Professional Documents
Culture Documents
Liên Hệ Tác Phẩm
Liên Hệ Tác Phẩm
Khổ 3: Nó khác hẳn với con thuyền cô đơn, lẻ loi, nhỏ bé giữa khoảng không trong bài
“Tràng giang” trước Cách mạng :
“ Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Hoặc “ Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang”
(Quê hương - Tế Hanh)
Khổ 4: Bài thơ “Cành lan phong bể” của nhà thơ Chế Lan Viên
“Nơi những đàn mây trắng xóa cá bay đi
Cá vào hội xòa hoa mang áo đẹp
Cá nục, cá chuông, cá chim, không phải chim đâu, cá hồng hồng sắc vẩy
Con cá song cầm đuốc dẫn thơ về”
Viết về biển cả mênh mông, nhà thơ Chế Lan Viên từng tô điểm bức họa sinh động dưới đại
dương với sự đa dạng của các loài cá. Từng đoàn cá lả lướt mang đến sức sống cắng tràn.
Khổ 5
Khổ 6: Cụm từ “kéo xoăn tay” không chỉ gợi cho người đọc những mẻ tươi ngon, nặng trĩu
mà còn thể hiện sự khỏe khoắn trong những bắp tay rắn chắc của người dân chài khi họ kéo
mẻ cá vào khoang thuyền. Trong bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh cũng có sự cảm nhận
như thế:
“Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm.”
. Tác phẩm “Ông già và biển cả” của nhà văn Hemingway
Trên hành trình chinh phục thế giới tự nhiên, nhân vật ông lão trong câu chuyện suốt 84 ngày
trôi qua dù không câu được con cá nào nhưng ông vẫn không bỏ cuộc. Và rồi, trải qua những
ngày tháng khó khăn, chiến đấu với cá kiếm, với cá mập của đại dương đầy hung hãn, ông
lão đã trở về với bộ xương cá khổng lồ. Tác phẩm miêu tả rõ nét về khát vọng của loài người
với ước muốn khám phá thế giới, chinh phục tự nhiên. Cũng giống như trong bài thơ “Đoàn
thuyền đánh cá” của nhà thơ Huy Cận, cư dân ra biển cả để lao động, tìm kiếm nguồn sống,
đối mặt với những thử thách của thiên nhiên, song bằng tinh thần ý chí, mạnh mẽ của mình,
người dân ở đấy đã vượt qua. Bằng chứng là họ đã sống với cái nghề này từ lâu đời.
Bếp lửa
Khổ 3: Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
(Khi con tu hú- Tố Hữu)
+ Đây không phải là âm thanh tiếng chim rộn rã, gọi bầy như trong câu thơ “Khi con tu hú
gọi bầy” (Tố Hữu) mà là âm thanh da diết, sâu lắng đã tô đậm thêm cảnh sống cô đơn của
hai bà cháu bởi khi ấy bố mẹ cháu đều đi công tác xa nhà.
Khổ 2: Liên hệ nạn đói năm 1945 như nhà thơ Chế Lan Viên đã viết
“Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
Văn Chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi”
Nguyễn Duy nhiều nét tương đồng, đó là tuổi thơ đền gắn bó bên bà :
“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
Níu váng bà đi chợ Bình Lâm
Bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
Và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần”