Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 15

CHƯƠNG 2

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO Ý THỨC HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
NĂM THỨ NHẤT TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO THÔNG VẬN TẢI

Giới thiệu về trường Đại học Giao thông vận tải và đặc điểm của sinh viên.
Trường Đại học giao thông vận tải là một trong những trường thuộc khối kỹ
thuật, có truyền thống hơn 75 năm, đào tạo ra các thế hệ kỹ sư chất lượng phục vụ đắc
lực cho ngành giao thông vận tải của cả nước. Có được những thành công ấy, đòi hỏi
sự nỗ lực không ngừng của các thế hệ thầy trò trong suốt gần một thế kỷ.
Hiện nay, trước những đòi hỏi cao về chất lượng của nguồn nhân lực trong xu
thế toàn cầu, của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, trường đại học giao thông vận
tải đặt ra mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo để thích ứng với hoàn cảnh mới. Đổi
mới chương trình đào tạo, nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập trên cơ sở xác
định chuẩn đầu ra, cân đối giữa mở rộng quy mô và đảm bảo chất lượng đào tạo là
những giải pháp trổng thể được nhà trường chú trọng.
Triết học Mác - Lênin là môn học thuộc khoa lý luận chính trị có nhiệm vụ trang
bị cho sinh viên thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng để áp dụng
vào hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn một cách có hiệu quả. Trước đây, do
nhiều lý do khách quan, từ năm học 2009 - 2010 đến năm học 2018-2019, nội dung
thuộc về triết học Mác-Lênin chỉ tạo thành một phần trong môn học có tên là “ Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin” với thời lượng 2 tín chỉ.
Theo công văn của Bộ giáo dục và đào tạo số 3056, ngày 19/7/2019, môn triết
học Mác- Lênin chính thức trở thành môn học độc lập với thời lượng 3 tín chỉ theo
hướng khuyến khích áp dụng phương pháp dạy học hiện đại. Vì vậy, ở trường Đại học
giao thông vận tải, triết học Mác - Lênin được được giảng dạy kể từ khoá 59 đến nay.
Năm học 2020-2021, nhà trường chính thức triển khai chương trình đào tạo theo
CDIO – một giải pháp nâng cao chất lượng theo hướng xác định chuẩn đầu ra. Triết
học Mác-Lênin chính thức được phân nhiệm hình thành và phát triển kỹ năng giao
tiếp cho sinh viên trên cơ sở trang bị những nội dung căn bản của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, từ đó xây dựng thái độ đúng đắn cho sinh viên.
Để làm rõ về ý thức học tập môn triết học Mác-Lênin của sinh viên năm nhất
trường đại học giao thông vận tải, nhóm nghiên cứu thực hiện khảo sát sau.
2.1. Thực trạng về ý thức học tập môn triết học của sinh viên năm thứ nhất
trường đại học giao thông vận tải.
Nhóm nghiên cứu đã xây dựng bộ câu hỏi khảo sát và tiến hành thực hiện khảo
sát 269 phiếu đối với sinh viên khóa 63. Bên cạnh đó, còn thu thập các số liệu về kết
quả đánh giá của phòng đào tạo nhà trường.
Trong chương trình đào tạo của nhà trường, triết học Mác-Lênin được cấu trúc
thành 3 chương: Chương 1 trình bày những nét khái quát nhất về triết học, triết học
Mác – Lênin, và vai trò triết học Mác – Lênin trong đời sống xã hội. Chương 2 trình
bày những nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng gồm vấn đề vật chất và
ý thức, phép biện chứng duy vật, lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chương 3 trình bày những nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, gồm vấn đề
hình thái kinh tế xã hội, giai cấp dân tộc, nhà nước và cách mạng xã hội, ý thức xã hội,
triết học về con người.
Triết học có thời lượng 3 tín chỉ, được bố trí thành 30 tiết lý thuyết giảng dạy
trên lớp và 26 tiết thảo luận, 60 tiết tự học của sinh viên.
Để tìm hiểu thực trạng học tập của sinh viên, nhóm nghiên cứu đề tài đã thực
hiện khảo sát sau:
Đối với câu hỏi: bạn có yêu thích môn triết học không? Đại đa số sinh viên đều
cho rằng đây là môn học yêu thích. Mặc dù đặc trưng của triết học Mác-Lênin rất trừu
tượng, rất khái quát, nặng về lý thuyết và vì vậy rất khó. Có 82% tổng số phiếu, tương
đương với 220 phiếu lựa chọn đúng. Rất ít số còn lại chọn không và ý kiến khác
(18%) tổng số phiếu, tương đương 49 phiếu.

7%

11%


Không
Ý kiến khác

82%

Đối với câu hỏi: phương pháp học tập môn triết của bạn là gì ? Các bạn sinh
viên chưa có phương pháp học đổi mới. Gần như đều có phương pháp chung là ghi bài
đầy đủ và học thuộc. Triết học là một môn học trừu tượng, khái quát, nặng về mặt lí
thuyết nên phương pháp học cần phải có tính tư duy logic, phương pháp học đổi mới
để có thể nâng cao ý thức chất lượng của sinh viên năm thứ nhất trường đại học Giao
thông Vận tải.

Đối với câu hỏi: Môn triết học có vai trò gì trong cuộc sống của bạn không? Có
63% tổng số phiếu xác định được những vai trò của triết học trong cuộc sống. Tuy
nhiên bên cạnh đó vẫn còn 22% số phiếu chưa xác định được vai trò của triết học và
15% số lượng khảo sát chưa hiểu rõ về những vai trò của triết học trong đời sống.
Như vậy, vẫn còn một số sinh viên năm nhất Đại học giao thông vận tải chưa
nhận thức được đúng đắn bản chất, vai trò của môn triết học. Điều này được thể hiện
qua biểu đồ sau:

14%


22% Không
Ý kiến khác
63%

Đối với câu hỏi: theo bạn những yếu tố nào ảnh hưởng đến ý thức học tập môn
triết học? Đại đa số sinh viên tham gia điền phiếu khảo sát đều cho rằng yếu tố quan
trọng nhất ảnh hưởng trực tiếp tới ý thức học môn triết học chính là chưa hiểu rõ về
môn học này, chiếm tỉ lệ 75% với tổng số 200 lượt bình chọn, chỉ có một phần nhỏ
sinh viên lười học và chưa có sự tập trung trong môn này.
Chưa hiểu rõ về Lười học Chưa tập trung Ý kiến khác
môn triết học

7%
9%

9%

74%

Hiện nay, học tập môn triết học Mác-Lênin đối với sinh viên trường Đại học
giao thông vận tải có rất nhiều điều kiện thuận lợi. Trong xu thế toàn cầu, với sự hỗ
trợ của khoa học, công nghệ, các phương tiện thông tin đại chúng, sinh viên có thể
tiếp cận với nhiều nguồn thông tin để giúp họ làm sáng tỏ nhiều vấn đề liên quan đến
nội dung môn học. Các giảng viên thuộc bộ môn triết học có trình độ chuyên môn cao,
tác phong sư phạm tốt, sử dụng nhiều phương pháp dạy học hiện đại. Vì vậy, sinh viên
có thể trao đổi trực tiếp và gian tiếp (thông qua mạng xã hội) với giáo viên giảng dạy
của lớp mình. Vì thế, trong những năm gần đây, tỷ lệ thi đạt cuối kỳ của sinh viên đối
với môn triết học tăng lên đáng kể. Đối với khoá 60 tỷ lệ thi đạt vòng đầu tăng lên
85%. Khoá 61 học kỳ I tỷ lệ thi đậu vòng đầu của sinh viên lên tới 87%.
Tuy nhiên, việc học tập môn triết học của sinh viên vận còn nhiều hạn chế. Môn
triết học chỉ được bố trí với thời lượng 3 tín chỉ. Vì là môm học có tính trừ tượng, có
tính khái quát cao nên số giờ 30 tiết trên lớp chưa đáp ứng được việc hiểu sâu và cặn
kẽ của sinh viên (vì giáo viên không có thời gian để giải thích hết tất cả các câu hỏi
của sinh viên). Mặc khác, những thông tin mà sinh viên thu được ở trên mạng dù rất
phong phú nhưng chưa được chọn lọc, đánh giá. Hơn nữa, cho đến thời điểm hiện tại,
giáo trình triết học Mác-Lênin đối với sinh viên khối trường kỹ thuật không chuyên
vẫn chưa có. Tất cả những thiêú sót đó gây cản trở đến quá trình nâng cao chất lượng
học tập của sinh viên đối với môn triết học Mác-Lênin .
Để giảng dạy lí luận tốt, các giảng viên phải có trình độ lý luận, đồng thời cần
phải có vốn sống, vốn hiểu biết xã hội dày dặn, không chỉ có kinh nghiệm thực tiễn
mà còn cần cả tư duy trừu tượng hóa, khái quát hóa.

2.1.1. Xác định vị trí vai trò, thái độ học tập của môn Triết học Mác-Lênin.

Triết học Mác - Lênin là môn học bắt buộc đối với tất cả các sinh viên ở
trường Đại học Giao thông Vận tải. Đây là một hệ thống tri thức lý luận chung nhất
của con người về thế giới quan cũng như vị trí, vai trò của con người trong thế giới
ấy, những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức,
và ngôn ngữ. Triết học cũng được hiểu là một hình thái ý thức xã hội, với khách thể
khám phá đó là thế giới bao gồm cả thế giới bên trong và bên ngoài con người. Triết
học giải thích tất cả mọi sự vật, hiện tượng, quá trình và quan hệ của thế giới, với mục
đích tìm ra những quy luật phổ biến nhất chi phối sự vật.
Khi bàn về sự cần thiết của việc giảng dạy triết học cho sinh viên trường Đại
học Giao thông Vận tải , một số ý kiến cho rằng, đào tạo đại học là đào tạo nghề, đào
tạo các chuyên gia làm việc trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân
nên chỉ cần giảng dạy các môn học chuyên ngành là đủ. Luận điểm này thoạt nghe
dường như có lý, nhưng thực ra là sai lầm. Thực tế cho thấy, Nhà nước không đơn
giản chỉ cần đến những chuyên gia, mà hơn hết là cần những công dân có trách
nhiệm với tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước. Để giáo dục ý thức công
dân thì cần có triết học và các môn khoa học xã hội, nhân văn khác. Lịch sử Tổ quốc
hướng mỗi người ý thức về cội nguồn của mình trong một cộng đồng dân tộc xác
định, vị trí của thế hệ mình trong dãy những thế hệ thay thế lẫn nhau, hiểu được tính
đặc thù và độc đáo của thời đại.
Sinh viên ở các thời đại khác nhau và ở các nước khác nhau đều thường đi tiên
phong trong các phong trào và các tiến trình chính trị. Triết học đóng vai trò quan
trọng trong việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận, nhân sinh quan, hệ
thống giá trị văn hóa nhân văn cho sinh viên, nó như “la bàn” giúp họ định hướng
tính tích cực xã hội và chính trị của mình vào mục đích xây dựng, sáng tạo. Triết học
đem lại cho sinh viên tri thức về các mối quan hệ xã hội, về bản chất, chức năng của
nhà nước và của pháp luật, về mục đích tồn tại của con người, về cái thiện và cái ác,
về mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nước và xã hội, về tự do và trách nhiệm. Vì vậy,
triết học có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách sinh
viên.
Sinh viên trường Đại học Giao thông Vận tải hiện nay là một bộ phận thanh
niên đã được tuyển chọn qua các kỳ thi quốc gia và được đào tạo trong môi trường
đại học. Họ là lớp người đang trưởng thành, đang chuẩn bị hành trang nghề nghiệp
cần thiết và chín muồi về nhân cách. Là bộ phận dân cư có tuổi đời trẻ chủ yếu
khoảng từ 18 - 23, sinh viên được xã hội đào tạo theo hệ thống cơ bản để trở thành
những nhà quản lý xã hội, lực lượng sản xuất hiện đại và quan trọng trong tương lai.
Với tư cách bộ phận xã hội đặc thù, sinh viên có những đặc điểm riêng. Một là, số
lượng sinh viên thay đổi từng năm, tùy thuộc vào quá trình tuyển sinh và theo xu
hướng tăng dần. Hai là, sinh viên là đội dự bị trí thức tương lai. Vì vậy, họ mang
trong mình những đặc điểm của tầng lớp trí thức, như có khả năng lĩnh hội và sáng
tạo tri thức khoa học, kỹ thuật và công nghệ, khá nhạy cảm với những vấn đề chính
trị - xã hội... Họ là nhóm xã hội dễ tiếp thu tư tưởng mới (kể cả tích cực lẫn tiêu cực).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “óc những người tuổi trẻ trong sạch như một tấm lụa
trắng. Nhuộm xanh thì nó sẽ xanh. Nhuộm đỏ thì nó sẽ đỏ”. Vì vậy, các lực lượng xã
hội khác nhau, các đảng phái khác nhau đều tìm cách lôi kéo sinh viên, mong muốn
sự ủng hộ từ phía họ cho các hoạt động của mình. Ba là, sinh viên chưa có một “vị trí
thực” trong cơ cấu nghề nghiệp cũng như trong xã hội. Bởi lẽ, họ chưa có một nghề
nghiệp ổn định, chưa có một vị trí riêng trong quá trình sản xuất của nền sản xuất xã
hội. Hoạt động chủ yếu nhất của họ là hoạt động học tập và bước đầu tham gia
nghiên cứu khoa học, nắm vững một lĩnh vực tri thức
nghề nghiệp nhất định để sau này trở thành chuyên gia của nghề nghiệp đó.
Tóm lại, sinh viên có vị trí "song hành", vị trí "kép" trong xã hội. Một mặt, họ
là những thanh niên sinh viên đang dần hoàn thiện nhân cách, là lực lượng sản xuất
hiện đại, người chủ của đất nước trong tương lai. Mặt khác, họ là nguồn lực cơ bản
để bổ sung vào đội ngũ trí thức trong tương lai. Họ chính là nguồn nhân lực chất
lượng cao đầy tiềm năng sáng tạo và ứng dụng khoa học - công nghệ để góp phần
thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế hiện nay.
Mỗi cá nhân ở những địa vị xã hội khác nhau đều có sự thể hiện nhân cách đặc trưng
phù hợp với vị thế xã hội của mình. Ví dụ, nhân cách người cán bộ lãnh đạo, nhân
cách người giáo viên... Sinh viên - một bộ phận xã hội đặc thù cũng có phương diện
thể hiện tính đặc thù trong nhân cách của mình. Nhân cách sinh viên là trường hợp cụ
thể của nhân cách, là hình thức biểu hiện tính Người ở một tầng lớp xã hội đặc biệt.
Có thể hiểu nhân cách sinh viên là tổng thể những phẩm chất đạo đức và tài năng, thể
chất và tinh thần được hình thành một cách lịch sử - cụ thể, qui định giá trị và những
hành vi xã hội của sinh viên, được thể hiện, thực hiện trong hoạt động học tập, hoạt
động giao tiếp, ứng xử, hoạt động xã hội của cá nhân mỗi sinh viên.
Nhân cách sinh viên Việt Nam trong điều kiện hiện nay, ngoài những đặc điểm
chung của nhân cách, thì còn có những biểu hiện riêng về phẩm chất đạo đức và năng
lực, như sinh viên hiện nay năng động, sáng tạo và thực tế hơn. So với các thế hệ
sinh viên trước đổi mới, sinh viên hiện nay có tính thực tế cao. Chọn ngành học là
biểu hiện đầu tiên của tính thực tế. Họ tập trung nhất vào những ngành học mà ra
trường có thể xin việc được ngay vì xã hội đang cần, những nghề có thu nhập cao,
chỉ số ít sinh viên chọn nghề theo mơ ước.
Sinh viên hiện nay rất năng động. Họ năng động trong phương thức tiếp nhận
tri thức để hoàn thành tốt nhiệm vụ chính là học tập; năng động trong quá trình tham
gia vào hoạt động xã hội: Làm thêm dưới nhiều hình thức thời gian (nửa ngày, vài
ngày trong một tuần, buổi tối), phong phú về nghề (làm gia sư, bán hàng, giúp việc
nhà...). Một số sinh viên có tham vọng trở thành những nhà kinh doanh giỏi đã mở
cửa hàng kinh doanh thể hiện tính chủ động, sáng tạo cao trong công việc của mình.
Tính sáng tạo của sinh viên được thể hiện ở việc rất nhiều sinh viên tham gia
nghiên cứu khoa học và đạt giải cao trong các kỳ thi quốc tế, quốc gia, giải thưởng
Tài năng trẻ Việt Nam hàng năm do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức...
Sinh viên hiện nay đề cao vai trò cá nhân: Kinh tế thị trường có tác động mạnh mẽ
đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay. Sinh
viên luôn có ý thức cao việc khẳng định nhân cách bằng cách trau dồi kiến thức
chuyên môn, khẳng định vị trí của mình trước xã hội. Đồng thời, họ thể hiện rõ vai
trò cá nhân, lợi ích cá nhân trong hành động. Lợi ích chung và sự quan tâm, chia sẻ
với những người xung quanh dường như bị lấn át bởi việc thực hiện những lợi ích
riêng, nhu cầu cá nhân ở một bộ phận sinh viên.
Sinh viên xác định rõ phương pháp thực hiện lý tưởng của mình: Lý tưởng cao
cả của sinh viên Việt Nam hiện nay là giữ vững nền độc lập dân tộc và xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội. Trong đó, đạo đức cộng sản là yếu tố cấu thành quan
trọng nên lý tưởng của sinh viên. Khẳng định điều này vì đạo đức là thành phần đặc
biệt trong nhân cách của sinh viên, cái để phân biệt sự khác nhau giữa nhân cách này
với nhân cách khác xuất phát từ điểm gốc là "đức" trong mỗi con người.
Trong thời đại hiện nay, mỗi sinh viên hiểu rằng, sống có lý tưởng trước
hết phải trân trọng và bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc, bởi đó là thành quả được đổi
bằng biết bao mồ hôi và xương máu của các thế hệ cha ông trong dựng nước và giữ
nước. Thứ hai, sinh viên phải dốc lòng học tập, rèn luyện để góp sức mình thực hiện
thành công sự nghiệp đổi mới, đưa đất nước tiến những bước vững chắc trong quá
trình hội nhập, phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa. Họ hiểu muốn củng cố và bảo
vệ nền độc lập tự do của dân tộc chỉ có một con đường duy nhất đúng là đưa đất
nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Lý tưởng của sinh viên được biểu hiện rõ nhất ở khát
vọng học tập, nghiên cứu, ở sự nỗ lực, chuyên cần, sáng tạo trong học tập nhằm nắm
vững những tri thức vươn lên chiếm lĩnh những đỉnh cao của khoa học - công nghệ,
nhanh chóng hội nhập với xu thế phát triển của nền văn minh nhân loại. Bởi vì, trong
xu thế phát triển hiện nay, dân tộc nào vươn lên đến đỉnh cao trí tuệ thì dân tộc đó sẽ
chiến thắng. Đúng như khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Một dân tộc dốt là
một dân tộc yếu"(2).
Khi nghiên cứu tính quy luật của sự hình thành nhân cách, nhân cách sinh
viên, chúng ta thấy rằng nhân cách chỉ được hình thành và phát triển cùng với quá
trình giáo dục và tự giáo dục, quá trình giao tiếp, quá trình hoạt động thực tiễn bộc lộ
những "phẩm chất người" của mỗi con người..; trong đó, giáo dục giữ vai trò chủ
đạo. Giáo dục triết học Mác - Lênin cho sinh viên là một yếu tố hợp thành quan trọng
của nền giáo dục đại học nước ta nói chung và Trường Đại học Giao thông Vận tải
nói riêng. Hướng đến việc xây dựng những thế hệ sinh viên có nhân cách trong sáng,
có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của quá
trình hội nhập và phát triển đất nước. Cơ sở để khẳng định điều đó là:
Thứ nhất, giáo dục triết học Mác - Lênin trong trường Đại học Giao thông
Vận tải nhằm góp phần hình thành thế giới quan khoa học trong nhân cách sinh viên
Việt Nam
Giáo dục triết học Mác - Lênin trước hết là giáo dục những nguyên lý, phạm
trù cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm xây dựng lập trường thế giới quan cho
sinh viên. Đó chính là thế giới quan duy vật biện chứng - nền tảng để sinh viên nhận
thức và tiếp thu những nguyên lý, quy luật khác. Thế giới quan là toàn bộ hệ thống tri
thức, những quan niệm của con người về thế giới và về vị trí của chính con người
trong thế giới đó. Là một hệ thống tri thức, quan niệm về thế giới nhưng thế giới
quan được hiểu là kết quả của quá trình nhận thức đặc thù của con người, chứ không
phải là phép cộng giản đơn tổng số các tri thức khoa học cụ thể.
Việc giáo dục triết học Mác - Lênin trong trường Đại học Giao thông Vận tải
có vị trí đặc biệt quan trọng đối với quá trình hình thành và phát triển thế giới quan
khoa học - thế giới quan duy vật biện chứng của sinh viên. Bởi lẽ, triết học Mác -
Lênin nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, nó cung
cấp cho con người một cách nhìn khoa học đối với hiện thực khách quan và khẳng
định vai trò, vị trí của con người trong hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới. Từ
đó, giúp họ có thái độ đúng đắn, khoa học đối với hiện thực, có phương hướng chính
trị vững vàng, có khả năng nhận biết, phân tích và giải quyết các vấn đề mới nảy sinh
trong thực tiễn xã hội trên tinh thần thế giới quan Mác - Lênin.
Với tư cách một hệ thống lý luận, một học thuyết, triết học Mác - Lênin đã lý
giải một cách khoa học nhất về thế giới và vị trí của con người trong thế giới đó. Như
vậy, triết học Mác - Lênin đóng vai trò là cơ sở lý luận, là "hạt nhân" của thế giới
quan. Gọi là "hạt nhân" của thế giới quan, bởi vì ngoài triết học Mác - Lênin, thế giới
quan Mác - Lênin còn có các quan điểm về chính trị, kinh tế, đạo đức, luật pháp,
thẩm mỹ... Song, tất cả các quan điểm trên đều được xây dựng trên nền tảng khoa
học của triết học Mác - Lênin. Quan điểm và niềm tin khoa học của triết học Mác -
Lênin đã tạo dựng cơ sở nền tảng cho toàn bộ hệ thống thế giới quan Mác - Lênin.
Triết học đã lý giải về mặt lý luận toàn bộ các dữ kiện của hiện thực khách quan và
hoạt động thực tiễn của con người một cách lịch sử - cụ thể và khoa học nhất. Vấn đề
cơ bản của triết học, như Ph.Ăngghen đã nói, là vấn đề về mối quan hệ giữa tư duy
và tồn tại. Việc con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không cũng là
những vấn đề của thế giới quan. Thế giới quan của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà cốt lõi
là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, là hệ thống lý luận
khoa học và cách mạng; nó đã, đang và sẽ là một công cụ tư duy quan trọng nhất
định hướng cho toàn Đảng, toàn dân ta nói chung và sinh viên nói riêng trong hoạt
động nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn. Vì vậy, xây dựng và phát triển
thế giới quan Mác - Lênin chính là nhân tố đặc biệt quan trọng trong quá trình hình
thành và phát triển nhân cách nói chung và nhân cách sinh viên Việt Nam nói riêng.
Tuy nhiên, thế giới quan khoa học không hình thành một cách tự động, tức cứ
trang bị tri thức là có thế giới quan; trái lại, đó còn phải là quá trình chuyển tri thức
thành niềm tin khoa học trong mỗi sinh viên. Cơ sở để hình thành và phát triển thế
giới quan là những nhận thức về tự nhiên và xã hội, là kết quả của quá trình giáo dục
và những kinh nghiệm được tích lũy trong thực tiễn của sinh viên. Đó chính là quá
trình hình thành và phát triển các quan điểm, quan niệm, niềm tin về vai trò và khả
năng của con người trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới. Nói cách khác, tri
thức, niềm tin, lý tưởng và tình cảm là những yếu tố cơ bản nhất cấu thành nên thế
giới quan. Trong đó, tri thức tự nó chưa thể trở thành thế giới quan. Nó chỉ gia nhập
thế giới quan khi trở thành niềm tin trong mỗi người. Nhờ có niềm tin, tri thức mới
trở thành cơ sở cho hành động của mỗi người. Khi biến thành niềm tin, tri thức đóng
vai trò động cơ, động lực tinh thần cho hoạt động của con người, giúp con người xác
định lý tưởng sống. Đạt đến "độ" này, mỗi sinh viên thể hiện trình độ sâu sắc trong
nhận thức và tri thức, hình thành thế giới quan và khi đó, thế giới quan trở thành
nhân tố định hướng quan trọng trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Thứ hai, giáo dục triết học Mác - Lênin còn góp phần xây dựng nhân sinh quan
cộng sản chủ nghĩa cho sinh viên, xây dựng trong họ những quan niệm đúng đắn về
cuộc đời, về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống. Cụ thể là, triết học Mác - Lênin
giúp sinh viên hiểu được mục đích cao nhất của con người là xây dựng một xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh; trong đó, mọi người đều có một cuộc sống đầy đủ về
vật chất và tinh thần. Đó là một xã hội mà "sự phát triển tự do của mỗi người là điều
kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người".
Giáo dục triết học Mác - Lênin sẽ góp phần từng bước xây dựng và bồi dưỡng
nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa cho sinh viên thông qua việc trang bị cho họ
những kiến thức cơ bản về lý luận cách mạng xã hội, về bản chất và chức năng của
nhà nước, về con người và các quan hệ xã hội của con người, về giai cấp, dân tộc, về
xu hướng phát triển tất yếu của xã hội... Đồng thời, từng bước xây dựng cho sinh
viên cách nhìn, lối sống cũng như cách vận dụng những định hướng giá trị xã hội đã
được nhận thức vào thực tiễn cuộc sống. Chẳng hạn, từ tri thức về những quy luật
chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, cung cấp cho sinh viên một cách nhìn
khoa học đối với hiện thực khách quan và khẳng định vai trò, vị trí của con người
trong việc nhận thức và cải tạo thế giới. Hoặc là, khi phân tích kết cấu của mỗi hình
thái kinh tế - xã hội, với tất cả các quy luật tác động và chi phối nó, C.Mác đã kết
luận: Sự thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên.
Chính những kết luận như vậy tự nó đã mang đến cho mỗi sinh viên một niềm tin
vào sự phát triển. Từ đó giúp họ có thái độ đúng đắn, khoa học đối với hiện thực
cũng như khả năng phân tích và giải quyết các vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần thế
giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng. Điều này tạo ra trong mỗi sinh
viên thái độ lạc quan cách mạng để vượt qua những thử thách, cam go trên con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. ở đây, với những tri thức được học, sinh viên sẽ
hiểu rằng lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học được xây dựng trên cơ sở kế thừa một
cách chọn lọc những tư tưởng về chủ nghĩa xã hội của nhân loại trong lịch sử và
được phát triển một cách khoa học lên tầm cao mới, đáp ứng đúng quy luật phát triển
của xã hội. Và Đảng ta đã vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý của chủ
nghĩa xã hội khoa học vào thực tiễn nước ta để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Khi nhận thức rõ vấn đề đó, sinh viên sẽ tự nguyện, tự giác sống theo quan
điểm sống của nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa như là một sự thôi thúc nội tâm.
Mặt khác, việc giáo dục triết học Mác - Lênin còn giúp sinh viên có năng lực nhận
diện rõ và đấu tranh chống lại những quan điểm trái với những nguyên lý của chủ
nghĩa xã hội khoa học, trái với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng; kiên
quyết đấu tranh chống lại chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa giáo điều, đứng vững trong
cuộc đấu tranh phòng chống "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.
Chủ nghĩa Mác - Lênin thực chất là học thuyết về con người và giải phóng con
người. Học thuyết Mác - Lênin nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng trang bị
cho sinh viên một nhân sinh quan khoa học và nhân đạo, chỉ ra mục đích cao cả nhất
của cuộc sống là vì con người và vì sự nghiệp giải phóng con người. Mỗi con người
chỉ đạt được lợi ích, nhu cầu cá nhân cao nhất khi nhận thức đúng đắn và tự nguyện,
tự giác thực hiện lợi ích xã hội, lợi ích dân tộc mình. Nhân cách chỉ được hình thành
và phát triển khi giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội,
hạnh phúc của mỗi cá nhân chỉ được đảm bảo và thực hiện khi hạnh phúc của toàn
thể xã hội được đảm bảo, được thực hiện. Mỗi cá nhân chỉ được giải phóng khi sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại được thực hiện. Qua việc thẩm thấu
những tri thức này, mỗi sinh viên tự nguyện hướng đến lẽ sống cao đẹp "mình vì mọi
người và mọi người vì mình".
Thứ ba, giáo dục triết học Mác - Lênin góp phần xây dựng lý tưởng cộng sản
cho các thế hệ sinh viên Việt Nam. Lý tưởng giữ vai trò quan trọng trong quá trình
hình thành nhân cách sinh viên, vì lý tưởng là mục đích cao nhất, đẹp nhất, tạo ra
nghị lực giúp con người vượt qua mọi thách thức đạt đến mục tiêu đề ra. Mục tiêu
cao nhất mà lý tưởng cộng sản hướng tới là xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp: Xã
hội xã hội chủ nghĩa và sau này là xã hội cộng sản chủ nghĩa. ở đó, con người được
tự do, bình đẳng và hạnh phúc. Sinh viên khi tiếp nhận những tri thức khoa học Mác
- Lênin sẽ tìm kiếm được sức mạnh từ chính bản thân tri thức ấy để tự mình vươn
lên, bồi dưỡng lý tưởng cộng sản, tin tưởng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Có niềm tin, có hoài bão, sinh viên tất có ý chí thực hiện lý tưởng. Việc thực hiện lý
tưởng không phải trừu tượng, xa vời, mà ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường họ
cần xác lập ý chí học tập để sau này góp phần xây dựng Tổ quốc. Đồng thời, họ cần
có tinh thần đấu tranh với những hành vi lệch chuẩn của một bộ phận sinh viên sống
thiếu trách nhiệm, mất phương hướng, lòng tin, lý tưởng sa đà vào cuộc sống hưởng
thụ, thực dụng chỉ nghĩ đến lợi ích riêng mình, vô cảm với lợi ích của đồng loại, của
dân tộc.
Sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay dưới tác động của
giáo dục triết học Mác - Lênin cũng chính là quá trình hình thành ở họ những phẩm
chất cần thiết, thể hiện sự tri thức hóa, sự trưởng thành đến độ nhất định về mặt xã
hội, giúp sinh viên nâng cao nhận thức lý luận, ý thức chính trị, nhạy bén với thực
tiễn, xử lý tốt các tình huống xảy ra trong thực tiễn, sống có lý tưởng, có ước mơ để
học tập, phấn đấu và cống hiến. Trong cuộc sống con người không thể sống mà thiếu
lý tưởng phấn đấu. Lý tưởng là sự thôi thúc nội tâm giúp con người hành động để thỏa
mãn những nhu cầu, lợi ích của cá nhân và xã hội. Vì vậy, giáo dục triết học Mác -
Lênin nhằm từng bước xây dựng lý tưởng cách mạng cho sinh viên là vấn đề được
quan tâm hàng đầu. Đó cũng chính là giá trị đạo đức của từng cá nhân sinh viên mang
nhân cách, là mục tiêu phấn đấu của mỗi sinh viên. Đạt đến mục tiêu này, giáo dục
triết học Mác - Lênin hoàn toàn khẳng định vai trò quan trọng và quyết định của mình
trong cuộc đấu tranh ngăn ngừa những biểu hiện về suy thoái đạo đức, nhân cách của
sinh viên trước những tác động tiêu cực của quá trình phát triển kinh tế thị trường, hội
nhập quốc tế hiện nay.

2.1.2. Thực trạng xây dựng kế hoạch học tập của sinh viên năm thứ nhất trường
đại học giao thông vận tải.
Giới thiệu về CDIO
Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển tiếp sang nền kinh tế tri thức, vai trò của
các trường đại học đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế bằng việc cung cấp nguồn
nhân lực chất lượng cao trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Một trong những thách
thức chính yếu mà các trường đại học phải đối mặt là làm thế nào để đào tạo được
sinh viên đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. Cách tiếp cận để nâng cao chất lượng
và chuẩn hóa chương trình đào tạo ngành kỹ thuật và công nghệ đó là chương trình
CDIO (Conceive – Design – Implement – Operate). Đào tạo theo cách tiếp cận CDIO
sẽ giúp chương trình đào tạo được xây dựng và thiết kế theo một quy trình chuẩn, các
công đoạn có tính liên thông, tích hợp, gắn kết chặt chẽ.
Ở trường Đại học giao thông vận tải, giảng dạy môn Triết học Mác - Lênin,
theo hướng tiếp cận CDIO đã được triển khai đối với sinh viên từ K61, năm học 2020-
2021. Kết quả học tập của năm học và kinh nghiệm triển khai giảng dạy của một số
trường đại học, giảng dạy Triết học Mác - Lênin nói riêng theo hướng tiếp cận CDIO
là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với xu thế thời đại, phù hợp với nhu cầu xã hội
và tạo ra môi trường hết sức thuận lợi để môn học có những thay đổi đột phá trong tổ
chức dạy và học có hiệu quả.
Vậy, CDIO là gì? CDIO là viết tắt của cụm từ tiếng Anh Conceive – Design –
Implement – Operate, có nghĩa là: hình thành ý tưởng, thiết kế ý tưởng, thực hiện
và vận hành, khởi nguồn từ Viện Công nghệ MIT (Hoa Kỳ). Cho đến nay, mô hình
tiếp cận này được các trường Đại học nổi tiếng trên thế giới áp dụng phổ biến. Về bản
chất, CDIO là một giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu xã hội
(công việc trong tương lai) trên cơ sở xác định chuẩn đầu ra, từ đó thiết kế chương
trình và kế hoạch đào tạo tích hợp. Quy trình này được xây dựng một cách khoa học,
hợp lý, logic, có thể áp dụng cho nhiều lĩnh vực đào tạo khác nhau.
CDIO là xu hướng trong đạo tạo hiện đại, được xem như là một sáng kiến mới
cho giáo dục, một hệ thống phương pháp, hình thức tích lũy kiến thức, kỹ năng trong
việc nâng cao chất lượng đào tạo đại học nhằm đáp ứng yêu cầu của các đơn vị tuyển
dụng, sử dụng lao động và xã hội. Sau khi hình thành chính thức vào những năm
2000, CDIO trở thành một tiêu chuẩn được nhiều trường đại học trên thế giới áp dụng.
Mục tiêu đào tạo theo CDIO là hướng tới việc giúp sinh viên có được kỹ năng
cứng và mềm và năng lực cần thiết khi ra trường, nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của
xã hội cũng như bắt nhịp được với những thay đổi vốn rất nhanh của thực tiễn đời
sống xã hội.
Đặc điểm nổi bật của phương pháp đào tạo theo CDIO là học tập tích hợp và
trải nghiệm chủ động. Sinh viên sẽ học các kĩ năng cá nhân, kỹ năng giao tiếp, các kĩ
năng kiến tạo sản phẩm, xây dựng quy trình và hệ thống cùng với kiến thức chuyên
ngành trong chương trình đào tạo thực hành chuyên nghiệp. Người ta gọi đó là học tập
tích hợp, cho phép sinh viên sử dụng kép thời gian để vừa học kiến thức, vừa học kĩ
năng ứng dụng chuyên ngành. Theo đó, giảng dạy và học tập dựa trên các phương
pháp học tập chủ động, trải nghiệm theo mô hình CDIO gồm các phương pháp thu hút
sự tham gia của sinh viên một cách trực tiếp vào các hoạt động tư duy và giải quyết
vấn đề, sinh viên thực sự phải là trung tâm của mô hình đào tạo.
Sáng kiến CDIO ra đời nhằm đào tạo sinh viên trở thành người kỹ sư biết bao quát
việc: Hình thành ý tưởng (Conceive) - Thiết kế (Design) - Triển khai (Implement) - Vận
hành (Operate) các sản phẩm và hệ thống có tính phức tạp, có giá trị gia tăng, trong môi
trường hiện đại, làm việc theo nhóm. Điểm then chốt của CDIO là đề cương CDIO tích
hợp, một tuyên bố về mục tiêu của chương trình đào tạo và bộ 12 tiêu chuẩn CDIO được
thiết kế để giúp đạt các mục tiêu đó. Các tiêu chuẩn này bao gồm triết lý của chương
trình, phát triển chương trình đào tạo, không gian làm việc và các trải nghiệm thực tế,
phương pháp dạy và học, nâng cao năng lực giảng viên, đánh giá và kiểm định.
CDIO không chỉ cung cấp một chuẩn đầu ra mà còn là một hướng dẫn rõ ràng về
đào tạo, quản lý giáo dục như: phương pháp lãnh đạo, quản lý giáo dục đại học, phát
triển đội ngũ giảng viên với chuyên môn sâu, gắn chặt doanh nghiệp với cơ sở đại học,
phương pháp học tập dựa trên dự án, nhóm, cải cách chương trình khung, cung cấp kỹ
năng giao tiếp, học tập dựa trên kinh nghiệm và chủ động, thiết kế chương trình đào tạo,
môi trường học tập, cách kiểm tra, đánh giá, quốc tế hóa giáo dục đại học… Do vậy, có
thể nói, CDIO rất hữu ích trong việc triển khai chương trình đào tạo hiệu quả, là một
trong những giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đại học.
Việc tiếp cận theo CDIO đem lại các lợi ích thiết thực sau: Gắn với nhu cầu của
nhà tuyển dụng, thu hẹp khoảng cách giữa đào tạo của nhà trường và yêu cầu của người
sử dụng nguồn nhân lực trong tương lai; CDIO giúp sinh viên phát triển toàn diện với các
“kỹ năng cứng” và “kỹ năng mềm” có năng lực để nhanh chóng thích ứng với môi trường
làm việc luôn thay đổi trong thời đại công nghiệp 4.0; giúp đánh giá hiệu quả giáo dục đại
học, góp phần nâng chất lượng giáo dục đại học lên một tầm cao mới.

Thông thường, trong quãng thời gian năm nhất sinh viên sẽ ít có cảm giác
“chìm” trong giáo trình, kiến thức chuyên ngành. Thay vào đó, năm nhất sinh viên sẽ
học các học phần đại cương hay lý thuyết hàn lâm.
Bởi vậy, năm nhất là khoảng thời gian lý tưởng để các bạn sinh viên học tập
một ngoại ngữ mới, trau dồi thêm các kỹ năng mềm, mở rộng các mối quan hệ thông
qua việc đi làm thêm hay các câu lạc bộ.
Để bắt đầu lập kế hoạch học tập, bạn cần phải biết mình muốn học gì, cần
học gì. Nếu bạn đang tìm kiếm một nghề mới cho bản thân, hãy xem xét kỹ lưỡng
nghề nghiệp nào là mục tiêu cuối cùng mà bạn tìm kiếm. Nếu muốn nâng cao kỹ
năng của mình và muốn học một ngôn ngữ mới, hãy hình dung bản thân đang du lịch
đến đất nước khác và sử dụng các kỹ năng của mình. Hình dung mục tiêu cuối cùng
muốn đạt được trước, sau đó bạn cụ thể hóa thành những công việc nhỏ để đạt được
mục tiêu đó.
Xem xét lý do vì sao bạn muốn học kiến thức, kỹ năng này mà không phải
kiến thức, kỹ năng khác. Khi bạn tìm được câu trả lời cho câu hỏi này, tức là bạn đã
xác định động lực học tập một cách rõ ràng. Động lực sẽ giúp bạn bắt đầu và vượt
qua những thời điểm khó khăn khi học kỹ năng và kiến thức mới. Tuy nhiên, làm thế
nào để có thể duy trì động lực như lúc bắt đầu? Nó đòi hỏi sự nghiên cứu, sự cam kết
với bản thân và đôi khi là sự trợ giúp.
Nghiên cứu khóa học
Tất nhiên, internet sẽ cung cấp rất nhiều bài báo và blog liên quan đến những
kiến thức, kỹ năng mà bạn muốn học. Tuy nhiên, cùng với việc tìm hiểu thông tin
trên internet, hãy cố gắng tìm những cá nhân đang và đã làm chính xác những gì mà
bạn đang tìm kiếm. Những người này sẽ trở thành cố vấn cung cấp kiến thức và
chuyên môn vô giá cho bạn. Những lời khuyên từ họ sẽ giúp bạn nhận biết cơ hội và
hạn chế rủi ro. Từ đó, bạn có thể hình dung cơ bản về khóa học và chất lượng của
nó.
Chia nhỏ mục tiêu
Dựa trên mục tiêu đã xác định ở bước 1, bạn hãy chia nhỏ chúng và gắn chúng
với các hoạt động cụ thể. Các mục tiêu nhỏ cần phải đo lường được.
Ví dụ nếu bạn đang muốn học một kỹ năng mới, hãy yêu cầu bản thân làm
việc với nó ít nhất 20 phút mỗi ngày. Hoặc tự nói với bản thân rằng bạn sẽ tham gia
mọi lớp học và tham gia đầy đủ. Sau khi đã đăng ký khóa học, hãy cho chúng một
“chiếc deadline”.
Mẹo để có thể dễ dàng đạt được những mục tiêu nhỏ là ghi chúng ra giấy. Việc
theo dõi chúng trên giấy sẽ giúp bạn hoàn thành dễ dàng hơn. Việc ghi lại hàng ngày
các mục tiêu nhỏ là động lực để bạn tiếp tục duy trì, bạn sẽ cảm thấy tự hào về bản
thân khi hoàn thành danh sách này. Hãy để danh sách này ở một vị trí dễ nhìn và tự
thưởng cho bản thân mỗi khi hoàn thành một mục tiêu nhỏ trong đó.
Tập trung và cam kết
Với kế hoạch đã đề ra từ đầu, bạn cần phải hết sức tập trung. Nếu một phần kế
hoạch của bạn là dành một khoảng thời gian mỗi ngày để học điều gì đó mới thì bạn
phải tạo một lịch trình khuyến khích bản thân chăm chỉ thực hiện. Nếu bạn cần thức
dậy sớm hơn mười lăm phút mỗi ngày để tập trung vào việc học, hãy thực hiện nó.
Tóm lại, bạn cần thay đổi bản thân để phù hợp với kế hoạch học tập.
Thay đổi hành vi đòi hỏi sự cam kết thực hiện của chính bạn. Chỉ có bạn mới
biết điều gì là tốt nhất cho bản thân. Nếu bạn cần tự thưởng cho mình khi đạt được
các mốc cụ thể trong kế hoạch, hãy làm điều đó. Bất cứ điều gì cần thiết để thúc đẩy
bạn tiếp tục cam kết và tập trung đều sẽ giúp bạn kiên trì tiếp tục hành trình.
Thực hiện theo đúng kế hoạch
Hãy tranh thủ sự giúp đỡ của người thân trong gia đình và bạn bè. Khi gặp khó
khăn thì sự hỗ trợ từ người thân chính là nguồn động lực rất lớn, giúp bạn theo đuổi
bản kế hoạch học tập đã thiết lập. Những việc nhỏ lại có thể đem hiệu quả bất ngờ,
nên đừng ngần ngại thử nghiệm để có thể theo đúng kế hoạch.
Vận dụng kỹ năng, kiến thức đã học
Học tập nghiêm túc liên quan đến việc thay đổi hành vi của mỗi người. Với
mỗi kỹ năng bạn mới học được, hãy sử dụng nó. Nếu bạn đang học một ngôn ngữ
mới, hãy tìm cơ hội để thực hành nó. Bạn càng luyện tập và sử dụng kỹ năng mới của
mình thường xuyên, bạn sẽ càng có nhiều khả năng sở hữu nó. Tìm cách chia sẻ kiến
thức của bạn như áp dụng trong công việc, viết blog hay dạy cho người xung quanh.

2.1.3. Thực trạng về kết quả học tập môn Triết của sinh viên năm thứ nhất
trường đại học giao thông vận tải.

You might also like