BIẾN) - Đa số các áp-xe vùng miệng và hàm mặt thường có nguyên nhân từ răng, mô quanh răng: áp-xe quanh chóp, áp-xe nha chu, tai biến mọc răng khôn, chấn thương. - Cũng có nguyên nhân từ viêm nhiễm khác như tuyến bả, mô mềm vùng hàm mặt. - Tùy độc tính của vi khuẩn và sức đề kháng của cơ thể nhiễm khuẩn có thể tụ lại tại chỗ hoặc lan rộng. 1. Nguyên tắc rạch áp-xe: - Chỉ rạch khi áp-xe đã có sự tụ mủ, đường rạch nên tránh vùng giải phẫu nguy hiểm như mạch máu TK. - Đối với vùng hàm mặt còn chú ý thẩm mỹ và dẫn lưu được mủ. 2. Kỹ thuật - BN ngồi trên ghế nha khoa với tư thế giống như khi nhổ răng. - Đối với những BN nặng như áp-xe lan tỏa ở những vị trí sâu nên thực hiện việc trích rạch trong phòng mổ với các phương tiện cấp cứu và hồi sức. Xác định vị trí áp-xe - Nhìn cho biết vị trí áp-xe, độ rộng, sự lan tỏa, da (niêm mạc) phủ bên trên, nơi mỏng nhất của da (niêm mạc) của khối áp-xe,…- Sờ với cảm giác các đầu ngón tay. Nơi tụ mủ thường mềm có cảm giác phập phồng. Ước lượng độ lớn của áp-xe. - Chọc dò thử nếu áp-xe ở sâu khó xác định được vị trí có thể dùng dùng kim chọc hút thử nên thử với nhiều hướng để tìm vị trí ổ mủ. Không nên sử dụng kim chọc dò có đường kính quá nhỏ mủ khó thoát ra được. Vô cảm: - Nếu có thể được nên gây tê vùng hoặc gây tê tại chỗ nhưng xa vùng ổ mủ vì gây tê tại chỗ qua vùng có ổ mủ thì không hiệu quả. - Gây mê trong trường hợp áp-xe lan tỏa rộng quá sâu, các áp-xe sàn miệng hoặc dưới hàm, ở trẻ con. Đường rạch Nên ở vị trí tụ mủ thấp nhất để dẫn lưu dễ dàng. Tuy nhiên ngày nay có nhiều quan điểm cho rằng đường rạch nên nằm trên vùng mô lành và ở nơi thấp nhất bóc tách đến ổ mủ để quá trình lành thương được tốt hơn, ít để lại sẹo xấu. Đường rạch nên đủ dài để mủ có thể thoát ra dễ dàng và chú ý thẩm mỹ . - Đường rạch đủ sâu tới được ổ mủ Đường rạch ngoài da nên theo các nếp nhăn của da. - Cần chú ý đến vấn đề thẩm mỹ và sẹo để lại sau này. Đường rạch nên cố gắng chọn đường trong miệng. Nếu rạch ngoài da nên chọn những nơi khuất, khó nhìn và đường rạch khi khâu đóng nên trùng hoặc song song với nếp nhăn da mặt. Bóc tách: - Dùng kẹp cong không mấu bóc tách mô dưới da hay niêm mạc để đi vào ổ mủ khi tách bóc cần nhẹ nhàng và đi vào từng lớp. - Cần thiết phải cố định ổ mủ, hướng đi của kẹp bóc tách phải hướng đến ổ mủ. -Dùng khay hứng lấy dịch thoát ra từ ổ mủ để quan sát và làm kháng sinh đồ. Dẫn lưu: - Có thể dẫn lưu bằng chỉ nylon, cat gut đối với các áp-xe nhỏ - Lá cao su có thể cắt ra từ găng tay, - Gạc tẩm betadine và ống cao su có đục nhiều lỗ nhỏ dọc thành ống. - Dẫn lưu được thực hiện trong vòng 24 – 48 giờ. Tuy nhiên đối với những áp-xe lớn có thể dẫn lưu từ 5 – 7 ngày. 3. Theo dõi và xử lý tai biến - Khi làm phẫu thuật vào vùng sâu dễ chạm vào mạch máu lớn (khoang bên hầu, sau hàm…): chỉ rạch đứt da, tách và luồn kẹp cầm máu từ từ cho đến khi ổ mủ, khi có mủ chảy ra thì dừng lại. - Theo dõi nhiễm khuẩn: cấy máu, cấy mủ, làm kháng sinh đồ. Kháng sinh theo kháng sinh đồ. - Bơm rửa hàng ngày dẫn lưu mủ và thay dẫn lưu - Bệnh tiến triển tốt khi dẫn lưu hết mủ, nhổ răng nguyên nhân, kháng sinh.