Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 20

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH

Buổi thảo luận thứ năm: Quy định chung về thừa kế


Môn: Luật Dân Sự
Giảng viên: GS.TS Đỗ Văn Đại
Lớp: DS48A1
Nhóm thực hiện: 1.7

STT Họ và tên MSSV Điểm đánh giá


1 Diệp Tấn Gia Bảo 235380101202 10/10
5
2 Nguyễn Bảo Ân 235380101200 10/10
4
3 Nguyễn Chí Dũng 235380101204 10/10
4
4 Bùi Trần Quỳnh Anh 235380101200 10/10
7
5 Nguyễn Đoàn Ngọc Anh 235380101201 10/10
7
6 Chu Kiều Anh 235380101200 10/10
8

Mục lục:
VẤN ĐỀ 1: DI SẢN THỪA KẾ................................................................................................1
1.1 Ở Việt nam, di sản là gì và có bao gồm nghĩa vụ của người quá cố không? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời....................................................................................................................2
1.2 Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một tài sản
mới sau đó thì tài sản mới có là di sản không? Vì sao?..........................................................2
1.3 Để được coi là di sản, theo quy định của pháp luật, quyền sử dụng đất của người quá cố
có cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời................................................................................................................................3
1.4 Trong bản án số 08, Toà án có coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất là di sản không? Đoạn nào của bản án có câu trả lời......................4
1.5 Suy nghĩa của anh chị về hướng xử lý nêu trên củ Toà án trong Bản án số 08 về diện
tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất..................................................4
1.6 Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 392m2 đất, phần di dản của ông Phùng Văn N
là bao nhiêu? Vì sao?..............................................................................................................5
1.7 Theo Án lệ trên phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K có được
coi là di sản để chia không? Vì sao?.......................................................................................5
1.8 Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến phần diện tích
đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K..............................................................................5
1.9 Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cho cuộc sống của các con mà dùng tiền
đó cho cá nhân bà Phùng thị G thì số tiền đó có được coi là di sản để chia không? Vì sao?.6
1.10 Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích đất trên
là bao nhiêu? Vì sao?..............................................................................................................6
1.11 Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43.5m² có thuyết
phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao?...........................7
1.12 Việc Tòa án quyết định “còn lại 43,5m² được chia cho 5 kỷ phần còn lại” có thuyết
phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao?...........................7
VẤN ĐỀ 2: QUẢN LÝ DI SẢN................................................................................................8
2.1 Trong Bản án số 11, Tòa án xác định ai là người có quyền quản lý di sản của ông Đ và
bà T; việc xác định như vậy có thuyết phục không, vì sao?...................................................8
2.2 Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án có là người quản lý di sản
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời......................................................................................9
2.3 Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền quản lý di sản có
thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời..................................................................9
2.4 Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu sửa lại di sản như
trong Bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời....................................................10
2.5 Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại cho người khác
quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho con trai) không? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.............................................................................................................10
2.6 Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có quyền tự thỏa thuận
mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.11
VẤN ĐỀ 3: THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ....................................................12
3.1 Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam:.....................................13
3.2 Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào của Quyết định
tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?.............................................................13
3.3 Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản của cụ
T có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?.........................................14
3.4 Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản của cụ
T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được công bố có cơ sở
văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?...........................................................14
3.5 Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ số 26/2018/AL nêu trên :...............................................14
VẤN ĐỀ 4: TÌM KIẾM TÀI LIỆU.........................................................................................14
Yêu cầu 1..............................................................................................................................15
Yêu cầu 2..............................................................................................................................16
Tài liệu tham khảo:...................................................................................................................17
VẤN ĐỀ 1: DI SẢN THỪA KẾ.

Tóm tắt bản án số 08/2020/DSST của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh
Phúc.
Nguyên đơn: Ông Trần Văn Hòa
Bị đơn: Anh Trần Hoài Nam, Chị Trần Thanh Hương
Vấn đề tranh chấp: Tranh chấp thừa kế tài sản
Nội dung vụ việc: Bà Cao Thị Mai và Ông Trần Văn Hòa kết hôn với nhau năm 1980
và có hai con chung là Anh Trần Hoài Nam và chị Trần Thị Hương. Tài sản của ông
Hòa, bà Mai gồm: 1 căn nhà ba tầng, sân tường bao quanh và 1 lán bán hàng xây dựng
năm 2006, trên diện tích đất 169,5m2 (trong đó, dieejnc tích được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Hòa là 84m2, còn lại 85,5m2 ông Hòa đang sử
dụng ổn định và không có tranh chấp. Theo biên bản thẩm định tài sản và định giá tài
sản ngày 21/02/2020, tổng tài sản có trị giá là 6.127.665.000đ. Tài sản các đương sự
có tranh chấp: tiền cho thuê nhà và lán bán hàng từ tháng 03/2018 đến thời điểm xét
sử do ông Hòa đang quản lý, tiền cho thuê lán bán hàng của năm 2017,2018 do chị
Hương quản lý. Đối với đề nghị của anh Nam và chị Hương, yêu cầu xác định diện
tích đất 85.5m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền tài sản chung của gia đình, đề
nghị này không được Hội đòng xét sử chấp nhận. Đối với diện tích đất tăng 85,5m2
chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Hội đòng xét xử xem xét các
vấn đề để quyết định. Từ các lập luận trên, tổng giá trị tài sản chung của ông Hòa và
bà Mai là 6.151.614.500đ. Tài sản được hình thành trong thời kì hôn nhân và được
hình thành từ tài sản của hôn nhân nên được chia đôi cho ông Hòa và bà Mai mỗi
người ½ giá trị, tương đương với số tiền 3.075.807.250đ. Ngày 31/7/2017, bà Mai
chết và không để lại di chúc nên di sản của bà Mai được chia theo pháp luật. Hiện ông
Hòa đã lấy vợ mới, và đăng ký hộ khẩu tạm trú tại huyện Phú Ninh, tỉnh Phú Thọ, nhà
đất tranh chấp chủ yếu là cho thuê. Còn anh Nam đã đóng góp ½ giá trị để xây nhà.
Quyết định: Vì các lẽ trên, Tòa án quyết định cho ông Hòa số tài sản tổng trị giá
2.220.644.000đ, diện tích đất 38,4m2, ông Hòa có nghịa vụ liên hệ cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi đã thực hiện nghĩa vụ
thuế, cho anh Nam ngôi nhà, sân tường bao loan và quyền sử dụng diện tích đất có
liên quan đến ngôi nhà (đã được cấp giấy chứng nhận) cho anh Nam sử dụng và sở
hữu, tổng số tài sản trị giá 4.207.001.000đ; diện tích 47,1m2 anh Nam có nghĩa vụ
liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận sau khi đã thực hiện
nghĩa vụ thuế; chia cho chị Hương quyền sở hữu số tiền thuê 30.000.000đ, buộc anh
Nam thanh toán chênh lệch cho ông Hòa số tiền 1.880.412.000đ.
Tóm tắt ÁN lệ số 16/2017/AL

1
Nguyên đơn: chị Phùng Thị H1, chị Phùng Thị N1, chị Phùng Thị P, chị Phùng Thị
H2
Bị đơn: anh Phùng Văn T
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: chị Phùng Thị N2, chị Phùng Thị H3.
Nội dung: bà G (mẹ của các nguyên đơn) chuyển nhượng cho ông K 131m2 trên tổng
398m2 phần di sản của ông N (cha của các nguyên đơn). Việc bà G chuyển nhượng
đất cho ông K các của bà đều biết và không có ý kiến phân đối. Các con của bà G có
lời khai bà bán đất để lo cuộc sống của bà và các con, phần đất đó cũng đã được
chứng nhận. Phần di sản còn lại sẽ chia 1/2 và bà G để cho chị H1 90m? trong phần di
sản của mình tuy nhiên anh T vẫn đang giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên bà
G không tách đất cho chị H1 được vì thế chị H1 đã khởi kiện ra Tòa. Tòa án cấp phúc
thẩm không đưa diện tích đất bà Phùng Thị C đã bán cho ông Phùng Văn K vào khối
tài sản để chia là có căn cứ. Tòa án cấp sơ thẩm xác định di sản là tổng diện tích đất
398m2 (bao gồm cả phần đất đã bán cho ông Phùng Văn K) để chia là không đúng.

1.1 Ở Việt nam, di sản là gì và có bao gồm nghĩa vụ của người quá cố không? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời
- Ở Việt Nam, chưa có một định nghĩa chính xác di sản là gì. BLDS 2015 chỉ liệt
kê ra di sản bao gồm những gì “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết,
phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác” - Điều 612.
Như vậy, có thể hiểu di sản là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của cá nhân
mà họ để lại sau khi chết bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
- Hiện nay, vẫn có những tranh luận về việc xác định di sản có bao gồm nghĩa vụ
của người quá cố hay không. Ý kiến thứ nhất cho rằng di sản thừa kế bao gồm
tài sản và các nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại. Ý kiến thứ hai cho rằng
di sản thừa kế bao gồm tài sản và nghĩa vụ tài sản của người chết trong phạm vi
di sản để lại. Ý kiến thứ ba cho rằng di sản thừa kế chỉ là các tài sản của người
chết để lại sau khi đã thanh toán các nghĩa vụ tài sản của người chết.
- Khi một cá nhân chết, họ để lại 2 loại nghĩa vụ. Thứ nhất là nghĩa vụ gắn liền
với nhân thân, tức là nghĩa vụ mà bản thân người quá cố phải thực hiện. Do đó,
khi cá nhân chết thì nghĩa vụ gắn liền với nhân thân đương nhiên chấm dứt.
Thứ hai là nghĩa vụ gắn liền với tài sản, loại nghĩa vụ này không đương nhiên
chấm dứt mà chuyển sang cho người thừa kế - Điều 614 BLDS 2015. Bên cạnh
đó, khoản 1 Điều 615 BLDS 2015 quy định: “Những người hưởng thừa kế có
trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để
lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác”.
1.2 Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một tài
sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản không? Vì sao?
- Theo em, khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế
bởi một tài sản mới sau đó thì tài sản mới có thể là di sản. Trong thời gian tài
2
sản tồn tại, nó có thể sẽ bị tác động làm cho hư hỏng, tổn hại hoặc mất đi và
thay vào đó bằng tài sản mới. Vì thế việc tài sản cũ bị thay thế bởi một tài sản
mới sau đó sẽ nằm ngoài ý chí, mong muốn của những người được hưởng thừa
kế, cho nên tài sản mới có thể vẫn được xem là di sản và được chia thừa kế
theo quy định của pháp luật để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người
thừa kế, tạo điều kiện cho họ được hưởng phần tài sản có giá trị tương đương
với tài sản ban đầu.
1.3 Để được coi là di sản, theo quy định của pháp luật, quyền sử dụng đất của người
quá cố có cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Để được coi là di sản, theo quy định của pháp luật, quyền sử dụng đất của
người quá cố không cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Vì:
+ Theo khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai 2013 “Người sử dụng đất được thực
hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế,
tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có
các điều kiện sau đây:…”. Ngoài ra theo Điều 101 Luật Đất đai 2013, Điều 20
Nghị định 43/2014/NĐ-CP “đang sử dụng đất trước ngày 01/7/2014, có hộ
khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp,
nuôi trồng thủy sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn,
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, được Ủy ban nhân dân
cấp xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh”
hoặc “đã được sử dụng đất ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và
không vi phạm pháp luật về đất đai, được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là
đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết
xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch” thì vẫn đủ
điều kiện được cấp Giấy chứng nhận, vì vậy, những chủ thể này cũng có quyền
để thừa kế quyền sử dụng đất.
+ So với các hình thức chuyển quyền sử dụng đất khác thì có thể xem đây là
một sự ưu tiên dành cho người thừa kế quyền sử dụng đất. Vì hiện nay, người
sử dụng đất phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới được thực hiện
các quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho quyền sử dụng đất,
thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất (Điều 168 Luật Đất đai 2013).
Nguyên nhân của sự khác biệt này xuất phát từ bản chất của thừa kế quyền sử
dụng đất, đây là hành vi pháp lý đơn phương, không mang tính chất trao đổi,
chỉ phát sinh khi người sử dụng đấ chết mà sự sống chết của con người không
thể lường trước được, cho nên không thể yêu cầu họ phải có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất rồi mới được chết, cũng như không thể phủ nhận hoàn toàn
công sức tạo lập tài sản của họ khi còn sống chỉ với lý do không có Giấy chứng
nhận.

3
1.4 Trong bản án số 08, Toà án có coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản không? Đoạn nào của bản án có câu trả lời.
- Trong bản án số 08, Toà án coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất không là di sản. Câu trả lời nằm ở phần nhận
định của Toà án, đoạn “Gia đình ông Hoà đã xây dựng ngôi nhà 3 tầng,……Do
đó, đây vẫn là tài sản củ ông Hoà, bà Mai, chỉ có điều là đương sự phải thực
hiện nghĩa vụ thế đối với Nhà nước, nếu không xác định là di sản thừa kế và
phân chia thì sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của của các bên
đương sự. Phần đề nghị này của đại diện Viện kiểm sát nhân dân không được
Hội đồng xét xử chấp nhận”. Vì đề nghị không được chấp nhận nên Toà án
không coi đây là di sản.
1.5 Suy nghĩa của anh chị về hướng xử lý nêu trên củ Toà án trong Bản án số 08 về
diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Hướng xử lý của Tòa án trong bản án số 8 về diện tích đất chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là hợp lý, thuyết phục.
- Theo khoản 1,3 mục 1 phần II Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP quy định “
Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong
các loại giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 của mục 1
này nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (nhà bến, nhà tắm, nhà vệ
sinh, giếng nước,...) gắn liền với quyền sử dụng đất mà có yêu cầu chia di sản
thừa kế, thì cần phân biệt các trường hợp sau”, trong đó điểm b mục này quy
định trường hợp “không có văn bản Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác
nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng có văn bản của Uỷ ban nhân dân
cấp có thẩm quyền cho biết rõ việc sử dụng đất đó không vi phạm quy hoạch
và có thểm xem xét việc giao quyền sử dụng đất, thì Tòa án giải quyết yêu cầu
chia di dản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. Đồng thời phải xác định
ranh giới, tạm giao quyền sử dụng đất cho đương sự để Uỷ ban nhân dân cấp
có thẩm quyền tiến hành các thủ tục giao quyền sử dụng đất vầ cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đó cho đương sự theo quy định của pháp luật về đất
đại”. Mà qua tình tiết vụ án có thể nhận thấy vợ chồng ông Hòa không có văn
bản cụ thể, xác thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử
dụng đất đó là hợp pháp nhưng theo ông Nguyễn Ngọc Thu-đại diện theo pháp
luật của Uỷ ban nhân dân phường Đống Đa trình bày “Hộ ông Hòa đang sử
dụng diện tích đất tăng ổn định không thuộc diện quy hoạch di dời, không tranh
chấp”, thế nên điểm b Khoản 1.3 Mục 1 phần II Nghị quyết 02/2004/NQ-
HĐTP đã nêu trên có thể khẳng định Tòa án xác nhận phần đất tăng thêm thuộc
di dản thừa kế của gia đình onng Hòa là đúng pháp luật. Ngoài ra trên thực tế,
việc gia đình ông Hòa sử dụng phần đất tăng thêm mà không có tranh chấp với
những gia đình xung quanh có thể thấy họ cũng thừa nhận, không phản đối
quyền sử dụng đát của gia đình ông Hòa. Mà “nếu có chứng cứ chứng minh
người quá cố là người sử dụng hợp pháp trên thực tế quyền sử dụng đất thì nên

4
coi đó là di sản”. Vậy nên, hướng giải quyết của Tòa là phù hợpvới thực tiễn và
đúng pháp luật.
1.6 Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 392m2 đất, phần di dản của ông Phùng
Văn N là bao nhiêu? Vì sao?
- Ở Án lệ số 16/2017/AL, diện tích đất 398m2 trên thực tế đã không còn thuộc
quyền sở hữu toàn vẹn của gia đình nữa vì bà G đã chuyển nhượng cho ông
Phùng Văn K một phần diện tích đất là 131m2 và việc chuyển nhượng của bà G
không có sự phản đối của các con nên phần diện tích đất còn lại là 267,4m2.
Căn cứ vào Điều 634 Bộ luật Dân sự 2005 (hiện nay là Điều 612 Bộ luật Dân
sự 2015) quy định: "Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản
của người chết trong tài sản chung với người khác" thì việc bà G đứng tên
267m2 là tài sản được hình thành trong thời gian hôn nhân nên phải được xác
định là tài sản chung của hai vợ chồng nên bà G chỉ có quyền định đoạt 1/2
diện tích đất trong tổng diện tích 267m2 đất chung của vợ chồng nên phần di
sản của ông Phùng Văn N là 131m2.

1.7 Theo Án lệ trên phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K có
được coi là di sản để chia không? Vì sao?
- Theo Án lệ trên phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K
không được coi là di sản để chia.
- Vì:
+ Ông Phùng Văn K đã được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, do đó có cơ sở để xác định các con bà Phùng Thị G đã đồng ý để bà Phùng
Thị G chuyển nhượng diện tích 131m2 nêu trên cho ông Phùng Văn K.
+ Tòa án cấp phúc thẩm không đưa diện tích đất bà Phùng Thị G đã bán cho
ông Phùng Văn K vào khối tài sản để chia là hoàn toàn có căn cứ.
+ Tòa án cấp sơ thẩm xác định di sản là tổng diện tích 398m2 để chia là không
đúng vì không đủ chứng cứ xác thực đó là di sản để chia.

1.8 Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến phần diện
tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K.
- Trong Án lệ trên liên quan đến phần diện tích đã chuyển nhượng cho ông
Phùng Văn K, các con bà Phùng Thị G đều biết, nhưng không ai có ý kiến phản
đối gì, các con của bà Phùng Thị G có lời khai bà Phùng Thị G bán đất để lo
cuộc sống của bà và các con. Ông Phùng Văn K đã được cơ quan nhà nước cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, vậy nên có cơ sở để xác định các con bà
Phùng Thị G đã đồng ý để bà Phùng Thị G chuyển nhượng diện tích 131m2 nêu
trên cho ông Phùng Văn K.

5
- Về CSPL: Điều 500 Bộ luật Dân sự 2015 và Điều 223 Bộ luật Dân sự 2015 có
quy định về quyền sử dụng đất và giao tài sản.
- Tòa án công nhận hợp đồng do một người thừa kế xác lập mà không có sự
tham gia trực tiếp của những người thừa kế khác là hoàn toàn hợp lý và có căn
cứ vì tài sản đó ở thời điểm mở thừa kế nó là di sản, tuy nhiên phần di sản đó
đã được bán với sự đồng ý của những người thừa kế vì họ biết và họ không
phản đối đồng thời người mang tài sản đi giao dịch họ mang về phần tiền và
phần tiền đó lo cho cuộc sống của các đồng thừa kế. Do nó là tài sản đã chuyển
giao sở hữu cho người khác, không nằm trong khối tài sản được coi là di sản
còn lại, chính vì thế tòa án không đem ra để chia là hoàn toàn thuyết phục phù
hợp với các quy định về định đoạt tài sản cho người khác, phù hợp với các quy
định về di sản thừa kế.

1.9 Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cho cuộc sống của các con mà dùng
tiền đó cho cá nhân bà Phùng thị G thì số tiền đó có được coi là di sản để chia không?
Vì sao?
- Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà dùng
cho tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó không được coi là di sản
để chia.
- Vì:
+ Đó là tài sản chung của vợ chồng ông K bà bà G gồm 398m2 đất nên sau khi
ông K mất, không để lại di chúc thì tài sản chung này sẽ được chia đôi là 196m²
đất theo quy định tại Điều 66 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Theo quy
định tại điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 Bà G, các con chung của 2 vợ
chồng đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất nên đều được chia thừa kế như nhau.
+ Nếu bà G tự ý bán đất cho ông K mà không có sự đồng ý của các con và
dùng tiền đó cho cá nhân mình chứ không vì lợi ích của các con thì xem như bà
đã bán một phần đất của mình trong khối tài sản chung của hai vợ chồng. Việc
mua bán này sẽ không ảnh hưởng đến phần tài sản mà các đồng thừa kế khác
được hưởng.

1.10 Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích đất
trên là bao nhiêu? Vì sao?
- Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích
đất trên là 1/2 diện tích 267m2 đất tức 131m2.
- Vì:
+ Toà xét thấy tài sản mặc dù mang tên của bà Phùng Thị G nhưng vì được
hình thành trong thời kỳ hôn nhân nên phải xác định đây là tài sản chung của
vợ chồng ông K và bà G (CSPL: Khoản 1 Điều 33 Luật hôn nhân gia đình
2014).
6
+ Theo Điều 612 BLDS 2015 quy định: “Di sản bao gồm tài sản riêng của
người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.
Theo đó, di sản chính là các tài sản thuộc sở hữu của người để lại thừa kế lúc
họ còn sống. Đó có thể là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”, vì thế bà
Phùng Thị G chỉ có quyền định đoạt ½ diện tích đất trong tổng diện tích 267m2
đất chung của vợ chồng bà và khi bà G chết.

1.11 Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43.5m² có
thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao?
- Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m² là
không thuyết phục.
- Vì:
+ Di sản lúc này của ông N (đã trừ đi phần đất bán cho ông K) là 398-
131=267m2 :2 = 133,5m2 sẽ được chia đều cho hàng thừa kế thứ nhất (căn cứ
theo điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015) là bà G và 6 người con, nên phần
mà bà G nhận được là khoảng 19,07m2 (133,5:7). Vậy trên thực tế, phần di sản
mà bà G để lại (trừ đi phần diện tích bà cho chị H1) là: 133,5m2+ 19,07m2 -
90m2= 62,57m2
+ Đây không phải là nội dung của Án lệ 16 vì án lệ này chỉ có nội dung xoay
quanh việc công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản
thừa kế do một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng.

1.12 Việc Tòa án quyết định “còn lại 43,5m² được chia cho 5 kỷ phần còn lại” có
thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao?
- Việc Tòa án quyết định “còn lại 43,5m² được chia cho 5 kỳ phần còn lại” là
không thuyết phục.
- Vì:
+ Căn cứ vào quy định tại Điều 651 Bộ luật dân sự 2015 quy định về “Người
thừa kế theo pháp luật": 1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định
theo thứ tự sau đây: a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ,
cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
+ Chị Phùng Thị H1 cũng thuộc hàng thừa kế thứ nhất nên phần đất còn lại
43,5m2 phải được chia cho 6 người con thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Việc chị
Phùng Thị H1 được bà Phùng Thị G chia di sản theo di chúc không hề ảnh
hưởng đến quyền thừa kế của chị, bởi vậy Tòa án quyết định chỉ chia cho 05
người con còn lại đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi cho chỉ Phùng Thị H1.
- Đây không phải là nội dung của Án lệ số 16/2017/AL. Vì nội dung của Án lệ
số 16 nằm ở đoạn 2 phần Nhận định của Tòa án, là về việc công nhận hợp đồng

7
chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một trong các đồng thừa
kế chuyển nhượng. Các đồng thừa kế khác biết và không phản đối việc chuyển
nhượng đó. Số tiền nhận chuyển nhượng đã được dùng để lo cuộc sống của các
đồng thừa kế. Bên nhận chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Tức là về việc bà Phùng Thị G đã chuyển nhượng một phần quyền sử
dụng đất cho ông Phùng Văn K.

VẤN ĐỀ 2: QUẢN LÝ DI SẢN.

Tóm tắt Bản án số 11/2020/DS – PT ngày 10/06/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh
Sơn La “Tranh chấp quyền thừa kế”
Khi còn sống, ông Đ và bà T có một ngôi nhà đứng tên bà T, đến khi mất, vì không để
lại di chúc phân chia di sản, qua thời gian dài, ngôi nhà đã xuống cấp trầm trọng, các
con đều có nhà riêng, ông H và ông T đều đi chấp hành án. Sau khi anh H chấp hành
án xong, theo nguyện vọng của các anh chị, anh H muốn sửa lại ngôi nhà để làm nhà
thờ thì bị anh N (con ông T) ngăn cản với lý do có giấy ủy quyền của bố (ông T) với
nội dung ủy quyền cho anh N trông coi căn nhà đến ngày ông T chấp hành án xong.
Anh H khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc anh N và ông T để anh tiếp tục tu sửa căn nhà.
Tòa sơ thẩm cho phép anh H được quyền sửa chữa ngôi nhà, cấm tuyệt đối anh N cản
trở việc sửa chữa ngôi nhà. Anh N kháng cáo yêu cầu Tòa phúc thẩm sửa lại quan hệ
pháp luật thành “Tranh chấp di sản thừa kế”.
Tòa phúc thẩm sửa lại quan hệ pháp luật thành “Tranh chấp quyền quản lý di sản thừa
kế”, giấy ủy quyền trông coi của ông T cho anh N không có giá trị pháp lý, không
chấp nhận kháng cáo của anh N về việc bác quyền khởi kiện và quyền quản lý di sản
thừa kế của anh H. Anh H tiếp tục quản lý di sản.

2.1 Trong Bản án số 11, Tòa án xác định ai là người có quyền quản lý di sản của ông
Đ và bà T; việc xác định như vậy có thuyết phục không, vì sao?
Trong Bản án số 11, Tòa án xác định anh H là người có quyền quản lý di sản của ông
Đ và bà T. Việc xác định như vậy thuyết phục vì:
 Theo Khoản 2 Điều 616 BLDS 2015: “Trường hợp di chúc không chỉ định người
quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì
người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến
khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản”.
 Khi ông Đ và bà T mất thì không lập di chúc tài sản giao cho con cái nào trong gia
đình được sử dụng, quản lý ngôi nhà và diện tích nói trên. Vì vậy mà ngôi nhà lẫn
diện tích đất đều không thuộc quyền sở hữu và quản lý của bất kì ai

8
 Trong bản án, tất cả những thành viên còn lại ở hàng thừa kế thứ nhất đều đồng ý
giao cho anh Phạm Tiến H quản lý khối di sản của ông Đ, bà T. Vì vậy ông bà
Hiệu, Nhi, Nhường, Hài, Hoài, Liền đều có đủ năng lực hành vi dân sự, đây là một
giao dịch dựa trên nguyên tắc tự nguyện, không lừa dối, không vi phạm điều cấm
của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội, theo Khoản 2 Điều 3 BLDS 2015:
“2. Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của
mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận
không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện
đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.”

2.2 Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án có là người quản lý di
sản không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án là người quản lý di sản. Vì:
 Căn cứ theo Khoản 2 Điều 616 BLDS 2015: “Trường hợp di chúc không chỉ định
người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản
thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho
đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản.” Vào năm 2012, sau
khi bà T chết, ông Thiện là người trực tiếp sinh sống tại nhà và đất, ông Đ và bà T
mất lại không để lại di chúc giao cho con cái nào trong gia đình được sử dung, ủy
quyền quản lý ngôi nhà cũng như diện tích đất, do đó ngôi nhà và diện tích đất
không thuộc quyền quản lý của ai. Vì vậy sau 1 thời gian đi chấp hành án, ông
Thiện đã không còn minh chứng cho việc sinh sống và quản lý ở đấy, quyền dở
hữu cũng như quản lý lúc này phải áp dụng theo trường hợp khác của luật quy
định.

2.3 Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền quản lý di sản
có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Thuyết phục vì:
 Theo Khoản 2 Điều 3 BLDS 2015: “2. Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện,
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết,
thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không
trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể
khác tôn trọng.”
2.4 Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu sửa lại di
sản như trong Bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu sửa lại di
sản như trong Bản án số 11. Căn cứ khoản b Điều 617 BLDS 2015: “b) Bảo
quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định
đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý

9
bằng văn bản;” thì nhiệm vụ người quản lý di sản theo chủ định trong di chúc
hay theo thỏa thuận của những người thừa kế hoặc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quản lý có nghĩa vụ bảo quản di sản, tu sửa, nếu không được những
người thừa kế đồng ý bằng văn bản. Trên cơ sở quản lý người này phải thông
báo về tình trạng di sản cho những người thừa kế. Nếu làm mất mát, hư hỏng
thì phải bồi thường thiệt hại, giao lại di sản theo yêu cầu người thừa kế.
- Ông H đã theo nguyện vọng các chị em trong nhà giao cho quyền quản lý tu
sửa ngôi nhà để làm nơi thờ cúng chứ không phân chia. Ông H là người quản lý
di sản dựa theo sự thỏa thuận của những người đồng thừa kế đồng ý ủy quyền
cho ông đứng ra trông coi, sửa chữa, tôn tạo lại đất đai, tài sản, nên ông H có
đủ điều kiện để quản lý di sản.
2.5 Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại cho người khác
quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho con trai) không? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Căn cứ khoản 1, 2 Điều 616 BLDS 2015:
“1. Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người
thừa kế thỏa thuận cử ra.
2. Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế
chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản
tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di
sản.”
- Trong Bản án số 11 ông Thiện giao lại cho con trai là không đúng. Vì sau khi
bà T chết, ông Thiện đúng là người trực tiếp sinh sống tại nhà và đất, cũng như
nắm giữ quyền quản lý di sản của 2 ông bà Đ và T. Khi ông Thiện đi chấp hành
án, có giao lại cho Nghĩa – con trai ông trông coi di sản ông bà. Tuy nhiên theo
khoản 1 Điều 616 BLDS 2015.
“1. Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người
thừa kế thỏa thuận cử ra.”
2 ông bà Đ và T không để lại bất kì di chúc chia di sản nào -> Con trai ông Thiện
không nằm trong di chúc để quản lý di sản”.
Trường hợp những người thừa kế thỏa thuận lại không có. Ông Thiện không được sự
nhất trí bằng văn bản của các đồng thừa kế.
 Ông Thiện không có quyền giao lại cho anh Nghĩa trông coi, sử dụng di sản
của ông bà Đ, T.

Tóm tắt Quyết định số 147/2020/DS-GĐT ngày 09/7/2020 của Tòa án nhân dân
cấp cao tại TP.HCM.

10
Nguyên đơn: ông Trà Văn Đạm
Bị đơn: Phạm Văn Sơn Nhỏ
Về việc: tranh chấp lối đi
Nội dung Diện tích 1.497 m2 đất thuộc số 528, tờ bản đồ HTC2 tọa lạc tại đội 3, ấp
Hậu Thuận, xã Hậu Thành, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang được UBND huyền Cái Bè
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông Đạm đại diện hộ gia đình đứng tên.
Thửa đất này nằm phía trong thửa 525 của ông Phạm Văn Ngót do ông Phạm Văn Sơn
Nhỏ quản lý, sử dụng. Giữa ông Đạm và ông Nhỏ có thỏa thuận cho ông Đạm mở một
lối đi từ đất của ông Đạm qua đất của ông Ngót đến đường đi công cộng rộng 2m dài
21m. Ông Đạm chịu chi phí bơm cát lấp 1 ao, 1 mương làm lối đi, đặt bọng nước, làm
hàng rào và đổ 2 khối cát, 2 khối đá, đưa tiền mặt 1.000.000 đồng để ông Nhỏ làm
cống rào tại nhà của ông Nhỏ. Ông Đạm thực hiện xong thỏa thuận với chi phí
42.205.000 đồng. Nay ông Đmj khởi kiện yêu cầu ông Nhỏ và bà Chơi cùng những
người cùng hành thừa kế với ông Nhỏ xin mở lối đi ngang 1.5m dài 21m qua đất ông
Ngót tại thửa đất 525 nêu trên.

2.6 Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có quyền tự thỏa
thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.
- Trong quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có quyền tự
thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di sản là thuyết phục vì căn cứ theo
điểm b khoản 1 Điều 617 BLDS 2015 thì “người quản lý di sản có nghĩa vụ
bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc
định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế
đồng ý bằng văn bản.”
- Thửa đất số 525 nêu trên là tài sản chung của ông Ngót và bà Chơi tạo dựng
trong thời kỳ hôn nhân. Ông Nhỏ chỉ là người quản lý di sản của ông Ngót và
phần diện tích đất thuộc quyền sử dụng của bà Chơi, chứ ông Nhỏ không có
quyền định đoạt. Tuy nhiên,ông Nhỏ lại tự ý thỏa thuận cho ông Đạm mở lối đi
khi không được sự đồng ý của bà Chơi cùng các đồng thừa kế thứ nhất của ông
Ngót. Do đó, ông Ngót đã vi phạm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 617
BLDS 2015.
- Thêm vào đó, theo điểm b khoản 2 Điều 167 Luật Đất đai 2018:
“b) Trường hợp nhóm người sử dụng đất mà quyền sử dụng đất phân chia được theo
phần cho từng thành viên trong nhóm, nếu từng thành viên của nhóm muốn thực hiện
quyền đối với phần quyền sử dụng đất của mình thì phải thực hiện thủ tục tách thửa
theo quy định, làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất và được thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử
dụng đất theo quy định của Luật này;

11
Trường hợp quyền sử dụng đất của nhóm người sử dụng đất không phân chia được
theo phần thì ủy quyền cho người đại diện để thực hiện quyền và nghĩa vụ của nhóm
người sử dụng đất.”
- Và theo Khoản 1 Điều 168 Luật Đất đai 2018 thì: “Trường hợp nhận thừa kế
quyền sử dụng đất thì người sử dụng đất được thực hiện quyền khi có Giấy
chứng nhận hoặc đủ điều kiện để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.”
- Có thể nhận thấy, ông Nhỏ chỉ là người quản lý di sản do ông Ngót để lại,
không có quyền định đoạt tài sản. Trên thực tế, phần tài sản là thửa đất 525
thuộc quyền sử dụng của bà Chơi và cũng không có bất kỳ một văn bản hay
loại giấy tờ có công chức nào chứng thực ông Nhỏ có quyền định đoạt hay sử
dụng đất thửa số 525. Do đó, việc Tòa án xác định ông Nhỏ không có quyền tự
thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di sản là thuyết phục và dựa trên cơ sở
pháp lý là hợp tình hợp lý.

VẤN ĐỀ 3: THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ.


Tóm tắt Án lệ số 26/2018/AL về xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu và thời
hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế là bất động sản:
Đại diện nguyên đơn: Bà Cấn Thị N2.
Bị đơn: Cụ Nguyễn Thị L và ông Cấn Anh C.
Nội dung: Cụ K, cụ T tạo lập 612m2 đất, trên đất có 2 căn nhà 3 gian. Năm 1972 cụ T
chết, toàn bộ nhà đất do cụ K và cụ L quản lý. Năm 1973, cụ K kết hôn với cụ L sinh
được 4 người con là Cấn Thị C, Cấn Thị M2, Cấn Anh C và Cấn Thị T2. Trong quá
trình quản lý, sử dụng nhà đất, vợ chồng cụ K có cải tạo và xây dựng lại một số công
trình phụ, tường ba. Năm 2002, Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đứng tên hộ cụ K, thời điểm này hộ cụ K có 06 người gồm: Cụ K, cụ L, ông T, bà M2,
bà T2 và ông C. Cũng năm 2002, cụ K chết, khối tài sản này do cụ L và ông C quản
lý. Cụ K và cụ T chết không để lại di chúc. Các đồng nguyên đơn là con cụ K với cụ T
khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung của cụ T và chia di sản thừa kế của cụ K theo quy
định của pháp luật, trong đó bà N1, bà N2, bà M1, bà T1, bà H, ông T, bà C và bà
Nguyễn Thị M (vợ ông S) đề nghị chia phần ông, bà được hưởng giao lại cho ông V
làm nơi thờ cúng cha mẹ, tổ tiên. Bị đơn là cụ L và ông C đề nghị giải quyết theo quy
định của pháp luật.
Quyết định:
Tại Bản án sơ thẩm: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông V, bà N1, bà T1, bà H, ông
T, bà N2, bà M1.
Tại Bản án phúc thẩm: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông V, bà N1, bà
T1, bà H, ông T, bà N2, bà M1.

12
3.1 Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam:
Căn cứ Điều 623 BLDS 2015. Thời hiệu thừa kế
“1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10
năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc
về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang
quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236
của Bộ luật này;
b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a
khoản này.
2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ
quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại
là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".

3.2 Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào của Quyết
định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?
- Thời điểm mở thừa kế đối với di sản di sản của cụ Phạm Thị Thịnh là thời điểm
cụ Thịnh chết là năm 2007.
- Trong Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL có đoạn: “Như vậy kể từ
ngày
- Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, Tòa án áp dụng quy định tại
Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định thời hiệu đối với trường hợp
mở thừa kế ngày 01-01-2017. Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh
thừa kế ngày 30-8-1990 và Bộ luật Dân sự năm 2015, trong trường hợp này
thời hiệu khởi kiện chia di sản của cụ T cho các đồng thừa kế vẫn còn theo quy
định của pháp luật”. (Đoạn 7 Nhận định của Tòa án).

3.3 Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản
của cụ T có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?
- Trong án lệ 26/2018/AL được áp dụng thời hiệu là 30 năm trong BLDS 2015
cho di sản của cụ T có cơ sở văn bản rất thuyết phục.
- Vì:
+ Theo quy định tại khoản 1 Điều 623 BLDS 2015 (có hiệu lực thi hành từ
ngày 01- 01-2017), thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm
đối với bất động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Theo quy định tại điểm d

13
khoản 1 Điều 688 BLDS 2015, đối với giao dịch dân sự được xác lập trước
ngày Bộ luật Dân sự này có hiệu lực, thì thời hiệu được áp dụng theo quy định
của Bộ luật này.

3.4 Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản
của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được công
bố có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?

- Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di
sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990
được công bố thì không có cơ sở văn bản nhưng theo tôi, nó thuyết phục hơn
việc chỉ áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 mà không kèm theo quy
định nào khác. Theo khoản 4 Pháp lệnh thừa kế năm 1990: “Điều 36 Thời hiệu
khởi kiện về thừa kế về “Đối với các việc thừa kế đã mở trước ngày ban hành
Pháp lệnh này thì thời hạn quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này được tính từ
ngày công bố Pháp lệnh này”.
- Với khoản 4 Điều 36 của Pháp lệnh thừa kế thì thay vì riêng BLDS 2015 không
quy định rõ về trường hợp không phải giao dịch dân sự và thời điểm mở thừa
kế thực chất đã bắt đầu từ trước cả Pháp lệnh thì thừa kế sẽ lại được tính từ
ngày công bố Pháp lệnh này và tính tới thời điểm hiện tại, theo việc áp dụng
thời hiệu 30 năm của BLDS thì việc yêu cầu chia di sản vẫn còn hiệu lực.

3.5 Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ số 26/2018/AL nêu trên :


Qua Án lệ 26/2018/AL, chúng ta có thể thấy: Vì có sự thay đổi giữa các thế hệ, nên
Tòa án còn gặp nhiều sự khó khăn trong việc áp dụng pháp luật về vấn đề thời hiệu
thừa kế, đặc biệt là đối với bất động sản. Đây là một án lệ hết sức thực tế và thường
xảy ra.

VẤN ĐỀ 4: TÌM KIẾM TÀI LIỆU.

Yêu cầu 1: Liệt kê những bài viết liên quan đến pháp luật về tài sản và pháp luật về
thừa kế được công bố trên các Tạp chí chuyên ngành Luật từ đầu năm 2020 đến nay.
Khi liệt kê, yêu cầu viết theo trật tự theo tên tác giả và việc liệt kê phải thỏa mãn
những thông tin theo trật tự sau: 1) Họ và tên tác giả, 2) Tên bài viết để trong dấu
ngoặc kép, 3) Tên Tạp chí in nghiêng 4) Số và năm của Tạp chí, 5) Số trang của bài
viết (ví dụ: từ tr.41 đến 51). Các bài viết được liệt kê theo alphabet tên các tác giả
(không nêu chức danh).

14
1. Nguyễn Phương Anh, “Xử lý vật chứng vụ án hình sự là tài sản thế chấp”, Tạp
chí Nghiên cứu Lập pháp, số 1(401)/Kỳ 01, tháng 01/2020, từ tr.50 đến 56.
2. Vương Văn Bép - Nguyễn Thị Hồng Yến, “Những lưu ý trong kiểm sát việc
giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài liên quan đến các tranh chấp hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tranh chấp thừa kế”, Tạp chí Kiểm
sát, Số 03/2021, tr.37 đến 45.
3. Nguyễn Viết Giang, “Bàn về vấn đề thừa kế và thừa kế thế vị giữa con riêng và
bố dượng, mẹ kế theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015”, Tạp chí Toà án
nhân dân, số 7-2020, tr.23 đến 24.
4. Bùi Thị Huyền, “Một số vấn đề tố tụng pháp luật dân sự phát sinh từ thực tiễn
giải quyết tranh chấp hợp đồng về quyền sử dụng đất”, Tạp chí khoa học pháp
lý Việt Nam, số 03/2022, từ Tr.41 đến 49.
5. Vũ Thị Thanh Huyền, “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hiệu lực củahợp
đồng chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, Số 1(346)-2021, tr,12 đến 17.
6. Nguyễn Vinh Hưng, “Về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di
chúc”, Tạp chí Kiểm sát, Số 02/2021, tr.38 đến 41.
7. Phạm Thị Huệ, “Những tác động của hệ thống pháp luật về kiểm soát tài sản,
thu nhập đến công tác phòng, chống buôn bán động vật hoang dã trái pháp
luật”, Tạp chí Nội chính, Số 82(10/2020), tr.29 đến 33.
8. Phan Huy Hồng, “Bảo đảm sở hữu trong luật Đức”, Tạp chí Khoa học Pháp Lý,
Số 4/2020, tr.15 đến 30.
9. Phùng Văn Hải, “Xác định các căn cứ pháp lý để tính toán lợi ích gắnliền với
việc sử dụng, khai thác một số loại tài sản”, Tạp chí Nghề luật, Số10/2020 -
Năm thứ Mười Lăm, tr.28 đến 33.
10. Nguyễn Thị Hường, “Thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 6-2020, tr.18 đến 24.
11. Nguyễn Quý Khuyến, “Về việc sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông
phương tiện điện tử từ thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”, Tạp chí Kiểm sát,
Số 09/2020, tr.37 đến 42.
12. Võ Hoàng Khải - Võ Tuấn, “Bàn về xác định thiệt hại đối với tài sản bị xâm
phạm là di vật, cổ vật”, Tạp chí Kiểm sát, Số 07/2021, tr.54 đến 57.
13. Phạm Văn Lợi, “Một số tranh chấp phổ biến liên quan đến tình trạng pháp lý
của tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất từ thực tiễn giám đốc thẩm, tái thẩm
tại Tòa án nhân dân tối cao”, Tạp chí Nghề luật, Số09/2020 – Năm thứ Mười
Lăm, tr.3 đến 6.
14. Nguyễn Thị Long, “Nâng cao công tác xét xử tranh chấp hợp đồng vay tài
sản”, Tạp chí Nội chính, Số 79(7/2020), tr.36 đến 40.
15. Phan Thành Nhân, “Người thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật Dân sự 2015”.
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 12/2020, tr. 39 đến 45.
16. Phùng Bích Ngọc, “Hoàn thiện quy định pháp luật về di chúc có điều kiện”,
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số 11(344)-2020, tr.19 đến 23.

15
17. Nguyễn Thanh Phúc, “Quyền đòi lại tài sản của chủ sở hữu theo quy định tại
Điều 167 và 168 Bộ luật Dân sự 2015”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số
3/2020, tr.29 đến 36.
18. Nguyễn Thanh Thư, “Hình thức di chúc miệng”, Tạp chí khoa học Pháp lý, Số
2/2020, tr.23 đến 31.
19. Nguyễn Thanh Tú, “Một số vấn đề pháp lý về quyền sở hữu tài sản từ góc độ
tài sản mã hóa trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, Tạp chí
khoa học Pháp lý, Số 4/2020, tr.1 đến 14.
20. Nguyễn Thế Đức Tâm – Lê Bảo Khanh, “Thừa kế theo pháp luật giữa anhchị
em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha”, Tạp chí Toà án nhân dân
online, 09/4/2020.
21. Nguyễn Thị Thu Trang - Châu Thanh Quyền, “Quyền và nghĩa vụ của vợ
chồng về tài sản đối với người thứ ba khi ly hôn”, Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật, Số 12(345) - 2020, tr.50 đến 54.
22. Phạm Minh Tuyên, “Vướng mắc trong việc định tội và định khung hình phạt
với một số tội xâm phạm sở hữu”, Tạp chí Kiểm sát, Số 23/2020, tr.44 đến 48.
23. Quách Hữu Thái, “Một số vướng mắc, bất cập khi giải quyết các vụ ánvề chia
thừa kế và kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 1-2021, tr.19
đến 24.
24. Quách Hữu Thái, “Xác định di sản và phân chia di sản thừa kế trong Bộluật
Dân sự 2015 - một số vướng mắc, bất cập và kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí
Toà án nhân dân, số 23-2020, tr.18 đến 23.
25. Nguyễn Thị Hồng Vân, “Một số vấn đề về người làm chứng cho việc lập di
chúc”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số 2(335)-2020, tr.15 đến 19.
26. Phạm Minh Tuyên, “Vướng mắc trong việc định tội và định khung hình phạt
với một số tội xâm phạm sở hữu”, Tạp chí Kiểm sát, Số 23/2020, tr.44 đến 48.

Yêu cầu 2: Cho biết làm thế nào để tìm được những bài viết trên.
Những bài viết trên được tìm kiếm ở các tạp chí trung tâm thư viện Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh.

Tài liệu tham khảo:


- Bộ luật Dân sự 2015
- Luật Đất đai 2013
- Nghị định 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ
- https://luatsuphamtuananh.com/di-chuc---thua-ke/dieu-kien-de-thua-ke-quyen-
su-dung-dat/#:~:text=V%E1%BB%81%20b%E1%BA%A3n%20ch%E1%BA

16
%A5t%20di%20s%E1%BA%A3n,l%C3%A0%20di%20s%E1%BA%A3n
%20th%E1%BB%ABa%20k%E1%BA%BF.
- Đỗ Văn Đại, Luật Thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận, Nxb Hồng Đức-Hội
Luật gia Việt Nam 2019 (xuất bản lần thứ tư), tr70.

17

You might also like