Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 5

C.

XÃ HỘI NHẬT BẢN NHỮNG NĂM 1973-1991


Về đời sống:
• Slide 76 Những bước phát triển kinh tế mạnh đã không chỉ làm thay đổi bộ mặt của
đất nước mà còn không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân. Đại bộ phận các
tầng lớp lao động, công chức Nhật Bản bấy giờ có một mức thu nhập cao và ổn định.
Bộ phận này dần dần tạo nên ý thức trung lưu mạnh mẽ xuyên suốt. Ý thức trung
lưu mạnh mẽ cũng mang sự hiện diện của chủ nghĩa tiêu dùng.
• Slide 77 Đê thấy rõ được ý thức trung lưu này ta có thể dựa vào bảng phổ cập những
món đồ gia dụng trong nhà. Như các bạn có thể thấy thì theo thời gian, những nhu
cầu ngoài nhu cầu cơ bản được thể hiện qua những món đồ gia dụng trong gia đình
ngày càng được phủ rộng gần như toàn bộ gia đinh Nhật Bản.
• Điều này cũng đã được tác giả Fujio F Fujiko lấy làm cảm hứng để viết nên những
truyện ngắn trong khoảng thời gian này như 1 ngày của gia đình nhà Namihira hay
tảng đá tình cha…

Tuy nhiên bên cạnh mặt tích cực này thì giai đoạn này vẫn tồn đọng vấn đề: chênh lệnh
giàu nghèo, đặc biệt là khoảng thời gian từ sau 1989 thì càng trở nên thêm phần gay gắt:
Bên cạnh những người có có mức sống dư thừa không ít người thuộc trong xã hội hàng
ngày phải đương đầu với cảnh sống cơ cực chi li.
• Những từ khóa tiếng Nhật liên quan tới vấn đề này trong khoảng thời gian này là
Karyuu Shakai (Tầng lớp phía dưới, the lower classes) và Kakusa Shakai (cách sai
xã hội, society of disparities).
• Kingston đưa ra con số thống kê năm 2007: giai đoạn 1989, tỷ lệ người nghèo (thu
thập dưới 2 triệu Yen mỗi năm) ở Nhật là 15,7 triệu người hay 29% dân số. Không
thiếu người sống trong những con phố nghèo hay lang thang nay đây mai đó, sống
vờ vật ở những địa điểm công cộng như công viên, nhà ga.

Về tình trạng dân cư – dân số:

• Trước hết là tình trạng mất cân đối nghiêm trọng vê địa bàn phát triển kinh tế, đất
chật người đông:
• Nhìn vào bản đò, chúng ta có thể nhận thấy rằng sự hình thành 3 trung tâm công
nghiệp lớn là Tokyo, Osaka và Nagoya với một mật độ dân số lớn, cụ thể là trên
60 triệu người sống trên một diện tích chiếm 1,25% diện tích cả nước đã tăng tốc
độ đô thị hóa cùng với việc gây nhiêu vấn đề lớn về xã hội và môi trường như
chênh lệch trình độ giữa các vùng, ô nhiễm môi trường, an ninh xã hội,...
Dù chính phủ cũng đã cố gắng có những chính sách để thay đổi tình hình nhưng
nhìn chung vẫn chưa có thể thay đổi được tình hình là bao nhiêu.

• Vấn đề như già hoá dân số cũng đặt ra cho toàn xã hội những sự thách thức:
• Cụ thể nhìn vào biểu đồ này, tuy theo thời gian thì tuổi thọ người dân Nhật Bản tăng
theo thời gian nhưng số người già và người có tuổi trong độ tuổi lao động cũng dần
chiếm đa số trong dân số
• Cụ thể thì từ đầu 1988 trong số 123 triệu dân đến 40,7 triệu lao người động từ 45
tuổi trở lên. Trong kinh tế nông nghiêp có 19,2 triệu lao động nhưng phần lớn là
trên 65 tuổi.
• Việc người có tuổi chiếm một số lượng lớn trong thị trường lao động đã báo động
cho một tương lai đầy khó khăn phúc lợi cho người già không được đảm bảo
• Người trẻ phải gồng gánh người ngoài độ tuổi lao động nhiều
• (Slide tỉ lệ kết hôn) Không chỉ vậy, gánh nặng kinh tế kèm áp lực xã hội còn ảnh
hưởng tới suy nghĩ về sau này của một bộ phận người trẻ khi không dám lập gia
đình cho đến lúc mà bản thân dám đảm bảo được một tài chính ổn định để lo cho
gia đình. Điều này dẫn đến việc tỉ lệ kết hôn giảm xuống
• (chuyển slide tỉ lệ sinh) Từ đây dù tuổi thọ trung bình tăng nhưng tỉ lệ sinh giảm.
Điều này sẽ là một vấn đề mà chính phủ Nhật phải đau đầu cho đến hiện tại.
• Ngoài ra, từ những năm 70, cơ cấu gia đình Nhật Bản sự chuyển biến khi số lượng
những hộ gia đình từ ba thế hệ dần ít đi và kiểu gia đình hạt nhân mở rộng theo thời
gian
• cụ thể từ năm 1970 đến năm 1983, tỷ lệ hộ gia đình ba thế hệ giảm từ 19% xuống
15% tổng số hộ, trong khi hộ gia đình 2 thế hệ gồm một cặp vợ chồng và con cái
chưa lập gia đình thì tăng nhẹ, từ 41% lên 42% tổng số hộ gia đình Nhật Bản (Fumie
Kumagai, Forty Years of Family Change in Japan: A Society Experiencing Population
Aging and Declining Fertility, 2010). Bên cạnh đó, sự gia tăng số hộ gia đình chỉ có
vợ chồng và hộ gia đình người già độc thân là thay đổi rõ rệt nhất. Điều này phản
ánh sự thay đổi về hoàn cảnh kinh tế và chuẩn mực xã hội Nhật Bản lúc bấy giờ.

Về những vấn đề khác:


• Bình đẳng giới: Những phong trào về Nữ quyền thời gian này thay đổi cách suy
nghĩ của toàn xã hội Nhật Bản về người phụ nữ
• Không chỉ thế, những phong trào này còn đòi quyền lợi cho phái nữ trong công việc
như bình đẳng trong mức lương hay cơ hội thăng tiến như nam giới hay trong gia
đình như bình đẳng trong việc nội trợ trong gia đinh.
Những hoạt động này, về mặt tinh thần, đã giúp một bộ phận phụ nữ Nhật Bản có
thêm dũng khí để đi theo con đường mà họ mong muốn. Số lượng phụ nữ học đại
học và làm việc tăng dần theo hằng năm và cũng có những cá nhân đã dám mạnh
dạn lập doanh nghiệp của riêng mình như Kaori Sasaki. Bên cạnh đó, còn có sự ra
đời của các nhóm như Hiệp hội Phụ nữ Lao động Thống nhất (UAJW) và Mạng
lưới Phụ nữ Nhật Bản (JWN) nhằm bảo vệ quyền lợi cho phái nữ ở môi trường
làm việc.
Từ khóa tiêu biểu cho những hoạt động về nữ quyền thời gian này có thể kể tới
nhóm Uuman Ribu (đầu thập niên 70) (Mark McLelland, 2014) hay chuyển biến
“Madonna Boom” về việc số lượng nữ ứng cử tham gia vào bộ máy chính trị tăng
đáng kể (Theo Brilliantio.com).
• Hiện tượng xã hội: Karoushi hay chết do làm việc quá sức là một hiện tượng xã hội
tồn tại trong giai đoạn này. Nó còn được gọi là “chứng nghiện công việc” văn hóa
làm việc đề cao tập thể + tận tâm với một môi trường không lành mạnh đã vô tình
khiến một số cá nhân mắc phải “chứng bệnh” tâm lí này.
• Ngoài bòn rút thể chất và tinh thần + một phản ứng dây chuyền tác động xấu lên xã
hội. Cụ thể, nếu một cá nhân mang chứng “nghiện công việc” làm việc ở một cơ
quan thì những đồng nghiệp của người này cũng cảm thấy áy náy không yên, vô
hình trung đã tạo áp lực lên những người này và khiến họ phải tăng cường cường
độ làm việc để không bị tụt hậu.
• Từ đây đã có sự xuất hiện của các phong trào chính trị mới ủng hộ quyền lợi của
người lao động và tập trung vào các vấn đề chất lượng cuộc sống nhằm có thể
thay đổi thực trạng này.
• Tiền đề cho việc đánh giá lại những gì quan trọng trong cuộc sống – cuộc đấu
tranh giữa truyền thống (tập thể) và tiến bộ (cá nhân) vẫn còn kéo dài mãi cho
đến ngày nay.
Áp lực từ xã hội, học tập, làm việc,… tạo nên vấn đề tâm lí + văn hóa Á Đông
_> trốn tránh nó cùng với thực tại. Họ đã thu mình vào một căn phòng và chỉ hưởng
thụ, hình thành nên Hikikomori (những cá nhân rút lui khỏi xã hội vì quá căng thẳng).
• Những con người này tuy có đủ điều kiện về sức khỏe để lao động nhưng việc trốn
tránh của họ đã không những khiến Nhật Bản mất đi một nguồn lao động đáng có
mà còn tạo gánh nặng cho những gia đình có người thân mắc phải hoàn cảnh này.

• Tôn giáo cũng có 1 bộ phạn nhỏ thâm nhập vào giới chính trị, ở đây là Đảng Công
Minh – Koumeitou với sự liên quan với tổ chức tôn giáo mới Soka Gakkai, tuy vậy
nhưng cũng chưa có thành tích nổi bật mà còn có lùm xum liên quan tới Đảng này
trong thời gian bấy giờ trong việc vận động bầu cử.
Bên cạnh đó thì cũng có những tôn giáo mới được thành lập trong thời gian này.
Tiêu biểu có thể nói đến như giáo phái Aum Shinrikyo (Chân lý tối thượng). Tuy
thời gian này tôn giáo này chỉ mới hình thành và phát triển trong quy mô nhỏ nhưng
sau này thì tôn giáo này đã gây rúng động Nhật Bản với vụ khủng bố khí ga độc ở
ga tàu điện ngầm.

Nhận xét

Nhật Bản giai đoạn này tuy đại bộ phận có cuộc sống ổn định nhưng xã hội Nhật Bản vẫn
luôn có không ít những vấn đề xã hội song song bên cạnh đó

Điều này đòi hỏi toàn xã hội Nhật Bản phải nghiêm túc đối điện với những vấn đề đó để
có thể khắc phục phần nào, giảm nhẹ ở mức tối đa những hệ quả mà những vấn đề xã hội
này có thể đem lại cho xã hội Nhật Bản trong tương lai.

You might also like