Professional Documents
Culture Documents
Cuối kì - Triết học Mác-Lênin - Năm 2016
Cuối kì - Triết học Mác-Lênin - Năm 2016
QĐIỂM 2:
Sản xuất vật chất giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, là hoạt
động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan hệ xã hội của con người; nó là cơ sở
của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng
sản xuất và các yếu tố cơ bản cấu thành lực lượng sản xuất Lực lượng sản xuất là
2 TRẦN HOÀNG SƠN TÀI LIỆU PHI LỢI NHUẬN
toàn bộ các nhân tố vật chất, kỹ thuật của quá trình sản xuất, chúng tồn tại trong mối quan hệ
biện chứng với nhau tạo ra sức sản xuất làm cải biến các đối tượng trong quá trình sản xuất,
tức là tạo ra năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu
cầu nhất định của con người và xã hội.
Lực lượng sản xuất bao gồm: Người lao động (như năng lực, kỹ năng, tri thức...) và các tư
liệu sản xuất (gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động) trong đó nhân tố người lao động
giữ vai trò quyết định. Sở dĩ như vậy là vì suy đến cùng các tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm
lao động của con người, đồng thời giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản xuất phụ
thuộc vào trình độ sử dụng của người lao động. Trong tư liệu sản xuất, nhân tố công cụ lao
động do con người sáng tạo ra phản ánh rõ nhất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Ngày nay, với sự phát triển và ứng dụng nhanh chóng những thành tựu của khoa học, kỹ
thuật và công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất làm cho các tri thức khoa học kỹ thuật trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy sự phát triển và chuyển từ nền kinh tế công
nghiệp sang nền kinh tế tri thức.
Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức
quản lý sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm.
Những quan hệ sản xuất này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất và chi phối, tác động lẫn
nhau, trong đó quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất giữa vaitrò quyết định.
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất biện
chứng trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động
trở lại lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu
của quá trình sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản
xuất, còn quan hệ sản xuất là hình thức kinh tế của quá trình đó.
Mối quan hệ thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo nguyên tắc
khách quan: quan hệ sản xuất phụ thuộc vào thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất
trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan
hệ sản xuất được thể hiện ở chỗ:
- Lực lượng sản xuất thế nào thì quan hệ sản xuất phải thế ấy tức là quan hệ sản xuất phải
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. - Khi lực lượng sản xuất biến đổi
quan hệ sản xuất sớm muộn cũng phải biến đổi theo. - Lực lượng sản xuất quyết định cả ba
mặt của quan hệ sản xuất tức là quyết định cả về chế độ sở hữu, cơ chế tổ chức quản lý và
phương thức phân phối sản phẩm.
Tuy nhiên, quan hệ sản xuất với tư cách là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất luôn có
tác động trở lại lực lượng sản xuất. Sự tác động này diễn ra theo cả hai chiều hướng tích cực
và tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào tính phù hợp hay không phù hợp của quan hệ sản xuất với
thực trạng của lực lượng sản xuất.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất có bao
hàm khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập và phát sinh mâu thuẫn.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thống nhất với nhau trong một phương thức sản
xuất, tạo nên sự ổn định tương đối, đảm bảo sự tương thích giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển.
Lực lượng sản xuất không ngừng biến đổi, phát triển, tạo ra khả năng phá vỡ sự thống nhất
giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất làm xuất hiện nhu cầu khách quan phải tái thiết
lập quan hệ thống nhất giữa chúng theo nguyên tắc quan hệ sản xuất phải phù hợp với yêu
cầu phát triển của lực
Sự vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là nguồn
gốc và động lực cơ bản của sự vận động, phát triển các phương thức sản xuất. Nó là cơ sở để
giải thích một cách khoa học vềnguồn gốc sâu xa của toàn bộ hiện tượng xã hội và sự biến
động trong đời sống chính trị, văn hóa của xã hội.
Câu14 : Phân tích nội dung và kết cấu của LLSX. Tại sao nói trong thời đại hiện nay
khoa học đã trở thành LLSX trực tiếp của xã hội ?
a) Nội dung và kết cấu của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất: * LLSX là thể thống
nhất hữu cơ giữa tư liệu sản xuất (trước hết là công cụ sản xuất) và con người với kinh
nghiệm, kỹ năng tri thức lao động của họ. + LLSX biểu hiện mối quanhệ giữa con ng
ời với tự nhiên trong quá trình sản xuất. + LLSX do con người tạo ra nhưng mang tính
khách quan. + Kết cấu của lực lượng sản xuất. + LLSX bao gồm hai yếu tố cấu thành
đó là tư liệu sản xuất và người lao động. Tư liệu sản xuất gồm: + Tư liệu lao động: có
công cụ lao động và những phương tiện lao động khác phục vụ trong quá trình sản
xuất như những phương tiện vận chuyển, bảo quản sản phẩm. + Đối tượng lao động là
những vật có sẵn trong tự nhiên và cả những vật do con người tạo ra và được con
người sử dụng trong quá trình sản xuất. - Yếu tố con người: Đó chính là người lao
động với kinh nghiệm, kỹ năng, tri thức lao động của họ. Các yếu tố trong lực lượng
sản xuất không thể tách rời nhau mà quan hệ hữ cơ với nhau. Trong đó con người giữ
vị trí hàng đầu. Tư liệu sản xuất giữ vai trò quan trọng và khoa học ngày càng trở
thành các lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội. Ngày nay lực lượng sản xuất có
thêm một yếu tố mới tham gia vào quá trình của nó đó là khoa học. b) Khoa học đã trở
thành LLSX trực tiếp vì: Không thể phát triển sản xuất nếu thiếu sự tham gia của khoa
học. Những sáng chế phát minh trong khoa học được áp dụng trực tiếp vào quá trình
sản xuất và trở thành một mắt khâu của quá trình sản xuất. - Khoa học được kết tinh
4 TRẦN HOÀNG SƠN TÀI LIỆU PHI LỢI NHUẬN
vào mọi nhân tố của quá trình sản xuất (vào đối tượng lao động, vào tư liệu lao động
vào phương pháp công nghệ và cả trong tri thức của người lao động). - Khoa học trở
thành điểm xuất phát cho những biến đổi to lớn trong sản xuất tạo ra những ngành sản
xuất mới kết hợp khoa học với kỹ thuật thành một thể thống nhất, đưa đến những
phương pháp công nghệ mới đem lại hiệu quả cao sản xuất
Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin và ý nghĩa khoa học của định nghĩa
này, Định nghĩa này khắc phục những vấn đề triết học trước Mác? Tiếp thu tư
tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, trên cơ sở khái quát những thành tựu mới nhất của
khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, về mặt triết học trên cơ sở phê
phán những quan điểm duy tâm và siêu hình về vật chất, Lênin đã đưa ra định nghĩa
về vật chất như sau:
* Nội dung định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” (V.I.Lênin toàn tập, T.18, NXB Tiến bộ,
Matxcơva, 1980, tr.151).
* Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:
Trong định nghĩa trên, chúng ta cần phân tích những nội dung chủ yếu sau đây:
a. “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan…” - “Vật chất”
là một phạm trù khái quát nhất, rộng nhất của lý luận nhận thức. + Phạm trù vật chất
phải được xem xét dưới góc độ của triết học, chứ không phải dưới góc độ của các
khoa học cụ thể. Điều này sẽ giúp chúng ta tránh được sai lầm khi đồng nhất phạm trù
vật chất trong triết học với các khái niệm vật chất thường dùng trong các khoa học cụ
thể hoặc đời sống hằng ngày.
+ Không thể định nghĩa phạm trù vật chất theo phương pháp thông thường. Về
mặt nhận thức luận, Lênin chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất trong quan hệ với
phạm trù đối lập của nó, đó là phạm trù ý thức (phương pháp định nghĩa thông qua cái
đối lập với nó). (Xem thêm chương khái niệm ở giáo trình Lôgic hình thức)
Khi định nghĩa vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan,
Lênin đã bỏ qua những thuộc tính riêng lẻ, cụ thể, nhiều màu, nhiều vẻ của các sự vật,
hiện tượng, mà nêu bật đặc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất có ở tất cả các sự vật, hiện
tượng trong thế giới hiện thực khách quan. Đó là đặc tính “tồn tại với tư cách là thực
tại khách quan”, tồn tại ở ngoài ý thức con người và độc lập với ý thức. Đặc tính này
là dấu hiệu cơ bản để phân biệt vật chất với cái không phải là vật chất.
- Tính trừu tượng của phạm trù vật chất: Phạm trù vật chất khái quát đặc tính
chung nhất của mọi khách thể vật chất xét trong quan hệ với ý thức nên về hình thức
nó là cái trừu tượng. Vì thế, không được đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể của nó
giống như quan niệm của các nhà duy vật trước Mác.
b. Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác.
Trong phần này, Lênin đã giải quyết được những điều sau
đây:
Định nghĩa vật chất của Lênin đã bao quát cả hai mặt cảu vấn đề co bản của
triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Định nghĩa vật chất của Lênin đã chống lại quan điểm duy tâm, tôn giáo về
phạm trù vật chất
Định nghĩa vật chất của Lênin đã khắc phục được tính chất siêu hình, cơ
giới, máy móc trong quan niệm về vật chất cảu chủ nghĩa duy vật trước Mác
Định nghĩa vật chất của Lênin chống lại quan điểm của chủ nghĩa duy vật
tầm thường, là đồng nhất vật chất với ý thức
Định nghĩa vật chất của Lênin có ý nghĩa trong việc chống lại thuyết không
thể
Định nghĩa vật chất của Lênin đã mở đường cho các nhà khoa học đi sâu
nghiên cứu và khám phá những kết cấu phức tạp của thế giới vật chất
Định nghĩa này khắc phục những vấn đề triết học trước Mác
Quan điểm của các nhà duy vật thời cổ đại
Vào thời cổ đại ở Hy Lạp, các nhà triết học duy vật đều cho có một nguyên thể vật
chất đầu tiên là cơ sở thế giới. Họ quy vật chất về cơ sở đầu tiên đó. Quan niệm vật
chất của các nhà duy vật cổ đại còn mang tính trực quan, cảm tính, họ đồng nhất vật
chất nói chung với những vật thể hữu hình, cảm tính đang tồn tại ở thế giới bên ngoài.
Quan điểm của các nhà duy vật thời cận đại
Kế thừa nguyên tử luận cổ đại, các nhà duy vật thời cận đại tiếp tục coi nguyên tử là
những phần tử vật chất nhỏ nhất, không phân chia được, vẫn tách rời chúng một cách
siêu hình với vận động không gian và thời gian. Họ chưa thấy được vận động là thuộc
tính cố hữu của vật chất. Các nhà triết học của thời kỳ này còn đồng nhất vật chất với
một thuộc tính nào đó của vật chất như đồng nhất vật chất với khối lượng, năng lượng.
Nhận xét của Lênin về cuộc khủng hoảng và cách giải quyết
Trong tác phẩm “ chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” V.I.Lênin đã
phân tích tình hình phức tạp ấy và chỉ rõ:
Những phát minh có giá trị to lớn của vật lý học cận đại không hề bác bỏ chủ nghĩa
duy vật. Không phải “vật chất tiêu tan” mà chỉ có giới hạn hiểu biết của con người về
vật chất là tiêu tan. Nghĩa là cái mất đi không phải là vật chất mà là giới hạn của sự
nhận thức về vật chất.Theo V.I.
Lênin những phát minh mới nhất của khoa học tự nhiên không hề bác bỏ vật chất mà
chỉ làm rõ hơn hiểu biết còn hạn chế của con người về vật chất. Giới hạn tri thức của
chúng ta hôm qua về vật chất còn là nguyên tử thì hôm nay đã là các hạt cơ bản và
ngày mai chính cái giới hạn đó sẽ mất đi. Nhận thức của con người ngày càng đi sâu
vào vật chất, phát hiện ra những kết cấu mới của nó.
Tình hình mới của lịch sử và thời đại đặt ra là phải chống lại chủ nghĩa duy tâm các
loại, khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác trong quan niệm về
vật chất. Muốn vậy, phải có một quan niệm đúng đắn, đầy đủ và chính xác về vật chất.
Lênin đã hoàn thành nhiệm vụ đó.
Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc và khái quát những thành tựu của khoa học tự
nhiên, kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ph. Ăngghen, năm 1908, trong tác phẩm
Vai trò của phương thức sản xuất đối với quá trình phát triển xã hội:
Vai trò của phương thức sản xuất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội
1. Phương thức sản xuất là gì?
– Sản xuất vật chất được tiến hành trong những điều kiện tất yếu nhất định:
26 TRẦN HOÀNG SƠN TÀI LIỆU PHI LỢI NHUẬN
+ Điều kiện địa lý
+ Điều kiện dân số
+ Phương thức sản xuất
Trong ba nhân tố đó thì phương thức sản xuất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển
của xã hội.
– Phương thức sản xuất là cách thức tiến hành sản xuất ra của cải vật chất trong một giai
đoạn nhất định của lịch sử.
2. Phương thức sản xuất và nhân tố quyết định tính chất, kết cấu của xã hội, quyết định sự
vận động, phát triển của xã hội.
– Trong mỗi xã hội, phương thức sản xuất thống trị như thế nào thì tính chất của chế độ xã
hội như thế ấy; kết cấu giai cấp và tính chất của các mối quan hệ giữa các giai cấp, cũng như
các quan điểm về chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học v.v.., đều do phương thức sản xuất
quyết định.
– Phương thức sản xuất quyết định sự chuyển biến của xã hội loài người qua các giai đoạn
lịch sử. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, thay thế phương thức sản xuất cũ đã lỗi
thời thì mọi mặt của đời sống xã hội cũng có sự thay đổi căn bản từ kết cấu kinh tê đến kết
cấu giai cấp, từ các quan điểm tư tưởng xã hội đến các tổ chức xã hội. Lịch sử xã hội loài
người đã biết đến năm phương thức sản xuất kế tiếp nhau từ thấp lên cao, tương ứng với nó
có năm xã hội cụ thể: cộng sản nguyên thuỷ, nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa (mà chủ nghĩa xã hội là giai đoạn thấp). Do đó, lịch sử xã hội loài người trước hết
là lịch sử của sản xuất, lịch sử của các phương sản xuất kế tiếp nhau trong quá trình phát
triển. Việc thay thế phương thức sản xuất cũ bằng phướng thức sản xuất mới diễn ra không
đơn giản, dễ dàng. Đó là quá trình cải biến cách mạng. Phương thức sản xuất mới muốn trở
thành phương thức sản xuất thống trị thì phải trài qua cách mạng xã hội và gắn liền với chế
độ chính trị.
Từ đó có thể rút ra kết luận: Cái chìa khoá để nghiên cứu những quy luật của lịch sử xã hội
không phải tìm thấy ở trong óc người, trong tư tưởng và ý niệm của xã hội, mà là ở phướng
thức sản xuất của xã hội, trong mỗi giai đoạn nhất định của lịch sử.
Phân tích nội dung và kết cấu của LLSX. Tại sao nói trong thời đại hiện nay khoa học
đã trở thành LLSX trực tiếp của xã hội ?
a) Nội dung và kết cấu của lực lượng sản xuất.
(Vẽ sơ đồ),(phân tích thêm………)
Lực lượng sản xuất:
* LLSX là thể thống nhất hữu cơ giữa tư liệu sản xuất (trước hết là công cụ sản xuất) và con
người với kinh nghiệm, kỹ năng tri thức lao động của họ.
+ LLSX biểu hiện mối quanhệ giữa con ng-ời với tự nhiên trong quá trình sản xuất.
27 TRẦN HOÀNG SƠN TÀI LIỆU PHI LỢI NHUẬN
+ LLSX do con người tạo ra nhưng mang tính khách quan.
+ Kết cấu của lực lượng sản xuất.
+ LLSX bao gồm hai yếu tố cấu thành đó là tư liệu sản xuất và người lao động.
Tư liệu sản xuất gồm:
+ Tư liệu lao động: có công cụ lao động và những phương tiện lao động khác phục vụ trong
quá trình sản xuất như những phương tiện vận chuyển, bảo quản sản phẩm.
+ Đối tượng lao động là những vật có sẵn trong tự nhiên và cả những vật do con người tạo ra
và được con người sử dụng trong quá trình sản xuất.
- Yếu tố con người: Đó chính là người lao động với kinh nghiệm, kỹ năng, tri thức lao động
của họ. Các yếu tố trong lực lượng sản xuất không thể tách rời nhau mà quan hệ hữ cơ với
nhau. Trong đó con người giữ vị trí hàng đầu. Tư liệu sản xuất giữ vai trò quan trọng và khoa
học ngày càng trở thành các lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội. Ngày nay lực lượng sản
xuất có thêm một yếu tố mới tham gia vào quá trình của nó đó là khoa học.
b) Khoa học đã trở thành LLSX trực tiếp vì:
Không thể phát triển sản xuất nếu thiếu sự tham gia của khoa học. Những sáng chế phát
minh trong khoa học được áp dụng trực tiếp vào quá trình sản xuất và trở thành một mắt
khâu của quá trình sản xuất.
- Khoa học được kết tinh vào mọi nhân tố của quá trình sản xuất (vào đối tượng lao động,
vào tư liệu lao động vào phương pháp công nghệ và cả trong tri thức của người lao động).
- Khoa học trở thành điểm xuất phát cho những biến đổi to lớn trong sản xuất tạo ra những
ngành sản xuất mới kết hợp khoa học với kỹ thuật thành một thể thống nhất, đưa đến những
phương pháp công nghệ mới đem lại hiệu quả cao sản xuất
Bởi tri thức khoa học khi được con người ứng dụng, sử dụng trong sản xuất, được "chuyển
hoá" , vật chất hoá thành máy móc, công cụ sản xuất thì nó trở thành lực lượng sản xuất.
Ngày nay, khi mà quá trình ứng dụng khoa học vào sản xuất diễn ra một cách mau chóng,
kịp thời thì rõ ràng là khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nói Mác không
dự báo khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là đúng vì như trên đã dẫn chứng,
điều đó đã được Mác khẳng định, chứ không phải mới chỉ được ông dự báo. Và như vậy, ý
kiến cho rằng, nếu nhận định khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp sẽ gây ra
những tác hại, là không có sức thuyết phục. Rõ ràng, ngày nay khoa học ngày càng đóng vai
trò to lớn trong nền sản xuất xã hội nói riêng, trong đời sống nhân loại nói chung. Nói đúng
về một sự thật hiển nhiên về vai trò, tác dụng tích cực, to lớn của khoa học và kỹ thuật. Nhận
đinh khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là nhận định đúng đắn, dựa trên quan
điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử.Như vậy, phát minh trở thành một nghề đặc biệt, và đối
với nghề đó thì việc vận dụng khoa học vào nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong
những yếu tố có tính chất quyết định và kích thích". Qua đoạn nghị luận không dài đó, chúng
ta thấy, để vận dụng được khoa học vào sản xuất trực tiếp, tức là để khoa học trở thành lực
28 TRẦN HOÀNG SƠN TÀI LIỆU PHI LỢI NHUẬN
lượng sản xuất trực tiếp thì phải có phát minh, sáng tạo, phải có sự phát triển của hệ thống
máy móc. Hơn nữa, C.Mác còn chỉ rõ: "Có một lực lượng sản xuất khác mà tư bản có được
không mất khoản chi phí nào, đó là sức mạnh của khoa học... Nhưng tư bản chỉ có thể chiếm
hữu được sức mạnh ấy của khoa học bằng cách sử dụng máy móc (phần nào cả trong quá
trình hoá học). Sự tăng dân số là một lực lượng sản xuất mà tư bản có được không phải chi
phí gì cả... Nhưng vì để có thể được sử dụng trong quá trình sản xuất trực tiếp, bản thân
những lực lượng ấy cần đến một bản thể do lao động tạo ra, nghĩa là tồn tại dưới dạng lao
động vật hoá". Như vậy, theo C.Mác, khoa học chỉ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp khi
tồn tại dưới dạng lao động được vật hoá thành máy móc. Như thế, chỉ trong bản sơ thảo đầu
tiên của bộ tư bản, chúng ta đã thấy nhiều lần Mác bàn về vai trò của khoa học dối với sụ
phát triển của lực lượng sản xuất và điều kiện để khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp. C Mác còn bàn luận rất nhiều về bản chất và vai trò của khoa học trong tác phẩm được
viết rất công phu, mang tựa đề Các học thuyết về giá trị thặng dư.trong tác phẩm trên,"Khoa
học tự nhiên dạy cho người ta không nhờ vào máy móc, hay chỉ nhờ vào máy móc như trước
kia.Về bản chất, vai trò của khoa học, Mác còn viết: "Tư bản có tính chất sản xuất... với tư
cách là một lực lượng thu hút và chiếm hữu các sức sản xuất của lao động xã hội... và lực
lượng sản xuất xả hội chung, như khoa học chẳng hạn. Trong luận điểm này, Mác khẳng
định khoa học là một lực lượng trong lực lượng sản xuất.Như vậy, ngay từ những năm giữa
thế kỷ XIX. C.Mác - vị lãnh tụ vĩ đại nhất của nhân dân lao động toàn thế giới, đã khẳng
định khoa học có vai trò cực kỳ to lớn đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất, và nó trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp khi được "chuyển hoá"', ứng dụng ở một mức độ nhất định
nào đó.Khoa học vốn là sản phẩm của tư duy, của trí tuệ. Nếu không thông qua hoạt động
của người lao động (công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức…), mà chỉ tự bản thân nó thôi,
thì như Mác nói khoa học không thể biến thành cái gì cả, không thể sinh ra tác động tích cực
hay tiêu cực.Ngày nay, muốn xây dựng và phát triển kinh tế tri thức với những đặc trưng cơ
bản, quan trọng và quyết định nhất hàm lượng khoa học, trí tuệ, chất xám kết tinh rất nhiều ở
sản phẩm lao động thì phải ra sức đẩy mạnh công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học vào
sản xuất một cách triệt đế hơn, trực tiếp hơn so với các nền kinh tế trước đó.
Tại sao trong thời đại ngày nay, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của xã
hội? Giải thích và c/m?
Theo quy luật thì quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển cửa lực lượng
sản xuất. Trong lịch sử, sự phát triển của lực lượng sản xuất là quá trình không ngừng đổi
mới và hoàn thiện công cụ lao động, đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ người lao động, là
quá trình hình thành, phát triển phân công lao động xã hội, chuyển từ lực lượng sản xuất có
tính chất cá nhân lên lực lượng sản xuất có tính chất xã hội. Đặc biệt, trong thời đại ngày
nay, khi khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, lao động trí tuệ ngày càng
đóng vai trò to lớn, lực lượng sản xuất đã mang tính quốc tế, quá trình chuyển biến đó ngày
một rõ ràng hơn.
Bởi tri thức khoa học khi được con người ứng dụng, sử dụng trong sản xuất, được "chuyển
hoá" , vật chất hoá thành máy móc, công cụ sản xuất thì nó trở thành lực lượng sản xuất.
Ngày nay, khi mà quá trình ứng dụng khoa học vào sản xuất diễn ra một cách mau
29 TRẦN HOÀNG SƠN TÀI LIỆU PHI LỢI NHUẬN
chóng, kịp thời thì rõ ràng là khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nói Mác
không dự báo khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là đúng vì như trên đã dẫn
chứng, điều đó đã được Mác khẳng định, chứ không phải mới chỉ được ông dự báo. Và như
vậy, ý kiến cho rằng, nếu nhận định khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp sẽ
gây ra những tác hại, là không có sức thuyết phục. Rõ ràng, ngày nay khoa học ngày càng
đóng vai trò to lớn trong nền sản xuất xã hội nói riêng, trong đời sống nhân loại nói chung.
Nói đúng về một sự thật hiển nhiên về vai trò, tác dụng tích cực, to lớn của khoa học và kỹ
thuật. Nhận đinh khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là nhận định đúng đắn, dựa
trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử.Như vậy, phát minh trở thành một nghề đặc
biệt, và đối với nghề đó thì việc vận dụng khoa học vào nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành
một trong những yếu tố có tính chất quyết định và kích thích". Qua đoạn nghị luận không dài
đó, chúng ta thấy, để vận dụng được khoa học vào sản xuất trực tiếp, tức là để khoa học trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì phải có phát minh, sáng tạo, phải có sự phát triển của
hệ thống máy móc. Hơn nữa, C.Mác còn chỉ rõ: "Có một lực lượng sản xuất khác mà tư bản
có được không mất khoản chi phí nào, đó là sức mạnh của khoa học... Nhưng tư bản chỉ có
thể chiếm hữu được sức mạnh ấy của khoa học bằng cách sử dụng máy móc (phần nào cả
trong quá trình hoá học). Sự tăng dân số là một lực lượng sản xuất mà tư bản có được không
phải chi phí gì cả... Nhưng vì để có thể được sử dụng trong quá trình sản xuất trực tiếp, bản
thân những lực lượng ấy cần đến một bản thể do lao động tạo ra, nghĩa là tồn tại dưới dạng
lao động vật hoá". Như vậy, theo C.Mác, khoa học chỉ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
khi tồn tại dưới dạng lao động được vật hoá thành máy móc. Như thế, chỉ trong bản sơ thảo
đầu tiên của bộ tư bản, chúng ta đã thấy nhiều lần Mác bàn về vai trò của khoa học dối với sụ
phát triển của lực lượng sản xuất và điều kiện để khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp. C Mác còn bàn luận rất nhiều về bản chất và vai trò của khoa học trong tác phẩm được
viết rất công phu, mang tựa đề Các học thuyết về giá trị thặng dư.trong tác phẩm trên,"Khoa
học tự nhiên dạy cho người ta không nhờ vào máy móc, hay chỉ nhờ vào máy móc như trước
kia.Về bản chất, vai trò của khoa học, Mác còn viết: "Tư bản có tính chất sản xuất... với tư
cách là một lực lượng thu hút và chiếm hữu các sức sản xuất của lao động xã hội... và lực
lượng sản xuất xả hội chung, như khoa học chẳng hạn. Trong luận điểm này, Mác khẳng
định khoa học là một lực lượng trong lực lượng sản xuất.Như vậy, ngay từ những năm giữa
thế kỷ XIX. C.Mác - vị lãnh tụ vĩ đại nhất của nhân dân lao động toàn thế giới, đã khẳng
định khoa học có vai trò cực kỳ to lớn đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất, và nó trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp khi được "chuyển hoá"', ứng dụng ở một mức độ nhất định
nào đó.Khoa học vốn là sản phẩm của tư duy, của trí tuệ. Nếu không thông qua hoạt động
của người lao động (công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức…), mà chỉ tự bản thân nó thôi,
thì như Mác nói khoa học không thể biến thành cái gì cả, không thể sinh ra tác động tích cực
hay tiêu cực.Ngày nay, muốn xây dựng và phát triển kinh tế tri thức với những đặc trưng cơ
bản, quan trọng và quyết định nhất hàm lượng khoa học, trí tuệ, chất xám kết tinh rất nhiều ở
sản phẩm lao động thì phải ra sức đẩy mạnh công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học vào
sản xuất một cách triệt đế hơn, trực tiếp hơn so với các nền kinh tế trước đó.
Vì sao LLSX quyết định QHSX, cái nào động nhất:
- LLSX là yếu tố hoạt động nhất, cách mạng nhất, là nội dung của quá trình sản xuất, còn
QHSX là yếu tố phụ thuộc vào LLSX, nó là hình thức xã hội của sản xuất nên có tính chất
tương đối ổn định, có xu hướng lạc hậu hơn so với sự phát triển của LLSX.
- LLSX phát triển làm cho QHSX hình thành, biến đổi, phát triển cho phù hợp với nó. Sự
phù hợp của LLSX với QHSX là động lực làm cho LLSX phát triển.
- Mâu thuẫn giữa LLSX mới với QHSX cũ được giải quyết bằng cách thay thế QHSX cũ
bằng QHSX mới phù hợp với LLSX. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, mâu thuẫn này
được giải quyết thông qua đấu tranh giai cấp, mà đỉnh cao là cách mạng xã hội.
Vì sao công cụ lao động là yếu tố động nhất và cách mạng nhất?
vì công cụ sản xuất không bao giờ "đứng yên", nó luôn luôn được con người cải tiến, chế
tạo, thay đổi liên tục trong quá trình sản xuất kinh doanh để nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng
lợi nhuận...nên nó động nhất, cách mạng nhất (cách mạng thực ra là sự phá bỏ, cải tạo cái cũ
xây dựng cái mới tiến bộ hơn, ưu việt hơn).
Vì sao người lao động là yếu tố quan trọng nhất?
Vì con người là một thực thể sinh học - xã hội, trong con người có các yếu tố như tri thức, kỹ
năng, sức khỏe, đạo đức,... Khi con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự
nhiên (người lao động) đã không ngừng sáng tạo ra công cụ lao động và dùng công cụ lao
động để tác động vào đối tượng lao động: tự nhiên... Nói cách khác con người là yếu tố
chính làm thay đổi LLSX, PTSX...
- Người lao động là chủ thể đóng vai trò quyết định quá trình sản xuất, người lao động vừa là
động lực vừa là mục đích cuối cùngcủa phát triển KT-XH :
+lợi ích của người lao động là động lực phát triển lực lượng sản xuất
+ kỹ năng kỹ, tay nghề, kinh nghiệm của người lao động là nguồn vốn quan trọng nhất của
sản xuất
31 TRẦN HOÀNG SƠN TÀI LIỆU PHI LỢI NHUẬN
+ Trình động của người lao động là điều kiện để phát triển lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động và tư liệu sản xuất.nếu chỉ có tư liệu sản xuất
thôi mà không có sự tham gia của người lao động thì sẽ không sản xuất được vật chất.Vì vậy
trong các nhân tố cấu thành nên lực lượng sản xuất nhân tố người lao động giữ vai trò quan
trọng nhất.
Quy luật chi phối kinh tế chính trị là cơ sở hạ tầng kiến trúc thượng tầng.
Gia cấp nào nắm trong tay tư liệu sản xuất thì thống trị về chính trị. Cơ sở lý luận là
gì? (Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng)
PHÂN TÍCH KHÁI NIỆM, CẤU TRÚC HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI? TẠI SAO
NÓI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI LÀ QUÁ TRÌNH
LỊCH SỬ - TỰ NHIÊN?
Khái niệm, cấu trúc hình thái kinh tế-xã hội
Khái niệm hình thái kinh tế-xã hội.
Xã hội là tổng thể của nhiều lĩnh vực với những mối quan hệ xã hội hết sức phức tạp.Vân
dụng phương pháp luận duy vật biện chứng vào phân tích đời sống xã hội, các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác-Lênin đã đưa ra khái niệm hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế -
xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai
đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc
trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một
kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Theo khái
niệm trên thì kết cấu của hình thái kinh tế - xã hội bao gồm:lực lượng sản xuất, quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng. Với khái niệm khoa học về xã hội theo cấu trúc “hình thái”
như vậy đã đem lại phương pháp luận khoa học trong việc nghiên cứu cấu trúc cơ bản của xã
hội, cho phép phân tích đời sống hết sức phức tạp của xã hội để chỉ ra các mối quan hệ biện
chứng giữa các lĩnh vực cơ bản của nó, chỉ ra quy luật vận động và phát triển của nó như một
quá trình lịch sử - tự nhiên. Xã hội loài người đã biết đến 5 hình thái kinh tế - xã hội tương
ứng với 5phương thức sản xuất: Hình thái kinh tế - xã hội cộng đồng nguyên thủy, hình thái
kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thái kinh tế - xã hội phong kiến,hình thái kinh tế - xã
hội tư bản chủ nghĩa, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa .
*Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội Giữa các mặt trong đời sống xã hội thống nhất biện
chứng với nhau tạo thành các xã hội cụ thể tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Các
xã hội cụ thể đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát thành phạm trù hình thái kinh tế -
xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ
xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội
đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng
tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Hình thái kinh tế - xã hội là