Professional Documents
Culture Documents
Xã hội Nhật Bản
Xã hội Nhật Bản
Tuy nhiên, từ những năm thuộc thập niên 70 trở đi thì trong xã hội Nhật Bản đã
tồn tại nên vấn đề về mức dộ chênh lệch giàu và nghèo. Và đặc biệt là từ sau 1989
thì nó đã trở nên đáng báo động hơn: Bên cạnh những người có thu nhập cao, có
mức sống dư thừa và những người có cuộc sống tương đối khá giá vẫn còn không
ít tầng lớp xã hội hàng ngày phải đương đầu với cảnh sống cơ cực thiếu thực phẩm
và hay vật dụng sinh hoạt. Những từ khóa tiếng Nhật liên quan tới vấn đề này
trong khoảng thời gian này là Karyuu Shakai (Tầng lớp phía dưới, the lower
classes) và Kakusa Shakai (cách sai xã hội, society of disparities). J. Kingston đưa
ra con số thống kê năm 2007: tỷ lệ người nghèo (thu thập dưới 2 triệu Yen mỗi
năm) ở Nhật là 15,7 triệu người hay 29% dân số. (Jeff Kingston, 2011). Không
thiếu người sống trong những con phố nghèo hay lang thang nay đây mai đó, sống
vờ vật ở những địa điểm công cộng như công viên, nhà ga.
tích cả nước đã gây nên nhiêu vấn đề lớn về xã hội và môi trường như chênh lệch
trình độ giữa các vùng, ô nhiễm môi trường, an ninh xã hội,...
Vấn đề như già hoá dân số cũng đặt ra cho toàn xã hội những sự thách thức: Số
người già ngày càng tăng, từ đầu 1988 trong số 123 triệu dân đến 40,7 triệu lao
người động từ 45 tuổi trở lên. Trong kinh tế nông nghiêp có 19,2 triệu lao động
nhưng phần lớn là trên 65 tuổi. Việc người có tuổi chiếm một số lượng lớn trong
thị trường lao động đã báo động cho một tương lai đầy khó khăn khi số nhũng
người trong độ tuổi lao động phải gánh trên vai phúc lợi cho người ngoài độ tuổi
lao động giảm. Không chỉ vậy, gánh nặng về kinh tế đi kèm với những áp lực từ
xã hội còn ảnh hưởng tới suy nghĩ về sau này của một bộ phận người trẻ khi không
dám lập gia đình cho đến lúc mà bản thân dám đảm bảo được một tài chính ổn
định để lo cho gia đình. Điều này dẫn đến việc tỉ lệ kết hôn giảm xuống để rồi kéo
theo sự giảm sút về tỉ lệ sinh. Điều này sẽ là một vấn đề mà chính phủ Nhật phải
đau đầu cho đến hiện tại.
(Tình hình dân số Nhật Bản từ năm 1920-2015 cũng như những dự đoán trong
tương lai)
(Tỉ lệ kết hôn ở Nhật Bản giai đoạn 1960-2022)
(Tí lệ sinh – tử của Nhật Bản từ cuối thế kỉ 19 tới năm 2012)
Ngoài ra, từ những năm 70, cơ cấu gia đình Nhật Bản cũng đã có sự chuyển biến
khi số lượng những hộ gia đình từ ba thế hệ dần ít đi và kiểu gia đình hạt nhân mở
rộng theo thời gian, cụ thể từ năm 1970 đến năm 1983, tỷ lệ hộ gia đình ba thế hệ
giảm từ 19% xuống 15% tổng số hộ, trong khi hộ gia đình 2 thế hệ gồm một cặp
vợ chồng và con cái chưa lập gia đình thì tăng nhẹ, từ 41% lên 42% tổng số hộ gia
đình Nhật Bản (Fumie Kumagai, Forty Years of Family Change in Japan: A Society
Experiencing Population Aging and Declining Fertility, 2010). Bên cạnh đó, sự gia
tăng số hộ gia đình chỉ có vợ chồng và hộ gia đình người già độc thân là thay đổi
rõ rệt nhất. Điều này phản ánh sự thay đổi về hoàn cảnh kinh tế và chuẩn mực xã
hội Nhật Bản lúc bấy giờ.
Nhận xét
Nhật Bản giai đoạn này tuy đại bộ phận có cuộc sống ổn định nhưng xã hội Nhật Bản vẫn
luôn có không ít những vấn đề xã hội tồn tại bên cạnh đó mà cho đến thời gian sau này
những thứ đó vẫn còn kéo dài mãi cho đến thời điểm hiện tại. Điều này đòi hỏi toàn xã
hội Nhật Bản phải nghiêm túc đối điện với những vấn đề đó để có thể khắc phục phần
nào, giảm nhẹ ở mức tối đa những hệ quả mà những vấn đề xã hội này có thể đem lại cho
xã hội Nhật Bản trong tương lai.