CÁC PHƯƠNG PHÁP VÀ PHƯƠNG THỨC DỊCH TIẾNG ANH THƯƠNG MẠI SANG TIẾNG VIỆT

You might also like

Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 13

CÁC PHƯƠNG PHÁP VÀ PHƯƠNG THỨC DỊCH TIẾNG ANH THƯƠNG

MẠI SANG TIẾNG VIỆT


METHODS AND PROCEDURES FOR TRANSLATING BUSINESS ENGLISH
INTO VIETNAMESE

Nguyễn Phước Vĩnh Cố

Ngô Trần Aí Diễm (*)

(*) Sinh viên tiếng Anh lớp 03 khóa 08 Khoa Tiếng Anh Chuyên Ngành

Trường Đại Học Ngoại Ngữ, Đại Học Đà Nẵng

TÓM TẮT

Bài báo giới thiệu hai phương pháp dịch cơ bản của Vinay và Darbelnet
(1958): a) dịch trực tiếp / dịch sát b) dịch gián tiếp / dịch xiên. Các phương
pháp dịch trực tiếp gồm ba phương thức: a) vay mượn b) sao phỏng c) dịch
nguyên văn. Các phương pháp dịch gián tiếp gồm bốn phương thức: a)
chuyển đổi từ loại b) biến thái c) tương đương d) dịch thoát. Bài báo mô tả và
phân tích các phương thức dịch của Vinay và Darbelnet để ứng dụng chúng
trong việc dịch tiếng Anh thương mại sang tiếng Việt.

ABSTRACT

The paper presents two basic translation methods proposed by Vinay and
Darbelnet (1958): a) direct or literal translation and indirect or oblique
translation.

Direct translation comprises three procedures: a) borrowing b) calque c) literal


translation. Indirect translation, in contrast, comprises four procedures: a)
transposition, b) modulation c) equivalence d) adaptation. The paper describes
and analyses Vinay and Darbelnet’s translation procedures to apply them to
translating business English into Vietnamese.

1. Lời nói đầu

Những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước, tại Việt Nam cụm từ “thân thiện
với người dùng” lần đầu tiên xuất hiện trên phương tiện truyền thông đại
chúng khi mô tả một “phần mền”, “phần cứng” của máy tính như giao diện,
bàn phím. Về sau từ ngữ này trở nên thông dụng và phổ biến đến nổi người ta
mượn nguyên cụm từ “thân thiện với” đi liền với các từ “môi trường”, “sinh
thái”, “tầng ôdôn / ozone”, “gia đình”. Những năm gần đây, ta lại bắt gặp một
số thuật ngữ dù không khó hiểu lắm nhưng có vẽ lạ lẫm như “nút cỗ chai”,
“điểm đen”, “điểm cọng” “con vịt què”, “ghế nóng” kể cả thuật ngữ nước ngoài
như “hotline”, “live show”, “marketing”, “karaoke”, “avatar”, “canteen/căntin”,
“status”, “pro”, “online”, “top ten”. Trong lĩnh vực thương mại, một số thuật ngữ
mới xuất hiện như “lời chào vàng ngọc”, “chiếc dù vàng”, “công nhân cổ cồn
trắng”, “công nhân cổ cồn xanh”, “tiếp thị qua điện thoại”, “bán qua điện thoại”,
“bán theo kiểu hình chóp”, “các cơ sở kinh doanh ở cửa hàng”, “các cơ sở
kinh doanh qua internet” và một số lượng lớn thuật ngữ thương mại sẽ được
nêu trong bài báo này. Mục đích của bài báo là phân tích, mô tả và phân loại
các phương thức dịch thuật của Vinay và Darbelnet để cung cấp cho sinh viên
ngoại ngữ nói chung và sinh viên chuyên ngành thương mại nói riêng những
phương thức dịch hữu ích và thích hợp khi dịch các văn bản tiếng Anh thương
mại sang tiếng Việt, đồng thời đưa ra những câu trả lời và lý giải về nghĩa và
hình thức của các thuật ngữ chuyên ngành hiện đang được dùng trong lĩnh
vực thương mại.

2. Thuật ngữ

Richards và cộng sự [22,376], định nghĩa “thuật ngữ là những đơn vị từ vựng
đặc biệt xuất hiện trong một môn học hay một chủ đề chuyên ngành”. Ví dụ,
mệnh đề (clause), liên từ (conjunction), và thể (aspect) là một bộ phận của
thuật ngữ ngữ pháp tiếng Anh.

3.Dịch thuật là gì?

Dịch thuật thường được biết đến như là một quá trình chuyển nghĩa từ ngôn
ngữ gốc (Source language) sang ngôn ngữ dịch (Target language). Trong việc
chuyển nghĩa từ ngôn ngữ gốc sang ngôn ngữ dịch, người dịch cần một cách
dịch hoặc một chiến lược dịch. Một số nhà lý thuyết dịch gọi nó là phương
pháp dịch (translation methods) như Newmark (1988) và một số nhà lý thuyết
dịch khác gọi là phương thức dịch (translation procedures) như Graedler
(2000), Nida (1964). Tuy nhiên Newmark cho rằng [19], trong khi phương
pháp dịch liên quan đến các văn bản đầy đủ thì phương thức dịch được dùng
cho các câu và các đơn vị ngôn ngữ nhỏ hơn câu. Dịch thuật theo định nghĩa
của từ điển, bao hàm việc thay đổi từ một trạng thái hoặc một hình thức này
sang một hình thức khác để trở thành của chính nó hoặc một ngôn ngữ khác
(Từ điển Merriam-Webster 1994) [dẫn theo Larson,10,3]

4. Phương thức dịch

Theo Delisle [5], phương thức dịch là các phương pháp do các dịch giả áp
dụng khi họ diễn đạt một tương đương vì mục đích chuyển dịch các yếu tố
nghĩa từ ngôn ngữ gốc (SL) sang ngôn ngữ dịch (TL).

5. Phương thức dịch của Vinay và Darbelnet

Vinay và Darbelnet [27] phân biệt hai phương pháp dịch cơ bản: a) dịch trực
tiếp (direct)/dịch sát (literal) b) dịch gián tiếp (indirect)/dịch xiên (oblique). Các
phương pháp dịch dịch trực tiếp (direct method) gồm ba phương thức: a) vay
mượn (borrowing) b) sao phỏng/mượn dịch (calque) c) dịch nguyên văn
(literal). Các phương pháp dịch gián tiếp (indirect method) gồm bốn phương
thức: a) chuyển đổi từ loại (transposition) b) modulation (biến thái) c)
equivalence (tương đương) d) adaptation (dịch thoát).

3.1 Phương thức (1): vay mượn (borrowing)

Từ ngữ của ngôn ngữ gốc (source language) được chuyển thẳng sang ngôn
ngữ dịch (target language) [12]. Trong trường hợp để lấp một khoảng trống về
ngữ nghĩa (ví dụ, một kĩ thuật mới, một khái niệm chưa được biết đến) thì
phương thức dịch vay mượn là phương thức đơn giản trong tất cả. Haugen
[dẫn theo Sari,23] cho rằng một số khả năng có thể xảy ra trong vay mượn:

1) vay mượn thuần túy (pure loanwords): vay mượn mà không thay đổi về
hình thức và nghĩa. Ví dụ: email > email, internet > internet.

2) Vay mượn có thay đổi hình thức (mix loans): thay đổi hình thức nhưng
không thay đổi nghĩa. Ví dụ: cool > kul, canteen > căn tin

3) Vay mượn một phần (loan blends): sự vay mượn mà một phần của từ là
bản ngữ còn phần còn lại là vay mượn. Ví dụ: internet provider > nhà cung
cấp internet

Trong tiếng Anh thương mại, ta bắt gặp một số thuật ngữ:

– vay mượn thuần túy: bill, export, hotel, import, marketing…

– vay mượn có thay đổi về hình thức: cheque > séc, clearing > cliarinh,
dollar > đô la, marketing > măc-ket-tinh, penny > penni, arbitrage > ácbit, trust
> tơrớt…

– vay mượn một phần: internet banking > ngân hàng internet, ozone
layer > tầng ozone, sushi bond > trái phiếu sushi, Wall Sreet > Phố Wall,
Hague rules > Quy tắc Hague, Paris Club > Câu lạc bộ Paris, Dow Jones
index > chỉ số Dow Jones…

3.2 Phương thức (2): sao phỏng (calque)

Sao phỏng còn gọi là dịch vay mượn (loan translation), dịch suốt (through
translation). Sao phỏng là một loại dịch vay mượn đặt biệt (a special kind of
borrowing): toàn bộ đơn vị cú pháp được vay mượn thế rồi các thành phần
riêng lẻ của nó được dịch sát nghĩa. Vinay và Darbelnet chia dịch sao phỏng
ra làm hai loại:

– Vay mượn từ vựng (lexical borrowing): tôn trọng cấu trúc cú pháp của ngôn
ngữ gốc/nguồn, đồng thời giới thiệu một phương thức mới của từ ngữ.,

Ví dụ, “Compliments de la saison” của tiếng Pháp được sao phỏng từ tiếng
Anh “Compliments of the season” (những lời chúc mừng nhân ngày lễ).
– Vay mượn cấu trúc (structural borrowing): giới thiệu một cấu trúc mới ở
ngôn ngữ dịch/mục tiêu.

Ví dụ, “science-fiction” của tiếng Pháp được sao phỏng cấu trúc từ tiếng Anh
“science-fiction” (truyện khoa học viễn tưởng).

Newmark [19,84], cho rằng lối dịch sát nghĩa của các kết hợp thông thường
(common collocations), tên các tổ chức (names of organizations), thành phần
của các từ ghép (components of compounds) và có lẽ cụm từ (compliments de
la saison) đều được biết đến là lối dịch sao phỏng (calque) hay dịch vay mượn
(loan translation).

Một số ví dụ về lối dịch sao phỏng ta thường gặp ở các kết hợp thông thường
trong tiếng Anh thương mại: “black market” (chợ đen), “hot money” (tiền
nóng), “baby bond” (cổ phiếu ấu nhi), “heavy industry” (công nghiệp nặng),
“light industry” (công nghiệp nhẹ) “white-collar workers” (công nhân cổ cồn
trắng) tên các tổ chức, cơ quan: “European Union” (Liên Hiệp Châu Âu),
“International Monetary Fund” (Qũy Tiền Tệ Quốc Tế), “World Bank” (Ngân
Hàng Thế Giới) và các từ ghép thông thường: “showroom” (phòng trưng bày),
“pawnshop” (tiệm cầm đồ). Qua cách dịch sao phỏng, ta thấy từ nào cũng
được “dịch đồ theo” (calque) nguyên nghĩa từ ấy, còn vị trí của từ được sắp
xếp theo cú pháp tiếng Việt. Trong trường hợp dùng từ Hán-Việt thì vị trí
không thay đổi, ví dụ như: “superman” (siêu nhân), “total productivity” (tổng
sản lượng). Trong tiếng Việt, có một cụm từ được dịch theo lối sao phỏng từ
tiếng Anh nay đã trở thành cố định: cụm từ “thân thiện với người dùng” (user-
friendly), về sau người ta dịch đồ theo “thân thiện với môi trường”
(environment(ally)-friendly), “thân thiện với sinh thái” (eco-friendly). Thực ra,
tính từ “friendly” khi được dùng trong tính từ ghép vừa có nghĩa “hữu ích và dễ
sử dụng”, ví dụ: user-friendly computer system (hệ thống máy tính dễ sử dụng
cho người dùng lại vừa có nghĩa “có ích / không có hại cho ai / cái gì”, ví dụ:
environment(ally)-friendly farming methods (các phương pháp canh tác không
hại đến môi trường), và cụm từ “family-friendly” có nghĩa “ phù hợp cho người
lao động có con mọn”, ví dụ “family-friendly policies” / “working hours”. Là
người dịch (viết hay nói), ta cần thận trọng với lối dịch sao phỏng này. Các từ
ngữ được dịch theo lối sao phỏng phải là những kết hợp thông thường, các từ
đã nghe quen tai, nếu không ta sẽ có những cấu trúc, lối nói không tự nhiên ở
ngôn ngữ dịch, ví dụ như “kinh tế gia đình” mà dịch là “household economy”
thay vì “cottage industry”, “giữ chân người tài”mà dịch là “keep talent’s legs”
thay vì “attract and keep talent”, “ strong coffee” mà dịch là “cà phê
mạnh” 1 thay vì “cà phê đậm”, “golden hello” mà dịch là “lời chào vàng ngọc”
thay vì “tiền thưởng đầu quân”, “golden goodbye” mà dịch là “lời tạm biệt vàng
ngọc” thay vì “phụ cấp thôi việc”…v.v,

3.3 Phương thức (3): dịch nguyên văn (literal)


Dịch nguyên văn là phương thức dịch từ đối từ (word for word translation), là
sự thay thế cấu trúc cú pháp của ngôn ngữ gốc thường là câu hoặc mệnh đề
bằng cú pháp đồng dạng hoặc gần như đồng dạng. Người dịch không cần
phải tạo ra các thay đổi trừ các thay đổi mà chính ngữ pháp của ngôn ngữ
dịch đòi hỏi, ví dụ như sự tương hợp (concord), các đuôi thuộc về biến tố
(inflectional endings). Ví dụ như “I left my spectacles on the table downstairs”
dịch sang tiếng Pháp thành “J’ai laissé mes lunettes sur la table en bas”.
Phương thức này được Vinay và Darbelnet mô tả là phổ biến nhất giữa các
ngôn ngữ có cùng hệ phả và văn hóa (it is most commonly found in
translations between two languages of the same family and even more so
when they also share the same culture), ví dụ giữa tiếng Pháp và Ý.

3.4 Phương thức (4): chuyển đổi từ loại (transposition)

Chuyển đổi từ loại có nghĩa là thay thế một từ loại này bằng một từ loại khác
mà không thay đổi nghĩa của thông điệp (transposition means the replacing of
one word-class by another without changing the meaning of the message).
Trong dịch thuật, có thể phân biệt 2 loại chuyển đổi từ loại: (i) bắt buộc
(obligatory); (ii) không bắt buộc (optional).

– Chuyển đổi từ loại bắt buộc: ví dụ, ở tiếng Pháp, “dès son lever” khi được
dịch sang tiếng Anh thì chỉ có một phương thức chuyển đổi từ loại bắt buộc từ
danh từ tiếng Pháp “lever” (sự thức dậy) sang cụm động từ ở tiếng Anh: as
soon as he gets / got up, vì tiếng Anh chỉ có một hình thức động từ mà thôi.

– Chuyển đổi từ loại không bắt buộc: nếu như dịch ngược lại câu “as soon as
he gets / got up” thì có thể dịch nguyên văn là “dès qu’elle s’est levée” hoặc
dịch theo phương thức chuyển đổi động từ thành danh từ là “dès son lever”.
Trái lại, hai câu tương đương “après qu’ il sera revenu” và “after he comes
back” đều có thể dịch theo phương thức chuyển đổi từ loại là “après son
retour”, “after his return”.

Phương thức chuyển đổi từ loại không chỉ xảy ra giữa hai từ loại động từ và
danh từ mà còn giữa các từ loại khác. Vinay và Darbelnet liệt kê ít ra mười
loại chuyển đổi từ loại khác nhau. Sau đây là một số ví dụ về chuyển đổi từ
loại liên quan đến tiếng Anh thương mại:

– từ đơn dịch thành từ ghép: bail —> tiền bảo lãnh, ledger —> sổ cái, …

– từ đơn dịch thành ngữ: bear > người đầu cơ giá xuống, bull > người đầu cơ
giá lên, equity —> vốn cổ phiếu thường, shark > kẻ cho vay nặng lãi, solvent
—> có khả năng thanh toán, staff > đội ngũ nhân sự, stag > người đầu cơ
xổi…

Phương thức chuyển đổi từ loại có thể ví như chuyển đổi trong dịch thuật
(translation shifts) của Catford. Để hiểu thêm về phương thức chuyển đổi từ
loại và chuyển đổi dịch thuật, xin xem Nguyễn Thượng Hùng, Catford, Hồ
Canh Thân và những cộng sự (sđd).

3.5 Phương thức (5): Điều chỉnh (modulation)

Phương thức “Điều chỉnh ” có nghĩa là sự thay đổi trong thông điệp do có một
sự thay đổi về quan điểm (modulation means a variation in the message due
to a change in the point of view): hiểu một điều gì đó theo một cách nhìn khác.
Phương thức này thích hợp khi dịch nguyên văn hoặc chuyển vị có được một
câu dịch đúng ngữ pháp nhưng lại không tự nhiên trong ngôn ngữ dịch. Trong
phương thức Điều chỉnh , ta có thể phân biệt biến thái tự do / không bắt buộc
(free / optional) với biến thái cố định / bắt buộc (fixed / obligatory).

– Điều chỉnh cố định / bắt buộc: như trong trường hợp “the time when” phải
dịch sang tiếng Pháp là “le moment où” (the time thành the moment, một đơn
vị thời gian; và when thành where). Cách dịch Điều chỉnh bắt buộc tương
đương trong trường hợp này ở tiếng Việt sẽ là “lúc mà” (the time thành the
moment; và when thành that).

– Điều chỉnh tự do / không bắt buộc: có thể lựa chọn cấu trúc được ưa thích
hơn ở ngôn ngữ dịch: ví dụ “it is not dificult to show” mà dịch là “il est facile de
desmontrer” (it is easy to show) là do người Pháp thường thích nói như vậy
chứ không phải là không dịch được nguyên văn. Phương thức biến thái không
bắt buộc cũng được sử dụng trong phiên dịch đồng thời (simultaneous
interpreting), được gọi là kỹ thuật reformulation (nói lại cách khác): ví dụ, nếu
diễn giả nói “There has never been a period in history where people have not
asked themselves the question…”, thì phiên dịch có thể nói lại cách khác
(reformulate) như “Throughout history people have always asked themselves
the question…” (Trong lịch sử, con người luôn tự hỏi…) là do người Việt vẫn
thích lối khẳng định thay vì dùng hai phủ định trong tiếng Anh. Ngoài hai loại
biến thái: bắt buộc và không bắt buộc đề cập ở trên, còn có một vài loại biến
thái khác. Sau đây là một số ví dụ về các loại biến thái này liên quan đến lĩnh
vực tiếng Anh thương mại.

– cụ thể chuyển thành trừu tượng: bear market > thị trường xuống giá, bed
and breakfast > bán và mua lại ngay, bottleneck > sự bế tắc, bull market > thị
trường giá lên, daisy chain > việc mua bán vờ vịt, dead-cat bounce > sự hồi
phục nhất thời, fallen angels > những chứng khoán mất giá, fast food > thực
phẩm ăn liền, grandfather clause > điều khoản miễn trừ, graveyard market >
thị trường xuống giá, haircut > mức hớt xén, head hunter > người / công ty
săn lùng chất xám, head office > trụ sở chính, horse-trading > sự mặc cả tinh
khôn, infant industry > ngành công nghiệp non trẻ, lame duck > người / công
ty thất bại, master budget > ngân sách chính, peanuts > số tiền nhỏ,
peppercorn rent > tô danh nghĩa, people-intensive > dùng nhiều lao động, red
herring > bản cáo bạch thăm dò, red tape > tệ quan liêu, sandwich course >
khóa học vừa học vừa làm, sunrise industry > ngành công nghiệp đang lên,
sunset industry > ngành công nghiệp đang tàn, wildcat strike > đình công
manh động, widow-and-orphan stock > cổ phiếu rất có giá trị, window dressing
> vẻ lòe loẹt bề ngoài…

– trừu tượng chuyển thành cụ thể: available assets > tài sản tiền mặt, quick
assets > tài sản dể đổi thành tiền mặt, entertainment account > tài khoản tiếp
khách, holding company > công ty mẹ, hyper-inflation > lạm phát phi mã,
industrial relations > mối quan hệ giữa chủ và thợ, outstanding shares >
những cổ phiếu nằm trong tay cổ đông, subsidiary company > công ty con,
unwritten contract > hợp đồng miệng…

– bộ phận này chuyển thành bộ phận khác: head tax > thuế thân, house
magazine > tạp chí của hãng, pie chart > biểu đồ tròn…

– phủ định của không -A chuyển thành A: unskilled labour > lao động giản đơn
/ phổ thông, diseconomies of scale > giảm hiệu quả kinh tế do quy mô, non-
durables > hàng tiêu dùng mau hỏng, non-manual workers > giới lao động trí
thức…

– A chuyển thành phủ định của không -A: bare contract > hợp đồng không
đền bù, bad title > văn tự sở hữu không có giá trị, bear cheque > séc vô danh,
dormant companies > các công ty không hoạt động, environment(ally)-friendly
> không hại đến môi trường, demand deposit > tiền gởi không kỳ hạn,
deregulation > phi điều tiết hóa, foul bill of lading > vận đơn không hoàn hảo,
nude / naked contract > hợp đồng không đền bù, silent / sleeping partner > hội
viên không hoạt động, hostile takeover > việc tiếp quản không được đồng
thuận…

– đổi biểu tượng (ẩn dụ kiểu này đổi sang ẩn dụ kiểu khác): bricks-and-mortar
businesses > các cơ sở kinh doanh qua cửa hàng, clicks-and-mortar company
> công ty kinh doanh qua internet, golden hello > tiền thưởng đầu quân, brain
drain > chảy máu chất xám..

3.6 Phương thức (6): tương đương (equivalence)

Vinay và Darbelnet dùng thuật ngữ này để chỉ những trường hợp khi hai ngôn
ngữ cùng mô tả một tình huống nhưng với các phương tiện cấu trúc hoặc
phong cách khác nhau. Có thể lấy một ví dụ cổ điển về phản ứng của người
thợ không chuyên vô tình đập búa trúng ngón tay mình: nếu là một người
Pháp, họ sẽ nói “Aie!”, nhưng nếu là người Anh thì họ sẽ nói “Ouch!”. Tương
đương trong tình huống này ở tiếng Việt sẽ là “Ôí!”. Ví dụ này dù khá đơn giản
nhưng minh họa được một đặc trưng cụ thể của phương thức này: các thay
đổi liên quan đều có tính cú đoạn (syntagmatic), ảnh hưởng đến toàn bộ thông
báo. Theo Vinay và Darbelnet phương thức tương đương đặt biệt hữu ích
trong việc dịch cách ngôn, thành ngữ, các kết hợp danh từ hoặc tính từ. Cách
ngôn (proverbs) cung cấp các minh họa về phương thức này. Ví dụ: cách
ngôn Pháp “comme un chien dans un jeu de quilles” (like a dog in a game of
skittles) và tương đương của nó trong cách ngôn Anh “like a bull in a china
shop” (người thô lỗ, vụng về) và “deux patrons font chavirer la barque” (two
skippers will capsize the boat) và tương đương của nó trong cách ngôn Anh
“too many cooks spoil the broth” (lắm thầy thối ma) được xem là tương đương
vì chúng chỉ cùng một tình huống nhưng với các phương tiện cấu trúc và hình
ảnh khác hẳn nhau.

Một vài ví dụ về cách ngôn tiếng Anh liên quan đến lĩnh vực thương mại và
phương thức dịch tương đương của chúng sang tiếng Việt:

Cách ngôn tiếng Anh Phương thức dịch tương đương sang tiếng Việt

The dearest is the cheapest Của rẻ là của ôi

Điều tương tự cũng đúng với trường hợp dịch các thành ngữ. “to talk through
one’s hat” (nói càng) hoặc “as like as two peas” (giống như hai giọt nước) lại
càng không được dịch theo phương pháp sao phỏng (calque).

Một vài ví dụ về thành ngữ tiếng Anh liên quan đến lĩnh vực thương mại và
phương thức dịch tương đương của chúng sang tiếng Việt:

Thành ngữ tiếng Anh Phương thức dịch tương đương sang tiếng Việt

be in the black lời

be in the red lỗ

blow the whistle on (sb/sth) tố cáo (ai / điều gì)

buy a pig in a poke mua trâu vẽ bóng

come / go under the hammer được bán đấu giá

cook the books gian lận sổ sách

corner the market lũng đoạn thị trường

flood the market tràn ngập thị trường

get the axe bị đuổi / thải hồi

hammer the market bán một lúc một chứng khoán với số
lượng lớn làm cho giá của nó xuống nhanh

one’s money’s worth đáng đồng tiền bát gạo

pay through the nose giá cắt cổ

take a bath thất cơ lỡ vận


wear and tear hao mòn

Phương thức tương đương còn đóng một vai trò quan trọng trong trường hợp
dịch các kết hợp danh từ và tính từ trong tiếng Anh thương mại. Theo từ điển
tiếng Anh thương mại (NXB Longman) [ ,vi] danh từ ghép chiếm một bộ phận
lớn tiếng Anh thương mại. Newmark [19,145] cho rằng các kết hợp mới (danh
từ ghép/tính từ với danh từ) đặc biệt phổ biến trong khoa học xã hội và trong
ngôn ngữ vi tính. Tuy nhiên điều cần lưu ý là sự khác biệt giữa “cụm từ”: các
kết hợp thông thường (xin xem phương thức sao phỏng) và “danh từ ghép”
Lấy ví dụ từ “sleeping partner” nếu là cụm từ, ta sẽ dịch theo phương thức sao
phỏng là “đối tác đang ngũ” (partner who is sleeping) nhưng nếu là danh từ
ghép, ta sẽ dịch theo phương thức tương đương (equivalence) là “đối tác
không hoạt động” (partner who does not take an active role).

Một số ví dụ về các danh từ ghép trong tiếng Anh thương mại và phương thức
dịch tương đương của chúng sang tiếng Việt

– economic / useful life thời hạn sử dụng

– qualified opinion sự đánh giá có phê chú

– qualified report bản báo cáo kiểm toán có phê chú / có vấn đề

– sleeping beauty một công ty hấp dẫn

– translation methods các phương pháp quy đổi ngoại hối

– translation gain / loss lãi / lỗ do quy đổi ngoại hối

– umbrella organization tổ chức bao trùm

– think-tank nhóm chuyên gia cố vấn

Tuy nhiên, một số thuật ngữ tiếng Anh khi chuyển sang tiếng Việt nếu được
dịch phương thức sao phỏng (calque) thì rất tự nhiên và dễ hiểu như: black
spot (điểm đen), plus point (điểm cọng), bottleneck (nút cổ chai / chỗ đường
dễ bị ùn tắc), blue-collar worker (công nhân cổ cồn xanh), hot seat (ghế nóng),
nhưng một số khác thì lạ lẫm và khó hiểu như: lameduck (con vịt què), player
(tay chơi)…

3.7 Phương thức (7): dịch thoát (adaptation)

Đây là phương thức được dùng khi một tình huống trong văn hóa gốc không
tồn tại trong văn hóa dịch vì vậy phải có một sở chỉ tương đương với văn hóa
gốc trong văn hóa dịch. Sau đây là một ví dụ về phương thức dịch thoát được
nêu bởi Vinay và Darbelnet: về mặt văn hóa việc ông bố người Anh hôn con
gái mình ở miệng là bình thường nhưng một hành động tương tự là không thể
chấp nhận xét về mặt văn hóa ở một văn bản tiếng Pháp. Để dịch câu “he
kissed his daughter on the mouth” trong ngữ cảnh một người cha trở về nhà
sau khi đi du lịch dài ngày thì người dịch phải tạo ra một tình huống mới mà có
thể được xem là tương đương. Vì vậy, phương thức dịch thoát có thể được
mô tả là một loại tương đương đặc biệt, tương đương tình huống. Cách dịch
phù hợp hơn trong trường hợp này sẽ là “il serra tendrement sa fille dans ses
bra” (“he tenderly embraced his daughter in his arms”: ông ta âu yếm ôm cô
gái con của mình). Trong tiếng Anh thương mại, danh từ riêng
“Goliath”2 thường chỉ một công ty có tiềm lực tài chính, vì vậy khi gặp từ đó
trong các ví dụ sau: “the company is the Goliath of the computer industry”
hoặc “a telecomes goliath” thì từ “goliath” trong ví dụ này theo phương thức
dịch thoát nên dịch là “đại gia”, “ông lớn” / “gã khổng lồ”. Ở tiếng Việt, khi nói
về một kẻ yếu mà dám chống kẻ mạnh hơn gấp bội , người ta thường ví von
là “châu chấu đá xe”, “châu chấu đá voi” hoặc “trứng chọi với đá”. Để dịch câu
“Gaddafi quyết “châu chấu đá xe”, tấn công Châu âu”. Câu dịch tương đương
theo phương thức dịch thoát sẽ là “Gaddafi (David) determined to attack
Europe (Goliath). Trong văn hóa Việt cũng như các nên văn hóa chịu ảnh
hưởng của văn hóa Trung hoa, con rồng luôn được xem là biểu tượng vương
quyền (royal power) dưới chế độ phong kiến. Rồng được xem là một linh vật
đứng đầu trong tứ linh: Long, Lân, Quy và Phụng.Người Việt xem rồng là biểu
tượng của sự tốt đẹp, may mắn và thịnh vượng, tuy nhiên từ con rồng (the
dragon) lại là một con vật hung dữ, biểu tượng của sự xấu xa, độc ác và có ý
nghĩa rất tiêu cực trong văn hóa Tây phương vì vậy trong Kinh thánh để
chuyển được nét nghĩa của từ con rồng từ tiếng Anh sang tiếng Việt người
dịch phải tìm một sở chỉ tương đương ở tiếng Việt là con “mãng xà” (con vật
làm việc ác trong cổ tích Việt nam). Ví dụ sau đây cho thấy người dịch đã áp
dụng phương thức dịch thoát cho từ “dragon”. “The woman in charge of the
accounts department is an absolute dragon!” (Người đàn bà phụ trách phòng
kế toán là một bà chằn đích thị!). Khi nói về các quốc gia phát triển với ý nghĩa
khen ngợi, người ta thường dùng chữ “rồng”, ví dụ, Nhật, Hàn Quốc, Đài
Loan, Singapore được gọi là những con rồng Châu Á / con rồng kinh tế. Tuy
nhiên, sở chỉ tương đương với từ rồng trong tiếng Anh lại là “Tigers” (con hổ)
chứ không phải là “Dragons” (con rồng)3.
Phương thức dịch thoát thường được dùng để dịch tên phim, kịch hoặc tên
tiểu thuyết. Ví dụ, tên phim “Memmoirs of a Geisha” được dịch là “Đời kỹ nữ”,
tên sách “When Heaven and Earth changed places” được dịch là “Khi trời đất
đổi thay”, tên tiểu thuyết “The Scarlet Letter” được dịch là “Nét chữ ô nhục”.4

4. Kết luận

Bảy phương thức phát thảo ở trên đều được ứng dụng cho các mức độ khác
nhau ở ba bình diện: từ vựng, cú pháp và thông báo. Trong tiếng Pháp, ví dụ
phương thức vay mượn ngoài việc vay mượn cấu trúc / cú pháp (structural
borrowings) như “science-fiction” (truyện khoa học viễn tưởng), người ta còn
có thể nói đến sự vay mượn ở cấp độ từ vựng (borrowings on the lexical
level): bulldozer (máy ủi), stopover (trạm dừng chân) và sự vay mượn ở cấp
độ thông báo (the message level): O.K (đồng ý), five o’clock tea (uống trà lúc 5
giờ). Theo Vinay và Darbelnet, trong một câu, có thể áp dụng một vài phương
thức trong số 7 phương thức nêu trên: ví dụ, việc dịch từ “paper-weight” (cái
chặn giấy) thành “presse-papier” liên quan đến cả phương thức chuyển vị lẫn
phương thức biến điệu. Trong tiếng Anh thương mại, các từ “bear” và “bull” là
các từ đơn (simple words) khi chuyển dịch sang tiếng Anh thành ngữ
(phrases): “bull” thành (người đầu cơ giá lên), “bear” (người đầu cơ giá xuống)
và từ ẩn dụ này (con vật) sang ẩn dụ khác (con người) nên cả hai cách dịch
trên đều được xem vừa là chuyển vị vừa là biến điệu. Việc mô tả, phân tích và
phân loại chi tiết các phương thức dịch của Vinay và Darbelnet và ứng dụng
chúng vào một văn bản chuyên ngành như tiếng Anh thương mại cho thấy
rằng các phương thức này là súc tích, dễ sử dụng và linh hoạt trong việc ứng
dụng để dịch một văn bản tiếng Anh thương mại sang tiếng Việt.
1
Xin xem bài “Việt Nam dưới mắt nhìn của họ” trong “Tuổi Trẻ Cuối Tuần” số
5-2012 (1474)
2
Goliath là từ chỉ gã khổng lồ trong Kinh thánh, bị giết bởi một hòn đá do một
chàng trai tên là David ném, (xin xem trong “The Holy Bible” (I Sam 17 p. 198).
3
Cần lưu ý là một số quốc gia Châu Á thường dùng từ “Asian dragons”,
“economic dragons”, “dragon economies”…v.v, trong các văn bản viết bằng
tiếng Anh của họ.
4
Tiểu thuyết “The Scarlet Letter” là cuốn tiểu thuyết xuất bản năm 1850 của
Nathaniel Hawthorne và được dịch sang tiếng Việt là “Chữ A màu đỏ” (dịch
giả: Lâm Hoài, NXB Văn Học, 2011), tuy nhiên tôi vẫn thích cách dịch của một
người thầy đã dạy tôi ở Đại Học Sư Phạm Huế vào những năm đầu của thập
niên 80 và gần đây của một tiến sĩ dạy văn chương tại Đại học Montana (Mỹ),
là “Nét chữ ô nhục”. Xin xem “Giấc mơ văn học Việt trên đất Mỹ”, tr.26 trong
Tuổi Trẻ Cuối Tuần số 3-2012 (1472).

Sách Tham Khảo

[1] Baker M. (1992), In Other Words, A Course-book on Translation,


Routledge.

[2] Catford J.C (ed), “Translation Shifts” p.p 70-79 in Chesterman.A. (1989),
Readings in Translation Theory, Loimaan Kirjapaino Oy.

[3] Đái Xuân Ninh & một số cộng sự (1984), Ngôn Ngữ Học: Khuynh Hướng-
Lĩnh Vực-Khái Niệm (Tập I), NXB Khoa Học Xã Hội.

[4] Đái Xuân Ninh & một số cộng sự (1986), Ngôn Ngữ Học: Khuynh Hướng-
Lĩnh Vực-Khái Niệm (Tập II), NXB Khoa Học Xã Hội.

[5] Delisle J. & et al. (ed), Translation Terminogogy, Amsterdam and


Philadelphia: Jonh Benjamins (1999).
[6] Hà Quang Minh (1997), Giải Thích Thuật Ngữ Kinh Tế Anh-Việt Thông
Dụng, NXB Giao Thông Vận Tải.

[7] Hans. Kathy L (2004), Business Idioms From Silicon Valley. Lê Thành Tâm
và Lê Ngọc Phương Anh giới thiệu. NXB Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh.

[8] Hồ Canh Thân, Vương Xuân Huy, Thân Vân Trinh (2007), Soạn Thảo và
Dịch Hợp Đồng Thương Mại Quốc Tế. Nguyễn Thành Yến dịch. NXB Tổng
Hợp Thành Phố HCM.

[9] Jones, Roderick (2002), Conference Interpreting Explained, St. Jerome


Publishing.

[10] Larson, M.L (1998), Meaning-based Translation: A Guide to Cross-


Language Equivalence, University of Press America.

[11] Lê Hùng Tiến (2007), Vấn Đề Phương Pháp Trong Dịch Thuật Anh-Việt
trong Tạp Chí Khoa Học – Chuyên San Ngoại Ngữ, Đại Học Quốc Gia Hà Nội.

[12] Munday J. (2009), Nhập Môn Nghiên Cứu Dịch Thuật: Lý Thuyết và Ứng
Dụng (Trịnh Lữ dịch), NXB Trí Thức.

[13] N.H Việt Tiến-Elizabeth Hodgkin-Hữu Ngọc-Mary Cowan (1995), Sổ Tay


Người Dịch Tiếng Anh, NXB Giáo Dục.

[14] Nguyễn Quốc Hùng (2005), Hướng Dẫn Kỹ Thuật Dịch Anh-Việt, NXB
Khoa Học Xã Hội.

[15] Nguyễn Quốc Hùng (2007), Hướng Dẫn Kỹ Thuật Phiên Dịch Anh-Việt
Việt-Anh, NXB Tổng Hợp Thành Phố HCM.

[16] Nguyễn Thị Sang, Tiếng Việt và Tiếng Hoa. Truy cập ngày 2/2/2012
từhttp://www.catholic.org.tw.vntaiwan/…/50vietnam.htm

[17] Nguyễn Thượng Hùng (2005), Dịch Thuật: từ Lý Thuyết đến Thực Hành,
NXB Văn Hóa Sài Gòn.

[18] Newmark P. (1981), Approaches to Translation, Pergamon, Oxford.

[19] Newmark P. (1988), A Textbook of Translation, Prentice Hall, New York


and London.

[20] Nguyễn Vạn Phú (1999), Tiếng Anh Lý Thú, NXB Thành Phố Hồ Chí
Minh.

[21]Phan Ngọc (2000), Vài Mẹo Về Phong Cách Khoa Học trong “Cách Giải
Thích Văn Học bằng Ngôn Ngữ Học”, NXB Trẻ.
[22]Richards & et al (1999), Dictionary of Language Teaching & Applied
Linguistics, Longman.

[23]Sari, F. K (2009), An Analysis of Translation Procedures of Translating


Computer Terms in Andrews Tanenbaum 3rd Computer Networks into Bahasa
Indonesia.

[24]The Holy Bible, King James Version, World Bible Publisher.

[25]Trần Thanh Aí (2009), Từ Điển Từ Vay Mượn Trong Tiếng Việt Hiện Đại,
NXB Đại Học Quốc Gia TP Hồ Chí Minh.

[26] Trịnh Nhật (2011), Thử Đi Tìm Cái Tương Đương Trong Phiên Dịch. Truy
cập ngày 2/12/2011 từ vny2k.net/…/FrankTrinh_TuongduongTrongPhie…

[27] Vinay J.P. & Darbelnet J. (ed), “Translation Procedures” p.p 61-69 in
Chesterman .A. (1989), Readings in Translation Theory, Loimaan Kirjapaino
Oy.

TỪ ĐIỂN THAM KHẢO

[28] Từ Điển Anh-Việt (Viện Ngôn Ngữ Học). NXB Văn Hóa Sài Gòn (2007).

[29]Từ Điển Kinh Tế Kinh Doanh Anh-Việt. NXB Khoa Học và Kỹ Thuật
(2000).

[30]Từ Điển Thuật Ngữ Chuyên Ngành Biên Phiên Dịch Anh-Việt. NXB Thanh
Niên.

[31]Từ Điển Oxford Advanced Learner’s Dictionary, NXB Oxford University


Press (2005).

[32]Từ Điển Longman Business English Dictionary, NXB Longman (2007).

[33]Từ Điển Thuật Ngữ Thị Trường Chứng Khoán Anh-Anh-Việt. NXB Trẻ
(2004).

You might also like