Kinh Te Chinh Tri

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 73

1. ĐỀ TÀI: HỌC THUYẾT “BÀN TAY VÔ HÌNH” CỦA A.

Đ SMITH
ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ CỦA HỌC THUYẾT “BÀN TAY VÔ HÌNH”
1. Hoàn cảnh ra đời, nội dung lý thuyết BTVH
1.1. Hoàn cảnh ra đời
- Hoàn cảnh ra đời học thuyết bàn tay vô hình: Học thuyết “Bàn tay vô hình” của Adam
Smith ra đời trong bối cảnh của cuộc Cách mạng Công nghiệp ở châu Âu, khi mà các thị
trường và nền kinh tế đang trải qua những thay đổi sâu rộng. Smith đã đề xuất học thuyết này
trong các tác phẩm của ông vào năm 1759 và sau đó là năm 1776. Nhưng sau này, thuật ngữ
này đã được sử dụng rộng rãi trở thành một lý luận kinh tế học.
1.2. Khái lược nội dung
- Khái quát chung về học thuyết
Ông dùng thuật ngữ này mô tả khả năng của cơ chế thị trường trong việc điều chỉnh
cung cầu trên thị trường. Và ví sức mạnh của cơ chế thị trường như bàn tay vô hình định
hướng người bán và người mua, phân bố nguồn lực kinh tế đạt được hiệu quả xã hội lớn nhất
mà không cần sự can thiệp của Chính phủ.
Ví dụ: Ông chỉ ra rằng, Nếu để cánh lái buôn tự cạnh tranh với nhau, thị trường sẽ vận
hành một cách suôn sẻ như thể có một bàn tay vô hình dẫn dắt. Nếu có người bán hàng rẻ hơn
bạn, khách sẽ tự động mua của họ, do đó bạn sẽ phải hạ giá hoặc bán thứ khác tốt hơn
Bàn tay vô hình thực chất chính là sự hoạt động khách quan của các quy luật
kinh tế, chi phối hoạt động của các chủ thể kinh tế Ông chỉ ra các điều kiện cần thiết để cho
các quy luật hoạt động là:
1. Phải có sự tồn tại và phát triển sản xuất trao đổi hàng hóa
2. nền kinh tế phải phát triển trên cơ sở tự do kinh tế.

1.3. Nội dung chi tiết


1.3.1. Con người kinh tế
Xuất phát điểm trong phân tích ktế của A.Smith là nhân tố “con người kinh tế”- những chủ
thể tham gia vào hoạt động kinh tế Smith giả định rằng con người có hai tính cách: tính vị kỷ
và tính vị tha, nhưng trong mối quan hệ kinh tế, tính vị kỷ thường chiếm ưu thế. Mỗi người
chỉ biết, chỉ thấy và làm theo tư lợi.
→ Lợi ích cá nhân là động lực chi phối người ta hoạt động trao đổi
1.3.2. Bàn tay vô hình
Theo ông, nền kinh tế bình thường là nền kinh tế phát triển trên cơ sở tự do cạnh
tranh, tự do mậu dịch. Chính điều này là cơ sở quan trọng để Adam Smith đưa ra tư tưởng
“Bàn tay vô hình” nổi tiếng của mình, giữ vai trò chủ đạo và xuyên suốt trong những lý
thuyết về kinh tế của Adam Smith.
Adam Smith cho rằng "Bàn tay vô hình" có nghĩa là: “Trong nền kinh tế thị
trường, các cá nhân tham gia muốn tối đa hóa lợi nhuận cho mình. Ai cũng muốn thế cho nên
vô hình chung đã thúc đẩy sự phát triển và củng cố lợi ích cho cả cộng đồng”.
Theo Adam Smith, chỉ có chủ nghĩa tư bản mới là xã hội có đủ điều kiện trên, là
xã hội bình thường được xây dựng trên cơ sở quy luật tự nhiên.
1.3.3. Vai trò nhà nước
Theo Adam Smith, chính quyền mỗi quốc gia chỉ nên giữ vai trò tối thiểu, không
cần can thiệp vào cá nhân và doanh nghiệp, cứ để nó tự do hoạt động kinh doanh. Ông kết
luận rằng: “Sự giàu có của mỗi quốc gia đạt được không phải do những quy định chặt chẽ của
nhà nước, mà do bởi tự do kinh doanh”. Cần phải tôn trọng trật tự tự nhiên, tôn trọng bàn tay
vô hình, nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế, hoạt động kinh tế vốn có cuộc sống riêng
của nó.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần tập trung vào các chức năng cơ bản:
● Bảo vệ quyền sở hữu tư bản
● Duy trì hòa bình để phát triển kinh tế, làm tốt vai trò của người bảo hộ
● Có nhiệm vụ kinh tế khi nhiệm vụ này vượt quá sức của một doanh
nghiệp, đảm bảo việc cung ứng hàng hóa công cộng.
⇒ Tóm lại, nội dung chính của thuyết “bàn tay vô hình” là Nhà nước không nên
can thiệp vào kinh tế, thị trường sẽ tự động giải quyết tất cả. Nhưng tại sao thị trường lại có
thể giải quyết được? Đó là vì mỗi một con người luôn chạy theo lợi ích cá nhân của mình,
nhưng họ không biết rằng mình đã vô tình bảo vệ lợi ích xã hội và chính cái mong muốn theo
đuổi lợi ích cho mình nó như một động lực, như một bàn tay vô hình nào đó thúc đẩy cho sự
phát triển của xã hội. Đó chính là quan điểm của Adam Smith về lý thuyết bàn tay vô hình.

2. Ưu, nhược điểm của lý thuyết bàn tay vô hình.


2.1. Ưu điểm:
Mọi hoạt động của các cá nhân trong xã hội chỉ phục vụ lợi ích của chính các cá nhân
đó chứ không phải là cho cả cộng đồng.
Tuy nhiên, thông qua việc phân công lao động đã dẫn dắt con người trong khi làm
việc có lợi cho mình thì đồng thời cũng đã thực hiện sự đóng góp vào lợi ích cho tập thể.
- Hiệu quả: Khi các cá nhân theo đuổi lợi ích của chính mình, thị trường tự do sẽ tự
điều chỉnh để đạt được hiệu quả kinh tế.
- Tự do: Ủng hộ tự do cá nhân và tự do thị trường, hạn chế sự can thiệp của chính phủ
vào nền kinh tế.
- Cạnh tranh: Khuyến khích cạnh tranh, giúp cải thiện chất lượng sản phẩm và dịch vụ.
- Đổi mới: Khuyến khích đổi mới, giúp tăng trưởng kinh tế.
Ví dụ:
- Sự phát triển của ngành công nghệ cao: Ngành công nghệ cao phát triển mạnh mẽ do
sự cạnh tranh và đổi mới trong thị trường tự do.
- Sự đa dạng sản phẩm: Người tiêu dùng có nhiều lựa chọn sản phẩm và dịch vụ hơn do
sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp.
2.2. Nhược điểm:
Chống lại tư tưởng của chủ nghĩa trọng thương(sự can thiệp của nhà nước vào kinh
tế), đòi hỏi sự tự do kinh doanh và cạnh tranh. Điều này rất thích hợp với các nhà tư bản tại
thời điểm đó.
Học thuyết này đã dần bộc lộ sự lỗi thời.
Cuộc khủng hoảng kinh tế tại Mỹ và Tây Âu những năm 1929-1933 đã chỉ ra cơ chế
tự quản của thị trường tự do đã bị phản tác dụng và đã dẫn tới việc đầu cơ trục lợi, bong bóng
tài chính và khủng hoảng kinh tế xảy ra theo chu kỳ.
Cuộc đại khủng hoảng năm 2008 cũng đã khiến cho toàn bộ nền kinh tế trên thế giới
điêu đứng toàn bộ và để lại một khoản nợ khổng lồ.
- Bất bình đẳng: Có thể dẫn đến bất bình đẳng thu nhập và tài sản.
- Thất bại thị trường: Thị trường tự do có thể không hiệu quả trong một số trường hợp,
như độc quyền, tài nguyên chung và thất bại thông tin.
- Bên ngoài kinh tế: Không tính đến các yếu tố bên ngoài kinh tế, như môi trường và
đạo đức.
- Tính ổn định: Không đảm bảo tính ổn định kinh tế, có thể dẫn đến khủng hoảng kinh
tế.
Ví dụ
- Sự bất bình đẳng thu nhập: Khoảng cách thu nhập giữa người giàu và người nghèo
ngày càng tăng.
- Ô nhiễm môi trường: Các doanh nghiệp có thể gây ô nhiễm môi trường để tối đa hóa
lợi nhuận.

� Kết luận: Lý thuyết bàn tay vô hình là một lý thuyết kinh tế quan trọng, có cả ưu
điểm và nhược điểm. Việc áp dụng lý thuyết này cần được cân nhắc cẩn thận để đảm
bảo lợi ích cho tất cả mọi người.
3. Ý nghĩa lý luận, ý nghĩa thực tiễn

3.1. Ý nghĩa lý luận

Cũng như các nhà lí luận cổ điển khác, A.Smith ủng hộ mạnh mẽ tư tưởng tự do kinh tế, đề
cao tự do cạnh tranh. Điều đó hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh kinh tế xã hội thời kì đầu của
chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh. Trong tác phẩm “Sự giàu có của mỗi quốc gia” ông khẳng
định rằng chế độ xã hội bình thường hợp với “trật tự tự nhiên” là xã hội tư bản, nền kinh tế
bình thường là nền kinh tế phát triển trên cơ sở tự do cạnh tranh, xã hội bình thường là xã hội
xây dựng trên cơ sở quy luật tự nhiên, còn xã hội không bình thường là sản phẩm của độc
đoán, ngẫu nhiên và dốt nát của con người.

Dựa vào lí thuyết “Bàn tay vô hình”, với sự thúc đẩy lợi ích cá nhân và sự điều tiết của thị
trường cạnh tranh, A.Smith đã giải thích việc giá cả thị trường được cân bằng, không xa rời
chi phí sản xuất thực tế hàng hóa. Ông đã giải thích việc xã hội làm như thế nào để hướng
những người sản xuất hàng hóa phải cung cấp những hàng hóa mà xã hội cần, sự tương đồng
cơ bản trong thu nhập của dân chúng ở mỗi trình độ sản xuất của một quốc gia. Nghĩa là ông
đã tìm ra trong cơ chế thị trường một hệ thống tự điều tiết việc cung ứng cho xã hội một cách
có trật tự.

Tuy nhiên, thực tế sau này đã cho thấy những điểm chưa hợp lí của lý thuyết này. khi
vấp phải những cuộc khủng hoảng năm 2008 thì những nhà Kinh tế học khác lại kêu gọi đến
“bàn tay hữu hình” của Nhà nước để điều chỉnh nền kinh tế.

3.2. Ý nghĩa thực tiễn

- Lý thuyết “Bàn tay vô hình” là tiền đề cho sự phát triển nền kinh tế thị trường và tự do
thương mại quốc tế ngày nay. Học thuyết này cho thấy tầm quan trọng của quy luật khách
quan, đặc biệt là quy luật cung-cầu giá cả. Trong khi đó, hệ thống thị trường và cơ chế giá cả
vẫn hoạt động một cách tự phát vì lợi ích của tất cả mọi người như thể có một “bàn tay vô
hình” điều khiển toàn bộ quá trình xã hội, buộc cá nhân phải theo đuổi một mục đích không
nằm trong dự định. Với việc từng bước thực hiện những quá trình mang tính quy luật của
bước chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết
vĩ mô của Nhà nước, với tự do hóa giá cả và thương mại hóa nền kinh tế là khâu trung tâm
đột phá, Việt Nam đã tiến những bước dài trên con đường đổi mới.

- Tuy nước ta hiện nay đã chuyển sang vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự
quản lí của Nhà nước, phát triển theo định hướng XHCN nhưng còn nhiều yếu tố sơ khai.
Việc nghiên cứu lí thuyết “Bàn tay vô hình” của A.Smith có ý nghĩa cung cấp tri thức quan
trọng về vai trò của cơ chế thị trường trong điều tiết nền kinh tế. Trong cơ chế này, mọi việc
lựa chọn sản xuất và tiêu dùng của các chủ thể kinh tế đều được thực hiện dưới tác động của
các quy luật kinh tế khách quan, theo mệnh lệnh của thị trường. Do vậy, cần nhận thức đúng
vai trò của cơ chế thị trường và có giải pháp để phát huy vai trò đó trong vận hành nền kinh
tế. Cần có chính sách thích hợp để khuyến khích tự do hóa cạnh tranh.

- Tuy nhiên, A.Smith đã đề cao quá vai trò của tự điều tiết các quy luật kinh tế khách quan.
Ông đã tuyệt đối hóa vai trò của cơ chế kinh tế thị trường, gần như phủ nhận vai trò của Nhà
nước. Đối với những thất bại của thị trường thì không thể giải quyết được. Ví dụ: độc quyền,
cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp,... Do đó, cần có
cái nhìn khách quan khoa học về cơ chế thị trường. Không nên coi thị trường là sự hoàn hảo
trong điều tiết nền kinh tế. Sự điều tiết của Nhà nước đối với nền kinh tế là cần thiết để ngăn
ngừa, khắc phục những thất bại của thị trường, để thị trường hoạt động có hiệu quả.

- Để khắc phục những hạn chế của lí thuyết “bàn tay vô hình”, nền kinh tế hiện đại cần
được điều hành bởi sự kết hợp linh hoạt giữa “bàn tay vô hình” – cơ chế tự điều tiết của thị
trường và “bàn tay hữu hình” – sự quản lí của Nhà nước thông qua luật pháp, thuế và các
chính sách kinh tế để thúc đẩy sự phát triển về kinh tế xã hội của đất nước.

4. Vận dụng lý thuyết bàn tay vô hình vào kinh tế VN


4.1. Đánh giá chung nền kinh tế VN
a. Giai đoạn 76-86: Năm 1976, Việt Nam thống nhất đổi tên thành nước Cộng hòa Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 1980 ra Hiến pháp thể chế hóa đường lối của Đảng
cộng sản Việt Nam được quyết định tại Đại hội Đại biểu toàn quốc năm 1976.
- Thời kỳ này được nhắc đến với danh từ "bao cấp". Nền kinh tế hoạt động theo cơ chế
tập trung kế hoạch hóa. Nhà nước lên kế hoạch cho mọi hoạt động kinh tế,các xí
nghiệp nhà máy cứ tuân thủ theo kế hoạch nhà nước mà làm. Thành phần kinh tế tư
nhân bị cấm. Nông dân làm việc trong các hợp tác xã.
b. Giai đoạn 86-2006:
- Trong giai đoạn này, nền KTVN chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
sang nền kinh tế thị trường. Các hình thức ngăn sông cấm chợ, chia cắt thị trường
được xóa bỏ dần, kế hoạch kinh tế của nhà nước được thực hiện trên cơ sở hạch toán.
- Đặc biệt, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể được thừa nhận và
bắt đầu được tạo điều kiện hoạt động. Nền kinh tế dần dần được thị trường hóa.
Song Đảng chủ trương và thực hiện kinh tế quốc doanh là chủ đạo, chi phối các thành
phần kinh tế khác.

→ Cơ chế quản lý bằng mệnh lệnh hành chính dần dần giảm đi

c. Giai đoạn 2006-nay


- Trong giai đoạn này, nền kinh tế Việt Nam đã có sự thay đổi rõ rệt, đánh dấu bởi
sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO năm 2007. Gia nhập
WTO tức là Việt Nam phải thực hiện một loạt các cam kết của tổ chức này. Đó là quy
định mở cửa thị trường, tăng cường và đảm bảo sự phát triển theo cơ chế thị trường,
hạn chế dần sự can thiệp của nhà nước và đẩy mạnh tự do hóa, tự do kinh tế.
- Nền KTVN hiện nay đứng thứ 4 về GDP trong các nước Đông Nam Á với 430 tỷ
USD (sau Indo, Thái, Phi) năm 2023
- Theo Tổng cục thống kê, GDP đầu người của VN 2023 đạt hơn 98 triệu đồng/người,
tương đương 4280 USD.

Nhìn chung, theo các tổ chức quốc tế, triển vọng tăng trưởng của Việt Nam trong năm
2024 cũng như trong trung hạn được đánh giá tích cực nhờ sự phục hồi của tiêu
dùng nội địa, xuất nhập khẩu hàng hóa và việc đẩy mạnh đầu tư công, gia tăng
nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Dù vậy, rủi ro với tăng trưởng vẫn tiềm ẩn. Cụ thể,
trong nước, các vấn đề có tính hệ thống trong giải ngân vốn đầu tư công và những yếu
kém mang tính cơ cấu của nền kinh tế là nguy cơ chính dẫn tới suy giảm tăng trưởng

4.2. Vận dụng lý thuyết


- Lý thuyết về "bàn tay vô hình" đóng một vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế. Nó
giúp điều tiết và cân đối các hoạt động kinh tế một cách tự nhiên và khách quan hơn.
"Bàn tay vô hình" giúp phân bổ các nguồn lực trong xh một cách hiệu quả, từ đó thúc
đẩy sự cạnh tranh và đổi mới trong các lĩnh vực kinh doanh. Điều này tạo điều kiện
cho việc sáng tạo và tăng trưởng kinh tế, đồng thời đảm bảo sự bền vững và cân bằng
trong quá trình phát triển. Ở Việt Nam, việc vận dụng lý thuyết này đến nền kinh tế có
thể mang lại nhiều lợi ích và đóng góp vào sự phát triển của đất nước.

a. Vai trò của "bàn tay vô hình" trong nền kinh tế Việt Nam
● "Bàn tay vô hình" trong kinh tế thị trường có vai trò quan trọng trong việc điều tiết
các quy luật khách quan như quy luật giá trị, quy luật cung - cầu,… tạo ra sự cạnh
tranh giữa các chủ thể trên thị trường , tức là không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan
của cá nhân con người
● "Bàn tay vô hình" có tác dụng về nhiều mặt: thu hút các nguồn lực từ các thành phần
kinh tế trong xã hội và phân bố nguồn lực vào các ngành, lĩnh vực, địa bàn có tiềm
năng phát triển, có thể sinh lời
● Sự cạnh tranh trên thị trường do "bàn tay vô hình" tạo ra thúc đẩy các chủ thể áp dụng
khoa học - kỹ thuật, tiết giảm chi phí và tăng năng suất lao động, từ đó tăng trưởng
kinh tế và đạt hiệu quả cao nhất

b. Vận dụng lý thuyết bàn tay vô hình đến nền kinh tế Việt Nam
- Tuy nhiên, để thực hiện được lý thuyết này trong thực tế, chúng ta cần kết hợp chặt chẽ với
"bàn tay hữu hình" - tức là vai trò quản lý của Nhà nước.

- Sức mạnh của “bàn tay hữu hình” là sự hậu thuẫn của hệ thống nhà nước từ trung ương đến
địa phương, từ lập pháp, hành pháp, đến tư pháp, đến nguồn lực của quốc gia.

“Bàn tay hữu hình” - bàn tay quản lý nhà nước - được thông qua các hoạt động chủ yếu: thiết
lập hành lang pháp lý cho các hoạt động trên thị trường của các tổ chức, cá nhân; hình thành
các công trình trọng điểm quốc gia, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô; giám
sát, kiểm tra, xử lý các vi phạm pháp luật của các chủ thể trên thị trường, để đảm bảo sự cạnh
tranh lành mạnh...

- Trong điều kiện bất ổn từ bên ngoài, giá cả thế giới leo thang, cộng hưởng với thiên tai, dịch
bệnh và một số yếu kém trong nước thì việc kết hợp chặt chẽ giữa “bàn tay hữu hình” và
“bàn tay vô hình” lại càng cần thiết.

- Sự kết hợp này trong thời gian qua, cũng như hiện nay ở nước ta đã được thực hiện thông
qua nhiều việc: Tiếp tục thực hiện lộ trình giá thị trường đối với một số mặt hàng như điện,
xăng dầu, một số dịch vụ quan trọng như học phí,… Không thả nổi tỷ giá mà Ngân hàng Nhà
nước điều hành thông qua tỷ giá liên ngân hàng, cùng với tăng, giảm biên độ giao dịch được
phép; yêu cầu các tập đoàn, Tổng công ty lớn của Nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng. Yêu
cầu các ngân hàng thương mại mua trái phiếu bắt buộc của Ngân hàng Nhà nước; tăng/giảm
tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng/giảm lãi suất cơ bản, cấp phép xuất/nhập khẩu vàng, dừng sàn
vàng, cho vay cấp bù lãi suất,…

2. ĐỀ TÀI: TRÌNH BÀY CÁC ƯU, KHUYẾT ĐIỂM CỦA NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG

1. Định nghĩa nền kinh tế thị trường


Kinh tế thị trường là một hệ thống kinh tế trong đó việc sản xuất, phân phối và tiêu thụ
hàng hóa, dịch vụ được điều chỉnh chủ yếu bởi sự tương tác giữa các nhà sản xuất và người
tiêu dùng trên thị trường.
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường, thông qua
quá trình trao đổi mua bán. Quan hệ hàng hóa - tiền tệ phát triển đến một trình độ nhất định
sẽ đạt đến kinh tế thị trường.
Đó là nền kinh tế hàng hoá phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản xuất và trao đổi đều
được thông qua thị trường, chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật thị trường.
Sự hình thành kinh tế thị trường là khách quan trong lịch sử: từ kinh tế tự nhiên, tự
túc, kinh tế hàng hoá rồi từ kinh tế hàng hoá phát triển thành kinh tế thị trường. Kinh tế thị
trường là sản phẩm của văn minh nhân loại.1

1 Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin, Bộ Giáo dục và đào tạo, Hà Nội-2019, truy cập vào ngày 23 tháng 3
năm 2024, từ
Quan niệm của P.Samuelson về nền kinh tế thị trường: Nền kinh tế thị trường là nền
kinh tế trong đó các cá nhân và các hãng tư nhân đưa ra các quyết định chủ yếu sản xuất và
tiêu dùng. Các hãng sản xuất hàng tiêu dùng thu được lợi nhuận cao nhất bằng các kỹ thuật
sản xuất có chi phí thấp nhất.2
2. Đặc trưng phổ biến của nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường đã phát triển qua nhiều giai đoạn với nhiều mô hình khác nhau, các nền
kinh tế thị trường có những đặc trưng chung bao gồm:
Thứ nhất, có sự đa dạng và độc lập của các chủ thể kinh tế, nhiều hình thức sở hữu.
Các chủ thể kinh tế bình đẳng trước pháp luật.
Nền kinh tế thị trường đòi hỏi sự tồn tại của các chủ thể kinh tế độc lập dưới nhiều hình thức
sở hữu khác nhau. Các chủ thể này hoàn toàn động lập, tự chủ trong việc quyết định: sản xuất
cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai?
Về bản chất, nền kinh tế thị trường có cấu trúc đa sở hữu. Bên cạnh sở hữu tư nhân,
còn có các dạng sở hữu khác là sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và dạng đồng sở hữu của các
chủ thể khác, ví dụ sở hữu công ty cổ phần, doanh nghiệp tư bản nhà nước, v.v.
Thứ hai, hệ thống đồng bộ các thị trường và thể chế tương ứng
Thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực xã hội thông qua hoạt
động của các thị trường bộ phận như thị trường hàng hoá, thị trường dịch vụ, thị trường sức
lao động, thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ,...
Thứ ba, hệ thống giá cả được xác lập thông qua tương quan cung-cầu quyết định sự
vận hành của nền kinh tế thị trường
Giá cả được hình thành theo nguyên tắc thị trường; nhà nước là chủ thể thực hiện chức năng
quản lý, chức năng kinh tế; thực hiện khắc phục những khuyết tật của thị trường, thúc đẩy
những yếu tố tích cực, đảm bảo sự bình đẳng xã hội và sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế;
Thứ tư, cơ chế căn bản vận hành của nền kinh tế thị trường là cạnh tranh tự do
Là nền kinh tế mở, thị trường trong nước quan hệ mật thiết với thị trường quốc tế.
Các đặc trưng trên mang tính phổ biến của mọi nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, tuỳ theo
chế độ chính trị xã hội của mỗi quốc gia, ngoài những đặc trưng chung, mỗi nền kinh tế thị
trường quốc gia có thể có đặc trưng riêng, tạo nên tính đặc thù và các mô hình kinh tế thị
trường khác nhau.
Thứ năm, vai trò điều tiết kinh tế của nhà nước

https://moet.gov.vn/content/vanban/Lists/VBDH/Attachments/2729/GT%20h%E1%BB%8Dc%20ph%E1%BA
%A7n%20Kinh%20t%E1%BA%BF%20ch%C3%ADnh%20tr%E1%BB%8B%20MNL(K)%20Tr
%20%C4%91%E1%BA%A7u-%20Tr100.pdf
2 P.Samuelson, Kinh tế học, tập 1, bản dịch tiếng Việt, Nxb Chính trị quốc gia, H, 1997, tr.35.
Thị trường có những khuyết tật và cơ chế thị trường có thể bị thất bại trong việc giải quyết
một số vấn đề phát triển, ví dụ như khủng hoảng, đói nghèo, công bằng xã hội, môi trường,
v.v. Để khắc phục chúng và tránh khỏi thất bại thị trường, nhà nước phải tham gia quản lý,
điều tiết sự vận hành nền kinh tế. Nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế thị trường vừa
với tư cách là bộ máy quản lý xã hội, vừa là một yếu tố nội tại của cơ chế vận hành kinh tế3

3. Ưu điểm của nền kinh tế thị trường


3.1. Nền kinh tế thị trường luôn tạo ra động lực cho sự sáng tạo các chủ thể kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể luôn có cơ hội để tìm ra động lực cho sự
sáng tạo của mình. Thông qua vai trò của thị trường mà nền kinh tế thị trường trở thành
phương thức hữu hiệu kích thích sự sáng tạo trong hoạt động của các chủ thể kinh tế, tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ, qua đó, thúc đẩy năng suất lao động, tăng hiệu quả
sản xuất, làm cho nền kinh tế hoạt động năng động, hiệu quả. Nền kinh tế thị trường chấp
nhận những ý tưởng sáng tạo mới trong thực hiện sản xuất kinh doanh và quản lý.
Nền kinh tế thị trường bị ảnh hưởng bởi quy luật cung - cầu cùng với sự cạnh tranh
khốc liệt sẽ buộc các chủ thể kinh tế không ngừng sáng tạo, ứng dụng khoa học kĩ thuật vào
sản xuất để nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản xuất. Giống như các dòng điện
thoại mới từ Apple, Samsung không ngừng xuất hiện các tính năng mới để thu hút người tiêu
dùng. Ưu điểm này của nền KTTT cũng giúp tạo nên một thị trường ngày càng năng động và
hiệu quả.
Ví dụ cho thấy ở Việt Nam hiện nay, có nhiều doanh nghiệp tư nhân/ thương hiệu cá
nhân được đánh giá là có tiềm năng và thành công như CHAUTFIFTH - thương hiệu thời
trang Việt Nam thành lập bởi nhà thiết kế trẻ Châu Phan chuyên các sản phẩm túi xách và
móc khoá. Trong chương trình Shark Tank, Chautfifth với những thiết kế độc đáo, sáng tạo,
theo kịp xu thế thị trường đã thành công thu hút đầu tư từ các Shark.
Không chỉ vậy, nhắc đến sự đổi mới theo hướng năng động cũng có thể nhắc tới sự
kiện Vinamilk đổi logo và bao bì sản phẩm năm 2023 với mục đích tái định vị thương hiệu
của công ty. Bao bì mới của Vinamilk được đánh giá là sự đổi mới thú vị, sáng tạo và độc
đáo, giúp thu hút khách hàng trẻ và tăng cường độ nhận diện thương hiệu cũng như khả năng

3 Đảng bộ tỉnh Nghệ An, Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế của Việt
Nam (Tài liệu bồi dưỡng thi nâng ngạch lên chuyên viên chính khối Đảng, Đoàn thể năm 2019), truy cập vào
ngày 23 tháng 3 năm 2024, từ https://nghean.dcs.vn/admin/caches/editor/b7e/b7e116f3-701b-45a8-a3b8-
dcb8e640cd93.doc
cạnh tranh trên thị trường. So với bao bì cũ có phần an toàn và truyền thống thì giờ đây
Vinamilk khoác lên một tấm áo đầy màu sắc và năng động.

3.2. Nền kinh tế thị trường luôn phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi chủ thể quốc gia
Trong nền kinh tế thị trường, mọi tiềm năng, lợi thế đều có thể được phát huy, đều có
thể trở thành lợi ích đóng góp cho xã hội. Tiềm năng, lợi thế này từng thành viên, từng vùng
miền trong quốc gia, của từng quốc gia trong quan hệ kinh tế với phần còn lại của thế giới.
Ví dụ cho thấy tại các địa phương như Hải Dương, Bắc Giang có lợi thế tự nhiên về
trồng vải thiều sẽ xây dựng các hợp tác xã, các trang trại trồng vải thiều đem lại hiệu quả tốt
hơn các vùng khác. Du lịch biển được phát triển ở Nha Trang, Đà Nẵng… nhiều hơn các địa
phương khác. Hay ở Việt Nam có nguồn lực dồi dào về nguồn lao động giá rẻ sẽ có lợi thế
cung ứng lao động trong lv may mặc, công nghiệp, vậy nên nhiều nhà máy được xây dựng ở
thị trường Việt Nam. Tháng 9 năm 2023, Apple đã chuyển 11 nhà máy sản xuất thiết bị âm
thanh và hình ảnh tới VN4; hay nhà máy Lego tại Bình Dương dự kiến sẽ xuất xưởng những
sản phẩm đầu tiên vào nửa cuối 20245.
3.3. Nền kinh tế thị trường luôn tạo ra các phương thức để thoả mãn tối đa nhu cầu của con
người, từ đó thúc đẩy sự tiến bộ, văn minh của xã hội
Trong nền kinh tế thị trường, các thành viên của xã hội luôn có thể tìm thấy cơ hội tối đa
để thỏa mãn nhu cầu của mình. Nền kinh tế thị trường với sự tác động của các quy luật thị
trường luôn tạo ra sự phù hợp giữa khối lượng, cơ cấu sản xuất với khối lượng, cơ cấu nhu
cầu tiêu dùng của xã hội. Nhờ đó, nhu cầu tiêu dùng về các loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau
được đáp ứng kịp thời; người tiêu dùng được thỏa mãn nhu cầu cũng như đáp ứng đầy đủ mọi
chủng loại hàng hóa, dịch vụ. Thông qua đó, nền kinh tế thị trường trở thành phương thức để
thúc đẩy văn minh, tiến bộ xã hội
Trước đây, nền kinh tế tập trung trong thời kỳ bao cấp của Việt Nam đã tạo ra sự thiếu
thốn về mặt vật chất. Nhân dân phải xếp hàng, lấy tem phiếu để có thể có thịt, gạo ăn. Sau
thời kỳ đổi mới, chuyển sang nền kinh tế thị trường, tình trạng này hầu như không còn.
Người dân chuyển từ nhu cầu “Ăn no, mặc ấm” sang “Ăn ngon, mặc đẹp”.
Chẳng hạn như: sự lên ngôi của các nền tảng phát video kéo theo sự thay đổi trong cách tiếp
cận của các nhãn hàng tới người tiêu dùng, Livestream ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu đó.
Khách hàng, trong thời điểm mà nền kinh tế đang trùng xuống như hiện nay, thường ưa

5
chuộng việc mua sắm qua Livestream để có thể tận dụng được các chương trình khuyến mãi,
các voucher độc quyền trong phiên Livestream nhằm tối ưu hóa về mặt kinh tế. 6 Các mặt
hàng được kinh doanh trên các phiên Livestream cũng rất đa dạng, đảm bảo đáp ứng đủ tất cả
tệp khách hàng. Ví dụ như phiên Livestream của Tiktoker Lê Anh Nuôi về những sản phẩm
liên quan tới quân đội.
4. Nhược điểm của nền Kinh tế thị trường
4.1. Xét trên phạm vi toàn xã hội, kinh tế thị trường tiềm ẩn nhiều rủi ro khủng hoảng
Sự vận động của cơ chế thị trường không phải lúc nào cũng tạo ra được những cân đối
(về giá cả và sản lượng hàng hóa), do đó, luôn tiềm ẩn những nguy cơ khủng hoảng (chiến
tranh, thiên tai, dịch bệnh). Khủng hoảng cũng có thể diễn ra trên cục bộ hoặc tổng thể.
Khủng hoảng có thể xảy ra với mọi loại hình thị trường. Sự khó khăn với các nền kinh tế thị
trường thể hiện ở chỗ, các quốc gia rất khó dự đoán chính xác thời gian xảy ra khủng hoảng.
Ví dụ như trong đại dịch Covid-19 ngành hàng không lâm vào thua lỗ và bị thiệt hại
hàng nghìn tỷ đồng.
4.2. Kinh tế thị trường không thể khắc phục được hiện tượng phân hóa sâu sắc trong xã
hội
Trong nền kinh tế thị trường hiện tượng phân hóa xã hội về thu nhập, cơ hội là rất lớn.
Các quy luật thị trường luôn phân bổ lợi ích theo mức độ và loại hình hoạt động tham gia thị
trường, cộng với tác động của cạnh tranh mà dẫn đến sự phân hóa như một lẽ tất yếu. Tuy
nhiên nếu sự cạnh tranh này quá căng thẳng thì sẽ dẫn đến việc đấu tranh giai cấp vì vậy mà
các chính phủ cần có những chính sách điều hòa mâu thuẫn về giai cấp, thu nhập trong nền
kinh tế (Thuế thu nhập cá nhân, Thuế an sinh xã hội, chính sách bảo hiểm xã hội,...)
Sự phân hóa giàu nghèo tại quốc gia Hàn Quốc đã biểu hiện rất rõ. Tính đến năm 2022,
10% hộ gia đình giàu nhất ở Hàn Quốc sở hữu khoảng 43% tổng tài sản ròng của hộ gia đình,
trong khi hộ gia đình thuộc tài sản thấp nhất sở hữu âm 0.2%, những con số này đã cho thấy
khoảng cách chênh lệch lớn, là một trong những nguyên nhân tiềm ẩn dẫn tới sự mất cân
bằng trong xã hội.
4.3. Kinh tế thị trường tạo ra việc cạnh tranh không lành mạnh, gây vi phạm đến quy
luật giá trị
Việc các doanh nghiệp thường xuyên phải thay đổi, sáng tạo để tiếp cận tới người tiêu dùng,
lại vô tình sinh ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, doanh nghiệp có thể đánh lừa

6 Cốc Cốc, “Những chuyển biến đáng chú ý trong thói quen tiêu dùng của người Việt”, Advertising Vietnam,
truy cập vào ngày 24/03/2024,
từ https://advertisingvietnam.com/nhung-chuyen-bien-dang-chu-y-trong-thoi-quen-tieu-dung-cua-nguoi-viet-
p23882
người tiêu dùng bằng việc quảng cáo sai sự thật, ăn cắp chất xám, tung tin đồn thất thiệt cho
sản phẩm của các hãng đang cùng cạnh tranh, gây cản trở cạnh tranh, hay sản xuất những sản
phẩm vô giá trị/có giá trị thấp hơn giá trị xã hội cần thiết, từ đó gây thiệt hại cho cả thị
trường, người tiêu dùng và doanh nghiệp.
4.4. Kinh tế thị trường không thể tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài nguyên không thể
tái tạo, khiến suy thoái môi trường tự nhiên, môi trường xã hội
Do các chủ thể sản xuất trong nền kinh tế thị trường luôn đặt mục đích tối đa lợi nhuận
nên luôn tạo ảnh hưởng tiềm ẩn đối với nguồn lực tài nguyên, suy thoái môi trường. Cũng vì
động cơ lợi nhuận, các chủ thể sản xuất kinh doanh có thể vi phạm cả nguyên tắc đạo đức để
chạy theo mục tiêu làm giàu thậm chí phi pháp, góp phần gây ra sự xói mòn đạo đức kinh
doanh, thậm chí là đạo đức xã hội.
Case study Samsung: (kết hợp với Trung tâm Nghiên cứu CGFED và Newstapa)
7
Một số thông tin chính về Samsung Việt Nam trong bản báo cáo:
Samsung đã sử dụng rộng rãi các hóa chất độc hại và vi phạm môi trường của nhà
máy tại Việt Nam, cũng như gia công các quy trình sử dụng nhiều hóa chất độc hại cho các
nhà thầu phụ mà không hề cung cấp đủ hoặc thiếu thiết bị bảo vệ cá nhân hoàn chỉnh cho các
công nhân làm việc tại nhà máy. 37 công nhân bị ngộ độc methanol tại một nhà cung cấp của
Samsung tại Việt Nam, khiến một công nhân thiệt mạng và ba công nhân ở độ tuổi vị thành
niên mất thị lực.
Các thảm họa cháy nổ đã xảy ra tại các nhà cung cấp của Samsung do Samsung hoàn
toàn phớt lờ các quy định cơ bản về an toàn cháy nổ. Vào năm 2017, 78% nhà cung cấp của
Samsung tại Việt Nam vi phạm yêu cầu an toàn cháy nổ.
Samsung không giải quyết các lỗi thiết kế của thiết bị kiểm soát ô nhiễm và cố gắng
xử lý chất thải hóa học vào không khí và nước, và bỏ qua các đề xuất giải quyết các biện
pháp an toàn do lo ngại về chi phí vận hành.
Các chất hóa học độc hại được sử dụng một cách công khai mà không có biện pháp
ngăn chặn thích hợp, 48% sản phẩm hóa chất được sử dụng có ít nhất một thành phần gây
ung thư, gây đột biến hoặc gây độc cho sức khỏe con người.
Công ty đã Cố tình che đậy các rủi ro, thương tích và tài sản tại các nhà máy trên toàn
cầu của mình để hoàn thành KPI.

7 Ipen, “Samsung Whistleblower Reveals Toxic Chemical Use and Violations at Samsung Vietnam”, ngày 19
tháng 3 năm 2023: https://ipen.org/news/samsung-whistleblower-reveals-toxic-chemical-use-and-violations-
samsung-vietnam?fbclid=IwAR0R3IAW-L4QX3duFuFQwgB2XPJz76rwydjQqFhqwTq9G-
KYLyGYRQVxHBk_aem_ARVJc1uJzNeHgQgChNqaJaf9xoAS_UnULl4DaC0JyKIAmHV2KXEACXAUOA
5M-APBUdLvI-7mWKMdANANce_vm4q9
Tuy nhiên, đứng trước những cáo buộc trên, động thái của Samsung được tiết lộ là đe
dọa sa thải nhân viên của họ, ngăn chặn việc công bố báo cáo và sau đó tiến hành một chiến
dịch tấn công báo chí Việt Nam. Việc Samsung Electronics chuyển đến Việt Nam không chỉ
để giảm lương mà còn để giảm chi phí vận hành các điều lệ an toàn môi trường và sức khỏe.
Độc tính của ngành điện tử vốn được chuyển từ Mỹ sang Hàn Quốc nay đã được gia công
sang Đông Nam Á dưới hình thức nguy hiểm hơn.

5. Biện pháp khắc phục nhược điểm của nền kinh tế thị trường

5.1. Biện pháp khắc phục nhược điểm của nền kinh tế thị trường

Để hoàn thiện hơn mô hình nền kinh tế thị trường, việc giải quyết những hạn chế và
duy trì được ưu thế cốt lõi của loại hình kinh tế này là điều tất yếu.

- Tăng cường quản lý và điều tiết, áp dụng các quy định và chính sách pháp lý nhằm
can thiệp để giảm bớt sự không công bằng trong môi trường kinh doanh, thúc đẩy
cạnh tranh lành mạnh.
- Thiết lập, phát triển các chính sách xã hội, phúc lợi xã hội và an sinh xã hội nhằm
từng bước thực hiện hóa xóa đói giảm nghèo, giảm bất bình đẳng và cung cấp mạng
lưới an toàn cho những người bị ảnh hưởng tiêu cực bởi suy thoái kinh tế.
- Thực hiện đánh thuế lũy tiến nhằm phân phối lại của cải và giảm bất bình đẳng về thu
nhập.
- Đầu tư giáo dục và đào tạo nhằm trang bị cho mỗi cá nhân những kỹ năng cần thiết,
giúp tạo ra một lực lượng lao động có trình độ cao hơn, để phát triển trong nền kinh tế
thị trường năng động, tăng năng suất và cải thiện khả năng phục hồi tổng thể của nền
kinh tế.
- Khuyến khích khởi nghiệp và đổi mới, thúc đẩy sự sáng tạo và đổi mới trong kinh
doanh, tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp và doanh nhân nhỏ hơn.
- Tăng cường hợp tác quốc tế và các hiệp định thương mại nhằm thúc đẩy các hoạt
động thương mại công bằng và bền vững, mở rộng cơ hội thị trường, tạo điều kiện
chuyển giao công nghệ và giải quyết các thách thức toàn cầu.
- Thúc đẩy sự hợp tác giữa khu vực công và tư nhân nhằm giải quyết các thách thức xã
hội và thúc đẩy phát triển kinh tế.
- Từng bước cải thiện luật bảo vệ môi trường, khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo.
Thúc đẩy các hoạt động bền vững có thể giảm thiểu suy thoái môi trường và đảm bảo
khả năng tồn tại lâu dài của nền kinh tế.

Tác động tiêu cực từ mặt trái của KTTT đến nay chưa có giải pháp khắc phục hữu
hiệu triệt để, việc khắc phục nhược điểm của nền kinh tế thị trường đòi hỏi sự kết hợp giữa
các biện pháp chính sách công và sự hợp tác từ cả phía chính phủ, doanh nghiệp, và cộng
đồng.
5.2. Liên hệ Việt Nam

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản. Tại Việt Nam, chính phủ đã và đang tích cực đưa ra những biện
pháp nhằm củng cố nền kinh tế thị trường nước nhà.

Ví dụ 3 biện pháp: Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, đào tạo cán bộ, và cuối
cùng là bảo vệ môi trường.

1. Giữ vững nền kinh tế chính trị định hướng xã hội chủ nghĩa
Để thành công với mô hình kinh tế này, việc ổn định chính trị là vô cùng quan trọng.
Đồng thời, chính phủ cũng khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo,
hoàn thiện hệ thống pháp luật và đẩy mạnh an sinh xã hội để thực hiện mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

2. Đào tạo cán bộ


Để phòng chống tình trạng quan liêu, nhận hối lộ, bước đầu tiên chính là đẩy mạnh
công tác giáo dục tư tưởng, chính trị của cán bộ, đảng viên về kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Ví dụ: Thường xuyên tổ chức tự phê bình và phê bình để
đội ngũ cán bộ, đảng viên phát triển nhân cách…

Bên cạnh đó, chính phủ cũng thường xuyên nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế,
chính sách, pháp luật phù hợp với mô hình kinh tế hiện nay.

3. Bảo vệ môi trường


Nhà nước cũng chú trọng đến việc sắp xếp, phân vùng quản lý chất lượng môi trường,
bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, quản lý chất thải và đưa ra các cảnh báo môi trường.
Một số các quy định và luật về môi trường đã được ban hành, ví dụ như:
- Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
- Thu phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản
- Nghiêm cấm xả nước thải, xả khí thải chưa được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi
trường ra môi trường (...)

Vậy, chính phủ Việt Nam đã có những động thái, những hành động thực tiễn nhằm
hướng đến tối ưu hóa nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.

3. CÁC QUY LUẬT KINH TẾ CHỦ YẾU CỦA NỀN KINH TẾ


THỊ TRƯỜNG

I. Quy luật giá trị


1. Khái niệm
Quy luật giá trị là luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá, ở đâu có sản xuất và trao đổi
hàng hoá thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị.
Quy luật giá trị là quy luật chi phối cơ chế thị trường và chi phối các quy luật kinh tế khác,
các quy luật kinh tế khác là biểu hiện yêu cầu của quy luật giá trị.
Đối với việc sản xuất một thứ hàng hóa riêng biệt thì yêu cầu của quy luật giá trị được biểu
hiện ở chỗ: hàng hoá của người sản xuất muốn bán được trên thị trường, muốn được xã hội
thừa nhận thì lượng giá trị của một hàng hoá cá biệt phải phù hợp với thời gian lao động xã
hội cần thiết.
Đối với một loại hàng hoá thì quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải
được tiến hành trên cơ sở của việc hao phí lao động xã hội cần thiết: Trong sản xuất nó đòi
hỏi người sản xuất luôn luôn có ý thức tìm cách hạ thấp hao phí lao động cá biệt xuống nhỏ
hơn hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết.
Trong lĩnh vực sản xuất yêu cầu quy luật giá trị thể hiện là tổng giá trị của hàng hóa phải phù
hợp với nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội.
Trong lĩnh vực trao đổi và lưu thông hàng hóa: Việc trao đổi phải tiến hành theo nguyên tắc
ngang giá (nghĩa là hai hàng hóa trao đổi với nhau phải cùng kết tinh một lượng lao động xã
hội như nhau).
Quy luật giá trị biểu hiện sự hoạt động của mình thông qua sự vận động của giá cả xung
quanh giá trị. Giá cả phụ thuộc vào giá trị, giá trị là cơ sở của giá cả, những hàng hoá có hao
phí lao động lớn thì giá trị của nó lớn dẫn đến giá cả cao và ngược lại. Đối với mỗi hàng hoá
thì giá cả hàng hoá có thể bằng hoặc nhỏ hơn hoặc lớn hơn giá trị nhưng đối với toàn bộ hàng
hóa của xã hội thì chúng ta luôn luôn có tổng giá cả hàng hóa bằng tổng giá trị.
2. Tác dụng
Quy luật giá trị tự phát điều tiết việc sản xuất và lưu thông hàng hóa thông qua sự biến động
của cung - cầu thể hiện qua giá cả trên thị trường.

Điều tiết sản xuất: khi giá cả thị trường biến động, người sản xuất biết được tình hình cung
cầu của từng loại hàng hóa để biết được loại hàng hóa nào đang có lợi nhuận cao, hàng hóa
nào đang thua lỗ. Điều này sẽ dẫn đến 3 trường hợp:
Giá cả bằng giá trị: hàng hóa có giá cả bằng với giá trị thì sản xuất của họ sẽ tiếp tục vì phù
hợp với nhu cầu của xã hội.
Giá cả lớn hơn giá trị: gây ra tình trạng khan hiếm hàng hóa, khi đó người sản xuất sẽ có
nhiều lợi nhuận nên mở rộng quy mô sản xuất, cung ứng thêm hàng hóa ra thị trường.
Một ví dụ về tình huống cung nhỏ hơn cầu là tình huống thiếu hụt năng lượng điện trong một
khu vực. Giả sử có một vụ cháy nghiêm trọng xảy ra tại một nhà máy điện và dẫn đến việc
giảm đáng kể sản lượng điện
Giá cả nhỏ hơn giá trị: gây ra tình trạng dư thừa hàng hóa, hàng hóa sẽ bị tồn đọng, người
sản xuất buộc phải giảm giá. Điều này dẫn đến việc họ phải sản xuất ít lợi nhuận hoặc không
có lợi nhuận vì họ thu hẹp sản xuất, hoặc chuyển đổi mô hình sản xuất, quy mô ngành này
thu hẹp.
Ví dụ: Vào năm 2022, việt nam đang phải đối mặt với tình hình covid vô cùng phức tạp,
chính vì thế lĩnh vực như du lịch,khách sạn vị ảnh hưởng nặng nề điều này khiến cho các chủ
đầu tư, hay các doanh nghiệp buộc phải hạ giá thành sản phẩm hoặc đóng cửa để chuyển đổi
sang mô hình kinh doanh khác để đảm bảo hiệu quả hơn tiêu biểu như Vinpearl, Buffet Huế,
Jetstar Pacific Airlines, hay thậm chí là Zalopay…
Điều tiết lưu thông: Khi giá thị trường biến động, quy luật giá trị thể hiện ở chỗ nó thu hút
hàng hóa từ nơi có giá cả thấp hơn đến nơi có giá cả cao hơn, và do đó, góp phần làm cho
hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.
Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao năng suất lao động: Các hàng hóa
được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, do đó, có mức hao phí lao động cá biệt
khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng hóa đều phải được trao đổi theo mức hao phí
lao động xã hội cần thiết. Vậy người sản xuất hàng hóa nào mà có mức hao phí lao động thấp
hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, thì sẽ thu được nhiều lãi và càng thấp hơn càng lãi
thông qua các biện pháp như cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, cải tiến tổ chức quản lý,
thực hiện tiết kiệm,... nhằm tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản xuất.
Phân hóa giàu nghèo: Những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt
thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa theo mức hao phí lao động
xã hội cần thiết (theo giá trị) sẽ thu được nhiều lãi, giàu lên, có thể mua sắm thêm tư liệu sản
xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh, thậm chí thuê lao động trở thành ông chủ. Ngược lại,
những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt lớn hơn mức hao phí lao
động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ, nghèo đi, thậm chí có
thể phá sản, trở thành lao động làm thuê.
Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Do đó, đồng thời
với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, nhà nước cần có những biện pháp để phát huy
mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặc biệt trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

II. Quy luật cung cầu


1. Khái niệm
Cung phản ánh khối lượng sản phẩm hàng hóa được sản xuất và đưa ra thị trường (để bán).
Cung do sản xuất quyết định, nhưng không phải lúc nào nó cũng đồng nhất với khối lượng
sản xuất.
Cầu phản ánh nhu cầu tiêu dùng có khả năng thanh toán của xã hội. Do đó, cầu không đồng
nhất với nhu cầu, vì nó không phải là nhu cầu tự nhiên, nhu cầu bất kỳ theo nguyện vọng tiêu
dùng chủ quan của con người, mà phụ thuộc vào khả năng thanh toán.
Quy luật cung cầu là quy luật kinh tế điều tiết quan hệ giữa cung (bên bán) và cầu (bên mua)
hàng hóa trên thị trường. Quy luật này đòi hỏi cung - cầu phải có sự thống nhất.
2. Tác động của cung - cầu
Trên thị trường, cung - cầu có mối quan hệ hữu cơ với nhau, thường xuyên tác động lẫn nhau
và ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả. Ở đâu có thị trường thì ở đó có quy luật cung - cầu tồn tại
và hoạt động một cách khách quan.
2.1. Cầu xác định cung và ngược lại cung xác định cầu.
Cầu xác định khối lượng, chất lượng và chủng loại cung về hàng hoá. Những hàng hoá nào
được tiêu thụ thì mới được tái sản xuất.
Ngược lại, cung tạo ra cầu, kích thích tăng cầu thông qua phát triển số lượng, chất lượng,
chủng loại hàng hoá, hình thức, quy cách và giá cả của nó.
2.2. Sự tác động của cung lên giá cả và giá trị
Nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả thấp hơn giá trị; ngược lại, nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả
cao hơn giá trị; nếu cung bằng cầu thì giá cả bằng với giá trị. Đây là sự tác động phức tạp
theo nhiều hướng và nhiều mức độ khác nhau:
Cung lớn hơn cầu (cung dư thừa): Trong trường hợp này, có nhiều hàng hóa hoặc dịch vụ
được cung cấp hơn là được yêu cầu bởi người tiêu dùng. Điều này thường dẫn đến sự cạnh
tranh giữa các nhà cung cấp, và để thu hút khách hàng, giá cả có thể giảm xuống.
Cung nhỏ hơn cầu (cung thiếu hụt): Khi có ít hàng hóa hoặc dịch vụ hơn là được yêu cầu,
do cung không đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường, giá cả có thể tăng lên do sự khan hiếm.
Cung bằng cầu: Trong trường hợp này, lượng hàng hóa hoặc dịch vụ được cung cấp chính
xác bằng với nhu cầu của thị trường. Điều này có thể dẫn đến sự ổn định trong giá cả, với giá
cả duy trì ở mức tương đối ổn định.

3. Tác dụng của quy luật cung - cầu


Quy luật cung – cầu điều tiết quan hệ giữa sản xuất và lưu thông hàng hóa, làm thay đổi cơ
cấu và quy mô thị trường, ảnh hưởng tới giá của hàng hóa.
Căn cứ quan hệ cung - cầu, có thể dự đoán xu thế biến động của giá cả.
Ở đâu có thị trường thì ở đó quy luật cung - cầu tồn tại và hoạt động một cách khách quan.
Nếu nhận thức được chúng thì có thể vận dụng để tác động đến hoạt động sản xuất, kinh
doanh theo hướng có lợi cho quá trình sản xuất.
Nhà nước có thể vận dụng quy luật cung - cầu thông qua các chính sách, các biện pháp kinh
tế như giá cả, lợi nhuận, tín dụng, hợp đồng kinh tế, thuế, thay đổi cơ cấu tiêu dùng... để tác
động vào các hoạt động kinh tế, duy trì những tỷ lệ cân đối cung - cầu một cách lành mạnh và
hợp lý.

III. Quy luật cạnh tranh


1. Khái niệm
Cạnh tranh là sự tác động lẫn nhau giữa các nhóm người, giữa người mua và người bán hay
giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Hai nhóm này tác động lẫn nhau với tư cách là một
thể thống nhất, một hợp lực.
Ở đây cá nhân chỉ tác động với tư cách là một bộ phận, một lực lượng xã hội, là một nguyên
tử của một khối. Chính dưới hình thái đó mà cạnh tranh đã vạch rõ cái tính chất xã hội của
sản xuất và tiêu dùng.
Bên cạnh tranh yếu hơn cả cũng đồng thời là cái bên mà ở đó mỗi cá nhân đều hoạt động một
cách độc lập với đông đảo những người cạnh tranh với mình và thường là trực tiếp chống lại
những người đó. Chính vì sự phụ thuộc lẫn nhau giữa một người cạnh tranh cá biệt với những
người khác lại càng thêm rõ ràng. Trái lại bên mạnh hơn bao giờ cũng đương đầu với đối
phương với tư cách là một chỉnh thể ít nhiều thống nhất.
Cạnh tranh như một tất yếu trong nền kinh tế hàng hoá. Cạnh tranh có tác dụng san bằng các
giá cả mấp mô để có giá cả trung bình, giá trị thị trường và giá cả sản xuất đều hình thành từ
cạnh tranh trong nội bộ ngành và giữa các ngành.
2. Tác động
2.1. Tác động tích cực
Cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất để nâng cao năng lực cạnh tranh, các
chủ thể sản xuất kinh doanh không ngừng tìm kiếm và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ
mới vào sản xuất nhằm đổi mới về trình độ tay nghề, tri thức của người lao động.
Bên cạnh đó, cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường: Mọi hoạt động của các
chủ thể kinh tế đều nhằm mục đích thu lợi nhuận tối đa, ngoài việc hợp tác, họ cũng cạnh
tranh với nhau để có được những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và kinh doanh để thu
được lợi nhuận cao nhất. Thông qua đó, nền kinh tế thị trường không ngừng được hoàn thiện.
Quy luật cạnh tranh là cơ chế điều chỉnh linh hoạt trong việc phân bổ các nguồn lực.
Cạnh tranh thúc đẩy năng lực thỏa mãn nhu cầu của xã hội. Chỉ có những sản phẩm hàng hóa
và dịch vụ mà người tiêu dùng lựa chọn thì mới bán được và do đó người sản xuất mới có lợi
nhuận.Vì vậy, những người sản xuất phải tìm mọi cách tạo ra khối lượng sản phẩm đa dạng,
dồi dào, phong phú, chất lượng tốt, giá thành hạ, từ đó nhu cầu của người tiêu dùng và xã hội
được đáp ứng.
2.2. Tác động tiêu cực
Cạnh tranh không lành mạnh gây tổn hại đến môi trường kinh doanh, xói mòn môi trường
kinh doanh, thậm chí xói mòn giá trị đạo đức xã hội; gây lãng phí nguồn lực xã hội; làm tổn
hại phúc lợi của xã hội.
Tóm lại, trong cơ chế thị trường, quy luật cạnh tranh như một công cụ, phương tiện gây áp
lực cực mạnh thực hiện yêu cầu của quy luật giá trị, cạnh tranh trong một cơ chế vận động
chứ không phải cạnh tranh nói chung.
IV. Quy luật lưu thông tiền tệ
Lưu thông tiền tệ: việc lưu thông trên thị trường nhằm định giá cho các sản phẩm, dịch vụ,
phản ánh sự vận động của tiền tệ trong nền kinh tế trong quy luật của nó. Tính chất lưu thông
sẽ được thực hiện tự do theo nhu cầu của những chủ thể tham gia trong thị trường. Tiền tệ sẽ
được phát hành bởi quốc gia nên sẽ chịu sự quản lý và giám sát của những mục đích lưu
thông cụ thể của quốc gia đó. Những tính chất lưu thông sẽ được hình thành trước khi thông
qua phát hành tiền mặt.
1. Khái niệm
Quy luật xác định lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông hàng hóa trong 1 thời kì nhất định.
Lượng tiền cần cho lưu thông chính bằng tỉ số giữa tổng giá cả hàng hoá với tốc độ lưu thông
tư bản.
Công thức: M = P.Q/V
Giá trị hàng hóa càng lớn/Mức độ giá cả hàng hóa càng cao, lượng tiền cần thiết cho lưu
thông càng nhiều.
Tốc độ lưu thông tiền tệ càng nhanh, lượng tiền cần thiết cho lưu thông càng ít.
Khi lưu thông hàng hóa phát triển, việc thanh toán không dùng tiền mặt phổ biến, khi ấy
lượng tiền cần cho lưu thông bằng tỷ số giữa tổng giá cả hàng hóa trừ đi tổng tiền khấu trừ,
trừ đi tổng giá cả bán chịu cộng với tổng tiền thanh toán với tốc độ lưu thông tư bản.
Công thức: M = (P.Q - (G1+G2) + G3)/V
(G1: tổng giá cả hàng hóa bán chịu, G2: tổng giá cả hàng hóa khấu trừ cho nhau, G3: tổng giá
cả hàng hóa đến kỳ thanh toán)
Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, xác định lượng tiền cần cho lưu thông phức tạp nhưng
không vượt ra khỏi nội dung nguyên lý.
Quy luật lưu thông tiền tệ tuân theo các nguyên lý sau:
Lưu thông tiền tệ căn cứ trên yêu cầu lưu thông hàng hóa và dịch vụ. Số lượng cần thiết cho
lưu thông mỗi thời kì cần thống nhất với lưu thông hàng hóa, nếu không ăn khớp sẽ xảy ra trì
trệ hoặc lạm phát.
Lượng tiền thực tế bằng lượng tiền cần thiết: Lưu thông tiền tệ diễn ra bình thường: giá cả
hàng hóa ổn định, nền kinh tế phát triển ổn định.
Lượng tiền thực tế lớn hơn lượng tiền cần thiết: Gây ra lạm phát: giá cả hàng hóa tăng
cao, giá trị của đồng tiền giảm, nền kinh tế bất ổn.
Lượng tiền thực tế nhỏ hơn lượng tiền cần thiết: Gây ra tình trạng thiếu hụt tiền tệ: khó
khăn trong việc mua bán hàng hóa, nền kinh tế trì trệ.
2. Vai trò
Kiểm soát lạm phát: Một trong những vai trò chính của quy luật lưu thông tiền tệ. Chính phủ
và ngân hàng trung ương sử dụng các biện pháp về lưu thông tiền tệ để đề ra các chính sách
kiểm soát lượng tiền trong nền kinh tế.
Phòng ngừa khủng hoảng tài chính: Bằng cách duy trì sự cân đối trong lưu thông tiền tệ,
chính phủ và các cơ quan tài chính có thể giảm thiểu nguy cơ xảy ra các biến động mạnh mẽ
và không ổn định trong hệ thống tài chính.
Đảm bảo sức mua của tiền: đảm bảo rằng tiền vẫn giữ được giá trị thực sự qua thời gian để
người dân và doanh nghiệp có thể tin tưởng và sử dụng đồng tiền mà không sợ mất giá trị đột
ngột.
Hỗ trợ phát triển kinh tế: Hệ thống ngân hàng nhà nước và các cơ chế tài chính khác dựa vào
quy luật này để cung cấp vốn cho các hoạt động kinh doanh và nhiều khía cạnh khác của nền
kinh tế.
Khuyến khích tiết kiệm và đầu tư: Tác động đến hành vi của người dân. Lãi suất và tỷ giá hối
đoái được ảnh hưởng bởi quy luật này, ảnh hưởng đến lựa chọn giữa tiêu dùng, tiết kiệm hoặc
đầu tư dài hạn.
Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật khách quan chi phối quá trình lưu thông tiền tệ trong
nền kinh tế thị trường. Việc nắm vững quy luật này có ý nghĩa quan trọng đối với việc điều
tiết lượng tiền trong lưu thông, góp phần ổn định kinh tế.

4. CÁC HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Nghiên cứu các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư hiểu đơn giản là đi phân tích mối
quan hệ lợi ích giữa các nhà tư bản với nhau; giữa nhà tư bản nông nghiệp với địa chủ trong
việc phân chia giá trị thặng dư thu được trong và sau quá trình lao động và sản xuất của lao
động làm thuê. Báo cáo thuyết trình thông qua ba hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư lần
lượt là: lợi nhuận; lợi tức; địa tô phân tích bản chất của ba mối quan hệ kinh tế cơ bản trong
nền kinh tế thị trường.

1. Lợi nhuận
1.1. Chi phí sản xuất
Định nghĩa: Là phần giá trị của hàng hóa, bù đắp lại giá cả của những tư liệu sản xuất đã tiêu
dùng và giá cả của sức lao động đã được sử dụng để sản xuất ra hàng hóa ấy. Là chi phí mà
nhà tư bản phải bỏ ra để sản xuất ra hàng hóa (ký hiệu: k)
Về mặt lượng:
k=C+V
Trong đó, k là chi phí sản xuất hàng hóa
C là tư bản bất biến (máy móc, nguyên nhiên vật liệu)
V là tư bản khả biến (sức lao động con người)
Khi xuất hiện phạm trù chi phí sản xuất thì giá trị hàng hóa được biểu hiện dưới công thức:
G=k+m
Trong đó, k là chi phí sản xuất; m bản chất là giá trị thặng dư
Ý nghĩa: Chi phí sản xuất có vai trò quan trọng: là giới hạn để bù đắp vốn cả về hiện vật và
giá trị, đảm bảo tái sản xuất; là căn cứ quan trọng cho cạnh tranh về giá bán hàng hóa giữa
các nhà tư bản và là cơ sở để tính toán lỗ, lãi trong sản xuất kinh doanh.

1.2. Bản chất lợi nhuận


Định nghĩa: Lợi nhuận là giá trị thặng dư được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng
trước, mang hình thái chuyển hóa. (ký hiệu: P)
Khi đó giá trị hàng hóa được viết theo công thức: G = k + P
Từ đó P = G - k
Như vậy về cơ bản, lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản
xuất. Nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận là giá trị thặng dư - giá trị lao động tạo ra, phản ánh
trực tiếp quan hệ bóc lột sức lao động của công nhân làm thuê và nhà tư bản. Điều đó có
nghĩa là lợi nhuận thực chất chỉ là hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư trên bề mặt nền
kinh tế thị trường, che đậy bản chất bóc lột giữa lao động và nhà tư bản.

Trong thực tế, nhà tư bản chỉ cần bán sản phẩm với giá cả lớn hơn chi phí sản xuất là
đã có lợi nhuận. Giá bán hàng hóa phụ thuộc vào cung cầu và cạnh tranh. Nếu:
Cung > Cầu => P < GTTD tức là giá bán < giá trị hàng hóa (và ngược lại)
Cung = Cầu, nhà tư bản thu về P = GTTD: giá bán = giá trị của hàng hóa
Tuy nhiên xét trên toàn thể xã hội thì tổng GTTD luôn bằng tổng lợi nhuận vì nhà tư bản sẽ
cố gắng làm mọi cách để tổng giá cả hàng hóa luôn bằng tổng giá trị hàng hóa.
Ý nghĩa: Lợi nhuận là mục tiêu, động cơ, động lực của hoạt động rất kinh doanh. Số lượng
lợi nhuận nói lên quy mô của hiệu quả kinh doanh, thể hiện hiệu quả kinh tế.

1.3 Tỷ suất lợi nhuận


Định nghĩa: Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa lợi nhuận và toàn bộ giá trị của tư bản
ứng trước (ký hiệu là p').Tỷ suất lợi nhuận được tính theo công thức:
p
p' = x 100%
c+ v
Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận bao gồm:
Thứ nhất, tỷ suất giá trị thặng dư
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến. Tỷ suất
thặng dư càng cao thì tỷ số lợi nhuận càng lớn và ngược lại. Do đó những thủ đoạn nhằm
nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư cũng chính là cách thức nâng cao tỷ suất lợi nhuận.
Một số cách thức có thể kể đến như: (i) Kéo dài ngày lao động: tăng thời gian làm việc để tạo
ra nhiều giá trị thặng dư hơn;(ii) Tăng cường độ lao động: đẩy mạnh năng suất lao động bằng
cách áp đặt các quy chuẩn, quy định, kỷ luật, kiểm soát chặt chẽ về chất lượng và số lượng
sản phẩm;(iii) Sử dụng máy móc, thiết bị hiện đại: tăng cấu tạo hữu cơ tư bản bằng cách thay
thế tư bản khả biến (lao động) bằng tư bản bất biến (máy móc) từ đó, giảm chi phí lao động
và tăng năng suất;(iv) Giảm chi phí sản xuất bằng cách sử dụng các nguyên liệu có chất
lượng thấp hơn, có nguồn gốc rẻ hơn hoặc tái chế được;(v) Giảm các chi tiêu bảo hiểm lao
động, bảo vệ môi trường sinh thái: giảm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với công
nhân và môi trường.
Thứ hai, cấu tạo hữu cơ của tư bản
Cấu tạo hữu cơ của tư bản là tỉ số giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến, trong điều kiện tỷ
suất thặng dư không đổi, nếu cấu tạo hữu cơ tư bản càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng giảm
và ngược lại.Thông thường, khi cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng thì tỷ suất giá trị thặng dư
cũng có thể tăng lên, nhưng thường không bù đắp được mức giảm của tỷ suất lợi nhuận. Vậy
nên các nhà tư bản thường tìm cách giảm cấu tạo hữu cơ của tư bản như tăng tỷ lệ sử dụng tư
bản khả biến (tuyển dụng thêm nhân công, tăng ca, tăng sản lượng lao động); giảm tỷ lệ sử
dụng tư bản bất biến (tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng, vật tư, thiết bị, máy móc, nhà xưởng,
phương tiện vận chuyển) và tận dụng các nguồn tư bản bất biến không thuộc sở hữu của
doanh nghiệp (thuê máy móc, nhà xưởng, phương tiện vận chuyển, sử dụng nguyên liệu phế
thải, phế phẩm.)
Thứ ba, tốc độ chu chuyển của tư bản
Tốc độ chu chuyển của tư bản là số lần chu chuyển của tư bản trong một năm. Nếu tốc độ chu
chuyển của tư bản càng lớn, thì tần suất sản sinh ra giá trị thặng dư càng nhiều, giá trị thặng
dư theo đó mà tăng lên kéo theo tỷ suất lợi nhuận cũng tăng. Tỷ suất lợi nhuận tỷ lệ thuận với
số vòng chu chuyển của tư bản và tỉ lệ nghịch với thời gian chu chuyển của tư bản. Vậy nên
để tăng tốc độ chu chuyển của tư bản bằng cách:(i) Rút ngắn thời gian sản xuất: tăng năng
suất lao động, sử dụng máy móc thiết bị hiện đại, cải tiến quy trình sản xuất, tổ chức sản xuất
khoa học, hợp lý;(ii) Rút ngắn thời gian lưu thông: Đẩy mạnh tốc độ mua bán hàng hóa, sử
dụng các phương tiện vận tải và bưu chính viễn thông nhanh chóng, hiệu quả, cải thiện tổ
chức mậu dịch, giảm thời gian dự trữ hàng hóa; (iii) Tăng số vòng chu chuyển của tư bản:
Tận dụng tư bản rảnh rỗi, tăng cường tái đầu tư tư bản, giảm chi phí sản xuất và lưu thông.
Thứ tư, tiết kiệm tư bản bất biến
Tiết kiệm tư bản bất biến tức là giảm chi phí sản xuất bằng cách sử dụng tư bản bất biến với
hiệu quả cao nhất. Trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư và tư bản khả biến không đổi, nếu
tư bản bất biến càng nhỏ thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn. Một số cách tiết kiệm tư bản bất biến:
(i) Sử dụng máy móc, thiết bị hiện đại, tiết kiệm năng lượng, vật tư, nguyên liệu, giảm tỷ lệ
hao mòn;(ii) Tăng cường tài chế, tái sử dụng, tái tạo nguyên liệu, vật tư, phế thải sản xuất;
(iii) Thay thế nguyên liệu có giá thành rẻ hơn nhưng chất lượng tương đương hoặc cao hơn;
(iv) Tận dụng tối đa công suất nhà xưởng, máy móc, thiết bị, giảm thời gian rỗi không sử
dụng;(v) Cải tiến quy trình sản xuất, tổ chức sản xuất khoa học, hợp lý, giảm chi phí quản lý,
nhân lực.

1.4 Lợi nhuận bình quân


Cạnh tranh giữa các ngành là cơ chế cho sự hình thành lợi nhuận bình quân. Ở các ngành sản
xuất kinh doanh khác nhau, do có những điều kiện tự nhiên, kinh tế, kỹ thuật và tổ chức quản
lý khác nhau, nên tỷ suất lợi nhuận giữa các ngành cũng khác nhau
Ví dụ: Cùng bán một loại hàng hóa, thị trường bột giặt có sự cạnh tranh của các công ty như
OMO, Aba; thị trường nước giải khát có Cocacola, Pepsi,...; điện thoại thì có Apple,
Samsung, Huawei,...
Giả sử có ba ngành sản xuất (cơ khí, dệt và da), vốn của các ngành đều bằng nhau
(= 100 đơn vị tiền tệ), tỷ suất giá trị thặng dư đều bằng nhau (= 100%), tốc độ chu chuyển của
vốn ở các ngành đều bằng nhau. Do đặc điểm của mỗi ngành sản xuất khác nhau, nên cấu tạo
hữu cơ của vốn (tư bản) ở từng ngành khác nhau, tỷ suất lợi nhuận ở các ngành khác nhau.

Định nghĩa: Lợi nhuận bình quân là số lợi nhuận bằng nhau của những tư bản như nhau đầu
tư vào các ngành khác nhau
Nếu ký hiệu giá trị tư bản ứng trước là K thì lợi nhuận bình quân được tính theo công
thức: p = p' x K
Khi lợi nhuận chuyển hóa thành lợi nhuận bình quân thì giá trị của hàng hóa chuyển
hóa thành giá cả sản xuất. Giá cả sản xuất GCSX = k + p
Những điều kiện hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, lợi nhuận bình quân, giá cả
sản xuất bao gồm tư bản tự do di chuyển và sức lao động tự do di chuyển.Như vậy, trong nền
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận bình quân đã trở thành căn cứ cho các doanh
nghiệp lựa chọn ngành, nghề, phương án kinh doanh sao cho có hiệu quả nhất.
1.5 Lợi nhuận thương nghiệp
Định nghĩa: Lợi nhuận thương nghiệp là số chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng hóa.
Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, do sự phân công lao động xã hội, xuất
hiện bộ phận chuyên môn hóa việc lưu thông hàng hóa. Bộ phận này gọi là tư bản thương
nghiệp. Nguồn gốc của lợi nhuận thương nghiệp chính là một phần của giá trị thặng dư mà
nhà tư bản sản xuất trả cho tư bản thương nghiệp do tư bản thương nghiệp đã giúp tiêu thụ
hàng hóa. Cách thức thực hiện là nhà tư bản sản xuất bán hàng hóa cho nhà tư bản thương
nghiệp với giá cao hơn chi phí sản xuất để đến lượt nhà tư bản thương nghiệp bán hàng hóa
đúng giá trị của hàng hóa.
Khi đó lợi nhuận thương nghiệp là phần chênh lệch giữa giá mua và giá bán song giá
bán không nhất thiết phải cao hơn giá trị. Vẻ bề ngoài này làm cho người ta nhầm tưởng việc
mua bán đã tạo ra lợi nhuận cho nhà tư bản thương nghiệp. Trái lại, lợi nhuận thương nghiệp
thực chất là một phần của giá trị thặng dư.

2. Lợi tức
2.1 Bản chất lợi tức
Trong nền kinh tế thị trường, luôn xuất hiện những chủ thể có lượng tiền nhàn rỗi,
trong khi lại có những chủ thể khác lại rất cần tiền để mở rộng sản xuất kinh doanh. Tình
hình đó thúc đẩy hình thành quan hệ cho vay và đi vay. Người cho vay sẽ thu được lợi tức.
Người đi vay phải trả lợi tức cho người cho vay. Vậy lợi tức đó đến từ đâu?
Người đi vay thu được lợi nhuận bình quân, do phải đi vay tiền của người khác cho
nên người đi vay phải khấu trừ một phần từ lợi nhuận bình quân thu được để trả cho người
cho vay.
Định nghĩa: lợi tức là một phần của lợi nhuận bình quân mà người đi vay phải trả cho người
cho vay vì đã sử dụng lượng tiền nhàn rỗi của người cho vay. Đây là quan hệ kinh tế phản
ánh quan hệ lợi ích giữa người đi vay với người cho vay. Xong về thực chất, lợi tức đó là một
phần của giá trị thặng dư.
Đặc điểm tư bản cho vay trong chủ nghĩa tư bản:
Thứ nhất, quyền sử dụng tách khỏi quyền sở hữu.
Chủ thể sở hữu tư bản không phải là chủ thể sử dụng, chủ thể sử dụng cơ bản chỉ được sử
dụng trong một thời hạn nhất định và không có quyền sở hữu.
Thứ hai, là hàng hóa đặc biệt.
Sau khi hết sử dụng, tư bản cho vay không mất giá trị sử dụng và giá trị mà được bảo tồn,
thậm chí còn tăng thêm. Giá cả của tư bản cho vay được quyết định bởi giá trị sử dụng của nó
là khả năng thu được lợi nhuận bình quân, nên nó không những không được quyết định bởi
giá trị.
Thứ ba, là hình thái tư bản phiến diện nhất xong được sùng bái nhất.
Tư bản cho vay vận động theo công thức T - T', tạo ra ảo tưởng là tiền đẻ ra tiền không phản
ánh rõ nguồn gốc của lợi tức cho vay. (T-T’: Hình thức cao nhất của sự phát triển tư bản là
cho vay lãi)

2.2 Tỷ suất lợi tức


Định nghĩa: Tỷ suất lợi tức là tỉ lệ phần trăm giữa lợi tức và tư bản cho vay (ký hiệu z’).
Công thức tính tỷ suất lợi tức:
z
z’ = x 100%
KCV
Trong đó, z’ là tỷ suất lợi tức
z là lợi tức: một phần lợi nhuận bình quân người đi vay phải trả cho người vay
KCV là tổng số vốn cho vay

2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi tức


Tỷ suất lợi tức chịu ảnh hưởng của các nhân tố chủ yếu là tỷ suất lợi nhuận bình quân và tình
hình cung cầu về tư bản cho vay.
Trong điều kiện quan hệ tín dụng ngày càng phát triển, các quy mô sản xuất kinh
doanh ngày càng được đổi mới không ngừng, nền kinh tế thị trường thúc đẩy hình thành các
công ty cổ phần. Các công ty này phát hành các loại cổ phiếu, trái phiếu. Các loại cổ phiếu,
trái phiếu này, được C.Mác gọi là tư bản giả do nó được giao dịch tách biệt tương đối với quá
trình sản xuất kinh doanh thực. Tư bản giả được mua bán trên thị trường chứng khoán.
Với sự phát triển của thị trường chứng khoán và các công ty chứng khoán trong
những năm gần đây, các công ty chứng khoán còn phát hành các chứng quyền, các chứng
quyền này còn được mua bán đem lại thu nhập cho người có chứng quyền.

3. Địa tô tư bản chủ nghĩa


3.1 Bản chất địa tô Tư bản chủ nghĩa
Khi quan hệ sản xuất TBCN xâm nhập vào trong nông nghiệp thì nông nghiệp TBCN hình
thành nên ba giai cấp:

- Địa chủ sở hữu ruộng đất;


- Tư bản kinh doanh nông nghiệp;
- Công nhân nông nghiệp

Địa tô tư bản chủ nghĩa biểu hiện mối quan hệ kinh tế giữa ba giai cấp này.

Mối quan hệ này hình thành khi nhà tư bản thuê ruộng đất của địa chủ từ đó sản xuất
tạo ra giá trị thặng dư. Sau đó, nhà tư bản trích một phần trở thành lợi nhuận bình quân cho
bản thân, một phần trích cho địa chủ - địa tô. Về bản chất, địa chủ đã thông qua và cùng với
tư bản kinh doanh nông nghiệp phân chia giá trị thặng dư do công nhân nông nghiệp tạo ra.

(Mối quan hệ kinh tế giữa ba giai cấp)

Định nghĩa: Địa tô là phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ phần lợi nhuận bình
quân mà các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải trả cho địa chủ (ký hiệu R).

3.2 Các hình thức địa tô tư bản chủ nghĩa


a, Địa tô chênh lệch (Rcl)
Định nghĩa: Địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân thu
được trên ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi so với ruộng đất có điều kiện sản xuất xấu
nhất.

Rcl = CPSX trên ruộng đất xấu nhất - CPSX trên ruộng đất tốt và trung bình.

Có hai loại ĐTCL:


+ Địa tô chênh lệch I : loại địa tô thu được trên những ruộng đất có điều kiện thuận lợi.
Độ màu mỡ tốt, trung bình và có vị trí địa lý lí tưởng như là gần thị trường hay thuận
tiện giao thông.
Địa tô chênh lệch I thuộc về địa chủ sở hữu ruộng đất. Địa chủ thu địa tô chênh lệch I
bằng cách cho thuê ruộng đất với giá cả khác nhau: Giá ruộng đất điều kiện tốt sẽ cao
hơn điều kiện trung bình và thấp.

+ Địa tô chênh lệch II : là địa tô thu được gắn liền với thâm canh tăng năng suất, độ
màu mỡ, là kết quả của tư bản đầu tư thêm trên cùng một đơn vị diện tích.
Trong thời gian hợp đồng thuê đất, lợi nhuận siêu ngạch do đầu tư thâm canh đem lại
thuộc tư bản kinh doanh ruộng đất. Chỉ đến khi hết thời hạn hợp đồng thuê ruộng đất,
địa chủ mới tìm cách nâng giá cho thuê ruộng đất, tức biến lợi nhuận siêu ngạch do
đầu tư thâm canh đem lại, tức địa tô chênh lệch II thành địa tô chênh lệch I. Tình
trạng này dẫn đến mâu thuẫn: nhà tư bản thuê đất muốn kéo dài thời gian thuê trong
khi địa chủ lại muốn rút ngắn thời gian thuê đất. Do đó, trong thời gian thuê đất, nhà
tư bản tìm mọi cách quay vòng, tận dụng, khai thác độ màu mỡ của đất đai.

b, Địa tô tuyệt đối (Rtđ)


Định nghĩa: Là địa tô mà địa chủ thu được trên mảnh đất cho thuê bất kể độ màu mỡ, tự
nhiên thuận lợi hay thâm canh, là lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân mà
bất cứ nhà tư bản thuê ruộng đất nào đều phải nộp.

Địa tô tuyệt đối hình thành do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp hơn trong
công nghiệp. Thế nên, nếu trình độ bóc lột ngang nhau, thì một tư bản ngang nhau sẽ sinh ra
trong nông nghiệp giá trị thặng dư hơn trong công nghiệp.

c, Địa tô độc quyền


Địa tô độc quyền là hình thức địa tô đặc biệt trong chủ nghĩa tư bản. Nó tồn tại trong nông
nghiệp, công nghiệp khai thác và thành thị.

Trong nông nghiệp, địa tô độc quyền có ở các khu đất có tính chất đặc biệt, cho phép trồng
các loại cây đặc sản hay sản xuất các sản phẩm đặc biệt. Trong công nghiệp khai thác, địa tô
độc quyền có ở các vùng khai thác các kim loại, khoáng chất quí hiếm, hoặc những khoáng
sản có nhu cầu vượt xa khả năng khai thác.
3.3 Địa tô được sử dụng như 1 căn cứ để tính giá cả ruộng đất
Địa tô
Công thức : Giá cả đất đai =
Tỷ suất lợitức nhận gửi của ngân hàng

Tuy nhiên công thức này chỉ mang tính chất tham khảo , không thể áp dụng vào giá trị
đất đai Việt Nam hay đặc biệt Hà Nội bởi vì giá cả đất đai hiện tại ở đây cực kì cao và phức
tạp.
Ý nghĩa: Lý luận địa tô không chỉ vạch rõ bản chất quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong
nông nghiệp mà còn là cơ sở khoa học cho Đảng và nhà nước ta xây dựng chính sách thuế
nông nghiệp một cách khoa học, là cơ sở để giao khoán ruộng đất lâu dài cho các hộ nông
dân, khuyến khích họ đầu tư thâm canh ruộng đất.Sơ đồ tóm tắt
Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường
I. TỔNG QUAN VỀ ĐỘC QUYỀN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.1 Định nghĩa


Độc quyền là thuật ngữ trong kinh tế học chỉ về trạng thái thị trường chỉ có duy nhất một
người bán và sản xuất ra sản phẩm không có sản phẩm thay thế gần gũi.

Độc quyền là sự liên minh giữa các doanh nghiệp lớn, có khả năng thâu tóm việc sản xuất và
tiêu thụ một số loại hàng hóa, có khả năng định ra giá cả độc quyền, nhằm thu lợi nhuận độc
quyền cao. Hiện tượng trên thị trường chỉ có một doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp
câu kết với nhau chiếm vị trí độc tôn trong việc cung cấp sản phẩm nhất định nào đó, cho
phép họ kiểm soát trọn vẹn giá cả sản phẩm để thu lợi nhuận tối đa và ngăn chặn các đối thủ
cạnh tranh khác thâm nhập thị trường thì có thể gọi những cá nhân, tổ chức này đang độc
quyền nắm giữ sản phẩm hoặc độc quyền cung cấp dịch vụ.

Trong việc phát hành tiền tệ ở Việt Nam, ngân hàng nhà nước là tổ chức được độc quyền phát
hành tiền tệ. Tại Việt Nam, chỉ có tổng công ty điện lực Việt Nam (EVN) được nắm giữ hệ
thống truyền tải điện. Điều này có nghĩa là các công ty điện lực khác đều phải phụ thuộc vào
EVN nếu muốn kinh doanh về mảng này.
1.2 Phân loại độc quyền

1.2.1 Độc quyền thường

Là trạng thái thị trường chỉ có duy nhất một người bán và sản xuất ra sản phẩm, không có loại
hàng hóa nào thay thế gần gũi. Ở dạng thuần túy nhất, độc quyền thường là trạng thái thị
trường chỉ có duy nhất một người sản xuất và bán ra sản phẩm không có loại hàng hoá nào
thay thế gần gũi. Mặc dù trên thực tế không có độc quyền thuần tuý, vì các hàng hoá nói
chung đều ít nhiều có sản phẩm thay thế, nhưng những gì phân tích cho mô hình độc quyền
này sẽ giúp làm sáng tỏ tính phi hiệu quả của nó và sự cần thiết của các biện pháp can thiệp
của chính phủ. Tuy nhiên, trên thực tế không có loại độc quyền thường.

Ở Nam Phi được sở hữu những mỏ kim cương chiếm phần lớn sản lượng của thế giới và do
đó quốc gia này có vị trí gần như đứng đầu trên thị trường kim cương. De Beers Consolidated
Mines, Ltd được thành lập, trở thành đế chế độc quyền sản xuất và phân phối kim cương trên
toàn châu Phi. trở thành một trong những đế chế độc quyền hùng mạnh nhất thế giới.

1.2.2 Độc quyền tự nhiên

Là tình trạng trong đó các yếu tố hàm chứa trong quá trình sản xuất đã cho phép hãng có thể
liên tục giảm chi phí sản xuất khi quy mô sản xuất mở rộng, do đó đã dẫn đến cách tổ chức
sản xuất hiệu quả nhất là chỉ thông qua một hãng duy nhất. Chẳng hạn, độc quyền trong
ngành điện là một ví dụ cho hình thức độc quyền tự nhiên.

Hình thức tổ chức sản xuất này thường hay thấy trong các ngành dịch vụ công được tổ chức
cung ứng theo mạng lưới, có chi phí đầu tư cố định ban đầu lớn như hệ thống truyền tải điện,
nước, đường sắt… Chẳng hạn, sẽ hết sức lãng phí nếu có hai hãng đường sắt cùng hoạt động
trên cùng một tuyến, vì khi đó sẽ cần hai hệ thống đường ray. Tương tự như thế, hai công ty
cấp nước với hai mạng lưới đường ống khác nhau cùng phục vụ cho một địa bàn dân cư là
một sự bố trí sản xuất phi lí. Khi đó, chính phủ có thể quyết định chỉ để một hãng cung cấp
cho toàn bộ thị trường. Tại Việt Nam, chỉ có tổng công ty điện lực Việt Nam (EVN) được
nắm giữ hệ thống truyền tải điện. Điều này có nghĩa là các công ty điện lực khác đều phải
phụ thuộc vào EVN nếu muốn kinh doanh về mảng này.

1.3 Thực trạng độc quyền

Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập
trung sang nền kinh tế thị trường. Một số yếu tố bất hợp lý của mô hình kinh tế trước đây vẫn
còn tồn tại và đòi hỏi cần phải có những giải pháp cụ thể để giải quyết trong thời gian tới. Sự
tồn tại quá nhiều doanh nghiệp nhà nước (rất nhiều trong số đó kinh doanh không hiệu quả)
và việc độc quyền của doanh nghiệp nhà nước trong nhiều lĩnh vực là một trong những vấn
đề cần giải quyết.

Hiện nay sự độc quyền ở Việt Nam chủ yếu là độc quyền nhà nước. Việc độc quyền nhà nước
này là do ở các công ty tư nhân, họ chưa có quyền lực về kinh tế để chiếm vị trí độc quyền
trong các ngành kinh tế chính. Cùng với quá trình mở cửa của thị trường thông qua việc ký
kết và gia nhập các hiệp định song song đa phương, do đó xuất hiện các công ty đa quốc gia
hoạt động tại Việt Nam, với sức mạnh kinh tế của mình, các công ty này dễ dàng chiếm lĩnh
thị trường. Thêm vào đó, ở nước ta, có sự cạnh tranh bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp
thuộc sở hữu của nhà nước với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, giữa các
doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp
nhà nước được hưởng nhiều ưu đãi từ phía nhà nước như: các ưu đãi về vốn đầu tư, thuế, vị
trí địa lý, thị trường tiêu thụ, ... .Trong khi đó các công ty nhỏ, doanh nghiệp, thương hiệu nội
địa Việt Nam với tiềm lực hạn chế thì đang dần bị loại bỏ khỏi nền kinh tế hoặc bị thu mua
bởi các công ty, tập đoàn lớn hơn.

II. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN ĐỘC QUYỀN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG
2.1 Sự phát triển của lực lượng sản xuất ( Độc quyền tự nhiên do quy mô )
Trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, cùng với sự tác động của quy luật kinh tế
thị trường làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội theo hướng tập trung sản xuất quy mô lớn.
Các doanh nghiệp có thể cung cấp sản phẩm cho toàn bộ thị trường thông qua tính chất đặc
biệt của ngành có lợi tức tăng theo quy mô. Có nghĩa là doanh nghiệp nào vào thị trường
trước có thể sử dụng cách giảm giá liên tục khi mở rộng được quy mô sản xuất, từ đó, ngăn
cản sự xâm nhập thị trường của các đối thủ khác.
2.2 Do kết quả của quá trình cạnh tranh
Quá trình cạnh tranh sẽ làm cho những doanh nghiệp nào kém hiệu quả, có những quyết định
kinh doanh sai lầm sẽ bị những doanh nghiệp khác làm ăn hiệu quả hơn thôn tính, chiếm lĩnh
thị phần và rốt cuộc sẽ bị đào thải ra khỏi thị trường .
Trong trường hợp cực đoan nhất, nếu tất cả các doanh nghiệp khác đều bị một doanh nghiệp
duy nhất đánh bại thì cuối cùng, cạnh tranh tự do đã để lại một doanh nghiệp duy nhất trên
thương trường và doanh nghiệp đó đương nhiên có được vị thế độc quyền.
2.3 Do quy định về bằng phát minh, sáng chế
Chế độ bản quyền là chế độ bảo vệ quyền lợi của các phát minh, sáng chế và sở hữu trí tuệ
được nhà nước ban hành với mục tiêu khuyến khích đầu tư công sức, tiền bạc vào hoạt động
nghiên cứu, góp phần nâng cao năng suất lao động và chất lượng đời sống của người dân.
Những người có các bản quyền này sẽ có khả năng tạo ra thị trường độc quyền trong một
khoảng thời gian nhất định, tùy thuộc vào thời hạn giữ bản quyền đó theo quy định của nhà
nước.
2.4 Do khủng hoảng sự phát triển của hệ thống tín dụng
Sự phát triển của hệ thống tín dụng trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất,
nhất là việc hình thành, phát triển các công ty cổ phần, tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ
chức độc quyền. Khi các tổ chức độc quyền xuất hiện các tổ chức độc quyền có thế ấn định
giá cả độc quyền mua, độc quyền bán để thu lợi nhuận độc quyền cao.

III. CÁC CẤP ĐỘ ĐỘC QUYỀN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

3.1 Cartel

3.1.1 Khái niệm


Cartel là hình thức tổ chức độc quyền trong đó các xí nghiệp tư bản lớn ký các hiệp nghị thỏa
thuận với nhau về giá cả, sản lượng hàng hóa, thị trường tiêu thụ, kỳ hạn thanh toán,...

3.1.2 Đặc điểm


Cartel thường xuất hiện trong các ngành công nghiệp độc quyền hoặc tập trung vào một
nhóm nhỏ khách hàng. Các doanh nghiệp trong cartel có thể thỏa thuận về giá cả, sản lượng,
phân chia thị trường và nhiều chiến lược khác. Có 2 loại cartel phổ biến là: Cartel thỏa thuận
mức giá: Các doanh nghiệp thỏa thuận về mức giá cụ thể cho sản phẩm hoặc dịch vụ của
họ.Cartel ngăn chặn sự gia nhập thị trường: Cartel này hướng đến việc ngăn chặn doanh
nghiệp mới gia nhập và có thể có các quy định ràng buộc giữa các thành viên.

3.1.3 Phương thức hoạt động


Cartel thường hiệu quả nhất khi chỉ có một số ít doanh nghiệp hoặc tập đoàn chiếm thị phần
lớn. Có hai loại chính: Cartel công: Được chính phủ thiết lập, thường để hỗ trợ doanh nghiệp
trong nước hoặc tăng cường cạnh tranh quốc tế. Cartel tư nhân: Thỏa thuận giữa các doanh
nghiệp, thường không công khai và có thể vi phạm pháp luật nếu gây ảnh hưởng tiêu cực đến
người tiêu dùng.
3.1.4 Mục đích
Cartel là tổ chức của các nhà sản xuất độc lập nhằm điều chỉnh hoạt động sản xuất, định giá
và tiếp thị để hạn chế cạnh tranh và tối đa hóa sức mạnh thị trường. Chú trọng vào việc tối đa
hóa lợi nhuận, cartel giúp các doanh nghiệp thống nhất giá và giảm cạnh tranh. Cartel là sự
thỏa thuận giữa các doanh nghiệp lớn, tạo nên một mạng lưới liên kết độc quyền. Sự liên kết
này không chỉ giúp tối ưu hóa lợi nhuận và củng cố vị thế của các thành viên trên thị trường
mà còn tạo ra rào cản cho các doanh nghiệp mới muốn gia nhập.

Tác động đối với Doanh nghiệp mới: Cartel không chỉ giúp tăng lợi nhuận và giảm cạnh
tranh cho các doanh nghiệp thành viên mà còn ngăn chặn sự gia nhập của các doanh nghiệp
mới vào thị trường. Những doanh nghiệp muốn tham gia cartel thường phải trả một khoản phí
và cam kết tuân thủ các mục tiêu chung của tổ chức.

3.2 Syndicate

3.2.1 Khái niệm


Syndicate là một tổ chức hoặc liên minh các cá nhân hoặc tổ chức với mục tiêu chung,
thường là để thúc đẩy các lợi ích chung hoặc tạo ra sức mạnh và ảnh hưởng lớn hơn trong
một lĩnh vực cụ thể.
3.2.2 Đặc điểm
Tính độc quyền cao: Syndicate sở hữu mức độ độc quyền cao hơn Cartel, thể hiện qua việc
các xí nghiệp tham gia hoàn toàn phụ thuộc vào ban quản trị chung trong khâu lưu thông
hàng hóa. Sự thống nhất: Syndicate hoạt động dựa trên sự thống nhất cao độ trong việc mua
bán nguyên liệu, sản phẩm, giúp tối ưu hóa lợi nhuận và củng cố vị thế độc quyền. Ổn định:
So với Cartel, Syndicate có cấu trúc và hoạt động ổn định hơn, giảm thiểu nguy cơ cạnh tranh
nội bộ và đảm bảo tính bền vững cho tổ chức.
3.2.3 Phương thức hoạt động
Huy Động Vốn: Các thành viên trong syndicate hợp tác để huy động một lượng vốn lớn từ
các nhà đầu tư hoặc các bên liên quan khác. Điều này giúp tăng cường khả năng thực hiện
các dự án lớn và phức tạp mà mỗi công ty hoặc tổ chức đơn lẻ có thể không thể thực hiện một
cách độc lập.

Quản Lý Dự Án: Syndicate thường tham gia vào việc quản lý và thực hiện các dự án lớn. Các
thành viên đóng góp chuyên môn, nguồn lực và kinh nghiệm của họ để đảm bảo rằng dự án
được triển khai một cách hiệu quả và đạt được các mục tiêu đã đề ra. Việc hợp tác này giúp
syndicate tận dụng được sự chuyên nghiệp và kiến thức sâu rộng từ các công ty và tổ chức
khác nhau.

Chia Sẻ Rủi Ro: Thay vì mỗi công ty hoặc tổ chức đơn lẻ phải chịu toàn bộ rủi ro liên quan
đến một dự án hay giao dịch, các thành viên trong syndicate có thể chia sẻ rủi ro với nhau.
Điều này giúp giảm thiểu rủi ro cho mỗi bên và tăng cường sự an toàn cho toàn bộ dự án
hoặc giao dịch. Khi dự án hoặc giao dịch thành công và sinh lời, các thành viên trong
syndicate sẽ chia sẻ phần lợi nhuận dựa trên thỏa thuận trước đó. Điều này tạo điều kiện
thuận lợi cho việc hợp tác và tăng cường động lực cho mỗi bên tham gia.

3.2.4 Mục đích

Tối ưu hóa quá trình lưu thông hàng hóa: Mục đích chính của Syndicate là tạo ra một hệ
thống lưu thông hàng hóa hiệu quả, giúp giảm thiểu rủi ro và chi phí liên quan đến việc mua
bán hàng hóa. Từ đó, có thể giảm thiểu các rủi ro liên quan đến lưu thông hàng hóa và thị
trường. Tăng cường lợi nhuận: Bằng cách quản lý chung lưu thông hàng hóa, Syndicate cũng
có thể tối đa hóa lợi nhuận cho các thành viên bằng cách tối ưu hóa giá cả và quy trình.

3.3 Trust

3.3.1 Định nghĩa

Trust là một hình thức độc quyền cao hơn Cartel và Syndicate. Trust thường là một nhóm các
công ty hợp nhất. Trong một Trust, cả việc sản xuất, tiêu thụ, tài vụ đều được đặt dưới sự
quản lý của một ban quản trị. Các nhà tư bản tham gia Trust không giữ quyền độc lập về sản
xuất và lưu thông hàng hoá. Khi tham gia Trust, mỗi nhà tư bản trở thành một cổ đông và thu
lợi nhuận theo số lượng cổ phần nắm giữ.

3.3.2 Phương thức hoạt động

Các nhà tư bản, công ty, xí nghiệp sản xuất cùng tham gia Trust; những nhà tư bản có công ty
lớn nhất sẽ trở thành ban quản lý của Trust. Mỗi nhà tư bản trong Trust nắm giữ một lượng
cổ phần nhất định, phù hợp với quy mô ban đầu của họ. Mọi công đoạn thu mua nguyên liệu
đầu vào, sản xuất, định giá sản phẩm, lưu thông hàng hóa đều đặt dưới sự quản lý điều hành
của ban quản trị. Lợi nhuận thu được sẽ được phân chia theo cổ phần của mỗi nhà tư bản.
Trust hoạt động chặt chẽ, càng nhiều thành viên tham gia thì càng trở nên lớn mạnh và dần
dần tạo nên một vị thế độc quyền vững chắc trên thị trường, chiếm thế quản lý cả một lĩnh
vực, ngành nghề, khiến cho lợi nhuận ngày càng cao, thị trường mất đi khả năng cạnh tranh.
Trust có thể liên minh theo chiều ngang gồm các xí nghiệp cùng ngành hoặc theo chiều dọc
gồm các xí nghiệp khác ngành nhưng có liên quan với nhau về mặt kỹ thuật.

3.3.3 Ưu điểm

Do không nhà tư bản nào giữ độc quyền về sản xuất hay thương mại mà chỉ nắm giữ cổ phần
và lợi nhuận được phân chia theo cổ phần nên Trust thường rất chặt chẽ, đảm bảo sự bền
vững trong thời gian dài. Nhờ sự bền vững cộng thêm vị thế độc quyền, Trust có thể phát
triển rất mạnh mẽ, ngày càng củng cố thế độc quyền của mình trên thị trường, đi kèm với đó
là lợi nhuận được đảm bảo rất lớn.

3.3.4 Nhược điểm

Vị thế độc quyền lớn mạnh của Trust gây ra lo ngại rất lớn trong nền kinh tế, thường tạo tác
động tiêu cực đối với kinh tế, xã hội, vì vậy Trust luôn được các quốc gia xem như hình thức
cần chống lại. Luật chống độc quyền và đảm bảo cạnh tranh hiện này cũng được mang tên là
“Anti-Trust Law”.
Một ví dụ điển hình và độc quyền Trust đó là tập đoàn dầu lửa Standard Oil được thành lập
gắn liền với tên tuổi của “Vua dầu lửa” Rockefeller. Rockefeller trở thành một nhà công
nghiệp trong lĩnh vực dầu mỏ và với việc nắm giữ bí quyết công nghệ khả năng cạnh tranh
của công ty rất lớn. Để kiểm soát và tiến tới thống trị thị trường dầu mỏ đồng thời tránh bị
cản trở, Rockefeller lên kế hoạch “cạnh tranh và gặm nhấm” hay “thâu tóm từng thị phần”
(lên kế hoạch để cho một số công ty nhỏ tự sáp nhập trước khi mua lại). Tuy nhiên vào năm
1911, Tòa án tối cao Hoa Kỳ phán quyết rằng Standard Oil là một độc quyền bất hợp pháp và
chia nhỏ Standard Oil thành 38 công ty độc lập.

3.4 Consortium

3.4.1 Khái niệm

Consortium là một hình thức độc quyền có trình độ và quy mô lớn hơn các hình thức độc
quyền trên. Tham gia consortium không chỉ có các nhà tư bản lớn mà còn cả các Syndicate,
Cartel thuộc các ngành khác nhau nhưng liên quan với nhau về kinh tế, kỹ thuật. Với kiểu
liên kết dọc như vậy, một consortium có thể có hàng trăm xí nghiệp liên kết trên cơ sở hoàn
toàn phụ thuộc về tài chính vào một nhóm tư bản kếch xù.

3.4.2 Phương thức hoạt động

Một consortium được lập ra bởi hợp đồng, thống nhất về quyền lợi và trách nhiệm của thành
viên. Các thành viên tham gia consortium có nghĩa vụ cũng như thu được quyền lợi phụ
thuộc vào phần đóng góp của mình; các quyền lợi và nghĩa vụ này được quyết định trên hợp
đồng có thời hạn và có thể thay đổi. Consortium có vai trò pháp lý độc lập với các thành viên,
và việc chia sẻ trách nhiệm pháp lý được quy định trong hợp đồng của mỗi Consortium. Các
thành viên chỉ có thể rút khỏi consortium khi hợp đồng hết hiệu lực.

3.4.3 Ưu điểm

Consortium có ưu điểm là cực kỳ ổn định về lâu dài. Các thành viên có sự liên kết chặt chẽ
với nhau dựa vào hợp đồng đã thống nhất. Dựa vào liên kết giữa nhiều nhà tư bản,
Consortium có thể đạt đến quy mô rất lớn, phát triển vị thế độc quyền lớn mạnh trong một
lĩnh vực nhất định. Lợi nhuận thu được rất lớn và vị thế độc quyền có thể duy trì trong thời
gian dài.

3.4.4 Nhược điểm

Do sự liên kết chặt chẽ nên khi xảy ra trường hợp một thành viên muốn rút khỏi Consortium
điều này có thể dẫn đến những hậu quả khó lường, tạo ra biến động khó kiểm soát, ảnh hưởng
đến vị thế độc quyền.

IV. CÁC TÁC ĐỘNG CỦA ĐỘC QUYỀN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

4.1 Tác động tích cực

4.1.1 Độc quyền tạo ra khả năng to lớn trong việc nghiên cứu và triển khai các hoạt
động khoa học kỹ thuật, thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật.
Độc quyền là kết quả của quá trình tập trung sản xuất ở mức độ cao. Các tổ chức độc quyền
có khả năng tập trung được các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực về tài chính từ đó dễ dàng
trong việc nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học kỹ thuật, thúc đẩy sự tiến bộ kỹ
thuật. Tuy nhiên, khả năng ấy có trở thành hiện thực hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu
tố, nhất là phụ thuộc vào mục đích kinh tế của các tổ chức độc quyền trong nền kinh tế thị
trường.

4.1.2 Độc quyền có thể làm tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh
của bản thân tổ chức độc quyền.

Là kết quả của tập trung sản xuất và sự liên minh các doanh nghiệp lớn, độc quyền tạo ra
được ưu thế về vốn trong việc ứng dụng những thành tựu kỹ thuật, công nghệ sản xuất mới,
hiện đại, áp dụng những phương pháp sản xuất tiên tiến, làm tăng năng suất lao động, giảm
chi phí sản xuất

4.1.3 Độc quyền tạo được sức mạnh kinh tế góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển
theo hướng sản xuất lớn hiện đại.

Với ưu thế lớn về sức mạnh tài chính, độc quyền có khả năng đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế
trọng tâm, mũi nhọn thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển theo hướng sản xuất tập
trung, quy mô lớn, hiện đại. V.I.Lênin viết: “Nhưng trước mắt chúng ta cạnh tranh tự do biến
thành độc quyền và tạo ra nền sản xuất lớn, loại bỏ nền sản xuất nhỏ, hay thể nền sản xuất
lớn bằng một nền sản xuất lớn hơn nữa”

4.2 Tác động tiêu cực

4.2.1 Độc quyền xuất hiện làm cho cạnh tranh không hoàn hảo gây thiệt hại cho
người tiêu dùng và xã hội.

Mặc dù đã được phân tích ở trên, độc quyền có khả năng giảm giá cả hàng hoá thông qua sản
xuất quy mô lớn, nhưng trên thực tế, độc quyền áp đặt giá cả hàng hoá lên người tiêu dùng.
Họ áp đặt giá bán hàng hoá cao và giá mua thấp, thực hiện sự trao đổi không ngang giá, hạn
chế khối lượng hàng hóa… tạo ra sự cung cầu giả tạo về hàng hóa, gây thiệt hại cho người
tiêu dùng và xã hội.

Ví dụ : Vì độc quyền là nhà cung cấp duy nhất nên họ có thể đặt bất kỳ giá nào họ muốn. Đó
gọi là ấn định giá.. Doanh nghiệp hoàn toàn có thể ấn định giá bất kể nhu cầu người dùng vì
trong trường hợp này, người tiêu dùng không có nhiều sự lựa chọn, đặc biệt đối với các nhu
cầu thiết yếu không đổi Xăng là một ví dụ. Một số lái xe có thể chuyển sang phương tiện
giao thông đại chúng hoặc xe đạp, nhưng hầu hết không thể thay thế xăng bằng một nguyên
liệu khác
4.2.2 Độc quyền có thể kìm hãm sự tiến bộ kỹ thuật, theo đó kìm hãm sự phát triển
kinh tế, xã hội.

Độc quyền tập trung được các nguồn lực lớn, tạo ra khả năng nghiên cứu, phát minh các sáng
chế khoa học, kỹ thuật. Nhưng vì lợi ích độc quyền, hoạt động nghiên cứu, phát minh, sáng
chế chỉ được thực hiện khi vị thế độc quyền của chúng không có nguy cơ bị lung lay. Vì
muốn chiếm ưu thế về lợi ích độc quyền, các tổ chức độc quyền đã từ chối các phát minh,
nghiên cứu mới, ít nhiều kìm hãm sự tiến bộ trong khoa học kỹ thuật, dẫn đến trì trệ trong
phát triển kinh tế xã hội.

4.2.3 Khi độc quyền nhà nước bị chi phối bởi nhóm lợi ích cục bộ hoặc khi độc quyền
tư nhân chi phối các quan hệ kinh tế, xã hội sẽ gây ra hiện tượng làm tăng sự phân hóa giàu
nghèo.

Với địa vị thống trị kinh tế của mình và mục đích lợi nhuận độc quyền cao, độc quyền có khả
năng và không ngừng bành trướng sang các lĩnh vực chính trị, xã hội, kết hợp với các nhân
viên chính phủ để thực hiện mục đích lợi ích nhóm, kết hợp với sức mạnh nhà nước hình
thành độc quyền nhà nước, chi phối cả quan hệ, đường lối đối nội, đối ngoại của quốc gia, vì
lợi ích của các tổ chức độc quyền, không vì lợi ích của đại đa số nhân dân lao động.

B. LIÊN HỆ: VINFAST (Độc quyền về ô tô điện tại thị trường Việt Nam)

I. TỔNG QUAN VỀ VINFAST


1.1. Giới thiệu
VinFast (hay VinFast LLC), tên đầy đủ là Công ty Trách nhiệm hữu hạn Kinh doanh Thương
mại và Dịch vụ VinFast, là một công ty con thuộc sở hữu của Tập đoàn VinGroup - Tập đoàn
được thành lập tại Singapore vào ngày 19/1/2015 với kỳ vọng sẽ trở thành thương hiệu xe ô
tô Việt đầu tiên vươn tầm thế giới, trở thành niềm tự hào của Việt Nam. Với giá trị cốt lõi
“Tín - Tâm - Trí - Tốc - Tinh - Nhân” của tập đoàn mẹ VinGroup, VinFast đã và đang tạo ra
sức mạnh bền bỉ để xây dựng nên một cộng đồng văn minh, xanh sạch đẹp.
1.2. Độc quyền về mặt hàng gì?
Tại Việt Nam, VinFast là thương hiệu tiên phong độc quyền trong công nghệ sản xuất và
kinh doanh xe điện.
II. QUÁ TRÌNH GÂY DỰNG NÊN THÀNH CÔNG CỦA PHẠM NHẬT VƯỢNG

2.1 Xuất phát điểm khiêm tốn của Phạm Nhật Vượng

Ông Phạm Nhật Vượng sinh tháng 8/1968 trong một gia đình nghèo cùng với 3 người anh em
nữa. Cha ông là bộ đội, phục vụ trong lực lượng phòng không những năm chiến tranh. Những
năm khó khăn thời bao cấp, mẹ ông mở quán nước chè vỉa hè để nuôi các con ăn học. Giai
đoạn thời ấy, tình hình kinh tế Việt Nam nói chung và những gia đình ở vùng nông thôn nói
riêng vô cùng khó khăn. Xuất thân từ miền quê nghèo nhưng giàu truyền thống hiếu học,
chàng thanh niên trẻ Phạm Nhật Vượng đã nuôi dưỡng ước mơ thoát nghèo. Năm 1982 Phạm
Nhật Vượng theo học tại trường Trường Trung học phổ thông Kim Liên, quận Đống Đa, Hà
Nội, năm 1985 ông tốt nghiệp. Năm 1987, sau khi thi đỗ vào trường Đại học Mỏ Địa chất Hà
Nội với thành tích Toán học vượt trội, chàng thanh niên tròn 18 tuổi đã được Chính phủ cử
sang nước Nga để tiếp tục nghiên cứu về ngành Địa chất học. Đây thực sự là cơ hội, là bước
ngoặt lớn giúp ông Vượng định hình cho sự thành công trên cương vị Chủ tịch Tập đoàn
Vingroup sau này.

2.2 Cộng hòa Liên bang Nga - Bệ đỡ nuôi dưỡng thành công

Suốt thời gian dài sinh sống và học tập tại Liên bang Xô Viết cũ (Nga), ông Vượng nhận thấy
đời sống của người dân nơi đây còn nhiều thiếu thốn, khó khăn. Đây cũng là lúc bắt đầu câu
chuyện khởi nghiệp mì gói huyền thoại của ông Phạm Nhật Vượng. Vay mượn được số tiền
trị giá khoảng 10.000 USD, ông Vượng mở một nhà hàng tại Kharkov mang tên Thăng Long.
Sau đó, ông về Việt Nam mua một dây chuyền mì ăn liền hai vắt thô sơ, quay tay đưa sang
Ukraine và bắt đầu sản xuất mì ăn liền hiệu Mivina, bán cho dân bản địa. Sản phẩm của
Technocom, doanh nghiệp của ông Vượng thành lập năm 1993 hoàn toàn xa lạ với Ukraine
nhưng lại nhanh chóng được đón nhận.
2.3 Từ ông vua mì gói đến chủ tịch tập đoàn Vingroup

Đầu những năm 2000, ông Vượng đầu tư về Việt Nam, tham gia lĩnh vực bất động sản du
lịch với thương hiệu Vinpearl tại Nha Trang và lĩnh vực bất động sản thương mại với thương
hiệu Vincom tại Hà Nội. Năm 2009, ông bán công ty tại Ukraina – thời điểm đó đang có
doanh thu 100 triệu USD cho Nestle và chuyển toàn bộ hoạt động kinh doanh về Việt Nam.
Ông đã ghi dấu ấn với việc phát triển những khu đô thị, du lịch, nghỉ dưỡng và các tòa tháp
văn phòng, trung tâm thương mại cao cấp nhất Việt Nam.

Ông trở thành tỷ phú đôla đầu tiên trên sàn chứng khoán Việt Nam từ ngày 7/3/2011, liên tục
giữ vị trí người giàu nhất trên sàn chứng khoán trong các năm 2010, 2011 và 2012. Năm
2012, Vinpearl sáp nhập vào Vincom trở thành Tập đoàn Vingroup với vốn điều lệ hơn 7.000
tỷ đồng, trở thành công ty có mức vốn hóa lớn nhất trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Vingroup hiện có một danh mục đầu tư với 31 dự án bất động sản khắp cả nước, trong đó 12
dự án đã được hoàn thành, 3 dự án đang được xây dựng và phần còn lại đang trong giai đoạn
quy hoạch.
III. MẶT HÀNG XE ĐIỆN
3.1 Tại sao lại độc quyền về mặt hàng xe điện tại Việt Nam?
Nắm bắt được tính cấp thiết của việc bảo vệ môi trường và xu hướng tiêu thụ xe của người
tiêu dùng, VinFast chính thức công bố ngừng kinh doanh xe ô tô chạy xăng. Cuối tháng
8/2022, VinFast chuyển đổi hoàn toàn sang sản xuất và kinh doanh xe điện, tiên phong cho ra
mắt thị trường Việt Nam bộ sưu tập xe điện.

3.1.1 Đối với thị trường Việt Nam


Vinfast là hãng xe đầu tiên tại thị trường Việt Nam tiên phong cho quá trình sản xuất xe điện
với nguồn nhiên liệu thân thiện với môi trường. Ngày 15/7/2022, VinFast chính thức công bố
ngừng kinh doanh xe ô tô chạy xăng, nhà máy được chuyển đổi sang dây chuyền sản xuất ô
tô điện.
Vinfast là doanh nghiệp duy nhất sở hữu khu phức hợp máy sản xuất ô tô hàng đầu Đông
Nam Á: được xây dựng trên khu đất rộng 335 ha tại khu công nghiệp Đình Vũ, huyện Cát
Hải, TP Hải Phòng. Tại khu phức hợp hiện đại hàng đầu Đông Nam Á này có: Khu nhà máy
sản xuất ô tô, Khu nhà máy sản xuất xe máy điện, Khu nhà máy sản xuất xe buýt điện, Nhà
điều hành…Công suất của nhà máy ô tô là sản xuất 250.000 xe/năm giai đoạn 1, dự kiến
nâng công suất lên tới 950,000 xe/năm. Mức độ tự động hóa ở đây rất cao, với 1.200 robot,
xưởng thân vỏ 98% tự động, xưởng động cơ 90% tự động.
3.1.2 Đối với thị trường quốc tế
Mặt hàng xe ô tô điện còn khá mới mẻ với thị trường phương tiện đi lại trong gần 10 năm trở
lại đây. Các hãng xe ô tô điện trên thế giới đang từng bước khẳng định vị thế và sứ mệnh của
mình đối với ngành công nghiệp giao thông vận tải, có thể kể đến như Tesla, BLD,.. Do đó
Vinfast- một gương mặt mới trong lĩnh vực xe điện cần có sức cạnh tranh mạnh mẽ nếu
muốn phát triển bền vững trong lĩnh vực này.
3.2 Ưu điểm của mặt hàng xe điện VinFast
3.2.1 Thiết kế mang đậm chất Việt Nam, thể hiện niềm tự hào dân tộc
3.2.2 Loạt tính năng an toàn, thông minh không đối thủ
3.2.3 Hiện thực hóa ước mơ về một chiếc ô tô “made in Việt Nam”đầu tiên cho người Việt
3.3 Nhược điểm của xe điện VinFast
3.3.1 Chi phí sở hữu cao
3.3.2 Lộ trình ngắn, thời gian sạc lâu
3.3.3 Non trẻ trên thị trường thế giới

BIỂU HIỆN MỚI CỦA ĐỘC QUYỀN, ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC TRONG ĐIỀU
KIỆN NGÀY NAY, VAI TRÒ LỊCH SỬ CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
CHƯƠNG 1: BIỂU HIỆN MỚI CỦA ĐỘC QUYỀN

1.1. Biểu hiện mới của tích tụ và tập trung cơ bản

Hiện nay, đặc điểm tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền có những biểu hiện mới, đó
là sự xuất hiện các công ty độc quyền xuyên quốc gia bên cạnh sự phát triển của các xí
nghiệp vừa và nhỏ.

Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học và công nghệ nên đã diễn ra quá trình
hình thành những sự liên kết giữa các độc quyền theo cả hai chiều: chiều dọc và chiều ngang,
ở cả trong và ngoài nước. Từ đó, những hình thức tổ chức độc quyền mới đã ra đời. Đó là các
Concern và các Conglomerate.

Concern: Là tổ chức độc quyền đa ngành, thành phần của nó có hàng trăm xí nghiệp có quan
hệ với những ngành khác nhau và được phân bổ ở nhiều nước. Hay nói 1 cách dễ hiểu hơn thì
Concern thường là các tập đoàn bao gồm các xí nghiệp sở hữu toàn phần, chúng được hình
thành bằng phương pháp các công ty lớn thôn tính các công ty yếu hơn và biến chúng thành
các chi nhánh của mình, các công ty yếu hơn này chỉ kém về mặt tài chính nhưng lại là những
công ty có triển vọng, đáp ứng được yêu cầu phát triển của công ty lớn.

Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến độc quyền đa ngành là do cạnh tranh gay gắt việc kinh doanh
chuyên môn hoá hẹp dễ bị phá sản. Hơn nữa, hình thức độc quyền đa ngành còn để đối phó
với luật chống độc quyền ở hầu hết các nước tư bản chủ nghĩa (luật này cấm độc quyền 100%
mặt hàng trong một ngành).

Ví dụ: De Beers: Là một trong những công ty lớn nhất trong ngành công nghiệp kim cương
và kim loại quý, De Beers đã lâu nay được coi là một tổ chức độc quyền trong việc khai thác
và phân phối kim cương.

Conglomerate: Là sự kết hợp của hàng chục những hãng vừa và nhỏ không có sự liên quan
trực tiếp về sản xuất hoặc dịch vụ cho sản xuất. Việc điều hành Conglomerate khá gọn nhẹ,
linh hoạt, chủ yếu là kiểm soát hoạt động của các chi nhánh thông qua hệ thống tài chính và
chỉ đạo hành chính kiểu mạng lưới. Mục đích chủ yếu của các Conglomerate là thu lợi nhuận
từ kinh doanh chứng khoán. Do vậy phần lớn các Conglomerate dễ bị phá sản nhanh hoặc
chuyển thành các Concern. Tuy nhiên một bộ phận các Conglomerate vẫn tồn tại vững chắc
bằng cách kinh doanh trong lĩnh vực tài chính trong những điều kiện thường xuyên biến động
của nền kinh tế thế giới.

Ví dụ: Samsung Group: Là một trong những tập đoàn lớn nhất ở Hàn Quốc, Samsung sở hữu
các công ty con hoạt động trong nhiều lĩnh vực, bao gồm điện tử tiêu dùng, công nghệ thông
tin, dịch vụ tài chính và dược phẩm.

Các Conglomerate chỉ thôn tính các công ty thông qua việc mua bán cổ phiếu trên thị trường
chứng khoán. Chúng mua bất kể công ty nào, thuộc các ngành khác nhau nếu thấy có lợi. Đây
là loại liên kết theo chiều dọc, khác với Concern có liên kết theo chiều ngang, theo cùng
ngành sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, sự phân định giữa hai hình thức này chỉ mang tính
khái quát lý thuyết mà thôi, trong thực tế, do điều kiện tác nghiệp thay đổi, do mối tương
quan giữa cạnh tranh, độc quyền và nhiều yếu tố khác thì các hình thức liên kết theo chiều
dọc hoặc ngang trong nội bộ công ty được biến dạng, đan xen nhau, tạo nên kiểu kinh doanh
đa dạng hoá.
Ở các nước tư bản phát triển hiện nay, bên cạnh các tổ chức độc quyền lớn lại ngày càng xuất
hiện nhiều doanh nghiệp (công ty, hãng) vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong nền kinh tế.
Sự xuất hiện nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ là do:

Thứ nhất, việc ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ cho phép tiêu chuẩn hóa và
chuyên môn hoá sản xuất sâu, dẫn đến hình thành hệ thống gia công. Đây cũng chính là biểu
hiện của độc quyền dưới một dạng mới, thể hiện ở chỗ là: các hãng, công ty vừa và nhỏ phụ
thuộc vào các Concern và Conglomerate về nhiều mặt. Sự kiểm soát của độc quyền được
thực hiện dưới những hình thức mới thông qua quan hệ hợp tác giữa độc quyền lớn với các
hãng vừa và nhỏ. Thông qua quan hệ hợp tác này, các độc quyền lớn sẽ mở rộng khả năng
kiểm soát sản xuất nói chung, tiến bộ khoa học và công nghệ nói riêng.

Thứ hai, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có những thế mạnh của nó, đó là:

Nhạy cảm đối với thay đổi trong sản xuất;

Linh hoạt ứng phó với sự biến động của thị trường;

Mạnh dạn đầu tư vào những ngành mới đòi hỏi sự mạo hiểm;

Dễ đổi mới trang thiết bị, kỹ thuật mà không cần nhiều chi phí bổ sung;

Có thể kết hợp nhiều loại hình kỹ thuật để sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao
trong điều kiện két cấu hạ tầng hạn chế.

Ngoài ra, độc quyền cũng bắt đầu xuất hiện cả ở những nước đang phát triển. Đó là kết quả
của sự thâm nhập của các công ty xuyên quốc gia vào các nước này và sự ứng dụng những
thành tựu khoa học - kỹ thuật hiện đại khiến cho chỉ một doanh nghiệp lớn cũng đủ sức mạnh
chi phối việc sản xuất và tiêu thụ của cả một ngành mới ra đời ở một nước đang phát triển và
tới mức độ nhất định có thể bành trướng ra bên ngoài.

Các tổ chức độc quyền luôn có xu hướng bành trướng quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, xu
hướng vận động của chúng là trở thành các công ty xuyên quốc gia và liên minh với nhà nước
hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Đó là biểu hiện mới của độc quyền và là
hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong những điều kiện mới.

1.2. Biểu hiện về vai trò tư bản tài chính trong các tập đoàn độc quyền

V.I.Lênin từng nói: “Tư bản tài chính là kết quả hợp nhất giữa tư bản ngân hàng của một số
ngân hàng độc quyền lớn nhất, với tư bản của những liên minh độc quyền về công nghiệp”.
Ví dụ: Ngân hàng lớn cho các tập đoàn vay để sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng mua cổ
phiếu để chi phối, kiểm soát và hưởng lợi ích. Các tập đoàn cũng mua cổ phần từ ngân hàng
để kiểm soát lại hoặc tự lập ngân hàng cho mình.

Từ cuối thế kỷ XX đến nay, tư bản tài chính đã có sự thay đổi và những biểu hiện mới, đó là
do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, trong nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện và phát triển nhiều ngành kinh tế mới, đặc biệt là các
ngành thuộc "phần mềm" như dịch vụ, bảo hiểm ... ngày càng chiếm tỷ trọng lớn. Thích ứng
với sự biến đổi đó, phạm vi liên kết và xâm nhập vào nhau được mở rộng ra nhiều ngành,
dưới hình thức một tổ hợp đa dạng kiểu: công - nông - thương - tín - dịch vụ hay công nghiệp
- quân sự - dịch vụ quốc phòng;... Nội dung của sự liên kết cũng đa dạng hơn, tinh vi hơn và
phức tạp hơn.

Cơ chế tham dự của tư bản tài chính cũng có sự biến đổi, cổ phiếu có mệnh giá nhỏ được phát
hành rộng rãi, khối lượng cổ phiếu tăng lên, nhiều tầng lớp dân cư cũng có thể mua được cổ
phiếu và trở thành các cổ động nhỏ, ... kéo theo đó là "chế độ tham dự" được bổ sung thêm
bằng "chế độ uỷ nhiệm", nghĩa là những đại cổ đông được "uỷ nhiệm" thay mặt cho đa số cổ
đông có ít cổ phiếu (các cổ đông nhỏ) quyết định phương hướng hoạt động của công ty cổ
phần. Các chủ sở hữu lớn giờ đây vừa khống chế trực tiếp vừa khống chế gián tiếp thông qua
biến động trên thị trường tài chính, buộc các nhà quản lý phải tuân theo lợi ích của chúng.

Để thích ứng với quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế, ‘các tập đoàn tư bản tài chính đã
thành lập các ngân hàng đa quốc gia và xuyên quốc gia, thực hiện việc điều tiết các Concern
và Conglomerate xâm nhập vào nền kinh tế của các quốc gia khác.

Sự ra đời của các trung tâm tài chính của thế giới là kết quả hoạt động của các tập đoàn tài
chính quốc tế.

1.3. Biểu hiện mới xuất khẩu tư bản


a. Xuất khẩu tư bản là gì?
Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước ngoài) nhằm mục
đích bóc lột giá trị thặng dư và các nguồn lợi khác ở các nước nhập khẩu tư bản. Lênin khẳng
định rằng, xuất khẩu tư bản khác về nguyên tắc với xuất khẩu hàng hóa và là quá trình ăn
bám bình phương.

b. Biểu hiện

Thứ nhất, trước kia luồng tư bản xuất khẩu chủ yếu từ các nước tư bản phát triển sang các
nước kém phát triển. Nhưng những thập kỷ gần đây đại bộ phận dòng đầu tư lại chảy qua lại
giữa các nước tư bản phát triển với nhau. Đó là do: ở các nước tư bản phát triển đã phát triển
các ngành có hàm lượng khoa học - kỹ thuật cao và hàm lượng vốn lớn, nên đầu tư vào đây
lại thu được lợi nhuận cao. Ở các nước đang phát triển lại có kết cấu hạ tầng lạc hậu, tình
hình chính trị kém ổn định, nên đầu tư có phần rủi ro và tỷ suất lợi nhuận của tư bản đầu tư
không còn cao như trước đây.

Thứ hai, chủ thể xuất khẩu tư bản có sự thay đổi lớn, trong đó vai trò của các công ty xuyên
quốc gia (Transnational Corporation - TNCs) trong xuất khẩu tư bản ngày càng to lớn, đặc
biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment - FDI). Mặt khác, đã xuất hiện
nhiều chủ thể xuất khẩu tư bản từ các nước đang phát triển.

Ví dụ: Một công ty nước ngoài mở một nhà máy sản xuất ở một quốc gia đang phát triển.
Công ty này không chỉ xuất khẩu sản phẩm của mình, mà còn chuyển giao công nghệ sản
xuất và cung cấp đào tạo kỹ thuật cho lao động địa phương. Điều này không chỉ giúp nâng
cao năng lực sản xuất mà còn tạo ra cơ hội việc làm và phát triển kỹ thuật cho quốc gia đó.

Có thể kể đến như trường hợp Tập đoàn Samsung của Hàn Quốc xây dựng các nhà máy sản
xuất điện thoại di động, thiết bị gia dụng với quy mô lớn tại Việt Nam. Hay việc năm 2023,
Apple, một trong những tập đoàn công nghệ lớn nhất thế giới, đã quyết định chuyển đến Việt
Nam 11 nhà máy sản xuất.

Thứ ba, hình thức xuất khẩu tư bản rất đa dạng, sự đan xen giữa xuất khẩu tư bản và xuất
khẩu hàng hóa tăng lên. Chẳng hạn trong đầu tư trực tiếp xuất hiện những hình thức mới như:
xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (Build-Operate-Transfer - BOT); xây dựng - chuyển
giao (Built and Transfer - BT),... Sự kết hợp giữa xuất khẩu tư bản với các hợp đồng buôn
bán hàng hóa, dịch vụ, chất xám,... không ngừng tăng lên.

Ví dụ: Khu công nghiệp Amata Đồng Nai là một ví dụ về hình thức xây dựng-kinh doanh-
chuyển giao (BOT) trong việc phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế tại Việt Nam. Dự án này được
đầu tư và xây dựng vào năm 1994 bởi Tập đoàn Amata, một tập đoàn đầu tư từ Thái Lan.
Sau khi hoàn thành xây dựng, Tập đoàn Amata đã tiến hành vận hành và quản lý khu công
nghiệp trong một khoảng thời gian, và đảm bảo hoạt động của khu công nghiệp được diễn ra
một cách hiệu quả và an toàn. Sau một khoảng thời gian vận hành, khu công nghiệp sẽ được
chuyển giao cho chính quyền địa phương và trở thành tài sản công cộng. Khu công nghiệp
Amata Đồng Nai không chỉ tạo ra cơ hội việc làm và thu hút đầu tư nước ngoài mà còn đóng
góp vào sự phát triển kinh tế và xã hội của Đồng Nai và cả nước Việt Nam.
Thứ tư, sự áp đặt mang tính chất thực dân trong xuất khẩu tư bản đã được gỡ bỏ dần và
nguyên tắc cùng có lợi trong đầu tư được đề cao.

1.4. Biểu hiện mới sự phân chia thị trường thế giới giữa các liên minh độc quyền

Sự phân chia thị trường thế giới giữa các liên minh độc quyền có những biểu hiện mới do tác
động của xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hóa kinh tế ngày càng tăng bên cạnh xu hướng khu
vực hóa nền kinh tế.

Nhiều liên minh kinh tế khu vực đã được hình thành như:

Châu Âu:Liên minh Châu Âu (EU) ra đời cùng với đồng tiền chung châu Âu (EURO). Hiện
nay liên minh Châu Âu đã bao gồm hầu hết các quốc gia Châu Âu tham gia.

Châu Mỹ: Khu vực Bắc Mỹ: Khối Mậu dịch Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) dựa trên Hiệp định
Mậu dịch Tự do Bắc Mỹ được ký kết giữa ba quốc gia đó là Mỹ, Canada và Mexico.

Khu vực Nam Mỹ: Thị trường Cộng đồng chung vùng Nam Mỹ (MERCOSUR) gồm: Brazil,
Argentina, Paraguay, Uruguay, Chile, Ecuador, Peru, Venezuela, Bolivia…

Châu Á - Phi: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), tiêu biểu có: Việt Nam, Lào,
Campuchia, Brunei, Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Philippines, Myanmar, Singapore.

Tổ chức Hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) gồm 21 nền kinh tế tham gia
tiêu biểu có: Mỹ, Canada, Trung Quốc, Úc, Hàn Quốc, Singapore, Việt Nam,…

Tổ chức các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) gồm các nước Châu Á - Phi đang phát triển
như Indonesia, Ả Rập, Qatar, UAE, Nigeria…

Liên minh mậu dịch Tự do (FTA) và Liên minh thuế quan (CU). FTA là khu vực trong đó
các nước thành viên cam kết xóa bỏ hàng rào thuế quan đối với hàng hóa của nhau, CU là
liên minh trong đó các nước thành viên có mức thuế chung đối với hàng hóa nhập khẩu từ các
nước ngoài khối.

Theo thống kê của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), 109 khối liên kết khu vực đã ra đời
trong khoảng thời gian từ năm 1948 đến cuối năm 1994, gần 1/3 trong số này xuất hiện vào
những năm 1990 - 1994. Các liên minh kinh tế khu vực hấp dẫn nhiều chính phủ vì chúng có
nhiều ưu thế hơn so với tiến trình tự do hóa thương mại toàn cầu.

Tư bản độc quyền quốc tế đang chi phối quá trình toàn cầu hoá, khu vực hóa nền kinh tế ngày
nay thông qua các tổ chức kinh tế quốc tế và đang hạn chế sự phát triển của các tổ chức khu
vực.
1.5. Biểu hiện mới về sự phân chia lãnh thổ dưới sự chi phối của các tập đoàn độc quyền

Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc tư bản vẫn tiếp tục dưới những hình
thức cạnh tranh và thống trị mới.

Vào nửa cuối thế kỷ XX, tuy chủ nghĩa thực dân cũ đã hoàn toàn sụp đổ và chủ nghĩa thực
dân mới đã suy yếu, nhưng các cường quốc tư bản vẫn tranh giành nhau phạm vi ảnh hưởng
bằng cách:

Thực hiện "chiến lược biên giới mềm", biên giới mềm chỉ một quốc gia phát huy nội lực để
áp đặt tầm ảnh hưởng của quốc gia mình lên quốc gia khác khác thông qua việc phát triển các
lĩnh vực khác nhau của đời sống như: kinh tế, văn hóa, môi trường,...

Ra sức bành trướng "biên giới kinh tế" rộng hơn biên giới địa lý

Lý do là để ràng buộc, chi phối các nước kém phát triển từ sự lệ thuộc về vốn, công nghệ đi
đến sự lệ thuộc về chính trị vào các cường quốc tư bản dưới mọi hình thức lúc ngấm ngầm,
lúc công khai.

Ví dụ: Nếu như trước đây, các tổ chức độc quyền ép buộc các nhà nước tư sản tiến hành
chiến tranh xâm lược và trong đó các cuộc phân chia lại thế giới lớn nhất là CTTG II. Sau
này, chủ nghĩa thực dân cũ và mới dần dần tan rã ở các quốc gia sau hàng loạt các cuộc
cách mạng, giành độc lập dân tộc như Việt Nam 1945. Điều đó khiến cho xâm chiếm lãnh
thổ thế giới là không còn.

Sang đầu thế kỷ XXI, chiến tranh lạnh kết thúc, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi,
nhưng sự phân chia lãnh thổ thế giới vẫn còn xuất hiện: Tiềm ẩn trong những nguy cơ chạy
đua vũ trang mới, thực chất là nguy cơ chiến tranh lạnh phục hồi trở lại. Những cuộc chiến
tranh thương mại, những cuộc chiến tranh sắc tộc, tôn giáo mà đứng bên trong hoặc núp đằng
sau, trực tiếp hoặc gián tiếp các cuộc đụng độ, là các cường quốc tư bản.

CHƯƠNG 2: BIỂU HIỆN MỚI CỦA ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC

2.1. Biểu hiện mới về cơ chế quan hệ nhân sự

Sự phát triển của trình độ dân trí và quy luật cạnh tranh trong xã hội tư bản ngày nay dẫn đến
sự thay đổi về quan hệ nhân sự trong bộ máy chính quyền nhà nước. Thể chế đa nguyên trong
phân chia quyền lực nhà nước trở thành phổ biến.

Ở các nước tư bản phát triển nhất, xu hướng thường là sự thỏa hiệp giữa các thế lực tư bản để
cùng tồn tại và cùng phân chia quyền lực. Điều này có nghĩa là không có một thế lực tư bản
nào có thể độc tôn chuyên quyền hoàn toàn. Cơ chế thỏa hiệp này thường được xây dựng dựa
trên một hệ thống pháp luật và các quy định cụ thể để đảm bảo rằng không có bên nào chiếm
quyền lực một cách quá mức và không có ai có thể lợi dụng quyền lực của mình để làm tổn
thương hoặc áp đặt lên người khác một cách không công bằng. Tuy nhiên, việc thực hiện và
duy trì cơ chế thỏa hiệp này không phải lúc nào cũng dễ dàng. Nó đòi hỏi sự linh hoạt, sự tự
kiểm soát và sự tuân thủ đúng đắn từ tất cả các bên liên quan. Đồng thời, cần có một hệ thống
giám sát và kiểm tra hiệu quả để đảm bảo rằng không có ai lạm dụng quyền lực.

Ví dụ: Một cộng đồng hoặc tổ chức sản xuất có thể tự tổ chức thành một hình thức tự quản,
trong đó quyết định về quản lý sản xuất và phân phối được đưa ra bởi tất cả các thành viên,
thay vì chỉ bởi một số cá nhân lãnh đạo.

2.2. Biểu hiện mới về sở hữu nhà nước

Sở hữu nhà nước xuất hiện với những biểu hiện mới làm tăng quy mô và vai trò cũng như
thay đổi cơ chế quản lý, thu chi của nhà nước tư sản.

Về quy mô: Chi tiêu ngân sách nhà nước là công việc thuộc quyền của giới lập pháp. Giới
hành pháp bị giới hạn, thậm chí bị quản lý chặt chẽ bằng luật Ngân sách nhà nước. Chống
lạm phát và chống thất nghiệp được ưu tiên. Dự trữ quốc gia trở thành nguồn vốn chỉ có thể
được sử dụng trong những tình huống đặc biệt; cổ phần của nhà nước trong các ngân hàng và
công ty lớn trở thành phổ biến.

Ví dụ: Ngân sách của nước Mỹ là con số khổng lồ, có thể tác động tới các hoạt động kinh tế
trên phạm vi toàn cầu bằng nhiều cách. Trong đại dịch Covid-19, khi được thông qua, ngân
sách của Mỹ có thể tài trợ cho hàng trăm quốc gia chống dịch, bỏ qua mục đích đằng sau sự
giúp đỡ đó, ta nhận thấy được quy mô ngân sách của các quốc gia tư bản phát triển ngày
càng lớn.

Vai trò của đầu tư Nhà nước để khắc phục những chi phí tốn kém trong nghiên cứu khoa học
cơ bản, trong xây dựng kết cấu hạ tầng và giải quyết các nhu cầu mang tính xã hội ngày càng
tăng lên ở các nước tư bản phát triển. Nhà nước đã dùng ngân sách của mình để tạo nên
những cơ sở vật chất, gánh chịu các rủi ro lớn, còn các công ty tư nhân tập trung vào các lĩnh
vực có lợi nhuận hấp dẫn.

Nhà nước tư sản hiện đại là nhân tố quyết định trong ổn định kinh tế vĩ mô thông qua thu -
chi ngân sách, kiểm soát lãi suất, trợ cấp và trợ giá, kiểm soát tỷ giá hối đoái, mua sắm
công,... (1) Trong những điều kiện nhất định như khủng hoảng kinh tế, ngân sách nhà nước
còn được dùng để cứu những tập đoàn lớn khỏi nguy cơ phá sản (2).
(1) Biểu hiện rõ nét qua các đợt khủng hoảng, dịch bệnh. Các nước tư bản đã sử dụng các
công cụ tài chính như chính sách tài khóa, thu chi ngân sách, chính sách lãi suất,.. để tác
động đến nền kinh tế quốc gia, thậm chí làm thay đổi diện mạo nền kinh tế toàn cầu trước sự
sụp đổ dây chuyền.

(2) Ví dụ nổi bật là việc chính quyền Tổng thống Barack Obama tiến hành quốc hữu hoá
hãng sản xuất ô tô lớn thứ hai thế giới General Motors (GM) vào tháng 6/2009 khi hãng này
đối mặt với nguy cơ phá sản và tác động lớn đến ngành sản xuất ô tô Hoa Kỳ. Bộ Tài chính
Hoa Kỳ đã thành lập Công ty NGMCO (Chính phủ Hoa Kỳ nắm 60,8% cổ phần; Chính phủ
bang Ontario, Canada nắm 11,7% cổ phần và Nghiệp đoàn Công nhân Hoa Kỳ nắm lượng
cổ phần còn lại) để tung ra 30,1 tỷ USD mua lại toàn bộ tài sản, thương hiệu của GM và giữ
hoạt động sản xuất diễn ra bình thường.

Nhờ lợi thế vượt trội của mình về tiềm lực khi tham gia đấu thầu các dự án đầu tư bằng Ngân
sách nhà nước cho nên các tập đoàn độc quyền lớn thường thu được lợi nhuận khổng lồ trong
thực hiện các đơn đặt hàng trong các dự án đầu tư của Nhà nước.

Tại một số nước, định hướng ưu tiên cho các vấn đề xã hội trong chi tiêu ngân sách nhà nước
được luật pháp hóa. Trong số đó có phần chi cho các hoạt động bảo vệ môi trường, an sinh xã
hội. Nhờ đó ở những nước phát triển có môi trường xanh và sạch hơn, có nước như Na-uy có
giáo dục và y tế miễn phí toàn dân, ở một số nước châu Âu người dân thực tế được hưởng
phúc lợi xã hội khá cao. Nhưng sẽ là sai lầm nếu như coi những điều tốt đẹp đó là sự thức
tỉnh của giai cấp tư sản hay là sự nhân đạo hóa của chủ nghĩa tư bản. Đó thực ra là những
thành quả của cuộc đấu tranh bền bỉ nhiều năm của nhân dân tiến bộ ở những nơi đó, là
những sự “chuẩn bị vật chất của chủ nghĩa xã hội” mà chủ nghĩa tư bản tạo ra trong quá trình
phát triển của mình.

2.3. Biểu hiện mới trong vai trò công cụ điều tiết kinh tế của độc quyền nhà nước

Về chính trị, thì các chính phủ, nghị viện tư sản hiện đại cũng được tổ chức như một công ty
cổ phần tư bản chủ nghĩa. Với ý nghĩa đó “đa nguyên tư sản” được tầng lớp tư sản độc quyền
sử dụng vừa đổ làm dịu đi làn sóng đấu tranh của các tầng lớp nhân dân tiến bộ chống sự bóc
lột, khống chế của tư bản lũng đoạn vừa làm suy yếu sức mạnh của các lực lượng đối lập.
Còn một khi thấy xuất hiện nguy cơ bị mất quyền chi phối thì ngay lập tức sẽ có giải tán
chính phủ, quốc hội hoặc thiết quân luật, tình trạng khẩn cấp thậm chí đảo chính quân sự.
Viện trợ ưu đãi từ nguồn lực nhà nước có xu hướng gia tăng. Viện trợ cho nước ngoài của
Chính phủ trở thành một bộ phận của điều tiết kinh tế trong nước. Được chỉ định thực hiện
những dự án đó là một cơ hội lớn mà không có tập đoàn độc quyền nào không quan tâm. Đó
có thể là một phương thuốc cứu nguy trong bối cảnh hàng hóa tồn đọng, công nghệ lỗi thời
hoặc thị giá cổ phiếu sụt giảm,...

CHƯƠNG 3: VAI TRÒ LỊCH SỬ CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN

3.1. Vai trò tích cực của chủ nghĩa tư bản

Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng

Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ
với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao: chuyển từ kỹ thuật lao động thủ công lên
kỹ thuật cơ khí, sang tự động hóa, tin học hóa, ..... Chủ nghĩa tư bản có công lớn rồi trong
phát triển các cuộc cách mạng công nghiệp và hiện nay là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
xuất hiện vào đầu thế kỷ XXI, chuyển nền kinh tế của nhân loại bước vào một thời đại mới -
thời đại của kinh tế tri thức.

Khi bàn đến các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, ngoài việc đề cao vai trò của hai yếu tố:
tư liệu sản xuất và người lao động, C.Mác nhấn mạnh vai trò của khoa học công nghệ, coi đó
là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Ví dụ: Trong nông nghiệp, với mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn, Đảng và Nhà nước tích cực ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại vào sản
xuất nông nghiệp.

- Việc cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp ngày càng được đẩy mạnh.

- Nhiều loại máy móc hiện đại được đưa vào sản xuất nông nghiệp như máy cày bừa, máy
gặt, máy gieo hạt, máy sấy... Nhờ đưa máy móc, thiết bị hiện đại vào sản xuất và áp dụng cơ
chế quản lý hợp lý, năng suất và chất lượng trong sản xuất nông nghiệp của nước ta ngày
càng tăng.

- Ngành thủy nông cũng được cải thiện đáng kể với việc đưa vào sử dụng nhiều loại máy
bơm có công suất lớn có thể tưới tiêu trên phạm vi rộng.

- Nhiều giống lúa, hoa màu, giống cây trồng mới được đưa vào sản xuất có chất lượng, khả
năng chống chịu sâu bệnh, thiên tai tốt, đem lại năng suất cao, không chỉ đáp ứng nhu cầu
trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài.
Nước ta đã hình thành được những vùng nông nghiệp trọng điểm, chuyên canh, với những
mặt hàng nông sản xuất khẩu như gạo (Việt Nam đứng thứ 2 châu Á và thứ 3 thế giới về xuất
khẩu gạo), thủy hải sản, rau, củ, quả...

Chuyển nền sản xuất nhỏ thành nền sản xuất lớn hiện đại

Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy chuyển kinh tế hàng hóa giản đơn lên kinh tế hàng
hóa tư bản chủ nghĩa phát triển, chuyển nền sản xuất nhỏ thành nền sản xuất tập trung quy
mô lớn, hiện đại, năng suất cao. Dưới tác động của quy luật của nền kinh tế thị trường, chủ
nghĩa tư bản đã kích thích cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, tạo ra khối lượng sản
phẩm hàng hóa khổng lồ, phong phú. Với sự phát triển của lực lượng sản xuất và quy mô sản
xuất ngày càng lớn như vậy, là điều kiện thuận lợi để chuyển nền sản xuất nhỏ thành nền sản
xuất lớn hiện đại.

Thực hiện xã hội hóa sản xuất

Chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa phát triển mạnh và đạt tới mức điển hình
nhất trong lịch sử, cùng với nó là quá trình xã hội hóa sản xuất cả về chiều rộng và chiều sâu,
gồm các yếu tố sau:

Sự phát triển của phân công lao động xã hội: việc phân chia công việc làm tăng cường năng
suất lao động và đa dạng hóa sản phẩm. Sự phân công này tạo ra sự chuyên môn hóa hiệu quả
hơn trong từng lĩnh vực sản xuất.

Ví dụ: Điều này thường dẫn đến sự chuyên môn hoá rõ rệt trong các ngành công nghiệp. Ví
dụ, ngành công nghiệp ô tô có sự phân chia công việc chi tiết, từ thiết kế, sản xuất các linh
kiện đến lắp ráp và kiểm tra chất lượng. Mỗi giai đoạn được thực hiện bởi những người
chuyên nghiệp trong lĩnh vực của mình.

Sản xuất tập trung với quy mô lớn, hợp lý: Việc sản xuất với quy mô giúp giảm chi phí, tăng
cường năng suất và hiệu quả sản xuất. Những nhà máy lớn, quy mô hợp lý cung cấp sức
mạnh sản xuất mạnh mẽ và đáng tin cậy hơn.

Ví dụ: ngành công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, nơi các công ty sản xuất tập trung
lớn như Samsung, Apple hoặc Microsoft đã xây dựng các nhà máy sản xuất với quy mô lớn,
tạo ra hàng triệu sản phẩm với chi phí thấp và chất lượng cao.

Chuyên môn hoá sản xuất và hợp tác lao động sâu sắc: Sự chuyên môn hoá và hợp tác giữa
các người lao động và các đơn vị sản xuất đã tạo ra môi trường làm việc chuyên nghiệp và
hiệu quả hơn. Sự tập trung vào kỹ thuật và sự chia sẻ kiến thức giúp nâng cao năng suất lao
động

Liên hệ thực tế: Trong ngành y học, sự chuyên môn hoá đã dẫn đến việc hợp tác giữa bác sĩ,
y tá, nhà nghiên cứu và các chuyên gia y tế khác. Mỗi người đóng góp vào việc chẩn đoán,
điều trị và nghiên cứu về các bệnh tật cụ thể.

Mối liên hệ kinh tế chặt chẽ: Sự liên kết mạnh mẽ giữa các đơn vị, ngành công nghiệp và
quốc gia tạo ra một môi trường kinh doanh có lợi cho tất cả, thúc đẩy sự phát triển và mở
rộng thị trường.

Liên hệ thực tế: WTO (VIỆT NAM GIA NHẬP VÀO NGÀY 11/1/2007) mục đích hình thành:
Tổ chức thương mại quốc tế WTO trước tiên được hiểu là một khuôn khu thiết chế pháp luật
quốc tế, là nơi được tạo lập để chính phủ các nước có thể đến đó để trao đổi và thỏa thuận
với nhau những vấn đề chung của hoạt động thương mại giữa các quốc gia trên quy mô toàn
thế giới, đây là cũng có thể xem là một mối liên hệ kinh tế chặt chẽ giữa các quốc gia.

4 yếu tố này làm cho các quá trình sản xuất phân tán được liên kết với nhau và phụ thuộc lẫn
nhau thành một hệ thống, một quá trình sản xuất xã hội thống nhất. Đây cũng là một trong
những điều kiện về kinh tế thuận lợi thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển ngày càng cao
hơn.

3.2. Giới hạn phát triển của chủ nghĩa tư bản

Mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn tập trung chủ yếu vì lợi ích của thiểu số giai
cấp tư sản. Mục đích cơ bản của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là giá trị thặng dư, là bóc lột
lao động làm thuê của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Vì thế mục đích của nó
không phải vì lợi ích của đông đảo quần chúng nhân dân lao động, mà chủ yếu là vì lợi ích
thiểu số giai cấp tư sản, của bọn tư bản độc quyền, nhất là tư bản tài chính. Điều này tạo nên
sự bất công, bất bình đẳng trong xã hội vì giai cấp công nhân là những người lao động về cơ
bản không nắm trong tay tư liệu sản xuất, họ phải bán sức lao động cho các nhà tư bản và bị
bóc lột giá trị thặng dư. Vì vậy, điều này không còn phù hợp với thời đại phát triển tiến bộ
của loài người, loài người phải đấu tranh cho một xã hội tiến bộ hơn so với chủ nghĩa tư bản.

Chủ nghĩa tư bản với mục đích là giá trị thặng dư nên nó luôn tìm mọi cách, mọi biện pháp và
không từ thủ đoạn để chiếm lĩnh thị trường. Vì vậy, chủ nghĩa tư bản trong xã hội hiện đại là
một trong những nguyên nhân cơ bản của hầu hết các cuộc chiến tranh trên thế giới. Ngòi nổ
của các cuộc chiến tranh, chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), chiến tranh thế giới thứ
hai (1939-1945), hàng chục các cuộc chiến tranh cục bộ trong thế kỷ XX - đầu TK XXI vẫn
đang diễn ra, và đều xuất phát từ mục đích của chủ nghĩa tư bản, đó là chiếm lĩnh thị trường.
Như chúng ta đều đã biết, hậu quả của chiến tranh là rất lớn, chỉ cuộc xung đột giữa Nga và
Ukraine cũng đã gây xáo trộn cho nền kinh tế toàn cầu chứ đừng nói là chiến tranh thế giới.
Trong những cuộc chiến này, dù đứng bên trong hay đằng sau, hoặc trực tiếp hay gián tiếp,
hoặc ngấm ngầm hay công khai đều có “bàn tay” của các cường quốc tư bản (đặc biệt là Mỹ).
Chiến tranh phá hủy lực lượng sản xuất, kéo lùi nền kinh tế thế giới đến hàng chục năm, gây
ra đau khổ và mất mát cho hàng triệu con người.

Sự phân hóa giàu - nghèo trong lòng các nước tư bản và xu hướng ngày càng sâu sắc. Trong
chủ nghĩa tư bản, sự phân hóa này được thể hiện ở sự bần cùng hóa với đại đa số nhân dân
lao động và tích lũy sự giàu có về của cải cho các tư bản độc quyền. Trên thế giới cũng xuất
hiện sự phân cực giàu nghèo giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng cao. Một nhóm nhỏ
các cường quốc tư bản ngày càng giàu lên nhanh chóng, còn đại bộ phận các quốc gia còn lại,
nhất là các nước chậm phát triển thì vẫn chìm sâu trong nạn đói nghèo và bệnh tật của hàng
trăm triệu người. Theo số liệu thống kê, hiện nay có những tập đoàn tư bản lớn ở Mỹ lợi
nhuận thu được một năm của họ còn lớn hơn cả GDP của một quốc gia. Trong chủ nghĩa tư
bản có tồn tại một bất đẳng thức là “5% > 95%”: 5% những người giàu có trong chủ nghĩa tư
bản sở hữu số lượng của cải lớn hơn 95% những người còn lại, đủ để thấy khoảng cách này
lớn đến nhường nào.

Những hạn chế trên đây của chủ nghĩa tư bản bắt nguồn từ mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa
tư bản, đỏ là mâu thuẫn giữa trình độ xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với
quan hệ sản xuất dựa trên quan hệ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
Trong chủ nghĩa tư bản, vì mục đích lợi nhuận, các nhà tư bản ra sức cải tiến kỹ thuật, ứng
dụng những thành tựu công nghệ hiện đại, những phương pháp sản xuất tiên tiên, hợp lý hóa
sản xuất, tăng năng suất lao động đồ hạ giá trị cá biệt của hàng hóa. Do đó, chủ nghĩa tư bản
càng phát triển, trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất ngày càng cao. Trong khi quan hệ
sản xuất lại dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Mặc dù
trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong
những chừng mực nhất định cũng đã không ngừng được điều chỉnh, mở rộng để mang tính xã
hội hơn về hình thức cả về quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. Đặc biệt
quan hệ sở hữu tư bản chủ nghĩa đã có sự vận động về mặt hình thức từ sở hữu tư nhân của
các nhà tư bản (trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh) đến sở hữu tập thể của các
nhà tư bản (chủ nghĩa tư bản độc quyền) và hình thức sở hữu nhà nước tư sản với tư cách là
đại diện xã hội (chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước). Những sự điều chỉnh về quan hệ sở
hữu đó đã có những sự phù hợp nhất định với trình độ xã hội hóa ngày càng cao của lực
lượng sản xuất. Điều này cho thấy, nền sản xuất ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay vẫn có
những sự thích ứng và những sự phát triển nhất định. Mặc dù vậy, trong xã hội tư bản hiện
đại mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại.

Trong thời đại ngày nay, mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản vẫn không tự giải quyết
được. Vì vậy, chủ nghĩa tư bản càng phát triển, mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày
càng gay gắt và chủ nghĩa tư bản phát triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa sẽ bị thay bằng một quan hệ sản xuất khác dựa trên sở hữu xã hội về tư liệu sản
xuất để phù hợp với trình độ xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất. Đó là do yêu
cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
quy định. Lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: chủ nghĩa tư bản không tồn tại vĩnh
viễn, mà phát triển đến một trình độ nhất định sẽ bị thay thế bởi một hình thái kinh tế - xã hội
mới tiến bộ hơn.

Giới thiệu lý thuyết về “Bàn tay hữu hình” của Keynes

1.1 Ngắn gọn về J.M. Keynes và nguồn gốc của lý thuyết


John Maynard Keynes, một nhà kinh tế học người Anh, đã góp phần định
hình lại lĩnh vực kinh tế học trong thế kỷ 20. Ông được biết đến nhiều nhất qua
công trình “Lý thuyết Chung về Lao động, Lãi suất và Tiền tệ” (The General
Theory of Employment, Interest and Money) được xuất bản vào năm 1936, đặt nền
móng cho loạt các lý thuyết về kinh tế học mà chúng ta ngày nay gọi là Kinh tế học
Keynes.8

Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929-1933 đã tạo nên môi trường lý
tưởng cho sự ra đời của Kinh tế học Keynes. Trước đó, các nhà kinh tế học chủ yếu
tin rằng thị trường tự nhiên sẽ tự cân đối và cung cầu sẽ gặp nhau tại một mức giá
nào đó, tạo ra lợi ích chung thông qua cạnh tranh và tự quyết định của các cá nhân.
Tiêu biểu có nhà kinh tế học Adam Smith với lý thuyết "bàn tay vô hình". Tuy
nhiên, Smith chưa đánh giá đầy đủ về biến động kinh tế và khả năng xuất hiện thất
nghiệp đáng kể, điều mà Keynes đã nhận thấy trong cuộc khủng hoảng toàn cầu
giai đoạn này. Sự suy thoái lớn của thập kỷ 1930 đã phá vỡ giả định của các nhà
8 Wikimedia. (2024, January 6). John Maynard Keynes.
https://vi.wikipedia.org/wiki/John_Maynard_Keynes
kinh tế cổ điển ủng hộ lý thuyết “bàn tay vô hình” và mở đường cho một cách tiếp
cận mới.

Theo lý thuyết Keynes, trong thực tế, kinh tế không phải lúc nào cũng hoạt
động ổn định và đôi khi cần sự can thiệp của chính phủ để giữ cho nó không bị trôi
dạt vào suy thoái. Đây chính là ý nghĩa cốt lõi của Kinh tế học Keynes: việc đặt lực
lượng của nhà nước vào vị trí trung tâm để điều chỉnh kinh tế, nhằm đảm bảo ổn
định và phát triển bền vững. Lý thuyết “Bàn tay hữu hình” của Keynes đã định
hình nên các chính sách kinh tế của nhiều quốc gia sau Chiến tranh Thế giới II và
tiếp tục ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế hiện đại.

1.2 Phát biểu lý thuyết


Lý thuyết “Bàn tay hữu hình” của nhà kinh tế học Keynes phát biểu rằng:
Nền kinh tế không có khả năng tự điều tiết tuyệt đối và vô hạn. Do vậy, để thúc
đẩy sự tăng trưởng đều đặn, Nhà nước phải trực tiếp can thiệp và điều tiết.

I. Phân tích nội dung học thuyết

2.1 “Nền kinh tế không có khả năng tự điều tiết tuyệt đối và vô hạn …”
(*) Khủng hoảng kinh tế: là sự suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm
trọng. Biểu hiện của nó là sự suy giảm tổng cầu, tỷ suất lợi nhuận, kim ngạch xuất
khẩu và sự gia tăng thất nghiệp trong nền kinh tế, … dẫn đến tốc độ tăng trưởng
giảm sút nghiêm trọng ảnh hưởng đến toàn bộ các chỉ tiêu kinh tế xã hội của mỗi
quốc gia.

Điều gì dẫn tới khủng hoảng kinh tế?


Trái với quan điểm của các nhà kinh tế học cổ điển, theo Keynes, cầu và giá
không đóng vai trò là cơ chế lý tưởng để giữ cho cán cân cung-cầu thăng bằng.
Trước đó, các nhà kinh tế tin rằng nền kinh tế có khả năng tự điều chỉnh tuyệt đối, cụ
thể: khi xảy ra cú sốc kinh tế, tổng cầu giảm dẫn đến giảm lợi nhuận doanh nghiệp,
doanh nghiệp buộc phải đưa ra quyết định cắt giảm sản xuất hoặc nhân công, đồng
nghĩa với việc tỉ lệ thất nghiệp cũng tăng lên. Người lao động phải xem xét mức
lương thấp hơn để thoát khỏi tình trạng thất nghiệp. Do đó, mức lương (giá lao
động) sẽ giảm cho đến khi doanh nghiệp cảm thấy hợp lý để thuê thêm lao động mở
rộng sản xuất, đưa nền kinh tế trở lại trạng thái cân bằng. Nhưng Keynes lại quan sát
cuộc đại khủng hoảng và nhận thấy rằng tiền công không hề giảm, việc làm cũng
không tăng và do đó nền kinh tế mãi không phục hồi.
Các nhà kinh tế học cổ điển đã không xét tới một số vấn đề như “tiền lương
cứng nhắc” hay kỳ vọng về giảm giá. Theo lập luận của Keynes, tiền công trả cho
người lao động là tiền lương danh nghĩa, không linh hoạt như trong giả định, trong
khi muốn doanh nghiệp tăng thuê mướn lao động thì tiền lương danh nghĩa phải thấp
hơn mức giá chung của nền kinh tế. Song nếu tiền lương danh nghĩa giảm thì tiêu
dùng giảm, dẫn đến tổng cầu giảm và lại làm giảm thu nhập doanh nghiệp, triệt tiêu
đi động lực đầu tư mở rộng sản xuất, đưa nền kinh tế lâm vào khủng hoảng. Hơn
nữa, khi tiền lương và giá cả hàng hóa giảm, người tiêu dùng có xu hướng giảm chi
tiêu do nghĩ rằng tiền trong túi mình đang tăng giá trị, dẫn đến cầu tiêu dùng và tổng
cầu giảm. Và cứ thế, vòng xoáy suy thoái kinh tế hình thành.
Keynes còn chỉ ra một nguyên nhân khác cả khi nền kinh tế đang tăng trưởng
là khuynh hướng tiết kiệm, hay còn gọi là “tiêu dùng giới hạn”, gia tăng. Khuynh
hướng tiết kiệm biểu hiện như sau: Khi sản xuất tăng lên thì thu nhập tăng lên, thu
nhập chia làm hai cho tiêu dùng và tiết kiệm (dự phòng tiêu dùng trong tương lai).
Và khi thu nhập tăng, nhu cầu tiêu dùng có thể tăng tuyệt đối, hoặc giảm tương đối
để dành phần cho tiết kiệm. Khuynh hướng tiết kiệm trong tiêu dùng làm cho cầu
tiêu dùng tăng chậm hơn so với cung, kéo theo cầu đầu tư tăng chậm, lãi suất ngân
hàng thường cố định còn tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm sút. Do đó, khuynh
hướng tiết kiệm gia tăng hay xu hướng tiêu dùng một phần thu nhập ít dần đi khi thu
nhập thực tế cao là một trong những nguyên nhân khiến cầu luôn tụt lại so với cung.
“Cầu bị gác lại” trong khi cung tăng và trở nên thừa khiến đầu tư vào sản xuất trở
nên kém hấp dẫn, cầu lao động giảm, tình trạng thất nghiệp và khủng hoảng xuất
hiện.

2.2 “… để thúc đẩy sự tăng trưởng đều đặn, Nhà nước phải trực tiếp can
thiệp và điều tiết.”

Giải pháp được đưa ra trong Lý thuyết “Bàn tay hữu hình”:
Xác định được nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng là do tổng cung trong nền
kinh tế vượt tổng cầu, Keynes đã nêu giải pháp là tăng mức cầu để tổng cầu tăng
ảnh hưởng đến tổng cung theo hướng giảm suy thoái và thất nghiệp. Theo ông, cần
“bàn tay hữu hình” có khả năng can thiệp, tác động, điều tiết để nền kinh tế tránh đi
vào khủng hoảng. Cụ thể:

Chính phủ có thể can thiệp vào nền kinh tế thông qua công cụ chính sách tài
khóa, bao gồm thuế và chi tiêu ngân sách. Keynes nhấn mạnh vấn đề chi ngân sách
và cho rằng chính phủ nên cung ứng những kích thích ban đầu bằng những chương
trình kinh tế công cộng. Những chương trình kinh tế công cộng đó, một mặt tạo ra
việc làm, mặt khác dẫn đến tăng cầu về tư liệu sản xuất. Nó còn có thể dẫn đến sự
xuất hiện của những hình thức hoạt động dịch vụ thu hút khối lượng lao động lớn,
làm tăng hơn nữa số lượng việc làm. Nhu cầu tiêu dùng của cá nhân có khả năng
thanh toán tăng tạo lực đẩy kích thích khu vực kinh tế tư nhân phát triển, khôi phục
niềm tin kinh doanh. Cách thức can thiệp của chính phủ như vậy sẽ dẫn đến hiệu ứng
số nhân cho nền kinh tế.
Theo một hướng khác, nhà nước có thể kích thích cầu đầu tư bằng cách tăng
số cung về tiền tệ, hay là chấp nhận lạm phát “có kiểm soát.” Để làm tăng cung tiền
tệ, chính phủ có thể tăng nguồn vốn cho vay, giảm lãi suất. Keynes nhấn mạnh rằng,
tỷ lệ lãi suất và lợi nhuận kỳ vọng của doanh nghiệp là yếu tố quyết định quan trọng
đối với quyết định đầu tư. Nếu lợi nhuận kỳ vọng cao hơn tỷ lệ lãi suất, doanh
nghiệp sẽ có động lực để đầu tư, điều này sẽ thúc đẩy nhu cầu tổng cộng và kích
thích tăng trưởng kinh tế. Sự gia tăng này cũng nhân bội sản lượng và thu nhập của
nền kinh tế quốc dân. Theo Keynes, trong hai vấn nạn của nền kinh tế tư bản là lạm
phát và thất nghiệp thì thất nghiệp nguy hiểm hơn nhiều lần so với lạm phát. Khi nền
kinh tế đạt trạng thái cân bằng với mức sản lượng và việc làm cao hơn thì lạm phát
tự động ngừng lại.
Để tác động đến tiêu dùng của dân cư, Keynes cho rằng sự điều tiết của chính
phủ cũng rất quan trọng. Muốn kích thích nhu cầu tiêu dùng trước hết phải điều
chỉnh chính sách thuế theo hướng giảm thuế thu nhập, kết hợp với các biện pháp
kích thích đầu tư. Khi thuế giảm, thu nhập sẽ tăng nên tiêu dùng và tiết kiệm cũng
tăng. Nếu đầu tư cùng tăng với tiết kiệm, kết quả tổng hợp lại là gia tăng mức tổng
cầu, làm thu nhập quốc dân tăng.
Từ cách lập luận của Keynes có thể nhận định rằng, nền kinh tế thị trường
không có khả năng tự điều tiết tuyệt đối và vô hạn. Do vậy, để thúc đẩy sự tăng
trưởng đều đặn, nhà nước phải trực tiếp can thiệp và điều tiết.

II. Ứng dụng thực tế: Khủng hoảng tài chính thế giới 2009 - Từ lý thuyết J.M.
Keynes đến thực tế đối sách của Trung Quốc

3.1 Khái quát tình hình kinh tế thế giới trong cuộc khủng hoảng tài chính
năm 2009
Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) cho rằng các nền kinh tế chính
trên thế giới đang trên bờ suy thoái và ít có cơ hội phục hồi vào năm 2009. Tình
trạng hỗn loạn mà nền kinh tế thế giới đang phải gánh chịu do khủng hoảng tài chính
đã tác động mạnh mẽ đến các nước nghèo, sau sự sụp đổ của ngân hàng đầu tư
Lehman Brathers hồi tháng 9/2008 và hàng loạt các tập đoàn lớn như: Merrill
Lynch, Bradford & Bingley, Fortis và tập đoàn bảo hiểm của Nhật là Yamato Life
Insurance Co. Trong đó, những tác động xấu lớn nhất là tình trạng thất nghiệp, trao
đổi thương mại quốc tế, giá cả bất động sản và kinh doanh ô tô đều giảm mạnh.
OECD dự đoán, năm 2009, tăng trưởng kinh tế Mỹ năm 2009 là 0,9%, trong khi đó
Nhật Bản dưới 0,1% và các nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu
(Eurozone) dưới 0,5%, với tốc độ suy thoái mạnh nhất trong quý IV/2008 và quý
I/2009. Đồng thời tốc độ tăng trưởng cũng chậm lại ở các thị trường đang nổi như
Braxin, Ấn Độ, Trung Quốc.
Thủ tướng Ôn Gia Bảo cảnh báo cuộc khủng hoảng tài chính thế giới tác động
đến nền kinh tế Trung Quốc thực sự nghiêm trọng. Cảnh báo này đưa ra sau khi Ủy
ban thống kê quốc gia Trung Quốc cho biết, tốc độ tăng trưởng công nghiệp của
nước này đã giảm sút liên tục từ 16% hồi tháng 6 xuống còn 11,4% trong tháng 9 và
xuống tiếp 8,2% trong tháng 10, thấp nhất trong 7 năm qua. Xuất khẩu của TQ trong
tháng 10 vừa qua chỉ tăng 19,2% so với cùng kỳ năm ngoái, mức thấp nhất trong
vòng 4 tháng qua. Trung Quốc vốn là nước theo đuổi chính sách hướng mạnh về
xuất khẩu, nhưng do cuộc khủng hoảng tài chính thế giới làm cho nhu cầu nhập khẩu
của Mỹ, châu Âu – các thị trường xuất khẩu chính của Trung Quốc giảm mạnh.
Ngoài ra trong suốt một thời gian dài hứng chịu lạm phát và những khó khăn kinh tế,
người tiêu dùng đang thắt chặt chi tiêu khiến nền kinh tế càng trở nên ảm đạm.

3.2 Đối sách của Trung Quốc trước cuộc khủng hoảng
Đối với chính sách đối nội:
Một, Triển khai gói kích thích kinh tế: Chính phủ Trung Quốc đã thông qua
gói kích thích kinh tế trị giá khoảng 586 tỷ USD (4000 tỷ nhân dân tệ) vào ngày
9/11, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế của
quốc gia này. Đối với một quốc gia có tổng sản phẩm quốc nội khoảng 3500 tỷ
USD như Trung Quốc, thì đây là kế hoạch khổng lồ nếu so sánh với các cường
quốc công nghiệp phát triển. Số tiền khổng lồ này sẽ được chi đến năm 2010 vào
10 lĩnh vực quan trọng như: xây nhà ở cho người thu nhập thấp, nâng cấp hệ thống
cơ sở hạ tầng nông thôn, mạng lưới giao thông vận tải, đổi mới kỹ thuật công nghệ,
tái thiết sau thiên tai, tăng chi phúc lợi xã hội và bảo vệ môi trường.
Hai, Áp dụng chính sách tài chính tích cực: Ngân hàng Trung ương Trung
Quốc đã liên tục hạ lãi suất cơ bản và nới lỏng các quy tắc cho vay của các ngân
hàng thương mại như dỡ bỏ mức trần tín dụng áp dụng đối với các NHTM để hỗ
trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ;
Ba, Chính phủ cố gắng cải thiện đời sống dân cư ở nông thôn bằng cách
đầu tư khá nhiều dự án lớn vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông.
Khuyến khích người dân, đặc biệt là các hộ gia đình ở khu vực nông thôn chi tiêu
bằng cách giảm thuế; tăng phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường và đổi mới công
nghệ.

Đối với chính sách đối ngoại: Chính phủ áp dụng chính sách c nhằm bảo hộ
cho các ngành sản xuất trong nước có điều kiện tự sản xuất; tích cực, chủ động thu
hút vốn đầu tư để mở rộng sản xuất nội địa. Trung Quốc vốn có một nền kinh tế
hướng ngoại, phát triển mạnh xuất khẩu. Khủng hoảng tài chính và đình đốn kinh
tế đã làm giảm nhu cầu nhập khẩu của Mỹ, Châu Âu – vốn là các thị trường xuất
khẩu chính của Trung Quốc. Do đó, Trung Quốc đã quyết định lựa chọn một chính
sách thuế khóa chủ động với nới lỏng có chừng mực các chính sách tiền tệ, nhằm
khuyến khích, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế nhanh bằng cách nâng cao nhu cầu trong
nước.

Những chính sách trên của Trung Quốc đã được chứng minh tính hiệu quả
theo thời gian khi đã đạt mục tiêu trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và có
triển vọng vượt Mỹ cho tới năm 2027 theo một số dự báo của các chuyên gia. Những
động thái này của Trung Quốc thể hiện sự nhạy bén của Chính phủ trước những diễn
biến phức tạp của cuộc khủng hoảng kinh tế và đặc biệt, những đối sách này là minh
chứng cho giá trị của lý thuyết kinh tế của J. M. Keynes trong thực tiễn kinh tế.
IV. Vai trò của lý thuyết kinh tế “ Bàn tay hữu hình” trong hệ thống kinh tế học
hiện đại

Kinh tế học Keynes đã tạo ra một cách nhìn mới mẻ về vai trò của chính sách
kinh tế và chính phủ trong việc điều chỉnh và ổn định kinh tế. Theo giáo sư khoa lịch
sử kinh doanh của trường ĐH Harvard và John Hopkins, Alfred D.Chandler Jr. chỉ
ra 8 điểm đề giải thích tại sao vai trò của “bàn tay hữu hình” đại diện cho Nhà nước
lại có thể thay thế vai trò của “bàn tay vô hình” đại diện cho thị trường của Adam
Smith:

1. Mô hình doanh nghiệp đa bộ phận Hoa Kỳ đã thay thế mô hình


doanh nghiệp truyền thống, với nhiều lợi thế hơn về lợi nhuận nhờ hoạt động
điều phối hành chính hơn là đơn thuần theo cơ chế thị trường;
2. Cấu trúc tổ chức quản lý đã được xây dựng trong các doanh nghiệp
đa bộ phận;
3. Các doanh nghiệp đa bộ phận xuất hiện lần đầu trong lịch sử nhân
loại cùng thời gian với quy mô của các hoạt động kinh doanh đạt đến ngưỡng
mà sự điều phối hành chính thể hiện tính hiệu quả hơn sự điều phối theo cơ
chế thị trường;
4. Khi mà cấu trúc quản lý đã được thiết lập và hoàn thành nhiệm vụ
điều phối hành hành chính, chính cấu trúc này trở thành một nguồn lực, một
lợi thế bền vững và liên tục phát triển;
5. Nghề quản lý được trả lương ngày càng trở nên chuyên nghiệp và
kỹ thuật hơn;
6. Các doanh nghiệp đa bộ phận phát triển mạnh về quy mô và đa dạng
hóa mạnh mẽ, kéo theo các nhà quản lý trong đó cũng trở nên chuyên nghiệp
hơn, hoạt động quản lý cũng trở nên tách rời quyền sở hữu hơn;
7. Các nhà quản lý theo đuổi các chính sách hướng đến sự ổn định và
phát triển dài hạn trên cơ sở tối đa hóa lợi nhuận hiện tại của doanh nghiệp;
8. Các doanh nghiệp lớn tiếp tục lớn mạnh và kiểm soát các lĩnh vực
quan trọng của nền kinh tế báo hiệu sự cần thiết phải có cấu trúc tổ chức tổng
thể của từng lĩnh vực này cũng như của cả nền kinh tế.

Trong thời đại hiện nay, lý thuyết “bàn tay hữu hình” của Keynes vẫn còn
được coi là một công cụ hiệu quả để ổn định và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đặc
biệt trong những thời kỳ suy thoái kinh tế hoặc khủng hoảng tài chính. Nhờ lý thuyết
này, nhà nước có thể tạo nên tác động vào các doanh nghiệp cũng như với nền kinh
tế nước nhà một cách rõ ràng hơn, từ đó giữ vững sự ổn định, bình đẳng giữa các
bên trong nền kinh tế. Dù một số quốc gia đã áp dụng các biện pháp kiểm soát ngân
sách chặt chẽ hơn trong những năm gần đây, nhưng nhiều nền kinh tế vẫn giữ lại
việc sử dụng chính sách tài khóa mạnh mẽ như là một phần của chiến lược kinh tế
của họ.

Tóm lại, lý thuyết Keynes vẫn giữ nguyên giá trị trong hệ thống học thuyết
kinh tế hiện đại, tạo các công cụ đắc lực cho bộ máy Nhà nước trong việc quản lý và
phát triển kinh tế thời đại ngày nay. Keynes đã đưa ra được một học thuyết kinh tế
phù hợp với nền kinh tế hiện đại, sự phát triển của học thuyết này đã góp phần thay
đổi doanh nghiệp và cách các nhà kinh doanh, các nhà quản lý vận hành chúng.

V. Ưu điểm, Hạn chế của lý thuyết “ Bàn tay hữu hình” - Keynes

5.1 Ưu điểm
Lý thuyết “Bàn tay hữu hình” đã khắc phục được những hạn chế của “Bàn tay
vô hình”. Thuyết “Bàn tay vô hình” chỉ thể hiện được hết giá trị của nó trong một thị
trường tự do khi các thương gia và nhà sản xuất làm lợi cho xã hội trong quá trình họ
đầu tư vốn để thu lại lợi nhuận tối đa. Song, họ cũng có thể gây tổn hại cho xã hội
khi họ hợp tác hay thông đồng tạo ra các hình thức độc quyền, hoặc lừa dối các nhà
lập pháp để cấp độc quyền cho họ.

So với lý thuyết “Bàn tay vô hình”, ưu điểm của lý thuyết “Bàn tay hữu hình”
của Keynes là đã chỉ ra được quan niệm thị trường có thể tự điều tiết của các nhà
kinh tế học cổ điển chưa chính xác, không phải lúc nào cơ chế tự động của nền kinh
tế cũng đảm bảo được sự cân bằng và sự công bằng trên thị trường. “Bàn tay hữu
hình” đánh giá đúng vai trò của nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế, cho phép
chính phủ có thể bảo vệ quyền lợi và sự bình đẳng giữa các cá nhân trong xã hội,
đảm bảo sự ổn định của thị trường và phát triển kinh tế bền vững.

Lý thuyết này không chỉ dừng lại ở việc phân tích nền kinh tế tĩnh, trong ngắn
hạn mà đã chuyển sang phân tích nền kinh tế có sự vận động, dài hạn. Qua việc phân
tích nền kinh tế vận động, học thuyết này còn đưa ra giải pháp đối phó với thất
nghiệp và lạm phát, góp phần làm suy giảm, giải quyết nguy cơ xảy ra cũng như
giảm tác động của khủng hoảng kinh tế.

5.2 Hạn chế


Tuy nhiên học thuyết này cũng có những mặt hạn chế. Các nhà kinh tế đã tán
thành quan điểm nhà nước can thiệp vào kinh tế của Keynes, nhưng cũng có những
điểm phê phán.
Một, quan điểm của Keynes dùng lạm phát để kích thích đầu tư không
phải lúc nào cũng hiệu quả. Bởi lạm phát ở mức độ thấp (lạm phát tự nhiên)
có thể mang lại nhiều lợi ích kinh tế như: kích thích tiêu dùng, khuyến khích
đầu tư, giảm tỷ lệ thất nghiệp… Tuy nhiên, khi lạm phát phi mã hay siêu lạm
phát xảy ra sẽ gây ra những biến động lớn cho nền kinh tế. Tỷ lệ lạm phát quá
cao sẽ khiến đồng tiền trượt giá, mất giá; giá cả hàng hóa và dịch vụ trở nên
quá đắt đỏ khiến người dân không thể chi trả.
Hai, lý thuyết của Keynes nghiêng về một nền kinh tế trung ương tập
trung. Nếu chính phủ dự kiến sẽ chi tiền để ngăn chặn khủng hoảng, điều này
hàm ý rằng chính phủ biết điều gì là tốt nhất, muốn làm điều tốt nhất, có năng
lực làm điều tốt nhất cho toàn nền kinh tế. Tư tưởng này bỏ qua tất cả các tác
dụng của các lực lượng thị trường vào quá trình ra quyết định. Như vậy
phương pháp tiếp cận của Keynes phù hợp nhất trong một "nhà nước toàn trị".
Ba, cách tiếp cận lạm phát thông qua tác động đến tổng cầu của Keynes
không phải lúc nào cũng hiệu quả. Theo Keynes, nhằm đối phó với tình trạng
lạm phát, chi tiêu chính phủ có thể thúc đẩy chi tiêu của các doanh nghiệp tư
nhân vì trong thị trường có ít tiền để cho tư nhân vay. Thực tế, nếu trong thị
trường không đủ nguồn cung tiền, việc chính phủ tiếp tục tăng cung tiền nhằm
kích thích tổng cầu sẽ gây ra dư thừa cung tiền, làm giảm giá trị tiền tệ dẫn đến
lạm phát gia tăng.
Bốn, lý thuyết “bàn tay hữu hình” xuất phát từ con người, nên dễ rơi
vào chủ quan, duy ý chí, không phù hợp với thực tế hoặc bị tác động bởi các
nhóm lợi ích. Nói cách khác, sự can thiệp thái quá từ phía Nhà nước có thể gây
ra những tác động tiêu cực, dẫn tới những hậu quả không lường trước, ví dụ
như gánh nợ tài chính, tình trạng lạm phát, phân bổ nguồn lực không hợp lý,
lạm dụng sự can thiệp về mặt chính trị, tham nhũng,...
Một ví dụ thực tế trong việc áp dụng sai lầm lý thuyết Keynes là đất
nước Venezuela, chính phủ đất nước này đã quyết định in tiền để giải quyết
các vấn đề kinh tế trước mắt đã khiến đồng tiền của quốc gia này trượt giá
nặng nề. Vào thời kỳ tồi tệ nhất, đất nước này đã có tỷ lệ lạm phát lên tới
345,000%.

Điều tiết vĩ mô không tôn trọng quy luật khách quan dễ rơi vào can thiệp bảo
hộ, làm méo mó thị trường, không thể mang lại kết quả như mong muốn. Do vậy,
trên thực tế, cần hết sức cẩn trọng trong việc sử dụng các công cụ kinh tế, và cần kết
hợp hài hòa “bàn tay vô hình” - thị trường và “bàn tay hữu hình” - Nhà nước, để có
thể đối phó với những cuộc khủng hoảng trầm trọng, xây dựng môi trường kinh
doanh lành mạnh, hướng kinh tế vào nhiều mục đích xã hội.

VI. Sự kết hợp “Bàn tay hữu hình” và “Bàn tay vô hình” tại Việt Nam

6.1 Hiệu quả từ việc kết hợp linh hoạt hai bàn tay
Việt Nam hiện nay đang áp dụng nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN, bên cạnh việc tôn trọng quy luật tự điều chỉnh của nền kinh tế, Chính phủ
và Nhà nước vẫn có nhưng chính sách nhất định nhằm ổn định và thúc đẩy nền
kinh tế tăng trưởng. Hiệu quả của việc thả nổi không hoàn toàn nền kinh tế thị
trường tại Việt Nam được thể hiện qua nhiều mặt: thu hút được các nguồn lực từ
các thành phần kinh tế trong xã hội; tự phân bổ được nguồn lực vào các ngành, lĩnh
vực, địa bàn có khả năng sinh lời cao; thông qua cạnh tranh, các chủ thể trên thị
trường áp dụng khoa học - kỹ thuật, tiết giảm chi phí, tăng năng suất lao động để
tăng trưởng kinh tế và đạt hiệu quả cao nhất… Đồng thời, sự can thiệp kịp thời và
hợp lý của bàn tay Nhà nước cũng đem lại các kết quả như thiết lập hành lang pháp
lý cho các hoạt động trên thị trường của các tổ chức, cá nhân; hình thành các công
trình trọng điểm quốc gia, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô; giám
sát, kiểm tra, xử lý các vi phạm pháp luật của các chủ thể trên thị trường, để bảo
đảm sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp;...

6.2. Một số thành tựu nổi bật

Năm 2008, vừa kiềm chế được lạm phát cao, vừa tránh được đổ vỡ khi gặp
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới trăm năm mới có.

Năm 2009, đạt kết quả kép: vừa vượt mục tiêu tăng trưởng kinh tế (5,32% so
với 5%), vừa kiềm chế lạm phát thấp hơn mục tiêu (6,52% so với dưới 10%), vừa
ngăn chặn được tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm.

Năm 2010, sự kết hợp chặt chẽ “bàn tay vô hình” và “bàn tay hữu hình” cũng
đạt kết quả tốt: vừa vượt mục tiêu tăng trưởng kinh tế với 6,78%, vừa tăng trưởng
xuất khẩu cao, giảm nhập siêu, thu hút kiều hối và khách du lịch đạt kỷ lục mới,…

Năm 2011, đứng trước nguy cơ lạm phát cao, ngày 24/2, Chính phủ đã ra Nghị
quyết về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, trong đó
kiềm chế lạm phát là mục tiêu số một, với nhiều giải pháp nhất quán, đồng bộ, quyết
liệt.

Năm 2021-2022, các gói kích thích kinh tế được triển khai nhanh chóng, nâng
đỡ thị trường tài chính Việt Nam trong tình hình kinh tế tăng trưởng âm do dịch
COVID 19, kiềm chế được lạm phát trong mức quy định (<4,5%) và ổn định được
tình hình kinh tế-xã hội.

Năm 2023, lạm phát bình quân của Việt Nam tăng 3,25%, đạt mục tiêu do
Quốc hội đề ra là kiểm soát lạm phát ở mức 4,5%. Đây là năm thứ 12 liên tiếp Việt
Nam duy trì được mức lạm phát một con số kể từ sau khi lạm phát tăng cao năm
2011, góp phần đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, tạo nền tảng vững chắc cho tăng
trưởng kinh tế bền vững, củng cố niềm tin của người dân, doanh nghiệp và nhà đầu
tư nước ngoài vào đồng nội tệ và môi trường kinh doanh tại Việt Nam.

VII. Tổng kết

Nhà kinh tế học Milton Friedman từng nói: “Thị trường tự do là hệ thống tốt
nhất để tạo ra sự thịnh vượng, nhưng nó không phải là hệ thống hoàn hảo.” Bởi vậy
có một nền kinh tế hiệu quả, công bằng và bền vững, cần kết hợp thị trường tự do
với sự can thiệp của chính phủ - chính là mô hình lý thuyết bàn tay hữu hình của
Keynes. Lý thuyết này của Keynes vẫn giữ nguyên giá trị trong hệ thống học thuyết
kinh tế hiện đại, tạo các công cụ đắc lực cho bộ máy Nhà nước trong việc quản lý,
phát triển kinh tế thời đại ngày nay, đặc biệt là trong nền kinh tế Việt Nam và bảo vệ
quyền lợi, sự bình đẳng giữa các cá nhân trong xã hội. Tuy nhiên, lý thuyết tồn tại
những hạn chế như còn nghiêng về một nền kinh tế trung ương tập trung hơn là nền
kinh tế tự do hay sự can thiệp quá mức của chính phủ cũng sẽ để lại những hậu quả
nghiêm trọng.

Vì vậy sự kết hợp giữa lý thuyết bàn tay hữu hình và vô hình cũng như các lý
thuyết kinh tế khác là vô cùng quan trọng để có thể hướng tới một nền kinh tế phát
triển đều đặn và bền vững nhất.

I. TÍNH TẤT YẾU CỦA QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ – HIỆN ĐẠI HOÁ Ở
VIỆT NAM

“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ
công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện,
phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học -
công nghệ, nhằm tạo ra năng suất lao động cao”

1. Là quy luật phổ biến của sự phát triển lực lượng sản xuất, của sự phát triển xã hội
mà mọi quốc gia đều phải trải qua khi muốn phát triển.

Về lý luận: Theo quy luật của sự phát triển, lực lượng sản xuất sẽ phát triển từ thấp
tới cao từ nền kinh tế tự nhiên đến nền kinh tế nông nghiệp rồi đến nền kinh tế công nghiệp.
Quy luật này mang tính khách quan. Khi đạt đến trình độ nhất định thì nền kinh tế sẽ tự
chuyển sang một giai đoạn mới cao hơn. Công nghiệp hoá bản chất là sự chuyển hóa nền
kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Quốc gia sẽ tụt hậu nếu ko phát triển theo
quy luật này (phát triển từ nông nghiệp sang công nghiệp)
Về thực tiễn: Thông qua công nghiệp hóa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế
quốc dân được trang bị những tư liệu sản xuất, kỹ thuật công nghệ ngày càng hiện đại, từ đó
nâng cao năng suất lao động, tạo ra nhiều của cải vật chất, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và
đa dạng của con người.
VD: Trong nông nghiệp, ngày xưa con người tạo ra ra lương thực chủ yếu dựa vào
lao động thủ công “con trâu đi trước, cái cày đi sau”, năng suất lao động thấp, tốn nhiều
công sức lao động. Sau khi áp dụng CNH, HĐH, với sự giúp đỡ của máy móc thiết bị, từ đó
nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm công sức hơn
Như vậy, mỗi phương thức sản xuất có một cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng. Cơ sở
vật chất - kỹ thuật được xem là tiêu chuẩn để đánh giá mức độ hiện đại của một nền kinh tế,
nó cũng là điều kiện quyết định đề xã hội có thể đạt được một năng suất lao động nào đó. Bất
kỳ quốc gia nào đi lên chủ nghĩa xã hội đều phải thực hiện nhiệm vụ hàng đầu là xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.

2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của Chủ nghĩa
xã hội

Về lý luận, mỗi một phương thức sản xuất đều dựa trên 1 nền tảng vật chất, cơ sở kỹ
thuật riêng (Phương thức sản xuất phong kiến dựa trên nền tảng của phương thức sản xuất thủ
công lạc hậu, Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên nền tảng sản xuất công nghiệp
cơ khí, Phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên nền sản xuất công nghiệp lớn hiện
đại, có năng suất lao động cao hơn nhiều các nền tảng sản xuất trước)
Việt Nam đang trong quá trình quá độ lên Chủ nghĩa xã hội và mục tiêu hàng đầu
trong giai đoạn này là xây dựng nền tảng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho Chủ nghĩa xã hội dựa
trên những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại. Mỗi bước tiến của quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là một bước tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật của Chủ
nghĩa xã hội, đồng thời củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, làm cho nền
sản xuất xã hội không ngừng phát triển, đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của người dân
không ngừng được nâng cao.
(VD: Hệ thống đường xá, cầu cống, sân bay hiện đại; hệ thống phúc lợi XH: y tế,
giáo dục; hệ thống sản xuất tự động hóa; hệ thống thông tin liên lạc, an ninh quốc phòng..)
Chỉ khi xây dựng được nền công nghiệp lớn, hiện đại, có năng suất lao động cao mới
khẳng định được tính ưu việt của Chủ nghĩa xã hội so với Chủ nghĩa Tư bản:
+ Về Kinh tế xã hội: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa thúc đẩy sự liên kết, hợp tác giữa
các ngành, các vùng trong nước, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, tham gia vào quá trình
phân công lao động và hợp tác quốc tế ngày càng hiệu quả
+ Về Chính trị và Xã hội: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm cho khối liên minh
công, nông, trí ngày càng được tăng cường, củng cố đồng thời nâng cao vai trò lãnh đạo của
giai cấp công nhân. Ngoài ra, còn tăng cường tiềm lực, sức mạnh an ninh, quốc phòng, đồng
thời tạo điều kiện vật chất và tinh thần để xây dựng nền văn hóa mới và con người mới xã hội
chủ nghĩa.
Như vậy, Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa là nhân tố quyết định thắng lợi của con
đường đi lên CNXH. Vì vậy, Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa được Đảng và Nhà nước ta
xác định là nhiệm vụ trung tâm trong suốt TKQĐ lên CNXH.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam có những đặc điểm chủ yếu sau đây:

● Công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. (Đây là đặc điểm đầu tiên và
cũng là đặc điểm quan trọng nhất của công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam)

● Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. (Kinh tế tri thức
là một nền kinh tế xuất hiện sau kinh tế công nghiệp khi mà các quốc gia họ đã xây dựng
thành công nền kinh tế công nghiệp rồi họ sẽ hướng tới nền kinh tế tri thức một nền kinh tế
trong đó tri thức tạo ra phần lớn giá trị nền kinh tế tri thức được tạo ra bởi các ngành kinh tế
chúng mang lại từ 70 phần trăm giá trị cho nền kinh tế. Mặc dù Việt Nam đang trong quá
trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước nhưng để tránh tụt hậu thì chúng ta cũng phải
hướng tới nền kinh tế tri thức đó là nội dung cơ bản để thực hiện chiến lược công nghiệp hóa
rút ngắn)

● Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ( Chương 5 thì chúng ta đã khẳng định tính tất yếu khách quan của việc xây dựng
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mô hình kinh tế này là con đường
giúp chúng ta có thể vận dụng được các nguồn lực để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho
xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là động lực quan
trọng giúp chúng ta công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Do vậy, công nghiệp hóa hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa hoàn toàn phù
hợp)

● Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế và Việt Nam
đang tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. (Cũng giống như nội dung phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc mở cửa kinh tế hội nhập kinh tế quốc tế cho
phép Việt Nam có thể tranh thủ được các nguồn lực còn thiếu còn yếu. Ví dụ như nguồn lực
về vốn, nguồn lực về khoa học Công nghệ, nguồn lực về nguồn nhân lực chất lượng cao… để
có thể thúc đẩy công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Thực chất để công nghiệp hóa gắn
liền với hiện đại hóa thì chúng ta phải mở cửa tiếp nhận thành tựu khoa học công nghệ kỹ
thuật hiện đại của nhân loại là hoàn toàn đúng đắn phù hợp với thực tiễn đề ra của Việt Nam
)

II. QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ – HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM

1. Thời kì trước Đổi mới (1960-1986)

Nhìn lại lịch sử:

● Sau khi kí kết hiệp định Giơ- ne - vơ (1954), Pháp rút khỏi Việt Nam tạm thời
chia cắt nước ta thành 2 miền. Miền Bắc xây dựng CNXH, miền Nam ngay sau đó bị Mỹ
xâm lược và trở thành thuộc địa kiểu Mỹ. tại thời điểm đó có rất nhiều quốc gia đã thực hiện
CNH. Việt Nam đã lựa chọn CNH kiểu Liên Xô tại Đại hội III (9/1960). Mục đích CNH là để
thực hiện 2 mục tiêu chiến lược: vừa xây dựng XHCN ở miền Bắc, vừa tiếp tục kháng chiến
chống Mỹ ở miền Nam giành độc lập cho dân tộc.

● ND cơ bản của CNH: “ Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng” như điện lực,
gang thép, công nghiệp chế tạo máy được nhấn mạnh tại Đại hội III và Đại hội IV (1976).
Trong giai đoạn đó, chúng ta cũng đã nhận được sự giúp đỡ của nước ngoài trong hệ thống
các nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong điều kiện chiến tranh kéo dài, đường lối công
nghiệp hóa kiểu Liên Xô không phù hợp với điều kiện và tình hình ở VN. Chính vì vậy, mô
hình này đã không giúp VN trở thành nước công nghiệp như mong đợi. Trái lại nền kinh tế
còn lâm vào khủng hoảng suy thoái sâu sắc.
Cụ thể:
- Bùng phát trong thập kỷ 80, kéo dài đến đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Cuộc
khủng hoảng này biểu hiện trên 4 mặt - cả 4 đỉnh của “tứ giác mục tiêu” - đều bị “lùn”
xuống:
- Tăng trưởng kinh tế thấp, có những năm còn bị “tăng trưởng âm”. Bình quân thời
kỳ 1977-1980, GDP chỉ tăng 0,4%/năm (trong đó năm 1979 giảm 2%, năm 1980 giảm 1,4%)
- thấp xa so với tốc độ tăng 2,31%/năm- làm cho GDP bình quân đầu người bị sụt giảm
(giảm 1,87%/năm).
- Lạm phát phi mã và kéo dài. Lạm phát ngầm đã diễn ra từ cuối những năm 70, đầu
những năm 80 khi chênh lệch giữa giá trong và ngoài ngày một lớn. Tính phi thị trường càng
rõ khi phân phối làm cho siêu lạm phát xuất hiện, lên tới 774,7% năm 1986 và kéo dài với
mức 3, rồi 2 chữ số cho đến đầu thập kỷ 90.
- Cán cân thanh toán bị mất cân đối nghiêm trọng, khi sản xuất trong nước chỉ đáp
ứng 80-90% sử dụng trong nước, chẳng những không có tích lũy trong nước mà còn không
đủ tiêu dùng - tức là toàn bộ quá trình tích lũy và một phần quỹ tiêu dùng phải dựa vào viện
trợ và vay nợ nước ngoài.
- Thất nghiệp cao, tỷ lệ lên đến 12,7% tổng số lao động. Do quy mô sản xuất thấp và
giảm, dân số tăng nhanh, nên GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái
chỉ có 86 USD, nằm trong vài ba chục nước có GDP bình quân đầu người thấp nhất thế giới.

2. Thời kì sau Đổi mới (1986 - nay)

● Trước khủng hoảng kinh tế kéo dài, Đảng ta đã nhận thức lại con đường CNH
và tại Đại hội VI(1986), Đảng đã quyết định điều chỉnh chiến lược. Lúc này, thay vì ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng, VN đã chuyển hướng sang thực hiện CNH qua nhiều giai đoạn.

● Giai đoạn đầu: tập trung vào nông nghiệp và công nghiệp nhẹ để đẩy lùi
khủng hoảng kinh tế.

● Giai đoạn sau: đẩy mạnh công nghiệp và nâng cao tỷ trọng của các ngành
công nghiệp

● Đây được coi là sự điều chỉnh CN mới bởi CNH kiểu Liên Xô không phù hợp
với đặc điểm, hoàn cảnh của Việt Nam. Đến đầu thập kỷ 90, khi Liên Xô tan rã, nhiều nước
phát triền trên thế giới đã tiến hành HDH nền sản xuất. Nhân loại bước sang cuộc chạy đua
về trình độ khoa học, kĩ thuật, công nghệ hiện đại để tránh tụt hậu. Một lần nữa VN lại phải
nhìn nhận lại, chiến lược CNH của mình. Để rút ngắn khoảng cách với các nước CN đi trước,
VN không chỉ CNH đơn thuần mà chuyển sang CNH-HDH(1991) ( tức là CNH theo hướng
hiện đại). Từ đó, nội dung CNH được đưa vào đường lối chiến lược. Khái niệm CNH-HDH
xuất phát từ Đại hội thứ VII (1991) khi có sự điều chỉnh, đó là: ”CNH-HDH là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh
tế-xã hội, từ sử dụng sức lao động với CN, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại; dựa
trên sự phát triển của CN và tiến bộ khoa học công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao động
cao”

● Với khái niệm này CNH phải gắn liền với HDH chứ không tách rời. Không
được thực hiện CNH rồi mới HDH mà phải thực hiện song song 2 nội dung: CNH và HDH.
● Nhờ đổi mới, sản xuất lương thực đạt được kết quả thần kỳ, dầu thô khai thác
và xuất khẩu,... Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, bước vào giai đoạn ổn định
và phát triển. Tăng trưởng kinh tế của thời kỳ 1992-1997 đã cao gấp hơn hai lần của thời kỳ
1977-1991 (8,77%/năm so với 4,07%/năm).

● Lạm phát của thời kỳ này cũng đã giảm mạnh so với thời kỳ 1986-1991 (bình
quân năm là 9,5% so với 180,2%).

● Tỷ lệ thất nghiệp đã giảm từ 2 chữ số xuống còn một chữ số; đến năm 1996
còn 5,88%.

● Mất cân đối cán cân thương mại giảm dần và đến 1992, lần đầu tiên đã xuất
siêu nhẹ. GDP bình quân đầu người tính bằng USD năm 1997 đạt 361 USD, cao gấp gần 4,2
lần năm 1988.

● Việt Nam đã chuyển vị thế từ nước kém phát triển sang nhóm nước đang phát
triển, từ chỗ bị bao vây, cấm vận sang bước đầu mở cửa hội nhập, tiếp nhận ODA (từ 1993
đến 1997, lượng vốn ODA cam kết là 10,8 tỷ USD, giải ngân gần 3,85 tỷ USD), FDI (từ
1991-1996 thu hút 27,8 tỷ USD vốn đăng ký, bình quân 1 năm trên 4,63 tỷ USD, cao gấp 8,7
lần mức bình quân trong 3 năm trước đó, vốn thực hiện đạt trên 9,2 tỷ USD); lượng kiều hối
gửi về nước từ 1993 đến 1997 đạt gần 1,55 tỷ USD,...

III. THÀNH TỰU CỦA QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ – HIỆN ĐẠI HOÁ

Trong nhiều thập niên qua, CNH, HĐH là xu hướng phát triển chung của nhiều nước
trên thế giới. Đối với Việt Nam, cùng với quá trình đổi mới, việc thực hiện các chủ trương,
đường lối về CNH, HĐH đã góp phần quan trọng trong quá trình phát triển, đưa đất nước
thoát nghèo và lạc hậu, nâng cao mức sống của người dân. Đánh giá chung về thành tựu thực
hiện CNH, HĐH ở Việt Nam trong 30 năm qua có thể khái quát trên một số nét như sau:

1. Công nghiệp hoá – hiện đại hoá đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta tăng trưởng cao, cải
thiện chất lượng tăng trưởng, đưa nước ta trở thành nước đang phát triển, có thu nhập
trung bình.

Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đã tăng lên liên tục. Trong suốt quá trình
chuyển mình từ một nền kinh tế lạc hậu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường hiện đại định
hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã vươn lên thành một điểm sáng tăng trưởng trong khu
vực và trên thế giới, với nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Nền kinh tế không chỉ tăng trưởng về
quy mô, mà chất lượng tăng trưởng cũng được cải thiện, đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân được cải thiện đáng kể.

Trong giai đoạn 2011 - 2016, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của nước ta là
6,0%/năm(1), cao hơn mức trung bình của các nước đang phát triển. Riêng 9 tháng đầu năm
2022, mặc dù kinh tế thế giới vẫn đang chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19, tốc
độ tăng trưởng thấp, nhưng kinh tế - xã hội Việt Nam vẫn phát triển ổn định, vượt và đạt
14/15 chỉ tiêu đề ra, tăng trưởng GDP cả năm ước đạt 8,0%. Chất lượng tăng trưởng kinh tế
từng bước được cải thiện trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học,
công nghệ và đổi mới sáng tạo.

2. Cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực; công nghiệp có đóng góp ngày
càng lớn trong nền kinh tế.

Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế còn được thể hiện ở sự chuyển dịch cơ cấu các
mặt hàng xuất khẩu và “cơ cấu này cũng được xem như một trong những tiêu chí quan trọng
đánh giá mức độ thành công của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công
nghiệp hoá – Hiện đại hoá”.
Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu phân theo ngành kinh tế ở nước ta trong thời gian qua
cũng đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, thể hiện kim ngạch xuất khẩu hàng nông, lâm
nghiệp và thủy sản trong tổng kim ngạch xuất khẩu giảm từ 14,6% năm 2015 xuống còn
9,2%% năm 2022. Trái lại, kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến trong tổng kim
ngạch xuất khẩu đã tăng từ 82,1% năm 2015 lên 89,6% năm 2022.
Hầu hết các nước đã trải qua quá trình Công nghiệp hoá để trở thành một nước công
nghiệp phát triển đều cơ bản trải qua một mô hình chung trong cơ cấu hàng xuất khẩu là: từ
chỗ chủ yếu xuất khẩu hàng sơ chế sang các mặt hàng công nghiệp chế biến, lúc đầu là các
mặt hàng công nghiệp chế biến sử dụng nhiều lao động, kỹ thuật thấp chuyển dần sang các
mặt hàng công nghiệp chế biến sử dụng công nghệ - kỹ thuật cao (Bùi Tất Thắng, 2006). Đối
với Việt Nam, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu trong năm 2022 là: Điện thoại các loại và linh
kiện (58 tỷ USD); hàng điện tử, máy tính và linh kiện (55,5 tỷ USD); máy móc thiết bị, dụng
cụ phụ tùng khác (45,7 tỷ USD); hàng dệt may (37,5 tỷ USD)… Điều này phản ánh trình độ
cơ cấu ngành của nền kinh tế đã cao hơn trước rất nhiều.

3. Công nghiêp hoá – Hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn góp phần thúc đẩy sản xuất
nông nghiệp hàng hóa theo hướng tập trung, quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao; thúc
đẩy tăng trưởng nông nghiệp ổn định, bền vững; ngành dịch vụ phát triển mạnh,
chuyển dịch theo hướng hiện đại.
Tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt trung bình
3%/năm. Nông nghiệp đã trải qua một quá trình chuyển đổi đáng kể, từ sản xuất truyền thống
sang hướng sản xuất hàng hóa và kết nối với thị trường. Sự áp dụng công nghệ và cơ giới hóa
đã mang lại nhiều lợi ích, từ tăng năng suất và chất lượng sản phẩm đến sự cạnh tranh. Đồng
thời, ngành dịch vụ đã đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế. Một số ngành có tiềm
năng, lợi thế, có hàm lượng khoa học, công nghệ cao, như thông tin, bưu chính, viễn thông,
du lịch, hàng không,... phát triển với tốc độ nhanh. Thương mại điện tử phát triển mạnh. Một
số ngành dịch vụ được hiện đại hóa, hình thành các sản phẩm dịch vụ hiện đại, có chất lượng
cao, như y tế, bảo hiểm,... Kinh tế số được chú trọng phát triển trở thành động lực tăng trưởng
của nền kinh tế, thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, phát triển chính phủ số, xã hội số. 8

IV. HẠN CHẾ TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ – HIỆN ĐẠI HOÁ TẠI
VIỆT NAM

Trong quá trình phát triển kinh tế của mình, Việt Nam đã chứng kiến sự tăng trưởng
đáng kể trong ngành công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên, việc tiến hành quá trình công nghiệp
hóa và hiện đại hóa không thể tránh khỏi những thách thức và hạn chế, đặc biệt là trong bối
cảnh của một quốc gia đang phát triển như Việt Nam.

1. Năng lực cạnh tranh

So với các nước hàng xóm trong khu vực và trên toàn thế giới, năng suất lao động của
Việt Nam vẫn còn thấp. Chất lượng sản phẩm cũng chưa đạt đến mức cao, với tỷ lệ sản phẩm
lỗi và hỏng hóc vẫn ở mức đáng lo ngại. Đồng thời, khả năng đổi mới sáng tạo của doanh
nghiệp Việt Nam còn hạn chế, làm giảm đi sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Ngoài ra,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam diễn ra chậm chạp. Mặc dù đã có sự tăng trưởng
trong khu vực công nghiệp và dịch vụ, nhưng tỷ trọng của chúng vẫn còn thấp so với nông
nghiệp (ngành kinh tế truyền thống của đất nước). Chuyển dịch cơ cấu lao động cũng chưa
tương xứng với yêu cầu phát triển, dẫn đến tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực có trình độ
chuyên môn cao.

2. Vấn đề kinh tế, ô nghiễm môi trường.

Hoạt động công nghiệp không chỉ gây ô nhiễm môi trường nước và không khí mà còn
tác động đến sức khỏe của cộng đồng. Xử lý chất thải chưa hiệu quả và ý thức bảo vệ môi
trường của người dân vẫn còn thấp, tạo ra nhiều hậu quả tiêu cực cho môi trường sống. Bên
cạnh đó, khoảng cách giàu nghèo gia tăng cũng là một vấn đề đáng lo ngại. Chênh lệch thu
nhập giữa các khu vực và giữa các tầng lớp xã hội ngày càng lớn, dẫn đến sự không công
bằng trong phân chia lợi ích và cơ hội phát triển. Đồng thời, an sinh xã hội vẫn chưa được
đảm bảo cho tất cả mọi người, đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa của đất nước.

V. NHỮNG NHIỆM VỤ TRƯỚC MẮT VÀ LÂU DÀI CẦN THỰC HIỆN TRONG
GIAI ĐOẠN CNH - HĐH

Việt Nam là một trong những quốc gia phát triển mạnh mẽ nhất trong khu vực Đông
Nam Á. Chúng ta đang trong giai đoạn chuyển mình, đổi mới đất nước và quá trình công
nghiệp hóa và hiện đại hóa là một phần không thể thiếu trong chiến lược đó. Quá trình này
giúp cho người dân nâng cao chất lượng cuộc sống, đem đến một nền kinh tế ổn định và bền
vững. Không chỉ vậy, Việt Nam cũng cho thấy những tham vọng để thay đổi diện mạo, trở
thành một ông lớn khu vực.
Tuy nhiên, đó không thực sự là một kế hoạch dễ dàng, nó bao gồm rất nhiều vấn đề
ngắn và dài hạn. Do đó, Việt Nam cần một chính sách đúng đắn hay một lối đi sáng suốt,
chính phủ sẽ phải suy nghĩ rất kĩ và chính xác. Sau đây là những nhiệm vụ trước mắt và
nhiệm vụ lâu dài của quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa của Việt Nam, qua đó thấy
được những hạn chế mà nước ta cần sửa đổi và chấn chỉnh.

1. Nhiệm vụ trước mắt

● Đầu tư vào cơ sở hạ tầng: Cải thiện cơ sở hạ tầng giao thông và điện lực Đầu
tư phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, nhất là giao thông, thủy lợi, cảng biển, truyền tải điện
năng… để tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa và phát triển các ngành công
nghiệp.

● Tăng cường năng lực sản xuất: áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản
xuất để quá trình sản xuất hiện đại hóa để tăng năng suất và chất lượng sản phẩm.

● Phát triển nguồn nhân lực: Đào tạo và nâng cao trình độ cho lao động trong
các ngành công nghiệp, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ và kỹ thuật.

● Khuyến khích đầu tư nước ngoài: Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
các ngành công nghiệp cốt lõi, giúp nâng cao công nghệ và quản lý.
● Tăng cường nghiên cứu và phát triển công nghệ: Hỗ trợ các doanh nghiệp và
tổ chức nghiên cứu và phát triển công nghệ mới, đặc biệt là trong các lĩnh vực mũi nhọn và
có tiềm năng phát triển.

2. Nhiệm vụ lâu dài

● Xây dựng chính sách công nghiệp hóa bền vững: Phát triển các chính sách hỗ
trợ cho các doanh nghiệp trong quá trình chuyển đổi công nghiệp và tạo ra một môi trường
kinh doanh thuận lợi.

● Phát triển nguồn lực nhân khẩu và tăng cường giáo dục: Đầu tư vào giáo dục
và đào tạo để tạo ra một lực lượng lao động có trình độ và kỹ năng phù hợp với yêu cầu của
nền kinh tế hiện đại.

● Đổi mới công nghệ và quản lý: Liên tục cập nhật và áp dụng công nghệ mới,
cũng như cải thiện quản lý để tăng cường hiệu suất và cạnh tranh.

● Bảo vệ môi trường: Phát triển công nghiệp theo hướng bền vững, giảm thiểu
tác động tiêu cực đến môi trường và xã hội.

● Xây dựng hệ thống hỗ trợ doanh nghiệp: Tạo ra một môi trường kinh doanh
minh bạch, công bằng và an toàn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và
vừa.

● Tiếp tục cải cách thể chế, hoàn thiện pháp luật để thúc đẩy phát triển công
nghiệp, xóa đói giảm nghèo.
Một ví dụ về chính sách công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông thôn, xây dựng
nông thôn mới phát triển bền vững. Chính sách công nghiệp hóa - hiện đại hóa xây
dựng nông thôn mới phát triển bền vững là một trong những chính sách quan trọng gắn
liền với sự phát triển kinh tế Việt Nam.
Chính sách này lần đầu được phát hành từ năm 2001 và được chính thức thực hiện từ
năm 2004, với mục tiêu hoàn thành vào năm 2045. Nội dung của chính sách chủ yếu tập
trung vào việc xây dựng và đổi mới các mô hình nông thôn cũ, thay thế bằng các mô hình
nông thôn hiện đại, thân thiện với môi trường và đạt chuẩn các tiêu chí an sinh xã hội. Chính
sách này trong ngắn hạn cũng cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia
tăng, phát triển công nghiệp, dịch vụ, tăng cường xuất khẩu nông nghiệp. Cho đến 8/2023,
chính phủ Việt Nam đã công nhận hơn 6.000 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm hơn 70%
tổng số xã trên cả nước. Nhờ đó, mức độ tăng trưởng GDP của nông thôn tăng nhanh hơn
thành thị, khoảng cách giữa hai bên đã giảm đi đáng kể trong giai đoạn 2012-2022 (từ 1,9 lần
xuống 1,5 lần).

Ngoài ra, chất lượng an sinh xã hội cũng tăng lên đáng kể. Chất lượng giáo dục, y tế
đã được chú trọng hơn khá nhiều, hơn 90% tổng số xã trên cả nước đạt chuẩn đầu ra về chất
lượng giáo dục, còn với y tế là hơn 85% tổng số xã. Còn với môi trường, chính phủ đã triển
khai xây dựng hệ thống cấp nước sạch, nâng cấp bảo đảm an toàn vệ sinh các khu công
nghiệp, tăng cường cải tạo cảnh quan khu vực nông thôn,....
Bên cạnh những thành tựu trên, chúng ta vẫn còn một số vấn đề cần được giải quyết
trong ngắn và dài hạn để giúp đất nước ta đạt chỉ tiêu 100% số xã đạt tiêu chuẩn về nông thôn
mới.
- Nhiệm vụ ngắn hạn

● Thu hẹp khoảng cách xây dựng và phát triển nông thôn mới giữa các vùng,
miền. Chúng ta cần đặt mục tiêu vừa tầm và có mục đích phát triển cho mỗi nhóm địa
phương, tránh tình trạng bị quá sức

● Tăng cường bảo vệ môi trường nông thôn. Môi trường luôn là một tiêu chí
quan trọng và luôn được xem xét kỹ lưỡng trong mọi đề án hay các chính sách ban hành. Do
đó, chúng ta phải đặc biệt tăng cường công tác thông tin, giám sát của cộng đồng để xử lý
nghiêm những hành vi xả rác bừa bãi hay tàn phá môi trường.
● Nâng cao vai trò và sự thông hiểu của người dân. Người dân luôn là cái gốc
cái rễ của mỗi quốc gia, cũng như được hưởng lợi trực tiếp từ các chính sách. Do đó, chính
phủ cần thực hiện những cuộc tuyên truyền, sát sao với người dân, từ đó tháo dỡ những hiểu
lầm về đường lối chính sách của đảng với người dân, Điều này giúp nâng cao vai trò của
người dân và giúp họ nhìn rõ những mục đích, nội dung, ý nghĩa, cơ chế của Đảng và nhà
nước.
- Nhiệm vụ dài hạn

● Thay đổi tư duy từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông
nghiệp. Chúng ta có lợi thế rất lớn về khí hậu và kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp
nhưng chưa thật sự tận dụng được tối đa lợi thế đó. Do đó, nhà nước cần phải thay đổi tư duy
của người nông dân, cơ cấu lại mô hình sản xuất kinh doanh nông nghiệp theo hướng hiện đại
hơn nhằm phát huy lợi thế nền nông nghiệp nhiệt đới.

● Phát triển mạnh công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong thời đại biến
chuyển liên tục hiện nay, chúng ta cần áp dụng những lý thuyết khoa học tân tiến, những máy
móc hiện đại để phục vụ cho việc sản xuất, phát triển toàn diện và song song công-nông
nghiệp. Không chỉ vậy, chúng ta còn xây dựng các cụm công nghiệp tại các địa phương, từ
đó tạo nhiều công ăn việc làm cho người dân. Chúng ta cũng cần phát triển và bảo tồn các
làng nghề thủ công, biến nó thành các địa điểm khám phá văn hóa thú vị, một khu du lịch
sinh thái.
VI. KẾT LUẬN
Trong bối cảnh xã hội thay đổi nhanh chóng từng ngày như hiện nay, Việt Nam ta
luôn luôn phải trong tình trạng sẵn sàng thích nghi đổi mới để nắm bắt kịp thời các xu thế. Từ
đó, tìm ra được các nhiệm vụ tối ưu cần giải quyết để giúp đất nước phát triển và cải thiện đời
sống nhân dân lao động. Trong giai đoạn ngắn hạn, Việt Nam cần tập trung vào những việc
như ổn định kinh tế, nâng cao chất lượng tay nghề,.... Còn về phần dài hạn, Việt Nam cần
thúc đẩy phát triển kinh tế vượt bậc và tìm các giải pháp đảm bảo sự phát triển bền vững.
Những giải pháp dài hạn nêu ở trên giúp chúng ta có cái nhìn tổng quát, nhưng chúng ta luôn
luôn phải cập nhật và thay đổi mỗi ngày để có thể bắt kịp những biến động trên thế giới. Để
đạt được việc này, chính phủ sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc đưa ra các kế hoạch
và các chiến lược. Hơn thế nữa, để tiến tới mục tiêu của một quốc gia phát triển và tiên tiến,
sự đồng lòng cùng nhìn về một hướng của đồng bào ta là vô cùng quan trọng. Mỗi cá nhân,
doanh nghiệp, và các tổ chức đều cần phải làm việc chăm chỉ, giúp đỡ lẫn nhau để vì một
tương lai chung của đất nước. Chỉ khi ta cùng nhau hướng về một mục tiêu, chúng ta mới có
thể giúp đất nước sánh vai với các cường quốc như mong ước của bác Hồ.

You might also like