp.

+ Mặc dù là “tổng hoà các quan hệ xã hội”, con người có vai trò tích cực trong tiến
trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản chất con người cũng vận
động biến đổi cho phù hợp.

84
+ Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng
(mặc dù không trùng khớp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.

+ Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho
hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi
trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm
đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục.

4. Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người

- Con người hoạt động, lao động sản xuất và làm ra lịch sử của chính mình làm cho họ
trở thành những con người như đang tồn tại.

- Con người ko thụ động để lịch sử thay đổi mình mà con người là chủ thể của lịch sử.

Câu 29: Tồn tại xã hội là gì? Nêu những yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội và phân
tích vai trò của nó? Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội.
* Tồn tại xã hội là gì?

“Tồn tại xã hội là sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã
hội.”

Trong những quan hệ xã hội vật chất, thì quan hệ giữa người với tự nhiên và quan
hệ vật chất giữa người và người là hai loại quan hệ cơ bản.

* Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố chính là:

– Phương thức sản xuất vật chất;

– Điều kiện tự nhiên;

– Hoàn cảnh địa lý, dân số, mật độ dân số…

Các yếu tố đó tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng, tác động lẫn nhau
tạo thành điều kiện sinh tồn và phát triển của xã hội, trong đó phương thức sản xuất vật
85
chất là yếu tố cơ bản nhất.

* Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ rõ rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã
hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Sự quyết định của tồn
tại xã hội đối với ý thức xã hội thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất, tồn tại xã hội là nguồn gốc khách quan, cơ sở khách quan của sự hình thành,
ra đời của ý thức xã hội (nghệ thuật, tư tưởng, chính trị, pháp quyền).

Thứ hai, tồn tại xã hội quyết định nội dung, tính chất, đặc điểm của ý thức xã hội nói
chung, của các hình thái ý thức xã hội nói riêng.

Thứ ba, tồn tại xã hội thay đổi sớm hay muộn sẽ kéo theo sự thay đổi của ý thức xã hội.
Tất nhiên, mức độ, nhịp độ thay đổi của các bộ phận trong ý thức xã hội diễn ra khác
nhau. Có những bộ phận biến đổi nhanh hơn (ví dụ như chính trị, pháp luật), có bộ phận
thay đổi chậm hơn (ví dụ như nghệ thuật, tôn giáo).

Thứ tư, trong xã hội có giai cấp thì ý thức xã hội cũng mang tính giai cấp.

Công lao to lớn của C.Mác và Ph.Ăngghen là phát triển chủ nghĩa duy vật đến đỉnh cao,
xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử và lần đầu tiên giải quyết một cách khoa học vấn
đề sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội.

Các ông đã chứng minh rằng, đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển trên
cơ sở của đời sống vật chất, rằng không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội
trong bản thân nó, nghĩa là không thể tìm trong đầu óc con người mà phải tìm trong hiện
thực vật chất.

Sự biến đổi của một thời đại nào đó cũng sẽ không thể giải thích được nếu chỉ căn cứ
vào ý thức của thời đại ấy. C.Mác viết: “… không thể nhận định về một thời đại đảo lộn
86
như thế căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những
mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất
xã hội và những quan hệ sản xuất xã hội”.

Câu 30 :Trình bày khái niệm giai cấp ? Vì sao đấu tranh gai cấp trong xã hội có
giai cấp là động lực phát triển xã hội ?

 Khái niệm giai cấp :

Lênin viết: "Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn người to lớn khác nhau về địa
vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử khác nhau về quan
hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận)
đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như
vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ
được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt
lao động của tập đoàn khác do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế
độ kinh tế – xã hội nhất định".

 Như vậy nói giai cấp là nói đến sự khác nhau giữa các tập đoàn người về địa vị trong
một hệ thống sản xuất xã hội nhất định. Địa vị khác nhau này được thể hiện ở ba quan
hệ xét từ ba mặt trong quá trình sản xuất như sau:

- Khác nhau về quan hệ đối với tư liệu sản xuất (sự khác nhau đó được pháp luật
quy định).

- Khác nhau về vai trò trong tổ chức lao dộng, trong tổ chức quản lý sản xuất.

- Khác nhau về phương thức và quy mô thu nhận của cải xã hội.

- Ở đây khác nhau về quan hệ đối với tư liệu sản xuất là sự khác nhau cơ bản nhất.
Trong định nghĩa, Lênin chỉ ra thực chất của tình trạng xã hội phân chia giai cấp
là do tập đoàn này có thể chiếm đoạt sản phẩm lao động của tập đoàn khác.
87
- Định nghĩa giai cấp của Lênin là một định nghĩa khoa học có giá trị cả về lý luận
và thực tiễn.

- Việc vận dụng lý luận trên đây để xem xét các giai cấp trong lịch sử cũng cần
tránh giản đơn, bởi các quan hệ giai cấp biểu hiện thông qua nhiều hiện tượng
phức tạp.

 Vì sao đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp là động lực phát triển xã hội ?

- Khái niệm đấu tranh giai cấp, Lênin viết: "Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của
một bộ phận dân này, chống một bộ phận khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị
tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp
bức và bọn ăn bám. Cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay
những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản" (Lênin,
Toàn tập, tập 7, Nxb Tiến bộ, M, 1978, tr.237).
- Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển quan trọng của xã hội
có giai cấp. Vì đấu tranh giai cấp giúp thay đổi phương thức sản xuất cũ, lỗi thời,
lạc hậu bằng phương thức mới cao hơn, đồng thời xây dựng lực lượng sản xuất
mới phù hợp quan hệ sản xuất tạo cơ sở phát triển mọi mặt đời sống xã hội.

- Đấu tranh giai cấp giúp cải tạo các giai cấp cách mạng và quần chúng lao động
thông qua việc xóa bỏ tập quán xấu do giai cấp thống trị sản sinh ra.

- Đấu tranh giai cấp là đòn bẩy phát triển lịch sử cách mạng, là động lực phát triển
các mặt đời sống xã hội trong thời kì phát triển bình thường. Đấu tranh là động
lực để giai cấp tư sản đổi mới phương thức quản lý, sử dụng kĩ thuật mới để tạo
nên những thành tựu mới.

- Vai trò của đấu tranh giai cấp thể hiện ở những cuộc đấu tranh mang tính quần
chúng rộng lớn, do lực lượng tiến bộ xã hội lãnh đạo, được tổ chức khoa học
88
nhằm đánh đổ giai cấp thống trị cản trở sự phát triển xã hội.

- Liên hệ Việt Nam:

o Ở Việt Nam, đấu tranh giai cấp trong giai đoạn quá độ hiện nay cũng là một tất
yếu.
o Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển,thực hiện công
bằng xã hội, chống áp bức, bất công, đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những tư
tưởng và hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành
động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước
ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc. Đồng thời
Đảng ta cũng khẳng định: Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết
toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng
lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội,phát huy mọi tiềm
năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.

Câu 31: Trình bày nguồn gốc, bản chất của nhà nước, đặc trưng của nhà nước ?

 Khái niệm :
Nhà nước là một hiện tượng lịch sử, nó chỉ ra đời và tồn tại trong một giai đọan nhất
định của sự phát triển xã hội. Nhà nước sẽ tự tiêu vong khi những cơ sở tồn tại của nó
không còn nữa.
 Nguồn gốc của nhà nước:
Nguồn gốc sâu xa dẫn đến sự ra đời của nhà nước là nguyên nhân kinh tế, bắt
nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nguồn gốc trực tiếp dẫn đến sự ra đời và
tồn tại của nhà nước chính là sự xuất hiện chế độ tư hữu và mâu thuẫn giai cấp không
thể điều hòa được.
89
Lịch sử cho thấy rằng, xã hội cộng sản nguyên thủy dựa trên chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất, mọi người sống bình đẳng, chưa có giai cấp và chưa có nhà nước. Những
tộc trưởng và hội đồng các tộc trưởng điều chỉnh các quan hệ xã hội duy trì các quy tắc
đời sống xã hội và điều khiển các công việc của công xã dựa vào sức mạnh của dư luận
xã hội và uy tín của họ đối với xã hội. Trong tay họ không có và không cần có một công
cụ cưỡng bức đặc biệt nào. Quyền hành và chức năng của cơ quan đứng đầu thị tộc và
bộ lạc không mang tính chất chính trị, mang tính tự quản.

Sự đối kháng giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột ngày càng sâu sắc và không
thể điều hòa được. Để bảo vệ địa vị thống trị của mình, để duy trì ách áp bức bóc lột đối
với những người nô lệ, giai cấp chủ nô đã lập ra bộ máy bạo lực, trấn áp buộc giai cấp
nô lệ phải phục tùng tuân theo những trật tự do mình đặt ra, bộ máy đó là nhà nước.

Nhà nước đầu tiên xuất hiện trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ. Tiếp đó là
nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản. Sự ra đời của nhà nước chứng tỏ rằng nhà nước
không phải là cơ quan để điều hòa mâu thuẫn giai cấp; mà ngựơc lại, nhà nước ra đời
chính là do mâu thuẫn giai cấp ngày càng sâu sắc không thể điều hòa được. Ở đâu, lúc
nào mà mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được thì nhà nước xuất hiện.

Nhà nước xuất hiện và tồn tại không phải do ý muốn chủ quan của một ai hay của một
giai cấp nào. Trái lại, sự xuất hiện nhà nước là một tất yếu khách quan để “khống chế
những đối kháng giai cấp”, để làm “dịu” sự xung đột giai cấp, làm cho sự xung đột giai
cấp diễn ra trong vòng “trật tự ”; trật tự ấy hoàn toàn cần thiết để duy trì chế độ kinh tế,
trong đó giai cấp này bóc lột giai cấp khác. Nhà nước - “đó là sự kiến lập một “trật tự”,
trật tự này hợp pháp hoá và củng cố sự áp bức kia bằng cách làm dịu xung đột giai cấp ”
. Nhà nước chỉ ra đời, tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển xã hội và
sẽ mất đi khi những cơ sở tồn tại của nó không còn nữa.

 Bản chất của nhà nước:

90
- Nhà nước là nền chuyên chính của giai cấp này đối với giai cấp khác và đối với
toàn xã hội. Đó là nền chuyên chính của giai cấp nắm quyền thống trị về kinh tế
trong xã hội. Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của
giai cấp này để trấn áp một giai cấp khác”.Nhà nước chính là một bộ máy do giai
cấp thống trị về kinh tế thiết lập ra nhằm hợp pháp hoá và củng cố sự áp bức của
chúng đối với quần chúng lao động. Giai cấp thống trị sử dụng bộ máy nhà nước
để đàn áp, cưỡng bức giai cấp khác trong khuôn khổ lợi ích của giai cấp thống trị.
Đó là bản chất của nhà nước theo nguyên nghĩa, tức nhà nước của giai cấp bóc
lột. Không có nhà nước, một tổ chức bạo lực chuyên dùng để trấn áp, thì giai cấp
thống trị không thể duy trì ách áp bức bóc lột của nó đối với giai cấp bị thống trị.

- Với tính cách là nền chuyên chính của một giai cấp đối với giai cấp khác, nhà
nước của giai cấp bóc lột không thể là kẻ công bằng để bảo vệ lợi ích chung cho
các giai cấp trong xã hội.

- Mỗi kiểu nhà nước có bản chất riêng nhưng đều mang một số đặc điểm chung.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng có những nét chung đó nhưng với bản chất là
chuyên chính vô sản, nó không còn là nhà nước theo đúng nghĩa mà chỉ là “nửa
nhà nước”. Nhà nước xã hội chủ nghĩa tồn tại trên cơ sở nguyên tắc công hữu
những tư liệu sản xuất chủ yếu và lao động tự nguyện. Đó là sản phẩm của nhân
dân lao động nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử là xây dựng một xã hội không còn
áp bức bóc lột, không còn giai cấp.

- Bản chất của nhà nước được thể hiện trong các đặc trưng và chức năng của nó.

 Đặc trưng cơ bản của nhà nước:

- Nhà nước là một bộ phận quan trọng trong kiến trúc thượng tầng của xã hội, nó
có ba đặc trưng cơ bản sau:

o Một là, nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định. Đặc
trưng này phân biệt sự khác nhau của các tổ chức nhà nước với tổ chức

91
thị tộc, bộ lạc trước kia. Các tổ chức thị tộc, bộ lạc được hình thành trên
cơ sở những quan hệ huyết thống, còn tổ chức nhà nước gắn liền với
việc phân chia dân cư theo phạm vi lãnh thổ mà họ cư trú. Nói cách
khác, quyền lực nhà nước có hiệu lực với tất cả các thành viên ở trong
một biên giới quốc gia, bất kể họ thuộc quan hệ huyết thống nào.

o Hai là, bộ máy quyền lực chuyên nghiệp của nhà nước mang tính cưỡng
chế đối với mọi thành viên trong xã hội. Đó là những đội vũ trang đặc
biệt (quân đội, cảnh sát...), những công cụ (tòa án, trại giam...) và một
bộ máy đông đảo các viên chức được trả lương để chuyên làm công
việc hành chính cai trị.

o Ba là, tồn tại một hệ thống thuế khóa để nuôi bộ máy nhà nước hoạt
động. Nhà nước không thể tồn tại, nếu không dựa vào hệ thống thuế
khóa. Nói cách khác, về cơ bản mọi nhà nước đều tồn tại được nhờ vào
sự chu cấp của nhân dân bằng con đường cưỡng bức hay tự nguyện
hoặc phối hợp cả hai.

Câu 32: Trình bày khái niệm cách mạng xã hội, vì sao nói cách mạng xã hội chủ
nghĩa là cuộc cách mạng xã hội triệt để nhất ?
 Khái niệm cách mạng xã hội:

- Nghĩa rộng: Khái niệm cách mạng xã hội dùng để chỉ sự biến đổi có tính chất
bước ngoặt và căn bản về chất trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, là
sự thay thế một hình thái kinh tế – xã hội cũ bằng một hình thái kinh tế – xã hội
mới cao hơn tiến bộ hơn.

- Nghĩa hẹp: Khái niệm cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị đã lỗi
thời thiết lập một chế độ chính trị tiến bộ hơn.

92
 Vì sao nói cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng xã hội triệt để nhất ?

Trong lịch sử phát triển của nhân loại chúng ta từng biết quy luật thay thế của các
hình thái kinh tế xã hội bằng các cuộc cách mạng. Và cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
nổ ra đã thay thế cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và nó được đánh giá là cuộc cách
mạng triệt để nhất từ trước đến nay.Vì:

Theo nghĩa rộng cách mạng xã hội chủ nghĩa bao gồm cả hai thời kỳ: cách mạng
về chính trị với nội dung chính là thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản; tiếp theo đó
là thời kì giai cấp công nhân và nhân dân lao động sử dụng nhà nước của mình để cải
tạo xã hội cũ về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng v.v.xây dựng xã hội mới
về mọi mặt nhằm thực hiện thắng lợi chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giải phóng xã hội, giải phóng con
người, đó là mục tiêu cao cả mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Việc thực hiện mục
tiêu đó gắn liền với từng giai đoạn của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu giai đoạn
thứ nhất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là giai cấp công nhân phải đoàn kết với
những người lao động khác thực hiện lật đổ chính quyền của giai cấp thống trị, áp
bức, bóc lột. Như vậy mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa đã thể hiện rất triệt để
bởi nó mang lại lợi ích cho đại đa số nhân dân.Tiến trình của cuộc cách mạng với hai
giai đoạn: giai cấp công nhân phải tự tổ chức ra chính đảng của mình, lật đổ sự thống trị
của giai cấp tư sản, giành lấy chính quyền, thiết lập chuyên chính vô sản và tiến hành
công cuộc cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới theo những nguyên tắc của chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.Vậy tính triệt để thể hiện ở chỗ nó không chỉ dừng
lại ở một giai đoạn là giành chính quyền, vấn đề quyền lực mà còn đi đến đem lại lợi ích
cho đa số. Sâu sắc trong từng nội dung kinh tế, chính trị, tư tưởng – văn hóa. Cách
mạng xã hội chủ nghĩa diễn ra đồng thời trên các lĩnh vực và các lĩnh vực đó có quan hệ
mật thiết, tác động, thúc đẩy lẫn nhau.

Ở Việt Nam cuộc cách mạng này diễn ra với 2 giai đoạn. Trước hết nó là cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân vì nó đã làm nhiệm vụ xóa bỏ chế độ phong kiến đã
được thiết lập hàng nghìn năm ở Việt Nam. Giai đoạn thứ 2 từ 1954 ở miền Bắc và từ
93
1975 cả nước đã xây dựng xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa cả nước quá
độ lên chủ nghĩa xã hội.Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng nhằm thay thế
chế độ cũ,trong cuộc cách mạng đó, giai cấp công nhân là người lãnh đạo và cũng với
quần chúng nhân dân lao động khác xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ cũ,trong cuộc
cách mạng đó, giai cấp công nhân là người lãnh đạo và cũng với quần chúng nhân dân
lao động khác xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Câu 33 : Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng đối với sự nghiệp đổi mới kinh tế và đổi mới hệ
thống chính trị ở Việt Nam hiện nay.
A. Khái niệm

1. Cơ sở hạ tầng là gì?

“Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất
định.”

- Như thế, về mặt kết cấu, cơ sở hạ tầng gồm có:

Quan hệ sản xuất thống trị

Những quan hệ sản xuất là tàn dư của xã hội trước đó

Những quan hệ sản xuất là mầm mống của xã hội sau (

đặc trưng cho cơ sở hạ tầng đó)

Mỗi quan hệ sản suất có vị trí vai trò khác nhau

Ví dụ: Trong hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa, có quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa (thống trị), quan hệ sản xuất phong kiến (đã lỗi thời của xã hội trước) và quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa (mầm mống của tương lai)

2. Kiến trúc thượng tầng là gì?

94
“Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội, những thiết chế
tương ứng và những quan hệ nội tại của chúng được hình thành trên một cơ sở hạ tầng
nhất định.”

- Về mặt kết cấu, kiến trúc tượng tầng gồm các thành tố:

Những quan điểm, tư tưởng xã hội: Đó là những quan điểm về chính trị, pháp quyền,
triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật…

Những thiết chế xã hội tương ứng: Đó là nhà nước (gồm quốc hội, chính phủ, quân đội,
công an, tòa án…), đảng phái, giáo hội, hội nghề nghiệp và những đoàn thể xã hội khác.

Trong đó, mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm và quy luật phát triển riêng.
Nhưng chúng đều liên hệ với nhau và đều nảy sinh từ cơ sở hạ tầng, phản ánh cơ sở hạ
tầng, trong đó nhà nước là yếu tố có quyền lực mạnh mẽ nhất. Chính nhờ có nhà nước
mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới trở thành tư tưởng thống trị toàn xã hội.

– Hệ tư tưởng và thiết chế của giai cấp thống trị quyết định tính chất cơ bản của toàn
bộ kiến trúc thượng tầng.

- Tính giai cấp của kiến trúc thượng tầng thể hiện rõ ở sự đối lập về quan điểm tư tưởng
và cuộc đấu tranh chính trị – tư tưởng của các giai cấp đối kháng.

- Mâu thuẫn đối kháng trong kiến trúc thượng tầng bắt nguồn từ mâu thuẫn trong cơ sở
hạ tầng.

B. Mối quan hệ biện chứng

1. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.

Đó là quy luật phổ biến của mỗi hình thái kinh tế – xã hội.

- Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng bởi vì quan hệ vật chất quyết định
quan hệ tinh thần và xét đến cùng kinh tế quyết định chính trị xã hội. Do đó, giai cấp
nào giữ địa vị thống trị về mặt kinh tế thì nó cũng thống trị về mặt kiến trúc thượng tầng
xã hội.

95
- Kiến trúc thượng tầng không thể khởi phát từ đâu ngoài cơ sở hạ tầng của nó. Cơ sở hạ
tầng như thế nào thì kiến trúc thượng tầng như thế ấy.

– Nếu cơ sở hạ tầng có sự thay đổi thì sớm muộn kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi
theo. Quá trình thay đổi đó không chỉ diễn ra trong giai đoạn cách mạng từ hình thái
kinh tế – xã hội này sang hình thái kinh tế – xã hội khác, mà còn diễn ra trong bản thân
mỗi hình thái kinh tế – xã hội.

- Trong xã hội có đối kháng giai cấp, sự thay đổi đó phải thông qua quá trình đấu tranh
giai cấp gay go, phức tạp. Nguyên nhân của quá trình đó xét đến cùng là do sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, sự phát triển của lực lượng sản xuất chỉ trực
tiếp gây ra sự biến đổi của cơ sở hạ tầng sau đó nó mới làm cho kiến trúc thượng
tầng biến đổi theo.

2. Kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại lên cơ sở hạ
tầng.

- Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại to lớn mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng.

- Sự tác động của kiến trúc thượng tầng thể hiện trước hết ở chức năng chính trị xã hội
của nó.

- Kiến trúc thượng tầng có chức năng bảo vệ, là công cụ đắc lực để củng cố, duy trì sự
phát triển của cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đồng thời đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng cũ và
kiến trúc thượng tầng cũ.

- Đồng thời, mỗi bộ phận, yếu tố khác nhau thuộc kiến trúc thượng tầng cũng đều có
khả năng tác động ít nhiều lên cơ sở hạ tầng. Trong đó, nhà nước có vai trò đặc
biệt quan trọng, có khả năng tác động lớn nhất và trực tiếp nhất lên cơ sở hạ tầng (đặc
biệt trong xã hội chủ nghĩa)

- Tất nhiên, sự vận động của các bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng không phải bao
giờ cũng theo một hướng duy nhất. Đôi khi, giữa các bộ phận này cũng nảy sinh tình
trạng không đồng đều, thậm chí mâu thuẫn, chống đối nhau.

96
- Nếu không có chính quyền của giải cấp công nhân và nhân dân lao động thì không thể
xây dựng được cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa xã hội.

- Nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ đắc lực để cải tạo và xóa bỏ cơ sở hạ tầng cũ,
tạo lập cơ sở hạ tầng mới.

- Sự tác động của kiến trúc thượng tầng nếu phù hợp, cùng chiều phát triển với cơ sở hạ
tầng thì sự tác động đó mang lại hiệu quả thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Còn trong trường
hợp nếu làm trái quy luật thì sự tác động của kiến trúc thượng tầng lên cơ sở hạ tầng sẽ
là tiêu cực, cản trở sự phát triển xã hội.

A. Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng đối với sự nghiệp đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống
chính trị ở Việt Nam hiện nay

- Dưới chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh, cơ sở hạ tầng và kiến thức thượng tầng
thuần nhất và thống nhất. Vì cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa không có tính chất
đối kháng, không bao hàm những lợi ích kinh tế đối lập nhau. Hình thức sở hữu
bao trùm là sở hữu toàn dân và tập thể, hợp tác tương trợ nhau trong quá trình sản
xuất, phân phối sản phẩm theo lao động, không còn chế độ bóc lột.

- Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến
cách mạng sâu sắc và triệt để, là một giai đoạn lịch sử chuyền tiếp nó. Bởi vì, cơ
sở hạ tầng mang tính chất quá độ với một kết cấu kinh tế nhiều thành phần đan
xen của nhiều loại hình kinh tế xã hội khác nhau. Còn kiến trúc thượng tầng có sự
đối kháng về tư tưởng và có sự đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản
trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá.

- Bởi vậy công cuộc cải cách kinh tế và đổi mới thể chế chính trị là một quá
trình mang tính cách mạng lâu dài.

1. Cơ sở hạ tầng

97
– Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam hiện nay bao gồm các kiểu quan hệ
sản xuất gắn liền với các hình thức sở hữu khác nhau.

Ở Việt Nam hiện nay, các hình thức sở hữu cơ bản gồm sở hữu nhà nước (hay sở hữu
toàn dân, trong đó nhà nước là đại diện của nhân dân), sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân.
Các thành phần kinh gồm kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể, hợp tác xã; kinh tế tư nhân;
kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài.

Ví dụ:

Kinh tế nhà nước: Tiêu biểu là các tập đoàn Viettel, PVN, EVN, Vietnam Airline,
Vinamilk…

Kinh tế tập thể, hợp tác xã: Tiêu biểu là các hợp tác xã nội nghiệp, công nghiệp ở các
địa phương.

Kinh tế tư nhân: Tiêu biểu là các tập đoàn Vingroup, FLC, Massan, Vietjet…

Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Tiêu biểu là Toyota Vietnam, Huyndai Vietnam…

Đó là nền kinh tế hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là động lực quan
trọng của nền kinh tế, các thành phần kinh tế khác được khuyến khích phát triển hết mọi
tiềm năng.

2. Kiến trúc thượng tầng

– Trong xây dựng kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước Việt Nam
khẳng định:

Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Xây dựng
hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang tính chất giai cấp công nhân, do đội tiên
phong của giai cấp công nhân là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, bảo đảm để nhân
dân là người làm chủ xã hội.

Các tổ chức, bộ máy thuộc hệ thống chính trị như Đảng Cộng sản, Quốc hội, Chính phủ,
quân đội, công an, tòa án, ngân hàng… không tồn tại vì lợi ích của riêng nó mà là để
98
phục vụ nhân dân, thực hiện cho được phương châm mọi lợi ích, quyền lực đều thuộc
về nhân dân.

Câu 34: Phân tích nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất ? Liên hệ thực tiễn Việt Nam.

A. Khái niệm

“Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở
một quá trình lịch sử nhất định. Phương thức sản xuất bao gồm 2 mặt là lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất.”

“Lực lượng sản xuất: Là mối quan hệ giữa người lao động với tư liệu sản xuất tạo ra
sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên
theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội.”

- Người lao động là con người có tri thức, kỹ năng lao động và năng lực sáng tạo nhất
định trong quá trình sản xuất của xã hội

- Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất bao gồm tư liệu lao
động và đối tượng lao động

“Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất”

+ Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa vào đó
để tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm
đáp ứng theo yêu cầu sản xuất của con người

Ví dụ: những công cụ lao động như cày, cuốc, máy kéo, dệt, máy, xe tải…; những nhiên
liệu sản xuất như xăng, dầu, điện…

99
Phương tiện lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất cùng với công cụ lao động
mà con người sử dụng để tác động lên đối tượng lao động trong quá trình sản xuất vật
chất

Công cụ lao động là những phương tiện vật chất mà con người trực tiếp sử dụng để tác
động vào đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng để tạo ra của cải vật chất phục vụ
nhu cầu con người và xã hội (Là yếu tố cách mạng nhất trong LLSX)

+ Đối tượng lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà lao động con người
dùng tư liệu lao động tác động lên nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử
dụng của con người

Ví dụ: sắt, thép, xi măng, sỏi, bông, len, sợi vải… Đó là những vật liệu, nguyên liệu
“thô” để làm đầu vào của sản xuất

B. Đặc điểm LLSX

- Đặc trưng chủ yếu của LLSX là mối quan hệ giữa người lao động và công cụ lao động.

- Thể hiện năng lực thực tiễn cơ bản nhất là năng lực hoạt động sản xuất vật chất của
con người.

- Người lao động là nhân tố hàng đầu giữ vai trò quyết định vì người lao động là chủ thể
sáng tạo và sử dụng công cụ lao động.

- LLSX luôn có tính khách quan.

- Trình độ của LLSX là sự phát triển của người lao động và công cụ lao động.

- LLSX có tính lịch sử, tính khách quan, tính xã hội.

- LLSX thuộc về con người.

* Người lao động là nhân tố quan trọng nhất trong LLSX vì:

- Người lao động có lợi ích đây là động lực tự thân của LLSX.

- Người lao động có kĩ năng tay nghề kinh nghiệm điều này tạo nên nguồn vốn của sản
xuất.
100
- Người lao động có trình độ học vấn là điều kiện để phát triển nhanh LLSX.

C. Quan hệ sản xuất

- Kết cấu của quan hệ sản xuất là:

Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất

Quan hệ về tổ chức quản lí sản xuất

Quan hệ về phân phối sản phẩm lao động.

 Các mặt này tác động qua lại, chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau.

 Mang tính khách quan, quyết định mọi quan hệ xã hội.

D. Mối quan hệ biện chứng

* Quy luật quan hệ sản xuất (QHSX) phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất (LLSX).

1. Vai trò quyết định của LLSX đối với QHSX

- LLSX là nội dung còn QHSX là hình thức. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình
thức thì nội dung quy định hình thức do đó LLSX quy định QHSX còn QHSX tác động
trở lại to lớn đối với LLSX. Khi LLSX thay đổi thì QHSX phải thay đổi theo cho phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX đó.

- Trong mối quan hệ giữa LLSX và QHSX thì LLSX giữ vai trò quyết định. LLSX phát
triển đến một mức độ nhất định làm cho QHSX phải biến đổi theo phù hợp với nó.

- Sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là sự phù hợp biện chứng, sự
phù hợp bao hàm mâu thuẫn. Đây là sự phù hợp giữa một yếu tố động (LLSX luôn biến
đổi) với một yếu tố mang tính ổn định tương đối (QHSX ổn định hơn, ít biến đổi hơn).

2. Sự tác động ngược trở lại của QHSX đối với LLSX
101
- Nếu QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì thúc đẩy LLSX phát triển,
nếu ko phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX.

- QHSX tác động trở lại LLSX theo hai xu hướng tích cực hoặc tiêu cực:

+ Sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là sự phù hợp các yếu tố cấu
thành nên QHSX: quan hệ sở hữu, quản lí, phân phối và yếu tố tạo nên LLSX.

+ Sự không phù hợp của QHSX đối với LLSX thể hiện ở: QHSX lạc hậu so với trình độ
của LLSX; Các yếu tố của QHSX không đồng bộ, có yếu tố vượt quá xa so với trình độ
của LLSX.

- Sự phát triển không ngừng của LLSX là nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn. Nếu muốn
giải quyết mâu thuẫn để tạo ra một PTSX mới hay sự phù hợp mới thì phải kích thích
LLSX phát triển.

 Quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển xã hội.

E. Sự vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất ở Việt Nam.

- Trước đổi mới: Chúng ta vận dụng quy luật này chưa tốt cả nhận thức và hoạt động
thực tiễn xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất một cách ồ ạt trong khi đó
đang tạo địa bàn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Xây dựng chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất một cách tràn lan, trong khi đó trình độ lực lượng sản xuất còn thấp kém
và phát triển không đồng đều.

- Từ đổi mới 1986 đến nay: Chúng ta có những chủ trương đổi mới để sửa chữa những
sai lầm để cải tạo Xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế. Đó là xóa bỏ chế độ tập trung
quan liêu bao cấp phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

+ Đối với lực lượng sản xuất: Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến việc phát triển lực
lượng sản xuất thông qua sự công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.

+ Đối với quan hệ sản xuất: Được chú trọng trên cả 3 mặt quan hệ xã hội đối với tư liệu
sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý, quan hệ trong phân phối sản phẩm làm ra.
102
Câu 34: Nêu những đặc điểm của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
A. Khái niệm

1. Cơ sở hạ tầng là gì?

“Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất
định.”

- Như thế, về mặt kết cấu, cơ sở hạ tầng gồm có:

Quan hệ sản xuất thống trị

Những quan hệ sản xuất là tàn dư của xã hội trước đó

Những quan hệ sản xuất là mầm mống của xã hội sau (

đặc trưng cho cơ sở hạ tầng đó)

Mỗi quan hệ sản suất có vị trí vai trò khác nhau

Ví dụ: Trong hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa, có quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa (thống trị), quan hệ sản xuất phong kiến (đã lỗi thời của xã hội trước) và quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa (mầm mống của tương lai)

2. Kiến trúc thượng tầng là gì?

“Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội, những thiết chế
tương ứng và những quan hệ nội tại của chúng được hình thành trên một cơ sở hạ tầng
nhất định.”

- Về mặt kết cấu, kiến trúc tượng tầng gồm các thành tố:

Những quan điểm, tư tưởng xã hội: Đó là những quan điểm về chính trị, pháp quyền,
triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật…

103
Những thiết chế xã hội tương ứng: Đó là nhà nước (gồm quốc hội, chính phủ, quân đội,
công an, tòa án…), đảng phái, giáo hội, hội nghề nghiệp và những đoàn thể xã hội khác.

Trong đó, mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm và quy luật phát triển riêng.
Nhưng chúng đều liên hệ với nhau và đều nảy sinh từ cơ sở hạ tầng, phản ánh cơ sở hạ
tầng, trong đó nhà nước là yếu tố có quyền lực mạnh mẽ nhất. Chính nhờ có nhà nước
mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới trở thành tư tưởng thống trị toàn xã hội.

– Hệ tư tưởng và thiết chế của giai cấp thống trị quyết định tính chất cơ bản của toàn
bộ kiến trúc thượng tầng.

- Tính giai cấp của kiến trúc thượng tầng thể hiện rõ ở sự đối lập về quan điểm tư tưởng
và cuộc đấu tranh chính trị – tư tưởng của các giai cấp đối kháng.

- Mâu thuẫn đối kháng trong kiến trúc thượng tầng bắt nguồn từ mâu thuẫn trong cơ sở
hạ tầng.

B. Đặc điểm của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.

Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần kinh tế, tức là các
kiểu tổ chức kinh tế, các kiểu quan hệ sản xuất với các hình thức sở hữu khác nhau,
thậm chí đối lập nhau, cũng tồn tại trong một nền kinh tế quốc dân thống nhất. Đó là
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Có nghĩa là
có sự thống nhất ở mức độ nhất định về mặt lợi ích, nhưng nó cũng tồn tại những mâu
thuẫn nhất định.

Tương ứng với những mâu thuẫn là sự không đồng nhất về bản chất kinh tế do sự tác
động của nhiều hệ thống quy luật kinh tế. Đó là hệ thống các quy luật kinh tế xã hội chủ
nghĩa phát sinh trên cơ sở sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, hệ thống các quy luật
kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ và các quy luật kinh tề tư bản chủ nghĩa. Định hướng xã
hội chủ nghĩa với nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần thì sự quản lý của nhà
nước không chỉ bó hẹp trong trong kinh tế quốc doanh mà phải bao quát tất cả các thành
phần kinh tế khác, nhằm từng bước xã hội hóa xã hội chủ nghĩa với tất cả các thành
104
phần kinh tế khác phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa nền kinh tế
quốc dân. Trong đó kinh tế quốc doanh bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, quyết định đối
với quá trình xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tập thể phải
thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ, kinh tế tư nhân và gia đình có khả năng
phát huy được mọi tiềm năng kinh tế góp phần vào quá trình phát triển kinh tế.

Xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Đảng ta khẳng định lấy chủ
nghĩa Mác – Lênin làm kim chỉ nam cho hành động và nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác – Lênin là tư tưởng về sự giải phóng con người
khỏi chế độ bóc lột, xây dựng một xã hội công bằng văn minh, v.v… Tư tưởng Hồ Chí
Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin với chủ nghĩa yêu nước của nhân
dân ta trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, đội tiền phong của nó là sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, bảo đảm cho nhân dân ta là người chủ thật sự của xã hội. Toàn bộ quyền lực
xã hội thuộc về xã hội thuộc về nhân dân, thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát
huy mọi khả năng sáng tạo, tính tích cực chủ động của mọi cá nhân, mọi tầng lớp xã hội
trong cuộc phát triển kinh tế và văn hóa phục vụ ngày càng cao của đời sống nhân dân.
Các tổ chức, thiết chế xã hội, các lực lượng xã hội tham gia vào hệ thống chính trị xã
hội chủ nghĩa đều hướng về mục tiêu chung làm cho dân giầu nước mạnh, xã hội công
bằng văn minh và vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

* Sự vận dụng mối quan hệ này trong công cuộc đổi mới ở nước ta
Ở nước ta, trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng
xã hội chủ nghĩa, chúng ta không chỉ quán triệt và vận dụng mối quan hệ biện chứng
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mà còn phải quán triệt và vận dụng một
cách khoa học và sáng tạo mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng kinh tế của nước ta hiện nay là một kết cấu kinh tế nhiều thành phần với
nhiều hình thức sở hữu đan xen lẫn nhau. Thừa nhận sự tồn tại của một kết cấu kinh tế
với nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế cùng tồn như vậy là một tất yếu
khách quan. Bởi lẽ, trình độ lực lượng sản xuất của chúng còn thấp và chưa đồng đều.
105
Song, đây lại là một nền kinh tế năng động, phong phú. Chính tính chất đan xen của kết
cấu kinh tế ấy nó đặt ra nhu cầu khách quan là kiến trúc thượng tầng cũng phải được đổi
mới để đáp ứng đòi hỏi của cơ sở kinh tế. Lẽ dĩ nhiên, không phải với nền kinh tế nhiều
thành phần và nhiều hình thức sở hữu khác nhau thì nhất thiết phải đa đảng và đa
nguyên về chính trị, nhưng nhất thiết phải đổi mới kiến trúc thượng tầng theo hướng:
đổi mới tổ chức, đổi mới bộ máy hành chính nhà nước, đổi mới con người, đổi mới
phong cách lãnh đạo, đa dạng hoá các tổ chức, đoàn thể, hiệp hội, mở rộng dân chủ (đặc
biệt là dân chủ cơ sở), tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc… nhằm tập trung sức mạnh
của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đổi mới kinh tế là cơ sở, tiền đề cho đổi mới chính trị. Song, muốn đổi mới kinh tế phải
đổi mới chính trị để tạo điều kiện thuận lợi cho đổi mới kinh tế. Đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị là hai quá trình gắn bó hữu cơ với nhau trên tinh thần ổn định chính trị để
đổi kinh tế một cách toàn diện và có hiệu quả trong sự nghiệp đổi mới.

Câu 35: Vai trò chủ quan của C. Mác - Ph. Ăngghen đối với sự ra đời triết học
Mác – Lênin ?

Câu 36: Nguyên tắc khách quan là như thế nào? Cơ sở lý luận và sự vận dụng nguyên
tắc khách quan trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
 Khái niệm:
- Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, triết học Mác – Lenin đã rút ra nguyên
tắc phương pháp luận là phải xuất phát từ thực tế khách quan.
- Xuất phát từ thực tế khách quan tức là xuất phát từ tính khách quan của vật
chất, chúng ta phải xuất phát từ bản thân sự vật, không thể tùy tiện gán cho sự vật
cái mà nó không có hoặc là nó chưa có. Trong hoạt động thì chúng ta phải luôn
luôn xuất phát từ thực tế khách quan, mọi chủ trương, đường lối, chính sách,
pháp luật, mục tiêu, phương hướng thì đều phải xuất phát từ thực tế khách quan.

106
Tôn trọng vai trò quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần của
con người.
- Như vậy, xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan có ý nghĩa rất
lớn cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
- Có thể khái quát được rằng bản chất của nguyên tắc khách quan đó là khi đánh
giá, phân tích sự vật hiện tượng nào đó thì chúng ta phải đánh giá đúng như sự
vật thể hiện như vậy. Chúng ta không được gán cho sự vật cái mà nó không có.
Khi chúng ta bôi hồng hoặc to đen sự vật là chúng ta vi phạm nguyên tắc khách
quan trong đánh giá.
 Cơ sở lí luận:

 Sự vận dụng nguyên tắc khách quan trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện
nay.
- Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: nguyên tắc khách quan đòi hỏi
con người trong hoạt động thực tiễn phải luôn xuất phát từ thực tế khách quan,
lấy khách quan làm cơ sở, phương tiện hoạt động.
- Những đường lối, chủ trương, chính sách của phải xuất phát từ thực tế xã hội
trong từng giai đoạn khác nhau. Trong các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của
Việt Nam trước đây chúng ta luôn xác định điều kiện tất yếu diễn ra cuộc cách
mạng từ đó đề ra chủ trương, đường lối phù hợp. Điều kiện khách quan như: sự
chín muồi của mâu thuẫn giữa các giai cấp trong xã hội tạo nên cuộc khủng
hoảng về chính trị sâu sắc hay sự vực dậy của nông dân khi bị áp bức, bóc lột quá
sức chịu đựng…
- Trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam: xuất phát từ việc
tôn trọng các điều kiện tất yếu để thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường, đòi hỏi phải có khả năng cạnh
tranh trên thị trường do vật các sản phẩm, hàng hóa phải được sản xuất dựa trên nền

107
tảng vững chắc của cơ sở vật chất
- kỹ thuật hiện đại với cơ cấu phù hợp với chi phí có thể bỏ ra của nền kinh tế,
tăng khả năng tích lũy cho nền kinh tế, từ đó góp phần phát triển nền kinh tế.

Câu 37: Cơ sở triết học của quan điểm toàn diện?


1. Khái niệm quan điểm toàn diện:
- Quan điểm toàn diện là khi xem xét các sự vật hiện tượng, phải xem xét ở tất cả
các mặt, các yếu tố làm nên các sự vật, hiện tượng, kể cả khâu trung gian, gián
tiếp. Nghiên cứu cơ sở triết học của quan điểm toàn diện có một vai trò vô cùng
quan trọng giúp chúng ta đánh giá đúng vị trí, vai trò của sự vật, hiện tượng.
- Cơ sở triết học của quan điểm toàn diện chính là nguyên lí về mối liên hệ phổ
biến nên cũng có những tính chất của nguyên lý này là khách quan và phổ biến.
2. Khái niệm về phép biện chứng (PBC)

- Sơ lược về sự hình thành và phát triển của phép biện chứng trong lịch sử
triết học:

+PBC tự phát thời cổ đại: Phản ánh tính chất chung của thế giới là vật
động biến đổi không ngừng nhưng chủ yếu dựa trên cơ sở quan sát mang
tính trực quan, cảm tính.

+ PBC của Hêghen trong triết học cổ điển Đức mang tính chất duy tâm
thần bí, phản ánh sai lệch hiện thực khách quan.

+ PBC duy vật do Mác-Ăngghen xây dựng là sự thống nhất giữa thế giới
quan duy vật và phương pháp biện chứng, nó mang tính khoa học.

- Định nghĩa PBC:

108
Ăngghen định nghĩa: “PBC chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy
luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài
người và của tư duy”.
B. Giải quyết vấn đề:

1 -Khái niệm về mối liên hệ phổ biến

- Quan điểm siêu hình về mối liên hệ cho rằng: Sự vật hiện tượng tồn tại độc lập tách
biệt với nhau, giữa chúng không có sự liên hệ nếu thừa nhận có sự liên hệ thì đó chỉ là
liên hệ bề ngoài, thụ động, một chiều, giữa các hình thức liên hệ không có sự chuyển
hoá lẫn nhau.

- Quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ: Mối liên hệ là phạm trù triết học dùng
để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện
tượng hay các mặt sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.

2. Tính chất của mối liên hệ:

Theo quan điểm của DVBC, mối liên hệ có 3 tính chất cơ bản sau:

- Thứ nhất: Mối liên hệ mang tính khách quan, nó là vốn có của một sự vật, hiện tượng,
không phụ thuộc vào ý thức của con người.

- Thứ hai: Mối liên hệ mang tính phổ biến, thể hiện:

+ Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện tượng khác, không có sự
vật hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ.

+ Mối liên hệ biểu hiện dưới nhiều hình thức riêng biệt, cụ thể tuỳ theo điều kiện nhất

109
định. Song dù dưới hình thức nào, chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến
nhất, chung nhất.

- Thứ ba: Mối liên hệ mang tính đa dạng và nhiều vẻ:

Sự vật hiện tượng trong thế giới là phong phú, đa dạng, vì vậy hình thức liên hệ giữa
chúng cũng rất đa dạng. Tuy nhiên, có thể căn cứ vào vị trí, phạm vi vai trò, tính chất
mà phân chia ra thành những mối liên hệ khác nhau như: mối liên hệ bên trong – mối
liên hệ bên ngoài, mối liên hệ bản chất- mối liên hệ không bản chất, mối liên hệ trực
tiếp - mối liên hệ gián tiếp v.v… Nhưng sự phân chia này cũng chỉ mang tính tương đối.

3. Ý nghĩa phương pháp luận


-Nội dung của quan điểm toàn diện:

+ Nhận thức sự vật trong mối liên hệ giữa các yếu tố, các mặt của chính sự vật và trong
sự tác động giữa sự vật đó với các sự vật khác.

+ Biết phân loại từng mối liên hệ, xem xét có trọng tâm, trọng điểm, làm nổi bật cái cơ
bản nhất của sự vật, hiện tượng.

+ Từ việc rút ra mối liên hệ bản chất của sự vật, ta lại đặt mối liên hệ bản chất đó trong
tổng thể các mối liên hệ của sự vật xem xét cụ thể trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.

+ Cần tránh phiến diện siêu hình và chiết trung, ngụy biện.

C. Vận dụng nguyên tắc toàn diện vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay

Trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, Đảng ta quán triệt thực hiện nguyên tắc
toàn diện, tuy

nhiên chúng ta không thực hiện rập khuôn mà có sự kết hợp chặt chẽ giữa “chính sách
dàn đều” và “chính sách trọng điểm”. Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định cần phải
110
đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội; chú trọng tăng trưởng kinh tế đi liền
với thực hiện công bằng xã hội, giải quyết những vấn đề của xã hội; đẩy mạnh công
nghiệp hóa – hiện đại hóa, đi tới bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc; vừa chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế, vừa đảm bảo độc lập, tự chủ, an ninh quốc phòng…trong đó xác định
phát triển kinh tế là trọng tâm.

Về mặt kinh tế:

Ngay trong việc phát triển kinh tế, quan điểm toàn diện cũng được Đảng ta áp dụng thể
hiện cụ thể ở việc thực hiện phát triển chính sách kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong đó Đảng ta vẫn đặc
biệt nhấn mạnh và coi trọng hình thức sở hữu công cộng với vai trò chủ đạo là thành
phần kinh tế quốc doanh trong cơ chế thị trường. Giai đoạn hiện nay, Đảng và nhà nước
ta vẫn tuân thủ nguyên tắc trên song song đó là sàng lọc, lựa chọn và giữ nguyên các tập
đoàn quốc doanh kinh doanh có hiệu quả đồng thời xóa bỏ các tập đoàn, doanh nghiệp
quốc doanh làm ăn kém hiệu quả gây hệ lụy xấu cho toàn bộ nền kinh tế.

Về chính trị:

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Xét trên tổng thể,
Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch định
đường lối và chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có mọi sự
đổi mới khác. Tuy nhiên, Đảng ta đã đúng khi tập trung chủ yếu vào việc thực hiện
thắng lợi công cuộc đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo điều
kiện vật chất và tinh thần cần thiết để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố
lòng tin của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc khôi phục các khía cạnh
khác nhau của đời sống xã hội”. Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định phải ngày càng
hoàn thiện vai trò lãnh đạo của đảng và cơ chế quản lý của nhà nước, phát huy quyền
làm chủ của quần chúng, nâng cao năng lực lãnh đạo và tổ chức thực tiễn của đảng và
nhà nước. nhân dân, vì nhân dân, quản lý xã hội bằng pháp luật. Đổi mới chính trị thể
hiện ở đổi mới tổ chức, bộ máy, phân cấp lãnh đạo của đảng và dân chủ hóa, nhất là từ
trong đảng.
111
Tăng cường quốc phòng an ninh: bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ bảo vệ an ninh quốc gia trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa.

Về văn hóa, xã hội

Đảng ta coi nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định đối với sự phát
triển của đất nước. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

Cùng với sự đẩy mạnh phát triển kinh tế, chính trị, Đảng ta chủ trương giải quyết tốt các
vấn đề xã hội coi đây là một hướng chiến lược thể hiện bản chất ưu việt của chế độ ta.

Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.

Bên cạnh đó, gắn kết tăng trưởng kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển
y tế, giáo dục.

Câu 38: Vai trò của lý luận đối với thực tiễn?
Khái niệm:

-Lí luận là gì?

Lý luận là Theo nghĩa chung nhất, lý luận là sự khái quát hóa những kinh
nghiệm thực tiễn, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên, xã hội đã được tích lũy
trong suốt quá trình tồn tại của nhân loại.

Như vậy, lý luận là sản phẩm cao cấp của nhận thức, là tri thức về bản chất, quy
luật của hiện thực khách quan.

Nhưng do là sản phẩm của nhận thức, nên lý luận là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan.

Thực tiễn là gì?

Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục
đích mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.

Bản chất của hoạt động thực tiễn là sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể.
112
+Hoạt động thực tiễn rất đa dạng, song có thể chia thành ba loại:

+ Hoạt động sản xuất vật chất;

+ Hoạt động chính trị – xã hội;

+ Hoạt động thực nghiệm khoa học.

Trong ba loại trên, hoạt động sản xuất vật chất có vai trò quyết định đối với các
loại hoạt động thực tiễn. Còn hoạt động chính trị – xã hội là hình thức cao nhất của thực
tiễn. Hoạt động khoa học là loại hình đặc biệt nhằm thu nhận kiến thức từ tự nhiên và xã
hội.

 Vai trò của lí luận đối với thực tiễn.


- Lý luận là “kim chỉ nam” soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo hoạt động thực tiễn

Bởi vì lý luận nắm bắt được quy luật vận động và phát triển của hiện thực. Do đó, lý
luận giúp cho việc xác định được mục tiêu, phương hướng, làm cho hoạt động trở nên
chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng mò mẫm, tự phát và điều chỉnh hoạt động theo
đúng mục tiêu đã xác định và vạch ra phương hướng mới cho sự phát triển của thực
tiễn.

Lý luận được hình thành và phát triển trên nền tảng thực tiễn nhưng lý luận có tính
độc lập tương đối so với thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Lý luận là sự
tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã
hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”. Lý luận hình thành là kết quả của quá trình nhận
thức lâu dài và khó khăn của con người trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực
tiễn tuy đa dạng nhưng không có tính quy luật. Thông qua kết quả hoạt động thực tiễn,
kể cả thành công cũng như thất bại, con người phân tích cấu trúc, tính chất và các mối
quan hệ của các yếu tố, điều kiện trong các hình thức thực tiễn từ đó tính quy luật của
thực tiễn được khái quát dưới hình thức lý luận.

- Lý luận góp phần phát huy tối đa sức mạnh của cộng đồng trong hoạt động thực tiễn.

113
Lý luận được vận dụng làm phương pháp cho hoạt động thực tiễn, mang lại lợi ích
cho con người càng kích thích con người tích cực bám sát thực tiễn để khái quát lý
luận. Từ đó, lý luận không chỉ là sự giải thích thế giới ngày một rõ hơn mà còn giúp con
người hiểu thêm về ý nghĩa của thế giới đem lại mà không ngừng cải tạo thế giới. Lý
luận có vai trò giác ngộ mục tiêu, lý tưởng, xác định phương pháp, biện pháp thực
hiện, liên kết, tập hợp lực lượng tạo thành sức mạnh to lớn cải tạo tự nhiên, xã hội vì sự
phát triển của các cá nhân và xã hội. Lý luận cách mạng có vai trò to lớn trong việc giáo
dục, thuyết phục, động viên, tổ chức, tập hợp quần chúng khi đã thâm nhập vào quần
chúng trở thành lực lượng vật chất to lớn, cải tạo tự nhiên, xã hội vì sự phát triển của
con người và xã hội.

- Lý luận chỉ ra phương pháp tiến hành hoạt động thực tiễn

Bởi vì lý luận được tóm tắt trong phương pháp. Từ một hệ thống lý luận rút ra các
nguyên tắc chỉ đạo và điều chỉnh hoạt động thực tiễn. Lý luận khoa học sẽ cho phương
pháp khoa học có hiệu quả. Xuất phát từ khả năng tư duy ưu việt của con người mà bản
chất, tính quy luật trong sự vận động, phát triển của thực tiễn được con người nắm bắt.
Nắm quy luật thực chất là nắm các mối quan hệ bản chất, tất yếu, quyết định chiều
hướng vận động, phát triển của thực tiễn. Khi thực tiễn đang vận động, đang phát triển
đến một giai đoạn nhất định, bằng việc sử dụng lý luận mà con người có khả năng dự
báo trước được sự vận động, phát triển của thực tiễn trong tương lai. Lý luận khoa học
dự kiến sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng trong tương lai, từ đó chỉ ra
phương hướng mới cho sự phát triển.

- Những sai lầm khi không nhận thức đúng vai trò của lý luận.

Một là, đánh giá thấp vai trò của lý luận dẫn đến bệnh kinh nghiệm. Bệnh kinh nghiệm
là khuynh hướng tư tưởng tuyệt đối hóa kinh nghiệm, coi thường lý luận khoa học.

114
Hai là, cường điệu hoá lý luận dẫn đến bệnh giáo điều. Bệnh giáo điều là khuynh hướng
tư tưởng cường điệu hóa vai trò của lý luận, coi nhẹ thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực
tiễn, thiếu quan điểm lịch sử - cụ thể.

Ba là, sai lệch trong nhận thức về chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết khoa học, là cơ sở cho nhận thức đấu tranh
giải phóng dân tộc khỏi áp bức, bóc lột, bất công. Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của
sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tế của nước ta. Đảng đã
vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh đưa đất nước
phát triển và đạt được thành tựu to lớn.

Bốn là, sai lệch trong nhận thức về chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp
luật của Nhà nước. Chủ trương, đường lối của Đảng là hình thức lãnh đạo cao nhất và
tập trung nhất của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.

Năm là, nghiên cứu, học tập lý luận không gắn với thực tiễn. Việc thống nhất giữa lý
luận với thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong nghiên
cứu, học tập lý mà tách rời thực tiễn là một sai lệch lớn, làm giảm ý nghĩa và tầm quan
trọng của lý luận. Lý luận khoa học phải được hình thành trên cơ sở thực tiễn, xuất phát
từ thực tiễn, bằng con đường tổng kết thực tiễn.

Sáu là, không nhận thức được trách nhiệm của hoạt động lý luận trong đấu tranh tư
tưởng. Đấu tranh tư tưởng là nhiệm vụ quan trọng của hoạt động lý luận hiện nay.

Câu 39: Thế nào về sự phù hợp giữa QHSX với trình độ của LLSX?

A. Khái niệm

115
“Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở
một quá trình lịch sử nhất định. Phương thức sản xuất bao gồm 2 mặt là lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất.”

“Lực lượng sản xuất: Là mối quan hệ giữa người lao động với tư liệu sản xuất tạo ra
sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên
theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội.”

- Người lao động là con người có tri thức, kỹ năng lao động và năng lực sáng tạo nhất
định trong quá trình sản xuất của xã hội

- Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất bao gồm tư liệu lao
động và đối tượng lao động

“Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất”

+ Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa vào đó
để tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm
đáp ứng theo yêu cầu sản xuất của con người

Ví dụ: những công cụ lao động như cày, cuốc, máy kéo, dệt, máy, xe tải…; những nhiên
liệu sản xuất như xăng, dầu, điện…

Phương tiện lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất cùng với công cụ lao động
mà con người sử dụng để tác động lên đối tượng lao động trong quá trình sản xuất vật
chất

Công cụ lao động là những phương tiện vật chất mà con người trực tiếp sử dụng để tác
động vào đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng để tạo ra của cải vật chất phục vụ
nhu cầu con người và xã hội (Là yếu tố cách mạng nhất trong LLSX)

+ Đối tượng lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà lao động con người
dùng tư liệu lao động tác động lên nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử
116
dụng của con người

Ví dụ: sắt, thép, xi măng, sỏi, bông, len, sợi vải… Đó là những vật liệu, nguyên liệu
“thô” để làm đầu vào của sản xuất

B. Đặc điểm LLSX

- Đặc trưng chủ yếu của LLSX là mối quan hệ giữa người lao động và công cụ lao động.

- Thể hiện năng lực thực tiễn cơ bản nhất là năng lực hoạt động sản xuất vật chất của
con người.

- Người lao động là nhân tố hàng đầu giữ vai trò quyết định vì người lao động là chủ thể
sáng tạo và sử dụng công cụ lao động.

- LLSX luôn có tính khách quan.

- Trình độ của LLSX là sự phát triển của người lao động và công cụ lao động.

- LLSX có tính lịch sử, tính khách quan, tính xã hội.

- LLSX thuộc về con người.

* Người lao động là nhân tố quan trọng nhất trong LLSX vì:

- Người lao động có lợi ích đây là động lực tự thân của LLSX.

- Người lao động có kĩ năng tay nghề kinh nghiệm điều này tạo nên nguồn vốn của sản
xuất.

- Người lao động có trình độ học vấn là điều kiện để phát triển nhanh LLSX.

C. Quan hệ sản xuất

- Kết cấu của quan hệ sản xuất là:

Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất

Quan hệ về tổ chức quản lí sản xuất

Quan hệ về phân phối sản phẩm lao động.

117
 Các mặt này tác động qua lại, chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau.

 Mang tính khách quan, quyết định mọi quan hệ xã hội.

D. Mối quan hệ biện chứng

* Quy luật quan hệ sản xuất (QHSX) phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất (LLSX).

1. Vai trò quyết định của LLSX đối với QHSX

- LLSX là nội dung còn QHSX là hình thức. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình
thức thì nội dung quy định hình thức do đó LLSX quy định QHSX còn QHSX tác động
trở lại to lớn đối với LLSX. Khi LLSX thay đổi thì QHSX phải thay đổi theo cho phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX đó.

- Trong mối quan hệ giữa LLSX và QHSX thì LLSX giữ vai trò quyết định. LLSX phát
triển đến một mức độ nhất định làm cho QHSX phải biến đổi theo phù hợp với nó.

- Sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là sự phù hợp biện chứng, sự
phù hợp bao hàm mâu thuẫn. Đây là sự phù hợp giữa một yếu tố động (LLSX luôn biến
đổi) với một yếu tố mang tính ổn định tương đối (QHSX ổn định hơn, ít biến đổi hơn).

2. Sự tác động ngược trở lại của QHSX đối với LLSX

- Nếu QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì thúc đẩy LLSX phát triển,
nếu ko phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX.

- QHSX tác động trở lại LLSX theo hai xu hướng tích cực hoặc tiêu cực:

+ Sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là sự phù hợp các yếu tố cấu
thành nên QHSX: quan hệ sở hữu, quản lí, phân phối và yếu tố tạo nên LLSX.

+ Sự không phù hợp của QHSX đối với LLSX thể hiện ở: QHSX lạc hậu so với trình độ
của LLSX; Các yếu tố của QHSX không đồng bộ, có yếu tố vượt quá xa so với trình độ
118
của LLSX.

- Sự phát triển không ngừng của LLSX là nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn. Nếu muốn
giải quyết mâu thuẫn để tạo ra một PTSX mới hay sự phù hợp mới thì phải kích thích
LLSX phát triển.

 Quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển xã hội.

Câu 40: Sản xuất vật chất và vai trò của nó đối với sự tồn tại và phát triển của xã
hội loài người?
1. Sản xuất vật chất.
Sự khác biệt cơ bản giữa loài người và loài vật chính là ở chỗ: loài vật chỉ có thể thoả
mãn nhu cầu của nó bằng những cái có sẵn trong tự nhiên, còn con người muốn thoả
mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của mình thì phải sản xuất ra những vật phẩm.
Ph.Ăngghen đã khẳng định: “điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với loài vật
là ở chỗ; loài vật may lắm chỉ hái lượm, trong khi con người lại sản xuất”(1). Sản xuất
là hoạt động riêng có của con người và xã hội loài người, nó bao gồm ba quá trình: sản
xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra chính bản thân con người. Ba quá trình
đó có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó sản xuất vật chất giữ vai trò quyết
định. Vậy, sản xuất vật chất là gì? Sản xuất vật chất là quá trình con người sáng tạo và
sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới
tự nhiên nhằm tạo ra những vật phẩm thoả mãn nhu cầu nào đó cho sự tồn tại và phát
triển của con người và xã hội loài người.
2. Vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của của xã hội loài người
Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, con người chinh phục, cải biến tự nhiên
không phải chỉ với tư cách là những cá nhân riêng lẻ, mà còn với tư cách là những
thành viên trong một cộng đồng xã hội. Sống trong một cộng đồng xã hội, con người tất
yếu có quan hệ với nhau, trao đổi hoạt động với nhau, nhất là trong hoạt động lao động
sản xuất. Con người và xã hội không thể tách rời tự nhiên, họ chỉ có thể tồn tại và phát
triển dựa vào tự nhiên và trên cơ sở làm biến đổi tự nhiên. Không có tự nhiên và xã hội
thì con người không thể tiến hành sản xuất được. Song, đến lượt mình, sản xuất xã hội
lại trở thành điều kiện tiên quyết để con người cải biến tự nhiên, biến đổi xã hội, trở
119
thành nhân tố quyết định trực tiếp sự tồn tại và phát triển của con người, của xã hội loài
người. Trình độ sản xuất của con người càng cao (thì con người càng có điều kiện để
thỏa mãn những nhu cầu vật chất của mình và do vậy, cũng làm phong phú thêm đời
sống xã hội, đời sống tinh thần của mình. Qua đó, con người tự hoàn thiện chính bản
thân mình, phát triển chính mình và thúc đẩy xã hội phát triển.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Trong quá trình sản xuất vật chất con người luôn luôn tìm mọi cách để làm biến đổi tự
nhiên, biến đổi xã hội, đồng thời làm biến đổi bản thân mình. Chính sự phát triển không
ngừng của sản xuất vật chất đã quyết định sự biến đổi, phát triển các mặt của đời sống
xã hội, quyết định sự phát triển xã hội. Do đó, khi nghiên cứu các hiện tượng xã hội,
chúng ta phải xuất phát từ cơ sở sâu xa của nó, đó là sản xuất vật chất.

Câu 41: Trình bày vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử. Ý nghĩa của
vấn đề này trong việc quán triệt bài học “Lấy dân làm gốc”.
1. Khái niệm quần chúng nhân dân và lãnh tụ
Khái niệm quần chúng nhân dân được hiểu trong mối quan hệ với khái niệm lãnh tụ. Đó
là hai yếu tố cơ bản tạo thành lực lượng cách mạng của quá trình cải tạo kinh tế - chính
trị – xã hội.
Quần chúng nhân dân luôn luôn được xác định bởi: Một là, những người lao động sản
xuất ra của cải vật chất và giá trị tinh thần; Hai là, những bộ phận dân cư chống lại giai
cấp đối kháng với nhân dân; Và ba là, những giai cấp, tầng lớp xã hội góp phần thúc
đẩy sự tiến bộ xã hội.
Cũng giống như bất cứ khái niệm khoa học nào, khái niệm quần chúng nhân dân có nội
hàm luôn biến đổi theo sự phát triển của lịch sử xã hội. Nhưng dù có biến đổi thế nào
chăng nữa, thì bộ phận những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị
tinh thần vẫn là lực lượng đông đảo nhất và đóng vai trò hạt nhân cơ bản của khái niệm
quần chúng nhân dân.

120
Khái niệm vĩ nhân nhằm chỉ những người có tri thức uyên bác và có tầm nhìn xa, biết
nắm bắt được những vấn đề căn bản nhất trong một hay một số lĩnh vực nào đó của hoạt
động xã hội. Vĩ nhân có thể là những người làm khoa học, làm chính trị, làm văn hoá -
nghệ thuật… Những vĩ nhân nào có khả năng tập hợp, giác ngộ, tổ chức quần chúng
nhân dân để giải quyết những nhiệm vụ cụ thể do lịch sử đặt ra được gọi là lãnh tụ.
Như vậy, lãnh tụ phải là người có những phẩm chất cơ bản: Một là, có tri thức khoa học
uyên bác, biết nắm bắt được xu thế vận động của dân tộc, quốc tế và thời đại; Hai là, có
năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, biết thống nhất ý chí, hành động của họ để giải
quyết những nhiệm vụ cụ thể do lịch sử đặt ra; Và ba là, luôn gắn bó mật thiết với quần
chúng nhân dân, biết hy sinh quên mình vì lợi ích cao cả của quần chúng nhân dân.
Sự xuất hiện lãnh tụ mang tính khách quan. Bất cứ một thời đại nào, một dân tộc nào,
khi những nhiệm vụ lịch sử được đặt ra đã chín muồi, khi phong trào quần chúng rộng
lớn đòi hỏi thì sớm hoặc muộn những con người kiệt xuất ấy, những lãnh tụ với tài năng
và phẩm chất cần thiết sẽ xuất hiện. Nhưng ai trở thành lãnh tụ lại là điều ngẫu nhiên,
không có người này, sẽ có người khác. V.I.Lênin viết: “Trong lịch sử chưa hề có một
giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo được trong hàng ngũ của
mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh
đạo phong trào” . Tư tưởng này của V.I.Lênin còn cho thấy vai trò cực kỳ quan trọng
của lãnh tụ. Song, điều đó không có nghĩa là nếu thiếu vắng một lãnh tụ cụ thể nào đó
thì hoạt động của quần chúng không được thực hiện.
Việc xuất hiện lãnh tụ không chỉ mang tính khách quan mà còn mang tính lịch sử. Tính
lịch sử thể hiện ở vai trò, phạm vi hoạt động, tác dụng của những lãnh tụ suy cho cùng
do những điều kiện lịch sử qui định. Không có một cá nhân kiệt xuất nào có thể vượt ra
ngoài điều kiện lịch sử này. Hơn nữa, không có lãnh tụ chung cho mọi thời đại. Mỗi giai
đoạn phát triển của xã hội có lãnh tụ riêng với những đặc tính và khả năng riêng, để giải
quyết những nhiệm vụ riêng do chính giai đoạn lịch sử đó đề ra.
Quần chúng nhân dân, lãnh tụ luôn là chủ thể của các tiến trình lịch sử xã hội.
2. Vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử

121
Quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định đối với mọi tiến trình lịch sử. Vai trò đó
được thể hiện ở ba mặt:
Một là, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất
ra của cải vật chất – cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội. Không có người trực
tiếp sản xuất sẽ không có của cải vật chất, không có đời sống vật chất, và do đó cũng
không có đời sống tinh thần, không có xã hội, không có lịch sử. Với tư cách là lực
lượng sản xuất cơ bản, nhân dân lao động gồm cả lao động chân tay và lao động trí óc
đã quyết định sự biến đổi của lịch sử, bởi vì xét đến cùng, lực lượng sản xuất qui định
sự xuất hiện, đảm bảo sự tồn tại của một chế độ xã hội. Dĩ nhiên, khoa học và các nhà
khoa học, nhất là trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay, có
vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Song khoa học
và các nhà khoa học chỉ có thể xuất hiện và phát huy tác dụng thông qua thực tiễn sản
xuất của quần chúng nhân dân lao động, nhất là đội ngũ công nhân hiện đại và trí thức
trong nền sản xuất xã hội, của thời đại kinh tế tri thức. Nếu tách rời hoạt động sản xuất
trực tiếp, khoa học sẽ trở thành giáo điều, vai trò của các nhà khoa học do đó sẽ bị hạn
chế. Điều đó khẳng định hoạt động sản xuất của quần chúng nhân dân là điều kiện cơ
bản để quyết định sự tồn tại và phát triển xã hội.
Hai là, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Thực
tế lịch sử chứng tỏ rằng, không có sự chuyển hoá chế độ và cách mạng xã hội nào trong
lịch sử mà không có hoạt động đông đảo của quần chúng nhân dân. Trong mọi cuộc
cách mạng xã hội, vai trò của quần chúng, tính tích cực của quần chúng được nâng cao
rõ rệt. Trong những thời điểm lịch sử đó, tính sáng tạo và sức mạnh của quần chúng là
động lực trực tiếp và mạnh mẽ thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nếu xem xét căn nguyên của các
cuộc cách mạng xã hội thì chúng ta có thể thấy, chỉ có các chế độ xã hội phản ánh và
đáp ứng nhu cầu, lợi ích của quần chúng nhân dân mới có lý do tồn tại. Do đó, các cuộc
cách mạng xã hội là kết quả tất yếu của phong trào đấu tranh đòi thay đổi chế độ xã hội
của quần chúng, khi chế độ xã hội này đi ngược lại lợi ích của quần chúng.
Ba là, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hoá – tinh thần của xã
hội. Điều này được thể hiện ở chỗ: Quần chúng nhân dân là người sáng tác về văn học,

122
nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự, kinh tế, chính trị, đạo đức…; Hoạt động thực tiễn
và cuộc sống của quần chúng nhân dân là nguồn cảm hứng vô tận cho các thiên tài của
văn hoá và khoa học; hơn nữa, giá trị của các tác giả lớn, cũng như thiên tài loài người
chỉ được xác định nếu nó được quần chúng chấp nhận và phổ biến trong cuộc sống của
họ.
Tóm lại, xét trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế đến chính trị, từ hoạt động vật chất đến
hoạt động tinh thần, quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử.
Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của các thời đại lịch sử khác nhau mà vai trò
chủ thể của quần chúng nhân dân có thể biểu hiện khác nhau. Dưới chủ nghĩa xã hội,
quần chúng nhân dân mới có đủ điều kiện để phát huy tài năng và trí tuệ sáng tạo của
mình. Nhưng, sức mạnh của quần chúng nhân dân chỉ được phát huy khi họ được hướng
dẫn, tổ chức, lãnh đạo. Nói rõ hơn, vai trò sáng tạo ra lịch sử của quần chúng nhân dân
không tách rời vai trò của lãnh tụ.

3. Vai trò rất quan trọng của lãnh tụ trong lịch sử


Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ có nhiệm vụ: Một là, nắm bắt xu
thế của dân tộc, quốc tế và thời đại trên cơ sở hiểu biết những qui luật khách quan của
các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội; Hai là, định hướng chiến lược, hoạch định
chương trình hành động cách mạng; Ba là, tổ chức lực lượng, giáo dục, thuyết phục
quần chúng, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng vào giải quyết những công
việc then chốt nhất. Lãnh tụ có vai trò rất quan trọng trong lịch sử; vai trò đó được thể
hiện ở chỗ:
Một là, lãnh tụ có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tiến bộ xã hội. Nếu lãnh tụ nhận thức
được những qui luật vận động của xã hội, trên cơ sở đó định hướng đúng đắn phong trào
cách mạng thì sẽ thúc đẩy xã hội phát triển; ngược lại, nếu lãnh tụ không nắm bắt được
xu thế vận động của dân tộc, thời đại thì sẽ kìm hãm sự phát triển đối với xã hội, thậm
chí có thể dẫn lịch sử trải qua những bước quanh co, phức tạp.
Hai là, lãnh tụ thường là người sáng lập ra các tổ chức chính trị, xã hội, là linh hồn của
tổ chức xã hội. Do đó, lãnh tụ là người sáng lập, quản lý, điều khiển các tổ chức xã hội

123
và có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các tổ chức đó.
Ba là, lãnh tụ còn là tấm gương mẫu mực để quần chúng phấn đấu, học tập nhằm nâng
cao nhân cách của các thành viên trong tổ chức. Sau khi hoàn thành vai trò của mình,
lãnh tụ trở thành biểu tượng tinh thần sống mãi trong tình cảm và niềm tin (tâm khảm)
của quần chúng nhân dân.
4. Ý nghĩa của bài học “Lấy dân làm gốc”
Vai trò sáng tạo ra lịch sử của quần chúng nhân dân Việt Nam có đặc điểm riêng. Là
một dân tộc nhỏ bé luôn phải đương đầu với các thế lực ngoại xâm mạnh hơn gấp bội,
dân tộc Việt Nam cần phải tập hợp, đoàn kết lại để có sức mạnh tổng hợp để chiến đấu
và chiến thắng mọi kẻ thù. Do vậy, ngay cả dưới chế độ xã hội có sự đối kháng giai cấp,
vai trò của quần chúng nhân dân cũng luôn được đề cao. Chính bản thân giai cấp thống
trị cũng hiểu rằng: “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân, thuận lòng dân thì
sống, ngược lòng dân thì chết” (Nguyễn Trãi; cũng “chỉ sợ lòng dân không theo” (Hồ
Nguyên Trừng)… Có thể nói, lịch sử Việt Nam là lịch sử quần chúng nhân dân, của
toàn dân tộc dựng nước và giữ nước.
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, một lần nữa, Đảng ta khẳng định rằng: Cách
mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do nhân dân lao động làm
chủ. Đồng thời, Đảng ta đặt ra nhiệm vụ: Tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước theo
hướng nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân; Phát huy mọi tiềm năng sáng tạo
của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, phát huy nhân tố con người.
Phương châm “Lấy dân làm gốc” với chủ trương để “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra…”, một lần nữa khẳng định, vai trò sáng tạo ra lịch sử của quần chúng nhân
dân Việt Nam.
Thấm nhuần bài học “Lấy dân làm gốc” để thấy rằng, tệ sùng bái cá nhân, thần thánh
hoá cá nhân người lãnh đạo sẽ dẫn đến tuyệt đối hoá cá nhân kiệt xuất, tuyệt đối hoá vai
trò người lãnh đạo mà xem nhẹ vai trò của tập thể lãnh đạo và của quần chúng nhân
dân. Căn bệnh trên dẫn đến hạn chế hoặc tước bỏ quyền làm chủ của nhân dân, làm cho
nhân dân thiếu tin tưởng vào chính bản thân họ, dẫn đến thái độ phục tùng mù quáng,
tiêu cực, tức không phát huy được tính năng động, sáng tạo chủ quan của mình.

124
Câu 42: Tại sao nói quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo chân chính ra lịch sử?
Phê phán những quan điểm sai lầm về vấn đề này?
1. Quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo chân chính ra lịch sử
Quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo chân chính ra lịch sử, bởi vì: Mọi lý tưởng
giải phóng xã hội, giải phóng con người chỉ được chứng minh thông qua sự tiếp thu và
hoạt động của quần chúng nhân dân. Hơn nữa, tư tưởng xã hội không bao giờ là tư
tưởng thuần tuý của một cá nhân mà là phản ánh điều kiện sinh hoạt vật chất xã hội
dưới các dạng và trình độ khác nhau, được tổng hợp lại qua một số nhà tư tưởng nào đó.
Tư tưởng chỉ có tác dụng tích cực đến lịch sử khi nó phản ánh được nguyện vọng, lợi
ích của quần chúng trong những giai đoạn lịch sử nhất định; và sức mạnh, tính chân lý
của nó chỉ được chứng tỏ thông qua sự tiếp thu và hoạt động của quần chúng. Mặt khác,
tư tưởng tự nó không biến đổi được xã hội mà phải thông qua hoạt động cách mạng của
quần chúng.
Như vậy, chính quần chúng nhân dân mới là người kết hợp lý luận với thực tiễn cải tạo
xã hội, hiện thực hoá những tư tưởng, quan điểm xã hội phù hợp với tiến trình phát triển
xã hội. Lãnh tụ dù uyên bác, tài giỏi nhưng không có uy tín, không được quần chúng
ủng hộ, hoặc do tác phong quan liêu, hách dịch, coi khinh quần chúng thì bản thân lãnh
tụ đó cũng sẽ đánh mất vai trò lãnh tụ của mình.
- Vai trò sáng tạo ra lịch sử của quần chúng nhân dân thể hiện ở ba mặt :
Một là, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất
ra của cải vật chất – cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội. Không có người trực
tiếp sản xuất sẽ không có của cải vật chất, không có đời sống vật chất, và do đó cũng
không có đời sống tinh thần, không có xã hội, không có lịch sử. Với tư cách là lực
lượng sản xuất cơ bản, nhân dân lao động gồm cả lao động chân tay và lao động trí óc
đã quyết định sự biến đổi của lịch sử, bởi vì xét đến cùng, lực lượng sản xuất qui định
sự xuất hiện, đảm bảo sự tồn tại của một chế độ xã hội. Dĩ nhiên, khoa học và các nhà
khoa học, nhất là trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay, có
vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Song khoa học
và các nhà khoa học chỉ có thể xuất hiện và phát huy tác dụng thông qua thực tiễn sản
xuất của quần chúng nhân dân lao động, nhất là đội ngũ công nhân hiện đại và trí thức
125
trong nền sản xuất xã hội, của thời đại kinh tế tri thức. Nếu tách rời hoạt động sản xuất
trực tiếp, khoa học sẽ trở thành giáo điều, vai trò của các nhà khoa học do đó sẽ bị hạn
chế. Điều đó khẳng định hoạt động sản xuất của quần chúng nhân dân là điều kiện cơ
bản để quyết định sự tồn tại và phát triển xã hội.
Hai là, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Thực
tế lịch sử chứng tỏ rằng, không có sự chuyển hoá chế độ và cách mạng xã hội nào trong
lịch sử mà không có hoạt động đông đảo của quần chúng nhân dân. Trong mọi cuộc
cách mạng xã hội, vai trò của quần chúng, tính tích cực của quần chúng được nâng cao
rõ rệt. Trong những thời điểm lịch sử đó, tính sáng tạo và sức mạnh của quần chúng là
động lực trực tiếp và mạnh mẽ thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nếu xem xét căn nguyên của các
cuộc cách mạng xã hội thì chúng ta có thể thấy, chỉ có các chế độ xã hội phản ánh và
đáp ứng nhu cầu, lợi ích của quần chúng nhân dân mới có lý do tồn tại. Do đó, các cuộc
cách mạng xã hội là kết quả tất yếu của phong trào đấu tranh đòi thay đổi chế độ xã hội
của quần chúng, khi chế độ xã hội này đi ngược lại lợi ích của quần chúng.
Ba là, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hoá – tinh thần của xã
hội. Điều này được thể hiện ở chỗ: Quần chúng nhân dân là người sáng tác về văn học,
nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự, kinh tế, chính trị, đạo đức…; Hoạt động thực tiễn
và cuộc sống của quần chúng nhân dân là nguồn cảm hứng vô tận cho các thiên tài của
văn hoá và khoa học; hơn nữa, giá trị của các tác giả lớn, cũng như thiên tài loài người
chỉ được xác định nếu nó được quần chúng chấp nhận và phổ biến trong cuộc sống của
họ.
Tóm lại, xét trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế đến chính trị, từ hoạt động vật chất đến
hoạt động tinh thần, quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử.
Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của các thời đại lịch sử khác nhau mà vai trò
chủ thể của quần chúng nhân dân có thể biểu hiện khác nhau. Dưới chủ nghĩa xã hội,
quần chúng nhân dân mới có đủ điều kiện để phát huy tài năng và trí tuệ sáng tạo của
mình. Nhưng, sức mạnh của quần chúng nhân dân chỉ được phát huy khi họ được hướng
dẫn, tổ chức, lãnh đạo. Nói rõ hơn, vai trò sáng tạo ra lịch sử của quần chúng nhân dân
không tách rời vai trò của lãnh tụ.

126
2. Phê phán những quan điểm sai lầm về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử.
Quan điểm tôn giáo cho rằng, mọi sự thay đổi trong lịch sử xã hội là do ý chí của Đấng
tối cao, do mệnh trời qui định và trao quyền cho các cá nhân – vĩ nhân thực hiện.
Chủ nghĩa duy tâm tiếp tục đề cao vai trò của các vĩ nhân, coi thường quần chúng nhân
dân, coi quần chúng nhân dân chỉ là công cụ, là phương tiện để các vĩ nhân lập nên
những chiến tích lịch sử.
Chủ nghĩa duy vật trước Mác vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm về xã hội khi cho
rằng, nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội là các chân lý vĩnh cửu - tư tưởng đạo
đức, pháp luật…, là các vĩ nhân và chỉ có họ mới sớm nhận thức được chân lý vĩnh cửu
thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.
Tóm lại, các trường phái triết học trước Mác đều chưa nhận thức đúng đắn về vai trò
của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Bằng cách này hay cách khác, họ đã phủ nhận
vai trò của quần chúng nhân dân, coi thường quần chúng nhân dân, coi quần chúng nhân
dân là “đàn cừu ngoan ngoãn”, để các vĩ nhân sai khiến, lợi dụng; coi quần chúng nhân
dân chỉ là vật liệu, phương tiện, bệ tỳ của lịch sử. Các quan điểm trên hoàn toàn xa lạ
với quan điểm của triết học Mác – Lênin.

Câu 43: Phân tích mối quan hệ giữa cá nhân - tập thể – xã hội. Ý nghĩa của vấn đề này ở
nước ta hiện nay?
1. Cá nhân và nhân cách
Trong quá trình tìm hiểu về con người, khái niệm cá nhân giúp ta tiếp cận với đặc điểm
về chất của mỗi con người cụ thể. Đặc điểm ấy được thể hiện qua khái niệm nhân cách.
Khi xem xét con người là đại diện của giống, loài thì con người tồn tại với tư cách là
một cá nhân. Bất cứ một con người nào cũng là một cá nhân, đại diện cho giống, loài
người, đồng thời là một phần tử đơn nhất tạo thành giống, loài ấy. Còn xem xét con
người là thành viên của xã hội, là chủ thể của các quan hệ thì con người tồn tại với tư
cách là nhân cách. Có thể hiểu: cá nhân là phương thức biểu hiện của giống, loài; còn
nhân cách là phương thức biểu hiện của mỗi cá nhân.

127
Nhân cách là toàn bộ những năng lực và phẩm chất của con người cá nhân, đóng vai trò
chủ thể tự ý thức, tự đánh giá, tự khẳng định, tự điều chỉnh mọi hoạt động của mình. Nó
là cái phân biệt giữa cá nhân này với cá nhân khác, giữa thành viên xã hội này với thành
viên xã hội khác.
Song, với tư cách là thành viên của xã hội, là chủ thể của các quan hệ thì không phải bất
cứ cá nhân nào cũng tồn tại như một nhân cách. Chỉ có thể nói đến cá nhân như một
nhân cách từ một thời kỳ nào đó trong quá trình phát triển của con người. Đây là thời kỳ
mà các phẩm chất xã hội đã được hình thành đầy đủ và nhân cách đã trở thành chủ thể
của chính mình. Nhân cách bao giờ cũng là cá nhân đã phát triển về mặt xã hội.
Như vậy, nhân cách không phải được sinh ra mà nó được hình thành. Quá trình hình
thành nhân cách là quá trình xã hội hoá cá nhân, là kết quả tác động của tất cả các quan
hệ xã hội mà cá nhân gia nhập vào. Trong các quan hệ ấy tính tích cực của cá nhân được
bộc lộ và thể hiện trong việc cá nhân phải thường xuyên điều chỉnh hành vi của mình.
Sự phát triển năng lực tự đánh giá gắn liền với sự phát triển của tự ý thức, chúng làm
cho “cái tôi” ngày càng được khẳng định. “Cái tôi” qui định tính cách, định hướng các
giá trị để hình thành các tình cảm xã hội của cá nhân. “Cái tôi” còn là cơ sở của sự tự
đánh giá, mà nhờ vào nó mà cá nhân thấy được mình trong cả quá khứ, hiện tại và
tương lai. Điều này, cũng có nghĩa là thế giới quan của cá nhân từng bước được hình
thành và được củng cố. Đến lượt mình, thế giới quan giữ vai trò quyết định khả năng
hành động có mục đích, có ý thức của cá nhân có nhân cách; đồng thời, nó trở thành
chiếc cầu nối liền nhân cách với xã hội xung quanh.
Như vậy, sự hình thành và phát triển nhân cách là một chỉnh thể thống nhất các quá
trình sinh học – tâm lý – xã hội để xác lập “cái tôi”. Còn sự qui định toàn bộ hoạt động
của “cái tôi” ấy là thế giới quan với tất cả các quan điểm, quan niệm, lý tưởng, niềm tin,
hướng giá trị v.v.. của cuộc sống mà mỗi con người cá nhân phải trải qua trong xã hội.
2. Quan hệ biện chứng giữa cá nhân – tập thể – xã hội
Mối quan hệ giữa cá nhân – tập thể – xã hội không chỉ cho thấy quá trình hình thành
nhân cách mà còn giúp ta hiểu về vai trò vừa là chủ thể, vừa là khách thể tác động của
các lực lượng xã hội, của các quan hệ xã hội của con người trong đời sống cộng đồng.

128
Ở đây, khái niệm cá nhân được hiểu là con người có nhân cách, còn tập thể là hình thức
liên hiệp các cá nhân hình thành từng nhóm xuất phát từ huyết thống, lợi ích, nhu cầu,
nghề nghiệp v.v.. Tập thể có thể là gia đình, đơn vị dân cư, đơn vị sản xuất, v.v.. Khái
niệm xã hội được xác định ở phạm vi rộng, hẹp khác nhau. Rộng nhất là xã hội loài
người, sau đó là những hệ thống xã hội như quốc gia, dân tộc, giai cấp, chủng tộc v.v..
Mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể là khâu trung gian của mối quan hệ giữa cá nhân và
xã hội. Chỉ có thể thông qua tập thể, mỗi thành viên của nó mới gia nhập vào xã hội.
Trong tập thể, cá nhân được hình thành và phát triển về tất cả các mặt và những hình
thức giao tiếp trực tiếp trong tập thể tạo ra diện mạo của mỗi cá nhân. Nếu mỗi cá nhân
mang trong mình dấu ấn của tập thể, thì mỗi tập thể đều mang trong mình dấu ấn của cá
nhân, bởi bản thân tập thể được hình thành từ chính những con người cụ thể, tức từ
những cá nhân.
Bản chất của quan hệ giữa cá nhân và tập thể là quan hệ lợi ích. Lợi ích sẽ liên kết hoặc
chia rẽ các thành viên của nó. Trong tập thể có bao nhiêu thành viên thì bấy nhiêu lợi
ích; và lợi ích được thể hiện qua nhu cầu đa dạng của mỗi cá nhân trong tập thể.
Khả năng của tập thể thoả mãn nhu cầu cho mỗi cá nhân thường thấp hơn nhu cầu của
mỗi cá nhân, song không phải do vậy mà cá nhân tách ra khỏi tập thể. Cá nhân luôn cần
đến và có nhu cầu tập thể vì mỗi cá nhân không thể tồn tại hoặc phát triển một cách cô
lập. Đó là cơ sở hình thành tính tập thể, tính cộng đồng, tính nhân đạo của nhân cách; và
đó cũng là mối quan hệ biện chứng đầy mâu thuẫn giữa cá nhân và tập thể. Tuỳ theo
tính chất của mâu thuẫn này mà quan hệ giữa cá nhân và tập thể được duy trì, củng cố
hay tan rã.
Trong mối quan hệ giữa cá nhân – tập thể – xã hội thì xã hội thể hiện với tư cách là tập
thể của những tập thể. Đối với cá nhân, xã hội vừa là tổng thể những điều kiện xã hội
của cá nhân, vừa là kết quả sự phát triển của bản thân từng cá nhân đó. C.Mác nói rằng:
“Bản thân xã hội sản xuất ra con người với tính cách là con người như thế nào thì con
người cũng sản xuất ra xã hội như vậy” .
Trong mối quan hệ biện chứng này, xã hội luôn giữ vai trò quyết định, và nền tảng của
các quan hệ này là quan hệ lợi ích. Thực chất của việc tổ chức trật tự xã hội là sắp xếp

129
các quan hệ lợi ích sao cho khai thác được cao nhất khả năng của mỗi thành viên vào
quá trình kinh tế – xã hội và thúc đẩy quá trình đó phát triển cao hơn. Xã hội là điều
kiện, là môi trường, là phương thức để lợi ích cá nhân được thực hiện. Xã hội càng phát
triển thì quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội càng đa dạng và phức tạp. Mỗi cá nhân
ngày càng tiếp nhận được nhiều giá trị vật chất và tinh thần để thoả mãn nhu cầu của
mình. Đây không chỉ là động lực mà còn là mục đích của sự liên kết mọi thành viên của
xã hội với nhau.
Mỗi cá nhân đều có ảnh hưởng đến xã hội, nhưng không như nhau. Mức độ và khuynh
hướng ảnh hưởng của cá nhân đến xã hội tuỳ thuộc vào mức độ phát triển của nhân
cách. Những cá nhân có nhân cách vĩ đại có tác dụng tích cực đến sự phát triển của xã
hội; còn những cá nhân có nhân cách thoái hoá thì gây ra những vật cản đối với sự phát
triển đó.
Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội có mặt khách quan và mặt chủ quan
của nó. Mặt khách quan biểu hiện ở trình độ đạt được nền sản xuất xã hội, còn mặt chủ
quan biểu hiện ở khả năng nhận thức và vận dụng qui luật về sự kết hợp giữa lợi ích. Do
đó, mọi trường hợp nhân danh lợi ích xã hội, không quan tâm đến lợi ích cá nhân; hoặc
ngược lại, chỉ biết đến lợi ích cá nhân, coi nhẹ lợi ích của xã hội đều gây trở ngại cho
việc phát triển của xã hội nói chung, của mỗi thành viên trong xã hội nói riêng.
Bảo đảm sự công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi công dân; phát huy nhân tố
con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất trong mọi hoạt động là
yêu cầu cơ bản trong việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cá nhân – tập thể- xã
hội.
3. Ý nghĩa của vấn đề này ở nước ta hiện nay
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH và ngay cả dưới chế độ XHCN, những mâu thuẫn giữa
cá nhân và xã hội vẫn còn tồn tại. Do đó, để giải quyết đúng đắn quan hệ cá nhân – xã
hội cần phải tránh hai thái độ cực đoan: Một là, chỉ thấy cá nhân mà không thấy xã hội,
đem cá nhân đối lập với xã hội, chỉ trọng lợi ích cá nhân, coi nhẹ lợi ích xã hội. Hai là,
chỉ thấy xã hội mà không thấy cá nhân, nhân danh lợi ích xã hội, không quan tâm đến

130
lợi ích cá nhân… Cả hai thái độ cực đoan trên đây đều gây trở ngại cho việc phát triển
xã hội nói chung, sự phát triển của mỗi thành viên của nó nói riêng.
Ở nước ta hiện nay đang tồn tại nền kinh tế thị trường. Bên cạnh những tác dụng tích
cực của nó như thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động, tạo
điều kiện cho xã hội có khả năng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho cá nhân ngày
càng đa dạng và phong phú; và do lợi ích cá nhân được quan tâm đầy đủ hơn nên đã
tăng tính năng động, tính tích cực tự giác của cá nhân, tạo điều kiện phát triển nhân
cách. Tuy nhiên, cơ chế thị trường cũng dẫn đến xu hướng tuyệt đối hoá lợi ích cá nhân,
lợi ích trước mắt dẫn tới phân hoá thu nhập trong xã hội, từ đó dẫn tới mâu thuẫn giữa
các lợi ích cá nhân, cũng như mâu thuẫn giữa cá nhân và tập thể, giữa cá nhân và xã hội;
những mâu thuẫn này nếu không kịp thời giải quyết sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát
triển của nhân cách nói riêng, của xã hội nói chung. Do đó, chúng ta phải phát huy
những ưu thế, đồng thời phải phát hiện và tìm cách hạn chế khuyết tật của nền kinh tế
thị trường nhằm tạo điều kiện phát huy vai trò nhân tố con người, thực hiện chiến lược
con người của Đảng ta theo tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã
chỉ ra: Xây dựng con người Việt Nam có tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, có
ý thức tự cường dân tộc, trách nhiệm cao trong lao động, có lương tâm nghề nghiệp, có
tác phong công nghiệp, có ý thức cộng đồng, tôn trọng nghĩa tình, có lối sống văn hoá,
quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội.
Bảo đảm sự công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi công dân, phát huy nhân tố
con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất trong mọi hoạt động là
yêu cầu cơ bản trong việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cá nhân – tập thể và xã
hội.

Câu 44: Trình bày các kiểu và hình thức nhà nước đã có trong lịch sử. Nêu đặc điểm của
Nhà nước CHXHCN Việt Nam.
1. Các kiểu và hình thức nhà nước
a) Các kiểu nhà nước
131
Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về giai cấp nào, tồn
tại trên cơ sở chế độ kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế – xã hội nào. Kiểu nhà
nước do chế độ kinh tế của xã hội sinh ra nó qui định. Do đó, tương ứng với 3 hình thái
kinh tế – xã hội có giai cấp đối kháng thì có 3 kiểu nhà nước: nhà nước chiếm hữu nô lệ,
nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản. Còn nhà nước XHCN là kiểu nhà nước đặc
biệt, nhà nước kiểu mới.
Kiểu nhà nước chủ nô, kiểu nhà nước phong kiến, kiểu nhà nước tư sản mặc dù có
những đặc điểm riêng nhưng chúng đều là những “nhà nước theo đúng nghĩa”, được xây
dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và là công cụ để duy trì sự thống
trị của giai cấp bóc lột đối với đông đảo quần chúng nhân dân lao động.
Khác với các kiểu nhà nước của các giai cấp bóc lột, kiểu nhà nước XHCN là nhà nước
kiểu mới, nhà nước của nhân dân lao động, thực hiện dân chủ và công bằng xã hội cho
tất cả công dân. Sứ mệnh lịch sử của nhà nước XHCN là ở chỗ vừa chuyên chính bằng
bạo lực, trấn áp đối với thù trong, giặc ngoài, vừa tổ chức, xây dựng thành công CNXH,
CNCS; trong đó chức năng tổ chức, xây dựng là căn bản nhất.
b) Các hình thức nhà nước
Hình thức nhà nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức và phương thức thực
hiện quyền lực nhà nước. Nói cách khác, đó là hình thức cầm quyền của giai cấp thống
trị. Tuỳ theo điều kiện kinh tế, chính trị trong và ngoài nước, trước hết là tương quan
lực lượng giữa các giai cấp trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, cũng như đặc điểm và
truyền thống của mỗi dân tộc giai cấp thống trị tổ chức nền chuyên chính của mình dưới
một hình thức nhất định.
Hình thức nhà nước có ảnh hưởng trong việc củng cố, bảo vệ và thực thi quyền lực nhà
nước. Chính vì vậy mà các giai cấp cầm quyền rất quan tâm đến việc tìm kiếm hình
thức nhà nước cho phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước để thực thi quyền
lực thống trị chính trị của mình một cách hiệu quả nhất. Hình thức nhà nước khác nhau
có ảnh hưởng đến việc thực thi quyền lực nhà nước, nhưng không làm thay đổi bản chất
quyền lực nhà nước.

132
- Nhà nước chiếm hữu nô lệ - nền chuyên chính của giai cấp chủ nô tồn tại dưới những
hình thức khác nhau như chính thể quân chủ và chính thể cộng hoà. Song dù tồn tại
dưới chính thể nào thì giai cấp nô lệ cũng không có quyền về kinh tế và chính trị, không
được tham gia vào công việc nhà nước. Không những thế, chủ nô còn có quyền mua bán
nô lệ như “công cụ lao động” và thậm chí có quyền giết nô lệ.
- Nhà nước phong kiến có những hình thức quân chủ phân quyền và quân chủ tập
quyền. Song dù tồn tại dưới hình thức nào, nhà nước phong kiến vẫn là nền chuyên
chính của giai cấp địa chủ phong kiến nhằm bảo vệ chế độ chiếm hữu ruộng đất phong
kiến và những đặc quyền, đặc lợi của nó. Đó là chế độ chuyên chế cá nhân: vua, chúa có
quyền tuyệt đối, ý chí của nhà vua là pháp luật. Chế độ cha truyền con nối là một đặc
quyền đặc lợi nổi bật của các nhà nước quân chủ nói chung.
Ở phương Đông (tiêu biểu là Trung Quốc và Ấn Độ), hình thức quân chủ tập quyền là
hình thức nhà nước phổ biến dựa trên chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất. Trong nhà
nước này, quyền lực của vua được tăng cường rất mạnh, hoàng đế có uy quyền tuyệt
đối, ý chí của vua là pháp luật. Tuy nhiên, tính tập quyền đó trong thực tế lịch sử là dựa
vào sức mạnh quân sự là chủ yếu. Do vậy, nguy cơ căn cứ phân quyền luôn thường trực.
Mỗi khi chính quyền nhà nước trung ương suy yếu thì nguy cơ căn cứ lập tức xuất hiện
biến thành các cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực giữa các thế lực địa chủ địa
phương.
- Nhà nước tư sản cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng nói chung
cũng chỉ có hai hình thức cơ bản nhất là hình thức cộng hòa và hình thức quân chủ lập
hiến. Hình thức cộng hoà lại được tổ chức dưới những hình thức khác nhau như: cộng
hoà đại nghị, cộng hoà tổng thống; trong đó hình thức cộng hoà đại nghị là hình thức
điển hình và phổ biến nhất.
Sự khác nhau về hình thức của nhà nước tư sản không làm thay đổi bản chất của nó – đó
là nền chuyên chính của giai cấp tư sản đối với các giai cấp và tầng lớp khác trong xã
hội. Đề cập tới bản chất đó của nhà nước tư sản, V.I.Lênin viết: “Những hình thức của
các nhà nước tư sản thì hết sức khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một: chung quy lại thì

133
tất cả những nhà nước ấy, vô luận thế nào, cũng tất nhiên phải là nền chuyên chính tư
sản” .
Cơ quan tuyên truyền tư sản tìm mọi cách làm cho người ta tin rằng chế độ cộng hoà
dân chủ tư sản là hình thức nhà nước dân chủ, tự do, là nhà nước lý tưởng. Ngày nay,
nhà nước tư sản thường có vẻ bề ngoài như là một cơ cấu cho phép nhân dân tỏ rõ ý chí
của mình một cách định kỳ, nhưng những hình thức và thể chế dân chủ đó hoàn toàn
không làm thay đổi bản chất của nhà nước tư sản như V.I.Lênin đã chỉ ra trên đây.
Không những thế, chế độ cộng hoà dân chủ còn là một hình thức hoàn bị nhất của nền
chuyên chính tư sản. Nhà nước tư sản tuyên bố quyền bình đẳng trước pháp luật của
mọi công dân, nhưng trong thực tế đó chỉ là quyền bình đẳng tư sản, bảo đảm những lợi
ích của giai cấp tư sản. Do đó, V.I.Lênin viết: “Pháp luật bảo vệ mọi người như nhau;
nó bảo vệ tài sản của những người có của chống laị sự xâm phạm của cái khối lớn,
những người không có của, không có gì cả ngoài hai cánh tay, và dần dần bị bần cùng
hoá, bị phá sản và biến thành vô sản” .
- Nhà nước vô sản có thể tồn tại dưới những hình thức khác nhau. Công xã Pari 1871 đã
đi vào lịch sử như hình thức đầu tiên của nhà nước vô sản. Hình thức thứ hai của
chuyên chính vô sản là xô viết do cách mạng tháng mười Nga năm 1917 sáng lập. Và có
một số nhà nước vô sản tồn tại dưới hình thức dân chủ nhân dân v.v..
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội mang lại cho nhà nước chuyên chính vô sản nhiều
hình thức mới. Tính đa dạng của nhà nước đó tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của
thời điểm xác lập nhà nước ấy; tuỳ thuộc vào tương quan lực lượng giữa các giai cấp và
khối liên minh giai cấp tạo thành cơ sở xã hội của nhà nước; tuỳ thuộc vào nhiệm vụ
kinh tế – chính trị – xã hội mà nhà nước đó phải thực hiện; tuỳ thuộc vào truyền thống
chính trị của dân tộc. Hình thức cụ thể của nhà nước trong thời kỳ quá độ có thể rất
khác nhau, nhưng bản chất của chúng chỉ là một - chuyên chính cách mạng của giai cấp
vô sản.
Nhà nước vô sản là một nhà nước đặc biệt, nhà nước “không nguyên nghĩa”, là nhà
nước “nửa nhà nước”. Sau khi những cơ sở kinh tế – xã hội của sự xuất hiện và tồn tại
nhà nước mất đi thì nhà nước sẽ không còn. Sự mất đi của nhà nước vô sản không phải

134
bằng con đường bị thủ tiêu, bị xoá bỏ mà bằng con đường tự tiêu vong. Sự tiêu vong
của nhà nước vô sản là một quá trình lâu dài gắn liền với sự phát triển chín muồi của lực
lượng sản xuất và sự tiêu vong mọi giai cấp.
2. Đặc điểm của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam
Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam có năm đặc điểm:
Một là, nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân, một tổ chức thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân lao động do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Hai là, nhà nước ta tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc thống nhất quyền lực, tập
trung dân chủ, nhưng có phân công rõ và phát huy hiệu lực của cả ba quyền: lập pháp,
hành pháp, tư pháp.
Ba là, nhà nước ta vừa là bộ máy chính trị – hành chính, vừa là một tổ chức quản lý
kinh tế – chính trị – xã hội – văn hoá. Nhà nước thực hiện hai chức năng: tổ chức xây
dựng và trấn áp. Trong đó, chức năng tổ chức xây dựng là chủ yếu; vì có tổ chức xây
dựng thành công xã hội mới, mới đảm bảo thắng lợi hoàn toàn và triệt để của CNXH.
Bốn là, nhà nước ta có sự thống nhất giữa tính chất dân tộc và tính chất quốc tế; vì lợi
ích chân chính của dân tộc do nhà nước ta đại diện hoàn toàn nhất trí với lợi ích quốc tế
của giai cấp công nhân.
Năm là, nhà nước ta là một tổ chức, thông qua đó, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện
vai trò lãnh đạo của mình đối với tiến trình phát triển của dân tộc. Sự lãnh đạo của Đảng
quyết định bản chất giai cấp công nhân của bộ máy nhà nước.
Để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nghị quyết TW 3 (khoá VIII)
của Đảng ta đã đề ra 3 chủ trương lớn trong việc xây dựng nhà nước là:
Một là, tiếp tục phát huy tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân qua các hình thức dân chủ
đại diện và dân chủ trực tiếp để nhân dân tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ nhà
nước, nhất là việc giám sát, kiểm tra của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan và cán
bộ, công chức nhà nước.
Hai là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam trong
sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả; cán bộ, công chức nhà nước phải thực sự là
công bộc, tận tụy phục vụ nhân dân.

135
Ba là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, xây dựng và hoàn thiện nội
dung, phương thức lãnh đạo của Đảng phù hợp với đặc điểm, tính chất của các cơ quan
nhà nước ở từng cấp, chú trọng sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng đối với việc kiểm kê,
kiểm soát trong quản lý kinh tế, tài chính.

Câu 45: Cách mạng xã hội là gì? Vai trò của nó trong sự phát triển của xã hội?
1. Cách mạng xã hội là gì?
Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính chất bước ngoặt và căn bản về
chất trong toàn bộ các lĩnh vực đời sống xã hội; là phương thức chuyển từ một hình thái
kinh tế - xã hội lỗi thời lên một hình thái kinh tế – xã hội cao hơn, tiến bộ hơn.
- Ví dụ, Cách mạng tư sản Pháp nổ ra năm 1789, lật đổ chế độ phong kiến và kết
thúc vào năm 1870, khi hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa thắng lợi hoàn
toàn.
Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị đã lỗi thời, thiết
lập một chế độ chính trị tiến bộ hơn.
- Ví dụ, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở nước ta lật đổ chính quyền thực dân
phong kiến, xác lập chính quyền công – nông mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Như vậy, cách mạng xã hội không phải là bước phát triển bình thường mà là bước phát
triển nhảy vọt, không chỉ là bước nhảy vọt ở một lĩnh vực riêng lẻ nào đó của xã hội mà
là bước nhảy vọt căn bản của toàn bộ xã hội. Cách mạng xã hội là đỉnh cao của đấu
tranh giai cấp khi đấu tranh giai cấp phát triển đến mức gay gắt thì cách mạng xã hội nổ
ra.
Cách mạng xã hội nổ ra do nhiều nguyên nhân về chính trị, về kinh tế, về tư tưởng, về
xã hội…, nhưng trong đó, nguyên nhân kinh tế là nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân
sâu xa nhất. Bởi vì, cách mạng xã hội là sự biểu hiện mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng
sản xuất mới với quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời trở thành trở lực đối với sự phát triển
xã hội, “từ chỗ là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ sản xuất

136
ấy trở thành xiềng xích của các lực lượng sản xuất, khi đó bắt đầu thời đại của một cuộc
cách mạng xã hội” .
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất đã phát triển với
quan hệ sản xuất đang kìm hãm nó, biểu hiện về mặt xã hội thành sự xung đột của các
giai cấp. Giai cấp thống trị ra sức duy trì quan hệ sản xuất đã lỗi thời là đối tượng của
cách mạng. Các giai cấp bị trị mà lợi ích gắn liền với sự xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ và
xác lập quan hệ sản xuất mới là lực lượng của cách mạng. Đấu tranh giai cấp phát triển
đến mức độ quyết liệt nhất thì chuyển thành cách mạng xã hội: các giai cấp cách mạng
lật đổ sự thống trị của giai cấp phản động, xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, tạo điều kiện cho
lực lượng sản xuất phát triển.
Tiến hoá xã hội cũng là hình thức phát triển của xã hội, nhưng khác với cách mạng xã
hội, tiến hoá xã hội là quá trình phát triển diễn ra một cách tuần tự, dần dần với những
biến đổi cục bộ của một hình thái kinh tế – xã hội nhất định.
Tiến hoá xã hội và cách mạng xã hội là những hình thức khác nhau nhưng lại liên hệ
mật thiết với nhau trong sự phát triển xã hội, nói lên tính vừa liên tục vừa gián đoạn của
lịch sử xã hội. Không có quá trình tiến hoá thì không thể có cách mạng. Cách mạng xã
hội chỉ trở thành cái tất yếu lịch sử với những tiền đề nhất định được tạo ra trong quá
trình tiến hoá. Ngược lại, không có cách mạng thì không có tiến hoá không ngừng. Chỉ
có cách mạng xã hội mới mở đường cho quá trình tiến hoá xã hội lên giai đoạn cao hơn.
Cách mạng xã hội cũng khác với cải cách xã hội. Cải cách xã hội cũng tạo nên sự thay
đổi về chất nhất định trong đời sống xã hội. Song sự khác nhau về nguyên tắc giữa cách
mạng xã hội với cải cách xã hội ở chỗ: cải cách xã hội chỉ tạo nên những biến đổi riêng
lẻ, bộ phận và chậm chạp trong khuôn khổ chế độ xã hội đang tồn tại. Những cải cách
xã hội có ý nghĩa thúc đẩy quá trình tiến hoá, từ đó tạo tiền đề dẫn tới cách mạng. Kinh
nghiệm lịch sử cho thấy, những cải cách xã hội thường là kết quả của phong trào đấu
tranh của các lực lượng xã hội tiến bộ và trong những hoàn cảnh nhất định chúng trở
thành những bộ phận hợp thành của cách mạng xã hội.
Cũng cần phân biệt cách mạng xã hội với những cuộc đảo chính hay chính biến. Trong
cách mạng những giai cấp tiên tiến, những tầng lớp nhân dân đông đảo tham gia một

137
cách tự giác và sáng tạo. Cách mạng là ngày hội của quần chúng. Còn đảo chính hay
chính biến thường chỉ là sự thay thế nhóm cầm quyền này bằng một nhóm cầm quyền
khác trong nội bộ giai cấp thống trị nhằm tranh giành quyền lợi hoặc hoàn thiện bộ máy
nhà nước để củng cố sự thống trị của giai cấp bóc lột.
2. Vai trò của cách mạng xã hội
Các cuộc cách mạng xã hội có vai trò to lớn trong đời sống xã hội. Chỉ có cách mạng xã
hội mới thay thế được quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới, tiến bộ, thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển, mới thay thế được hình thái kinh tế - xã hội cũ bằng hình
thái kinh tế - xã hội mới cao hơn. Cách mạng xã hội là bước chuyển vĩ đại trong đời
sống xã hội về kinh tế - chính trị - văn hoá - tư tưởng. Trong thời kỳ cách mạng xã hội,
năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân được phát huy một cách cao độ như C.Mác
coi cách mạng xã hội là “đầu tàu” của lịch sử.
Lịch sử xã hội loài người đã trải qua các quá trình chuyển biến cách mạng xã hội: Thứ
nhất, từ cộng đồng nguyên thuỷ lên chế độ chiếm hữu nô lệ; Thứ hai, từ chế độ chiếm
hữu nô lệ lên chế độ phong kiến; Thứ ba, từ chế độ phong kiến lên chế độ tư bản chủ
nghĩa; Thứ tư, từ chế độ tư bản chủ nghĩa lên chế độ xã hội chủ nghĩa. Và lịch sử càng
tiến lên thì đặc trưng và vai trò của cách mạng xã hội càng trở nên đầy đủ và rõ rệt hơn.
Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo, thực hiện mục đích
cao cả là giải phóng giai cấp vô sản và quần chúng lao động khác. Đó cũng là sự giải
phóng con người nói chung khỏi sự bóc lột, áp bức và bất công. Tất cả các cuộc cách
mạng trước chỉ là sự thay thế hình thức người bóc lột người. Cách mạng vô sản có mục
đích cuối cùng là xoá bỏ mọi hình thức người bóc lột người, xây dựng một xã hội không
còn giai cấp. Đó là sự chuyển biến sâu sắc nhất trong lịch sử phát triển nhân loại. Vì
vậy, khác với các cuộc cách mạng trước, đối với cách mạng vô sản, việc giành được
chính quyền mới chỉ là bước mở đầu cho quá trình biến đổi cách mạng toàn bộ đời sống
xã hội; cách mạng vô sản không thể không dẫn đến sự chuyên chính cách mạng của giai
cấp vô sản. Song, nếu như nền chuyên chính do các cuộc cách mạng trước tạo ra chỉ có
thể bị thủ tiêu bằng cách mạng, thì chuyên chính vô sản chỉ là bước quá độ để đi tới xoá
bỏ giai cấp và chuyên chính giai cấp.

138
Câu 45: Tính chất, lực lượng và động lực của cách mạng xã hội là gì. Phân tích điều
kiện khách quan và nhân tố chủ quan của cách mạng xã hội?
1. Tính chất, lực lượng và động lực của cách mạng xã hội là gì?
- Tính chất của một cuộc cách mạng xã hội do nhiệm vụ của cuộc cách mạng đó quyết
định - cuộc cách mạng phải giải quyết những mâu thuẫn giai cấp nào, đưa đến sự thành
lập một chế độ xã hội nào. Chẳng hạn cuộc cách mạng 1789 ở Pháp là cuộc cách mạng
tư sản vì giai cấp tư sản và các tầng lớp lao động do giai cấp tư sản lãnh đạo đã thực
hiện nhiệm vụ lật đổ giai cấp địa chủ phong kiến, xóa bỏ chế độ phong kiến, xây dựng
chế độ tư bản. Cuộc cách mạng này nhằm giải quyết mâu thuẫn cơ bản giữa giai cấp địa
chủ phong kiến với giai cấp tư sản cũng như với giai cấp công nhân.
- Lực lượng của cuộc cách mạng xã hội là những giai cấp và tầng lớp nhân dân có lợi
ích ít hoặc nhiều gắn bó với cách mạng cùng đứng lên làm cách mạng. Lực lượng của
cách mạng do tính chất và điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi cuộc cách mạng quyết định.
Có những cuộc cách mạng cùng một kiểu nhưng do hoàn cảnh lịch sử cụ thể trong nước
và trên thế giới khác nhau nên có những lực lượng cách mạng khác nhau.
- Động lực của cách mạng xã hội là những giai cấp và tầng lớp có lợi ích gắn bó chặt
chẽ với cách mạng, có tinh thần cách mạng cao nhất, có khả năng lôi cuốn các giai cấp
và các tầng lớp nhân dân khác cùng đứng lên làm cách mạng và là lực lượng có tác
dụng quyết định thắng lợi của cách mạng.
-Vai trò lãnh đạo cách mạng xã hội thuộc về giai cấp đứng ở vị trí trung tâm của thời
đại, đại biểu cho phương thức sản xuất mới, là giai cấp vạch ra đường lối, dẫn dắt tất cả
các giai cấp và các tầng lớp nhân dân khác làm cách mạng. Trước kia, trong các cuộc
cách mạng tư sản, giai cấp tư sản là giai cấp lãnh đạo vì nó đại biểu cho phương thức
sản xuất tiến bộ thời bấy giờ, có khả năng tập hợp các tầng lớp nhân dân lao động làm
cách mạng xóa bỏ chế độ phong kiến, thiết lập chế độ tư bản. Ngày nay, trong thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, vai trò lãnh
đạo cách mạng thuộc về giai cấp công nhân, giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất
mới, giai cấp tiên tiến nhất của thời đại có đầy đủ tư cách và năng lực lãnh đạo cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thắng lợi hòan tòan.

139
Việc xác định tính chất, lực lượng, động lực và vai trò lãnh đạo cách mạng có ý nghĩa
quan trọng. Đó là cơ sở để Đảng của giai cấp công nhân định ra đường lối chiến lược,
sách lược, phương pháp cách mạng đúng đắn quyết định sự thành công của cách mạng.
Cách mạng xã hội có nguồn gốc sâu xa từ kinh tế và xã hội, nhưng cách mạng chỉ có thể
nổ ra và giành được thắng lợi khi có đủ các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan
cần thiết.
2. Điều kiện khách quan
Điều kiện khách quan của cách mạng xã hội bao gồm tình thế cách mạng và thời cơ
cách mạng.
a) Tình thế cách mạng
Tình thế cách mạng là lúc mâu thuẫn giai cấp trong xã hội trở nên gay gắt, tạo nên một
cuộc khủng hoảng chính trị toàn quốc, làm lay chuyển cả giai cấp thống trị và giai cấp
bị trị, đặt ra vấn đề phải thay đổi chính quyền, thay đổi chế độ. V.I.Lênin đã chỉ ra 3 đặc
trưng của tình thế cách mạng:
Một là, giai cấp thống trị không thể duy trì được nền thống trị của nó dưới hình thức
như trước nữa, sự khủng hoảng chính trị của giai cấp thống trị đã mở đường cho nỗi bất
bình và sự phẫn nộ của các giai cấp bị áp bức, bộ máy nhà nước của chúng bị suy yếu
nghiêm trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng cách mạng lật đổ chúng.
Hai là, nỗi cùng khổ, quất bách của các giai cấp bị áp bức trở nên nặng nề hơn mức bình
thường.
Ba là, do các nguyên nhân nói trên, tính tích cực của quần chúng được nhân lên rất
nhiều. Chính sự khủng hoảng của giai cấp thống trị đã đẩy quần chúng đến chỗ phải có
một hành động lịch sử độc lập.
b) Thời cơ cách mạng
Thời cơ cách mạng là cơ hội thuận lợi nhất, tốt nhất, chín muồi nhất, trong một thời
điểm nhất định có thể đưa đến sự bùng nổ và thắng lợi của cách mạng; là lúc tình thế
cách mạng phát triển đến đỉnh cao đặt ra vấn đề phải chuyển chính quyền từ tay giai cấp
lỗi thời sang tay giai cấp cách mạng, thực hiện bước ngoặt chính trị của cách mạng. Đó
là những điều kiện khách quan mà thiếu chúng thì cách mạng không thể nổ ra.

140
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, việc nhận định đúng thời cơ cách mạng để phát động
quần chúng nổi dậy giành thắng lợi quyết định cho cách mạng có ý nghĩa hết sức quan
trọng. Thời cơ có thể do hoàn cảnh bên ngoài đưa lại, mang nhiều yếu tố bất ngờ, song
nó phải được xem xét trong tương quan lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng ở
trong nước. Một trong những bài học kinh nghiệm về phương pháp cách mạng của
Đảng ta là “nắm vững phương châm chiến lược đánh lâu dài, đồng thời biết tạo thời cơ
và nắm vững thời cơ mở những cuộc tiến công chiến lược làm thay đổi cục diện chiến
tranh, tiến lên thực hiện tổng tiến công và nổi dậy đè bẹp quân địch giành thắng lợi cuối
cùng” .
3. Nhân tố chủ quan
Nhân tố chủ quan của cách mạng xã hội là trình độ giác ngộ, trình độ tổ chức của đội
tiên phong của giai cấp cách mạng, có khả năng nêu ra khẩu hiệu đúng và có phương
pháp cách mạng đúng để phát động, tập hợp quần chúng nổi dậy lật đổ nền thống trị của
giai cấp bóc lột phản động.
Nhân tố chủ quan gắn liền với mỗi kiểu cách mạng xã hội. Trong cách mạng vô sản,
nhân tố chủ quan là năng lực lãnh đạo của giai cấp công nhân mà đại diện là Đảng Cộng
sản.
Giữa tiền đề khách quan của cách mạng với nhân tố chủ quan của đội tiền phong lãnh
đạo cách mạng có quan hệ biện chứng không tách rời. Tiền đề khách quan của cách
mạng là những yếu tố khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của giai cấp
lãnh đạo, nhưng sự chín muồi của tình thế cách mạng vừa do mâu thuẫn kinh tế và giai
cấp hình thành, đồng thời lại có sự tác động thúc đẩy của nhân tố chủ quan là giai cấp
lãnh đạo cách mạng. Mặt khác, nhân tố chủ quan cũng trưởng thành trong những tiền đề
khách quan của cách mạng.
V.I.Lênin viết: “Không phải tình thế cách mạng nào cũng nổ ra cách mạng, mà chỉ có
trường hợp là cùng với tất cả những thay đổi khách quan nói trên, lại còn có thêm một
thay đổi chủ quan, tức là: giai cấp cách mạng có khả năng phát động những hành động
cách mạng có tính chất quần chúng khá mạnh mẽ để đập tan hoặc lật đổ chính phủ cũ -

141
chính phủ mà ngay cả trong thời kỳ có những cuộc khủng hoảng cũng sẽ không bao giờ
“đổ” nếu không đẩy cho nó ngã”.
Điều kiện khách quan của một cuộc cách mạng xã hội không phải bao giờ cũng được
hình thành một cách tự phát. Đại đa số trường hợp là kết quả nỗ lực của nhân tố chủ
quan, tức là phải có chuẩn bị và tập hợp lực lượng, phải biết tạo ra thời cơ, tránh thụ
động, trông chờ, mà phải năng động, sáng tạo, linh hoạt, biết chớp đúng thời cơ để phát
động quần chúng nổi dậy giành chính quyền. Nếu tình thế cách mạng chưa chín muồi
mà tiến hành khởi nghĩa thì cách mạng sẽ gặp nhiều tổn thất nặng nề. Vì vậy, nhân tố
chủ quan đóng vai trò rất quan trọng, nó được coi là nhân tố chủ đạo.
Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng rất coi trọng điều kiện khách quan, nhưng
cũng rất chú ý tới nhân tố chủ quan trong việc biến đổi các điều kiện khách quan, thúc
đẩy nhanh quá trình xuất hiện tình thế cách mạng. Nghệ thuật lãnh đạo cách mạng là
phải biết chủ động tạo thời cơ và biết chớp thời cơ để giành thắng lợi từng bước, tiến tới
giành thắng lợi hoàn toàn.
Thắng lợi rực rỡ của cách mạng tháng Tám năm 1945 là một ví dụ điển hình cho sự kết
hợp tài tình giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan dưới sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp công nhân và nhân dân lao động nước ta đã biết
chớp đúng thời cơ cách mạng; khi tình thế cách mạng đã chín muồi nhất, đã nhất loạt
vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc.

Câu 46: Bạo lực cách mạng là gì? Vai trò của nó trong cách mạng xã hội.
a) Bạo lực cách mạng
Cách mạng xã hội có thể diễn ra dưới những hình thức khác nhau, nhưng dù dưới hình
thức nào thì cách mạng cũng không thể đạt đến thắng lợi, nếu không sử dụng bạo lực
cách mạng.
Bạo lực cách mạng là sức mạnh của quần chúng có tổ chức được dẫn dắt bởi một đường
lối chính trị tiên tiến hướng dẫn, lãnh đạo để cưỡng chế, cưỡng bức giai cấp phản động,
buộc chúng phải phục tùng ý chí của giai cấp cách mạng một khi vấn đề chính quyền
được đặt ra một cách trực tiếp.
b) Vai trò của bạo lực cách mạng
142
Bạo lực cách mạng là một quy luật phổ biến. Tính phổ biến của nó bắt nguồn từ chỗ bất
kỳ cuộc cách mạng nào cũng phải giải quyết vấn đề chính quyền. Để giành và giữ được
chính quyền - một nhiệm vụ cơ bản của mọi cuộc cách mạng -, giai cấp lãnh đạo cách
mạng và quần chúng phải tạo cho mình một điều kiện không thể thiếu được, đó là bạo
lực cách mạng. Bởi lẽ xét về mặt lôgic cũng như lịch sử, các giai cấp phản động thống
trị không bao giờ tự nguyện rời bỏ chính quyền nếu không có sự cưỡng bức bằng bạo
lực, và một chính quyền mới cũng sẽ không tồn tại nếu không có đủ sức mạnh bạo lực
để tự bảo vệ mình.
Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng triệt để nhất, sâu sắc nhất trong lịch sử loài người.
Ngay từ đầu, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Angghen đã khẳng
định rằng, mục đích của những người cộng sản “chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo
lực lật đổ tòan bộ trật tự xã hội hiện có”. Không có bạo lực cách mạng thì không thể
thay nhà nước tư sản bằng nhà nước vô sản và như vậy giai cấp vô sản sẽ không thể
hòan thành được sứ mệnh lịch sử của mình.
Bạo lực cách mạng có thể được thể hiện và thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.
Có thể nói bạo lực cách mạng phải dựa vào hai lực lượng - lực lượng quân sự và lực
lượng chính trị, và bao gồm hai hình thức đấu tranh - đấu tranh quân sự và đấu tranh
chính trị, cũng như sự kết hợp giữa hai hình thức ấy.
Đương nhiên, không phải bất cứ hình thức đấu tranh chính trị nào cũng đều là bạo lực.
Chỉ được coi là bạo lực những hành động của quần chúng ngoài pháp luật nhà nước của
giai cấp thống trị nhằm mục đích trực tiếp đánh đổ chính quyền của bọn thống trị giành
chính quyền về tay nhân dân, khi vấn đề giành chính quyền đã được đặt ra.
Khẳng định tính tất yếu của bạo lực cách mạng không có nghĩa là gạt bỏ khả năng giành
chính quyền bằng phương pháp hòa bình. Khả năng này có thể xảy ra trong những
trường hợp mà giai cấp thống trị không có bộ máy bạo lực đáng kể hoặc là có bộ máy
bạo lực nhưng đã mất hết ý chí chống lại quần chúng cách mạng, sẵn sàng chịu nhận
một biện pháp thỏa hiệp. V.I.Lênin cho rằng, khả năng giành chính quyền bằng phương
pháp hòa bình là rất qúy, cần phải tranh thủ, vì nó là con đường ít đau khổ đối với nhân
dân và có lợi nhất, nhưng đó là một khả năng rất hiếm.

143
Những người không tán thành cách mạng, thường xuyên tạc tư tưởng của C.Mác về bạo
lực, miêu tả cách mạng như một “hành vi phá hoại”. Đúng như bản chất nhân đạo của
mình, chủ nghĩa Mác muốn làm cách mạng xã hội chủ nghĩa một cách hoà bình để tránh
tổn thất cho xã hội và cho con người; nhưng điều đó tuỳ thuộc trước hết ở cách phản
ứng của giai cấp thống trị.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một tổng hợp những biến đổi sâu sắc về chính trị, kinh
tế, xã hội và tư tưởng, nó bao trùm một thời kỳ lịch sử lâu dài, mở đầu bằng việc giành
chính quyền, nhưng sau đó việc giữ chính quyền và thực hiện những cải biến cách mạng
các mặt của đời sống xã hội thì còn khó hơn và lâu dài hơn. Đối với cách mạng xã hội
chủ nghĩa thì việc giành chính quyền mới chỉ là bắt đầu.
Cuộc cách mạng này ở các nước tư bản phát triển diễn ra sớm hay muộn và diễn ra dưới
hình thức nào, điều đó phụ thuộc một phần vào “những sự thay đổi trong sách lược của
các giai cấp thống trị nói chung và của giai cấp tư sản nói riêng” , và cũng phụ thuộc
vào mức độ trưởng thành và khả năng ứng phó của giai cấp công nhân ở những nước
đó.
Ở nước ta, khi tổng kết kinh nghiệm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đại hội lần
thứ IV của Đảng CSVN đã chỉ rõ những bài học và việc vận dụng sáng tạo tư tưởng bạo
lực cách mạng. Trong điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam đó là: “Sử dụng bạo
lực cách mạng tổng hợp bao gồm lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang
nhân dân ”.

Câu 46: Mục đích và yêu cầu của việc học tập, nghiên cứu môn học Những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin?

Học tập, nghiên cứu môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin cần
phải theo phương pháp gắn những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin với thực
tiễn đất nước và thời đại

Học tập, nghiên cứu môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin cần
phải hiểu đúng tinh thần, thực chất của nó; tránh bệnh kinh viện, giáo điều trong học
tập, nghiên cứu và vận dụng các nguyên lý đó trong thực tiễn
144
Học tập, nghiên cứu môn học mỗi nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong mối
quan hệ với các nguyên lý khác; mỗi bộ phận lý luận cấu thành này phải gắn kết với các
bộ phận lý luận cấu thành còn lại để thấy sự thống nhất của các bộ phận đó trong chủ
nghĩa Mác-Lênin; đồng thời cũng nên nhận thức các nguyên lý đó trong tiến trình phát
triển của lịch sử tư tưởng nhân loại.

145

You might also like