Professional Documents
Culture Documents
Chương 3, Chương 4
Chương 3, Chương 4
Nhiều
Chuyên
Phân mảnh
Số cách để đạt đƣợc
môn hóa
lợi thế cạnh tranh
Bế tắc Quy mô
Ít
Nhỏ Lớn
Quy mô của lợi thế cạnh tranh
Hình 3-1: Ma trận lợi thế cạnh tranh chiến lƣợc BCG
Nhóm ngành chuyên môn hóa bao gồm những ngành kinh doanh mà lợi thế tiềm
năng của sự khác biệt hóa là đáng kể và có rất nhiều cách để đạt đƣợc lợi thế này. Khả
năng sinh lời và quy mô không có liên quan một cách chặt chẽ với nhau. Những ngành
nhƣ vậy bao gồm những ngành phát triển giải pháp tùy chỉnh cho các vấn đề cụ thể (ví
dụ: tƣ vấn quản lý) và các công ty tham gia vào việc phát triển/ứng dụng công nghệ đổi
mới (ví dụ: kỹ thuật y sinh).
Ma trận lợi thế cạnh tranh chiến lƣợc của BCG cung cấp những hiểu biết chung về
khả năng tạo ra và sử dụng lợi thế cạnh tranh trong ngành, từ đó các doanh nghiệp có thể
áp dụng các chiến lƣợc tạo lợi thế cạnh tranh để đạt đƣợc thành công. Có thể nói, mỗi
nhóm ngành khác nhau sẽ tạo ra cho doanh nghiệp những cơ hội khác nhau để tạo lập lợi
thế cạnh tranh cho mình. Trong đó, các doanh nghiệp kinh doanh trong nhóm ngành có
nhiều cách tạo lợi thế cạnh tranh (chuyên môn hóa và phân mảnh) sẽ có nhiều cơ hội và
dễ dàng tạo lợi thế cạnh tranh hơn, và ngƣợc lại. Tƣơng tự, những doanh nghiệp kinh
doanh trong nhóm ngành có quy mô lợi thế cạnh tranh lớn (nhƣ chuyên môn hóa và quy
mô) có lợi thế cạnh tranh khó bắt chƣớc hơn, tạo điều kiện cho sự tồn tại bền vững của
lợi thế cạnh tranh.
3.1.2.2. Nguồn lực của doanh nghiệp
Nguồn lực của doanh nghiệp là một trong những yếu tố ảnh hƣởng mạnh mẽ tới
lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp do chúng là cơ sở của năng lực cạnh tranh cốt lõi, từ
đó tạo nên lợi thế cạnh tranh và lợi thế cạnh tranh bền vững. Về cơ bản, nguồn lực của
doanh nghiệp có thể phân ra làm 4 nhóm:
Hình 4.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến các mục tiêu dài hạn của tổ chức (phỏng theo
Johnson and Scholes, 1988)
Rất ít doanh nghiệp theo đuổi một mục tiêu duy nhất; thay vào đó, doanh nghiệp
thƣờng có một hỗn hợp mục tiêu, bao gồm: lợi nhuận, tăng trƣởng doanh số, cải thiện thị
phần, ngăn chặn rủi ro, cải tiến, sử dụng, v.v. Do đó, mỗi đơn vị kinh doanh cần đặt ra
các mục tiêu theo một hay nhiều tiêu chí và sau đó quản lý theo mục tiêu. Nói cách khác,
việc theo đuổi các mục tiêu này phải cung cấp khuôn khổ cho cả quá trình lập kế hoạch
và kiểm soát. Một số nguyên tắc phải đƣợc tuân thủ khi xác định mục tiêu:
1. Thứ bậc: đi từ quan trọng nhất đến kém quan trọng nhất
2. Định lượng: để tránh mơ hồ - mục tiêu "tăng thị phần" không phải là mục tiêu
cụ thể và hiệu quả "tăng thị phần thêm 5%" hay chính xác hơn là "tăng thị phần thêm 5%
trong vòng 18 tháng"
3. Thực tế: Mục tiêu nên đƣợc phát triển do kết quả của việc phân tích chi tiết các
cơ hội, năng lực của công ty, sức mạnh cạnh tranh và chiến lƣợc cạnh tranh
4. Nhất quán: rõ ràng là không thực tế khi theo đuổi các mục tiêu không tƣơng
thích; ví dụ hiếm khi có thể đạt đƣợc đồng thời về cả mục tiêu tăng doanh số và tăng lợi
nhuận.
Điều quan trọng nữa là mục tiêu phải đáp ứng các tiêu chí SMART (Specific,
Measurable, Actionable, Realistic and Time-based) (Cụ thể, Có thể đo lƣờng, Có thể thực
hiện, Thực tế và Gắn với thời gian).
Ban lãnh đạo công ty, sau khi thiết lập sứ mệnh và tầm nhìn của công ty, giai đoạn
tiếp theo là phát triển một loạt các mục tiêu cụ thể cho từng cấp quản lý. Thông thƣờng,
các mục tiêu này đƣợc thể hiện dƣới dạng tăng trƣởng doanh số, lợi nhuận, tăng trƣởng
thị phần và đa dạng hóa rủi ro. Bởi vì phần lớn các doanh nghiệp thƣờng theo đuổi một
số mục tiêu, điều quan trọng là chúng phải đƣợc trình bày theo cách phân cấp, đi từ quan
trọng nhất đến kém quan trọng nhất, với thứ bậc này vừa nhất quán nội bộ vừa củng cố
lẫn nhau. Bằng cách làm này, nhà quản trị chiến lƣợc phân loại các ƣu tiên để nếu ở giai
đoạn sau, xung đột về các mục tiêu xuất hiện, thì khi đó có thể đƣa ra quyết định về mục
tiêu cụ thể nào sẽ chiếm ƣu thế. Đồng thời, điều cần thiết là các mục tiêu đƣợc thiết lập
phải thực tế cả về quy mô và thời gian mà chúng phải đạt đƣợc.
Việc xác định sứ mệnh, tầm nhìn và mục tiêu dài hạn đòi hỏi phải dựa trên nền
tảng của sự hiểu biết chi tiết về các nhu cầu và cơ hội kinh doanh từ phân tích môi trƣờng
ví mô, môi trƣờng ngành, đối thủ cạnh tranh, hành vi khách hàng do bộ phận marketing
của doanh nghiệp thực hiện. Marketing chiến lƣợc cung cấp các thông tin thị trƣờng dài
hạn, các phân tích thị trƣờng và tác động dài hạn của các yếu tố môi trƣờng cho ban lãnh
đạo lựa chọn và quyết định. Ví dụ, khi xác định sứ mệnh, mục tiêu dài hạn cần xác định
là các mục tiêu có khả năng bị các đối thủ cạnh tranh theo đuổi, vì những mục tiêu này
thƣờng sẽ có tác động trực tiếp đến vị thế của các doanh nghiệp trên thị trƣờng vì vậy
phải phân tích mục tiêu của các đối thủ cạnh tranh chính.
4.2. Marketing chiến lƣợc với hoạch định chiến lƣợc kinh doanh của doanh
nghiệp
Mặc dù có nhiều tài liệu viết về hoạch định chiến lƣợc kinh doanh tổng thể của
doanh nghiệp/tổ chức, nhƣng nhiều vấn đề về hoạch định chiến lƣợc, các khái niệm và kỹ
thuật liên quan vẫn đang trong quá trình hoàn thiện. Chiến lƣợc kinh doanh tổng thể của
một doanh nghiệp bao gồm các quyết định chiến lƣợc toàn diện để định hình và đạt đƣợc
mục tiêu cụ thể của tổ chức đó. Chiến lƣợc này thƣờng bao gồm nhiều khía cạnh, nhằm
tối ƣu hóa các nguồn lực và khả năng của doanh nghiệp để tạo ra giá trị và cạnh tranh
trong thị trƣờng. Vai trò của marketing chiến lƣợc là cung cấp các dữ liệu thị trƣờng và
các phân tích đánh giá phục vụ cho việc lựa chọn mục tiêu và định hƣớng chiến lƣợc.
Trong một số trƣờng hợp, việc lập kế hoạch hoạt động ngắn hạn dƣờng nhƣ là tất cả
những gì cần thiết cho doanh nghiệp. Sự biến động nhanh và mạnh của môi trƣờng kinh
doanh, kéo theo một loạt các cuộc khủng hoảng, bao gồm thiếu hụt nguồn cung dầu, thiếu
hụt năng lƣợng và nguyên liệu, lạm phát cao, đình trệ kinh tế, bất ổn lao động, thất
nghiệp gia tăng và sau đó là suy thoái, khiến nhiều nhà quản trị doanh nghiệp phải tìm
kiếm một cách tiếp cận hoàn toàn khác cho hoạt động kinh doanh của họ. Cách tiếp cận
mới đối với việc lập kế hoạch chiến lƣợc đã cung cấp cho các doanh nghiệp/tổ chức một
khuôn khổ mạnh mẽ hơn và linh hoạt hơn, cho phép các nhà quản trị doanh nghiệp nhận
ra các cơ hội và vƣợt qua các mối đe dọa dễ dàng hơn. Quy trình lập kế hoạch chiến lƣợc
dựa trên ba tiền đề chính:
1. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải đƣợc xem xét và quản lý theo cách
tƣơng tự nhƣ danh mục đầu tƣ, với mỗi khía cạnh của hoạt động kinh doanh đƣợc
giám sát chặt chẽ và các quyết định, sau đó mới đƣa ra quyết định về các sản phẩm
hoặc các bộ phận kinh doanh cụ thể nào của doanh nghiệp nên đƣợc phát triển,
duy trì, loại bỏ dần hoặc xóa bỏ luôn.
2. Nhấn mạnh vai trò của việc xác định danh mục tiềm năng lợi nhuận trong tƣơng
lai cho mỗi đơn vị kinh doanh của doanh nghiệp.
3. Cần áp dụng quan điểm chiến lƣợc đối với việc quản lý từng yếu tố chính của
doanh nghiệp. Để đạt đƣợc các mục tiêu dài hạn, đòi hỏi nhà quản trị phải lập kế
hoạch chiến lƣợc trên cơ sở vị thế, mục tiêu, cơ hội và nguồn lực của doanh
nghiệp trong ngành kinh doanh.
Tuy nhiên, cần phải thừa nhận rằng để nhà quản trị doanh nghiệp có thể áp dụng
cách tiếp cận chiến lƣợc này vào quản lý, cần phải hiểu một cách chi tiết sự phức tạp của
các mối quan hệ song song tồn tại giữa các bộ phận khác nhau của cơ cấu tổ chức. Trong
phần lớn các doanh nghiệp, ba cấp độ tổ chức khác nhau có thể đƣợc xác định là: cấp
toàn doanh nghiệp, cấp đơn vị kinh doanh và cấp sản phẩm. Ở cấp độ doanh nghiệp, các
quyết định đƣợc đƣa ra chủ yếu liên quan đến kế hoạch chiến lƣợc của doanh nghiệp và
cách tốt nhất để phát triển hồ sơ dài hạn của doanh nghiệp. Nói cách khác, điều này liên
quan đến một loạt các quyết định về mức độ phân bổ nguồn lực cho các đơn vị kinh
doanh riêng lẻ, có thể là một bộ phận, doanh nghiệp con hoặc thƣơng hiệu, và doanh
nghiệp tiềm năng mới cần đƣợc hỗ trợ. Tiếp theo từ đó, mỗi đơn vị kinh doanh, trong
phạm vi nguồn lực đƣợc phân bổ bởi trụ sở chính của doanh nghiệp sẽ xây dựng kế hoạch
chiến lƣợc của riêng mình. Cuối cùng, kế hoạch Marketing cần đƣợc phát triển ở cấp độ
sản phẩm. Sau đó, các kế hoạch ở cả ba cấp độ cần phải đƣợc thực hiện, các kết quả đƣợc
giám sát cũng nhƣ đánh giá, và đƣợc khắc phục nếu cần; chu trình lập kế hoạch, thực
hiện và kiểm soát.
4.2.1. Các vấn đề thuộc trách nhiệm của bộ phận marketing trong hoạch định
chiến lược
Nhƣ đã nói, cho đến nay trách nhiệm cuối cùng đối với quá trình lập kế hoạch
chiến lƣợc thuộc về ban lãnh đạo doanh nghiệp. Quá trình này, bao gồm các tuyên bố về
tầm nhìn, sứ mệnh, chính sách và chiến lƣợc, thiết lập khuôn khổ rộng rãi bao gồm cả
phát triển các kế hoạch ở cấp đơn vị kinh doanh. Tất nhiên, trên thực tế, giữa các tổ chức
có sự khác biệt rất lớn về cách thức thực hiện điều này lẫn mức độ tự do đƣợc trao cho
những ngƣời quản lý của các đơn vị kinh doanh cụ thể. Ví dụ, một số doanh nghiệp/tổ
chức cho phép các nhà quản lý của các đơn vị kinh doanh có quyền hạn tƣơng đối lớn
trong việc phát triển các mục tiêu và chiến lƣợc của riêng họ, chỉ yêu cầu sau đó đạt đƣợc
các mức hiệu suất đã hứa - điều này thƣờng đƣợc gọi là lập kế hoạch từ dƣới lên. Ngƣợc
lại, một số doanh nghiệp/tổ chức khác áp dụng một cách tiếp cận hoàn toàn ngƣợc lại khi
họ không chỉ thiết lập các mục tiêu mà sau đó còn trực tiếp tham gia vào quá trình phát
triển và thực hiện chiến lƣợc của từng đơn vị kinh doanh (lập kế hoạch từ trên xuống).
Một số doanh nghiệp/tổ chức khác thì thiết lập các mục tiêu và sau đó để các đơn vị kinh
doanh chủ động phát triển các chiến lƣợc để đạt đƣợc mục tiêu của họ (mục tiêu từ trên
xuống / kế hoạch từ dƣới lên).
LẬP KẾ HOẠCH CẤP DOANH
NGHIỆP
TỔ CHỨC
THỰC
THI
THỰC THI
Tuy nhiên, bất kể cách tiếp cận nào đƣợc áp dụng, ban quản trị doanh nghiệp vẫn
phải có trách nhiệm cuối cùng đối với bốn giai đoạn chính của việc lập kế hoạch chiến
lƣợc:
1. Định nghĩa tầm nhìn và sứ mệnh kinh doanh.
2. Thành lập các đơn vị kinh doanh chiến lƣợc của doanh nghiệp (SBU).
3. Đánh giá hoạt động kinh doanh của các đơn vị kinh doanh hiện tại trong danh mục
đầu tƣ
4. Xác định các lĩnh vực mới để doanh nghiệp tham gia.
Nhƣ phần trên đã trình bày, nhiệm vụ đầu tiên của marketing chiến lƣợc là giúp
ban lãnh đạo đƣa ra đƣợc định nghĩa về tầm nhìn và sứ mệnh và mục tiêu kinh doanh dài
hạn của doanh nghiệp/tổ chức. Công việc này đƣợc thiết kế để cung cấp cho doanh
nghiệp/tổ chức một ý thức tổng thể về mục đích phát triển của họ trên thị trƣờng. Khi
điều này đã đƣợc thực hiện, nhà quản trị chiến lƣợc khi đó có thể tiếp tục và xác định các
đơn vị kinh doanh chiến lƣợc của tổ chức (SBU).
Lập kế hoạch kinh doanh cho các SBU
Ý tƣởng sử dụng các SBU làm cơ sở cho việc lập kế hoạch lần đầu tiên xuất hiện
vào những năm 1960 và đã chứng minh rằng thực tế là phần lớn các doanh nghiệp khi tổ
chức một số các hoạt động kinh doanh, không phải tất cả trong số đó đều đƣợc rõ ràng và
xác định cụ thể ngay từ đầu. Ví dụ, một doanh nghiệp với bốn bộ phận điều hành không
đồng nghĩa sẽ có bốn đầu mục kinh doanh hay bốn SBU, vì một bộ phận trên thực tế có
thể chứa một số hoạt động kinh doanh khá riêng biệt. Điều này thƣờng xảy ra khi một bộ
phận sản xuất các sản phẩm khác nhau cho các nhóm khách hàng rất khác nhau. Tƣơng
tự, hai hoặc ba bộ phận có thể trùng lặp hoặc có mối quan hệ với nhau theo cách mà trên
thực tế, chúng tạo thành một doanh nghiệp duy nhất. Do đó, điều quan trọng là ngƣời lập
kế hoạch phải hiểu chi tiết bản chất và mức độ của các mối quan hệ qua lại này để chiến
lƣợc của tổ chức có thể đƣợc phát triển theo cách hợp lý nhất.
Doanh nghiệp không nên chỉ định nghĩa đơn giản theo sản phẩm mà họ sản xuất
ra, vì nhu cầu đối với một sản phẩm cụ thể có thể chỉ là ngắn hạn. Ngƣợc lại, các nhu cầu
cơ bản và nhóm khách hàng có khả năng bền vững hơn. Điều này có nghĩa là các doanh
nghiệp cần phải coi kinh doanh là một quá trình đáp ứng nhu cầu và mong muốn của
khách hàng hơn là một quá trình sản xuất hàng hóa cụ thể. Nếu không nhận thức đúng về
điều này doanh nghiệp có thể bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh mới xuất hiện hoặc vẫn tiếp tục
trong ngành kinh doanh đã rơi vào suy thoái. Các nhà quản lý cần phải nhận ra bản chất
của nhu cầu để định kỳ đặt ra các câu hỏi 'Chúng ta đang kinh doanh lĩnh vực nào?' và
'Chúng ta nên kinh doanh lĩnh vực nào?'. Nhìn chung, một doanh nghiệp kinh doanh nên
đƣợc xác định theo ba yếu tố:
1. Các nhóm khách hàng sẽ đƣợc phục vụ.
2. Nhu cầu của khách hàng cần đƣợc thỏa mãn.
3. Những công nghệ sẽ đƣợc sử dụng để thỏa mãn những nhu cầu của khách hàng.
Sau đó, ban quản trị doanh nghiệp tiếp tục xem xét cách tốt nhất để quản lý từng
đơn vị kinh doanh một cách chiến lƣợc. Thuật ngữ 'đơn vị kinh doanh chiến lƣợc' lần đầu
tiên đƣợc sử dụng bởi nhà tƣ vấn quản lý ngƣời Mỹ Arthur D. Little (1974), ngƣời đã
định nghĩa nó là: “Một đơn vị kinh doanh với hàng hóa hoặc dịch vụ cho một thị trƣờng
bên ngoài cụ thể, nơi mà ban lãnh đạo có thể xác định mục tiêu và thực hiện chiến lƣợc
một cách độc lập với các đơn vị kinh doanh khác.” “Đơn vị Kinh doanh Chiến lƣợc là
hoạt động kinh doanh tự nhiên hoặc đồng nhất của một doanh nghiệp." Từ định nghĩa
này, các SBU thể hiện một số đặc điểm, trong đó có ba đặc điểm quan trọng nhất là USB:
1. Là một danh mục đơn lẻ hoặc một tập hợp các danh mục liên quan, cung cấp phạm
vi lập kế hoạch độc lập và có khả năng hoạt động độc lập so với phần còn lại của
tổ chức.
2. Có đối thủ cạnh tranh riêng.
3. Có bộ máy quản lý chịu trách nhiệm hoạch định và thực hiện chiến lƣợc tạo lợi
nhuận, và kiểm soát các yếu tố ảnh hƣởng đến lợi nhuận.
Ý tƣởng lập kế hoạch cho các SBU đƣợc phát triển trong nhiều thập kỷ qua và đã
đƣợc chứng minh là hữu ích, đặc biệt là vì đối với nhiều nhà quản lý, nó đã làm rõ ý
nghĩa của việc lập kế hoạch marketing chiến lƣợc. Do đó, việc xác định các SBU là một
điểm khởi đầu thuận tiện cho việc lập kế hoạch vì một khi các đơn vị kinh doanh chiến
lƣợc của doanh nghiệp đã đƣợc xác định, trách nhiệm lập kế hoạch chiến lƣợc có thể
đƣợc phân công rõ ràng hơn. Trên thực tế, phần lớn các doanh nghiệp làm việc trên cơ sở
hoạch định chiến lƣợc ở cấp SBU phải đƣợc sự đồng ý của ban lãnh đạo doanh nghiệp.
Do đó, các kế hoạch thƣờng đƣợc đệ trình hàng năm, với ban giám đốc doanh nghiệp sau
đó đƣợc phê duyệt hoặc gửi lại để sửa đổi. Trong quá trình xem xét này, ban lãnh đạo
doanh nghiệp sẽ cố gắng xác định tiềm năng của sản phẩm trong tƣơng lai và nơi đầu tƣ
có thể sinh lời cao nhất. Điều này đã dẫn đến sự phát triển của nhiều khuôn khổ trong đó
các sản phẩm đƣợc phân loại dựa trên tiềm năng của chúng. Drucker (1963) đã phân chia
các sản phẩm nhƣ sau:
1. Sản phẩm trụ cột của ngày mai
2. Sản phẩm trụ cột của ngày hôm nay
3. Sản phẩm có khả năng đóng góp lợi nhuận nếu có hành động khắc phục quyết liệt
4. Sản phẩm trụ cột của ngày hôm qua
5. Sản phẩm cạnh tranh yếu kém
6. Sản phẩm thất bại
Bằng cách phân loại các sản phẩm hoặc SBU theo cách này, ban lãnh đạo doanh
nghiệp đƣa ra các quyết định liên quan đến các hình thức đầu tƣ trong danh mục tổng thể
với mức độ khách quan cao hơn nhiều so với trƣờng hợp khi mỗi SBU đƣợc xem xét
riêng lẻ. Để giải quyết vấn đề này và để đảm bảo rằng quy trình mang tính phân tích thay
vì chủ quan, một số mô hình đánh giá danh mục đầu tƣ đã đƣợc phát triển. Trong số này
đƣợc biết đến nhiều nhất là ma trận tăng trƣởng - lợi nhuận của Tập đoàn Tƣ vấn Boston.
4.2.2. Marketing chiến lược trong phát triển chiến lược kinh doanh tổng thể của
doanh nghiệp
Ansoff đã phát triển phƣơng pháp phân tích theo ma trận sản phẩm/thị trƣờng để
xác định các định hƣớng chiến lƣợc phát triển cho các đơn vị kinh doanh chiến lƣợc
(SBU) của một doanh nghiệp trên thị trƣờng. Ma trận trong Hình 4.4, tập trung vào sản
phẩm (những gì đƣợc bán) và nó đƣợc bán cho ai (thị trƣờng), làm nổi bật bốn giải pháp
thay thế chiến lƣợc riêng biệt mở ra cho chiến lƣợc kinh doanh của doanh nghiệp:
1. Bán nhiều sản phẩm hiện có hơn cho các thị trƣờng hiện có
2. Mở rộng các sản phẩm hiện có sang các thị trƣờng mới
3. Phát triển sản phẩm mới cho các thị trƣờng hiện có
4. Phát triển sản phẩm mới cho các thị trƣờng mới.
Mặc dù trong thực tế, tất nhiên có mức độ mới tƣơng đối cả về sản phẩm và thị
trƣờng - và do đó số lƣợng các chiến lƣợc mở cho doanh nghiệp là đáng kể - ma trận của
Ansoff hữu ích ở chỗ nó cung cấp một khuôn khổ thuận tiện và dễ hiểu trong đó các mục
tiêu và các chiến lƣợc có thể đƣợc phát triển dễ dàng.
Do đó, việc thiết lập các mục tiêu và chiến lƣợc liên quan đến sản phẩm và thị
trƣờng là một yếu tố cơ bản của quá trình lập kế hoạch kinh doanh. Các mục tiêu này sau
đó thể hiện các cam kết về hiệu suất cho tƣơng lai và thƣờng đƣợc nêu về thị phần, khối
lƣợng bán hàng, mức độ phân phối và lợi nhuận. Tuy nhiên, để những điều này trở nên
đáng giá, chúng cần đƣợc trình bày cả về mặt định lƣợng và rõ ràng. Bằng cách này,
chúng có khả năng đo lƣờng, điều không thể thực hiện đƣợc nếu chúng chỉ đƣợc trình
bày trong các thuật ngữ mang tính định hƣớng rộng rãi.
Hình 4.4 Ma trận vectơ tăng trƣởng Ansoff
(Nguồn: Ansoff, 1957)
Hình 4.5 Phát triển định hƣớng chiến lƣợc
Do đó, lập luận cho các mục tiêu đƣợc thể hiện rõ ràng và định lƣợng là quá áp
đảo, vì bất kỳ sự thất bại nào trong việc thực hiện điều này chỉ đơn giản là gây ra sự
nhầm lẫn và mơ hồ ở giai đoạn sau, không chỉ về loại hành động cần thiết mà còn về các
tiêu chuẩn đo lƣờng hiệu suất. sẽ đƣợc sử dụng. Khi nêu các mục tiêu, chúng cũng cần
liên quan đến các triết lý và chính sách cơ bản của một doanh nghiệp cụ thể.
Ma trận Ansoff được xem xét và mở rộng
Dựa trên nền tảng của các nhận xét cho đến nay, cần rõ ràng rằng các mục tiêu
marketing liên quan đến bốn loại trong ma trận sản phẩm/thị trƣờng của Ansoff, với các
quyết định cần thiết về:
1. Sản phẩm hiện có trên thị trƣờng hiện có
2. Sản phẩm mới tại các thị trƣờng hiện có
3. Sản phẩm hiện có ở thị trƣờng mới
4. Sản phẩm mới tại các thị trƣờng mới.
Mặc dù ma trận Ansoff là hữu ích, tính đơn giản của ma trận 2 x 2 có một số hạn
chế. Nhận thức đƣợc điều này, Wills et al. (1972) đã đƣa ma trận tiến thêm một bƣớc
bằng cách làm nổi bật mức độ mới của sản phẩm và thị trƣờng và điều này có ý nghĩa
nhƣ thế nào đối với việc lập kế hoạch và chiến lƣợc; ma trận mở rộng đƣợc minh họa
trong Hình 4.6.
➡ Mở rộng thị trƣờng sang khai thác các phân đoạn thị trƣờng mới, nhóm ngƣời
dùng mới hoặc mở rộng khu vực thị trƣờng địa lý
➡ Phát triển sản phẩm
➡ Đa dạng hóa bằng cách bán sản phẩm mới cho thị trƣờng mới.
Khi cân nhắc xem nên theo đuổi lựa chọn thay thế nào trong số này, nhà quản trị
cần cân nhắc nhiều vấn đề. Đối với nhiều công ty, lựa chọn hấp dẫn nhất chứng tỏ khả
năng thâm nhập thị trƣờng lớn hơn, vì điều này liên quan đến các sản phẩm và thị trƣờng
hiện có, và do đó thƣờng ít tốn kém chi phí và rủi ro hơn so với việc di chuyển ra ngoài
các lĩnh vực kiến thức hiện có. Tƣơng tự, nó thƣờng trả tiền cho một tổ chức để tìm kiếm
sự phát triển trong các thị trƣờng hiện tại và có liên quan hơn là chuyển sang các thị
trƣờng mới, vì bằng cách này, doanh nghiệp/tổ chức có thể dễ dàng xây dựng danh tiếng
hơn. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp quyết định chuyển sang các lĩnh vực mới và có thể
không liên quan, thì không chỉ cần phải thiết lập sức mạnh để chống lại một loạt các đối
thủ cạnh tranh mới, mà còn phải xây dựng các mạng lƣới phân phối mới và chấp nhận với
một công nghệ khác. Bản thân điều này không đƣợc coi là một lý lẽ chống lại việc
chuyển sang thị trƣờng mới với các sản phẩm mới, mà là một lý lẽ để ngƣời lập kế hoạch
phát triển các mục tiêu và chiến lƣợc dựa trên nền tảng hiểu biết vững chắc về điểm
mạnh, điểm yếu của tổ chức và năng lực tổng thể của công ty, tất cả trong số đó sẽ xuất
hiện rõ ràng từ cuộc kiểm toán marketing.
Sự phát triển của các chiến lược
Theo những gì đã đƣợc trình bày ở trên, rõ ràng rằng mục tiêu kinh doanh là
những gì tổ chức muốn đạt đƣợc về khối lƣợng bán hàng, thị phần, v.v. (tức là mục tiêu
cuối cùng). Sau đó, tổ chức đặt ra nhƣ thế nào để đạt đƣợc những mục tiêu này là chiến
lƣợc (tức là phƣơng tiện). Do đó, một tuyên bố chiến lƣợc hiệu quả không chỉ cần tham
chiếu đến việc phân bổ nguồn lực mà còn liên quan đến quy mô thời gian; tất yếu nó là
phạm vi rộng. Sau đó, ngƣời lập kế hoạch sẽ chuyển sang phát triển các chiến thuật và
chƣơng trình để thực hiện. Theo quan điểm của ngƣời lập kế hoạch, các khía cạnh chính
của chiến lƣợc là các yếu tố riêng lẻ của các chính sách và công cụ kinh doanh. Tuy
nhiên, trƣớc khi tiếp tục, cần tập trung vào một trong những ảnh hƣởng lớn khác đến
thành công chiến lƣợc. Mặc dù các quyết định thƣờng đƣợc đƣa ra trong bối cảnh hạn chế
về nguồn lực, nhƣng tác động của chúng thƣờng có thể đƣợc giảm thiểu bởi nhà chiến
lƣợc công nhận đầy đủ tầm quan trọng của đòn bẩy có thể đạt đƣợc bằng cách phát triển
một hoặc nhiều năng lực đặc biệt để đạt đƣợc lợi thế marketing so sánh.
4.2.3. Các mô hình phân tích danh mục đầu tư
Danh mục đầu tƣ (Investment portfolio) là một danh mục phân bổ các nguồn lực
của tổ chức/doanh nghiệp đầu tƣ vào các đơn vị kinh doanh chiến lƣợc với mục tiêu đạt
đƣợc lợi nhuận tối đa hoặc tối ƣu hóa tỷ suất sinh lời. Có nhiều phƣơng pháp phân tích để
phân bổ nguồn lực của doanh nghiệp trong một danh mục đầu tƣ tối ƣu. Ma trận tăng
trƣởng - lợi nhuận của Tập đoàn Tƣ vấn Boston đƣợc cho là phƣơng pháp nổi tiếng nhất
để phân tích danh mục đầu tƣ. Mô hình BCG liên quan đến các SBU đƣợc vẽ trên ma trận
theo tỷ lệ tăng trƣởng thị trƣờng và thị phần của họ so với thị phần của đối thủ cạnh tranh
lớn nhất. Điều này đƣợc minh họa trong Hình 4.7.
Cao
20
18 NGÔI SAO
DẤU HỎI
Khiêm tốn
16 Dòng tiền âm lớn
+ hoặc –
14 Dòng tiền
TỐC ĐỘ
TĂNG 12
TRƢỞNG Dòng tiền tối ƣu
CỦA THỊ 10
TRƢỜNG
8 CON CHÓ
(%)
BÒ SỮA Khiêm tốn
6 Dòng tiền dƣơng lớn + hoặc –
4 Dòng tiền
2
Hình 4.7 Ma trận tăng trƣởng – lợi nhuận của Tập đoàn Tƣ vấn Boston
Khi sử dụng các khía cạnh này làm cơ sở để đánh giá danh mục sản phẩm, Boston
Consulting Group buộc ban lãnh đạo phải xem xét rõ ràng cả tiềm năng tƣơng lai của thị
trƣờng (tức là tốc độ tăng trƣởng hàng năm) và vị thế cạnh tranh của SBU. Trong mô
hình này, vị thế cạnh tranh đƣợc đo lƣờng trên thang đo logarit so với thị phần của đối
thủ cạnh tranh lớn nhất của doanh nghiệp; do đó, thị phần tƣơng đối là 0,3 trong Hình 4.7
cho thấy doanh số bán hàng của SBU bằng 30% doanh số bán hàng của doanh nghiệp dẫn
đầu, trong khi 4.0 có nghĩa là SBU của doanh nghiệp đang dẫn đầu thị trƣờng và có thị
phần gấp bốn lần so với doanh số bán hàng của doanh nghiệp lớn thứ hai trên thị trƣờng.
Sau đó, trục tung đƣợc sử dụng để minh họa tốc độ tăng trƣởng hàng năm không thể kiểm
soát đƣợc của thị trƣờng mà doanh nghiệp hoạt động. Trong Hình 4.7, tỷ lệ này dao động
từ 0 đến 20%, với tốc độ tăng trƣởng vƣợt quá 10% đƣợc coi là cao. Ma trận 4.7 xuất
hiện dựa trên bốn giả định:
- Lợi nhuận và nguồn vốn tạo ra tăng lên cùng với thị phần, phần lớn là kết quả của
kinh nghiệm và quy mô;
- Tăng trƣởng doanh số đòi hỏi tiền mặt cho vốn lƣu động và tăng công suất;
- Để gia tăng thị phần thƣờng cần tiền mặt để hỗ trợ các chiến thuật tăng trƣởng thị
phần;
- Tăng trƣởng chậm lại khi sản phẩm đạt đến giai đoạn bão hòa của vòng đời và ở
giai đoạn này thƣờng có thể tạo ra thặng dƣ tiền mặt mà doanh nghiệp không bị
mất thị phần; lƣợng tiền này có thể đƣợc sử dụng để hỗ trợ các sản phẩm vẫn đang
trong giai đoạn phát triển trong chu kỳ sống.
Bản thân ma trận đƣợc chia thành bốn ô, mỗi ô chỉ ra một loại hình kinh doanh
khác nhau về việc sử dụng tiền mặt và tạo ra tiền mặt; đặc điểm của từng ô này đƣợc thảo
luận trong Hình 4.7. Sau khi vẽ sơ đồ vị trí của các SBU của doanh nghiệp, có thể thấy
khá dễ dàng sự cân bằng và sức mạnh của danh mục đầu tƣ. Một danh mục đầu tƣ cân
bằng thƣờng thể hiện một số đặc điểm nhất định, bao gồm sự kết hợp giữa các Bò sữa
(Cashcow) và các Ngôi sao (Star). Ngƣợc lại, một danh mục đầu tƣ không cân bằng và
tiềm ẩn nguy cơ sẽ có quá nhiều Con chó (Dog) hoặc Dấu hỏi (Question mark), và quá ít
ngôi sao và Bò sữa. Hệ quả có thể xảy ra là không đủ tiền mặt cần có để tài trợ hoặc hỗ
trợ sự phát triển của các SBU khác. Sau khi xác định đƣợc hình dạng của danh mục đầu
tƣ, ngƣời lập kế hoạch cần xem xét các mục tiêu, chiến lƣợc và ngân sách cho mỗi SBU.
Về bản chất, doanh nghiệp có thể theo đuổi bốn chiến lƣợc chính:
1. Xây dựng
Theo chiến lƣợc xây dựng, mục tiêu chính là tăng thị phần của SBU để củng cố vị
thế của SBU. Khi làm điều này, các khoản thu nhập và lợi nhuận ngắn hạn đƣợc cố tình
bỏ qua với kỳ vọng rằng lợi nhuận dài hạn sẽ lớn hơn nhiều. Đó là một chiến lƣợc phù
hợp nhất với các dấu hỏi, để chúng trở thành những ngôi sao.
Bảng 4.1 Phân loại SBU của Boston Consulting Group
Hai nhóm SBU khác đã đƣợc xác định bởi Barksdale và Harris (1982). Đó là
ngựa chiến (thị phần cao và tăng trƣởng âm) và chim cƣu (thị phần thấp, tăng trƣởng
âm).
2. Nắm giữ
Mục tiêu chính trong trƣờng hợp này là duy trì thị phần hiện tại. Đây là chiến lƣợc
thƣờng đƣợc sử dụng cho bò sữa để đảm bảo chúng tiếp tục tạo ra lƣợng tiền mặt tối đa.
3. Thu hoạch
Bằng cách tuân theo chiến lƣợc thu hoạch, ban giám đốc cố gắng tăng dòng tiền
ngắn hạn càng nhiều càng tốt, ngay cả khi phải trả giá bằng tƣơng lai dài hạn của SBU.
Đây là một chiến lƣợc phù hợp nhất với bò sữa đang suy yếu hoặc đang ở trong một thị
trƣờng dƣờng nhƣ chỉ có tuổi thọ ngắn. Nó cũng đƣợc sử dụng trong những trƣờng hợp tổ
chức đang cần tiền mặt và sẵn sàng thế chấp tƣơng lai của sản phẩm vì lợi ích của các
nhu cầu ngắn hạn. Thu hoạch cũng đƣợc sử dụng cho dấu chấm hỏi khi có ít cơ hội thực
sự để biến chúng thành ngôi sao và chiến lƣợc này thƣờng áp dụng với con chó.
4. Thoái vốn hoặc chấm dứt
Mục tiêu thiết yếu ở đây là loại bỏ tổ chức các SBU hoạt động nhƣ một sự tiêu hao
lợi nhuận hoặc để hiện thực hóa các nguồn lực có thể đƣợc để mang lại hiệu quả lớn hơn
ở những danh mục khác trong doanh nghiệp. Một lần nữa, nó là một chiến lƣợc thƣờng
đƣợc sử dụng cho dấu chấm hỏi và con chó.
Sau khi quyết định nên tuân theo phƣơng pháp tiếp cận nào trong số bốn phƣơng
pháp tiếp cận chung này, nhà chiến lƣợc cần xem xét cách thức mà mỗi SBU có khả năng
thay đổi vị trí của mình trong ma trận theo thời gian. Các SBU thƣờng có một vòng đời
bắt đầu với sự xuất hiện của chúng dƣới dạng dấu chấm hỏi và sự tiến triển của chúng
qua các giai đoạn của ngôi sao, bò sữa và cuối cùng là con chó. Do đó, điều cần thiết là
ma trận BCG không chỉ đƣợc sử dụng để có đƣợc một cái nhìn tổng thể về danh mục đầu
tƣ nhƣ hiện tại, mà còn đƣợc sử dụng để xem các SBU đã phát triển nhƣ thế nào cho đến
nay và chúng có khả năng phát triển nhƣ thế nào trong tƣơng lai. Khi làm điều này, có thể
dự đoán đƣợc hình dạng và sức phát triển của danh mục đầu tƣ trong thời gian vài năm,
trong bất kỳ khoảng trống nào có khả năng tồn tại và do đó, loạt hành động chiến lƣợc
cần thiết sẽ đƣa ra dƣới dạng quyết định về sản phẩm mới, hỗ trợ tiếp thị và xóa bỏ sản
phẩm. Quá trình này sau đó có thể đƣợc thực hiện thêm một bƣớc nữa nếu các biểu đồ
tƣơng tự đƣợc phát triển cho từng đối thủ cạnh tranh chính, vì bằng cách làm này, nhà
chiến lƣợc có đƣợc cái nhìn sâu sắc về điểm mạnh, điểm yếu và khoảng cách tiềm ẩn
trong danh mục của mỗi đối thủ cạnh tranh. Các tác động sau đó có thể đƣợc đƣa trở lại
chiến lƣợc riêng của tổ chức.
Cạm bẫy của phân tích danh mục đầu tư
Mặc dù danh mục đầu tƣ có khả năng cung cấp bức tranh về vị trí hiện tại của tổ
chức, nhƣng các nhà chiến lƣợc cần phải thận trọng khi giải thích và xây dựng chính sách
trong tƣơng lai. Một sai lầm phổ biến trong phân tích danh mục đầu tƣ là yêu cầu mỗi
SBU phải đạt đƣợc tốc độ tăng trƣởng hoặc mức lợi nhuận không thực tế: bản chất của
phân tích danh mục đầu tƣ liên quan đến việc nhận ra rằng mỗi SBU cung cấp một tiềm
năng khác nhau và nhƣ vậy đòi hỏi sự quản lý của từng cá nhân khác nhau. Những sai
lầm điển hình khác bao gồm:
➡ Đầu tƣ quá nhiều vào chó, hy vọng rằng vị trí của chúng sẽ đƣợc cải thiện,
nhƣng không thành công.
➡ Duy trì quá nhiều dấu chấm hỏi và đầu tƣ quá ít vào mỗi dấu hỏi, dẫn đến kết
quả là vị trí của họ không thay đổi hoặc xấu đi. Ví dụ, trong trƣờng hợp có dấu chấm hỏi,
chúng nên đƣợc loại bỏ hoặc nhận đƣợc mức hỗ trợ cần thiết để cải thiện đáng kể vị trí
phân khúc của chúng.
➡ Rút cạn kiệt quỹ tiền mặt và làm suy yếu chúng sớm và không cần thiết. Ngoài
ra, đầu tƣ quá nhiều vào bò sữa, dẫn đến kết quả là nguồn tài trợ dành cho các dấu hỏi,
dấu sao và chó không đủ.
➡ Không xem các mô hình phân tích danh mục đầu tƣ là một đóng góp vào việc
ra quyết định. Khi ngƣời lập kế hoạch bắt đầu sử dụng các mô hình nhƣ ma trận chia sẻ
tăng trƣởng BCG để thay thế việc đánh giá và phán đoán bằng cách dựa trên các ý tƣởng
cơ bản mang tính quy định đƣợc liên kết với mỗi ô (ví dụ: luôn vắt sữa bò, luôn loại bỏ
chó, v.v.) làm cơ sở cho hành động, có khả năng xảy ra khủng hoảng. Để biết thêm về
vấn đề này đã có bản tóm tắt về ƣu và nhƣợc điểm của ma trận Boston - và mở rộng ra
cũng nhƣ một số mô hình phân tích danh mục đầu tƣ khác mà chúng ta sẽ xem xét ở phần
sau của chƣơng này - xuất hiện trong Hình 9.4.
Chúng ta cần phải thấy rõ rằng bò sữa rất cần thiết cho sức mạnh và lợi nhuận lâu
dài của doanh nghiệp, vì chúng cung cấp nguồn vốn cần thiết nếu muốn phát triển và phát
huy hết tiềm năng của doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tế ở nhiều doanh nghiệp, nguồn
cung SBU bò sữa thƣờng thiếu và có thể đã bị vắt sữa quá nhiều. Nhận thức đƣợc điều
này, nhà chiến lƣợc cần tập trung vào dài hạn và xem xét cách tốt nhất để quản lý danh
mục đầu tƣ và đảm bảo rằng tổ chức đƣợc hƣởng lợi từ sự kế thừa của các bò sữa. Bất kỳ
sự thất bại nào trong việc này đều có thể dẫn đến việc quản lý không tối ƣu và các loại
chuỗi thất bại đƣợc minh họa trong Hình 4.5.
Bảng 4.2. Ƣu và nhƣợc điểm của ma trận Boston
➡ Đây là một hƣớng dẫn ➡ Nó là một hƣớng dẫn đầu tƣ chứ không phải chiến
dễ sử dụng giúp các nhà lƣợc
quản lý suy nghĩ về nhu ➡ Nó dựa trên giả định ngầm rằng việc lập kế hoạch kinh
cầu đầu tƣ của một danh doanh chỉ đƣợc thúc đẩy bởi hai yếu tố, tốc độ tăng
mục trong doanh nghiệp trƣởng và thị phần, và khi làm điều này, bỏ qua các yếu tố
➡ Nó cung cấp cơ sở hữu ảnh hƣởng đến lợi nhuận, chẳng hạn nhƣ cƣờng độ cạnh
ích để suy nghĩ về các ƣu tranh, lợi thế cạnh tranh và nhu cầu của khách hàng
tiên trong một loạt các hoạt ➡ Dòng tiền đƣợc xem là phụ thuộc vào tăng trƣởng thị
động trƣờng và thị phần. Trong thực tế, điều này không hoàn
toàn đúng
➡ Thị phần hiếm khi đƣợc xác định dễ dàng nhƣ mô hình
gợi ý. Với sự xói mòn của ranh giới địa lý và sự xuất hiện
của một môi trƣờng cạnh tranh hoàn toàn khác biệt, thị
phần thƣờng linh hoạt hơn và khó đo lƣờng hơn
➡ Mô hình không phù hợp với bản chất của chiến lƣợc
và hình thức lợi thế cạnh tranh sẽ dẫn đến thành công.
Cao
Hình 4.8 Các chuỗi thành công và thảm họa trong danh mục sản phẩm
Mô hình thứ hai đƣợc phát triển bởi Boston Consulting Group - ma trận tăng
trƣởng - lợi ích - có thể giúp nhà chiến lƣợc tránh đƣợc những vấn đề nhƣ trong Hình 9.5.
Ma trận thay thế thƣờng đƣợc sử dụng cùng với phân tích thị phần tăng trƣởng, minh họa
mức độ tăng trƣởng của từng sản phẩm hoặc SBU đang theo kịp tốc độ tăng trƣởng của
thị trƣờng. Ma trận đƣợc minh họa trong Hình 9.6 (a) biểu thị tốc độ tăng trƣởng của sản
phẩm (hoặc công suất) trên trục hoành và tốc độ tăng trƣởng của thị trƣờng trên trục tung.
Các sản phẩm có tốc độ tăng trƣởng bằng tốc độ tăng trƣởng của thị trƣờng nằm trên
đƣờng chéo. Do đó, cổ phiếu giảm giá xuất hiện trên đƣờng chéo, trong khi cổ phiếu tăng
giá ở dƣới.
Hình 4.6 (b) cho thấy vị trí lý tƣởng của các sản phẩm trong danh mục đầu tƣ. Ở
đây, những con chó đƣợc tập trung dọc theo hoặc gần trục tăng trƣởng của thị trƣờng,
một vị trí phản ánh sự tăng trƣởng năng lực bằng không. Bò sữa đƣợc tập trung dọc theo
đƣờng chéo, cho thấy thị phần đang đƣợc duy trì. Các ngôi sao nên xuất hiện trong lĩnh
vực tăng trƣởng cao vì họ phải giành đƣợc, hoặc ít nhất là nắm giữ thị phần. Sau đó, các
dấu hỏi xuất hiện trong hai cụm, với một nhóm nhận đƣợc ít sự hỗ trợ trong khi nhóm kia
nhận đƣợc sự hỗ trợ đáng kể cần thiết để tối đa hóa cơ hội tạo ra các ngôi sao.
(a) Danh mục đầu tƣ đa dạng hóa tích cực
Tốc độ tăng trƣởng thị trƣờng
Tốc độ
tăng
trƣởng
bền vững
tối đa
Tốc độ tăng
trƣởng bền
?
vững tối đa
?
Chó
Mức độ hấp dẫn của thị trường và đánh giá vị thế kinh doanh
Hai ma trận BCG mà chúng ta đã thảo luận cho đến nay có khả năng cung cấp cho
nhà chiến lƣợc hiểu biết về một số mối quan hệ chiến lƣợc quan trọng, bao gồm dòng tiền
nội bộ, thị phần và quỹ đạo tăng trƣởng. Tuy nhiên, ngƣời ta thƣờng thừa nhận rằng, mặc
dù những hiểu biết sâu sắc đƣợc cung cấp bởi các mô hình này chắc chắn có giá trị đáng
kể, nhƣng chúng trong phần lớn các trƣờng hợp là không đủ nếu các quyết định đầu tƣ
đáng giá ảnh hƣởng đến tƣơng lai của doanh nghiệp đƣợc đƣa ra. Cụ thể hơn, các nhà phê
bình nhƣ Abell và Hammond (1979, trang 211–12) đã chỉ ra ba thiếu sót chính của việc
chỉ dựa vào phân tích tỷ trọng tăng trƣởng:
1. Thông thƣờng, các yếu tố khác ngoài thị phần tƣơng đối và tăng trƣởng ngành
đóng một vai trò quan trọng trong ảnh hƣởng đến dòng tiền.
2. Dòng tiền có thể đƣợc coi là ít có ý nghĩa hơn tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tƣ
(ROI) nhƣ một phƣơng tiện để so sánh mức độ hấp dẫn của việc đầu tƣ vào một
danh mục này thay vì một danh mục khác.
3. Biểu đồ danh mục đầu tƣ cung cấp ít thông tin chi tiết thực tế về cách một đơn vị
kinh doanh so sánh với đơn vị kinh doanh khác về cơ hội đầu tƣ. Chẳng hạn, có
phải một ngôi sao luôn là mục tiêu đầu tƣ tốt hơn bò sữa không? Tƣơng tự, các
vấn đề thƣờng gặp phải trong việc so sánh các dấu hỏi khi cố gắng quyết định cái
nào nên nhận tiền để biến nó thành ngôi sao và cái nào nên đƣợc phép loại bỏ.
Nhận thức đƣợc những vấn đề này đã dẫn đến sự phát triển của một cách tiếp cận
đƣợc đƣợc đặt tên là 'tính hấp dẫn của thị trƣờng - đánh giá vị thế kinh doanh', đƣợc biết
đến nhiều nhất là mô hình General Electric.
4.2.4. Mô hình danh mục đầu tư đa yếu tố của General Electric
Mô hình đa nhân tố của General Electric dựa trên lập luận rằng không phải lúc nào
cũng có thể hoặc thích hợp để phát triển các mục tiêu hay đƣa ra quyết định đầu tƣ cho
một SBU chỉ dựa trên vị trí của nó trong ma trận tăng trƣởng - chia sẻ. Do đó, mô hình
General Electric đƣa cách tiếp cận tổng quát bằng cách đƣa vào một số lƣợng lớn hơn các
biến để đánh giá vị trí của các SBU có thể đƣợc vẽ trên biểu đồ. Mô hình này, xuất hiện
trong Hình 4.7, liên quan đến các SBU đƣợc đánh giá dựa trên hai khía cạnh chính: sức
hấp dẫn của ngành và vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trong mô hình, các vòng tròn không đại diện cho quy mô của SBU, mà là quy mô
của thị trƣờng đƣợc đề cập, với phần bóng mờ của hình tròn đại diện cho thị phần của
SBU. Suy nghĩ đằng sau sự lựa chọn của hai trục dựa trên quan điểm rằng sự thành công
của một doanh nghiệp đƣợc xác định, thứ nhất, bởi mức độ hoạt động của nó trong các
thị trƣờng hấp dẫn và thứ hai, bởi mức độ sở hữu các loại lợi thế cạnh tranh, thế mạnh
kinh doanh cần thiết để thành công ở mỗi thị trƣờng này. Việc nhóm lập kế hoạch không
thừa nhận điều này có khả năng dẫn đến các vấn đề dài hạn, vì các doanh nghiệp mạnh
hoạt động trong một thị trƣờng kém hấp dẫn và các doanh nghiệp yếu hoạt động trong
một thị trƣờng hấp dẫn hầu nhƣ sẽ hoạt động kém hơn.
Nhận thức đƣợc điều này đòi hỏi ngƣời lập kế hoạch phải đo lƣờng mọi thứ theo
hai chiều. Để làm đƣợc điều này, các yếu tố cơ bản là mỗi thứ nguyên phải đƣợc xác
định, đo lƣờng và sau đó kết hợp để tạo thành một chỉ số. Mặc dù trong mỗi khía cạnh,
danh sách các yếu tố kết hợp để tạo thành thƣớc đo mức độ hấp dẫn sẽ dành riêng cho
từng doanh nghiệp, nhƣng có thể xác định các loại yếu tố đều sẽ liên quan tới nhau ở một
mức độ nhất định trong hầu hết các trƣờng hợp. Ví dụ, sức hấp dẫn của ngành đƣợc xác
định ở một mức độ rất lớn bởi quy mô thị trƣờng, tốc độ tăng trƣởng của nó, bản chất,
mức độ và cơ sở cạnh tranh cũng nhƣ tốc độ thay đổi công nghệ, mức độ mà nó bị hạn
chế bởi các quy định của chính phủ hoặc luật pháp, các cơ hội thu lợi nhuận tồn tại, v.v.
Tƣơng tự, sức mạnh kinh doanh bị ảnh hƣởng bởi các yếu tố nhƣ thị phần, chất lƣợng sản
phẩm, hình ảnh và danh tiếng thƣơng hiệu, trình độ quản lý và năng lực điều hành, khả
năng sản xuất, yếu tố chi phí, phạm vi và sức mạnh phân phối của tổ chức, bản chất của
cơ sở khách hàng và các cấp của lòng trung thành.
CAO
TRƢỜNG
6
TRUNG
BÌNH
3
THẤP
0
Hình 4.10. Mô hình danh mục đầu tƣ đa yếu tố của General Electric
Có thể thấy từ Hình 4.7, chín ô của ma trận General Electric chia thành ba lĩnh vực
riêng biệt, mỗi lĩnh vực đòi hỏi một cách tiếp cận quản lý và đầu tƣ khác nhau. Ba ô ở
trên cùng bên trái của ma trận là ô hấp dẫn nhất để vận hành và yêu cầu chính sách đầu tƣ
để tăng trƣởng. Ba ô chạy theo đƣờng chéo từ trên cùng bên phải đến dƣới cùng bên trái
có xếp hạng mức độ hấp dẫn trung bình - do đó, việc quản lý các SBU trong danh mục
này nên thận trọng hơn, chú trọng hơn đến việc đầu tƣ có chọn lọc và giữ lại thu nhập. Ba
ô ở dƣới cùng bên phải của ma trận là ô kém hấp dẫn nhất để vận hành và quản lý do đó
nên theo đuổi chính sách thu hoạch hoặc thoái vốn.
Cũng nhƣ ma trận BCG, cần phải thừa nhận rằng phƣơng pháp tiếp cận phân tích
danh mục đầu tƣ của General Electric cũng cần tính đến tƣơng lai có thể xảy ra của từng
SBU. Do đó, ngƣời lập kế hoạch nên cố gắng nhìn xa hơn bằng cách xem xét các vòng
đời, các dạng công nghệ mới và tác động có thể xảy ra của chúng, các chiến lƣợc cạnh
tranh có thể xảy ra, v.v. Sau đó, những thay đổi có thể xảy ra trong tƣơng lai có thể đƣợc
phản ánh trong ma trận bằng cách thêm một loạt các mũi tên cho thấy mỗi SBU có khả
năng di chuyển nhƣ thế nào trong vài năm tới.
4.2.5. Ma trận điều kiện chiến lược
thế +) Bảo vệ vị
+) Đặt mục
TRỊ
1. Thống trị
Đây là một vị trí tƣơng đối hiếm và trong nhiều trƣờng hợp đƣợc cho là do độc
quyền hoặc do sự dẫn đầu về công nghệ tân tiến đƣợc bảo vệ. Hệ quả là doanh nghiệp có
thể gây ảnh hƣởng đáng kể đến hành vi của những ngƣời khác trong ngành và có nhiều
lựa chọn chiến lƣợc mở ra cho mình.
2. Mạnh mẽ
Nhờ vị trí này, doanh nghiệp có một mức độ tự do đáng kể trong việc lựa chọn
chiến lƣợc của mình và thƣờng có thể hành động mà vị thế thị trƣờng của mình không bị
đe dọa quá mức bởi các đối thủ cạnh tranh.
3. Thuận lợi
Vị trí này, thƣờng xuất hiện khi ngành công nghiệp bị phân tán và không có đối
thủ cạnh tranh nào nổi bật rõ ràng, dẫn đến việc các doanh nghiệp dẫn đầu thị trƣờng có
một mức độ tự do hợp lý. Các doanh nghiệp có vị trí thị trƣờng thuận lợi thƣờng có thế
mạnh có thể đƣợc khai thác bằng các chiến lƣợc cụ thể và do đó có cơ hội lớn hơn mức
trung bình để tăng thị phần.
4. Có thể kiểm soát được
Mặc dù các doanh nghiệp trong danh mục này có thể hoạt động tốt và tiếp tục ở lại
trong ngành, nhƣng nhìn chung họ dễ gặp thƣơng tổn khi đối mặt với sự cạnh tranh gia
tăng từ các doanh nghiệp mạnh hơn và chủ động hơn trên thị trƣờng. Cơ hội để một tổ
chức củng cố vị thế của mình có xu hƣớng thấp hơn mức trung bình. Lợi nhuận của
doanh nghiệp có thể cho thuê đạt đƣợc và duy trì tốt nhất thông qua mức độ chuyên môn
hóa.
5. Yếu
Hoạt động của các doanh nghiệp trong danh mục này nhìn chung không đạt yêu
cầu, mặc dù vẫn có cơ hội để cải tiến. Tuy nhiên, thông thƣờng, doanh nghiệp quá lớn và
kém hiệu quả để cạnh tranh với bất kỳ mức độ hiệu quả thực sự nào, hoặc quá nhỏ để đối
phó với áp lực cạnh tranh. Trừ khi doanh nghiệp thay đổi, nếu không, doanh nghiệp cuối
cùng có khả năng bị buộc phải rời khỏi thị trƣờng hoặc thoát ra khỏi thị trƣờng theo cách
riêng của mình.
6. Không khả thi
Vị trí thứ sáu, vị trí không khả thi, có thể đƣợc thêm vào danh sách này và áp dụng
khi hoạt động của doanh nghiệp không đạt yêu cầu và có rất ít cơ hội để cải thiện. Trong
trƣờng hợp này, về cơ bản, nhà chiến lƣợc nhận ra thực tế của tình hình và rút khỏi thị
trƣờng theo cách ít tốn kém nhất. Theo ma trận điều kiện chiến lƣợc, khía cạnh thứ hai
của mô hình - giai đoạn trƣởng thành của ngành, từ giai đoạn phôi thai đến già cỗi - có ý
nghĩa quan trọng đối với các chiến lƣợc mở ra cho tổ chức. Do đó, khi một chiến lƣợc cơ
bản đã đƣợc xác định, nhà chiến lƣợc nhất định phải làm, có thể làm và không nên làm
nếu muốn duy trì tính nhất quán. Sự kết hợp giữa vị thế cạnh tranh và sự trƣởng thành
trong ngành cung cấp cơ sở để xác định điều kiện chiến lƣợc của SBU và sau đó, xác
định và đánh giá các lựa chọn chiến lƣợc mở ra cho doanh nghiệp. Đây thƣờng là sự lựa
chọn giữa đầu tƣ để củng cố hoặc duy trì vị thế, chi tiêu để duy trì hiện trạng, thu hoạch
hoặc thoát khỏi ngành. Khi nhận xét về điều này, ma trận điều kiện chiến lƣợc cho rằng
'có một tập hợp hữu hạn các chiến lược có sẵn cho mỗi Đơn vị Kinh doanh' và chúng có
thể đƣợc nhìn thấy theo sáu nhóm chiến lƣợc chung:
1. Chiến lƣợc thị trƣờng (trong nƣớc và quốc tế)
2. Chiến lƣợc sản phẩm
3. Chiến lƣợc công nghệ
4. Chiến lƣợc hoạt động
5. Chiến lƣợc quản lý và hệ thống
6. Chiến lƣợc cắt giảm
Khi lựa chọn trong số những nguyên tắc này, ma trận điều kiện chiến lƣợc xác
định một số nguyên tắc hƣớng dẫn, trong đó quan trọng nhất là 'việc lựa chọn chiến lƣợc
(nên) đƣợc thúc đẩy bởi điều kiện của doanh nghiệp, không phải điều kiện của các nhà
quản lý'. Khi đƣa ra nhận xét này, ma trận điều kiện chiến lƣợc cho rằng tính hiện thực
trong hoạch định chiến lƣợc sẽ chiếm ƣu thế nếu các nhà quản trị không tiếp cận quá
mức.
Tóm tắt chƣơng
Nội dung của chƣơng này tập trung vào việc phân tích vai trò của marketing chiến
lƣợc trong tƣ vấn chiến lƣợc kinh doanh tổng thể cho cấp lãnh đạo cao nhất của doanh
nghiệp là Hội đồng quản trị và Ban điều hành. Các nội dung cụ thể tập trung vào việc bộ
phận marketing đóng góp nhƣ thế nào vào việc cung cấp thông tin, phân tích đánh giá để
ban lãnh đạo xác định đƣợc sứ mệnh, tầm nhìn, giá trị cốt lõi và mục tiêu dài hạn của
doanh nghiệp. Tiếp theo, các thông tin cần thu thập và các mô hình phân tích giúp cho
doanh nghiệp lựa chọn đƣợc các định hƣớng phát triển cho doanh nghiệp trên thị trƣờng.
Nhà quản trị cũng cần hiểu rõ bản chất và quản lý các hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp theo cách tƣơng tự nhƣ danh mục đầu tƣ; nhấn mạnh vào tiềm năng lợi nhuận
trong tƣơng lai của mỗi định hƣớng đầu tƣ của doanh nghiệp; áp dụng quan điểm chiến
lƣợc vào việc quản lý danh mục đầu tƣ của doanh nghiệp. Trong chƣơng cũng làm rõ
việc xác định các đơn vị kinh doanh chiến lƣợc (SBU) của doanh nghiệp. Đồng thời đã
làm rõ các cách tiếp cận để phân tích và lập kế hoạch danh mục đầu tƣ, trong đó bao
gồm:
Ma trận chia sẻ tăng trƣởng của Tập đoàn Tƣ vấn Boston
Ma trận đa nhân tố General Electric
Ma trận điều kiện chiến lƣợc Arthur D. Little
Mỗi mô hình danh mục đầu tƣ cũng bao gồm một loạt các hƣớng dẫn chiến lƣợc
đã đƣợc kiểm chứng. Các mô hình này đã khuyến khích các nhà quản lý suy nghĩ chiến
lƣợc của doanh nghiệp của họ một cách chi tiết hơn và áp dụng một cách tiếp cận chủ
động hơn trong quản lý.