Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 8

ĐẤT NƯỚC

( Nguyễn Khoa Điềm)

I.Tìm hiểu chung:


1.Tác giả:
 Cùng với Thanh Thảo, Xuân Quỳnh, Nguyễn Duy thì Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế
hệ những nhà thơ trẻ thời chống Mĩ.
 Thơ NKĐ hấp dẫn người đọc bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu
lắng của người tri thức về đất nước và con người Việt Nam.
2. Hoàn cảnh sáng tác:
 Bài thơ “ Đất Nước” được trích ở phần đầu chương V của trường ca “ Mặt đường khát
vọng”, được NKĐ sáng tác ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971 và in lần đầu năm 1974.
Tác phẩm viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị miền Nam vùng tạm chiếm, nhận
thức rõ bộ mặt của kẻ thù xâm lược và xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc
kháng chiến chống Mĩ. Đây là tác phẩm đặc sắc viết về đề tài Đất Nước.

3.Chủ đề:
 Bài thơ “ Đất Nước” là lời định nghĩa về Đất Nước. Đất Nước gắn với lịch sử, văn
hóa lâu đời; làm rõ tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân và xác định trách nhiệm của
mỗi người đối với ĐN.

II.Đọc và tìm hiểu văn bản:


 (Dẫn) Trong những tác phẩm viết về đề tài ĐN trước đây, các nhà thơ, nhà văn
thường cảm nhận ĐN có phần kì vĩ, trừu tượng, họ chủ yếu cảm nhận trên phương
diện lãnh thổ hoặc trên phương diện lịch sử hào hùng của dân tộc. Bài thơ ĐN của
NKĐ lại cảm nhận ĐN rất bình dị, gần gũi thân thuộc. ĐN của NKĐ được cảm nhận
trên ba phương diện: chiều dài lịch sử 4000 năm, chiều rộng địa lí và chiều sâu của
văn hóa dân tộc. Chất liệu văn hóa dân gian được sử dụng đậm đặc tạo nên một mĩ
cảm cho bài thơ và góp phần làm rõ tư tưởng “ Đất Nước của Nhân Dân”.

 Nói về vai trò của nhân dân cho Đất Nước trong văn học Việt Nam thì tư tưởng này
không phải xuất hiện sớm, nó có tính lịch sử và sự kế thừa. Từ xưa, với thuyết “ Thiên
mệnh” trong Nho giáo nên vai trò của nhân dân chưa được đề cao. Đất Nước vẫn
được xem là sở hữu của “ Thiên tử” ( Nam quốc sơn hà nam đế cư). Trong “Hịch
tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn vai trò của nhân dân vẫn chưa rõ ràng, bởi lẽ ông kêu
gọi tướng sĩ dưới quyền đánh giặc chưa phải là bảo vệ nhân dân mà để rửa nhục cho
chủ tướng (các ngươi thấy chủ nhục mà không biết lo), hệ lụy của ngoại xâm không
phải tác động đến nhân dân mà là sĩ diện của vua, của chủ tướng, triều đình (kẻ thù
“chửi mắng triều đình”, “bắt nạt tế phụ”). Đến “ Đại cáo bình Ngô” đã có sự phát
triển hơn. Những mất mát, hệ lụy của chiến tranh không chỉ cho “ chủ tướng” , “ triều
đình” mà là nhân dân:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”.
 Tuy vậy, dù rằng nhận thức mục đích của nhân nghĩa là “ yên dân” nhưng Nguyễn
Trãi chưa nhận thấy rõ sự vĩ đại, to lớn của nhân dân khi vẫn cho nhân dân là một đối
tượng để chăm sóc và bảo vệ.

 Nhân Dân trong thơ NKĐ thì hoàn toàn khác. Nhân Dân sở hữu ĐN, họ làm ra ĐN.
Họ đã chiến đấu, hi sinh xương máu bảo vệ độc lập của dân tộc, làm nên lịch sử hào
hùng. Nhân dân đã khai khẩn đất đai, mở mang lãnh thổ, “ đắp đập be bờ” để con
cháu “trồng cây hái trái” và chính họ cũng sáng tạo, lưu truyền những giá trị văn hóa
để làm nên ĐN.

 Thể thơ tự do, như lời độc thoại, đối thoại thủ thỉ, tâm tình, nhắn nhủ sâu lắng, nhẹ
nhàng, sâu sắc. Cách xưng hô “ anh, em” ( như chàng trai nói với người yêu, như dặn
lòng mình, như lời nói với đồng bào, với thế hệ trẻ, như với thế hệ mai sau…). “Anh”
và “em” là “chúng ta”, mọi thế hệ nhân dân Việt Nam trong “bốn nghìn lớp người
giống ta lứa tuổi”.
1. Đoạn 1 (từ đầu ---đến--- “ngày đó”)
Đất Nước có từ bao giờ?
 ĐN có từ lâu lắm rồi (khi… đã có rồi)

 “Ngày xửa …xưa” => thời gian rất dài; tự hào lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ
nước. “Ngày xửa ngày xưa” là công thức cố định, lời mở đầu của những câu chuyện
dân gian mà ẩn chứa trong đó là tâm hồn, là lời dạy, nhắn nhủ của cha ông về tình
nghĩa, những giá trị tốt đẹp ( gợi văn hóa lâu đời của lâu đời).

 Liên hệ:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”
( Đại cáo bình Ngô – Nguyễn Trãi)
 Tác giả đã “bình dị hóa” ĐN, Đất Nước rất gần gũi, thân thuộc qua hình ảnh “miếng
trầu bà ăn”, trong câu chuyện “ Thánh Gióng”, trong hình ảnh “tóc mẹ bới sau đầu”,
trong tình cảm yêu thương, tình nghĩa của cha mẹ, (“gừng cay muối mặn”) qua hình
ảnh “cái kèo, cái cột”, hình ảnh hạt gạo mà người nông vất vả làm ra…..

 Chất liệu văn hóa dân gian được tác giả sử dụng như một dụng ý nghệ thuật. Tác giả
không kể một chuyện cổ, không nhắc toàn bộ một câu ca dao nào nhưng người đọc
vẫn hình dung ra qua một vài hình ảnh.

 Miếng trầu bà ăn: gợi “ Sự tích trầu cau” (ca ngợi tình anh em, tình vợ chồng => gia
đình)

 “trồng tre đánh giặc”: Truyền thuyết Thánh Gióng đánh giặc Ân ( sức mạnh đoàn kết
của nhân dân, kho tàng văn hóa dân gian, gợi lịch sử chống ngoại xâm của cha ông
ta)

 Đất Nước có trong thuần phong mĩ tục như hình ảnh “tóc mẹ bới bới sau đầu”. ( Tóc
ngang lưng vừa chừng em bới/ Để chi dài bối rối lòng anh)
 “gừng cay muối mặn” => Tình nghĩa vợ chồng keo sơn, gắn bó, thủy chung. Lấy ý từ
bài ca dao:

“Muối ba năm muối đương còn mặn


Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”

 Cái kèo , cái cột: liên tưởng đến ngôi nhà=> gia đình=> các mối quan hệ ( ông bà –
cháu; cha mẹ - con; chị- em; anh – em, vợ- chồng…)

 Đất Nước có trong hạt gạo ta ăn hằng ngày và chính việc người nông dân cần cù, chịu
thương chịu khó khi làm ra hạt gạo cũng góp phần hình thành phẩm chất, văn hóa
Việt => làm ra Đất Nước; câu thơ cũng gợi về văn hóa nông nghiệp lúa nước lâu đời
của dân tộc.
 Những thành ngữ như “một nắng hai sương” + động từ “ xay, giã, giần,sàng” => Cơ cực,
khó nhọc, sự chăm chỉ của người nông dân.

 Đất Nước có từ ngày đó… => ĐN có từ lâu lắm rồi, ĐN có trong những điều gần gũi,
bình dị, thân thương nhưng vô cùng thiêng liêng và cao quý.

2. Đoạn 2 ( Đất là nơi…. => giỗ Tổ): Mạch ngầm văn bản như để trả lời cho câu hỏi “ Đất
Nước là gì?”
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm”
 Tác giả tách khái niệm ĐN thành hai bình diện “ Đất” và “ Nước” (sáng tạo, mới mẻ)

 ĐN gắn với những kỉ niệm tuổi thơ, đó là con đường chúng ta đến trường, những kỉ
niệm tuổi thơ gắn với thời chăn trâu , cắt cỏ, tắm mát ở những dòng sông, con suối.
 Vị trí ta hò hẹn (nơi nảy nở tình yêu, “không gian thiêng”) = tạo nên tình yêu ĐN.

 ĐN là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm = đều tạo nên tình yêu ĐN
( Chất liệu văn hóa dân gian: liên hệ bài ca dao “ Khăn thương nhớ ai” => giọng điệu
sâu lắng, ngọt ngào

“Đất là ….chim phượng hoàng….núi


Nước là…con cá ngư ông ….biển khơi”

 Sử dụng câu hò Bình Trị Thiên (văn hóa), tác giả muốn thể hiện sự rộng lớn, trù phú,
đẹp giàu của Đất Nước. Không gian sinh tồn mở rộng từ vùng núi, trung du, vùng
đồng bằng, ven biển, hải đảo và vùng biển khơi rộng lớn

 “con chim phượng hoàng”, “cá ngư ông” ( chim phượng hoàng nằm trong tứ linh “
long- li –quy –phụng) còn cá ngư ông cũng là linh vật của những ngư dân Việt Nam
 Đất Nước VN tươi đẹp, đó là lí do những con vật cao quý chọn để ở ( đất lành chim
đậu)
ĐN được cảm nhận trên bình diện địa lí và văn hóa => thể hiện tư tưởng ĐN của
Nhân Dân.
 Thời gian đằng đẵng: gợi chiều dài lịch sử +vất vả, khó nhọc trong quá trình dựng
nước, giữ nước suốt 4000 nghìn năm lịch sử của dân tộc. (biết bao nhiêu thế hệ nhân
dân đã hi sinh xương máu trong các cuộc đấu tranh)

 Không gian mênh mông: Chiều rộng của địa lí, vẻ đẹp của sông núi, của không gian
sinh tồn, là công sức của biết bao thế hệ nhân dân đã “đắp đập be bờ” để cho cháu con
“trồng cây hái trái”.

 ĐN là nơi dân mình đoàn tụ: hình dung về thời sơ khai dựng nước, những người đầu
tiên quy tụ lại tạo nên cộng đồng => Đất Nước.

“Đất là nơi Chim về


Nước là nơi Rồng ở
…..
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
 Đó là niềm tự hòa về tổ tiên, giống nòi ( con Lạc cháu Hồng; con Rồng cháu Tiên)

“Những ai đã khuất
Những giờ.....mai sau
......
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”

 Có một sợi dây kết nối bền chặt, thủy chung từ quá khứ -hiện tại –tương lai ( những
người đã khuất cũng đã từng sáng tạo, đã từng lao động, từng chiến đấu, truyền cho
thế hệ sau những điều tốt đẹp, đến lượt chúng ta lại tiếp tục có trách nhiệm bảo tồn,
lưu giữ, sáng tạo thêm những giá trị mới để truyền cho thế hệ sau

 Mỗi thế hệ người dân VN đều phải có trách nhiệm lớn lao (gánh vác), cao cả là bảo
tồn, lưu giữ “phần người” (những giá trị tốt đẹp về văn hóa) và “dặn dò” (giáo dục)
thế hệ sau để không đánh mất giá trị truyền thống. Một trong những giá trị tốt đẹp đó
là truyền thống “ uống nước nhớ nguồn” và tục lệ thờ cúng ông bà, tổ tiên ( cũng biết
cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ)

 Ca dao:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba

3.Đoạn 3: Sự gắn bó mật thiết, mối quan hệ cá nhân với ĐN; Trách nhiệm của mỗi người đối
với ĐN. ( Trong anh và em..... làm nên ĐN muôn đời)
 Mối quan hệ giữa cá nhân và Đất Nước
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước”
 Trong mỗi người dân VN, mỗi chúng ta (anh và em) đều có “một phần” Đất Nước =>
ĐN có trong mỗi người dân VN.

 Mỗi người đều thừa hưởng những giá trị vật chất (trong máu, xương) và tinh thần (vẻ
đẹp văn hóa.)

 “một phần” dù nhỏ bé nhưng vô cùng thiêng, cao quý bởi nó là di sản văn hóa, là
những điều tốt đẹp mà chúng ta có quyền tự hào.

 Mối quan hệ giữa tình yêu đôi lứa và tình yêu Đất Nước.

“Khi hai đứa cầm tay


Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”

 Hài hòa giữa tình yêu đôi lứa và tình yêu ĐN

 Hai đứa cầm tay: tình yêu thăng hoa => tình yêu ĐN (thống nhất giữa riêng – chung,
cá nhân – cộng đồng)

 Từ tình yêu đôi lứa hài hòa với tình yêu ĐN, tác giả đã thể hiện tình cảm cộng đồng,
sự đoàn kết dân tộc.

“Khi chúng ta cầm tay mọi người


Đất Nước vẹn tròn, to lớn”

 “Cầm tay mọi người”: biểu tượng của sự đoàn kết, sự yêu thương, kết nối cộng đồng,
Đoàn kết tạo nên sức mạnh ( kề vai sát cánh/ một cây làm chẳng nên non/ ba cây
chụm lại thành hòn núi cao…)

 Trong lao động và đặc biệt là trong chiến tranh vệ quốc, dân tộc ta luôn có tinh thần
đoàn kết.
 “vẹn tròn, to lớn” = sự vững bền của ĐN

 Từ đó tác giả thể hiện niềm tin, hi vọng về tương lai của Đất Nước:
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”
 Trong tác phẩm, tác giả đã chú ý thể hiện quá trình tiếp nối của mỗi người với ĐN
( lớn lên/ đi học/ trưởng thành/ yêu nhau/ sinh con đẻ cái/ con ta lớn)

 mai này: tương lai của dân tộc, mong ước vào thế hệ sau.

 con ta lớn lên: sự trưởng thành của thế hệ sau của cả dân tộc
 mang ĐN đi xa, đến những tháng ngày mơ mộng => làm cho ĐN giàu đẹp,phát triển
bền vững, sánh vai với các cường quốc năm châu; một hình ảnh ĐN trong mơ ước,
phải khác với hiện tại, giàu đẹp hơn, huy hoàng, xán lạn.

 Bốn câu cuối của đoạn thơ, tác giả đã nhắc nhở trách nhiệm của mỗi người dân đối
với ĐN
(Liên hệ)

“Gánh vác phần người đi trước để lại


Dặn dò con cháu chuyện mai sau”

“Em ơi em…. của mình


Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời”

 Cách xưng hô: giọng điệu tâm tình,trìu mến, nhắn nhủ tha thiết, hô gọi, thủ thỉ,tâm
tình,mang tính đối thoại rất gần gũi…

 ĐN là máu xương của mình=> gắn bó mật thiết với mỗi người dân VN.

 Điệp ngữ “phải biết”: nhắc nhở, đối thoại, nhấn mạnh điều tác giả muốn diễn đạt: phải
có ý thức đúng đắn về trách nhiệm của chúng ta đối với Đất Nước

 Gắn bó: gần gũi, quan tâm, yêu mến

 San sẻ: chia sẻ trách nhiệm

 Hóa thân ( đòi hỏi cao hơn so với hi sinh): vun đắp cho Đất Nước, còn sống thì hi sinh
tuổi xuân cho ĐN, kể cả khi mất đi cũng phải “ hóa thân cho dáng hình xứ sở” .

4. Đoạn 4: Làm rõ tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân. (từ “ Những người vợ… đến “ hóa núi
sông ta”.
 Trên phương diện địa lí

 Trong đoạn thơ này , NKĐ nhắc đến khá nhiều địa danh trên Đất Nước ta. Nói chung,
những nhà thơ tài năng luôn biết biến những địa danh với nghĩa “định danh”, “nơi đất
ở” thành không gian nghệ thuật giàu cảm xúc, góp phần thể hiện chủ đề, tư tưởng và
cảm hứng sáng tạo của chính họ. Chúng ta đã cảm nhận được sự xa xôi, heo hút, vắng
vẻ qua Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng;
cảm nhận được niềm hân hoan, tự hào, phấn khởi qua những thắng lợi của “Hòa
Bình”, “Tây Bắc”, “Điện Biên”… trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Trong bài thơ,
NKĐ cũng sử dụng những địa danh với mục đích khắc họa địa bàn sinh sống, nơi cư
trú của người Việt từ Núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, Hòn Trống Mái ở Thanh Hóa, Núi
Bút, Non Nghiên ở Quảng Ngãi, Ông Đốc, Bà Đen, Bà Điểm… ở Nam Bộ. Việc khắc
họa đó giúp cho chúng ta hình dung vẻ đẹp của ĐN từ địa đầu tổ quốc đến đất Mũi Cà
Mau. Đó là vẻ đẹp ĐN trên phương diện địa lí. Nhưng cái tầm triết luận và cảm xúc
chân thành thăng hoa đã giúp ông diễn đạt được rõ ràng tư tưởng : Chính Nhân Dân
đã làm nên sự trù phú, rộng lớn, tạo ra không gian sinh tồn cho con cháu.
 “Gương mặt Nhân Dân” ở đây ngày một “rõ ràng” hơn trong cảm nhận của người
đọc. “Họ” là “vợ”, là “chồng”, là “người học trò nghèo”, là “Bà Đen, Bà Điểm”… Họ
từ Nhân Dân mà ra và họ đã kí thác, hóa thân tạo nên sông núi, tạo nên dáng hình xứ
sở.

 Để có một ĐN rộng lớn với đồng ruộng thẳng cánh cò bay, với vẻ đẹp của đồi chè
xanh tươi ngào ngạt, với Sông Hồng, sông Cửu Long cuộn chảy như hôm nay là công
sức của bao thế hệ Nhân Dân đã “chém sấu đoạn kình”, đã mang gươm đi mở cõi; đã
phải sống “cuộc đời dân ấp dân lân” khi khai hoang lập địa. Những khó khăn là muôn
vàn, những thử thách là trời biển nhưng với bản chất cần cù, chịu thương chịu khó,
với ý thức vì cháu con, vì dân tộc họ đã đứng vững, vượt qua và mở ra một không
gian sinh tồn cho Đất Nước thêm gấm hoa, trù phú, cho “không gian mênh mông”.

 Nhân Dân đã hóa thân thành tên núi, tên sông, hóa thân thành tên xã, tên làng, và
cũng vì tên xã tên làng gần gũi, thân thuộc mà thiêng liêng, cao quý nên họ đã “Gánh
theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân”.Vậy nên, mỗi địa danh đâu chỉ đơn
thuần là tên gọi mà nó là máu xương, là linh hồn mà Nhân Dân đã “góp”, đã vun đắp,
kí thác một cách âm thầm, bền bỉ cho sự vẹn tròn của Đất Nước. Cũng chính vì thế
mà:

“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi


Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.”

 Trên phương diện lịch sử:

 Tác giả giúp cho người đọc hình dung về lịch sử 4000 năm của ĐN. Nó bắt đầu từ
thời bình nguyên dựng nước, giữ nước qua truyền thuyết Thánh Gióng thời Hùng
Vương đến thời của Bà Đen , Bà Điểm.

 Nhân Dân không những tạo nên dáng hình xứ sở mà còn xây dựng, bảo vệ tổ quốc
suốt bốn nghìn năm qua. Trong tác phẩm, tác giả không liệt kê các chiến công oai
hùng, không nêu gương một cá nhân kiệt xuất nào mà bằng sức gợi của “thời gian
đằng đẵng” đã giúp cho người đọc hình dung về sự đóng góp của “bốn nghìn lớp
người giống ta lứa tuổi” cho ĐN thân yêu.

 Từ thời Vua Hùng dựng nước, giữ nước qua truyền thuyết Thánh Gióng đánh giặc Ân
cho đến thời của những anh hùng tạo nên vùng đất mới như Ông Đốc, Bà Đen… là
hàng ngàn năm lịch sử hào hùng. Trong suốt thời gian “đằng đẵng” đó, lịch sử đã ghi
công biết bao anh hùng nhân dân đã quên mình, đã xả thân vì độc lập của dân tộc.
Lịch sử cũng ghi dấu bao trận chiến oanh liệt, hào hùng; bao nỗi nhục nhã, ê chề của
quân xâm lược.
 Việt Nam là một đất nước hòa hiếu, trọng tình nghĩa, yêu chuộng hòa bình nhưng khi
“có ngoại xâm thì chống ngoại xâm”, “có nội thù” thì sẵn sàng “vùng lên đánh bại”.
Tiếng nói đầu tiên của cậu bé xuất thân từ Nhân Dân là tiếng nói đánh giặc. Từ một
cậu bé lên ba không biết nói biết cười nhưng khi nghe ĐN có giặc ngoại xâm đã
“vươn vai đứng dậy, lớn nhanh như thổi”… Sự lớn mạnh đó là do đâu? Vị cha già
kính yêu của dân tộc ta từng nói : “ Nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó
là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy
càng sôi nổi…” Phải chăng Nhân Dân là Phù Đổng Thiên Vương và khi tổ quốc cần,
Nhân Dân đoàn kết lại như một “làn sóng vô cùng mạnh mẽ” để nhấn chìm lũ bán
nước và cướp nước? Nhân Dân đoàn kết sẽ “nổi gió to quét sạch lá khô – Thông tổ
kiến phá toang đê vỡ”? Hạt gạo phải “một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”,
những người nông dân vẫn lam lũ, chịu thương chịu khó, vẫn “cui cút làm ăn” nhưng
họ vẫn biết “mến việc nghĩa mà làm quân chiêu mộ”. Nhân Dân biết trắng đen, phải
trái, họ biết có “một khối xa thư đồ sộ”, biết nỗi nhục của phận nô lệ:

“Một khối xa thư đồ sộ há để ai chém rắn đuổi hươu


Hai vầng nhật nguyệt chói lòa đâu dung lũ treo dê bán chó”
( Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – NĐC)
 Không mơ hồ, trừu tượng, không quá xa xôi, kì vĩ, ĐN của NKĐ là “ Đất Nước của
Nhân Dân”, là “ ĐN của ca dao thần thoại”. Lời thơ thủ thỉ, tâm tình, nhẹ nhàng, đầy
suy nghiệm nhưng vô cùng triết lí. Tác giả đã diễn tả sự hi sinh âm thầm, bền bỉ,
không “đợi ai đòi ai bắt”, không cần ghi công, khắc ghi tên tuổi mà họ tự nguyện, dẫn
thân như một lẽ thường tình, như một đạo lí, như một điều họ cho là lẽ phải. Khi có
giặc thì người con trai ra trận để bảo vệ quê hương, người con gái làm hậu phương
vững chắc, chi viện cho tiền tuyến và “ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”.

 Nhân Dân biết yêu, biết căm hờn và biết phải hi sinh. Ruộng nương họ “gửi bạn thân
cày” để “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”, họ “xếp bút nghiên theo việc đao
cung” dù biết “chiến tranh đâu phải trò đùa” nhưng vẫn ra đi “chẳng tiếc đời xanh”.
Họ là người nông dân chân lấm tay bùn, “ngoài cật có một manh áo vải”; họ là những
chàng trai Hà Thành hào hoa, đa tình; họ là những chị dân công hỏa tuyến, những cô
gái mở đường; họ là những người mẹ Việt Nam “ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm
lặng lẽ”…

You might also like