Nhóm 2 - LSĐCS

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 10

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HIẾN

BÀI THUYẾT TRÌNH

NHÓM: 2
LỚP HP: 232POL10832
HỌC KÌ: II
GVHD: NGUYỄN THỊ NINH

TP HCM, tháng 1 năm 2024


DANH SÁCH NHÓM
STT HỌ TÊN MSSV SĐT
78 PHÙNG THỊ TRÀ MI 221A070159 0325740904
60 LÊ THJ HỒNG NHUNG 221A040207 0987943652
80 LA THIÊN ĐĂNG KHOA 221A080205 0938080721
72 LÊ ĐỖ PHÚC AN 221A050652 0867891410
70 PHẠM KHÁNH NGÂN 221A050574 0328721561
73 NGUYỄN TRUNG VĨNH 221A050659 0822959629
84 ĐẶNG NGỌC TRÂM 221A150242 0354547827
69 HỒ HOÀNG LỘC 221A050571 0366782096
136 HUỲNH HỮU LỢI 221A370609 0343432179
43 NGUYỄN THỊ KIỀU NHI 221A150206 0793928264
26 VŨ TRẦN ĐAN LINH 221A030584 0343370778
104 MÃ NGUYỄN HỒNG NGỌC 221A320148 0376906154
107 VŨ MINH NGỌC 221A360029 0856097409
02 DƯƠNG TRUNG TÍN 191A030241 0933247768
09 TRƯƠNG QUỐC THẮNG 211A010062 0903315982

2
Mục lục
1. Tình hình xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời...........................4
2. Phong trào đấu tranh của nhân dân trước khi Đảng Cộng sản ra đời.............................5
3. Sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam....................................................................................7
4. Ý nghĩa sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam.......................................................................9

3
Đề bài: Vì sao Đảng Cộng sản ra đời ( 03/02/1930 ) là một tất yếu lịch sử?
1. Tình hình xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
Tư năm 1858, thực dân Pháp đã bắt đầu xâm lượt Việt Nam, từng bước thiết lập chế độ thống trị
tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta. Chúng thống trị về ba mặt:
 Về chính trị: Chúng trực tiếp nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước, thi
hành chính sách cai trị chuyên chế, biến một bộ phận của giai cấp tư sản mại bản và địa
chủ phong kiến thành tay sai đắc lực, tạo nên sự cấu kết giữa chủ nghĩa đế quốc và phong
kiến tay sai, đặc trưng của chế độ thuộc địa. Sự cai trị của chính quyền thuộc địa đã làm
cho nhân dân ta mất hết quyền độc lập, quyền tự do dân chủ; mọi phong trào yêu nước bị
đàn áp dã man; mọi ảnh hưởng của các trào lưu tiến bộ từ bên ngoài vào đều bị ngăn
cấm.
 Về kinh tế: Chúng triệt đề khai thác Đông Dương vì lợi ích của giai cấp tư sản Pháp, bóc
lột tàn bạo nhân dân ta, thực hiện chính sách độc quyền, kim hãm sự phát triển kinh tế
độc lập của nước ta. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, vô nhân đạo, kể cả duy trì
bóc lột kiểu phong kiến... đầy nhân dân ta vào cảnh bần cùng, làm cho nên kinh tế bị quẻ
quặt, lệ thuộc vào kinh tế Pháp, để lại hậu quả nghiêm trọng, kéo dài. Ngoài ra, kinh tế
Việt Nam còn phải đối mặt với các vấn đề khác như mất cơ hội phát triển do sự xâm lược
và chiếm đóng của các nước ngoại vi, cũng như sự thiếu vốn đầu tư và công nghệ hiện
đại. Sự kém phát triển trong ngành công nghiệp, thương mại và dịch vụ cũng góp phần
làm giảm tính cạnh tranh của kinh tế Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua
những thay đổi đáng kể. Đảng đã triền khai các chính sách kinh tế cải cách và phát triển,
tập trung vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng, thu hút vốn đầu tư và nâng cao năng suất lao
động. Điều này đã mở ra những cơ hội mới, thúc đẩy sự phát triển kinh tế và tăng cường
hiệu quả sản xuất, mang lại sự nâng cao chất lượng cuộc sống và tăng thu nhập cho người
dân Việt Nam.
 Về văn hóa-xã hội: Thực dân Pháp thực hiện chính sách “ngu dân” để dễ cai trị, lập nhà
tù nhiều hơn trường học, đồng thời du nhập những giá trị phản văn hoá, duy trì tệ nạn xã
hội vốn có của chế độ phong kiến và tạo nên nhiều tệ nạn xã hội mới, dùng rượu cồn và
thuốc phiện để đầu độc các thế hệ người Việt Nam, ra sức tuyên truyền tư tưởng “khai
hoá văn minh” của nước “Đại Pháp".
Quá trình khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có
những biến đổi lớn, hai giai cấp mới ra đời: giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Nước
ta từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Trong xã hội tồn
tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp
xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong
kiến tay sai, chỗ dựa cho bộ máy thống trị và bóc lột của chủ nghĩa thực dân Pháp. Hai
mâu thuẫn đó có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó mâu thuẫn giữa dân tộc ta với thực
dân Pháp xâm lược là mâu thuẫn chủ yếu. Vì vậy, nhiệm vụ chống thực dân Pháp xâm

4
lược và nhiệm vụ chống địa chủ phong kiến tay sai không tách rời nhau. Đấu tranh giành
độc lập dân tộc phải gắn chặt với đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu
của cách mạng Việt Nam đặt ra, cần được giải quyết.

2. Phong trào đấu tranh của nhân dân trước khi Đảng Cộng sản ra đời
Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài và đầy gian khổ, nhân dân ta đã sớm
hình thành nên truyền thống yêu nước, tình thần đấu tranh bất khuất chống giặc. Chính vì thế từ
năm 1858 đến trước 1930, đã nổ ra hàng trăm cuộc khởi nghĩa. Tuy diễn ra sôi nổi, nhưng vẫn bị
thực dân Pháp đàn áp và thật bại nặng nề. Có thể kể đến các cuộc đấu tranh như:
 Khởi nghĩa Trương Định
Năm 1859, quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định. Ngay lúc đó Trương Định đã đem nghĩa binh
của mình lên đóng quân ở Gia định. Ông đã lập được nhiều chiến công trên phòng tuyến từ Gò
Cây Mai đến Thị nghè và các trận đánh ở trung tâm Sài Gòn.
Đầu năm 1861, Trương Định rút quân về Gò Công thuộc huyện Tân Hòa (Gia Định), quyết tâm
chiến đấu lâu dài. Thời gian này Trương Định đã chiêu mộ thêm binh sĩ, tích lũy lương thực, chế
tạo, mua sắm vũ khí và đã xây dựng Gò Công thành một căn cứ kháng chiến. Địa bàn hoạt động
của nghĩa quân ngày càng rộng khắp ở Gò Công, Mỹ Tho, Tân An, Chợ Lớn thuộc Định Tường,
Gia Định, lan rộng ra hai bên nhánh sông Vàm Cỏ từ biển Đông kéo dài đến tận biên giới
Campuchia.
Ngày 16 tháng 12 năm 1862, nghĩa quân của Trương Định nổi lên khắp mọi nơi không những ở
Gò Công mà còn ở Bà Rịa, Cần Giờ, Chợ Lớn…quân số địch bị giảm sút, bị bao vây bốn phía,
bối rối nhiều mặt. Cuộc kháng chiến đã diễn ra ác liệt suốt ba ngày liền, nghĩa quân của Trương
Định đã chiến đấu anh dũng trong căn cứ Tân Hòa, (Gò Công). Nhưng ngày 28 tháng 2 năm
1863, căn cứ Tân Hòa bị mất. Tuy bị tổn thất nhưng nghĩa quân Trương Định vẫn tiếp tục hoạt
động.
Ngày 20 tháng 8 năm 1864, trong một trận chiến đấu quyết tử với giặc, ông bị bắn gẫy xương
sống. Không để rơi vào tay giặc, Trương Định đã rút gươm tự sát để bảo tồn khí tiết khi tuổi đời
mới 44 tuổi. Sự hy sinh của ông là tổn thất lớn đối với phong trào kháng chiến chống Pháp của
nghĩa quân và nhân dân ta lúc bấy giờ.

 Phong trào Cần Vương

Giai đoạn 1: (1885-1888) của phong trào Cần Vương là một thời kỳ đầy khó khăn và chưa có sự
liên kết giữa các cuộc khởi nghĩa ở các địa phương với nhau. Tuy nhiên, dù vẫn còn rời rạc và
nhỏ lẻ, phong trào này đã có những cuộc khởi nghĩa đầy táo bạo và quyết liệt.

Phong trào được lãnh đạo bởi "Triều đình Hàm Nghi" với sự hỗ trợ của 2 người con của Tôn
Thất Thuyết là Tôn Thất Đàm và Tôn Thất Thiệp, cùng với Đề đốc Lê Trực, Tri phủ Nguyễn
Phạm Tuân. Họ đã chiến đấu ở vùng rừng núi Quảng Bình, sau phải vượt Trường Sơn, qua đất

5
Hạ Lào về vùng sơn phòng Ấu Sơn (Hà Tĩnh). Đây là cột mốc vẻ vang trong lịch sử Việt Nam
của một nhà vua yêu nước quyết tâm không đầu hàng giặc. Sau đó, để chiến đấu lâu dài, Tôn
Thất Thuyết và Trần Xuân Soạn quyết định vượt vòng vây đi xây dựng lực lượng kháng chiến ở
Thanh Hoá, rồi qua Trung Quốc.

Giai đoạn 2: Trong giai đoạn 2 (1888 - 1896) của cuộc khởi nghĩa Cần Vương, vua Hàm Nghi
đã bị bắt và đày đi Angiêri vào ngày 1/11/1888, tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa vẫn tiếp tục diễn ra
sôi nổi. Mặc dù đã có những trung tâm kháng chiến lớn hơn, nhưng vẫn chưa có sự thống nhất về
sự đoàn kết của các địa phương với nhau, và cuộc khởi nghĩa vẫn là rời rạc chưa có sự nhất quán
trong tổ chức.

Các cuộc khởi nghĩa lớn tiêu biểu trong thời kỳ này bao gồm cuộc khởi nghĩa Hương Khê của
Phan Đình Phùng và Cao Thắng, khởi nghĩa Hùng Lĩnh do Tống Duy Tân lãnh đạo, và khởi
nghĩa Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy. Tuy nhiên, tính địa phương của các khởi nghĩa
dẫn đến sự thiếu lãnh đạo và liên kết, làm cho các cuộc khởi lần lượt thất bại dưới sự đàn áp liên
tục của quân đội Pháp. Phong trào Cần Vương trong giai đoạn này vẫn hoạt động riêng lẻ và
chưa có sự thống nhất giữa các cuộc khởi nghĩa lớn. Năm 1896, phong trào Cần Vương kết thúc.
Tuy nhiên, những cuộc khởi nghĩa này đã đánh dấu sự bất mãn của nhân dân Việt Nam đối với
chế độ thực dân Pháp và làm nổi bật những nhân vật anh hùng của dân tộc như Phan Đình
Phùng, Tống Duy Tân và Nguyễn Thiện Thuật.

 Phong trào Đông Du

Phong trào Đông Du là một phong trào cách mạng ở Việt Nam đầu thế kỉ 20. Phong trào có mục
đích kêu gọi thanh niên Việt Nam ra nước ngoài (Nhật Bản) học tập, chuẩn bị lực lượng chờ thời
cơ cho việc giành lại độc lập nước nhà. Lực lượng nòng cốt cổ động và thực hiện phong trào là
Duy Tân hội và Phan Bội Châu.
Trong quá trình hoạt động Đông Du tại nước ngoài, Phan Bội Châu cũng thành lập ra “một tiểu
cơ quan” gọi là Việt Nam thương đoàn Công hội ở Hương Cảng, nó là một địa điểm liên lạc, là
“hộp thư trung chuyển” giữa chặng đường từ Việt sang Nhật.
Đến năm 1908 số học sinh Việt Nam tại Nhật lên tới 200 người. Chương trình học tập khá đa
dạng, sáng và trưa dạy tiếng Nhật, “học tri thức phổ thông”, buổi chiều dạy “tri thức quân sự”,
đặc biệt là “tập luyện thao tác quân sự”, nhằm đào tạo những người có trình độ văn hóa và quân
sự cần thiết chuẩn bị cho công cuộc bạo động đánh Pháp giành lại độc lập. Tháng 10 năm 1907,
Phan Bội Châu và các đồng chí của ông đã lập ra Hội Việt Nam Công Hiến (Công Hiến Hội), có
trương trình riêng.
Tại các chương trình nghị sự, có mặt đông đủ học viên thì Hội trưởng và Tổng lý huấn thị trước
như khuyến cáo các vấn đề có liên quan đến sinh hoạt, học tập, có khi bình giảng nội dung một
cuốn sách, nhắc nhở nhiệm vụ của các thành viên trước Tổ quốc. Sau đó tự do trao đổi, giúp đỡ
cùng nhau tiến bộ. Hệ thống tổ chức bố trí nhân sự và điều hành hoạt động ở đây tựa như một
“Chính phủ lâm thời” mà lời Phan Bội Châu bộc bạch.

6
 Phong trào Duy Tân
Phong trào Duy Tân hay còn được biết đến với tên gọi cuộc vận động Duy Tân hay Phong trào
Duy Tân ở Trung Kỳ. Đây là một cuộc vận động cải cách ở miền Trung Việt Nam diễn ra từ năm
1906 đến 1908. Cuộc vận động do Phan Châu Trinh phát động nhanh chóng kết thúc sau khi bị
thực dân Pháp đàn áp.
Phan Châu Trinh chủ trương chỉ đạo phong trào Duy Tân không bạo động, cải tổ về mọi mặt xã
hội qua con đường nâng cao dân trí. Trong đó phong trào này chủ trương cải tổ về kinh tế, văn
hóa, xã hội, giáo dục một cách toàn diện. Với các hoạt động thực tế như: Mở trường dạy học
hiện đại, lập các nhà buôn lớn để tự lực, mở mang kinh tế.

 Dù có nhiêu cuộc khởi và các phong trào nổ ra để chống lại Thực dân Pháp và các thế
lực xâm lược nhưng các cuộc đấu tranh ấy vẫn bị đàn áp và thất bại. Nguyên nhân
thất bại của các phong trào đó là do thiếu đường lối chính trị đúng đắn để giải quyết
triệt để những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội, chưa có một tổ chức vững
mạnh để tập hợp, giác ngộ và lãnh đạo toàn dân tộc, chưa xác định được phương
pháp đấu tranh thích hợp để đánh đổ kẻ thù.

3. Sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam


 Ngày 5-6-1911: Từ cảng Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc, bắt đầu cuộc hành
trình 30 năm tìm con đường giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Vào thời điểm đó,
không ai biết rằng vận mệnh của dân tộc Việt Nam đã gắn liền với quyết định ra đi của
một con người mà lịch sử đã chứng tỏ là sáng suốt, phi thường ấy.Với một sự nhạy cảm
đặc biệt, Nguyễn Tất Thành không đi sang nước Nhật, không tìm về châu Á mà Người
sang nước Pháp, đến tận nơi nước đang cai trị mình, đến tận châu Âu, nơi đang có sự
phát triển vượt bậc về kinh tế, về văn hóa, về chính trị để tìm hiểu xem người ta làm như
thế nào rồi trở về cứu giúp đồng bào. Bác ra đi, hành trang chỉ là lòng yêu nước, thương
dân sâu sắc, quyết tâm tìm con đường cứu nước, cứu dân.
Chính chủ nghĩa yêu nước cùng với những năm tháng tìm tòi không mệt mỏi về lý luận
và hoạt động trong phong trào công nhân quốc tế, người thanh niên Việt Nam Nguyễn
Tất Thành bất chấp mọi hiểm nguy đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trở thành nhà hoạt
động quốc tế xuất sắc Nguyễn Ái Quốc.
 1917: CMT10 Nga diễn ra thành công đã làm biến đổi tình hình thế giới, cỗ vũ các dân
tộc bị áp bức đứng lên tự giải phóng mình => nêu gương cho cách mạng ở các nước
thuộc địa(trong đó có Việt Nam) đấu tranh tự giải phóng.
 3/1919: Quốc tế Cộng sản ra đời => Thúc đẩy phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
phát triển mạnh mẽ => Sự ra đời của hàng loạt các Đảng cộng sản, chỉ ra hướng đấu tranh
giải phóng cho các dân tộc bị áp bức.
 Ngày 16 và 17/7/1920: báo Nhân đạo (L’Humanite) của Đảng Xã hội Pháp đăng toàn
văn “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của
Lênin. Người đọc, nghiên cứu bản Luận cương và Người đã tìm thấy ở đó con đường giải

7
phóng dân tộc. Người đã thốt lên: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết
cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”
 11/1924:Nguyễn Ái Quốc từ Matxcơva về Quảng Châu - Trung Quốc ,trực tiếp chỉ đạo
việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại đây, Người sáng lập và trực tiếp
huấn luyện Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, sáng lập và viết bài cho báo Thanh
niên, xuất bản tác phẩm Đường Kách mệnh (1927)... nhằm tuyên truyền chủ nghĩa Mác -
Lênin vào trong nước, tổ chức đào tạo bồi dưỡng cán bộ cốt cán, tiếp tục chuẩn bị về mặt
chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng

Với sự nỗ lực cố gắng truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào
yêu nước Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc và những hoạt động tích cực của các cấp bộ trong tổ
chức Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên trên cả nước đã có tác dụng thúc đẩy phong trào yêu
nước Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản, nâng cao ý thức giác ngộ và lập trưởng
cách mạng của giai cấp công nhân. Những cuộc đấu tranh của thợ thuyền khắp ba kỳ với nhịp
độ, quy mô ngày càng lớn, nội dung chính trị ngày càng sâu sắc.

 Ngày 17-6-1929, hơn 20 đại biểu các tổ chức cơ sở đảng ở miền Bắc đã họp ở ngôi nhà
số 312 phố Khâm Thiên - Hà Nội, quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng,
thông qua Chính cương, Tuyên ngôn, Điều lệ của Đảng; quyết định xuất bản Báo Búa
Liềm - cơ quan ngôn luận của Đảng - và cử ra Ban Chấp hành Trung ương của Đảng.
 Ngày 25/7/1929, trong một bức thư của các đồng chí tiên tiến trong bộ phận Việt Nam
Cách mạng thanh niên đồng chí hội hoạt động ở Trung Quốc gửi cho Đông Dương Cộng
sản Đảng báo tin rằng các đồng chí đó định tổ chức một Đảng Cộng sản bí mật còn
"Thanh niên" thì cứ giữ nguyên để chỉnh đốn lại. Các chi bộ cộng sản lần lượt được thành
lập ở Nam kỳ, ở Trung kỳ và ở Xiêm. Các đảng viên hoạt động ở Trung Quốc được tập
hợp trong một chi bộ mang tên chi bộ An Nam Cộng sản Đảng, chi bộ này đã liên lạc và
được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Trung Quốc và đã liên lạc với Quốc tế Cộng sản.
Theo Hồng Thế Công, An Nam Cộng sản Đảng ra đời vào tháng 8/1929. Đảng có cơ sở
quần chúng ở các xí nghiệp và trong giới thợ thủ công ở Sài Gòn và một số tỉnh ở phía
Nam. An Nam Cộng sản Đảng đã nhiều lần gửi thư cho Đông Dương Cộng sản Đảng bàn
việc hợp nhất đảng, song không đạt được sự nhất trí.
 Sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng (6/1929) và An Nam Cộng sản Đảng (8/1929)
đã có tác động mạnh mẽ đến sự phân hoá của đảng Tân Việt. Tại Trung Kỳ, Tân Việt
Cách mạng đảng (là một tổ chức thanh niên yêu nước có cả Trần Phú, Nguyễn Thị Minh
Khai...) chịu tác động mạnh mẽ của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên-đã đi theo
khuynh hướng cách mạng vô sản.
 Những phần tử tiên tiến của Tân Việt đã tách ra lập các chi bộ cộng sản, xúc tiến việc
chuẩn bị thành lập đảng cộng sản. Tháng 9/1929, bản Tuyên đạt của Đông Dương Cộng
sản liên đoàn đã tuyên bố: "Những người giác ngộ Cộng sản chân chính trong Tân Việt
cách mệnh đảng trịnh trọng tuyên ngôn cùng toàn thể đảng viên Tân Việt cách mệnh
đảng, toàn thể thợ thuyền, dân cày và lao khổ biết rằng chúng tôi đã chánh thức lập ra

8
Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Đông Dương Cộng sản liên đoàn lấy chủ nghĩa Cộng
sản làm nền móng, lấy công, nông, binh liên hiệp làm đối tượng vận động cách mệnh để
thực hành cách mệnh cộng sản trong xứ Đông Dương, làm cho xứ sở của chúng ta hoàn
toàn độc lập, xoá bỏ nạn người bóc lột áp bức người, xây dựng chế độ công nông chuyên
chính, tiến lên cộng sản chủ nghĩa trong toàn xứ Đông Dương".
Trong vòng không đầy bốn tháng (từ giữa tháng 6 đến tháng 9/1929) đã có ba tổ chức đảng ở
Việt Nam lần lượt tuyên bố thành lập. Cơ sở tổ chức đảng và cơ sở quần chúng của đảng đã phát
triển khắp cả ba miền. Sự ra đời nhanh chóng các tổ chức cộng sản lúc bấy giờ là một xu thế tất
yếu của cách mạng Việt Nam. Song, sự tồn tại ba đảng biệt lập có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn.
Yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam là phải có một Đảng Cộng sản thống nhất trong cả
nước.

 Từ ngày 06 tháng 01 đến ngày 07 tháng 02/1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản
họp tại bán đảo Cửu Long thuộc Hồng Kông (Trung Quốc), dưới sự chủ trì của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc (với tên gọi là Vương - thay mặt cho Quốc tế cộng sản). Trong Hội nghị
thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra 5 điểm lớn cần thảo luận và thống nhất,
trước hết là tự phê bình và phê bình, “Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác
để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương”. Hội nghị nhất trí, thống nhất các tổ
chức Cộng sản Việt Nam thành lập một đảng cộng sản duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng
sản Việt Nam.

4. Ý nghĩa sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam


Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập đã khẳng định dứt khoát nội dung, phương hướng phát triển
của xã hội Việt Nam là gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, chấm dứt sự khủng hoảng
bế tắc về đường lối cứu nước của dân tộc ta trong hơn 9 thập kỉ.
Sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với nội dung và xu thế cách mạng của thời
đại mới được mở ra từ Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại: “Đối với nước ta, không còn con
đường nào khác để có độc lập dân tộc thật sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh
rằng đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của
Đảng ta”.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt quyết định trong sự phát triển của
dân tộc ta, tạo những tiền đề và nhân tố hàng đầu quyết định đưa cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác. “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng
trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ
sức lãnh đạo cách mạng”.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đó là sự phản
ánh quy luật ra đời và cội nguồn sức mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời là sự vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào đặc điểm của dân tộc Việt Nam và là công lao to lớn

9
của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong công cuộc vận động thành lập một chính đảng
vô sản ở Việt Nam - một nước thuộc địa nửa phong kiến.

Từ những phân tích trên, chúng ta đúc kết dược vì sao Đảng Cộng sản ra đời là một tất yếu
lịch sử:
Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực sự trở thành người lãnh đạo, đưa cách
mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, từng bước đi lên, làm nên những kỳ
tích, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam, đáp ứng khát vọng của nhân dân
Việt Nam và phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. một đảng có đường lối cách mạng khoa
học và sáng tạo, có tổ chức chặt chẽ, đội ngũ cán bộ đảng viên kiên trung, nguyện suốt đời hi
sinh cho lí tưởng của Đảng, cho độc lập dân tộc, cho tự do của nhân dân.
Kể từ khi Đảng ra đời, cách mạng Việt Nam thực sự trở thành một bộ phận khăng khít của cách
mang thế giới. Trước năm 1930, nhiều nhà cách mạng Việt Nam ra nước ngoài tìm đường cứu
nước nhưng chưa hề đề cập đến vấn đề đoàn kết với lực lượng cách mạng thế giới. Từ đây, cách
mạng Việt Nam đã tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới.
Đảng ra đời đã vạch ra được phương pháp cách mạng đúng đắn. Đó là phương pháp đấu tranh
cách mạng bằng bạo lực của quần chúng theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, điều mà các
nhà cách mạng tiền bối trước năm 1930 như Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh… chưa nhận thức được. Nhờ đó Đảng ta biết xây dựng hai lực lượng chính trị và vũ trang
để tiến hành khởi nghĩa.
Là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt mới trong
lịch sử tiến hóa của dân tộc Việt Nam. Đó là sau 15 năm Đảng đã lãnh đạo quần chúng nhân dân
tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám 1945. Sau 9 năm lại
làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 làm chấn động địa cầu. 21 năm sau (1975) đánh thắng
giặc Mĩ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước và lãnh đạo nhân dân ta
xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

10

You might also like