Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 61

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT

BÀI TẬP NHÓM


Bộ môn: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã lớp học phần: HIS1001 K67D
Giảng viên: TS. Phạm Thị Lương Diệu

THÀNH VIÊN NHÓM 10


STT Họ và tên MSSV
1 Nguyễn Châu Anh 20064003
2 Nguyễn Phạm Hồng Ánh 20064065
3 Nguyễn Thanh Bình 20064010
4 Nguyễn Thị Hương Giang 20064021
5 Lương Đỗ Khánh Linh 20064036
6 Nguyễn Thị Tú Linh 20064037
7 Đèo Đức Long 22061208
8 Vũ Thị Trà Mi 22061223
9 Chu Thị Nhiên 20064047
10 Khổng Thị Phương 22061279

1 11/2023
Hà Nội,
MỤC LỤC

Đề tài 1. Quá trình thống nhất đất nước về mặt Nhà nước của Việt Nam sau
tháng 4-1975..............................................................................................................3

TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................10

Đề tài 2. Con đường đi lên CNXH ở Việt Nam được xác định ở thời kỳ trước
Đổi mới (được xác định tại Đại hội IV, V) ..........................................................11

TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................22

Đề tài 3. Khái quát về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam Tổ quốc.
Tìm hiểu về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc Tổ quốc năm 1979.
..................................................................................................................................23

TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................33

Đề tài 4. Đại hội VI (12-1986) (Tại sao Việt Nam phải tiến hành đổi mới? Nội
dung cơ bản của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng). ................35

TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................43

Đề tài 5. Khái quát công cuộc Đổi mới toàn diện ở Việt Nam từ Đại hội VI (12-
1986) đến Đại hội XIII (1-2021) về chủ trương (qua Cương lĩnh 1991; Cương
lĩnh bổ sung 2011) ..................................................................................................44

TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................58

BẢNG ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN NHÓM ........................................................61

2
Đề tài 1. Quá trình thống nhất đất nước về mặt Nhà nước của Việt Nam
sau tháng 4-1975.
(Hoàn cảnh? Lý do Đảng chủ trương thống nhất nước nhà về mặt Nhà
nước? Chỉ đạo của Đảng để thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước? Kết quả, ý
nghĩa?)

Bài làm
1. Hoàn cảnh
• Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc thắng lợi vào
ngày 30/4/1975, đất nước Việt Nam được thống nhất về mặt lãnh thổ. Tuy
nhiên, ở mỗi miền vẫn tồn tại một hình thức tổ chức nhà nước khác nhau. Điều
này trái với nguyện vọng của nhân dân cả nước là được sum họp trong một đại
gia đình, mong muốn có một chính phủ thống nhất, một cơ quan đại diện chung
cho nhân dân cả nước.
• Để đáp ứng nguyện vọng đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ
trương hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước. Chủ trương này được
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng thông qua vào tháng 12/1976.

2. Lý do Đảng chủ trương thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước?
• Cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam đã mang lại một loạt thắng
lợi đáng kể, không chỉ bao gồm việc giành lại độc lập chủ quyền và thống
nhất lãnh thổ mà còn chấm dứt tình trạng đất nước bị chia cắt. Sau những
thành công trong cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung lần đầu tiên vào
năm 1946, nước Việt Nam đã hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà
nước. Điều này đã dẫn đến quyết định của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
tiến hành cuộc tổng tuyển cử chung toàn quốc lần thứ hai.

3
Tuy nhiên, sau chiến thắng lịch sử vào ngày 30/4/1975, nước Việt Nam
đã thống nhất hoàn toàn, nhưng về mặt tổ chức nhà nước, hai miền Bắc và
Nam lại có các hình thức khác nhau. Ở Miền Bắc, Quốc hội là cơ quan quyền
lực cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, với các cấp Hội đồng
nhân dân và Ủy ban hành chính địa phương. Trong khi ở Miền Nam, tồn tại
Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Hội đồng
cố vấn của Chính phủ, cùng với các cấp Ủy ban nhân dân cách mạng ở địa
phương.

• Với nguyện vọng của nhân dân là thống nhất sớm giữa hai miền, Hội
nghị lần thứ 24 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào tháng 9/1975 đã
đặt ra nhiệm vụ thống nhất đất nước. Hội nghị đã nhấn mạnh rằng “Thống
nhất đất nước không chỉ là nguyện vọng của nhân dân mà còn là quy luật tự
nhiên của sự phát triển cách mạng Việt Nam và lịch sử dân tộc Việt Nam.”
Từ đó, các công việc để đạt được thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã
được triển khai nhanh chóng.

3. Chỉ đạo của Đảng để thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước?
a. Về phương hướng, mục tiêu:
Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc thắng lợi,
Đảng đã xác định rõ phương hướng, mục tiêu thống nhất nước nhà về mặt
Nhà nước là:

• Thành lập một Nhà nước thống nhất, có chính phủ thống nhất, đại diện
cho toàn thể nhân dân Việt Nam.
• Xây dựng một xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

b. Về chủ trương, chính sách:

4
Để thực hiện mục tiêu thống nhất đất nước về mặt Nhà nước, Đảng đã
đề ra những chủ trương, chính sách cụ thể, trong đó có:

• Thành lập Ủy ban liên hiệp chính trị thống nhất Việt Nam (gọi tắt là Ủy
ban Thống nhất) để lãnh đạo, chỉ đạo công cuộc thống nhất đất nước về mặt
Nhà nước.
• Tổ chức Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung trong cả nước.
• Ban hành Hiến pháp mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.

c. Về biện pháp thực hiện:


• Để thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách, Đảng đã chỉ đạo các
cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân tích cực tuyên truyền, vận động, giáo dục nhân dân hiểu rõ ý nghĩa, tầm
quan trọng của việc thống nhất đất nước về mặt Nhà nước. Đồng thời, Đảng
cũng chỉ đạo các lực lượng vũ trang nhân dân làm tốt công tác bảo vệ an ninh
quốc gia, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi để thực hiện thống
nhất đất nước.

d. Chi tiết các bước thực hiện:


Bước 1: Thành lập Ủy ban liên hiệp chính trị thống nhất Việt Nam
• Đây là bước đầu tiên, quan trọng để lãnh đạo, chỉ đạo công cuộc thống
nhất đất nước về mặt Nhà nước. Ủy ban Thống nhất đã được thành lập theo
Nghị quyết của Bộ Chính trị ngày 20/1/1976. Ủy ban Thống nhất có nhiệm
vụ lãnh đạo, chỉ đạo công cuộc thống nhất đất nước về mặt Nhà nước.
• Ủy ban Thống nhất có 219 ủy viên, trong đó có 116 ủy viên do Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam miền Nam cử ra, 103 ủy viên do Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam miền Bắc cử ra.
5
• Chủ tịch Ủy ban Thống nhất là ông Lê Đức Thọ, Phó Chủ tịch Ủy ban
Thống nhất là ông Phạm Hùng, ông Võ Văn Kiệt.

Bước 2: Tổ chức Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung trong cả nước

Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung trong cả nước là một sự kiện trọng
đại, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Trong cuộc
Tổng tuyển cử này, nhân dân cả nước đã bầu ra Quốc hội khóa VI, có 492 đại
biểu, trong đó có 247 đại biểu miền Bắc và 245 đại biểu miền Nam.

• Bước 3: Ban hành Hiến pháp mới của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam

Hiến pháp mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được
Quốc hội khóa VI thông qua ngày 2/7/1976. Hiến pháp mới của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định về thể chế chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thống nhất.

4. Kết quả

Với sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng, sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc,
nhân dân Việt Nam đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ thống nhất đất nước về mặt
Nhà nước, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và phát triển đất nước trong
thời kỳ mới.

5. Ý nghĩa
Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước là một sự kiện lịch sử trọng
đại của dân tộc Việt Nam. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch

6
sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, chấm dứt 20 năm chia cắt đất nước, hoàn
thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam.

a. Tạo điều kiện chính trị cơ bản để phát huy sức mạnh toàn diện của đất
nước

Việc thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã tạo ra một bộ máy nhà nước thống
nhất, có khả năng lãnh đạo và quản lý đất nước một cách tập trung, thống nhất. Điều
này đã tạo điều kiện thuận lợi để phát huy sức mạnh toàn diện của đất nước, cả về
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh.
Trước khi thống nhất đất nước về mặt nhà nước, đất nước ta bị chia cắt thành
hai miền Nam - Bắc với hai chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội khác nhau. Sự
chia cắt này đã gây ra nhiều khó khăn, hạn chế cho sự phát triển của đất nước. Việc
thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã xóa bỏ sự chia cắt đó, tạo ra một cơ sở chính
trị vững chắc để phát huy sức mạnh toàn diện của đất nước.

b. Tạo điều kiện thuận lợi để cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội

Việc thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã tạo ra một cơ sở vững chắc để cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở đó, Việt Nam đã thực hiện thắng lợi công
cuộc đổi mới, đưa đất nước phát triển toàn diện, đạt được nhiều thành tựu to lớn.
Sau khi thống nhất đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo toàn dân thực
hiện nhiều chủ trương, chính sách nhằm thống nhất đất nước về kinh tế, văn hóa, xã
hội. Nhờ đó, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội.

c. Góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế

7
Việc thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã góp phần nâng cao vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế. Việt Nam đã trở thành một quốc gia thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, có tiềm năng và vị thế ngày càng cao trong khu vực và trên thế giới.
Sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam đã tích cực tham gia các hoạt động quốc
tế, xây dựng mối quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước trên thế giới. Nhờ đó, vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.

d. Tạo điều kiện để giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội của đất nước

Việc thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã tạo điều kiện để giải quyết các
vấn đề kinh tế - xã hội của đất nước, như: phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo,
nâng cao đời sống nhân dân,...
Trước khi thống nhất đất nước, miền Bắc đã đạt được những thành tựu to lớn
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Miền Nam cũng đã đạt được những
thành tựu trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ chiến tranh. Việc
thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã tạo ra cơ hội để hai miền hợp tác, phát triển
kinh tế - xã hội, giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội của đất nước.

e. Tạo điều kiện để bảo vệ vững chắc Tổ quốc

Việc thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã tạo điều kiện để bảo vệ vững chắc
Tổ quốc, ngăn chặn các thế lực thù địch gây chia rẽ, phá hoại đất nước.
Trước khi thống nhất đất nước, đất nước ta bị chia cắt thành hai miền, tạo điều
kiện cho các thế lực thù địch lợi dụng, gây chia rẽ, phá hoại đất nước. Việc thống
nhất đất nước về mặt nhà nước đã xóa bỏ sự chia cắt đó, tạo ra một sức mạnh tổng
hợp để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
=> Việc hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước là một thành quả to
lớn của cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài của nhân dân Việt Nam. Đây là một mốc

8
son chói lọi trong lịch sử dân tộc, là nguồn cổ vũ to lớn để toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta tiếp tục phấn đấu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

9
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam (dành cho bậc đại học không
chuyên lý luận chính trị). Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật
2. Lê Văn Long (2023). Ý nghĩa việc hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà
nước. Luật Dương Gia.
Link: https://luatduonggia.vn/y-nghia-viec-hoan-thanh-thong-nhat-dat-
nuoc-ve-mat-nha-nuoc/#22_Qua_trinh_thong_nh
3. Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước (1975-1976) | SGK Lịch sử
12.Loigiaihay.com.
Link: https://loigiaihay.com/hoan-thanh-thong-nhat-dat-nuoc-ve-mat-
nha-nuoc-c87a8456.html

10
Đề tài 2. Con đường đi lên CNXH ở Việt Nam được xác định ở thời kỳ trước
Đổi mới (được xác định tại Đại hội IV, V) – Làm rõ các bước đổi mới bộ phận/
cục bộ/ từng phần ở Việt Nam (1979-1986)? Tác động của chúng?

Bài làm
Sau khi thống nhất đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là "chủ nghĩa xã hội trên nền tảng kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước". Con
đường này được thể hiện trong các văn kiện của Đảng, cụ thể là:

• Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa IV (tháng
9/1979): lần đầu tiên Đảng đưa ra quan điểm phát triển kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần.
• Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa IV (tháng
12/1979): nhấn mạnh vai trò của kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội.
• Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa V (tháng
7/1982): đề ra những giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần.
Tuy nhiên, trong thực tế, con đường này gặp phải nhiều khó khăn, thách thức, dẫn
đến tình trạng kinh tế trì trệ, khủng hoảng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương đổi mới kinh tế, bắt đầu
từ những bước đổi mới bộ phận, cục bộ, từng phần.

Các bước đổi mới bộ phận, cục bộ, từng phần ở Việt Nam (1979-1986)

Đổi mới trong nông nghiệp:

11
• Năm 1979, thực hiện chủ trương khoán sản phẩm theo hộ gia đình ở Vĩnh
Phúc.
• Năm 1981, thực hiện khoán sản phẩm theo nhóm ở một số địa phương.
• Năm 1985, thực hiện khoán sản phẩm theo đầu người ở toàn quốc.

Đổi mới trong công nghiệp:


• Năm 1979, thực hiện khoán sản phẩm theo doanh nghiệp.
• Năm 1981, thực hiện khoán sản phẩm theo nhóm và hộ trong công nghiệp.
• Năm 1985, thực hiện khoán sản phẩm theo đầu người trong công nghiệp.

Đổi mới trong thương mại:


• Năm 1981, thực hiện mở cửa biên giới, cho phép các doanh nghiệp được phép
xuất nhập khẩu.
• Năm 1985, thực hiện xóa bỏ các trạm kiểm soát không cần thiết, cho phép
người dân được tự do mua bán.

Đổi mới trong tài chính - ngân hàng:


• Năm 1981, thực hiện cải cách hệ thống ngân hàng, thành lập ngân hàng Nhà
nước Việt Nam.
• Năm 1985, thực hiện cho vay tín dụng theo lãi suất.
• Tác động của các bước đổi mới bộ phận, cục bộ, từng phần

Các bước đổi mới bộ phận, cục bộ, từng phần ở Việt Nam (1979-1986) đã mang
lại những tác động tích cực, giúp cải thiện tình hình kinh tế - xã hội đất nước,
cụ thể:
• Tăng sản lượng nông nghiệp: Nhờ khoán sản phẩm theo hộ gia đình, sản lượng
nông nghiệp tăng nhanh, đời sống nông dân được cải thiện.

12
• Tăng sản lượng công nghiệp: Nhờ khoán sản phẩm theo doanh nghiệp, sản
lượng công nghiệp tăng, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động.
• Tăng thu nhập của người dân: Nhờ mở cửa biên giới, cho phép người dân
được tự do mua bán, thu nhập của người dân tăng lên.

=> Ý nghĩa: Các bước đổi mới bộ phận/ cục bộ/ từng phần ở Việt Nam (1979-1986)
có ý nghĩa quan trọng, tạo tiền đề cho quá trình đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt
để được thực hiện từ Đại hội VI của Đảng (1986).

Tuy nhiên, các bước đổi mới này vẫn còn mang tính chất cục bộ, chưa có sự đồng
bộ và toàn diện, chưa giải quyết được những vấn đề căn bản của nền kinh tế. Vì vậy,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để từ
Đại hội VI (1986).

Chi tiết các Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc:
1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (tháng 12/1976):
Đến Đại hội IV của Đảng (tháng 12/1976), với khí thế của người chiến thắng,
Đảng ta đã đề ra đường lối đẩy nhanh quá trình đi lên CNXH trên phạm vi cả nước.
Đại hội IV cũng xác định đường lối chung cách mạng XHCN ở nước ta là:
nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, tiến
hành đồng thời 3 cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa
học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học - kỹ
thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN là nhiệm vụ trung tâm của thời
kỳ quá độ lên CNXH; xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN, xây dựng nền sản
xuất lớn XHCN, xây dựng nền văn hóa mới, con người mới XHCN; xóa bỏ chế độ
người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu…; xây dựng thành công Tổ quốc Việt
Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và XHCN; không ngừng đề cao cảnh giác, thường

13
xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; góp phần tích
cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và CNXH.
Phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế và văn hóa (1976 -
1980) nhằm hai mục tiêu cơ bản và cấp bách là đảm bảo nhu cầu của đời sống nhân
dân, tích lũy để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; đẩy mạnh
cách mạng tư tưởng và văn hóa, xây dựng và phát triển nền văn hóa mới; tăng cường
nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trò của đoàn thể; coi trọng nhiệm vụ củng
cố quốc phòng, an ninh chính trị và trật tự xã hội; coi trọng nhiệm vụ quốc tế và
chính sách đối ngoại của Đảng; nâng cao vai trò và sức chiến đấu của Đảng. Đại hội
lần thứ IV của Đảng còn bộc lộ một số hạn chế nhất định như chưa phát hiện khuyết
điểm của mô hình CNXH sau chiến tranh, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng với
quy mô lớn, đề ra chỉ tiêu kinh tế nông nghiệp và công nghiệp thiếu tính thực tế,...
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IV, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
đã tập trung chủ yếu vào chỉ đạo phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp và phân
phối lưu thông.

2. Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa IV (8-1979), họp
bàn về những vấn đề cấp bách về kinh tế – xã hội và sản xuất hàng tiêu dùng.
Hội nghị đã có những đổi mới tư duy quan trọng, thể hiện trên những nội dung cơ
bản sau:
Trước hết, hội nghị đã nhìn thẳng vào sự thật, vạch rõ những khuyết điểm, sai
lầm trong lãnh đạo kinh tế: xây dựng kế hoạch tập trung quan liêu, cha kết hợp chặt
chẽ kế hoạch hóa với sử dụng thị trường, cha sử dụng đúng đắn các thành phần kinh
tế, cha khắc phục sự bảo thủ, trì trệ trong việc xây dựng các chính sách kinh tế cụ
thể.
Hai là, hội nghị chủ trương phải ban hành các chính sách phát triển sản xuất
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Trước hết là sản

14
xuất nông nghiệp, với các chính sách nhằm ổn định mức nghĩa vụ lương thực trong
5 năm, phần còn lại bán cho nhà nước với giá thỏa thuận và được tự do lưu thông.
Ba là, hội nghị xác định rõ: Phải tận dụng các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh, tập thể kể cả tư bản tư nhân để tận dụng mọi khả năng lao động, cơ sở vật
chất, kỹ thuật, trình độ quản lý, nhằm phát triển sản xuất.
Bốn là, về cải tạo đối với nông nghiệp ở miền Nam phải nắm vững phương
châm tích cực và vững chắc, hiện nay phải nhấn mạnh tính vững chắc, không nóng
vội, chủ quan, cưỡng ép theo mệnh lệnh, làm ồ ạt gây thiệt hại cho sản xuất và đời
sống của nhân dân.
Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IV), đánh dấu
bước mở đầu của quá trình tìm tòi đổi mới của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Tuy chưa toàn diện, đầy đủ nhưng đó là bước mở đầu có ý nghĩa
quan trọng. Tư tưởng cơ bản của Nghị quyết là "làm cho sản xuất bung ra", khắc
phục những khuyết điểm, sai lầm trong lãnh đạo, quản lý kinh tế, sử dụng các thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể để phát triển sản xuất, ổn định cải thiện
đời sống nhân dân. Nghị quyết ra đời được nhân dân cả nước hồ hởi đón nhận, bước
đầu phát huy tác dụng tích cực. Nhưng sau một thời gian thực hiện lại xuất hiện
những tiêu cực mới: sản xuất bung ra ít hơn so với dịch vụ; sản xuất quốc doanh
bung ra ít hơn so với sản xuất tập thể và cá thể; hàng lậu, hàng giả xuất hiện nhiều
giá cả ngày càng tăng cao. Điều đó chứng tỏ những tìm tòi, đổi mới của Hội nghị
lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IV chưa đủ sức tháo gỡ khó khăn
do thực tiễn đặt ra, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục tìm tòi, đổi mới.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương VI, tháng 9/1979, Hội đồng Chính phủ ra
quyết định tận dụng đất đai nông nghiệp hoang hóa để phát triển sản xuất. Tháng
10/1979, Hội đồng Chính phủ công bố quyết định xóa bỏ các trạm kiểm soát không
cần thiết, xóa bỏ ngăn sông, cấm chợ. Người sản xuất sau khi làm tròn nghĩa vụ với
Nhà nước có quyền được đa sản phẩm dư thừa ra trao đổi trên thị trường. Những

15
chính sách trên được lòng dân, khuyến khích nông dân phát triển sản xuất. Nhà nước
và nhân dân ngày càng đầu tư cao cho sản xuất nông nghiệp. Do đó, năm 1979 sản
lượng lương thực tăng 1.718.500 tấn so với năm 1978.
Trong khó khăn ở một số địa phương, quần chúng nhân dân mạnh dạn tìm tòi,
đổi mới tìm lối thoát, “khoán chui” trong các hợp tác xã nông nghiệp, “xé rào” trong
các doanh nghiệp Nhà nước xuất hiện, ở những nơi đó sản xuất phát triển, đời sống
nhân dân được cải thiện. Nhờ sớm nắm bắt nhu cầu thực tiễn, kịp thời tổng kết thực
tiễn, ngày 22/06/1980. Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Thông báo số 22 về khoán
thí điểm xây lúa trong các hợp tác xã nông nghiệp.
Rút kinh nghiệm khoán thí điểm xây lúa theo Thông báo số 22, 13/01/1981,
Ban Bí thư ra Chỉ thị 100/CT-TW về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động
trong các hợp tác xã nông nghiệp (thường gọi tắt là khoán 100). Theo chỉ thị này,
mỗi xã viên nhận được mức khoán theo diện tích và tự mình cày cấy, chăm sóc, thu
hoạch, còn những khâu khác do hợp tác xã đảm nhiệm. Nếu thu hoạch vượt mức
khoán sẽ được hưởng và tự do mua bán. Thực hiện chỉ thị này với sự ủng hộ của
nông dân cả nước, nông nghiệp có bước phát triển tốt trong thời gian đầu, sau đó
dần chững lại, chứng tỏ Chỉ thị 100 chưa đủ sức tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong
sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận được thực tế là sản lượng
lương thực bình quân từ 13,4 triệu tấn/ năm (1976 - 1980) tăng lên tới 17 triệu
tấn/năm (1981 - 1985).
Trong lĩnh vực công nghiệp. Trên cơ sở tổng kết các hiện tượng “xé rào” và
làm thí điểm nhằm phát triển công nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh, Long An. Chính
phủ ra Quyết định 25/QĐ-CP (1/1981) về quyền chủ động sản xuất kinh doanh và
quyền tự chủ tài chính của các xí nghiệp quốc doanh. Quyết định quy định cho các
cơ sở thực hiện đúng kế hoạch ba phần (phần nhà nước giao, phần tự làm và phần
sản xuất phụ).

16
Cùng ngày 21 tháng 1 năm 1981, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định
26/QĐ-CP về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng
hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước. Ngoài ra,
còn có Quyết định số 26/CP về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản
phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của
Nhà nước. Những chủ trương, chính sách đúng đắn trên, góp phần làm cho sản xuất
công nghiệp năm 1981 đạt kế hoạch đề ra, riêng công nghiệp địa phương tăng 7,5%
(vượt kế hoạch đề ra).
Cùng với những chủ trương đổi mới từng phần trong lĩnh vực kinh tế xã hội,
Đảng còn quan tâm tới những vấn đề về chính sách đối ngoại. Ngoài ra, cũng quan
tâm kiện toàn bộ máy Nhà nước, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường công tác
xây dựng Đảng, bảo đảm cho Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đủ
sức lãnh đạo, để cách mạng tiến lên.
Nhìn tổng quát, thời kỳ 1979 – 1981. Đảng có nhiều đổi mới, nhưng chủ yếu
trong lĩnh vực kinh tế. Điều đó phản ánh đúng thực tiễn nước ta đang lâm vào cuộc
khủng hoảng kinh tế – xã hội. Những chủ trương, chính sách đổi mới thời kỳ này là
những giải pháp mang tính thế, nhằm tháo gỡ những khó khăn trước mắt. Qua tổ
chức thực tiễn đã đem lại nhiều kết quả, song chưa vững chắc. Điều đó chứng tỏ
những tìm tòi, đổi mới đó chưa mang tính toàn diện, chưa đủ sức giải quyết những
vấn đề do thực tiễn đặt ra, đòi hỏi cần tiếp tục đổi mới hơn nữa.

3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (tháng 3/1982): Đại hội đã đánh giá
tình hình kinh tế – xã hội sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IV, trên cơ sở đó
đề ra một số chủ trương, chính sách có tính đổi mới quan trọng.
Một là, bên cạnh việc khẳng định những thành tựu đạt được sau những năm
triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IV, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của
Đảng cũng đã chỉ ra những khuyết điểm sai lầm như : chưa thấy hết những khó khăn

17
phức tạp của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế mà sản xuất nhỏ
là phổ biến ;... Đại hội còn chỉ ra những tư tưởng bảo thủ, trì trệ duy trì quá lâu cơ
chế quản lý hành chính quan liêu, bao cấp, chậm thay đổi các chính sách và chế độ
đã kìm hãm sản xuất.
Đại hội cũng chỉ rõ, khuyết điểm, sai lầm về lãnh đạo và quản lý kinh tế là
nguyên nhân chủ yếu gây ra, hoặc làm trầm trọng thêm khó khăn về kinh tế – xã hội
trong những năm qua.
Vạch ra khuyết điểm, sai lầm và nguyên nhân của những khuyết điểm sau lầm
nói trên cũng thể hiện sự đổi mới trong tư duy của Đảng.
Hai là, Đại hội xác định thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là lâu
dài, trải qua nhiều bước quá độ ngắn, đồng thời chỉ rõ chúng ta đang ở chặng đường
đầu tiên của thời kỳ quá độ. Đại hội đã nêu ra các nhiệm vụ về chính trị, kinh tế, văn
hoá xã hội, quốc phòng – an ninh trong chặng đường đầu tiên.
Ba là, Đại hội xác định hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta trong
giai đoạn mới là : xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ; nêu rõ vị trí, mối quan hệ của
hai nhiệm vụ chiến lược đó.
Bốn là, Đại hội điều chỉnh nội dung công nghiệp hóa trong chặng đường đầu
tiên : tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu,
đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ; ra sức đẩy mạnh sản
xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp hàng tiêu dùng
và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công – nông nghiệp hợp lý.

4. Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (1982-1986)
Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
tiến hành 11 hội nghị, trong đó có 8 hội nghị chuyên bàn về phát triển kinh tế – xã
hội.

18
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá V (6/1983) bàn về những
vấn đề cấp bách về tư tưởng và tổ chức bảo đảm thực hiện nhiệm vụ kinh tế – xã
hội. Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá V (12/1983), đánh giá
tình hình kinh tế – xã hội nước ta đang có nhiều chuyển biến đi lên, song vẫn còn
nhiều khó khăn và mất cân đối lớn, Hội nghị xác định trong hai năm 1985 – 1985
phấn đấu bảo đảm ổn định tình hình kinh tế – xã hội.
Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá V (7/1984), bàn về
phân phối, lưu thông. Hội nghị nhận định chính sách giá, lương, tiền không còn phù
hợp với thực tế, hội nghị chủ trương đẩy mạnh thu mua nắm nguồn hàng, quản lý
chặt chẽ thị trường tự do và thực hiện điều chỉnh giá cả, tiền lương, tài chính cho
phù hợp với thực tế.
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá V (12/1984) bàn về kế
hoạch Nhà nước năm 1985, nhận định : Sản xuất lưu thông có chuyển biến khoá hơn
trước, nhiều nhân tố mới xuất hiện trong nông nghiệp, công nghiệp và phân phối,
lưu thông trong nền kinh tế nước ta còn nhiều bất cập, đời sống nhân dân còn nhiều
khó khăn, tiêu cực xã hội có chiều hướng gia tăng.
Trước tình hình trên, tháng 6/1985, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành
Trung ương khóa V, bàn về giá, lương, tiền. Đây được coi là điểm đột phá thứ hai
trong quá trình tìm tòi, đổi mới kinh tế của Đảng. Hội nghị cho rằng: phải dứt khoát
xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, thực hiện đúng chế độ tập trung dân chủ,
hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Khâu đột phá có tính chất quyết
định để chuyển hẳn nền kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa là xóa
quan liêu, bao cấp qua giá và lương. Nội dung chính giải quyết giá, lương, tiền là:
Thực hiện cơ chế một giá (tính chủ chi phí trong giá thành sản phẩm); bảo đảm tiền
lương thực tế cho người hưởng lương sống chủ yếu bằng lương, xoá bỏ cung cấp
bằng hiện vật; các cơ sở sản xuất, xác địa phương chuyển hẳn mọi hoạt động sản

19
xuất, kinh doanh sang chế độ hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ mọi
khâu bù lỗ bất hợp lý trừ trường hợp cá biệt.
Hội nghị này đánh dấu sự đổi mới tư duy một cách căn bản trên lĩnh vực phân
phối, lưu thông của Đảng. Tinh thần cơ bản là thừa nhận sản xuất hàng hoá, coi trọng
thị trường. Sau Hội nghị Trung ương lần thứ tám, Chính phủ tiến hành tổng điều
chỉnh giá, lương, tiền lần thứ hai, bắt đầu từ việc đổi tiền, ban hành một số giá mới
và tiền lương mới, xoá bỏ hoàn toàn giá cung cấp và chế độ tim phiếu, chỉ giữ lại sổ
gạo cho người ăn lương. Đổi tiền (1 đồng mới = 10 đồng cũ), thay đổi tỷ giá hối đoái
17 đồng thành 210 đồng RCN (rúp chuyển nhượng). Cuộc điều chỉnh về giá, lương,
tiền đã là cho cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trở nên trầm trọng.
Hội nghị Bộ chính trị khóa V (tháng 8/1986) đưa ra kết luận về một số vấn đề
thuộc quan điểm kinh tế. Đây là bước đột phá thứ ba về đổi mới kinh tế, cũng là
bước quyết định cho sự ra đời của đường lối mới của Đảng:
Về cơ cấu sản xuất, cần tiến hành một cuộc điều chỉnh về cơ cấu sản xuất và cơ cấu
đầu tư theo hướng lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Ra sức phát triển công
nghiệp nhẹ. Phát triển công nghiệp nặng phải có sự lựa chọn về quy mô và nhịp độ,
chủ trọng quy mô vừa và nhỏ.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa: Phạm nhiều khuyết điểm trong cải tạo xã hội chủ
nghĩa. Vì thế nên phải cẩn thận lựa chọn bước đi và hình thức thích hợp trên quy mô
cả nước cũng như từng vùng, lĩnh vực, đi từ bước nhỏ. Đây là việc cần nhiều thời
gian nên không thể nóng vội.
Về cơ quan quản lý kinh tế: Các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ trong sản xuất,
kinh doanh, lỗ lãi tự chịu trách nghiệm. Bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế, làm cho hai mặt ăn khớp với nhau tạo ra động lực mới
thúc đẩy sản xuất phát triển.
Từ năm 1976 đến năm 86 của thế kỷ XX, là thời kỳ Đảng ta lãnh đạo đổi mới
từng phần, từng lĩnh vực riêng lẻ để đi lên con đường XHCN. Quá trình đó tư duy

20
mới của Đảng về chủ nghĩa xã hội, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
từng bước được phát triển từ những tổng kết khảo nghiệm trong quá khứ. Thêm vào
đó, một số tư duy đã lỗi thời của chủ nghĩa xã hội không còn phù hợp ngay cả trên
lý luận lẫn thực tiễn cũng được khắc phục, xóa bỏ. Có thể nói, tuy còn nhiều hạn chế
song ta không thể phủ nhận được những đột phá của đổi mới đã tạo ra một số thành
tựu cho Đất nước.

21
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam (2021), NXB Chính trị Quốc gia
Sự thật.
2. https://www.studocu.com/vn/document/dai-hoc-su-pham-ha-noi/kien-
tap/con-duong-di-len-cnxh-o-viet-nam-duoc-xac-dinh-o-thoi-ky-truoc-
doi-moi/40380735
3. Nguyễn Thị Hiền (2010). Những cơ sở hình thành đường lối đổi mới của Đảng
tại Đại hội VI (1986)
https://truongchinhtri.kontum.gov.vn/vi/news/nghien-cuu-trao-
doi/nhung-co-so-hinh-thanh-duong-loi-doi-moi-cua-dang-tai-dai-hoi-vi-
1986-58.html

22
Đề tài 3. Khái quát về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam Tổ
quốc.
Tìm hiểu về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc Tổ quốc năm 1979.

Bài làm
1. Khái quát cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Tây Nam

1.1. Bối cảnh và nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến tranh:
Sau 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chỉ được hưởng hòa bình rất
ngắn ngủi, nhân dân Việt Nam lại phải bước vào cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở
biên giới Tây Nam. Sau khi lên nắm quyền, tập đoàn Pol Pot - Iang Sari đã thiết lập
chế độ độc tài, phá vỡ mọi quan hệ sản xuất, thiết chế xã hội, ra sức khủng bố, tàn
sát, thanh trừng có hệ thống, biến đất nước Campuchia thành “một lò sát sinh khổng
lồ, một địa ngục trần gian chìm trong máu và nước mắt”. Về đối ngoại, tập đoàn Pol
Pot không ngừng kích động tư tưởng thù hằn dân tộc với các quốc gia láng giềng,
phủ nhận trắng trợn lịch sử và truyền thống đoàn kết, hữu nghị của nhân dân Việt
Nam đã kề vai, sát cánh với nhân dân Campuchia trong hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; công khai đòi hoạch định lại biên giới Việt
Nam - Campuchia với những yêu sách vô lý.

• Đối với Campuchia: Cả đất nước Campuchia từ sau ngày 17/4/1975 đến
trước ngày 7/1/1979 chìm trong loạn lạc đẫm máu, khi chính quyền do Pol
Pot – Ieng Sary cầm đầu, xóa bỏ tận gốc mọi cơ sở xã hội khi xây dựng “nhà
nước mới” không chợ, không tiền, không trường học, không đô thị, không trí
thức, không tôn giáo – một xã hội nông nghiệp không tưởng với mô hình nhà
nước kỳ dị cưỡng bức nhân dân từ đô thị về nông thôn, dồn dân vào sâu trong
nội địa… Quyền lực tối cao của “Campuchia dân chủ” tập trung vào năm

23
“nhân vật”: Pol Pot, Noun Chea, Ieng Sary, Khieu Samphan, Ta Mok. Chúng
đẩy dân tộc Campuchia vào thảm họa diệt chủng tàn khốc; mở nhiều đợt thanh
trừng tàn bạo những thành phần chống đối, kể cả trong quân đội; gây xáo trộn
và mâu thuẫn nội bộ gay gắt. Chúng giết người không chỉ thông dụng bằng
cách bỏ đói, khát, bắt lao động kiệt sức, hoặc xử bắn hàng loạt, dùng chất nổ,
súng máy, hơi ngạt, mà còn có cách dã man như thời Trung cổ: Dùng cuốc,
mai, xẻng, dao rựa, dùi cui đánh đến chết. Chúng tàn sát trong các trại giam,
nhà tù, trường học, nhà chùa, giống như tàn sát ngay tại các giáo đường, các
điểm dừng giao thông, chợ, tại các gia đình ở Rwanda, hay Đức Quốc xã sát
nhân ở phòng thí nghiệm, phòng tập bắn, phòng áp lực, xe chứa, phòng tắm
hơi… Hàng chục vạn người Campuchia, trong đó có nhiều cán bộ, đảng viên
phải tìm cách chạy trốn sang Việt Nam.

• Đối với Việt Nam: Tập đoàn Pol Pot-Ieng Sary xâm phạm chủ quyền, lãnh
thổ Việt Nam, gây ra nhiều tội ác theo lối diệt chủng đối với nhân dân Việt
Nam. Chúng khiêu khích và nhiều lần gây xung đột quân sự trên các vùng
biên giới Việt Nam, tiến tới việc phát động cuộc chiến tranh đẫm máu sang
toàn tuyến biên giới Tây Nam của Việt Nam. Việt Nam chưa kịp khắc phụ
hậu quả nặng nề của chiến tranh thực dân mới, lại phải chịu thiệt hại rất lớn
từ thảm họa diệt chủng và chính sách gây chiến của tập đoàn Pol Pot – Ieng
Sary. Quân và dân Việt Nam thực hiện quyền tự vệ chính đáng của mình,
chiến đấu chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc thiêng liêng, đồng thời đáp lời kêu
gọi khẩn thiết của Mặt trận đoàn kết cứu nước Campuchia và nhân dân
Campuchia anh em, cứu giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng.

1.2. Tóm tắt diễn biến:

24
a. Giai đoạn 1 (từ ngày 30/4/1977 đến ngày 05/01/1978): Quân Pôn Pốt mở các
cuộc tiến công quy mô lớn sang lãnh thổ Việt Nam; cùng với việc tổ chức lực
lượng vũ trang đánh lui quân địch, Đảng, Nhà nước ta tiếp tục nỗ lực ngoại giao
nhằm tìm kiếm giải pháp hòa bình

Với dã tâm xâm lược, mở đầu cuộc chiến tranh, Pol Pot liên tiếp mở 3 cuộc tiến công
quy mô lớn sang lãnh thổ Việt Nam:
• Ngày 30/4/1977, chúng đánh vào 14/16 xã biên giới thuộc tỉnh An Giang, tàn
phá các bản làng, trường học, cơ sở sản xuất của ta, bắn pháo vào những nơi
đông dân cư ở sát biên giới và vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam. Trước hành
động xâm lược trắng trợn của quân Pôn Pốt, các lực lượng biên phòng và dân
quân, du kích các xã Vĩnh Xương, Vĩnh Gia, Nhân Hưng… đã anh dũng chiến
đấu, ngăn chặn địch, buộc quân Pôn Pốt rút về bên kia biên giới.
• Từ ngày 25/9/1977, quân Pôn Pốt mở cuộc tiến công lớn thứ 2 đánh sang địa
bàn các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Long An, Đồng Tháp lên hướng Tây
Ninh, gây nhiều tội ác đối với nhân dân Việt Nam. Trước diễn biến mới của
cuộc chiến tranh, do ta chưa tổ chức được tuyến phòng thủ biên giới, Bộ Tổng
Tham mưu quyết định sử dụng một bộ phận lực lượng chủ lực cơ động của
Bộ đánh lui các cuộc tiến công của quân Pôn Pốt ở nhiều khu vực trên biên
giới, giành lại những khu vực bị lấn chiếm, sau đó lui về củng cố lực lượng.
• Ngày 15/11/1977, quân Pôn Pốt lại mở cuộc tiến công mới nhằm đánh chiếm
thị xã Tây Ninh. Trước tình hình đó, từ 5/12/1977 đến 5/01/1978, quân đội ta
mở đợt phản công trên các hướng đường 7, đường 1, đường 2, truy kích quân
Pôn Pốt sâu vào đất Campuchia 20-30km; làm thất bại kế hoạch đánh chiếm
thị xã Tây Ninh của địch.
Ngày 31/12/1977, chúng ra tuyên bố vu khống Quân đội Việt Nam “tiến công xâm
lược Campuchia dân chủ” nhằm cô lập Việt Nam trên trường quốc tế. Cũng trong

25
ngày 31/12/1977, Chính phủ ta ra tuyên bố về vấn đề biên giới Việt Nam -
Campuchia, nêu rõ lập trường và nguyên tắc của ta là: Kiên quyết bảo vệ độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ mình; luôn luôn tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của Campuchia, làm hết sức mình để bảo vệ tình đoàn kết chiến đấu và
hữu nghị Việt Nam - Campuchia; vạch trần âm mưu thủ đoạn và những tội ác man
rợ của tập đoàn Pôn Pốt đối với đồng bào ta ở các tỉnh vùng biên giới Tây Nam.

b. Giai đoạn 2 (từ ngày 06/01/1978 đến ngày 07/01/1979): Tập đoàn phản động
Pôn Pốt tiến hành xâm lược trên toàn tuyến biên giới Tây Nam, Quân tình nguyện
Việt Nam mở cuộc tổng phản công và cùng quân dân Campuchia tiến công đánh
đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt
• Tháng 01/1978, Pôn Pốt tiếp tục gây xung đột, liên tục tiến công lấn chiếm,
bắn pháo vào những nơi đông dân cư, gây nhiều tội ác với đồng bào ta.
• Ngày 05/02/1978, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra
tuyên bố ba điểm: (1) Chấm dứt mọi hoạt động quân sự, rút lực lượng vũ trang
cách biên giới 5km; (2) Hội đàm tiến tới kí hiệp ước hữu nghị và không xâm
lược, kí hiệp ước về biên giới; (3) Thoả thuận về một hình thức thích hợp bảo
đảm thông lệ quốc tế và giám sát quốc tế. Phớt lờ thiện chí của ta, quân Pôn
Pốt tiếp tục huy động lực lượng áp sát biên giới và cho quân tiến công, xâm
nhập nhiều điểm trên địa phận nước ta; lực lượng của ta đã kiên quyết đánh
trả, giành lại các khu vực bị lấn chiếm.
• Từ ngày 26/3/1978, các đơn vị Quân đội ta chuyển sang tiến công, đẩy quân
Pôn Pốt lùi xa dần biên giới và dồn đối phương vào thế bị động, đối phó. Đòn
phản công quyết liệt của Việt Nam trên tất cả các mặt trận quân sự, chính trị,
ngoại giao đã đẩy quân Pôn Pốt vào tình thế khó khăn và tác động lớn đến
tình hình chính trị nội bộ Campuchia; đồng thời hỗ trợ trực tiếp cho phong
trào nổi dậy của lực lượng cách mạng Campuchia phát triển, đỉnh cao là cuộc

26
nổi dậy từ ngày 26/5/1978 ở Quân khu Đông, làm suy yếu một bộ phận lực
lượng quân Pôn Pốt.
• Quân dân Việt Nam thực hiện cuộc chiến tranh bảo vệ vững chắc biên giới Tổ
quốc, giúp đỡ và từng bước phối hợp với lực lượng bạn trong “Lực lượng vũ
trang cách mạng đoàn kết cứu nước Campuchia” (thành lập ngày 12/5/1978)
và Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia (ra đời ngày 2/12/1978).
• Từ ngày 22/12/1978 đến ngày 7/1/1979, Quân đội nhân dân Việt Nam tiến
hành cuộc tổng công kích giải phóng Campuchia: tấn công chớp nhoáng và
đánh bất ngờ vào thế trận tấn công-phòng thủ của địch, đẩy lui toàn bộ các
cánh quân Pol Pot xâm lấn về bên kia biên giới, giải phóng toàn bộ các địa
phương biên giới Tây Nam bị xâm chiếm; đồng thời quân đội nhân dân Việt
Nam cùng lực lượng cách mạng Campuchia tiến công vào các sào huyệt địch,
giải phóng thủ đô Phnom Penh, giải phóng hàng triệu dân Campuchia; đập tan
bộ máy thống trị của chế độ “Campuchia Dân chủ” từ Trung ương đến cơ sở.

c, Giai đoạn 3 (1980 - 1989): Việt Nam và Campuchia đàm phán hòa bình, kết
thúc cuộc chiến tranh.

1.3. Kết quả:


Cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam Tổ quốc đã kết thúc với thắng
lợi của Việt Nam. Việt Nam đã bảo vệ vững chắc biên cương, lãnh thổ của Tổ quốc,
cứu thoát nhân dân Campuchia khỏi thảm họa diệt chủng, góp phần vào hòa bình,
ổn định ở khu vực Đông Dương.

1.4. Ý nghĩa lịch sử:


• Đối với Việt Nam:

27
Thắng lợi trong cuộc đấu tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc có ý nghĩa
rất to lớn đối với Việt Nam: Một lần nữa khẳng định nhân dân Việt Nam với ý chí
độc lập, tự chủ và tinh thần đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế trong sáng, sẵn
sàng đập tan bất kỳ âm mưu và hành động chống phá nào của các thế lực phản động,
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; đồng thời thể
hiện tinh thần quốc tế cao cả, mối quan hệ truyền thống gắn bó thủy chung, lâu đời,
sự giúp đỡ trong sáng, chí nghĩa, chí tình của Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân
dân Việt Nam đối với nhân dân Campuchia.
• Đối với Campuchia:
Chiến thắng ngày 7/01/1979 có ý nghĩa lịch sử đặc biệt to lớn đối với vận mệnh đất
nước Campuchia: Đã xóa bỏ hoàn toàn chế độ diệt chủng của tập toàn Pôn Pốt, thành
lập chế độ Cộng hòa nhân dân Campuchia; cứu nhân dân Campuchia ra khỏi thảm
họa diệt chủng, giành lại quyền được sống, quyền làm người và bước vào kỷ nguyên
độc lập, tự do thật sự, hồi sinh đất nước và dân tộc, xây dựng cuộc sống hòa bình,
tươi đẹp.
• Đối với quốc tế:
- Thắng lợi vĩ đại ngày 7/01/1979 là thắng lợi chung của nhân dân hai nước Việt
Nam - Campuchia, thể hiện sức mạnh của tinh thần đoàn kết quốc tế, sự thủy chung,
trọn nghĩa vẹn tình giữa hai dân tộc Việt Nam - Campuchia. Với thắng lợi ngày
7/01/1979, quan hệ hai nước Việt Nam - Campuchia chuyển sang thời kỳ mới - thời
kỳ khôi phục, vun đắp tình đoàn kết, hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện
giữa hai nước dựa trên nguyên tắc hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau vì sự phát triển và phồn
vinh của mỗi nước.
- Chiến thắng chế độ diệt chủng Pôn Pốt đã góp phần giữ vững hoà bình, ổn định ở
khu vực Đông Nam Á và trên thế giới; đấu tranh vạch trần bản chất của chế độ phân

28
biệt chủng tộc, sắc tộc, chế độ độc tài và cảnh báo cho nhân loại cảnh giác trước
nguy cơ của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa phát xít mới.

2) Tìm hiểu về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc Tổ quốc năm 1979.
2.1. Bối cảnh và nguyên nhân của cuộc chiến tranh:
Trung Quốc là nước láng giềng của Việt Nam. Trong quá trình đấu tranh cách
mạng, nhân dân hai nước gắn bó mật thiết, đoàn kết giúp đỡ nhau. Nhưng sau khi
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam thắng lợi (1975),
quan hệ hai nước dần xấu đi. Đầu năm 1979, khi Quân đội nhân dân Việt Nam tiến
công đánh đổ tập đoàn phản động Pol Pot, giúp đỡ nhân dân Campuchia thoát khỏi
họa diệt chủng, mở ra công cuộc hồi sinh đất nước, chính quyền Trung Quốc cùng
một số nước khác ra sức tuyên truyền xuyên tạc sự xuất hiện của Quân tình nguyện
Việt Nam trên lãnh thổ Campuchia. Mục đích của họ là muốn chống phá cách mạng
Việt Nam, hậu thuẫn cho các thế lực phản động để mưu toan áp đặt lợi ích dân tộc
của họ trên bán đảo Đông Dương. Trong khi đó, bối cảnh quốc tế lúc này đang có
những diễn biến rất phức tạp khi mâu thuẫn Liên Xô - Trung Quốc gia tăng căng
thẳng; quan hệ Trung Quốc - Mỹ tiếp tục có sự cải thiện và cả hai đều coi Liên Xô
là “kẻ thù số 1”.
Sau nhiều lần gây ra các vụ khiêu khích quân sự quy mô nhỏ, từ ngày 17-02-
1979, phía Trung Quốc đã huy động 60 vạn quân, trên 500 xe tăng, xe bọc thép;
hàng ngàn khẩu pháo các loại... mở cuộc tiến công xâm phạm lãnh thổ Việt Nam
trên toàn tuyến biên giới phía Bắc từ Phong Thổ (Lai Châu) đến Móng Cái (Quảng
Ninh).
Mở cuộc tiến công xuống biên giới phía Bắc Việt Nam, các nhà cầm quyền
Trung Quốc hướng đến những mục tiêu cơ bản:

29
• Buộc Việt Nam phải rút Quân tình nguyện ra khỏi Campuchia, tạo điều kiện
cho quân Pol Pot hồi phục lực lượng, giữ được những căn cứ còn lại, tiếp tục
chống phá chính quyền cách mạng Campuchia vừa thiết lập.
• Tranh thủ sự ủng hộ của một số nước lớn đang chống phá cách mạng Việt
Nam (trong đó có Mỹ) để giúp Trung Quốc thực hiện “bốn hiện đại hóa” (nông
nghiệp, công nghiệp, quân đội, khoa học - kỹ thuật).
• Phá hoại tiềm lực kinh tế, quốc phòng, kích động bạo loạn, hạ uy thế quân sự,
chính trị của Việt Nam trên trường quốc tế sau chiến thắng đế quốc Mỹ xâm
lược năm 1975.
• Thị uy sức mạnh đối với các nước trong khu vực Đông Nam Á; đồng thời
thăm dò phản ứng của Liên Xô và dư luận thế giới để chuẩn bị cho những
bước phiêu lưu quân sự sau này.
Lường định về một cuộc chiến tranh có thể xảy ra, cuối năm 1978, Trung ương
Đảng, Chính phủ Việt Nam khẩn trương tăng cường lực lượng củng cố tuyến phòng
thù biên giới phía Bắc. Trước cuộc tiến công quy mô lớn của Trung Quốc, ngày 17-
02-1979, Chính phủ Việt Nam ra tuyên bố nêu rõ: Nhà cầm quyền Trung Quốc đang
đi ngược lại lợi ích của nhân dân, phá hoại nghiêm trọng tình đoàn kết hữu nghị giữa
nhân dân hai nước, đồng thời khẳng định quân và dân Việt Nam không có con đường
nào khác là thực hiện quyền tự vệ chính đáng của mình để đánh trả.

2.2. Tóm tắt diễn biến:


• Rạng sáng ngày 17/2/1979, hơn 60 vạn quân Trung Quốc với 9 quân đoàn chủ
lực, 5 sư đoàn bộ binh độc lập và các trung đoàn địa phương, tổng cộng
gồm 32 sư đoàn bộ binh và bộ binh cơ giới, 2.558 khẩu pháo mặt đất, 550 xe
tăng, 676 máy bay các loại, 2 sư đoàn phòng không trong đó có nhiều dàn
phóng hỏa tiễn… đã bất ngờ mở cuộc tấn công xâm lược trên toàn tuyến biên
giới phía Bắc Việt Nam từ Phong Thổ (Lai Châu) đến Móng Cái (Quảng Ninh)

30
dài hơn 1000 km, thuộc địa bàn 6 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam gồm:
Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên (Hà Giang, Tuyên Quang),
Hoàng Liên Sơn (Lào Cai, Yên Bái), Lai Châu (nay là Điện Biên và Lai
Châu)... Quân Trung Quốc đã bắn phá, tiêu hủy tất cả các cơ sở, kho tàng, nhà
ở của ta ở các thị xã, thị trấn và các làng bản, bắn giết vô cùng tàn bạo nhân
dân ta, quân Trung Quốc tiến sâu vào địa bàn các tỉnh Lạng Sơn, Lai Châu từ
10 -15 km, tiến sâu vào đất Cao Bằng gần 50 km.
• Đối mặt với đội quân xâm lăng từ bên kia biên giới phía Bắc đông tới 60 vạn
người cùng hàng nghìn xe tăng và pháo hạng nặng, Việt Nam vào ngày 17-2-
1979 chỉ có lực lượng công an vũ trang, dân quân địa phương và 7 sư đoàn
với tổng số quân khoảng 7 vạn người. Sự chênh lệch về lực lượng, về vũ khí
trang bị là rất lớn. Thế nhưng, tinh thần chiến đấu của quân và dân ta là anh
dũng vô song. Lực lượng ít hơn đội quân Trung Quốc hàng chục lần nhưng
quân và dân biên giới đã chiến đấu ngoan cường, anh dũng chặn đứng bước
tiến của đội quân đông hơn gấp bội, bảo vệ Pháo đài Đồng Đăng (Lạng Sơn);
Bát Xát, Mường Khương (Lào Cai); Trà Lĩnh, Trùng Khánh (Cao Bằng); Pò
Hèn (Quảng Ninh)…
• Sự đánh trả dũng mãnh bảo vệ biên giới của quân và dân ta đã gây thiệt hại
nặng nề cho quân Trung Quốc. Khoảng 6 vạn quân Trung Quốc đã bị thương
vong cùng hàng trăm tù binh bị bắt sống. Thiệt hại nặng nề trên chiến trường,
bị dư luận thế giới lên án, Trung Quốc buộc phải rút quân vào ngày 6-3-1979.

2.3. Ý nghĩa

Cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc Tổ quốc năm 1979 có ý nghĩa quan
trọng:
• Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

31
• Bảo vệ thành quả cách mạng, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định
để phát triển đất nước.
• Tăng cường đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc.

2.4. Bài học lịch sử:


• Nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nắm chắc tình hình, dự đoán chính
xác âm mưu và hành động của các bên liên quan, nhất là động thái các nước
lớn, trên cơ sở đó có sự chuẩn bị toàn diện, không để bị động bất ngờ trong
mọi tình huống.
• Giữ vững đường lối độc lập, tự chủ, tự cường, kết hợp chặt chẽ đấu tranh
chính trị, quân sự với đấu ngoại giao để vừa phát huy sức mạnh tổng hợp trong
nước, vừa nêu cao tính chính nghĩa của cách mạng nhằm tranh thủ sự đồng
tình, ủng hộ quốc tế, không để các thế lực thù địch xuyên tạc hòng tìm cách
cô lập.
• Xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, trên cơ sở đó phát huy sức mạnh
chiến tranh nhân dân địa phương, đặc biệt là sức mạnh của lực lượng vũ trang
tại chỗ (bộ đội chủ lực quân khu, bộ đội địa phương tỉnh, huyện, dân quân du
kích) kết hợp với sức mạnh hậu phương cả nước tạo thành những “trường
thành thép” sẵn sàng đánh trả có hiệu quả mọi cuộc tiến công từ bên ngoài
ngay thời gian đầu.
• Vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự truyền thống Việt Nam “lấy nhỏ thắng
lớn, lấy ít địch nhiều” với nghệ thuật quân sự hiện đại (phương thức tác chiến
chính quy), đồng thời biết khai thác, phát huy tư tưởng nhân văn “lấy đại nghĩa
thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo” của cha ông thuở trước kết hợp
với chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh

32
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo Hà Giang, 8/1/2019, “Chiến thắng chiến tranh, bảo vệ biên giới Tây Nam
của Tổ quốc và cùng quân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng”,
https://baohagiang.vn/thoi-su-chinh-tri/201901/chien-thang-chien-tranh-bao-
ve-bien-gioi-tay-nam-cua-to-quoc-va-cung-quan-dan-campuchia-danh-do-
che-do-diet-chung-739618/, truy cập ngày 5/11/2023.
2. Lê Thành (2023), “Bảo vệ biên giới phía Bắc: Cuộc chiến đấu chính nghĩa
của dân tộc”, Cổng thông tin Đảng Bộ tỉnh Bình Thuận,
https://btgtu.binhthuan.dcs.vn/Trang-chu/post/219224/bao-ve-bien-gioi-
phia-bac-cuoc-chien-dau-chinh-nghia-cua-dan-toc, truy cập ngày 5/11/2023.
3. Tạp chí cộng sản, 25/1/2019, “Ý nghĩa lịch sử của chiến thắng chiến tranh bảo
vệ Tổ quốc ở biên giới phía Tây Nam - 40 năm nhìn lại và bài học cho hiện
nay”,
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-
ngoai1/-/2018/53966/y-nghia-lich-su-cua-chien-thang-chien-tranh-bao-ve-
to-quoc-o-bien-gioi-tay-nam---40-nam-nhin-lai-va-bai-hoc-cho-hien-
nay.aspx, truy cập ngày 5/11/2023.
4. Tạp chí cộng sản, 18/2/2019, “Chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc Tổ quốc
1979 - Thắng lợi và bài học lịch sử”,
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/hoat-ong-cua-lanh-ao-ang-nha-
nuoc/-/2018/54178/chien-dau-bao-ve-bien-gioi-phia-bac-to-quoc-1979---
thang-loi-va-bai-hoc-lich-su.aspx, truy cập ngày 5/11/2023.
5. Quân đội nhân dân, 27/12/2018, “Chiến thắng chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở
biên giới Tây Nam: Bài học cho công cuộc bảo vệ chủ quyền đất nước”,
https://www.qdnd.vn/40nam-chien-thang-chien-tranh-bao-ve-bien-gioi-tay-
nam/phan-tich-binh-luan/chien-thang-chien-tranh-bao-ve-to-quoc-o-bien-

33
gioi-tay-nam-bai-hoc-cho-cong-cuoc-bao-ve-chu-quyen-dat-nuoc-559169,
truy cập ngày 5/11/2023.

34
Đề tài 4. Đại hội VI (12-1986) (Tại sao Việt Nam phải tiến hành đổi mới? Nội
dung cơ bản của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng).

Lập bảng so sánh giữa 2 thời kỳ: trước đổi mới và Đổi mới trên các nội dung cơ bản
sau: về cơ chế quản lý kinh tế; về cải tạo XHCN; về giá cả; về sản xuất hàng hoá;
quan niệm về nền kinh tế thị trường; về công nghiệp hoá (sau này là công nghiệp
hoá - hiện đại hoá, hội nhập quốc tế…
Bài làm
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra từ
ngày 15 đến 18 tháng 12 năm 1986 tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội này đã đặt ra nhiều
nội dung cơ bản và quan trọng, nhằm khẳng định quyết tâm của Việt Nam trong việc
tiến hành đổi mới. Phải tiến hành đổi mới bởi vì:
Trong thời kỳ kế hoạch năm năm 1981-1985, chúng ta không thực hiện được
mục tiêu đã đề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống của
nhân dân. Sai lầm về tổng điều chỉnh giá, lương, tiền cuối năm 1985 đã đưa nền kinh
tế của đất nước ta đến những khó khăn mới. Nền kinh tế - xã hội nước ta đã lâm vào
khủng hoảng trầm trọng.
Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu
to lớn trên các lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực chính trị, xã hội. Tuy nhiên, trong
lĩnh vực kinh tế, Việt Nam đã gặp phải nhiều khó khăn, thách thức, dẫn đến tình
trạng trì trệ, kém hiệu quả.

Cụ thể, nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn trước đổi mới có những hạn chế
sau:
• Tăng trưởng kinh tế thấp, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
• Cơ cấu kinh tế thiếu cân đối, nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao, công
nghiệp và dịch vụ phát triển chậm.

35
• Hiệu quả sản xuất, kinh doanh thấp.
• Nợ nước ngoài tăng cao.
Những hạn chế này là do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chủ
quan là do cơ chế quản lý kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp chưa phù hợp với yêu
cầu của thời kỳ mới.

Để khắc phục những khó khăn, thách thức đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
quyết định tiến hành đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để đất nước.

Nội dung cơ bản của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng :
1.Quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng: Đại hội khẳng định quyết
tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học.
2. Đánh giá tình hình kinh tế - xã hội: Đại hội nhận định rằng trong năm năm
qua, Đảng và nhân dân đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, còn tồn tại nhiều khó khăn và
mất cân đối trong nền kinh tế và đời sống nhân dân.
3. Những sai lầm và bài học quan trọng: Đại hội nhấn mạnh việc quán triệt tư
tưởng "lấy dân làm gốc" và luôn luôn xuất phát từ thực tế. Đồng thời, Đại hội cũng
đề ra những nguyên tắc và quan điểm mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa. Đại hội nhận
thấy rằng đã có nhiều sai lầm và khuyết điểm trong việc xác định mục tiêu và bước
đi về xây dựng cơ sở vật chất, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế.
4. Đổi mới cơ cấu kinh tế: Đại hội đề ra đường lối đổi mới cơ cấu kinh tế, bao
gồm cơ cấu công - nông nghiệp, cơ cấu ngành nông nghiệp, ngành công nghiệp nhẹ
và tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp nặng và kết cấu hạ tầng, cơ cấu kinh tế huyện.
5. Chương trình kinh tế: Đại hội đề ra ba chương trình kinh tế, bao gồm
chương trình lương thực, thực phẩm; chương trình hàng tiêu dùng; chương trình
hàng xuất khẩu.

36
6. Củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa: Đại hội nhấn mạnh việc xây
dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các
thành phần kinh tế
7. Cải tạo xã hội chủ nghĩa: Đại hội đề ra quan điểm mới về cải tạo xã hội chủ
nghĩa, dựa trên 3 nguyên tắc: phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất, xuất phát từ thực tế của nước ta và vận dụng quan điểm
của Lênin, và kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặt
nền móng quan trọng cho quá trình đổi mới và phát triển của Đảng và đất nước. Các
nội dung cơ bản trên đã định hướng cho các chính sách và biện pháp thực hiện trong
giai đoạn tiếp theo.

❖ So sánh giữa hai thời kỳ Trước và Sau thời kỳ đổi mới :

Nội dung Trước thời kỳ đổi mới Sau thời kỳ đổi mới
cơ bản

Cơ chế Trước đổi mới, Việt Nam áp dụng Đổi mới kinh tế ở Việt Nam đã
quản lý cơ chế quản lý kinh tế tập trung, chuyển từ cơ chế tập trung sang cơ
kinh tế bao cấp chủ yếu dựa trên chế độ chế thị trường. Cơ chế quản lý kinh
sở hữu toàn dân và tập thể. Chính tế được thực hiện dưới sự quản lý
trị can thiệp sâu vào các quá trình của Nhà nước và sự lãnh đạo của
kinh tế - xã hội thông qua hệ Đảng Cộng sản Việt Nam theo định
thống mệnh lệnh chủ quan của hướng xã hội chủ nghĩa. Việc áp
các cơ quan quản lý các cấp. dụng cơ chế thị trường đã tạo điều
kiện cho sự phát triển của các
ngành kinh tế và thu hút đầu tư
nước ngoài.

37
Cải tạo Trước đổi mới, Việt Nam áp dụng Đổi mới chính trị đã nhằm đổi mới
XHCN chế độ xã hội chủ nghĩa, với sự tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội
tập trung và quản lý của Đảng chủ nghĩa, đổi mới cơ cấu tổ chức
Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, và cơ chế hoạt động của hệ thống
cơ chế quản lý và tổ chức của hệ chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam
thống chính trị còn nhiều hạn chế, đã đổi mới phương thức lãnh đạo,
cồng kềnh và kém hiệu quả nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà
nước XHCN để xây dựng chế độ
XHCN ngày càng vững mạnh

Giá cả Trước đổi mới, giá cả được quy Đổi mới kinh tế đã tạo điều kiện
định và kiểm soát chặt chẽ bởi hệ cho việc áp dụng cơ chế giá cả thị
thống Nhà nước. Hệ thống giá cả trường. Giá cả được xác định dựa
không linh hoạt và không phản trên cung cầu và sự cạnh tranh, tạo
ánh đúng giá trị thực tế của hàng điều kiện cho sự phát triển của thị
hoá và hàng hóa được phân phối trường và đáp ứng nhu cầu của
theo tem phiếu do Nhà nước quản người tiêu dùng. Thị trường hàng
lý và hạn chế việc người dân tự do hóa được mở rộng và tự do, người
mua bán trên thị trường. Nhà dân có quyền tự do mua bán và vận
nước độc quyền phân phối hầu hết chuyển hàng hoá. Các biện pháp
các loại hàng hóa và hạn chế trao hạn chế đầu cơ và tình trạng hỗn
đổi bằng tiền mặt. . loạn về giá cả được giảm bớt.

Sản xuất Sản xuất hàng hóa theo hướng tập Sản xuất hàng hóa theo hướng mở
hàng hoá trung thành các xí nghiệp và hợp rộng quy mô có sự xuất hiện của
tác xã dưới sự quản lý của nhà các doanh nghiệp xí nghiệp tư nhân
nước không có doanh nghiệp tư nhưng vẫn phải đặt dưới sự quản lý

38
nhân. Chế độ hộ khẩu được thiết của nhà nước. Việt Nam đã mở cửa
lập để phân phối lương thực và đối ngoại và tham gia vào các hiệp
thực phẩm theo đầu người. định thương mại quốc tế, tạo điều
kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng
hóa

Quan Về nhận thức: Trước đổi mới, Quan điểm Đảng ta: Đảng ta chủ
niệm về Việt Nam coi chính trị là thống trương "Kết hợp ngay từ đầu đổi
kinh tế soái, quyết định kinh tế và các mới kinh tế với đổi mới chính trị,
thị lĩnh vực khác của đời sống xã hội. lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm,
trường Chưa đánh giá đúng vai trò của đồng thời từng bước đổi mới chính
kinh tế trong quan hệ với chính trị".
trị.
Đổi mới kinh tế: Quá trình chuyển
Về cơ chế: Chính trị can thiệp quá đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung,
sâu vào các quá trình kinh tế - xã bao cấp chủ yếu dựa trên chế độ sở
hội bằng hệ thống những mệnh hữu toàn dân và tập thể sang nền
lệnh chủ quan của các cơ quan kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
quản lý các cấp. Thiết chế, bộ vận hành theo cơ chế thị trường có
máy hành chính còn quan liêu, sự quản lý của Nhà nước, dưới sự
cửa quyền, cồng kềnh, kém hiệu lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
quả. Nam theo định hướng XHCN.

Đổi mới chính trị: Đổi mới tư duy


chính trị về CNXH; đổi mới cơ cấu
tổ chức và cơ chế vận hành của hệ
thống chính trị, trước hết là đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng;

39
đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý
của Nhà nước XHCN nhằm giữ
vững ổn định chính trị để xây dựng
chế độ XHCN ngày càng vững
mạnh.

Công Việt Nam là một quốc gia nghèo Với chính sách đổi mới kinh tế,
nghiệp đói, với nền kinh tế chủ yếu dựa Việt Nam đã tập trung vào phát
hóa vào nông nghiệp và ngành công triển ngành công nghiệp nhằm tăng
nghiệp còn rất phát triển yếu. cường năng lực sản xuất, nâng cao
chất lượng và cạnh tranh của sản
Công nghiệp Việt Nam chủ yếu
phẩm.
tập trung vào các ngành công
nghiệp nặng như luyện kim, xi Đổi mới về công nghiệp hoá đã tạo
măng, thép, gỗ và dệt may. Ngành điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
công nghiệp trước đổi mới gặp của các ngành công nghiệp, đặc
nhiều khó khăn và hạn chế, bao biệt là công nghiệp chế biến, công
gồm cơ sở hạ tầng kém phát triển, nghiệp công nghệ cao và công
công nghệ lạc hậu, quy trình sản nghiệp hỗ trợ.

40
xuất không hiện đại, thiếu vốn
Công nghiệp Việt Nam đã có
đầu tư và quản lý kém hiệu quả.
những bước tiến đáng kể, với sự
Do sự hạn chế về công nghệ và phát triển của các ngành công
vốn đầu tư, ngành công nghiệp nghiệp như điện tử, ô tô, công nghệ
trước đổi mới không thể đáp ứng thông tin, dược phẩm và năng
nhu cầu sản xuất và tiêu thụ trong lượng tái tạo.
nước, dẫn đến việc phải nhập
Đổi mới về công nghiệp hoá đã thu
khẩu nhiều hàng hóa từ nước
hút được nhiều vốn đầu tư nước
ngoài.
ngoài, giúp nâng cao công nghệ sản
xuất, mở rộng quy mô sản xuất và
tạo ra nhiều việc làm cho người lao
động.

Hội nhập Việt Nam đối mặt với nhiều khó Đổi mới là giai đoạn mở cửa và hội
quốc tế khăn và thách thức sau chiến nhập quốc tế của Việt Nam, bắt đầu
tranh. Nền kinh tế đất nước gặp từ những năm 1980 và đặc biệt là
nhiều vấn đề, chủ yếu là kinh tế sau Đại hội VI của Đảng năm 1986.
tập trung, quốc doanh và đóng Đổi mới đã đưa ra chính sách kinh
cửa với thế giới bên ngoài. tế thị trường và mở cửa quốc tế.

Việt Nam không tham gia vào các Việt Nam đã tham gia vào nhiều tổ
tổ chức quốc tế và hầu hết các chức quốc tế như Liên Hợp Quốc
hoạt động quốc tế. Sự hội nhập (UN), ASEAN, WTO và ký kết
quốc tế của Việt Nam trong giai nhiều hiệp định thương mại tự do
đoạn này rất hạn chế và chủ yếu với các quốc gia khác. Việt Nam đã
tập trung vào quan hệ với các mở rộng quan hệ đối tác với nhiều

41
nước bạn truyền thống và các quốc gia trên thế giới và thu hút đầu
quốc gia cộng sản khác. tư nước ngoài.

Việt Nam chịu ảnh hưởng của Hội nhập quốc tế trong giai đoạn
chính sách đóng cửa của Liên Xô này đã mang lại nhiều lợi ích cho
và các nước cộng sản khác, dẫn Việt Nam, bao gồm tăng trưởng
đến sự cô lập và thiếu hụt về tài kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc
nguyên và công nghệ. sống, cải thiện cơ sở hạ tầng và
phát triển công nghiệp.

42
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng | Ban Chấp hành Trung ương
Đảng.

Link: https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-
hoi-dang/lan-thu-vi/dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-vi-cua-dang-19

2.Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong quá trình đổi mới ở
Việt Nam PGS.TS Trần Văn Phòng - Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh | Tư liệu
văn kiện Đảng.

Link: https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/gioi-thieu-
van-kien-dang/moi-quan-he-giua-doi-moi-kinh-te-va-doi-moi-chinh-tri-trong-qua-
trinh-doi-moi-o-viet-nam-pgs-ts-tran-van-phong-867

3.Thời bao cấp|Wikipedia

Link: https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%9Di_bao_c%E1%BA%A5p

4.Bài 2: CNXH ở Việt Nam trước đổi mới. (2009, October 6)

Link: https://www.sggp.org.vn/bai-2-cnxh-o-viet-nam-truoc-doi-moi-
post213994.html

43
Đề tài 5. Khái quát công cuộc Đổi mới toàn diện ở Việt Nam từ Đại hội VI (12-
1986) đến Đại hội XIII (1-2021) về chủ trương (qua Cương lĩnh 1991; Cương
lĩnh bổ sung 2011)
Đánh giá thành tựu trên các mặt: kinh tế - chính trị; văn hoá – xã hội; giáo dục –
đào tạo; quốc phòng – an ninh; quan hệ đối ngoại – hội nhập quốc tế…
Bài làm

Công cuộc Đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để ở Việt Nam được bắt đầu từ
Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986). Đại hội đã thông qua Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), xác định
những chủ trương, đường lối đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

1. Cương lĩnh 1991

Cương lĩnh 1991 đã xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là:
"Đưa cả nước đi lên CNXH bằng cách phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo". Đây là một bước tiến quan trọng trong nhận
thức của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Cương lĩnh 1991 cũng đã xác định những chủ trương, đường lối đổi mới trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm:

• Về kinh tế: Phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo; thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước; đẩy
mạnh hội nhập kinh tế quốc tế.

• Về chính trị: Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; mở rộng dân
chủ, tăng cường quyền làm chủ của nhân dân.

44
• Về văn hóa, xã hội: Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
phát triển giáo dục, khoa học, công nghệ; chăm lo đời sống nhân dân.

• Về quốc phòng, an ninh: Giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

2. Cương lĩnh bổ sung 2011

Cương lĩnh bổ sung 2011 đã tiếp tục khẳng định những chủ trương, đường lối
đổi mới của Cương lĩnh 1991 và bổ sung một số nội dung mới, phù hợp với yêu cầu
phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.

Những nội dung bổ sung của Cương lĩnh bổ sung 2011 bao gồm:

• Về kinh tế: Tăng cường vai trò của kinh tế nhà nước; phát triển kinh tế tư nhân
thành lực lượng nòng cốt của nền kinh tế; đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế
sâu rộng, có hiệu quả.

• Về chính trị: Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch,
vững mạnh; phát huy quyền làm chủ của nhân dân; xây dựng nền dân chủ
XHCN, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

• Về văn hóa, xã hội: Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
phát triển giáo dục, khoa học, công nghệ; nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân.

• Về quốc phòng, an ninh: Giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

3. Kết quả của công cuộc Đổi mới

45
Sau hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, từng bước đưa đất nước thoát khỏi
tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển nhanh và bền
vững trong thời gian tới.

Những thành tựu nổi bật của công cuộc đổi mới có thể kể đến như:

• Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức trung bình 7,0%/năm; thu nhập
bình quân đầu người tăng gấp 3,5 lần; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
tích cực; hội nhập kinh tế quốc tế đạt được nhiều kết quả quan trọng.

• Về chính trị: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được xây dựng và từng
bước hoàn thiện; dân chủ XHCN được phát huy; quyền con người, quyền công
dân được tôn trọng và bảo đảm.

• Về văn hóa, xã hội: Văn hóa, xã hội phát triển toàn diện; đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân được nâng cao.

• Về quốc phòng, an ninh: Quốc phòng, an ninh được củng cố và tăng cường;
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc.

4. Bài học kinh nghiệm

Công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã để lại những bài học kinh nghiệm quý báu,
đó là:

• Kiên định con đường đổi mới, kiên định mục tiêu của Đảng.

• Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có kế hoạch, bước đi phù hợp với thực tiễn.

46
• Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc.

Khái quát công cuộc Đổi mới toàn diện ở Việt Nam từ Đại hội VI (12-1986) đến
Đại hội XIII (1-2021) về chủ trương.

1. Thời kỳ từ năm 1986 đến 1996


1.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986)

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI và bước đầu thực hiện đổi mới (1986-
1991) bí thư Nguyễn Văn Linh. Đại hội VI là "Đại hội kế thừa và quyết tâm đổi mới,
đoàn kết tiến lên của Đảng ”, mở đầu công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ của cách
mạng nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về lý luận và thực tiễn của Đảng. Những
thành tựu trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI bao gồm các lĩnh vực sau:

a. Về kinh tế:
• Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế
• Xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp chuyển sang hạch toán,
kinh doanh, kết hợp kế hoạch với thị trường
• Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy
• Chú trọng ba chương trình kinh tế lớn là lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng
và hàng xuất khẩu
• Làm cho quan hệ sản xuất phù hợp và lực lượng sản xuất phát triển
• Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
• Phát huy mạnh mẽ động lực khoa học kỹ thuật; mở rộng và nâng cao hiệu quả
kinh tế đối ngoại

b. Về chính sách xã hội:

• Kế hoạch hóa dân số, giải quyết việc làm cho người lao động.

47
• Thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, khôi phục trật tự, kỷ
cương trong mọi lĩnh vực xã hội.
• Chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hóa, bảo vệ và tăng cường sức khỏe
của nhân dân.
• Xây dựng chính sách bảo trợ xã hội.

c. Về quốc phòng và an ninh:

• Đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước
• Quyết đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, bảo đảm chủ
động trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ quốc.

d. Về nhiệm vụ đối ngoại:

• Tăng cường tình hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa
• Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc vì lợi ích của nhân dân hai nước
• Phấn đấu giữ vững hòa bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và trên thế giới
tăng cường quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông DươngVề xây dựng Đảng
e. Về xây dựng Đảng
• Đổi mới tư duy, phong cách làm việc
• Tăng cường đoàn kết nhất trí, phát huy quyền làm chủ tập thể+ Thực hiện
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”
• Tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước

Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa tìm ra giải pháp tháo gỡ tình trạng rối ren trong
phân phối lưu thông.

1.2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991-1996) bí thư Đỗ Mười

48
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam được tiến
hành trong bối cảnh quốc tế và trong nước đang có những diễn biến phức tạp. Đó là
sự khủng hoảng trầm trọng của chế độ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông u, sự
chống phá nhiều phía vào chủ nghĩa xã hội, vào chủ nghĩa Mác – Lênin và Đảng
Cộng sản, những âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch quốc tế hòng xoá bỏ
chủ nghĩa xã hội hiện thực và sự hoang mang dao động của một bộ phận những
người cộng sản trên thế giới đã tác động đến tư tưởng và tình cảm của một bộ phận
cán bộ, đảng viên và nhân dân Việt Nam.

Tuy nhiên, đất nước vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế, xã hội, công cuộc
đổi mới còn những hạn chế, nhiều vấn đề kinh tế, xã hội nóng bỏng chưa được giải
quyết.

=> Đại hội VII của Đảng là “Đại hội của trí tuệ-đổi mới, dân chủ-kỉ cương-đoàn
kết”, hoạch định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm của
Việt Nam.

❖ Nội dung cơ bản Cương lĩnh năm 1991:

Cương lĩnh năm 1991 đã tổng kết hơn 60 năm Đảng lãnh đạo cách mạng Việt
Nam nêu ra 5 bài học lớn:
• Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
• Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
• Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết
toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
• Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
• Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của
cách mạng Việt Nam.

Phương hướng cơ bản xây dựng đất nước:

49
• Xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;
• Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại
gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện;
• Phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao;
• Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá;
• Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân
tộc thống nhất;
• Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng Việt Nam;
• Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, bảo
đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta.
Cương lĩnh năm 1991 đã giải đáp đúng đắn vấn đề cơ bản nhất của cách mạng Việt
Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; đặt nền tảng đoàn kết, thống nhất
giữa tư tưởng với hành động, tạo ra sức mạnh tổng hợp đưa cách mạng Việt Nam
tiếp tục phát triển. Cương lĩnh nêu rõ quan điểm về xây dựng hệ thống chính trị, xây
dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Ngoài ra, Cương lĩnh nêu lên
những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,
về hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng.

Thành tựu:
• Tình hình chính trị của đất nước ổn định.
• Nền kinh tế có những chuyển biến tích cực: đã đạt được những tiến bộ rõ rệt
trong việc thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế,
• Quốc phòng được giữ vững, an ninh quốc gia được bảo đảm

50
Hạn chế
• Đất nước vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế, xã hội, công cuộc đổi mới
còn những hạn chế, nhiều vấn đề kinh tế, xã hội nóng bỏng chưa được giải
quyết.
=> Đại hội VII của Đảng là “Đại hội của trí tuệ-đổi mới, dân chủ - kỉ cương - đoàn
kết”, hoạch định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm của
Việt Nam.

2. Thời kỳ từ 1996 đến nay

a. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII và bước đầu thực hiện công cuộc

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1996-2001) bí thư Đỗ Mười
Đến năm 1996, công cuộc đổi mới đã tiến hành được 10 năm và đạt được nhiều
thành tựu quan trọng về mọi mặt. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội,
đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, hoàn thành vượt mức nhiều mục tiêu chủ yếu
của kế hoạch 5 năm, cải thiện một bước đời sống vật chất của đông đảo nhân dân,
giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh được củng cố, phát triển mạnh mối
quan hệ đối ngoại, phá thế bao vây cấm vận, tham gia tích cực vào đời sống cộng
đồng quốc tế. Đồng thời, thành tựu 10 năm đổi mới đã tạo được nhiều tiền đề cần
thiết cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bên cạnh những thành
tựu dạt được, nước ta cũng phải đối đầu với nhiều thách thức như nguy cơ tụt hậu
xa về kinh tế, “diễn biến hoà bình”; tệ quan liêu, tham nhũng; nguy cơ chệch hướng
xã hội chủ nghĩa. Tình hình thế giới và thực tiễn công cuộc đổi mới đặt ra cho Đảng
ta những nhiệm vụ và bước đi mới.
=>> Đánh giá tổng quát sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và
5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII Báo cáo Chính trị khẳng định đất nước đã
vượt qua một giai đoạn thử thách gay go và đạt những thắng lợi nổi bật trên nhiều
mặt. Công cuộc đổi mới trong 10 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý

51
nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội VII, đề ra cho 5 năm 1991-1995 đã được
hoàn thành về cơ bản.

b. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, tiếp tục trường hợp công cuộc đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (2001-2006) bí thư Nông Đức Mạnh
Đại hội IX của Đảng đã đánh giá về chặng đường 71 năm lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, 15 năm đổi mới, 10
năm thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội, rút ra những bài học kinh nghiệm của công
cuộc đổi mới, từ đó phát triển và hoàn thiện đường lối, định ra chiến lược phát triển
đất nước trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. Đại hội IX có nhiệm vụ kiểm điểm
sự lãnh đạo của Đảng, đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng ta ngang tầm
với đòi hỏi của dân tộc trong thời kỳ mới; sửa đổi, bổ sung Điều lệ Đảng, bầu ra Ban
Chấp hành Trung ương mới.
Đại hội nhận định: Khả năng duy trì hoà bình ổn định trên thế giới và khu vực
cho phép chúng ta tập trung vào nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, đồng thời
đòi hỏi phải đề cao cảnh giác, chủ động đối phó với các tình huống bất trắc, phức
tạp có thể xảy ra.
=>> Đại hội IX của Đảng có ý nghĩa trọng đại mở đường cho đất nước ta nắm
lấy cơ hội, vượt qua thách thức tiến vào thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới, thực hiện
mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.

c. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng và quá trình thực hiện
(2006-2011) bí thư Nông Đức Mạnh
Nhìn khái quát 20 năm đổi mới chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn có
ý nghĩa lịch sử, đã đưa lại cho đất nước ta một sự thay đổi cơ bản, toàn diện, làm
cho thế và lực, uy tín quốc tế của nước ta tăng lên nhiều so với trước. Đại hội đại

52
biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng có nhiệm vụ nhìn thẳng vào sự thật để kiểm điểm,
đánh giá khách quan, toàn diện thành tựu và những yếu kém, khuyết điểm, đồng thời
rút ra được những bài học kinh nghiệm qua việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX
của Đảng, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001 - 2005), chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 - 2010) và nhìn lại 20 năm đổi mới; từ
đó tiếp tục phát triển và hoàn thiện đường lối, quan điểm, định ra phương hướng,
mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm tới (2006 - 2010); phương hướng,
nhiệm vụ xây dựng Đảng; bổ sung, sửa đổi một số điểm trong Điều lệ Đảng; bầu
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X thực sự tiêu biểu về phẩm chất chính trị
và đạo đức cách mạng, có đủ trí tuệ và năng lực lãnh đạo thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội X.
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) cơ bản giữ mục tiêu tổng quát khi
kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã được xác định trong Cương
lĩnh 1991 và xác định mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI: toàn Đảng, toàn dân ta phải ra
sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Cương lĩnh năm 1991 xác định 7 phương hướng cơ bản. Kế thừa cách viết như
Đại hội X, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định: Để thực hiện
thành công các mục tiêu tổng quát, mục tiêu của chặng đường tới, toàn Đảng, toàn
dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy
mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực
hiện tốt các phương hướng cơ bản.
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung nội dung về việc nắm
vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát
triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng
xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng
bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn

53
hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ
So với Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) có rất
nhiều bổ sung, phát triển và đã chỉ rõ những định hướng sau:
• Định hướng về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
• Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình
thức phân phối (Cương lĩnh năm 1991 mới xác định phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa).
• Định hướng lớn về phát triển văn hoá, xã hội
So với Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) bổ
sung, phát triển hai nội dung sau: Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến; Kế thừa
và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công
bằng
❖ Về khoa học và công nghệ
So với Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ
sung, phát triển nhiều, nổi bật là hai nội dung sau: Nghiên cứu và ứng dụng có hiệu
quả các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại trên thế giới; Hình thành đồng bộ
cơ chế, chính sách khuyến khích sáng tạo, trọng dụng nhân tài và đẩy mạnh ứng
dụng khoa học và công nghệ.
❖ Về bảo vệ môi trường
Cương lĩnh năm 1991 xác định “Tuân thủ nghiêm ngặt việc bảo vệ môi trường,
giữ gìn cân bằng sinh thái cho thế hệ hiện tại và mai sau”. Cương lĩnh (bổ sung, phát
triển năm 2011) đã chỉ rõ nội dung sau: Bảo vệ môi trường là trách nhiệm và nghĩa
vụ của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội và của mọi công dân; Kết hợp chặt chẽ khắc

54
phục ô nhiễm và bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển năng lượng sạch, sản xuất
sạch và tiêu dùng sạch; Coi trọng nghiên cứu, thực hiện các giải pháp ứng phó với
quá trình biến đổi khí hậu và thảm hoạ thiên nhiên.
❖ Về quốc phòng, an ninh và định hướng đối ngoại
So với Cương lĩnh năm 1991, về quốc phòng, an ninh Cương lĩnh (bổ sung,
phát triển năm 2011) có một số bổ sung, phát triển như sau:
• Về mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh: Cương lĩnh (bổ sung, phát
triển năm 2011) xác định: Mục tiêu của quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững
chắc độc lập, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, ổn định chính
trị và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất
bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta”
• Phát triển đường lối, nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân và lý luận, khoa
học an sinh quốc gia (bổ sung thêm định hướng phát triển lý luận, khoa học
an ninh nhân dân).
• Bổ sung thêm định hướng “chủ động, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc
phòng, an ninh”.
• Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý
tập trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội, Công an nhân dân và sự
nghiệp quốc phòng, an ninh” (bổ sung thêm vai trò quản lý của Nhà nước).
So với Cương lĩnh năm 1991, về định hướng đối ngoại Cương lĩnh (bổ sung,
phát triển năm 2011) đã bổ sung, phát triển những nội dung sau:
• Khẳng định thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập; đa phương hoá,
đa dạng hoá quan hệ, hội nhập quốc tế;
• Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên
tắc cơ bản của hiến chương Liên Hợp quốc và luật pháp quốc tế.

55
d. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng bổ sung, phát triển
Cương 1991 (2011-2016) bí thư Nguyễn Phú Trọng

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (bổ sung, phát triển năm
2011) đã nêu 5 bài học kinh nghiệm của cách mạng nước ta: Một là, nắm vững ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân. Ba là, không ngừng cung cố, tăng cường đoàn kết: đoàn
kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Bốn là, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc
tế. Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi
của cách mạng Việt Nam.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Các văn kiện được thông qua tại
Đại hội lần này là sự tổng kết sâu sắc lý luận và thực tiễn 20 năm thực hiện Cương
lĩnh, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2001 - 2010) và 5 năm
thực hiện phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội (2006 - 2010), là sự kết tinh trí
tuệ, ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân ta; là sự tiếp tục khẳng định, hoàn
thiện và phát triển quan điểm, đường lối của Đảng ta theo tư tưởng đổi mới; xác định
mục tiêu, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân tộc ta trong giai đoạn phát triển mới đầy
triển vọng và không ít thách thức của cách mạng nước ta từ nay đến năm 2020 và
những năm tiếp theo.

e. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII


Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, trên cơ sở quán triệt và lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện
việc thực hiện các quan điểm, nhiệm vụ trên tất cả các lĩnh vực đã nêu trong Báo cáo
chính trị và Báo cáo kinh tế - xã hội, cần đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc
đổi mới, phát huy mọi nguồn lực và động lực để phát triển đất nước nhanh, bền vững;
đặc biệt chú trọng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có kết quả các nhiệm vụ
trọng tâm như: Tăng cường xây dựng Đảng; Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ

56
thống chính trị tinh gọn; Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng
trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế; Phát huy mạnh mẽ
mọi nguồn lực và sức sáng tạo của Nhân dân.
Đánh giá thành tựu trên các mặt: kinh tế - chính trị; văn hoá – xã hội; giáo
dục – đào tạo; quốc phòng – an ninh; quan hệ đối ngoại – hội nhập quốc tế…
1. Kinh tế - chính trị

Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát luôn được kiểm soát ở mức thấp, mặc dù năm
cuối nhiệm kỳ bị ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19 nhưng tốc độ tăng trưởng
GDP bình quân giai đoạn 2016 - 2020 vẫn đạt khoảng 5,9%/năm. Quy mô nền kinh
tế và thu nhập bình quân đầu người tăng lên (năm 2020, GDP ước đạt 268,4 tỉ USD
và thu nhập bình quân đầu người ước đạt 2.750 USD/người/năm). Chất lượng tăng
trưởng được cải thiện, năng suất lao động tăng từ 4,3%/năm giai đoạn 2011 - 2015
lên 5,8%/năm giai đoạn 2016 - 2020
Tỉ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm, tỉ trọng khu vực công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng lên. Công nghiệp chế biến, chế tạo phát triển
nhanh; công nghiệp hỗ trợ có bước phát triển, góp phần nâng cao tỉ lệ nội địa hoá và
giá trị gia tăng của sản phẩm. Các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tiếp tục
tăng; nông nghiệp chuyển mạnh sang ứng dụng công nghệ cao.

2. Giáo dục - đào tạo

Giáo dục và đào tạo ở những vùng khó khăn và vùng đồng bào dân tộc thiểu số
được chú trọng hơn. Chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới được ban
hành và đang triển khai theo lộ trình. Giáo dục mầm non đạt chuẩn phổ cập cho trẻ
em 5 tuổi và giáo dục phổ thông có chuyển biến tích cực, được thế giới công nhận.
Công tác thi, kiểm tra và đánh giá kết quả thực chất, hiệu quả hơn. Quản lý,
quản trị đại học có bước đổi mới.

57
Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chú trọng
cả về số lượng và chất lượng. Cơ chế tự chủ, cơ chế cung ứng dịch vụ công trong
giáo dục và đào tạo được thể chế hoá và đạt kết quả bước đầu. Hợp tác quốc tế về
giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng.

3. Khoa học - công nghệ

Khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị góp phần tích cực cung
cấp luận cứ cho việc xây dựng đường lối, chính sách; bảo vệ, phát triển nền tảng tư
tưởng của Đảng; xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, con người Việt Nam.
Một số cơ chế, chính sách về phát triển, quản lý khoa học và công nghệ phát
huy tác dụng, đặc biệt là cơ chế, chính sách quản lý nguồn vốn đầu tư, tài chính.

4. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội, phát triển con người; quản lý tài nguyên,

bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Bảo đảm cơ bản an sinh xã hội, quan tâm hơn phúc lợi xã hội cho người dân;
thực hiện ngày càng tốt hơn chính sách đối với người có công; tiếp tục cải thiện
chính sách tiền lương; mở rộng bảo hiểm xã hội (tỉ lệ bảo hiểm y tế đạt trên 90%).
Hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và
thích ứng với biến đổi khí hậu được tiếp tục hoàn thiện. Tích cực triển khai điều tra
cơ bản, đánh giá tiềm năng, trữ lượng, giá trị kinh tế các nguồn tài nguyên. Kiểm
soát chặt chẽ hơn các hoạt động khai thác tài nguyên, hạn chế xuất khẩu khoáng sản
thô.

5. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững và tăng

cường; quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế

Tư duy về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc có bước phát triển mới và ngày
càng hoàn thiện. Sự kết hợp giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại ngày càng chặt

58
chẽ, hiệu quả. Chủ động phát hiện, có các phương án, đối sách ngăn ngừa các nguy
cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa và kiểm soát tốt các nhân tố có thể gây bất lợi
đột biến. Tiềm lực quốc phòng và an ninh được tăng cường; thế trận lòng dân được
chú trọng
Đã ban hành và triển khai đồng bộ các chiến lược quan trọng như Chiến lược
quốc phòng, Chiến lược quân sự, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, Chiến lược
bảo vệ biên giới quốc gia và Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng
Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục mở rộng. Đối ngoại đảng, ngoại
giao nhà nước, đối ngoại nhân dân được triển khai đồng bộ và toàn diện. Hội nhập
quốc tế tiếp tục được triển khai chủ động, tích cực, tạo không gian quan hệ rộng mở,
tranh thủ được sự hợp tác, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế.

59
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.544.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.548.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.565.
4. Báo Điện tử Đài Truyền Hình Việt Nam, 2021, Nhìn lại 12 kỳ Đại hội của
Đảng Cộng sản Việt Nam
https://vtv.vn/chinh-tri/nhin-lai-12-ky-dai-hoi-cua-dang-cong-san-viet-nam-
2021012022464205.htm
5. Báo Điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam, 2015, Những bổ sung, phát triển chủ
yếu về Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/gioi-thieu-van-
kien-dang/nhung-bo-sung-phat-trien-chu-yeu-ve-cuong-linh-xay-dung-dat-nuoc-
trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-954
6. Báo Dân Trí, 2020, Báo cáo Chính trị Đại hội XIII: Cơ đồ đất nước sau 35
năm đổi mới

https://dantri.com.vn/xa-hoi/bao-cao-chinh-tri-dai-hoi-xiii-co-do-dat-nuoc-sau-
35-nam-doi-moi-20201020161243588.htm

60
BẢNG ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN NHÓM

Điêm nhóm tự đánh giá


STT Họ và tên MSSV
thành viên
1 Nguyễn Châu Anh 20064003 3/3

2 Nguyễn Phạm Hồng Ánh 20064065 3/3

3 Nguyễn Thanh Bình 20064010 3/3

4 Nguyễn Thị Hương Giang 20064021 3/3

5 Lương Đỗ Khánh Linh 20064036 3/3

6 Nguyễn Thị Tú Linh 20064037 3/3

7 Đèo Đức Long 22061208 3/3

8 Vũ Thị Trà Mi 22061223 3/3

9 Chu Thị Nhiên 20064047 3/3

10 Khổng Thị Phương 22061279 3/3

61

You might also like