C1

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 24

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ LĨNH VỰC DỊCH VỤ TÀI CHÍNH ĐANG THAY ĐỔI

Câu 1: Ngân hàng là gì? Ngân hàng khác với hầu hết các nhà cung cấp dịch vụ tài chính
khác như thế nào?
Một ngân hàng có thể được xác định bởi chức năng kinh tế mà nó thực hiện, những dịch vụ nó
cung cấp cho khách hàng hoặc cơ sở pháp lý cho sự tồn tại của nó. Trong lịch sử, các ngân hàng
đã cung cấp rất nhiều dịch vụ tài chính như tài khoản séc và tài khoản ghi nợ, thẻ tín dụng và kế
hoạch tiết kiệm.
Tuy nhiên, các ngân hàng ngày nay đang nhanh chóng mở rộng các dịch vụ cung cấp bao gồm
ngân hàng đầu tư (bảo lãnh chứng khoán), bảo hiểm, lập kế hoạch tài chính, dịch vụ tư vấn cho
các công ty sáp nhập, dịch vụ quản lý rủi ro và nhiều sản phẩm tài chính sáng tạo khác. Trong
khi đó, các nhà cung cấp dịch vụ tài chính khác cũng cung cấp một số dịch vụ tài chính tương tự
như ngân hàng cung cấp nhưng không tổ chức nào cung cấp đầy đủ tất cả các dịch vụ đó như
ngân hàng. Mặc dù vậy, nhiều tổ chức dịch vụ tài chính đang cố gắng giống các ngân hàng nhất
có thể về các dịch vụ mà họ cung cấp. Không chỉ các ngành dịch vụ tài chính mà một số công ty
công nghiệp trong những thập kỷ gần đây cũng đã bước lên nắm quyền kiểm soát một ngân
hàng hoặc các công ty giống như ngân hàng.

Câu 2: Theo luật pháp Hoa Kỳ, một công ty phải làm gì để đủ điều kiện và được quản lý
như một ngân hàng thương mại?
Theo luật pháp Hoa Kỳ, các ngân hàng thương mại phải cung cấp hai dịch vụ thiết yếu để đủ
điều kiện trở thành ngân hàng nhằm mục đích quản lý và đánh thuế, thứ nhất là dịch vụ tiền gửi
không kỳ hạn (tài khoản séc) và dịch vụ thứ hai là cung cấp các khoản vay thương mại. Gần đây
hơn, Quốc hội đã định nghĩa ngân hàng là bất kỳ tổ chức nào có thể đủ điều kiện tham gia bảo
hiểm tiền gửi do Tổng công ty Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang (FDIC) quản lý.

Câu 3: Tại sao một số ngân hàng lại vươn tới trở thành tập đoàn dịch vụ tài chính tổng
hợp? Theo bạn, đây có phải là một ý tưởng hay?
Các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác nhau đang hội tụ về các dịch vụ mà họ cung cấp và
đón nhận những đổi mới của nhau. Có hai lý do khiến các ngân hàng ngày càng có xu hướng trở
thành các tập đoàn dịch vụ tài chính tổng hợp. Nguyên nhân thứ nhất là sự cạnh tranh ngày càng
tăng đến từ các loại hình tổ chức tài chính khác và nguyên nhân thứ hai là do sự xói mòn thị
phần của ngân hàng trong việc cung cấp các dịch vụ truyền thống. Vì những lý do này, các ngân
hàng đã yêu cầu dỡ bỏ các quy tắc truyền thống và vận động hành lang để mở rộng thẩm quyền
tiếp cận các thị trường mới trên toàn cầu. Điều này đã khiến Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Đạo
luật Hiện đại hóa Dịch vụ Tài chính, cho phép các ngân hàng mở rộng vai trò của mình để trở
thành nhà cung cấp dịch vụ đầy đủ. Đây là một bước đi có lợi vì nó đã khiến các ngân hàng Hoa
Kỳ tiếp tục cạnh tranh và tăng thị phần bằng cách tham gia vào nhiều ngành mới khác nhau như
ngành chứng khoán và bảo hiểm.

Câu 4: Những doanh nghiệp nào là đối thủ cạnh tranh mạnh mẽ và gần gũi nhất của ngân
hàng? Họ cung cấp những dịch vụ nào cạnh tranh trực tiếp với dịch vụ của ngân hàng?
Trong số các đối thủ cạnh tranh gần nhất của ngân hàng là các hiệp hội tiết kiệm (saving
associations), hiệp hội tín dụng (credit unions), ngân hàng phụ (fringe banks), quỹ thị trường
tiền tệ (money market funds), quỹ tương hỗ (mutual funds), quỹ phòng hộ (hedge funds), nhà
môi giới và đại lý chứng khoán (securities brookers and dealers), ngân hàng đầu tư (investment
banks), công ty tài chính (financial companies), công ty cổ phần tài chính (financial holding
companies) và các công ty bảo hiểm nhân thọ và tài sản/thiệt hại (life and property/casualty
insurance companies). Tất cả các nhà cung cấp dịch vụ tài chính này đang hội tụ và đón nhận
những đổi mới của nhau. Các Đạo luật Hiện đại hóa Dịch vụ Tài chính đã cho phép nhiều nhà
cung cấp dịch vụ tài chính cung cấp nhiều loại hình dịch vụ tài chính hơn.

Câu 5: Điều gì đang xảy ra với thị phần của ngân hàng trên thị trường tài chính và tại
sao? Bạn dự đoán loại hệ thống tài chính ngân hàng nào trong tương lai nếu xu hướng
hiện tại tiếp tục?
Đạo luật Hiện đại hóa Dịch vụ Tài chính năm 1999 cho phép nhiều đối thủ cạnh tranh gần nhất
của ngân hàng cung cấp một loạt các dịch vụ tài chính, do đó lấy đi thị phần từ các ngân hàng
“truyền thống”.
Về hệ thống tài chính ngân hàng trong tương lai, do các quy định tương đối tự do của chính
phủ, các ngân hàng có quản lý chất lượng và đủ vốn có thể trở thành nhà cung cấp dịch vụ tài
chính tập đoàn. Điều tương tự cũng sẽ xảy ra với các công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm và
các công ty định hướng tài chính khác mong muốn mua lại các chi nhánh ngân hàng. Do đó, các
ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh gần nhất của họ đang hội tụ vào hình thức “one-stop
shopping” (cung cấp tất cả dịch vụ tại một điểm đến) các dịch vụ tài chính và xu hướng này sẽ
tiếp tục trong tương lai.

Câu 6: Ngày nay các ngân hàng cung cấp những loại dịch vụ khác nhau nào cho công
chúng? Những dịch vụ nào mà đối thủ cạnh tranh gần nhất của họ cung cấp?
Các ngân hàng cung cấp nhiều loại dịch vụ nhất so với bất kỳ tổ chức tài chính nào. Họ cung
cấp tiền gửi tiết kiệm để khuyến khích tiết kiệm và tài khoản séc (không kỳ hạn) để cung cấp
phương tiện thanh toán cho việc mua hàng hóa và dịch vụ. Họ cũng cung cấp tín dụng thông
qua các khoản vay trực tiếp, bằng cách chiết khấu trái phiếu mà khách hàng doanh nghiệp nắm
giữ và phát hành bảo lãnh tín dụng. Ngoài ra, họ còn cho người tiêu dùng vay để mua hàng hóa
lâu bền, chẳng hạn như ô tô và sửa chữa nhà cửa, v.v. Các ngân hàng cũng quản lý tài sản của
khách hàng theo hợp đồng ủy thác và quản lý trạng thái tiền mặt của khách hàng doanh nghiệp
của họ. Họ mua và cho khách hàng thuê thiết bị thay thế cho khoản vay trực tiếp. Nhiều ngân
hàng cũng hỗ trợ khách hàng của họ bán hợp đồng bảo hiểm cũng như mua bán chứng khoán
thông qua dịch vụ môi giới chứng khoán, mua và bán ngoại tệ, cung cấp vốn mạo hiểm để bắt
đầu kinh doanh mới và mua bảo hiểm niên kim (annuities) để cung cấp vốn trong tương lai khi
nghỉ hưu. Họ cũng cung cấp dịch vụ ngân hàng thương mại cho các tập đoàn lớn và các dịch vụ
quản lý và phòng ngừa rủi ro để giúp khách hàng của họ chống lại rủi ro. Tất cả các dịch vụ này
cũng được cung cấp bởi các đối thủ cạnh tranh dịch vụ tài chính của họ. Các ngân hàng và các
đối thủ cạnh tranh gần nhất của họ đang hội tụ và trở thành các cửa hàng bách hóa tài chính ở
hiện tại.

Câu 7: Cửa hàng bách hóa tài chính (financial department store) là gì? Một ngân hàng đa
năng (universal bank)? Bạn nghĩ tại sao những tổ chức này lại trở nên quan trọng như
vậy trong hệ thống tài chính hiện đại?
Cửa hàng bách hóa tài chính là một tổ chức nơi các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm và môi giới
chứng khoán được thống nhất dưới một mái nhà. Xu hướng gần đây nhằm thống nhất các dịch
vụ ngân hàng, bảo hiểm và môi giới chứng khoán thường được gọi là ngân hàng đa năng
(universal bank). Một loạt các dịch vụ ấn tượng được cung cấp và các kênh cung cấp dịch vụ
được các tổ chức tài chính hiện đại sử dụng đã mang lại sự tiện lợi hơn cho khách hàng, có thể
đáp ứng tất cả các nhu cầu dịch vụ tài chính của họ tại một địa điểm.

Câu 8: Theo lý thuyết tài chính, Tại sao các ngân hàng và các trung gian tài chính khác
tồn tại trong xã hội hiện đại?
Quan điểm truyền thống coi ngân hàng là trung gian tài chính (financial intermediaries) đồng
thời đáp ứng nhu cầu dịch vụ tài chính của người tiết kiệm (đơn vị chi tiêu thặng dư) và người
đi vay (đơn vị chi tiêu thâm hụt), cung cấp cả nguồn cung tín dụng và nguồn cung tài sản lưu
động. Một quan điểm mới hơn coi các ngân hàng là những người giám sát được ủy quyền
(delegated monitors), thay mặt người gửi tiền giám sát và đánh giá những người đi vay, thu phí
cung cấp dịch vụ giám sát. Các ngân hàng cũng cung cấp dịch vụ chia các công cụ tài chính
thành các đơn vị nhỏ hơn để hàng triệu người có thể tiếp cận được. Các ngân hàng chấp nhận
các khoản vay rủi ro từ người đi vay trong khi phát hành chứng khoán có rủi ro thấp cho người
gửi tiền. Theo lý thuyết gần đây, các ngân hàng được coi là nhà cung cấp dịch vụ thanh khoản
và giao dịch giúp giảm chi phí cho khách hàng và thông qua đa dạng hóa, giảm rủi ro. Các ngân
hàng cũng rất quan trọng trong hệ thống thanh toán hàng hóa và dịch vụ và ngày càng đóng vai
trò quan trọng như người bảo lãnh và vai trò quản lý rủi ro cho khách hàng.

Câu 9: Thị trường ngân hàng và dịch vụ tài chính thay đổi thế nào trong những năm gần
đây? Những thế lực mạnh mẽ nào đang định hình các thị trường và thể chế tài chính ngày
nay? Bạn nghĩ lực lượng nào trong số này sẽ tiếp tục tồn tại trong tương lai?
Ngân hàng đang trở thành một ngành dễ biến động hơn, một phần là do việc bãi bỏ quy định đã
mở ra cơ hội cho các ngân hàng riêng lẻ tiếp cận toàn bộ sức mạnh của thị trường tài chính. Tuy
nhiên, theo xu hướng điều tiết mới – tái điều chỉnh (reregulation), chính phủ đã thắt chặt lĩnh
vực dịch vụ tài chính do khủng hoảng và sụp đổ thị trường trong vài năm trước đó. Đồng thời,
số lượng và sự đa dạng của các dịch vụ ngân hàng đã tăng lên rất nhiều do áp lực cạnh tranh
ngày càng tăng từ các nhà cung cấp dịch vụ tài chính phi ngân hàng và sự thay đổi nhu cầu của
công chúng về các dịch vụ được cung cấp thuận tiện và đáng tin cậy hơn cũng như tăng lợi
nhuận trên số tiền đầu tư của họ. Thêm vào cường độ cạnh tranh, các ngân hàng nước ngoài đã
đạt được thành công trong nỗ lực thâm nhập vào các quốc gia nước ngoài và thu hút các tài
khoản hộ gia đình và doanh nghiệp trong nước có lợi nhuận. Sự gia tăng nhanh chóng về dịch
vụ và sự cạnh tranh ngày càng lớn giữa các công ty tài chính đã dẫn đến một xu hướng mạnh
mẽ – hội tụ (convergence). Sự hội tụ đề cập đến sự chuyển động của các doanh nghiệp trong các
ngành công nghiệp để một doanh nghiệp trước đây có thể cung cấp một hoặc hai dòng sản phẩm
sẽ mạo hiểm phát triển các dòng sản phẩm khác để mở rộng cơ sở bán hàng của mình. Ngoài
những thay đổi này, còn có sự cải thiện đáng kể về tự động hóa công nghệ. Các xu hướng hội
tụ, hợp nhất, mở rộng địa lý và thay đổi công nghệ sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong những
năm tới.

Câu 10: Bạn có thể giải thích tại sao nhiều lực lượng mà bạn nêu tên trong câu trả lời cho
câu hỏi trước đã dẫn đến những vấn đề đáng kể cho việc quản lý các ngân hàng và các
công ty tài chính khác cũng như cho các cổ đông của họ không?
Kết quả cuối cùng của những thay đổi gần đây trong thị trường ngân hàng và dịch vụ tài chính
đã gây áp lực lớn hơn lên thu nhập của họ, dẫn đến lợi nhuận biến động nhiều hơn cho các cổ
đông và khiến ngân hàng gia tăng thất bại trong việc cung cấp các mức lãi suất đó .Cạnh tranh
gia tăng đã dẫn đến sự biến động về thị phần của ngân hàng trên thị trường dịch vụ tài chính.
Những tiến bộ công nghệ đã có tác động đáng kể giảm chi phí trên mỗi đơn vị liên quan đến các
giao dịch khối lượng lớn, nhưng chúng cũng đã phi cá nhân hóa các dịch vụ tài chính. Do sự
hợp nhất của các tổ chức tài chính, số việc làm trong lĩnh vực dịch vụ tài chính nói chung đã
giảm. Do xu hướng hội tụ mạnh mẽ, các công ty yếu hơn sẽ thất bại hoặc bị sáp nhập vào các
công ty lớn hơn với nhiều dịch vụ hơn. Các tổ chức cũng trở nên đổi mới hơn trong việc cung
cấp dịch vụ và tìm kiếm các nguồn tài trợ mới, chẳng hạn như các giao dịch ngoại bảng. Do đó,
rủi ro gia tăng mà các tổ chức ngày nay phải đối mặt đã buộc các nhà quản lý phải sử dụng tích
cực hơn nhiều công cụ và kỹ thuật để cải thiện và ổn định dòng thu nhập cũng như quản lý các
rủi ro khác nhau mà họ gặp phải.

Câu 11: Bạn nghĩ ngành dịch vụ tài chính sẽ như thế nào sau 20 năm nữa? Ý nghĩa của
những dự đoán của bạn đối với việc quản lý nó ngày hôm nay là gì?
Dự đoán ngành dịch vụ có một xu hướng tiếp tục hợp nhất và hội tụ. Có thể sẽ có ít nhà cung
cấp dịch vụ tài chính hơn trong tương lai và nhiều nhà cung cấp trong số này sẽ rất lớn và cung
cấp nhiều loại dịch vụ tài chính dưới một mái nhà. Ngoài ra, việc mở rộng toàn cầu sẽ tiếp tục
và sẽ rất quan trọng đối với sự tồn tại của nhiều nhà cung cấp dịch vụ tài chính. Việc quản lý
các nhà cung cấp dịch vụ tài chính sẽ phải nhạy bén hơn về mặt công nghệ và có thể đưa ra
nhiều quyết định đa dạng hơn, bao gồm các quyết định về sáp nhập, mua lại và mở rộng toàn
cầu cũng như các dịch vụ mới để bổ sung cho công ty.

Câu 12: (Tình huống) Bạn vừa tốt nghiệp đại học với tấm bằng kinh doanh và nhận lời
làm việc tại một tập đoàn lớn với mức thu nhập cao hơn mức bạn có thể mơ ước. Bạn
muốn (1) mở tài khoản séc cho mục đích giao dịch, (2) mở tài khoản tiết kiệm cho những
trường hợp khẩn cấp, (3) đầu tư vào quỹ tương hỗ vốn cổ phần cho tương lai xa gọi là
nghỉ hưu, (4) xem liệu bạn có thể tìm được bảo hiểm ô tô giá cả phải chăng hơn, và (5) vay
tiền để mua một căn hộ, cùng với sự giúp đỡ của chú của bạn, người nói rằng ông ấy rất
tự hào về điểm số của bạn đến mức ông ấy muốn đưa cho bạn 20.000 đô la để trả trước.
(Cuộc sống có tốt đẹp hay không?) Lập năm danh sách các công ty dịch vụ tài chính có thể
cung cấp cho bạn từng dịch vụ này.
Các công ty dịch vụ tài chính cung cấp dịch vụ tài khoản séc bao gồm ngân hàng, ngân hàng
phụ, hiệp hội tín dụng và các hiệp hội tiết kiệm và cho vay. Ngay cả các nhà môi giới chứng
khoán cũng cho phép bạn mở tài khoản séc. Gần đây, các nhà môi giới như Schwab đã trở nên
tích cực hơn trong việc cung cấp các tài khoản có thể kiểm tra trực tuyến có lãi suất và thường
đưa ra mức lãi suất cao hơn mức mà nhiều ngân hàng sẵn sàng trả. (2) Để mở tài khoản tiết
kiệm, người ta có thể tiếp cận các ngân hàng thương mại truyền thống, hiệp hội tiết kiệm, hiệp
hội tín dụng, môi giới trực tuyến và hiệp hội tín dụng. (3) Đối với quỹ hưu trí, người ta có thể
chọn từ rất nhiều lợi ích xác định và các chương trình đóng góp xác định từ các quỹ hưu trí tư
nhân. Các ngân hàng, bộ phận ủy thác, quỹ tương hỗ và các công ty bảo hiểm cung cấp nhiều
lựa chọn đầu tư hưu trí bao gồm cả quỹ tương hỗ vốn cổ phần. (4) Đối với bảo hiểm ô tô giá cả
phải chăng, người ta có thể sử dụng một công ty bảo hiểm truyền thống như Bảo hiểm
Prudential, State Farm, các công ty cổ phần tài chính hoặc tiếp cận một số công ty bảo hiểm
chiết khấu mới hơn bao gồm Geico và Progressive. Ngoài ra, người ta có thể sử dụng dịch vụ
đấu giá ngược như Esurance để có được mức giá tốt nhất. (5) Để vay vốn mua căn hộ, người ta
có thể đến ngân hàng truyền thống, các hiệp hội tiết kiệm chuyên cho vay thế chấp nhà hoặc các
công ty tài chính như GMAC. Trang web đấu giá ngược như LendingTree cũng có thể hữu ích
trong bài tập này. Người đi vay không bị giới hạn ở khoản vay thế chấp để tài trợ cho việc mua
căn hộ. Các cơ chế cho vay khác có sẵn để tài trợ cho việc mua hàng đó. Sử dụng công cụ tìm
kiếm có thể giúp xác định các tổ chức tài chính hàng đầu trong từng lĩnh vực này.

Câu 13: Các ngân hàng trung tâm tiền tệ hàng đầu ở Hoa Kỳ đã đẩy mạnh hoạt động
ngân hàng đầu tư của họ trên toàn cầu trong những năm gần đây, mua chứng khoán nợ
doanh nghiệp và cổ phiếu từ các khách hàng doanh nghiệp của họ và bán lại chứng khoán
đó cho các nhà đầu tư trên thị trường mở. Đây có phải là động thái đáng mong đợi của các
tổ chức ngân hàng xét từ góc độ lợi nhuận? Từ quan điểm rủi ro? Từ quan điểm lợi ích
công cộng? Bạn sẽ nghiên cứu những câu hỏi này như thế nào? Nếu bạn đang quản lý một
công ty đã gửi số tiền gửi lớn vào một ngân hàng tham gia vào các hoạt động như vậy, bạn
có lo ngại về rủi ro đối với quỹ của công ty mình không? Tại sao hoặc tại sao không?
Vào những năm 1970 và đầu những năm 1980, hoạt động ngân hàng đầu tư mang lại lợi nhuận
cao đến mức các chủ ngân hàng thương mại bị thu hút vào hoạt động kinh doanh ngân hàng đầu
tư phần lớn vì tiềm năng lợi nhuận lớn hơn so với các hoạt động ngân hàng thương mại truyền
thống khác. Sau này, các ngân hàng nước ngoài, đặc biệt là các công ty ngân hàng Anh và Nhật
Bản, bắt đầu thu hút các khách hàng doanh nghiệp lớn khỏi các ngân hàng Mỹ, những ngân
hàng bị quy định hạn chế cung cấp nhiều dịch vụ ngân hàng đầu tư. Do đó, các ngân hàng Hoa
Kỳ gặp khó khăn nghiêm trọng khi cố gắng duy trì các tài khoản tiền gửi và tín dụng doanh
nghiệp truyền thống của mình vì họ không thể cạnh tranh về mặt dịch vụ trong lĩnh vực ngân
hàng đầu tư. Ngày nay, các ngân hàng được phép bảo lãnh phát hành chứng khoán thông qua
công ty con hoặc thông qua cơ cấu công ty mẹ. Sự thay đổi này xảy ra như một phần của Đạo
luật Gramm-Leach-Bliley (Đạo luật Hiện đại hóa Dịch vụ Tài chính).
Thật không may, nếu ngân hàng đầu tư mang lại nhiều lợi nhuận hơn các dòng sản phẩm ngân
hàng truyền thống thì nó cũng có nhiều rủi ro hơn, phù hợp với nguyên lý cơ bản của tài chính
rằng rủi ro và lợi nhuận có liên quan trực tiếp với nhau. Đó là lý do tại sao Cục Dự trữ Liên
bang đã đặt ra những giới hạn nghiêm ngặt như vậy đối với loại hình tổ chức có thể cung cấp
các dịch vụ này. Hiện nay, việc bảo lãnh hầu hết chứng khoán doanh nghiệp phải được thực
hiện thông qua một công ty con hoặc một bộ phận riêng biệt của công ty mẹ để ít nhất về mặt lý
thuyết, ngân hàng không chịu trách nhiệm về bất kỳ tổn thất nào phát sinh. Vì lý do này, có thể
có rất ít lý do để người gửi tiền (bao gồm cả những người gửi tiền là doanh nghiệp lớn) lo ngại
về rủi ro từ hoạt động ngân hàng đầu tư. Hơn nữa, khả năng cung cấp các dịch vụ như vậy có
thể làm cho các ngân hàng Hoa Kỳ trở nên khả thi hơn về lâu dài, điều này giúp ích cho các
khách hàng doanh nghiệp phụ thuộc vào họ về tín dụng.
Mặt khác, những người phản đối quyền lực ngân hàng đầu tư đối với hoạt động ngân hàng ở
Hoa Kỳ có một số lo ngại hợp lý cần được giải quyết. Ví dụ, có thể có xung đột lợi ích. Thông
tin được thu thập trong bộ phận ngân hàng đầu tư có thể được sử dụng để gây bất lợi cho khách
hàng mua các dịch vụ ngân hàng khác. Ví dụ: một khách hàng đang tìm kiếm khoản vay có thể
được thông báo rằng họ phải mua chứng khoán từ bộ phận ngân hàng đầu tư của ngân hàng để
nhận được khoản vay. Hơn nữa, các ngân hàng có thể giành được quyền kiểm soát hiệu quả đối
với một số tập đoàn công nghiệp phi ngân hàng, điều này có thể khiến họ gặp nhiều rủi ro hơn
và khiến các công ty công nghiệp không liên minh với ngân hàng gặp bất lợi trong cạnh tranh.
Do đó, Đạo luật Gramm-Leach-Bliley đã xây dựng một số biện pháp bảo vệ để ngăn chặn điều
này xảy ra.

Câu 14: Thuật ngữ ngân hàng đã được áp dụng rộng rãi trong nhiều năm qua để bao gồm
một tập hợp đa dạng các tổ chức dịch vụ tài chính, cung cấp các gói dịch vụ tài chính khác
nhau. Xác định càng nhiều loại ngân hàng khác nhau càng tốt. Làm thế nào để so sánh các
ngân hàng mà bạn đã xác định với nhóm ngân hàng lớn nhất – các ngân hàng thương
mại? Bạn nghĩ tại sao có nhiều công ty tài chính khác nhau được gọi là ngân hàng? Sự
nhầm lẫn về thuật ngữ này có thể ảnh hưởng đến khách hàng sử dụng dịch vụ tài chính
như thế nào?
Công chúng có xu hướng phân loại những nơi cung cấp một số loại dịch vụ tài chính, đặc biệt là
dịch vụ tiền gửi và cho vay là ngân hàng. Các tổ chức khác thường được gọi là ngân hàng mà
không phải là ngân hàng là các hiệp hội tiết kiệm (saving associations), liên minh tín dụng
(credit unions), ngân hàng phụ (fringe banks), quỹ thị trường tiền tệ (money market funds), quỹ
tương hỗ (mutual funds), quỹ phòng hộ (hedge funds), nhà môi giới và đại lý chứng khoán
(securities brookers and dealers), ngân hàng đầu tư (investment banks), công ty tài chính
(financial company), công ty cổ phần tài chính (financial holding company) và tổ chức nhân thọ
và các công ty bảo hiểm tài sản/thương vong (life and property/casualty insurance companies).
Tất cả các tổ chức này đều cung cấp một số dịch vụ mà ngân hàng thương mại cung cấp, nhưng
nhìn chung không phải toàn bộ phạm vi dịch vụ. Vì các nhà cung cấp dịch vụ tài chính thường
được công chúng gọi là ngân hàng nên họ có thể loại bỏ hoạt động kinh doanh của các ngân
hàng truyền thống và điều quan trọng nhất đối với các ngân hàng thương mại là phải làm rõ vị
thế độc tôn của họ trong số các nhà cung cấp dịch vụ tài chính.

Câu 15: Bạn có thể thấy những lợi ích gì khi các ngân hàng liên kết với các công ty bảo
hiểm? Sự liên kết như vậy có thể mang lại lợi ích gì cho ngân hàng? Một công ty bảo
hiểm? Bạn có thể xác định bất kỳ nhược điểm nào có thể xảy ra đối với sự liên kết như vậy
không? Bạn có thể trích dẫn bất kỳ ví dụ thực tế nào về mối quan hệ liên kết giữa ngân
hàng và công ty bảo hiểm không? Chúng dường như đã hoạt động tốt như thế nào trong
thực tế?
Bancassurance được hiểu là sự hợp tác giữa công ty bảo hiểm và các ngân hàng, trong đó, ngân
hàng sẽ tận dụng hệ thống phân phối và nguồn khách hàng của mình để phân phối sản phẩm
bảo hiểm cho công ty bảo hiểm và thực hiện một số dịch vụ khác (tư vấn, thu phí,...). Đổi lại,
công ty bảo hiểm sẽ trả hoa hồng và các khoản phí cho ngân hàng theo hợp đồng được ký kết
giữa hai bên.
 Ưu điểm của Bancassurance
Mô hình Bancassurance đã đem lại nhiều lợi ích, không chỉ với ngân hàng, với công ty bảo
hiểm mà còn đem lại nhiều quyền lợi đối với khách hàng sử dụng.
- Đối với ngân hàng
Tăng doanh thu thông qua việc khách hàng mua bảo hiểm từ các công ty bảo hiểm đã liên kết.
Từ đó, ngân hàng có thể tăng khả năng cạnh tranh và duy trì lượng khách hàng ổn định.
Giúp ngân hàng tận dụng nguồn khách hàng sẵn có từ các công ty bảo hiểm, góp phần củng cố
mối quan hệ với những khách hàng tiềm năng.
Có thể giúp ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động của ngân hàng, giúp ngân hàng tăng thêm
mức độ uy tín trên thị trường tài chính. Bởi, khi sử dụng Bancassurance, ngân hàng có thể tăng
nguồn huy động vốn từ các chủ sở hữu.
- Đối với công ty bảo hiểm
Công ty bảo hiểm có thể thêm cơ hội về nguồn khách hàng tiềm năng mới khi hợp tác với ngân
hàng. Từ đó, công ty bảo hiểm có nâng cao chất lượng cũng như tăng doanh số bán hàng dễ
dàng.
Công ty bảo hiểm có thể giảm được chi phí phân phối sản phẩm đến khách hàng. Bởi khi
Bancassurance, công ty bảo hiểm có đa dạng kênh phân phối hơn nhờ các ngân hàng, nhờ đó có
thể gia tăng được mức độ cạnh tranh đối với các doanh nghiệp khác.
Nâng cao hình ảnh thương hiệu, cũng như quảng bá hình ảnh của mình đến với người tiêu dùng
nếu công ty bảo hiểm hợp tác với các ngân hàng, đặc biệt là những ngân hàng uy tín, có tiếng
trên thị trường.
 Nhược điểm của Bancassurance
Bên cạnh những ưu điểm thì mô hình Bancassurance cũng có những nhược điểm đối với ngân
hàng, công ty bảo hiểm và cả khách hàng, cụ thể như sau:
- Đối với ngân hàng
Hợp tác giữa các ngân hàng và công ty bảo hiểm là mối quan hệ lớn. Nếu xảy ra trường hợp
như công ty bảo hiểm làm ăn kém hiệu quả, không chuyên nghiệp… sẽ ảnh hưởng đến tâm lý
và tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng đó. Bởi, Bancassurance sẽ gắn liền hiệu quả
ngân hàng với các công ty bảo hiểm.
Vì vậy, các ngân hàng cần lựa chọn công ty bảo hiểm uy tín để hợp tác và giữ được uy tín của
mình.
- Đối với công ty bảo hiểm
Các công ty bảo hiểm cũng cần lựa chọn những ngân hàng uy tín để hợp tác hiệu quả. Bởi, chi
phí ban đầu mà công ty bảo hiểm trả cho ngân hàng là khá lớn. Nếu doanh thu từ Bancassurance
không hiệu quả sẽ ảnh hưởng rất lớn đối với công ty bảo hiểm.
 Ngày 20/07/2016, Generali Việt Nam và Eximbank đã tiến hành lễ ký kết hợp đồng
hợp tác độc quyền phân phối sản phẩm bảo hiểm qua ngân hàng
 Phân phối bảo hiểm qua ngân hàng (Bancassurance) là mô hình liên kết kinh doanh
phổ biến giữa ngân hàng và doanh nghiệp bảo hiểm, một kênh phân phối tiềm năng
và đang tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm gần đây bên cạnh các kênh phân
phối bảo hiểm truyền thống khác. Bancassurance đã và đang đóng vai trò quan
trọng trong hoạt động kinh doanh của nhiều doanh nghiệp bảo hiểm cũng như
mang đến nguồn lợi nhuận mỗi năm cho các ngân hàng và được kỳ vọng sẽ tiếp tục
bùng nổ doanh thu trong thời gian tới.

Câu 16: Giải thích sự khác biệt giữa hợp nhất và hội tụ. Những xu hướng này trong dịch
vụ ngân hàng và tài chính có liên quan với nhau không? Chúng có ảnh hưởng lẫn nhau
không? Làm sao?
Hợp nhất đề cập đến sự gia tăng quy mô của các tổ chức tài chính. Số lượng các tổ chức tài
chính nhỏ, thuộc sở hữu độc lập đang giảm và quy mô trung bình của từng ngân hàng cũng như
các công ty chứng khoán, hiệp hội tín dụng, công ty tài chính và công ty bảo hiểm đã tăng lên
đáng kể.
Sự hội tụ là sự tập hợp các công ty từ các ngành khác nhau để tạo ra các công ty tập đoàn cung
cấp nhiều dịch vụ. Rõ ràng, hai xu hướng này có liên quan với nhau. Trong nỗ lực cạnh tranh
với nhau, các ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh gần nhất của họ đã mua lại các công ty khác
trong ngành cũng như giữa các ngành để cung cấp nhiều dịch vụ tài chính ở nhiều thị trường.

Câu 17: Trung gian tài chính là gì ? Đặc điểm chính của nó là gì? Ngân hàng có phải là
một loại hình trung gian tài chính? Những công ty dịch vụ tài chính nào khác là trung
gian tài chính? Các trung gian tài chính đóng vai trò quan trọng gì trong hệ thống tài
chính?
Một trung gian tài chính (financial intermediary) là một doanh nghiệp tương tác với các cá nhân
và tổ chức có chi tiêu thâm hụt và các cá nhân và tổ chức có chi tiêu thặng dư. Vì lý do này, bất
kỳ nhà cung cấp dịch vụ tài chính nào (bao gồm cả ngân hàng) đều được coi là trung gian tài
chính. Các ngân hàng, cùng với các công ty bảo hiểm, quỹ tương hỗ, công ty tài chính và các
nhà cung cấp dịch vụ tài chính tương tự đều là các trung gian tài chính. Với chức năng là trung
gian, họ đóng vai trò là cầu nối giữa các đơn vị chi tiêu thâm hụt và thặng dư bằng cách cung
cấp các dịch vụ tài chính cho các cá nhân chi tiêu thặng dư và sau đó phân bổ số tiền đó cho các
cá nhân chi tiêu thâm hụt. Các trung gian tài chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng cách mở
rộng nguồn tiết kiệm sẵn có, giảm rủi ro đầu tư thông qua đa dạng hóa, tăng hiệu suất đầu tư tiết
kiệm, đáp ứng nhu cầu thanh khoản và đánh giá thông tin tài chính.

Câu 18: Năm rủi ro thường gặp đối với các tổ chức tài chính là gì?
Vỡ nợ hoặc rủi ro tín dụng của tài sản; rủi ro lãi suất do chênh lệch kỳ hạn giữa tài sản và nợ
phải trả; rút nợ hoặc rủi ro thanh khoản; rủi ro bảo lãnh; và rủi ro về chi phí hoạt động.

Câu 19: Giải thích các giao dịch kinh tế giữa những người tiết kiệm vốn trong hộ gia đình
và những người sử dụng vốn của doanh nghiệp sẽ diễn ra như thế nào trong một thế giới
không có các tổ chức tài chính.
Trong một thế giới không có các tổ chức tài chính, những người sử dụng vốn doanh nghiệp
trong nền kinh tế sẽ phải tiếp cận trực tiếp với những người tiết kiệm vốn hộ gia đình để đáp
ứng nhu cầu vay vốn của họ. Quá trình này sẽ cực kỳ tốn kém vì những chi phí thông tin ban
đầu mà những người cho vay tiềm năng phải đối mặt.
Sự kém hiệu quả về chi phí sẽ phát sinh trong vấn đề xác định những người cho vay tiềm năng,
sau đó gộp các khoản tiết kiệm nhỏ thành các khoản vay có quy mô đủ để tài trợ cho các hoạt
động của công ty và đánh giá rủi ro cũng như các cơ hội đầu tư. Hơn nữa, người cho vay sẽ phải
giám sát hoạt động của người đi vay trong suốt thời hạn của mỗi khoản vay. Kết quả cuối cùng
sẽ là sự phân bổ nguồn lực không hoàn hảo trong nền kinh tế.

Câu 20: Xác định và giải thích ba yếu tố cản trở kinh tế có thể làm giảm dòng vốn giữa
những người tiết kiệm vốn trong hộ gia đình và những người sử dụng vốn doanh nghiệp
trong một thế giới kinh tế không có các tổ chức tài chính.
Các nhà đầu tư thường không thích mua chứng khoán trực tiếp vì (a) chi phí giám sát
(monitoring costs), (b) chi phí thanh khoản (liquidity costs) và (c) rủi ro về giá (price risk). Việc
giám sát hoạt động của người đi vay đòi hỏi nhiều thời gian, chi phí và chuyên môn. Kết quả là,
các hộ gia đình muốn giao hoạt động này cho người khác và theo định nghĩa, việc thiếu giám
sát sẽ làm tăng rủi ro khi đầu tư vào thị trường nợ và vốn cổ phần của doanh nghiệp. Bản chất
dài hạn của vốn sở hữu doanh nghiệp và nợ có thể sẽ làm cho một số hộ gia đình không sẵn
sàng cho vay tiền, vì kì vọng thanh khoản gần bằng tiền mặt của nhiều người sẽ chi phối lợi
nhuận tăng thêm có thể có. Thứ ba, rủi ro về giá của các giao dịch trên thị trường thứ cấp sẽ
tăng lên nếu không có các luồng thông tin và dịch vụ được tạo ra với khối lượng lớn.

Câu 21: Xác định và giải thích hai chức năng mà các tổ chức tài chính có thể chuyên môn
hóa để tạo điều kiện cho dòng tiền chảy trơn tru từ người tiết kiệm hộ gia đình đến người
dùng doanh nghiệp
Các tổ chức tài chính đóng vai trò là cầu nối giữa người dùng và người tiết kiệm tiền bằng cách
cung cấp chức năng môi giới (brokerage function) và tham gia vào chức năng chuyển đổi tài
sản (asset transformation function). Chức năng môi giới có thể mang lại lợi ích cho cả người tiết
kiệm và người sử dụng tiền và có thể thay đổi tùy theo công ty. Các tổ chức tài chính chỉ có thể
cung cấp các dịch vụ giao dịch - chẳng hạn như môi giới chiết khấu - hoặc họ cũng có thể cung
cấp các dịch vụ tư vấn giúp giảm chi phí thông tin. Chức năng chuyển đổi tài sản được thực
hiện bằng cách phát hành chứng khoán của chính họ, chẳng hạn như tiền gửi và hợp đồng bảo
hiểm hấp dẫn hơn đối với người tiết kiệm hộ gia đình và sử dụng số tiền thu được để mua
chứng khoán chính của các tập đoàn. Do đó, các tổ chức tài chính đảm nhận các chi phí liên
quan đến việc mua chứng khoán.

Câu 22: Theo nghĩa nào thì các yêu cầu tài chính của các tổ chức tài chính được coi là
chứng khoán thứ cấp (secondary securities), trong khi yêu cầu tài chính của tập đoàn
thương mại được coi là chứng khoán sơ cấp (primary securities)? Quá trình chuyển đổi
hoặc trung gian làm giảm rủi ro hoặc cản trở kinh tế đối với người tiết kiệm như thế nào?
Các quỹ được huy động bởi các khoản nợ tài chính do các tập đoàn thương mại phát hành được
sử dụng để đầu tư vào tài sản thực. Các khoản nợ tài chính này, được coi là chứng khoán sơ cấp,
được các tổ chức tài chính (FIs) mua vào, do đó các khoản nợ tài chính của họ được coi là
chứng khoán thứ cấp. Những người tiết kiệm đầu tư vào các khoản nợ tài chính của các FIs thực
chất đang gián tiếp đầu tư vào các chứng khoán sơ cấp của các tập đoàn thương mại. Tuy nhiên,
chi phí thu thập và đánh giá thông tin, chi phí giám sát, chi phí thanh khoản và rủi ro giá khi đặt
các khoản đầu tư trực tiếp vào các tập đoàn thương mại được giảm bớt nhờ vào hiệu quả của
các FIs.

Câu 23: Giải thích cách FI hoạt động như những người giám sát được ủy quyền. Những
lợi ích thứ cấp nào thường mang lại cho toàn bộ hệ thống tài chính vì quá trình giám sát
này?
Bằng cách đưa các quỹ dư thừa vào các tổ chức tài chính (FIs), các nhà đầu tư cá nhân giao cho
các FIs trách nhiệm quyết định ai nên nhận tiền và đảm bảo rằng số tiền đó được sử dụng đúng
mục đích của người vay. Theo nghĩa này, những người gửi tiền đã ủy quyền cho FIs hành động
như một người giám sát thay mặt họ. Các FIs có thể thu thập thông tin hiệu quả hơn so với các
nhà đầu tư cá nhân. Hơn nữa, các FIs có thể sử dụng thông tin này để tạo ra các sản phẩm mới,
chẳng hạn như các khoản vay thương mại, liên tục cập nhật nguồn thông tin. Quá trình giám sát
thường xuyên hơn này gửi các tín hiệu thông tin quan trọng đến các thành viên khác trong thị
trường, một quá trình giúp giảm thiểu sự không hoàn hảo và bất cân xứng thông tin giữa các
nguồn và người sử dụng vốn cuối cùng trong nền kinh tế.
Câu 24: Năm lĩnh vực chung về tính đặc thù của các tổ chức tài chính (FIs) được tạo ra
bởi việc cung cấp các dịch vụ khác nhau cho các ngành của nền kinh tế là gì?
Thứ nhất, các FIs thu thập và xử lý thông tin hiệu quả hơn so với các nhà tiết kiệm cá nhân. Thứ
hai, các FIs cung cấp các khoản nợ thứ cấp cho các hộ gia đình tiết kiệm, thường có đặc điểm
thanh khoản tốt hơn so với các chứng khoán sơ cấp như cổ phiếu và trái phiếu. Thứ ba, bằng
cách đa dạng hóa cơ sở tài sản, các FIs cung cấp các chứng khoán thứ cấp với điều kiện rủi ro
giá thấp hơn so với các chứng khoán sơ cấp. Thứ tư, các FIs cung cấp quy mô kinh tế trong chi
phí giao dịch vì tài sản được mua với số lượng lớn hơn. Cuối cùng, các FIs cung cấp sự trung
gian về kỳ hạn cho nền kinh tế, cho phép giới thiệu các loại hợp đồng đầu tư bổ sung, chẳng hạn
như các khoản vay thế chấp, được tài trợ bằng các khoản tiền gửi ngắn hạn.

Câu 25: Chi phí đại lý là gì? Các tổ chức tài chính (FIs) giải quyết các chi phí thông tin và
chi phí đại lý liên quan khi các hộ gia đình tiết kiệm đầu tư trực tiếp vào các chứng khoán
do các tập đoàn phát hành như thế nào? Vấn đề "người hưởng lợi không trả phí" (Free-
rider problem) là gì?
Chi phí đại lý xảy ra khi chủ sở hữu hoặc quản lý thực hiện các hành động không vì lợi ích tốt
nhất của nhà đầu tư vốn chủ sở hữu hoặc người cho vay. Những chi phí này thường phát sinh do
việc không giám sát đầy đủ các hoạt động của người vay. Vì chi phí cao, các nhà đầu tư cá nhân
có thể thực hiện không đầy đủ việc thu thập thông tin và giám sát, với giả định rằng người khác
đang thực hiện các nhiệm vụ này. Trong trường hợp này, cá nhân trở thành một người hưởng lợi
mà không trả phí. Nhưng nếu không có người cho vay nào khác thực hiện các nhiệm vụ này,
người cho vay phải chịu chi phí đại lý vì công ty có thể không tuân thủ các điều khoản trong
thỏa thuận cho vay. Vì FIs đầu tư quỹ của nhiều người tiết kiệm nhỏ lẻ, nên FIs có động lực lớn
hơn để thu thập thông tin và giám sát các hoạt động của người vay.

Câu 26: Các tổ chức tài chính (FIs) lớn giải quyết vấn đề chi phí thu thập thông tin cao cho
người cho vay, người vay và thị trường tài chính nói chung như thế nào?
Một cách mà các FIs giải quyết vấn đề này là họ phát triển các chứng khoán thứ cấp cho phép
cải thiện quá trình giám sát. Một ví dụ là khoản vay ngân hàng được gia hạn nhanh chóng hơn
so với nợ dài hạn. Quá trình gia hạn cập nhật thông tin tài chính và hoạt động của công ty
thường xuyên hơn, từ đó giảm nhu cầu về các điều khoản trái phiếu hạn chế có thể khó khăn và
tốn kém để thực hiện.

Câu 27: Các tổ chức tài chính (FIs) giảm bớt vấn đề rủi ro thanh khoản mà các nhà đầu tư
phải đối mặt khi muốn đầu tư vào chứng khoán của các tập đoàn như thế nào?
Rủi ro thanh khoản xảy ra khi người tiết kiệm không thể bán chứng khoán của họ theo yêu cầu.
Ví dụ, các ngân hàng cung cấp các khoản tiền gửi có thể rút ra bất kỳ lúc nào. Tuy nhiên, các
ngân hàng thực hiện các khoản vay dài hạn hoặc đầu tư vào các tài sản kém thanh khoản vì họ
có thể đa dạng hóa danh mục đầu tư và giám sát tốt hơn hiệu suất của các công ty đã vay tiền
hoặc phát hành chứng khoán. Do đó, các nhà đầu tư cá nhân có thể tận hưởng lợi ích của việc
đầu tư vào các tài sản sơ cấp mà không phải chấp nhận rủi ro thanh khoản của việc đầu tư trực
tiếp.

Câu 28: Làm thế nào các tổ chức tài chính (FIs) giúp các nhà tiết kiệm cá nhân đa dạng
hóa rủi ro danh mục đầu tư của họ? Loại tổ chức tài chính nào có khả năng tốt nhất để
đạt được mục tiêu này?
Tiền gửi vào bất kỳ tổ chức tài chính nào sẽ dẫn đến quyền yêu cầu một danh mục đầu tư đa
dạng hơn. Ngân hàng cho vay tiền cho nhiều loại khách hàng doanh nghiệp, tiêu dùng và chính
phủ khác nhau, và các công ty bảo hiểm có đầu tư vào nhiều loại tài sản khác nhau. Đầu tư vào
quỹ hỗn hợp có thể mang lại lợi ích đa dạng hóa lớn nhất vì quỹ đầu tư vào một loạt rộng các cổ
phiếu và chứng khoán có lãi cố định.

Câu 29: Làm thế nào các tổ chức tài chính (FIs) có thể đầu tư vào các tài sản có rủi ro cao
với nguồn vốn được cung cấp từ các khoản nợ tài chính thấp rủi ro của các nhà tiết kiệm?
Sự đa dạng hóa rủi ro xảy ra khi đầu tư vào các tài sản không hoàn toàn tương quan tích cực.
Một kết quả của việc đa dạng hóa mạnh mẽ là rủi ro trung bình của cơ sở tài sản của một tổ
chức tài chính sẽ nhỏ hơn rủi ro trung bình của các tài sản cá nhân mà nó đã đầu tư. Do đó, các
nhà đầu tư cá nhân có thể thu được một phần lợi tức từ các tài sản có rủi ro cao mà không phải
chấp nhận các đặc điểm rủi ro tương ứng.

Câu 30: Làm thế nào các nhà tiết kiệm cá nhân có thể sử dụng các tổ chức tài chính (FIs)
để giảm chi phí giao dịch khi đầu tư vào tài sản tài chính?
Bằng cách hợp nhất tài sản của nhiều nhà đầu tư nhỏ lẻ, các FIs có thể đạt được quy mô kinh tế
trong chi phí giao dịch. Lợi ích này xảy ra dù FIs có cho vay cho khách hàng doanh nghiệp hay
bán lẻ, hoặc mua các tài sản trên thị trường tiền tệ và vốn. Trong cả hai trường hợp, các hoạt
động vận hành được thiết kế để giao dịch trong số lượng lớn thường hiệu quả hơn so với các
hoạt động được thiết kế cho số lượng nhỏ.

Câu 40: Trung gian kỳ hạn (Maturity intermediary) là gì? Các cách mà các tổ chức trung
gian tài chính quản lý các rủi ro của trung gian kỳ hạn như thế nào?
Nếu người đi vay ròng và người cho vay ròng có các kỳ vọng về thời hạn lý tưởng khác nhau,
các FIs có thể phục vụ cả hai lĩnh vực bằng cách phù hợp các thời hạn trả nợ và nợ qua các hoạt
động chống lưng trên và dưới sổ sách và sử dụng quyền truy cập linh hoạt vào các thị trường tài
chính. Ví dụ, FI có thể cung cấp các khoản nợ ngắn hạn tương đối mà các hộ gia đình mong
muốn và đáp ứng cầu về các khoản vay dài hạn như vay mua nhà. Bằng cách đầu tư vào một
danh mục các tài sản dài hạn và ngắn hạn có thành phần lãi suất cố định và biến đổi, FI có thể
giảm thiểu rủi ro kỳ hạn bằng cách sử dụng các khoản nợ có đặc tính lãi suất biến đổi và cố định
tương tự, hoặc bằng cách sử dụng tương lai, tùy chọn, hoán đổi và các sản phẩm phái sinh khác.
Câu 41: Năm lĩnh vực FI đặc biệt của tổ chức là gì và loại tổ chức nào có nhiều khả năng
trở thành nhà cung cấp dịch vụ nhất?
Thứ nhất, các ngân hàng và các tổ chức tài chính tiền gửi khác là những nhà chủ chốt trong việc
truyền tải chính sách tiền tệ từ ngân hàng trung ương đến phần còn lại của nền kinh tế. Thứ hai,
các tổ chức tài chính cụ thể thường được xác định là nguồn tài chính chính cho một số ngành
kinh tế nhất định. Ví dụ, các ngân hàng khu vực, các hợp tác xây dựng và các hợp tác tín dụng
(building societies and credit unions) thường tập trung vào nhu cầu vay mượn của thị trường
nhà ở. Thứ ba, các công ty bảo hiểm nhân thọ và quỹ hưu trí thường được khuyến khích cung
cấp các cơ chế để chuyển giao tài sản qua các thế hệ. Thứ tư, các tổ chức tài chính tiền gửi cung
cấp dịch vụ thanh toán một cách hiệu quả để có lợi cho nền kinh tế. Cuối cùng, các quỹ được
quản lý và quỹ đầu tư đơn vị cung cấp dịch vụ trung gian về đơn vị bằng cách cho phép nhà đầu
tư nhỏ lẻ mua các đơn vị của tài sản với kích thước tối thiểu lớn như chứng chỉ gửi tiền khả
nhượng, tài sản thương mại và phát hành giấy thương mại

Câu 42: Các tổ chức lưu ký như ngân hàng hỗ trợ việc thực hiện và truyền tải chính sách
tiền tệ như thế nào?
Ngân hàng Dự trữ Úc (RBA) liên quan trực tiếp đến các ngân hàng trong việc thực hiện chính
sách tiền tệ thông qua những thay đổi về yêu cầu dự trữ và tỷ giá chính thức. Việc RBA bán và
mua chứng khoán kho bạc trên thị trường mở trong hoạt động thị trường mở của RBA cũng liên
quan đến việc các ngân hàng thực hiện chính sách tiền tệ theo cách ít trực tiếp hơn.

Câu 43: ‘Quy định phân bổ tín dụng’ (credit allocation regulation) nghĩa là gì? Loại quy
định này nhằm mục đích cung cấp lợi ích xã hội gì?
Quy định phân bổ tín dụng đề cập đến yêu cầu mà các tổ chức tài chính phải đối mặt để cho vay
đối với một số lĩnh vực nhất định của nền kinh tế, được coi là quan trọng về mặt xã hội. Chúng
có thể bao gồm nhà ở và nông nghiệp. Ví dụ, người ta cho rằng việc cung cấp tín dụng để làm
nhà ở có giá phải chăng hơn hoặc trang trại khả thi hơn sẽ dẫn đến một xã hội ổn định và hiệu
quả hơn.
Câu 44: Những trung gian nào thực hiện tốt nhất chức năng chuyển giao của cải giữa các
thế hệ? Quá trình chuyển giao tài sản này là gì?
Các quỹ bảo hiểm nhân thọ và hưu bổng (Life insurance and superannuation funds) thường
nhận được khoản giảm thuế đặc biệt và các khoản trợ cấp khác để hỗ trợ việc chuyển giao tài
sản từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trên thực tế, quá trình chuyển giao tài sản cho phép sự tích
lũy tài sản của một thế hệ được chuyển giao trực tiếp cho một hoặc nhiều thế hệ trẻ hơn bằng
cách thiết lập các chính sách bảo hiểm nhân thọ và các điều khoản ủy thác trong kế hoạch lương
hưu. Thông thường, quá trình chuyển giao tài sản này tránh được việc xử lý thuế cận biên đầy
đủ mà khoản thanh toán trực tiếp sẽ phải chịu.

Câu 45: Hai trong số các dịch vụ thanh toán quan trọng nhất được cung cấp bởi các tổ
chức tài chính là gì? Những dịch vụ này mang lại lợi ích hiệu quả cho nền kinh tế ở mức
độ nào?
Hai dịch vụ thanh toán quan trọng nhất là thanh toán bù trừ (payments clearing) và dịch vụ
chuyển tiền (transmission of funds). Bất kỳ sự cố nào trong các hệ thống này sẽ tạo ra sự tắc
nghẽn trong hệ thống thanh toán, dẫn đến những tác động có hại cho nền kinh tế ở cả cấp độ
trong nước và có thể là cấp quốc tế.

Câu 46: Trung gian mệnh giá (denomination intermediation) là gì? FI hỗ trợ quá trình
này như thế nào?
Trung gian mệnh giá là quá trình trong đó các nhà đầu tư nhỏ có thể mua các phần tài sản mà
thông thường chỉ được bán với mệnh giá lớn. Ví dụ, những người tiết kiệm cá nhân thường đầu
tư số tiền nhỏ vào các quỹ được quản lý. Các quỹ được quản lý tập hợp số tiền nhỏ này và mua
các chứng chỉ gửi tiền khả nhượng, chỉ có thể bán với số tiền tối thiểu là 100.000 USD, nhưng
thường được bán theo gói hàng triệu đô la. Tương tự, thương phiếu thường chỉ được bán với số
lượng tối thiểu là 500.000 đô la Mỹ và tất nhiên, tài sản thương mại trị giá hàng triệu đô la
thường được mua bởi các quỹ được quản lý. Do đó, các nhà đầu tư nhỏ có thể hưởng lợi từ lợi
nhuận và rủi ro thấp mà những tài sản này thường mang lại.

Câu 47: Khái niệm ngoại tác tiêu cực (negative externality) là gì? Làm thế nào sự tồn tại
của các tác động bên ngoài tiêu cực có thể giải thích tại sao các tổ chức tài chính nhận
được sự chú ý điều chỉnh bổ sung?
Ngoại tác tiêu cực đề cập đến hành động của một bên có ảnh hưởng bất lợi đến một số bên thứ
ba không tham gia vào giao dịch ban đầu. Ví dụ, trong môi trường công nghiệp, khói từ một nhà
máy làm giảm giá trị tài sản xung quanh có thể được coi là ngoại tác tiêu cực. Đối với các tổ
chức tài chính, một mối lo ngại là hiệu ứng lây lan có thể nảy sinh khi sự phá sản của một tổ
chức tài chính có thể gây nghi ngờ về khả năng thanh toán của các tổ chức khác trong ngành đó.

Câu 48: Nếu thị trường tài chính hoạt động hoàn hảo và không tốn phí thì liệu có cần đến
các trung gian tài chính không?
Ở một mức độ nhất định, trung gian tài chính tồn tại do sự không hoàn hảo của thị trường tài
chính. Nếu thông tin được cung cấp miễn phí cho tất cả người tham gia thì người tiết kiệm sẽ
không cần người trung gian đóng vai trò là người môi giới hoặc người giám sát được ủy quyền
của họ. Tuy nhiên, nếu trung gian mang lại lợi ích xã hội, chẳng hạn như truyền tải chính sách
tiền tệ hoặc phân bổ tín dụng, thì các tổ chức tài chính vẫn sẽ tồn tại ngay cả khi thị trường tài
chính không có sự không hoàn hảo.

Câu 49: Tại sao FI lại nằm trong số những lĩnh vực được quản lý chặt chẽ nhất trên thế
giới? Khi nào gánh nặng pháp lý ròng (net regulatory burden) là dương?
FI được yêu cầu để tăng cường hoạt động hiệu quả của nền kinh tế. Các trung gian tài chính
thành công cung cấp các nguồn tài chính tài trợ cho cơ hội tăng trưởng kinh tế mà cuối cùng sẽ
nâng cao mức độ hoạt động kinh tế tổng thể. Hơn nữa, các trung gian tài chính thành công cung
cấp các dịch vụ giao dịch cho nền kinh tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại và tích
lũy của cải.
Ngược lại, các FI gặp khó khăn sẽ tạo ra các ngoại tác tiêu cực cho toàn bộ nền kinh tế. Nghĩa
là, tác động bất lợi của việc FI phá sản không chỉ là tổn thất đối với các cổ đông và những
người có quyền yêu cầu tư nhân khác đối với tài sản của FI. Ví dụ, thị trường địa phương bị ảnh
hưởng nếu một FI thất bại và các FI khác cũng có thể rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính do
hiệu ứng lây lan. Do đó, do một số chi phí cho sự thất bại của FI thường do xã hội nói chung
gánh chịu nên chính phủ can thiệp vào việc quản lý các tổ chức này để bảo vệ lợi ích của xã hội.
Sự can thiệp này có hình thức điều chỉnh.
Tuy nhiên, nhu cầu về quy định để giảm thiểu chi phí xã hội có thể gây ra chi phí tư nhân
(social costs) cho các doanh nghiệp mà sẽ không thể tồn tại nếu không có quy định. Chi phí tư
nhân bổ sung này được xác định là gánh nặng pháp lý ròng (net regulatory burden). Ví dụ bao
gồm chi phí nắm giữ vốn vượt mức và/hoặc dự trữ vượt mức và chi phí bổ sung để cung cấp
thông tin. Mặc dù chúng có thể mang lại lợi ích cho xã hội nhưng những chi phí này lại làm
tăng thêm chi phí hoạt động của khu vực tư nhân. Trong mức độ mà những chi phí bổ sung này
giúp tránh tác động bên ngoài tiêu cực và đảm bảo hoạt động kinh tế mượt mà và hiệu quả,
gánh nặng pháp lý ròng là tích cực.
Câu 50: Những hình thức bảo vệ và quản lý nào mà các cơ quan quản lý FI áp dụng để
đảm bảo sự an toàn và lành mạnh của chúng?
Các cơ quan quản lý đã ban hành một số hướng dẫn để đảm bảo sự an toàn và lành mạnh của
các tổ chức tài chính:
(1) FI được yêu cầu đa dạng hóa tài sản của họ. Ví dụ, các ngân hàng phải được cơ quan quản
lý cho phép đặc biệt để cho một người vay vay hơn 10% vốn sở hữu của họ.
(2) Các tổ chức tài chính được yêu cầu duy trì lượng vốn tối thiểu để bù đắp mọi tổn thất bất
ngờ. Đối với các ngân hàng, tiêu chuẩn Basel yêu cầu vốn cốt lõi và vốn bổ sung tối thiểu là
8% tài sản được điều chỉnh theo rủi ro.
(3) Đạo luật Ngân hàng Úc yêu cầu các cơ quan quản lý phải bảo vệ người gửi tiền bằng đô la
Úc và do đó, mặc dù điều này không thể hiện sự đảm bảo cho tiền gửi nhưng nó đòi hỏi các
cơ quan quản lý phải có hành động tích cực để bảo vệ tiền gửi của người gửi.
(4) Các cơ quan quản lý cũng tham gia vào việc theo dõi và giám sát định kỳ, chẳng hạn như
kiểm tra tại chỗ và yêu cầu thông tin định kỳ từ các tổ chức tài chính.
Câu 51: Trong việc truyền tải chính sách tiền tệ, tiền bên trong (inside money) và tiền bên
ngoài (outside moneyy) có sự khác biệt như thế nào? Ngân hàng Dự trữ Úc (RBA) cố gắng
kiểm soát lượng tiền nội bộ (inside money) như thế nào? Làm thế nào vị trí quản lý này có
thể tạo ra chi phí cho các tổ chức tài chính lưu ký?
Tiền bên ngoài là một phần của nguồn cung tiền do RBA trực tiếp sản xuất và kiểm soát, ví dụ
như tiền xu và tiền tệ. Tiền nội bộ đề cập đến tiền gửi ngân hàng không được RBA trực tiếp
kiểm soát. RBA và các ngân hàng trung ương nói chung có thể tác động đến lượng tiền này
bằng yêu cầu dự trữ bắt buộc và chính sách lãi suất chính thức. Trong trường hợp mức dự trữ
bắt buộc vượt quá mức được FI cho là tối ưu thì việc không thể sử dụng khoản dự trữ vượt mức
để tạo ra doanh thu có thể được coi là thuế hoặc chi phí cung cấp dịch vụ trung gian.

Câu 52: Có những ví dụ nào về quy định phân bổ tín dụng? Làm thế nào việc này cố gắng
tạo ra lợi ích xã hội có thể tạo ra chi phí cho tổ chức tư nhân?
Tại Hoa Kỳ, bài kiểm tra người cho vay tiết kiệm đủ điều kiện (QTL) yêu cầu các tổ chức tiết
kiệm và cho vay phải nắm giữ 65% tài sản của họ là tài sản liên quan đến thế chấp nhà ở để duy
trì điều lệ tiết kiệm. Một số tiểu bang của Hoa Kỳ cũng đã ban hành luật cho vay nặng lãi đặt ra
những hạn chế tối đa đối với lãi suất có thể được tính đối với các khoản thế chấp và/hoặc cho
vay tiêu dùng. Những loại hạn chế này thường tạo thêm chi phí hoạt động cho FI và gần như
chắc chắn làm giảm số lợi nhuận có thể thu được nếu không có quy định đó. Ở Úc không có
quy định như vậy.
Câu 53: Các quy định liên quan đến rào cản gia nhập (barriers to entry) và phạm vi hoạt
động được phép ảnh hưởng như thế nào đến giá trị điều lệ của các tổ chức tài chính?
Lợi nhuận của các công ty hiện có sẽ tăng lên khi chi phí trực tiếp và gián tiếp dùng để thiết lập
sự cạnh tranh tăng lên. Chi phí trực tiếp bao gồm chi phí vật chất và tài chính thực tế của việc
thành lập doanh nghiệp. Trong trường hợp FI, chi phí tài chính bao gồm việc huy động vốn tối
thiểu cần thiết để nhận được điều lệ. Chi phí gián tiếp bao gồm sự cho phép của cơ quan quản lý
để nhận được điều lệ. Một lần nữa, trong trường hợp của các tổ chức tài chính, chi phí này liên
quan đến sự lãnh đạo có thể chấp nhận được đối với các cơ quan quản lý. Khi những rào cản gia
nhập này mạnh hơn, giá trị điều lệ của các công ty hiện tại sẽ cao hơn.

Câu 54: Những lý do nào được giải thích cho việc sự tăng trưởng của các quỹ hưu bổng và
các công ty đầu tư gây thiệt hại cho các ngân hàng và công ty bảo hiểm “truyền thống”?
Sự tăng trưởng gần đây của các quỹ hưu bổng và các công ty đầu tư có thể là do ba yếu tố
chính:
(a) Các nhà đầu tư đã yêu cầu tăng cường tiếp cận thị trường chứng khoán trực tiếp. Các công ty
đầu tư và quỹ hưu bổng cho phép các nhà đầu tư nắm giữ vị thế trên thị trường chứng khoán
trực tiếp trong khi vẫn nhận được lợi ích về đa dạng hóa rủi ro, giám sát và hiệu quả giao dịch
của trung gian tài chính. Một số chuyên gia cho rằng sự tăng trưởng này là kết quả của sự tinh
vi ngày càng tăng của các nhà đầu tư; những người khác cho rằng khả năng sử dụng các thị
trường này đã làm tăng nhận thức của nhà đầu tư. Sự tăng trưởng của những tài sản này là
không thể chối cãi.
(b) Những đợt khủng hoảng tài chính gần đây trong cả ngành ngân hàng và bảo hiểm đã dẫn
đến sự gia tăng các quy định và giám sát của chính phủ, do đó làm tăng gánh nặng pháp lý ròng
của các công ty “truyền thống”. Như vậy, chi phí trung gian tăng lên, kéo theo chi phí cung cấp
dịch vụ cho khách hàng tăng lên.
(c) Đạo luật yêu cầu hưu bổng bắt buộc đối với tất cả người lao động ở Úc kể từ cuối những
năm 1980 đã làm tăng đáng kể quỹ hưu bổng và kéo theo đó là giảm tiết kiệm trong các hình
thức đầu tư truyền thống như tiền gửi ngân hàng.

Câu 55: Những sự kiện quan trọng nào ở Hoa Kỳ nói riêng nhưng lan rộng trên toàn cầu
là kết quả của xu hướng các ngân hàng chuyển từ mô hình ngân hàng truyền thống “khởi
tạo và nắm giữ” (originate and hold) sang mô hình “khởi tạo và phân phối” (‘originate
and distribute’)?
Một sự kiện lớn đã làm thay đổi và định hình lại ngành dịch vụ tài chính là cuộc khủng hoảng
tài chính vào cuối những năm 2000. Khi các tổ chức tài chính ở Hoa Kỳ chuyển sang mô hình
'khởi tạo và phân phối', một kết quả là rủi ro hệ thống của hệ thống tài chính tăng lên đáng kể,
phần lớn là do sự thay đổi trong mô hình ngân hàng từ mô hình 'khởi tạo và nắm giữ'. Trong mô
hình truyền thống, các ngân hàng nhận tiền gửi ngắn hạn và các nguồn vốn khác và sử dụng
chúng để cấp vốn cho các khoản vay dài hạn hơn cho doanh nghiệp và người tiêu dùng. Các
ngân hàng thường giữ các khoản vay này đến ngày đáo hạn và do đó có động cơ sàng lọc và
giám sát các hoạt động của người vay ngay cả sau khi khoản vay được thực hiện. Tuy nhiên, mô
hình ngân hàng truyền thống đặt tổ chức này vào rủi ro tiềm ẩn về thanh khoản, lãi suất và tín
dụng. Trong nỗ lực tránh những rủi ro này và tạo ra sự đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro được
cải thiện, các ngân hàng đã chuyển sang mô hình bảo lãnh phát hành trong đó họ khởi tạo hoặc
lưu trữ các khoản vay và sau đó nhanh chóng bán chúng. Quả thực, hầu hết các ngân hàng lớn
đều tổ chức dưới dạng công ty cổ phần dịch vụ tài chính để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt
động mới này. Những đổi mới này đã loại bỏ rủi ro khỏi bảng cân đối kế toán của các tổ chức
tài chính và chuyển rủi ro ra khỏi bảng cân đối kế toán và sang các bộ phận khác của hệ thống
tài chính. Vì các tổ chức tài chính, đóng vai trò là người bảo lãnh, không gặp rủi ro tín dụng,
thanh khoản và lãi suất như ngân hàng truyền thống nên họ có ít động cơ để sàng lọc và giám
sát hoạt động của những người đi vay mà họ cho vay. Vì vậy, các tổ chức tài chính đã không thể
đóng vai trò là chuyên gia trong việc đo lường và quản lý rủi ro.

Câu 56: Làm thế nào mà sự bùng nổ của thị trường nhà đất vào đầu và giữa những năm
2000 lại làm trầm trọng thêm quá trình chuyển đổi của các tổ chức tài chính khỏi vai trò
chuyên gia về đo lường và quản lý rủi ro?
Sự bùng nổ ('bong bóng') trong thị trường nhà đất bắt đầu hình thành vào năm 2001, đặc biệt
sau vụ tấn công khủng bố ngày 11/9. Phản ứng ngay lập tức của các cơ quan quản lý đối với các
cuộc tấn công khủng bố là tạo ra sự ổn định trên thị trường tài chính bằng cách cung cấp thanh
khoản cho các tổ chức tài chính. Ví dụ, Cục Dự trữ Liên bang đã hạ thấp lãi suất thị trường tiền
tệ ngắn hạn mà các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác phải trả trên thị trường quỹ liên
bang và thậm chí còn cung cấp các quỹ cho vay cuối cùng đối với các tổ chức tài chính phi
ngân hàng như các ngân hàng đầu tư. Có lẽ không có gì đáng ngạc nhiên, lãi suất thấp và tính
thanh khoản tăng lên do các ngân hàng trung ương cung cấp đã dẫn đến sự mở rộng nhanh
chóng trong hoạt động tài trợ nợ tiêu dùng, thế chấp và nợ doanh nghiệp. Nhu cầu thế chấp nhà
ở và nợ thẻ tín dụng tăng lên đáng kể. Khi nhu cầu về nợ thế chấp tăng lên, đặc biệt là ở những
người trước đây bị loại khỏi việc tham gia thị trường vì xếp hạng tín dụng kém, các tổ chức tài
chính bắt đầu hạ thấp điểm giới hạn chất lượng tín dụng của họ. Hơn nữa, để tăng thu nhập của
mình, trên thị trường hiện nay được biết đến rộng rãi là 'thị trường dưới chuẩn', các ngân hàng
và các tổ chức cung cấp thế chấp khác thường đưa ra lãi suất 'nhắc nhở' tương đối thấp đối với
các khoản thế chấp có lãi suất điều chỉnh (ARM) với lãi suất ban đầu cực kỳ thấp. , nhưng với
mức tăng đáng kể sau khi thời hạn lãi suất ban đầu kết thúc hai hoặc ba năm sau đó và nếu lãi
suất thị trường tăng trong tương lai. Theo cơ cấu ngân hàng truyền thống, các ngân hàng có thể
miễn cưỡng tích cực theo đuổi những người đi vay có chất lượng tín dụng thấp vì sợ rằng các
khoản vay sẽ bị vỡ nợ. Tuy nhiên, theo mô hình ngân hàng từ nguồn gốc đến phân phối, chứng
khoán hóa tài sản và cho vay hợp vốn cho phép các ngân hàng giữ lại một ít hoặc không có một
phần khoản vay và do đó rủi ro vỡ nợ đối với các khoản vay mà họ khởi tạo. Do đó, miễn là
người đi vay không vỡ nợ trong những tháng đầu tiên sau khi phát hành khoản vay và các
khoản vay được bán hoặc chứng khoán hóa mà không cần truy đòi lại ngân hàng, thì ngân hàng
phát hành có thể bỏ qua những lo ngại về rủi ro tín dụng dài hạn hơn. Kết quả là chất lượng tín
dụng bị suy giảm, đồng thời có sự gia tăng đáng kể về đòn bẩy của người tiêu dùng và doanh
nghiệp.

Câu 57: Cục Dự trữ Liên bang sử dụng những công cụ nào để thực hiện chính sách tiền
tệ?
Các công cụ được Cục Dự trữ Liên bang sử dụng để thực hiện chính sách tiền tệ của mình bao
gồm các hoạt động thị trường mở, tỷ lệ chiết khấu và yêu cầu dự trữ. Hoạt động thị trường mở
là việc Cục Dự trữ Liên bang mua hoặc bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán Kho bạc
Hoa Kỳ. Tỷ lệ chiết khấu là lãi suất mà Ngân hàng Dự trữ Liên bang tính cho các khoản vay
“khẩn cấp” hoặc “người cho vay cuối cùng” đối với các tổ chức lưu ký trong khu vực của họ.
Yêu cầu dự trữ xác định số lượng tài sản dự trữ tối thiểu (tiền mặt trong kho cộng với tiền gửi
ngân hàng tại Ngân hàng Dự trữ Liên bang) mà các tổ chức lưu ký phải duy trì theo luật để hỗ
trợ các khoản tiền gửi giao dịch được giữ dưới dạng nợ trên bảng cân đối kế toán của họ. Yêu
cầu này thường được đặt theo tỷ lệ tài khoản giao dịch, ví dụ: 10%.

Câu 58: Giả sử Cục Dự trữ Liên bang chỉ thị cho Bộ giao dịch mua 1 tỷ USD chứng
khoán. Hiển thị kết quả của giao dịch này trên bảng cân đối kế toán của Hệ thống Dự trữ
Liên bang và các ngân hàng thương mại.
Tài sản Nợ phải trả Chứng khoán kho bạc + 1 tỷ USD Tài khoản dự trữ của + 1 tỷ USD Ngân
hàng đại lý chứng khoán
Tài sản Nợ phải trả Tài khoản dự trữ + 1 tỷ USD Nhu cầu của người giao dịch chứng khoán + 1
tỷ USD tại tài khoản tiền gửi của Cục Dự trữ Liên bang

Câu 59: Giải thích việc giảm lãi suất chiết khấu ảnh hưởng như thế nào đến khả năng
cung cấp tín dụng và cung tiền.
Việc thay đổi lãi suất chiết khấu báo hiệu cho thị trường và nền kinh tế rằng Cục Dự trữ Liên
bang muốn thấy lãi suất cao hơn hoặc thấp hơn trong nền kinh tế. Như vậy, lãi suất chiết khấu
giống như một tín hiệu thể hiện ý định của FOMC đối với thời hạn của chính sách tiền tệ. Ví dụ,
việc tăng lãi suất chiết khấu “tín hiệu” cho thấy Fed muốn thắt chặt các điều kiện tiền tệ và lãi
suất cao hơn nói chung (và số tiền vay tương đối thấp hơn). Việc giảm lãi suất chiết khấu “báo
hiệu” mong muốn được thấy các điều kiện tiền tệ mở rộng hơn và lãi suất nói chung thấp hơn.

Câu 60: Fed đã thực hiện những thay đổi gì đối với chính sách cho vay chiết khấu vào đầu
những năm 2000?
Vào tháng 1 năm 2003, Fed đã thực hiện những thay đổi đối với việc cho vay theo cửa sổ chiết
khấu, làm tăng chi phí đi vay nhưng lại nới lỏng các điều khoản. Cụ thể, ba chương trình cho
vay hiện được cung cấp thông qua cửa sổ chiết khấu của Fed. Tín dụng sơ cấp thường được
cung cấp cho các tổ chức lưu ký lành mạnh trên cơ sở rất ngắn hạn, thường là qua đêm, với tỷ lệ
cao hơn tỷ lệ mục tiêu của Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) đối với các quỹ liên bang.
Tín dụng sơ cấp có thể được sử dụng cho bất kỳ mục đích nào, bao gồm cả việc tài trợ cho việc
bán quỹ liên bang. Tín dụng sơ cấp có thể được gia hạn trong thời gian lên tới vài tuần đối với
các tổ chức nhận tiền gửi có điều kiện tài chính lành mạnh nói chung và không thể huy động
được vốn tạm thời trên thị trường tài chính với các điều kiện hợp lý. Tín dụng thứ cấp được
cung cấp cho các tổ chức nhận tiền gửi không đủ điều kiện nhận tín dụng sơ cấp. Nó được gia
hạn trên cơ sở rất ngắn hạn, thường là qua đêm, với lãi suất cao hơn lãi suất tín dụng cơ bản.
Tín dụng thứ cấp sẵn có để đáp ứng nhu cầu thanh khoản dự phòng khi việc sử dụng nó phù hợp
với việc khôi phục kịp thời sự phụ thuộc vào các nguồn vốn thị trường hoặc giải pháp có trật tự
cho một tổ chức gặp khó khăn. Tín dụng thứ cấp không được sử dụng để tài trợ cho việc mở
rộng tài sản của người đi vay. Chương trình tín dụng theo mùa của Cục Dự trữ Liên bang được
thiết kế để hỗ trợ các tổ chức lưu ký nhỏ quản lý những biến động đáng kể theo mùa trong các
khoản cho vay và tiền gửi của họ. Tín dụng theo mùa được cung cấp cho các tổ chức nhận tiền
gửi có thể chứng minh mô hình rõ ràng về những biến động định kỳ trong năm về nhu cầu tài
trợ
Các tổ chức đủ điều kiện thường nằm ở khu vực nông nghiệp hoặc du lịch. Theo chương trình
theo mùa, người đi vay có thể nhận được nguồn vốn dài hạn từ cửa sổ chiết khấu trong thời gian
có nhu cầu theo mùa để họ có thể mang theo ít tài sản lưu động hơn trong thời gian còn lại của
năm và có nhiều vốn hơn để cho vay địa phương. Với sự thay đổi này, các khoản cho vay chiết
khấu đối với các ngân hàng khỏe mạnh sẽ được định giá cao hơn 1% so với lãi suất quỹ liên
bang thay vì thấp hơn như thời kỳ trước tháng 1 năm 2003. Các khoản cho vay đối với các ngân
hàng gặp khó khăn sẽ cao hơn lãi suất quỹ liên bang 1,5%. Những thay đổi này không nhằm
mục đích thay đổi việc Fed sử dụng cửa sổ chiết khấu để thực hiện chính sách tiền tệ, nhưng
làm tăng đáng kể tỷ lệ chiết khấu đồng thời giúp việc vay trong cửa sổ chiết khấu trở nên dễ
dàng hơn. Bằng cách tăng cường ngân hàng = sử dụng cửa sổ chiết khấu làm nguồn tài trợ, Fed
hy vọng cũng sẽ giảm bớt sự biến động trên thị trường quỹ liên bang. Sự thay đổi này cũng cho
phép các ngân hàng lành mạnh vay từ Fed bất kể nguồn vốn tư nhân có sẵn hay không. Trước
đây, Fed yêu cầu người đi vay chứng minh rằng họ không thể nhận được tiền từ khu vực tư
nhân, điều này gây ra sự kỳ thị đối với việc vay theo cơ chế chiết khấu. Với những thay đổi này,
Fed sẽ cho tất cả các ngân hàng vay, nhưng khoản trợ cấp cho khoản vay dưới lãi suất liên bang
sẽ không còn nữa.

Câu 61: Ngân hàng Ba hiện có 600 triệu USD tiền gửi giao dịch trên bảng cân đối kế toán.
Cục Dự trữ Liên bang hiện đặt ra yêu cầu dự trữ ở mức 10% tiền gửi giao dịch.
a. Giả sử Cục Dự trữ Liên bang giảm yêu cầu dự trữ bắt buộc xuống 8%. Trình bày bảng cân
đối kế toán của Ngân hàng Ba và Hệ thống Dự trữ Liên bang ngay trước và sau khi thay đổi
yêu cầu dự trữ bắt đầu có hiệu lực. Giả sử Ngân hàng Ba rút toàn bộ số tiền dự trữ vượt mức
và cho vay, và người đi vay cuối cùng sẽ trả lại toàn bộ số tiền này cho Ngân hàng Ba dưới
dạng tiền gửi giao dịch.
 Bảng A: Bảng cân đối kế toán ban đầu
Tài sản Nợ của Ngân hàng Dự trữ Liên bang Chứng khoán 60 triệu USD Tài khoản dự trữ 60
triệu USD -------------------------------------- -------------------------------------------------- ---- Ngân
hàng Ba tài sản nợ cho vay 540 triệu USD Tiền gửi giao dịch 600 triệu USD Tiền gửi dự trữ 60
triệu tại Fed
 Bảng B: Bảng cân đối kế toán sau tất cả các thay đổi do giảm yêu cầu dự trữ
Tài sản Nợ của Ngân hàng Dự trữ Liên bang Chứng khoán 60 triệu USD Tài khoản dự trữ 60
triệu USD -------------------------------------- -------------------------------------------------- ----------
Ngân hàng Ba tài sản nợ cho vay 690 triệu USD Tiền gửi giao dịch 750 triệu USD (750 triệu
USD - 60 triệu USD) (60 triệu USD x 0,08) Tiền gửi dự trữ 60 triệu USD tại Fed
b. Làm lại phần (a) sử dụng yêu cầu dự trữ 12%.
 Bảng A: Bảng cân đối kế toán ban đầu
Tài sản Nợ của Ngân hàng Dự trữ Liên bang Chứng khoán 60 triệu USD Tài khoản dự trữ 60
triệu USD -------------------------------------- -------------------------------------------------- ---- Ngân
hàng Ba tài sản nợ cho vay 540 triệu USD Tiền gửi giao dịch 600 triệu USD Tiền gửi dự trữ 60
triệu tại Fed
 Bảng B: Bảng cân đối kế toán sau tất cả các thay đổi do giảm yêu cầu dự trữ
Tài sản Nợ của Ngân hàng Dự trữ Liên bang Chứng khoán 60 triệu USD Tài khoản dự trữ 60
triệu USD -------------------------------------- -------------------------------------------------- ----------
Ngân hàng Ba tài sản nợ cho vay 440 triệu USD Tiền gửi giao dịch 500 triệu USD (500 triệu
USD - 60 triệu USD) (60 triệu USD x 0,12) Tiền gửi dự trữ 60 triệu USD tại Fed
Câu 62: Công cụ tiền tệ nào của Cục Dự trữ Liên bang thường được sử dụng nhất? Tại
sao?
Cục Dự trữ Liên bang chủ yếu sử dụng nghiệp vụ thị trường mở để thực hiện chính sách tiền tệ
của mình. Việc điều chỉnh lãi suất chiết khấu hiếm khi được sử dụng vì Fed khó dự đoán những
thay đổi trong khoản vay chiết khấu của ngân hàng khi lãi suất chiết khấu thay đổi và vì ngoài
ảnh hưởng của chúng lên cung tiền, những thay đổi lãi suất chiết khấu thường có tác động lớn
đến tình hình tài chính. thị trường. Hơn nữa, do những thay đổi trong yêu cầu dự trữ bắt buộc có
thể dẫn đến những thay đổi không thể đoán trước trong cơ sở tiền tệ (tùy thuộc vào lượng dự trữ
vượt mức mà các ngân hàng nắm giữ và sự sẵn sàng của công chúng gửi lại tiền tại ngân hàng
thay vì giữ tiền mặt (tức là họ có quyền lợi ưu đãi). tỷ lệ tiền mặt-tiền gửi)), dự trữ bắt buộc
hiếm khi được Cục Dự trữ Liên bang sử dụng làm công cụ chính sách tiền tệ. Sự khó lường đến
từ ít nhất hai nguồn. Đầu tiên, có sự không chắc chắn về việc liệu các ngân hàng có thực sự
chuyển đổi khoản dự trữ vượt mức (được tạo ra do giảm dự trữ bắt buộc) thành các khoản vay
mới hay không. Thứ hai, có sự không chắc chắn về phần nào của khoản vay mới sẽ được trả lại
cho các tổ chức nhận tiền gửi dưới hình thức tiền gửi giao dịch. Do đó, giống như lãi suất cửa
sổ chiết khấu, việc sử dụng dự trữ bắt buộc làm công cụ chính sách tiền tệ sẽ làm tăng khả năng
không đạt được mục tiêu tiền cơ sở hoặc lãi suất do FOMC đặt ra.

Câu 63: Mô tả các hoạt động mở rộng do Cục Dự trữ Liên bang thực hiện tác động như
thế nào đến khả năng cung cấp tín dụng, cung tiền, lãi suất và giá chứng khoán. Làm
tương tự cho các hoạt động thu hẹp.
Hoạt động mở rộng: Chúng tôi đã mô tả ba công cụ chính sách tiền tệ mà Fed có thể sử dụng để
tăng cung tiền. Chúng bao gồm mua chứng khoán trên thị trường mở, giảm lãi suất chiết khấu
và giảm yêu cầu dự trữ. Tất cả các yếu tố khác không đổi, khi Cục Dự trữ Liên bang mua chứng
khoán trên thị trường mở, tài khoản dự trữ của các ngân hàng (và do đó, cơ sở tiền) sẽ tăng lên.
Khi Fed hạ lãi suất chiết khấu, điều này thường dẫn đến việc giảm lãi suất trong nền kinh tế.
Cuối cùng, việc giảm dự trữ bắt buộc, tất cả các yếu tố khác không đổi, sẽ dẫn đến sự gia tăng
dự trữ bắt buộc của tất cả các ngân hàng. Trong hai trong ba trường hợp (hoạt động thị trường
mở và thay đổi yêu cầu dự trữ), việc tăng dự trữ dẫn đến tăng tiền gửi và tài sản ngân hàng. Một
tác động ngay lập tức của điều này là lãi suất giảm và giá chứng khoán tăng lên. Trong trường
hợp thứ ba (thay đổi lãi suất chiết khấu), tác động của việc giảm lãi suất là trực tiếp hơn. Lãi
suất thấp hơn khuyến khích vay mượn. Các tác nhân kinh tế chi tiêu nhiều hơn khi họ có thể
nhận được nguồn vốn rẻ hơn. Các hộ gia đình, doanh nghiệp và chính phủ có nhiều khả năng
đầu tư vào tài sản cố định hơn (ví dụ: nhà ở, nhà xưởng và thiết bị). Các hộ gia đình tăng cường
mua sắm hàng hóa lâu bền (ví dụ: ô tô, thiết bị gia dụng). Chi tiêu của chính quyền tiểu bang và
địa phương tăng lên (ví dụ: xây dựng đường mới, cải tạo trường học). Cuối cùng, lãi suất trong
nước thấp hơn so với lãi suất nước ngoài có thể dẫn đến sự sụt giảm giá trị trao đổi (nước ngoài)
của đồng đô la so với các loại tiền tệ khác. Khi giá trị trao đổi của đồng đô la (nước ngoài) giảm
xuống, hàng hóa Mỹ trở nên rẻ hơn tương đối so với hàng hóa nước ngoài. Cuối cùng, xuất
khẩu của Mỹ tăng lên. Sự gia tăng chi tiêu của tất cả những người tham gia thị trường này dẫn
đến mở rộng kinh tế, kích thích sản xuất thực tế bổ sung và có thể khiến lạm phát tăng lên. Lý
tưởng nhất là các chính sách mở rộng của Fed nhằm mục đích có lợi cho việc mở rộng kinh tế
thực sự (tăng trưởng kinh tế, việc làm đầy đủ, thương mại quốc tế bền vững) mà không gây lạm
phát giá cả. Thật vậy, ổn định giá có thể được xem là mục tiêu chính của Fed.

You might also like