Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 3

Hai câu đầu của đoạn thơ là lời hỏi và kể của người ra đi, muốn biết lòng người

ở lại như thế


nào và tự bộc lộ tấm lòng mình. Tám câu tiếp theo vẽ nên thiên nhiên Việt Bắc đầy thơ mộng
và con người Việt Bắc đầy thân thương qua lời của người đi. Đầu tiên mùa đông xuất hiện với
những bông chuối đỏ rực trên nền rừng xanh thẫm của những buổi hoàng hôn và hình ảnh con
người lao động vui tươi. Tiếp đến là mùa xuân rực rỡ màu trắng của mơ và hình ảnh người
đan nón. Rồi mùa hạ đến đầy màu vàng của rừng phách và đầy âm thanh của tiếng ve. Con
người lại xuất hiện dưới hình ảnh cô gái một mình đang hái măng. Kết thúc là rừng thu ngập
ánh trăng và không gian ngập tiếng hát. Cứ mỗi câu thơ tả thiên nhiên lại có một câu thơ tả
con người, con người hoà quyện trong thiên nhiên nhưng không chìm trong thiên nhiên và
luôn ở tư thế lao động, chủ động, thiên nhiên là nền nâng con người, tô điểm cho con người.
Có thể nói đây là một đoạn thơ với nhiều nghệ thuật tinh tế, tình cảm chân thực, xứng đáng là
đoạn thơ hay nhất trong bài Việt Bắc. Ngay từ câu mở đầu, lời của người đi đã có một sức
truyền cảm đặc biệt nhờ tính mộc mạc chân thực của nó. Câu thơ chỉ như một câu nói bình
thường nhưng lại rất chân thành làm người đối diện xúc động. Nó đơn giản song lại da diết,
thể hiện được sự mong mỏi của người đặt câu hỏi muốn biết tình cảm người kia dành cho
mình cũng như một ước mong: hãy nhớ tôi nhé! Như muốn chứng tỏ tình cảm của mình người
đặt câu hỏi lại kể hàng loạt những kỉ niệm về cảnh, về người:
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Cái đẹp của câu thơ là hình ảnh hoa cùng người, bởi chăng con người cũng là một bông hoa
trong vườn hoa sự sống. Hình ảnh tạo nên nét hài hoà giữa thiên nhiên và con người, hoa và
người tôn vẻ đẹp của nhau.
Bốn câu lục bát sau tả bức tranh bốn mùa với những hình ảnh, màu sắc tươi tắn và âm thanh
rộn ràng. Dù là mùa đông hay mùa hạ, mùa xuân hay mùa thu, tất cả đều có màu tươi vui.
Màu đỏ của hoa chuối làm cho mùa đông bớt lạnh. Màu trắng của hoa mơ và màu vàng của
rừng phách càng tôn thêm vẻ rực rỡ của thiên nhiên một sự êm ả, thơ mộng và cảm giác thanh
bình cho lòng người. Tất cả những đường nét đó vẽ nên bức tranh tứ bình đặc sắc bởi lời thơ
mềm mại. Song nếu chỉ là bức tranh thì chưa đủ bởi thiếu âm thanh thiên nhiên Việt Bắc: Ta
về, ta nhớ những hoa cùng người, không thiếu âm thanh, còn có tiếng ve kêu mùa hạ và tiếng
hát của con người. Tác giả chọn tiếng ve là một sự lựa chọn hợp lí và mang tính tiêu biểu. Bởi
ở Việt Nam, nói đến tiếng ve là người ta nghĩ ngay đến mùa hè. Tiếng ve rả rích tuy bình
thưởng nhưng là một biểu tượng bằng âm thanh cho mùa hạ với màu vàng rất riêng của Việt
Bắc tạo nên một sự kết hợp nghe - nhìn đặc biệt làm cho bức tranh mùa hạ vừa có nét riêng
của Việt Bắc vừa có nét chung của đất nước. Phải chăng dụng ý của tác giả là để từ đó, dù mai
sau có ở đâu, khi nghe tiếng ve kêu, ai cũng có thể liên tưởng và nhớ lại Việt Bắc? Vậy là
thiên nhiên Việt Bắc, chỉ qua vài câu thơ đã được miêu tả đầy đủ và mang tính cách riêng độc
đáo với hình ảnh và âm thanh chọn lọc khéo léo.
Trên nền thiên nhiên tuyệt đẹp đó, con người hiện ra trong tư thế chủ động và đầy sức sống.
Bốn câu bát nói về con người cũng rất tinh tế và tình cảm. Tác giả chọn lọc phác họa những
hình ảnh con người lao động thấp thoáng nhưng đủ sức gợi. Đó là hình ảnh người đi rẫy, đan
nón, hái măng, hay kín đáo hơn một tiếng hát khi lao động hay trong một đêm sinh hoạt văn
nghệ. Hình ảnh nắng ánh dao gài thắt lưng rất đặc trưng khoẻ khoắn và vui tươi. "Nắng" như
tiếp thêm sự sống động cho con người chứ không mang vẻ gay gắt. Khi nhớ về hình ảnh người
đan nón, tác giả gián tiếp bày tỏ lòng biết ơn đối với những đóng góp của Việt Bắc cho kháng
chiến. Một cách bày tỏ kín đáo và tế nhị! Kí ức về cô em gái hái măng rất tình cảm bởi cách
sử dụng từ "cô em gái" một cách trìu mến. Hơn nữa cảnh thiên nhiên thật rực rỡ, tươi đẹp, đầy
âm thanh và màu sắc sống động. Cuối cùng, kỉ niệm về tiếng hát gây cho người đối thoại của
nhân vật trữ tình xưng "ta" cũng như cả người đọc sự xúc động thật sự. Bởi tiếng hát xuất phát
từ tâm hồn và tiếng hát "ân tình thuỷ chung" theo người đi là một kỉ niệm, một tình cảm êm
dịu và lâu dài. Tiếng hát ấy phải chăng cũng chính là tâm hồn của tác giả.
Tố Hữu có biệt tài chọn lọc hình ảnh và phối hợp ánh sáng rất độc đáo. Ông có một tâm hồn
nhạy cảm và có khả năng truyền cảm xúc của mình cho người khác. Chẳng hạn như chỉ với
hai câu thơ:
Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn.
Cũng đủ khiến cho người đọc có cảm giác như mình đang ở Ba Lan thật sự. Tâm hồn Tố Hữu
say mê và mạnh mẽ nhưng cũng rất sâu lắng và thủy chung. Với Tố Hữu, chính trị là một
nguồn thơ thực sự, ông say mê sống với lí tưởng cách mạng và với niềm tin chân thật, ông
muốn mang lí tưởng đó đến cho mọi người, ông thực hiện điều đó bằng tài năng thi ca của
mình. Một điều đáng tiếc là những tập thơ sau này của ông như Ra trận, Máu và hoa có phần
trở nên khô khan, đôi khi mang nặng tính triết lí và giáo huấn. Tuy nhiên, đoạn thơ vừa được
phân tích ở trên là một bằng chứng hùng hồn cho tài năng sáng tạo của ông. Với tôi, đoạn thơ
thực sự là một điểm son trong những sáng tác của Tố Hữu mang đậm tính dân tộc và cảm xúc
chân thực

Việt Bắc của Tố Hữu là giọng hùng ca, tình ca được khởi phát lên từ âm vang chiến thắng của
dân tộc nên nhuốm hơi thở thời sự, đượm chất liệu lịch sử, không khí sử thi… làm nên chất
hiện đại cho bài thơ.
Bây giờ xin nói cụ thể về một đoạn thơ hay nhất trong bài, tiêu biểu cho vẻ đẹp cổ điển và rất
hiện đại. Đó là đoạn thơ 10 câu nói về cảnh vật và con người Việt Bắc trong kháng chiến: “Ta
về mình có nhớ ta/ Ta về, ta nhớ những hoa cùng người/ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi/ Đèo
cao nắng ánh dao gài thắt lưng/ Ngày xuân mơ nở trắng rừng/ Nhớ người đan nón chuốt từng
sợi giang/ Ve kêu rừng phách đổ vàng/ nhớ cô em gái hái mang một mình/ Rừng thu trăng rọi
hòa bình/ Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.
Giả dụ như Tố Hữu không viết cả một bài thơ dài đến 150 câu lục bát, mà chỉ viết 10 câu thơ
này thôi thì đã coi như một bài thơ trọn vẹn về kỷ niệm Việt Bắc. Có phần mở khái quát ở hai
câu đầu và 4 cặp câu lục bát triển khai theo phép lặp cấu trúc. Ở mỗi cặp câu được triển khai
theo bút pháp cổ điển của bức tranh tứ bình trung đại (xuân, hạ, thu, đông), một câu tả hoa,
một câu tả người. Có điều con người ở đây không phải là “ngư, tiều, canh, mục” mà là những
con người lao động cụ thể về không gian, thời gian. Thiên nhiên hiện lên tươi đẹp, sinh động,
đa màu sắc, được gợi lại bằng bút pháp chấm phá, đặc tả. Con người hiện lên vừa cụ thể vừa
phiếm chỉ; cần cù trong lao động, thủy chung trong kháng chiến. Hai câu thơ cuối vừa là bức
tranh “rừng thu” trong tứ mùa, nhưng có sự khái quát, giàu ý nghĩa tượng trưng, ẩn dụ sâu sắc.

Tinh ý hơn sẽ thấy điều này, Tố Hữu không miêu tả theo trình tự quy luật bốn mùa xuân – hạ
– thu – đông, mà ông kết thúc đoạn thơ bằng hình ảnh mùa thu: “Rừng thu trăng rọi hòa
bình”. Viết như thế là hay, là ý tưởng, phù hớp với quan niệm của thơ ca cách mạng về mùa
thu. Từ mùa thu đẹp cổ điển trong thơ trung đại của Ngô Chi Lan (thế kỷ XV), của Nguyễn
Khuyến; đến thu buồn tang tóc trong trong thơ mới với Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư; Mùa thu
trong thơ cách mạng đã khoác lên màu áo mình một quan niệm mới: mùa của thắng lợi, mùa
của hòa bình, được khởi sáng lên từ mùa thu Cách mạng tháng Tám, 1945. Mùa thu ấy đã làm
nên “dáng hình” cho đất nước: “Mùa thu nay khác rồi/ Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi/ Gió
thổi rừng tre phất phới/ Trời thu thay áo mới/ Trong biếc nói cười thiết tha…” (Đất Nước,
Nguyễn Đình Thi).

You might also like