Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 24

LUẬN VĂN:

Nâng cao khả năng cạnh tranh của

ngành thép nước ta trong quá trình

hội nhập khu vực và quốc tế


Lời Mở ĐầU

Sau gần 17 năm đổi mới, sức mạnh tổng thể nói chung và năng lực cạnh tranh nói
riêng của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể. Trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa đang
diễn ra ngày càng mạnh mẽ, sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội nước ta đang đứng trước
cơ hội và thách thức mới, đòi hỏi phải đẩy nhanh hơn nữa tốc độ tăng trưởng, đi đôi với
chất lượng phát triển kinh tế, xã hội, đương đầu với nhiều áp lực cạnh tranh gay gắt trong
tiến trình hội nhập.

Thép là một ngành Công nghiệp đóng vai trò quan trọng trong công cuộc CNH-
HĐH, quá độ đi lên CNXH của Việt Nam. Ngành Thép cũng đang đứng trước những khó
khăn nhất định khi Việt Nam tham gia vào tiến trình hội nhập. Chính vì vậy, em đã chọn
đề tài “Nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành thép nước ta trong qỳa trỡnh hội
nhập khu vực và quốc tế” để nghiên cứu và thực hiện.

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 phần:

Phần 1. Lý luận chung về ngành thép và sức cạnh tranh của ngành thép Việt Nam.

Phần 2. Thực trạng cạnh tranh của ngành thép Việt Nam trong quá trình hội nhập khu
vực và thế giới.

Phần 3. Các biện pháp để tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp thép
Việt Nam.
Phần 1. Lý luận chung về ngành thép và sức cạnh tranh của ngành thép Việt
Nam.

1.1. Vai trò, vị trí của ngành Thép trong nền kinh tế quốc dân.

Ngành thép là ngành Công nghiệp nặng cơ sở của mỗi quốc gia. Nền Công nghiệp
gang thép mạnh là sự đảm bảo ổn định và đi lên của nền kinh tế một cách chủ động, vững
chắc. Sản phẩm thép là vật tư, nguyên liệu chủ yếu, là “lương thực” của nhiều ngành kinh
tế quan trọng như ngành cơ khí, ngành xây dựng; nó có vai trò quyết định tới sự nghiệp
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Đa số các nước thành công về phát triển kinh tế đều xác định ngành thép là ngành
kinh tế mũi nhọn, hàng đầu và tập trung đầu tư cho nó phát triển.

Trước những năm 90, chỉ có các doanh nghiệp Nhà nước tham gia sản xuất thép như
Công ty Gàng thép Thái Nguyên, Công ty Gang thép Miền Nam… nhưng sau đó, khi
chính sách đổi mới của Đảng trong phát triển kinh tế ra đời, ngành thép đã không ngừng
phát triển, dẫn chứng đó là sự ra đời 5 liên doanh cán thép, 2 công ty cán thép 100% vốn
nước ngoài và sau năm 2000, đã có thêm hàng loạt các công ty sản xuất thép của tư nhân,
các công ty thép cổ phần và các công ty thép thuộc các đơn vị khác ngoài bộ Công nghiệp,
đưa số lượng của các đơn vị lên gần 50 đơn vị.

Trong những năm gần đây, tốc độ phát triển xây dựng ở Việt Nam ngày một gia tăng,
thị trường thép từ đó cũng được mở rộng. Tính bình quân, tốc độ tăng trưởng ngành thép
trong thời kì 1991-2001 là 25% và về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu thép xây dựng đất
nước (đã 5 năm nay, gần như không phải nhập khẩu thép thanh và thép cuốn cho xây
dựng). Theo thống kê của Hiệp hội thép Việt Nam, tính tới năm 2002, công suất thiết kế
của tất cả doanh nghiệp sản xuất thép ở Việt Nam đã đạt trên 4 triệu tấn/năm, nhưng do
nhu cầu thị trường và một số nhà máy mới đi vào sản xuất chưa đạt công suất thiết
kế…nên sản lượng thép cán của năm 2002 chỉ đạt 2,4 triệu tấn.

Mặc dù có những sự phát triển đáng kể nhưng nhìn tổng quát, ngành thép Việt Nam
đang ở điểm xuất phát thấp, chậm hơn so với các nước trong khu vực khoảng 10 năm.
Hiện tại Việt Nam chỉ có 3 dàn cán liên tục nhập từ Nhật Bản và Tây Âu có trình độ tương
đối cao của 2 liên doanh Vinakyoe và Vina-Pasco (VPS). Ngoài ra, còn có hơn 10 máng
cán thuộc loại bán liên tục, thiết bị phần lớn được sản xuất tại Đài Loan, Trung Quốc, Việt
Nam. Như vậy, trừ 2 liên doanh, thiết bị cán thép của Việt Nam đều thuộc thế hệ cũ, công
nghệ thấp, tuổi thọ ngắn, quy mô nhỏ.

Có thể nói thép là một ngành công nghiệp còn non trẻ của đất nước ta nhưng lại đóng
một vai trò quan trọng trong công cuộc CNH-HĐH, xây dựng CNXH hiện nay của đất
nước. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế mở cửa và yêu cầu của quá trình hội nhập
khu vực và thế giới thì việc nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành thép là hết sức cấp
bách và cần thiết.

1.2. Tầm quan trọng của việc nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành thép
Việt Nam.

Trong quá trình hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới Việt Nam đã tham gia
ASEAN (1995), APEC (1998) và đang trong quá trình đàm phán để gia nhập WTO. Hiện
nay, ngành thép vẫn đang được nhà nước bảo hộ sản xuất bằng hàng rào thuế quan với
mức thuế khá cao. Mức thuế nhập khẩu đối với thép xây dựng là 40%, của các loại sắt thép
khác từ 0-20%. Bên cạnh đó, còn có sự bảo hộ bằng hàng rào phi thuế quan như: hạn
ngạch, cấm nhập, …trong khi đó thuế suất, thuế nhập khẩu đối với các sản phẩm là đầu
vào của ngành sản xuất thép như: phôi thép, than mỡ, … tương đối thấp (0-5%), do đó hệ
số bảo hộ thực tế của thép xây dựng tương đối cao (90%) của các loại thép khác là 26%.
Như vậy có thể nói, các doanh nghiệp thép Việt Nam đang tồn tại nhờ rất nhiều vào sự bảo
hộ của Nhà nước.

Quá trình hội nhập, một mặt mở ra cơ hội để ngành thép phát triển đi lên, mặt khác
nếu ngành thép không đủ tiềm lực cạnh tranh sẽ dẫn đến bờ vực phá sản. Ngành thép đang
đứng trước sự cạnh tranh gay gắt khi vào AFTA, khi thuế nhập khẩu các sản phẩm thép sẽ
giảm từ 40% xuống còn 20% và đến năm 2006 chỉ còn là 0-5%. Thời điểm Việt Nam phải
thực hiện các cam kết của khu vực mậu dịch tự do ASEAN đã đến. Các doanh nghiệp thép
Việt Nam phải đói mặt với sự cạnh tranh mạnh mẽ của hàng hoá các nước khác trong khu
vực vào thị trường nước ta khi thuế suất hàng hoá nhập khẩu chỉ còn từ 0-5%, bên cạnh đó
các hàng hoá phi thuế quan cũng được dỡ bỏ hoàn toàn, điều này buộc ngành thép phải
thật sự bước vào một cuộc cạnh tranh khắc nghiệt trên thị trường khu vực và quốc tế, chính
thánh thức lớn này đặt ra yêu cầu cho ngành thép Việt Nam, mà nòng cốt là Tổng công ty
thép Việt Nam phải nâng cao sức cạnh tranh để chủ động hội nhập.

Phần 2. Thực trạng cạnh tranh của ngành thép Việt Nam trong quá trình hội
nhập khu vực và thế giới.

2.1. Thực trạng ngành thép Việt Nam.

Hiện nay, nước ta có 19 doanh nghiệp sản xuất thép có quy mô lớn với tổng công suất
thiết kế khoảng 4,1 triệu tấn/năm. Ngoài ra, ngành thép còn có khoảng 50 cơ sở tư nhân
với công suất thép cán khoảng từ 200.000 đến 400.00 tấn/năm. Trong năm 2002, Việt Nam
đã sản xuất 2,4 triệu tấn thép cán, tuy nhiên ngành thép nước ta còn gặp rất nhiều khó
khăn, khó khăn lớn nhất hiện nay của ngành thép là phụ thuộc quá lớn vào phôi thép nhập
khẩu. Năm 2002, sản xuất phôi thép trong nước mới chỉ đáp ứng khoảng 25% nhu cầu, còn
lại 75% là nhập khẩu.

2.1.1. Phụ thuộc vào phôi thép nhập khẩu.

Theo Tổng cục Thống kê, năm nay, cả nước đã nhập khẩu trên 4 triệu tấn sắt thép trị
giá 1.055 triệu USD tăng 34% giá trị so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, lượng phôi thép
nhập khẩu khoảng 1.81 triệu tấn, trị giá hơn 400 nghìn USD, tăng 18% so với năm 2001 và
gấp 4 lần so với lượng phôi thép sản xuất trong nước (450 nghìn tấn).

Năm 2002, sản lượng thép cán toàn ngành đạt 2,38 triệu tán, tăng 25,4%. Trong đó,
Tổng công ty thép Việt Nam đạt 782 nghìn tấn, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 450
nghìn tấn, các thành phần khác 501 nghìn tấn. Riêng phôi thép sản xuất trong nước đạt 450
nghìn tấn, tăng 18% so với năm 2001, trong đó Tổng công ty Thép Việt Nam 390 nghìn
tấn.

Điều bất hợp lý là sản xuất phôi thép trong nước mới chỉ đáp ứng được trên 10% tổng
công suất thiết kế của toàn ngành thép (3 triệu tấn/năm). Hiện trong nước chỉ có Tổng
công ty Thép Việt Nam đầu tư các cơ sở luyện tháp quy mô công nghiệp với công suất
450.000-500.000 tấn phôi thép/năm, đáp ứng 50-55% nhu cầu cho các cơ sở cán thép của
Tổng công ty. Nhiều doanh nghiệp chỉ muốn đầu tư vào lĩnh vực cán thép vì dễ làm, thu
hồi nhanh chứ không mấy ai đầu tư sản xuất phôi thép.

2.1.2. Giá trần thép xây dựng được nới lỏng

Giá thép thành phẩm sản xuất trong nước chủ yếu dựa vào giá nhập phôi thép (phôi
thép chiếm 90% giá thành). Cuối năm 2002 và đầu năm 2003, giá phôi thép nhập khẩu
tăng mạnh. Trong khi đó, Bộ Tài chính đã có quyết định tăng thuế nhập khẩu phôi thép từ
7% lên 10% từ 1/1/2003 để hổ trợ sản xuất trong nước, nên giá thành sản xuất thép trong
nước được đội lên rất cao. Mặc dù ở trong điều kiện như vậy, nhưng cũng không có
chuyện các doanh nghiệp giảm nhập khẩu, giảm sản xuất, dẫn đến mất cân đối cung cầu thị
trường. Trong 2 tháng đầu năm 2003, các doanh nghiệp liên doanh đã đưa ra thị trường
115.000 tấn thép, tăng 19% so với cùng kỳ năm ngoái (96.000 tấn). Các doanh nghiệp
thuộc Tổng công ty thép Việt Nam đưa ra tiêu thụ 112.000 tấn, tăng 45% so với cùng kỳ
năm ngoái (77.000 tấn). Tính chung của cả hai khối lượng thép đưa ra thị trường tiêu thụ là
tăng 30% so với cùng kỳ.

Trong thời gian qua, Chính phủ đã bỏ quy định giá trần đối với ngành thép, đây là
một sự can thiệp cần thiết để đảm bảo cho khả năng tồn tại của các doanh nghiệp. Điều
này dẫn đến việc các doanh nghiệp thép đồng loạt nâng giá bán sản phẩm để bù đắp cho
chi phí đầu vào, đảm bảo cho quá trình tái sản xuất.

Khi Việt Nam thực hiện cắt giảm thuế các sản phẩm sắt thép gia nhập AFTA, giá
nguyên liệu nhập vào thị trường Việt Nam do lợi thế giá cả sẽ giảm nhưng sản phẩm thép
của các nước ASEAN sẽ thâm nhập vào thị trường Việt Nam do lợi thế giá rẻ. Ngoài ra,
ngành thép cũng đang phải đối mặt với nạn thép giả, đội lốt thương hiệu của một số doanh
nghiệp tư nhân; phần lớn công nghệ trong ngành thép còn quá lạc hậu, chiếm tới 63% năng
lực sản xuất.

2.1.3. Các dự án sản xuất phôi thép đang được đẩy nhanh.

Để giảm lượng thép nhập khẩu và tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm, Tổng công
ty Thép Việt Nam đưa ra các biện pháp: đầu từ trang bị lại dây chuyền công nghệ của một
số nhà máy cán thép hiện có theo hướng hiện đại; tăng năng lực sản xuất phôi thép và cán
thép để đáp ứng nguyên liệu đầu vào cho các nhà máy cán thép. Cụ thể là đầu tư xây dựng
mới các cơ sở sản xuất phôi thép, nâng năng lực sản xuất từ 390 nghìn tấn năm 2002 lên
1,5 triệu tấn vào năm 2005…

Về nguyên liệu, ngành thép sẽ đẩy mạnh sản xuất phôi trong nước nhưng do việc thu
mua sắt thép phế liệu khó khăn nên dự kiến sản xuất khoảng 500 nghìn tấn, tăng 16,3%;
nhập khoảng 2,1 triệu tấn phôi thép, tăng 13,5% so với năm 2002.

Các dự án sản xuất phôi thép được tập trung đầu tư gồm dự án nhà máy thép Cái Lân
ở Quảng Ninh, công suất 500.000 tấn phôi/năm dự kiến sẽ đi vào hoạt động năm 2005, dự
án nhà máy thép Bà Rịa–Vũng Tàu, dự kiến hoàn thành năm 2004 cùng với hai dự án đầu
tư thêm dây chuyền sản xuất phôi thép của Nhà máy Gang thép Thái Nguyên và Nhà máy
Thép Miền Nam.

Ngành thép cũng sẽ tập trung khai thác các mỏ quặng, tận thu các nguồn sắt phế liệu
trong nước, khai thác các nguồn nhập khẩu thép phế liệu ổn định để sản xuất phôi. Một số
mỏ quặng được tập trung khai thác là mỏ Quý Xa ở Lào Cai, mỏ Thạch Khê ở Hà Tĩnh,
mỏ Trại Cau, Tân Tiền ở Thái Nguyên, Phục Ninh ở Tuyên Quang, mở Ngườm Cháng, Nà
Rụa ở Cao Bằng.

Hiện nay, sản lượng phôi thép trong nước mới chỉ đáp ứng được 30% nhu cầu cho
sản xuất thép cán, 70% còn lại vẫn phải nhập khẩu. Hầu hết các doanh nghiệp sản xuất
thép trong nước đều nhập khẩu phoi thép về sản xuất thép cán. Rất ít doanh nghiệp đầu tư
sản xuất phôi thép vì chi phí đầu tư quá lớn. Để có một dây chuyền sản xuất 100.000 tấn
phôi/năm, doanh nghiệp cần đầu tư 300 triệu USD. Trong khi đó, chỉ cần có khoảng 200 tỷ
đồng là doanh nghiệp đã có một nhà máy sản xuất thép cán công suất 200.000 tấn/năm.

Việc đầu tư sản xuất phôi thép cũng sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam hạ giá thành
sản phẩm, bớt phụ thuộc vào nguồn cung cấp cũng như giá cả từ thị trường thế giới và đặc
biệt giúp các doanh nghiệp chủ động trong hội nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA).

Theo Bộ Công nghiệp, năm 2003, nhu cầu thép các loại dự báo khoảng trên 5 triệu
tấn, tăng 12,4% so với năm 2002. Dự kiến sản xuất trong nước khoảng 2,73 triệu tấn (chủ
yếu là thép xây dựng). Nhu cầu nhập khẩu các loại thép tấm, thép lá, thép chế tạo vào
khoảng 2,3 triệu tấn.

2.2. Những vấn đề tồn tại của ngành thép.

2.2.1. Cơ cấu ngành thép ngày càng mất cân đối trầm trọng.

Mất cân đối giữa các khâu sản xuất quan trọng nhất: luyện gang và luyện thép, luyện
thép và cán thép, luyện thép lò thổi và luyện thép lò điện

- Luyện gang và luyện thép

Hiện nay, nước ta chỉ có nhà máy liên hiệp gang thép Thái Nguyên là sản xuất gang.

ở đây gang sản xuất trong các lò cao có dụng tích 100 m3, loại lò các nước trên thế
giới đã loại bỏ từ lâu. Sản lượng ước khoảng 0,2 triệu tấn/năm được đưa vào lò điện phối
liệu vớ thép phế để nấu thép.

Do các ngành công nghiệp, nhất là ngành cơ khí, chưa phát triển mạnh nệ sự thiếu hụt
gang chưa bức bách. Song, hiện nay, sự thiếu hụt này đã bắt đầu thể hiện ngày càng rõ. Vì
vậy, nhiều địa phương như: Cao Bằng, Tuyên Quang, Hà Giang đã và đang có các kế
hoạch phát triển lò cao dung tích 20-100 m3 để sản xuất gang đúc sản phẩm và các linh
kiện. Sản lượng khoảng vài vạn tấn mỗi cơ số.

Sẽ rất thiếu sót và có hậu quả xấu nếu không đẩy mạnh khâu sản xuất ganh cân đối
với sản xuất thép, thông thường tỷ lệ đó là 1:1- một tỷ lệ đảm bảo sản xuất thép theo dây
chuyền cộng nghệ truyền thống khép kín và đáp ứng nhu cầu gang cho sự phát triển các
ngành kinh tế quốc dân.

- Luyện thép và cán thép

Đầu những năm 90 Chính phủ nhấn mạnh việc phát triển hạ nguồn trên cơ sở nhập
phôi thép là hoàn toàn đúng đắn. Tuy thế, chính phủ cũng đã đặt rất đúng việc cần phải
phát triển mạnh thượng nguồn. Đáng tiếc là chủ trương nà đã không được thực hiện
nghiêm túc. Từ đó, tạo ra sự mất cân đối nghiêm trọng giữa các khâu luyện thép và cán
thép.
Hiện nay, công suất các nhà máy cán thép ở nước ta đã đạt 4 triệu tấn/năm, song công
suất các nhà máy luyện thép lò điện mới chỉ đạt khoảng 0,4 triệu tấn/năm bằng 1/10 khả
năng cán. Để đáp ứng nhu cầu thép sản phẩm, nước ta hàng năm phải nhập khẩu hàng triệu
tấn phôi thép.

Việc nhập khẩu phôi thép tốn ngoại tệ, bị động, giá cả luôn giao động, chất lượng khó
đảm bảo, giá thành sản phẩm cao, tính cạnh tranh yếu.

Sự mất cân đối ngày càng khó khắc phục và ngày càng gây hậu quả xấu cho ngành
thép.

- Luyện thép lò điện và luyện thép lò thổi

Như đã nói ở trên, tỷ lệ sản xuất thép lò điện ở các nước trên thế giới, tuỳ từng quốc
gia, giao động trong phạm vi 30-40% tổng sản lượng thép luyện ra

ở những nước có ngành công nghiệp phát triển, có nguồn điện phong phú, có nguồn
thép phế dồi dào, tỷ lệ thép lò điện thường vượt quá tỷ lệ trên, còn lại là thép lò thổi.

Lò điện thường sử dụng sản xuất các loại thép và hợp kim cao cấp có những tính
năng đặc biệt hiệu quả kinh tế cao.

ở nước ta nguồn điện với giá rẻ không phong phú, không có nhiều sắt thép phế, việc
sử dụng lò điện luyện thép với tỷ lệ 100% như hiện nay và trong tương lai là rất phi lý,
không kinh tế.

Lò điện phải luyện các mác thép và hợp kim cao cấp. Muốn vậy phải có thép phế tốt,
tức loại thép phế không chứa các tạp chất có hại, đặc biệt các loại tạp chất kim loại màu,
hàm lượng < 0,10%. Giá loại thép phế này có thể tới 150 USD/tấn (1996). các loại thép
phế khác cũng phải đảm bảo hàm lượng tạp chất < 0,15% thì mới có thể luyện thép tốt. Giá
loại thép phế này vào khoảng 120-130 USD/tấn (1996). Giá thép phế trên thế giới ngày
càng tăng.

Hiện trên thế giới còn một kho thép phế đồ sộ là những thiết bị quá hạn sử dụng được
thải ra, khoảng 700 triệu tấn, nhưng do trong những thiết bị này có lẫn rất nhiều chi tiết
kim loại màu và nhiều loại thép có thành phần khách nhau, chưa có công nghệ xử lý nên
còn chưa được sử dụng.

Các loại thép phế nước ta tự có và nhập về, đại bộ phận chưa được phân loại, thuộc
loại “tạp phí lù”, có hàm lượng tạp chất cao, loại tạp chất gì, số lượng bao nhiêu đều không
rõ. Vì vậy, chỉ có thể dùng luyện thép cacbon xây dựng thông thường. Không thể “nhặt”
các tạp chất trong lò thép ra như “nhặt các hạt sạn” trong nồi cơm như một số phát biểu và
muốn người khác cũng suy nghĩ như mình.

Muốn phát triển thép lò điện đúng chức năng, phải hình thành một công nghệ phân
loại và xử lý thép phế, không thể làm tuỳ tiện như hiện nay.

2.2.2. Chủng loại sản phẩm rất mất cân đối.

Các nhà máy luyện thép ít ỏi và các nhà máy cán thép đang “trăm hoa đua nở” ở nước
ta chủ yếu luyện và cán các mác thép thường dạng sợi tròn và vằn. Sản lượng các loại thép
này có thẻ tới 4 triệu tấn/năm trong khi lượng sử dụng chỉ khoảng 1/2

Hiện đang xây dựng một nhà cán tôn mỏng cống suất 0,3 triệu tấn/năm.

Các chủng loại thép hình, thép tấm, thép ống, … đều phải nhập khoảng vài triệu
tấn/năm

Đại bộ phận các loại thép hợp kim cũng phải nhập.

Tất nhiên không nước nào sản xuất đủ mặt hàng, đủ chủng loại thép, đều có xuất có
nhập. Nhưng tình trạng của nước ta là nhập quá siêu.

Sở dĩ có sự mất cân đối này là do phát triển hạ nguồn quá mức.

“ May” mà các ngành kinh tế quốc dân của nước ta chưa phát triển mạnh nhu càu đa
dạng về thép với khối lượng lớn, chất lượng cao chưa bức bách nên còn có thể chóng đỡ
được biện pháp nhập khẩu. Tuy nhiên, hậu quả của nhập khẩu đã quá rõ rệt: giá thành xây
dựng và chế tạo thiết bị đều cao so với mặt bằng ở các nước có ngành luyện thép phát
triển. Nếu không kịp khắc phục, không những không hạ được giá thành mà còn kìm hãm
sự phát triển của nhiều ngành kinh tế, đặc biệt ngành xây dựng và cơ khí.
2.2.3. Chất lượng thép đang là vấn đề bức xúc.

Trừ các cơ sở sản xuất thép ở các làng nghề chưa lên tivi, chưa có những bảng quảng
cáo. Trong khi đó các nhà máy luyên cán thép quốc doanh, liên doanh đều đã liên tục xuất
hiện trên tivi, các bảng quảng cáo lớn đủ màu sắc xuất hiện trên các xa lộ cao tốc, ngã tư,
ngã năm các trục đường chính với những lời nói, dòng chữ rằng thép các cơ sảo này sản
xuất ra đạt tiêu chuẩn quốc tế, là công nghệ tiến tiến hạng nhất của nước này, nước kia…

Trong cơ chế thị trường marketing là điều tất nhiên, không ai quản lý. Song các hộ sử
dụng thì phải đi sâu tìm hiểu ngọn ngành.

Về các nhà máy lò điện luyện thép là thép phế tạp nham, chưa được xử lý phân loại,
không nắm chắc được thành phần ban đầu, chỉ có 2 nhà máy có lò tinh luyên ngoài lò đơn
giản (lò LF), các lò này cũng chưa vận hành tốt. Có nhà máy phân tích nhanh cho biết kịp
thời sự biến đổi thành phần thép để kịp khống chế…

Trong điều kiện dó, các nhà máy này phần lớn chỉ luyện các mác thép cacbon xây
dựng thông thường và một số mác thép hợp kim thấp độ bền cao ở thang độ bền thấp. Tất
cả những mác thép này không có yêu cầu cao về cơ lý tính cũng như hàm lượng tạp chất,
do dó có thể đạt được những quy định đặt ra. Trình độ quốc tế cũng chỉ ở mức này thôi.

Về các nhà máy cán thép. Không luyện và đúc phôi thép. Toàn bộ phôi thép đều phải
nhập khẩu. Chất lượng sản phẩm thép cán phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng phôi nhập
khẩu. Nếu nhập phải phôi thép chất lượng xấu, thành phần không đảm bảo, hàm lượng tạp
chất cao, cấu trúc thỏi đúc xấu thì máy cán có hiện đại mấy cũng chỉ cho sản phẩm tồi.

Việc mua phôi thép với số lượng lớn rất khó kiểm tra đảm bảo chất lượng lớn rất khó
kiểm tra đảm bảo chất lượng phôi. Đã có cơ sở quốc doanh nhập phải những lô hàng nghìn
tấn phôi thép kém chất lượng vẫn cứ cán ra sản phẩm để bán.

Những nhà máy cán thép này cũng thường chỉ nhập phôi thép xây dựng thông thường
để cán vì làm như vậy dễ dàng và có hiệu quả kinh tế. Những ngành sử dụng thép cho các
công trình quan trọng nên hết sức cảnh giác.
Về các làng nghề sản xuất thép. ở dây thép được luyện từ thép phế trong các lò trung
tấn quy mô vài trăm Kg/mẻ đến vài tấn/mẻ.

Đặc điểm của những loại lô này là dưới tác dụng của dòng điện cảm ứng, khối thép tự
gia nhiệt đến nhiệt độ luyện thép. Có thể cho thêm các nguyên tố để điều chỉnh thành
phần, song nếu phải khử bỏ bớt các nguyên tố không cần thiết bằng phương pháp thông
thường là tạo xỉ ngay trong lò thì rất khó khăn. Vì vậy, chất lượng thép luyện ra hoàn toàn
phụ thuộc vào chất lượng thép phế. Nếu thép phế tốt có thể luyện được thép tốt. Tuy nhiên,
thép luyện ra từ các cơ sở này chất lượng thường không cao, chủ yếu là do việc đúc thỏi
được tiến hành trong các khuôn hở nằm ngang. Cách đúc này làm cho phôi thép kém chất
lượng, mặt khác công nghệ cán thường không hợp lý, do đó thép sản phẩm chất lượng
không cao, độ dai, dẻo đều thấp.

Tóm lại, bức tranh toàn cục về chất lượng sản phẩm thép ở nước ta không mấy sáng
sủa. Khu vực nào cũng đều tồn tại vấn đề, đều có “gót chân Asin”. Nhiều ý kiến phát biểu
cho rằng có tới 20% thép sử dụng vào các công tình quan trọng là thép kém chất lượng và
cho đó là thép cán ở làng nghề. E rằng thép kém chất lượng sử dụng vào các công trình
quan trọng còn nhiều hơn thế và cũng e rằng không phải chỉ là thép của các làng nghề.

Việc nhận diện thép cán từ các làng nghề không khó khăn. Vì vậy, việc để lọt thép
làng nghề vào các công trình quan trọng phải tự trách mình.

2.2.4. Chưa phát huy triệt để đặc điểm của nhà máy luyện kim liên hợp.

Trong dây chuyền các nhà máy của ngành luyện thép, nhà máy nào cũng có sản phẩm
chính, phụ; chất phế thải…Sản phẩm phụ, chất phế thải ở nhà máy này lại là nguyên liệu
chính của nhà máy kia. Nếu sử dụng được triệt để thì giá thành sản phẩm của từng phân
xưởng và giá thành cả nhà máy sẽ giảm rất nhiều.

Các nhà máy luyện thép của ta chưa làm tốt được điều này. Lò cao luyện gang sản
xuất ra gang, còn có khí lò cao và xỉ, khí lò cao qua xử lý là một loại nguyên liệu tốt có thể
cung cấp cho xưởng nồi hơi và các xưởng lò nung…Xỉ có thể chế tạo bông xốp cách nhiệt
hoặc làm gạch… Xưởng luyện than cốc từ than mở thực chất là một nhà máy hoá học sản
xuất ra than cốc, rất nhiều loại hoá chất và khí lò cốc, một loại nhiên liệu giá trị cao. Hiện
nay đều chưa được sử dụng tốt nhất. Xưởng luyện thép và cán thép sinh ra rất nhiều “thép
đầu thừa đuôi thẹo” cũng bán cho các hộ tư doanh, họ sử dụng làm nguyên liệu chế tạo các
loại linh kiện máy và công cụ sản xuất…

Ưu điểm của nhà máy liên hợp là sử dụng tổng hợp nguyên nhiên liệu chưa được chú
ý khai thác triệt để. Nếu được kịp thời khắc phục tình trạng này thì giá thành sản phẩm
không thể thấp lãi ít, do đó lại cần ưu tiên này nọ hoặc xin được bảo hộ…

2.2.5. Việc cải tiến công nghệ, áp dụng kỹ thuật mới, sản xuất mác thép mới còn
nhiều bất cập.

Ngành sản xuất gang thép hiện nay trên thế giới có rất nhiều biến đổi theo hướng
chuẩn bị thật kỹ nguyên liệu trước khi đưa vào lò; nhiều giai đoạn công nghệ không tiến
hành trong lò luyện chính mà đưa ra thực hiện trong các thiết bị chuyên dụng như các loại
lò tinh luyện; thay vì sản xuất thép thông thường, nay sản xuất các mác thép hợp kim chất
lượng cao, dùng chất thay lượng…do đó, đã đạt được những chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật rất
cao, hiệu quả kinh tế lớn, tăng công suất nhà máy mà không cần tăng thiết bị chính.

Ngành luyện thép ở nước ta chưa hoà nhập vào xu hướng phát triển này, một mặt do
đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật còn yếu, song chính là do chọn con đường phát triển hạ
nguồn, chọn dây chuyền công nghệ ngắn, vì vậy thiết bị, phôi thép, thép phế tất yếu đều
phải đi nhập, khiến cho ngành luyện thép hoàn toàn bị động, không có đất dụng võ.

2.2.6. Sản xuất gang thép thuộc lĩnh vực ngoài quốc doanh chưa được đẩy mạnh.

Một số ý kiến muốn kiềm chế hoạt động sản xuất gang thép ngoài quốc doanh vì cho
rằng chất lượng sản phẩm không đảm bảo, gây ô nhiểm môi trường.

Không thể làm như thế, ngược lại cần phải đẩy mạnh sản xuất thuộc lĩnh vực đầu tư
kỹ thuật, cải tiến quản lý để sản phẩm có chất lượng tốt hơn.

Như vậy, Nhà nước có thể tập trung đầu tư vào các dây chuyền mác thép chất lượng
cao, chủng loại phức tạp, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

2.3. Thực trạng cạnh tranh.


Hiện nay, khả năng cạnh tranh của ngành Thép nước ta là rất yếu ở cả 2 phương diện
cạnh trạnh ngành và cạnh tranh sản phẩm. Điều đó, được thể hiện qua phân tích sau đây.

- Thứ nhất, về chi phí sản xuất. Qua số liệu từ Tổng công ty Thép Việt Nam cho
thấy, chi phí sản xuất một tấn thép cán ở Việt Nam là rất cao so với thế giới (bảng 1).

Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến chi phí sản xuất cao là phần lớn các nhà máy ở Việt
Nam có các dây chuyền sản xuất với quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, phân tán. Thực tế,
cho thấy rằng, quy mô nhà máy lại ảnh hưởng rất lớn đến chi phí sản xuất. Công suất trung
bình một nhà máy cán thép ở Việt Nam ước tính chỉ khoảng 100 ngàn tấn thép/năm là rất
thấp so với quy mô của Đông Nam á (trung bình khoảng 500 ngàn tấn/năm). Trong khi
thực trạng ngành công nghiệp thép thế giới cho thấy, trong điều kiện công nghệ sản xuất
thép chưa thật hiện đại, thì quy mô lớn có thể giảm đáng kể, chi phí sản xuất như ở Nga,
Trung Quốc, Ucraina. Xét về khía cạnh công nghệ, hiện tại ngành Thép ở Việt Nam cũng
đang đứng trước tình thế bất lợi. Công nghệ sản xuất thép ở Việt Nam được các chuyên gia
đánh giá là khá lạc hậu, bình quân khoảng 10 năm so với thế giới. Qua khảo sát cho thấy
trong ngành Thép Việt Nam hiện nay, công nghệ tiên tiến chỉ chiếm 15% (tập trụng ở khu
vực liên doanh với nước ngoài), công nghệ trung bình 10%, công nghệ lạc hậu 75%. Đặc
biệt, một số doanh nghiệp thép, Nhà nước vẫn còn sử dụng công nghệ lạc hậu đến 30-40
năm. Đây cũng là một yếu tố cơ bản dẫn đến giá thành sản xuất thép cao.

Bảng 1: Chỉ tiêu so sánh chi phí sản xuất của ngành Thép Việt Nam
Hơn nữa, trong thời gian qua, các nhà máy sản xuất thép Việt Nam lại hoạt động
trong tình trạng dư thừa công suất. Phần lớn các cơ sở sản xuất thép ở Việt Nam chỉ hoạt
động ở mức khoảng 60% công suất thiết kế. Chính vì vậy, nâng cao hệ số sử dụng công
suất ơ các nhà máy cũng có thể cho phép nâng cao hiệu quả kinh doanh và giảm giá thành

Bình quân các Bình quân B/q của công


Chỉ tiêu Đơn vị
nhà máy của của các công ty TB trên thế
Cty Thép Việt ty LD VSC giới
Nam

Công suất máy cán 1000T/N 30-50 120-300 500-1000

Tốc độ cán
- Thép thanh M/s 4,5-12 10-13,5 Lớn 80-100t/h
- Thép dây 10-27 30-60

Lò nung phôi Tấn/giờ Quá nhỏ max Trung bình 30- Lớn 80-120
35t/h 60 t/h

Tiêu hao nguyên liệu


cho 1 tấn thép cán

- Phôi thép Kg/t 1.091-1101 1.035-1.060 1.030

- Dầu FO L/t 50-60 27-45 20-27

- Điện năng Kwh/t 90-126 75-144 6,5-120

- Trực cán Kg/t 2,0-3,0 0,26-0,5 0,2

Tiêu hao vật chất VND/ tấn Khoảng 400.000 Khoảng Khoảng
quy ra tiền (theo giá cán = 26,6 USD 270.000 = 18 250.000 = 14,3
hiện hành ) chưa kể USD USD
chi phí khấu hao,
quản lý, phí bảo
hiểm
sản xuất. Trong tương lai gần, công suất các nhà máy thép ở Việt Nam tiếp tục dư thừa. Sự
thừa công suất sẽ dẫn đến chi phí cố định cao, cản trở việc đầu tư công nghệ mới.

- Thứ hai, về hiện trạng nhân lực của ngành thép. Theo đánh giá của các nhà quản
lý ở các công ty thép thì nhân lực là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh.
Yêu cầu về lao động của ngành thép hiện nay không chỉ có kinh nghiệm mà cần phải có
kiến thức. Xét về mặt kiến thức chuyên môn, lực lượng lao động trong ngành Thép còn
khá thấp. Đây là một trong những cản trở quan trọng đối với quá trình đổi mới công nghệ
và nâng cao năng lực cạnh tranh. Tỷ trọng cán bộ chuyên môn có trình độ cao còn thấp.
Phần lớn các cán bộ chuyên mô ở các công ty thép Việt Nam chưa được tiếp xúc với công
nghệ tiên tiến, mà đang làm việc ở các nhà máy có công nghệ lạc hậu. Hiện nay, ngành
thép có khoảng 27.500 lao động, trong đó Tổng công ty Thép Việt Nam có khoảng 18.775
lao động. Riêng Công ty thép Thái Nguyên là 11.411 người, Công ty Thép Miền Nam có
3.867 lao động. Rõ ràng cùng với công nghệ lạc hậu, cộng thêm lực lượng lao động lớn do
lịch sử để lại, trình độ chuyên môn thấp, đang là bài toán khó với Tổng công ty Thép Việt
Nam trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh. Vấn đề đầu tư công nghệ, thiết bị hiện đại
chắc chắn sẽ làm dôi dư một lực lượng lao động khá lớn. Nhà nước cần hỗ trợ cho Tổng
công ty Thép Việt Nam giải quyết vấn đề lao động của ngành. Lực lượng cán bộ nghiên
cứu trong lĩnh vực thép tại Việt Nam còn khá mỏng. Xét về mức độ lành nghề, lực lượng
thợ lành nghề ở Việt Nam không nhiều.

Theo các nhà quản lý tại các công ty liên doanh, lực lượng lao động Việt Nam được
đào tạo cơ bản khá tốt so với các nước khác trong khu vực, có khả năng sáng tạo và thích
nghi cao với công việc mới. Khả năng đó nếu được bồi dưỡng thêm một số kỹ năng thực
hành thì họ sẽ trở nên rất giỏi. Chi phí lao động được coi là một trong những lợi thế cơ bản
và lâu dài ở Việt Nam. Tuy nhiên, với sự phát triển của công nghệ hiện đại trong ngành
Thép Việt Nam sẽ sử dụng ít lao động và yêu cầu lao động có trình độ chuyên môn cao,
vai trò của lao động trong lĩnh vực sản xuất thép sẽ giảm xuống. Chính vì vậy, lao động rẻ
không phải là một tiềm năng của ngành Thép, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất các loại
thép chất lượng cao.

- Thứ ba, các ngành công nghiệp hỗ trợ và các ngành công nghiệp liên quan.
Một trong những ngành hỗ trợ trực tiếp cho công nghiệp thép là ngành Năng lượng. Ngành
năng lượng. Ngành này có ảnh hưởng lớn đến chi phí sản xuất của công nghiệp thép.
Trong khi đó, giá điện ở Việt Nam lại rất cao so với các nước khác trong khu vực (giá điện
ở Việt Nam cao gấp 2 lần so với Inđônêxia, 1,5 lần so với Thái Lan). Ngành công nghiệp
khí trong khai thác dầu mỏ chưa phát triển, hy vọng giá khí rẻ cho công nghiệp thép chưa
có câu trả lời. Ngành công nghiệp khai khoáng Việt Nam cũng đang ở tình trạng công
nghệ lạc hậu và hiệu suất thấp. Hiện nay, đầu tư vào khâu thượng nguồn của ngành Thép
chưa có gì đáng kể. Ngành Thép chủ yếu vẫn là gia công cán thép, nguyên liệu chủ yếu
nhập ngoại, do đó chất lượng và giá phụ thuộc vào thị trường thế giới, không chủ động
được.

Hệ thống cơ sở hạ tầng kém phát triển. Hệ thống giao thông vận tải ở nước ta bắt đầu
được chú ý xây dựng nhưng nhìn chung còn chậm phát triển. Nhiều khu mỏ quặng sắt nằm
trong những khu vực đường giao thông khó khăn, xa khu công nghiệp chế biến. Hệ thống
cảng biển nước sâu còn thiếu…Tất cả điều đó đã làm tăng chi phí vận chuyển, chậm khả
năng phát triển và giảm khả năng cạnh tranh của ngành Thép

Các ngành sử dụng thép làm nguyên liệu đầu vào như công nghiệp ôtô, xe máy; công
nghiệp cơ khí chế tạo; công nghiệp đóng tàu… chưa phát triển ở Việt Nam và cũng đang
trong thời kỳ khó khăn. Do đó, thị trường chưa hấp dẫn các nhà đầu tư sản xuất thép cao
cấp.

Xét một cách tổng thể, cả bản thân ngành Thép và cả môi trường hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp Thép Việt Nam đều đang ở thế bất lợi khi thực hiện hội
nhập khu vực và quốc tế. Khả năng cạnh tranh của ngành Thép nước ta là rất thấp.

2.4. Định hướng phát triển ngành thép trong những năm tới.

Ngày 10/9/2001, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 134/2001/QĐ- TTg,
phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển ngành thép đến năm 2010. Mục tiêu phát triển
ngành Thép đến năm 2010:

Phát triển ngành thép trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm của
nền kinh tế; thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiều dùng trong nước, tiến tới xuất khẩu; đẩy
mạnh sản xuất, tạo nhiều việc làm, góp phần quan trọng trong sự nghiệp CNH-HĐH đất
nước; nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới.

Huy động các nguồn vốn đầu tư: huy động mọi nguồn vốn, mọi thành phần kinh tế
tham gia đầu tư phát triển ngành, tranh thủ đầu tư nước ngoài một cách hợp lý (trước hết là
công nghệ, thiết bị); đẩy mạnh phát triển các doanh nghiệp trong nước tham gia sản xuất
thép.

Về phát triển nguồn nguyên liệu: Trong kế hoạch 5 năm 2001-2005 tập trung nghiên
cứu để có kết luận chắc chắn và khoa học về trữ lượng thượng mại, khả năng khai thác và
sử dụng các nguồn quặng sắt trong nước, trọng tâm là 2 mở quặng Quý Xa và Thạch Khê.
Khai thác tối đa các mỏ quặng sắt nhỏ khác để sản xuất gang, tận thu nguồn thép phế liệu
trong nước, đồng thời tìm nguồn nhập khẩu thép phế liệu ổn định để sản xuất phôi thép
bằng lò điện đạt hiệu quả…

Phần 3. Các biện pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp thép Việt Nam.

Trong thời gian 5 năm tới, các doanh nghiệp thép nên tập trung chú ý vào các sản
phẩm thép cơ bản (basic grade steels) phục vụ cho các ngành xây dựng, cơ khí, đóng tàu
và các sản phẩm khác nhau bằng việc sử dụng các công nghệ mới tương đối hiện đại với
quy mô lớn, nhằm khai thác lợi thế nhờ quy mô. Để nâng cao khả năng cạnh tranh, đòi hỏi
các doanh nghiệp thép phải thường xuyên phát triển năng lực marketing, chú trọng tích luỹ
khả năng nghiên cứu và phát triển, gắn nghiên cứu với triển khai; phát triển đội ngũ nhân
lực có năng lực chuyên môn cao, xây dựng hình ảnh và củng cố sức mạnh cho các nhãn
hiệu thép Việt Nam trên thị trường Việt Nam. Những kết quả đạt được của các doanh
nghiệp thép Việt Nam trong thời gian qua cần được coi là cơ sở quan trọng cho định
hướng phát triển.

Đầu tư cho chiến lược phát triển các cơ sở cung cấp phôi thép (nhằm tự sản xuất
được phôi thép với giá thành thấp ở trong nước), Ngành Thép cần sử dụng đồng bộ nhiều
biện pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh (xem bảng 2)
Về mặt lý thuyết, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp phụ thuộc vào 2 yếu tố
cơ bản là chi phí và sự khác biệt. Trong trường hợp ngành Thép Việt Nam, thì sự khác biệt
chủ yếu là xây dựng hành ảnh sản phẩm thép Việt Nam. Một số thương hiệu được người
Việt Nam tín nhiệm như Tisco, VUC, Vinakyoe… Để cạnh tranh trên cơ sở sự khác biệt
thì ít nhất các sản phẩm thép và các dịch vụ kèm theo phải đáp ứng được các yêu cầu sử
dụng của khách hàng. Tuy nhiên, do đặc điểm của sản phẩm thép có mức độ tiêu chuẩn
hoá khá cao, chính vì vậy, sự khác biệt cơ bản mà các doanh nghiệp thép Việt Nam có thể
tạo ra được so với các đối thủ cạnh tranh nước ngoài là chất lượng dịch vụ (cung cấp
nhanh chóng, thuận tiện, độ tin cậy cao và an toàn, khả năng xử lý linh hoạt các đơn đặt
hàng…)

Cắt giảm chi phí sản xuất của ngành thép là vấn đề vừa cấp thiết, vừa lâu dài để hạ
thấp giá thành sản phẩm, giảm giá bán. Để cạnh tranh trên cơ sở chi phí, đòi hỏi các doanh
nghiệp phải quản lý chi phí một cách chặt chẽ, tìm cách cắt giảm các khoản chi phí có thể.
Chi phí chịu ảnh hưởng rất lớn bởi cách thức tổ chức sản xuất, công nghệ sản xuất, mức độ
hiệu quả của việc sử dụng các yếu tố sản xuất. áp dụng mô hình quản lý tiên tiến. Sử dụng
các công nghệ hiện đại và cải tiến công nghệ cho phù hợp với điều kiện việt Nam. Sản
xuất thép đi từ công nghệ lò cao là có hiệu quả, song phải lựa chọn phương thức và bước
đi thích hợp.
Năng lực Phương hướng Biện pháp
cạnh tranh và
yếu tố

- Thường xuyên phản ứng nhanh - Tạo ra sự hợp tác chặt chẽ giữa
chóng với những nhu cầu mới các công ty thép nội địa, đặc biệt là
- Xây dựng hình ảnh các doanh các công ty thuộc Tổng công ty

Năng lực nghiệp thép Việt Nam trên thị Thép Việt Nam với liên doanh

Marketing trường Việt Nam - Thiết lập hệ thống thông tim điện
- Xây dựng hình ảnh về sự khác tử giữa các công ty thép với các nhà
biệt trong phương thức phục vụ phân phối và các khách hàng chủ
của các doanh nghiệp thép Việt yếu, sau đó mở rộng sang hệ thống
Nam so với các công ty nước bán lẻ
ngoài - Truyền thông những điểm khác
- Xây dựng trung tâm thông tin biệt cơ bản về những ưu điểm của
khách hàng việc sử dụng các sản phẩm thép của
các công ty thép nội địa
- Đầu tư cho hoạt động xúc tiến
- Sản xuất các sản phẩm thép cơ - Phối hợp hoạt động nghiên cứu
Sản phẩm và bản với chất lượng cao, nhằm đáp và phát triển của các công ty.
thông tin ứng tốt nhu cầu cao của thị - Cũng cố hệ thống thông tin, nhằm
trường khuyến khích việc đóng góp các
- Thiết lập các hệ thống sản xuất sáng kiến từ người lao động
linh hoạt
- Đa dạng hoá sản phẩm

Công nghệ và - Hướng tới phát triển các công - Tạo cơ hội cho người lao động

khuyến khích nghệ hiện đại và phù hợp với điều tiếp cận và tham gia các công nghệ

bằng lao động kiện tài nguyên và môi trường và dây chuyền sản xuất hiện đại

thích nghi với Việt Nam. - Bồi dưỡng và đào tạo tài năng

kỹ thuật và - Đầu tư phát triển sản xuất phôi - Có chính sách đãi ngộ và môi

công nghệ thép chất lượng cao trường làm việc hợp lý, nhăm

ngân hàng - Quan hệ hợp tác quốc tế về khuyến khích người lao động sáng
chuyển giao công nghệ hiện đại tạo

- Tạo dựng lòng tin và sự hỗ trợ - Nâng cao chất lượng dịch vụ
Xây dựng và của khách hàng khách hàng
cũng cố niềm - Xây dựng mối quan hệ chặt chẽ - Mở rộng mạng lưới tiêu thụ và
Bảng 2: Xây dựng các năng lực để nâng cao khả năng cạnh tranh cho các doanh
nghiệp thép Việt Nam

Đầu tư mới và mở rộng công suất các nhà máy ở mức công suất khoảng 700-800
ngàn tấn/năm. Những cơ sở của ngành Thép có công nghệ quá lạc hậu, kém hiệu quả nên
chấp nhận loại bỏ. Xây dựng và thực thi các dự án đầu tư từ thượng nguồn đến hạ nguồn.
Trữ lượng quặng sắt ở nước ta đã được thăm dò chắc chắn và khai thác có hiệu quả khoảng
500 triệu tấn. Nếu mỗi năm sản xuất 10 triệu tấn gang, sử dụng 8 triệu tấn gang kết hợp
với thép phế để luyện thép thì mỗi năm có thể sản xuất khoảng 10 triệu tấn thép. Thời gian
đó liên tục thăm dò địa chất, chắc chắn sẽ phát hiện thêm nhiều mỏ quặng sắt mới. Vì vậy,
có thể yên tâm phát triển thượng nguồn.

Phải đi ngay vào dây chuyền truyền thống khép kín với công suất mỗi xưởng- mỗi
modum là 1,5 triệu tấn. Modum đầu tiên chủ yếu dựa vào nước ngoài thiết kế và chế tạo
thiết bị. Từ modum thứ hai trở đi phần lớn phải tự thiết kế và chế tạo thiết bị. Trong quá
trình mua thiết bị không loại trừ việc mua những thiết bị đã qua sử dụng nhưng còn dùng
tốt. Như vậy có thể giảm mức vốn đầu tư cơ bản xuống tối thiểu, tạo khả năng hạ giá thành
tăng tính cạnh tranh cho sản phẩm.

Không phát triển hạ nguồn những nhà máy cán thép xây dựng nữa, vì công suất đã
quá dư thừa mà phải đầu tư vào các nhà máy cán thép hình, tấm, ống… Dây chuyền công
nghệ truyền thống khép kín này do dùng gang với tỷ lệ 70-80% và thép phế có chọn lọc
với tỷ lệ 20-30% để luyện thép, vì vậy chỉ nên luyện các mác thép cacbon chất lượng cao,
thép hợp kim thấp độ bền cao, thép hợp kim sử dụng cho các ngành xây dựng, ché tạo
máy, đóng tàu và quốc phòng.

Mục tiêu về lao động của ngành thép trong những năm sắp tới là phải được phát triển
cả số lượng và chất lượng để thích ứng với điều kiện cạnh tranh trong nước và khu vực.
Ngành Thép cần phối hợp chặt chẽ với các trường đại học, viện nghiên cứu, các trường
dạy nghề để đào tạo đội ngũ chuyên gia, kỹ sư, công nhân bậc cao thích ứng với công nghệ
hiện đại.
Nhà nước cần đầu tư cho đào tạo đội ngũ chuyên gia kể cả cho đào tạo nước ngoài,
tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học và công nghệ phát triển ngành Thép và xúc tiến
vĩ mô hỗ trợ ngành Thép. Nhà nước đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng về giao thông vận tải,
thông tin liên lạc, cảng biển… cho các khu khai thác nguyên liệu, khu công nghiệp luyện
kim lớn. Đầu tư cho các dự án trọng điểm điều tra tiềm năng khoáng sản cho ngành Thép,
phát triển vùng nguyên liệu lớn của Ngành.

Để Tổng công ty Thép Việt Nam thực sự là nòng cốt trong cạnh tranh của ngành trên
thị trường, cần phải đổi mới từ hệ thống quản lý đến các đơn vị thanh viên. Mô hình công
ty mẹ công ty con cần được vận dụng. Thực hiện quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu
đối với một số doanh nghiệp Nhà nước thành viên của Tổng công ty. Trước hết là cổ phần
hoá một số đơn vị trong khâu lưu thông. Tổ chức lại hệ thống lưu thông, bảo đảm tập trung
sức mạnh, nắm thị trường trọng điểm, sản phẩm xương sống. Phân công, phân cấp và phối
hợp hợp lý giữa Tổng công ty với các đơn vị thành viên, giữa công ty mẹ và các công ty
con. Đổi mới công nghệ kinh doanh, áp dụng các hình thức kinh doanh tiên tiến trên cơ sở
sử dụng công nghệ thông tin dự báo thị trường, nhằm hỗ trợ kinh doanh của các doanh
nghiệp. áp dụng rộng rãi cơ chế khoán trong kinh doanh. Xây dựng và thực thi chiến lược
kinh doanh trên thị trường nội địa và chuẩn bị các điều kiện để thâm nhập thị trường khu
vực và quốc tế.
KếT LUậN

Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ trong xu thế Công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Công nghiệp Thép là một ngành có tính chất mũi nhọn, cơ sở của nền kinh tế
nước ta. Nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành thép nước ta trong quá trình hội nhập
khu vực và quốc tế là một việc làm hết sức cấp bách, cần thiết, cần được Nhà nước quan
tâm và giải quyết để đảm bảo cho sự phát triển ổn định và vững chắc của nước nhà.
danh mục tài liệ u tha m khả o

1. Báo CN số 3/2003
2. Thời báo kinh tế Kinh Tế Việt Nam số 4/2000, số 84/2001, số 8/2002, số 30/2002,
số 65/2002, số 117/2002, số 125/2002, số 10/2003.
3. Tri thức và Công nghệ số 139/2001, số 115/2002, số 143/2002, số 144/2002
4. Tạp chí CN Việt Nam số 10/2002

You might also like