Tiểu luận - Phân tích thực trạng hoạt động bảo hiểm Xã hội ở Việt Nam hiện nay Nêu và lấy ví dụ phân tích một số trường hợp của bảo hiểm Thai sản - 964193 1
Môi trường kinh doanh luôn tiềm ẩn quá nhiều rủi ro, doanh nghiệp không thể ngăn chặn hoặc né tránh rủi ro một cách hoàn toàn. Để không bỏ lỡ những cơ hội sinh lời, doanh nghiệp phải chấp nhận rủi ro. - Khái niệm: lưu giữ tổn thất là việc doanh nghiệp tự mình gánh chịu một phần hoặc tất cả các tổn thất xảy ra bằng cách tự bù đắp, thanh toán cho các tổn thất đó bằng nguồn lực tài chính của mình. - Phân loại: Việc lưu giữ tổn thất có thể xảy ra dưới hai hình thức: + Lưu giữ chủ động Lưu giữ tổn thất chủ động được tiến hành khi doanh nghiệp nhận biết được các tổn thất có thể xảy ra và lên kế hoạch tài chính để sẵn sàng tài trợ cho một phần hay tất cả các tổn thất đó. Đây là một trường hợp đặc biệt của lưu giữ tổn thất và thường được gọi là hoạt động tự tài trợ hoặc hoạt động tự bảo hiểm. + Lưu giữ thụ động Ngược lại, trong trường hợp doanh nghiệp không thể nhận dạng được rủi ro và do đó không thể có kế hoạch để đối phó với các tổn thất phát sinh được gọi là lưu giữ tổn thất thụ động. - Việc lưu giữ tổn thất thường được áp dụng trong các trường hợp chủ yếu sau: + Thứ nhất là doanh nghiệp đã nhận dạng được rủi ro nhưng vì những điều kiện giới hạn nhất định, doanh nghiệp không thể sử dụng các biện pháp khác để thay thế. Ví dụ: do thời gian quá gấp gáp không thể mua bảo hiểm, hoặc đã kịp mua bảo hiểm nhưng chưa đến thời điểm hiệu lực. + Thứ hai là thông qua các kỹ thuật đo lường rủi ro, doanh nghiệp xác định được mức độ tác động tối đa cửa rủi ro và tổn thất xấu nhất của rủi ro cũng không nghiêm trọng lắm. Những rủi ro dạng này thường được xếp vào nhóm III và IV trong ma trận rủi ro. + Cuối cùng là doanh nghiệp sẽ phải lưu giữ tổn thất khi các rủi ro có thể được tiên đoán hay dự báo một cách khá chắc chắn. Ví dụ: Khi quyết định định vị doanh nghiệp ở những vùng có bão thì chắc chắn doanh nghiệp phải chịu rủi ro thiên tai. - Để tài trợ cho các tổn thất phát sinh doanh nghiệp phải sử dụng các nguồn tài chính tự có hoặc các nguồn vốn vay mà doanh nghiệp phải có trách nhiệm hoàn trả. Theo thứ tự phổ biến các nguồn tài trợ cho các tổn thất bao gồm: + Nguồn quỹ dự phòng: Đây là nguồn tài trợ chủ yếu cho các rủi ro trong doanh nghiệp. Hầu như khi tham gia vào bất kì lĩnh vực kinh doanh nào trong quá trình hạch toán kết quả, doanh nghiệp đều phải trích dự phòng. Lĩnh vực kinh doanh càng rủi ro thì quy mô các khoản dự phòng càng lớn. Tuy nhiên, không phải lúc nào doanh nghiệp cũng có đủ các khoản dự phòng để bù đắp cho các tổn thất mà chủ yếu các nguồn quỹ dự phòng chỉ để tài trợ cho các trường hợp lưu giữ tổn thất thụ động. + Tiền mặt và các loại chứng khoán có khả năng thanh khoản cao: Đây là nguồn tài trợ cho các tổn thất bất thường, khó lường trước với quy mô thiệt hại không quá lớn. + Nguồn vốn vay ngân hàng: Thường được sử dụng để tài trợ cho những tổn thất tức thời, giúp doanh nghiệp khắc phục tổn thất nhanh chóng để tránh rơi vào khùng hoàng. Việc tài trợ rủi ro thường được cung cấp bởi các ngân hàng thương mại đã có quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp từ trước vì nếu không tài trợ để doanh nghiệp khôi phục sau rủi ro thì ngân hàng cũng đối mặt với khả năng không thu hồi được các khoản tín dụng trước đó. + Nguồn vốn vay bằng phát hành trái phiếu: Đây là nguồn tài trợ có quy mô tương đối lớn nhưng chi phí lại rất cao vì trong điều kiện rủi ro các nhà đầu tư sẽ kỳ vọng một mức tỷ suất lợi nhuận lớn.
Tiểu luận - Phân tích thực trạng hoạt động bảo hiểm Xã hội ở Việt Nam hiện nay Nêu và lấy ví dụ phân tích một số trường hợp của bảo hiểm Thai sản - 964193 1