Professional Documents
Culture Documents
là phải tìm ra một con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn VN. Trong bối cảnh đó, Hồ Chí Minh đã có những bước đi thích
là phải tìm ra một con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn VN. Trong bối cảnh đó, Hồ Chí Minh đã có những bước đi thích
1. Thời kỳ hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng (trước năm
1911)
2. Thời kỳ xác định con đường cứu nước, giải phóng dân tộc (1911 – 1920)
3. Thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành về cơ bản (1920-1930)
4. Thời kỳ Hồ Chí Minh gặp những khó khăn, thử thách và sự kiên định của
Người về cách mạng Việt Nam (1930-1941)
5. Thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, hoàn thiện soi đường
cho sự nghiệp cách mạng của đảng và nhân dân ta (1941-1969)
Trong 5 giai đoạn phát triển đó, giai đoạn từ 1920 đến 1930 giữ một vai trò
đặc biệt quan trọng với 10 năm hoạt động sôi nổi nhất, quyết liệt nhất của
Hồ Chí Minh. Bởi nếu nội dung chính của Tư tưởng Hồ Chí Minh “là một hệ
thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam” thì giai đoạn này chính là giai đoạn hình thành những tư tưởng cơ
bản đó.
I. Về tình hình trong và ngoài Việt Nam lúc bấy giờ
Vào cuối thế 19, đầu thế kỉ 20, Chủ nghĩa tư bản (CNTB) trên thế giới
đã phát triển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa. Phần lớn các nước Châu Á, Mỹ Latinh,… đã trở thành
thuộc địa và phụ thuộc vào các nước đế quốc như Anh, Mỹ, Pháp ,
Đức, Tây Ban Nha,… Điều này đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn vốn có
trong lòng chủ nghĩa tư bản là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp
vô sản, giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc.
Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, thắng lợi đầu tiên của chủ
nghĩa Mác-Lê nin đã mở ra một thời đại mới cho nhân loại: thời đại
cách mạng vô sản (CMVS) và cách mạng giải phóng dân tộc (GPDT).
Phong trào cách mạng trên thế giới phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy: từ
CMVS ở các nước chính quốc (Anh, Pháp, Đức…) đến cách mạng GPDT
ở các nước thuộc địa và phụ thuộc (Trung Quốc, khu vực Đông Nam Á,
Mỹ La tinh…).
Việt Nam: Cách mạng VN cũng có nhiều bước phát triển trong trào
lưu chung của cách mạng thế giới. Tuy nhiên, rất nhiều phong trào
đấu tranh cứu nước dù theo khuynh hướng phong kiến hay tư sản, tiểu
tư sản tuy có anh dũng nhưng đều thất bại trước sự đàn áp của thực
dân Pháp. Sự bất lực của những phong trào ấy đã chứng tỏ sự bế tắc về
đường lối và giai cấp lãnh đạo cách mạng. Nhu cầu cấp bách của dân tộc
là phải tìm ra một con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với thực
tiễn VN. Trong bối cảnh đó, Hồ Chí Minh đã có những bước đi thích
hợp để tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc. Và những
sự kiện nóng bỏng của tình hình thế giới cũng như trong nước là một nhân
tố có tác động không nhỏ đến việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
II. Những mốc sự kiện chính trong thời kì này
Từ 1920 đến 1930: tháng 7/1920, Hồ Chí Minh đọc Sơ thảo Lần thứ
nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Đây là một
sự kiện có tác động lớn đến khuynh hướng cứu nước của Người về sau.
Cùng với những nhà hoạt động cách mạng của các dân tộc thuộc địa Pháp,
Hồ Chí Minh thành lập “Hội liên hiệp thuộc địa”(1921) và xuất bản tờ
Người cùng khổ (Le Paria)(1922).
Từ năm 1923 đến 1924: Hồ Chí Minh sang Liên Xô, lúc đầu để tham
dự Hội nghị Quốc tế Nông dân và được bầu vào Đoàn Chủ tịch. Sau
đó Người được lưu lại và tham quan triển lãm kinh tế quốc dân Liên Xô,
tận mắt chứng kiến những thành tựu về mọi mặt của nhân dân Liên Xô,
sau đó vào học lớp bồi dưỡng tại trường Đại học Phương Đông.
Năm 1924, Hồ Chí Minh tham dự Đại Hội V Quốc tế Cộng sản. Sau
đó, Người còn lần lượt tham dự Đại hội Quốc tế Thanh niên, Quốc tế Cứu
tế đỏ, Quốc tế Công hội đỏ.
Cuối năm 1924, Hồ Chí Minh đến Quảng Châu (Trung Quốc) chỉ đạo
phong trào cách mạng và nông dân ở Trung Quốc và 1 số nước châu Á.
Sau đó, Người đã lập nên 2 cột mốc lịch sử quan trọng của cách mạng
Việt Nam. Đó là, sáng lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, tiền
thân Đảng Cộng sản VN (6/1925), ra báo Thanh niên làm cơ quan
ngôn luận của Hội. Những bài giảng của Người được tập hợp thành
cuốn “Đường kách mệnh” (1927), năm 1930, sáng lập nên Đảng Cộng
sản VN và cho ra đời Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2/1930
- Hội nghị Hợp nhất).
III. Những tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành trong giai đoạn 1920 -
1930.
A. Tư tưởng về con đường cách mạng giải phóng dân tộc.
Mục tiêu của cách mạng trong thời kỳ này được xác định là theo con
đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải
phóng nhân dân lao động, giai cấp công nhân; phải kết hợp độc lập
dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: “Chỉ có
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị
áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Cách mạng
Việt Nam phải có chủ nghĩa Đảng cộng sản với chủ nghĩa Mác - Lênin
làm lãnh đạo. Hồ Chí Minh cũng đã làm rõ mục tiêu cách mạng và con
đường cách mạng là: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới cộng sản”; “đánh đổ đế quốc Pháp, phong kiến
An Nam, và giai cấp tư sản phản cách mạng”.
Bản chất cách mạng cũng được xác định cụ thể hơn, đó là cuộc “dân tộc
cách mệnh”, đánh đuổi đế quốc xâm lược và giành lại độc lập tự do.
Người đã nhìn ra mâu thuẫn cơ bản của một xã hội thuộc địa - mâu thuẫn
dân tộc. Vì vậy, trước tiên phải đánh đuổi được giặc ngoại xâm và thành
lập chính quyền của dân.
Phương pháp để giành lại chính quyền và độc lập là bằng bạo lực quần
chúng và có thể bằng phương thức khởi nghĩa dân tộc. Bởi lẽ, chúng
ta phải dựa vào chính sức của mình, bằng bạo lực của quần chúng nhân
dân, chứ không thể ỷ lại và trông chờ vào bên ngoài.
B. Tư tưởng về mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng chính
quốc, cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới.
Cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có quan hệ
mật thiết với nhau: Cách mạng thuộc địa không phụ thuộc vào cách
mạng ở chính quốc, mà có tính chủ động, độc lập. Cách mạng thuộc địa
có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng chính quốc, và có thể giúp
cách mạng ở chính quốc trong nhiệm vụ giải phóng.
Xuyên suốt quá trình hoạt động thực tiễn sôi nổi trong phong trào công
nhân quốc tế của Hồ Chí Minh giai đoạn 1920 – 1930, tinh thần đoàn kết
quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành cũng là sự kế thừa
tinh thần của Quốc tế cộng sản.
Năm 1921, Hồ Chí Minh khi ấy đang hoạt động ở Pháp đã cùng một số
nhà cách mạng của Angiêri, Tuynidi, Marốc, Mađagaxca… thành
lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa. Hội đã ra báo Người cùng khổ,
rồi bí mật chuyển về các thuộc địa.
Tiếp đó, năm 1927, Hồ Chí Minh lại thành lập Hội liên hiệp các dân
tộc bị áp bức á đông tại Trung Quốc.
Hồ Chí Minh cũng thường đi sâu vào phong trào công nhân, thợ thuyền
của các địa phương đó. Từ đó có được sự cảm thông, và Người dễ dàng
tiếp nhận và hưởng ứng tinh thần của Quốc tế cộng sản “Vô sản toàn
thế giới liên hiệp lại”. Cùng với sự phát triển của phong trào cách mạng
quốc tế, nội hàm của lời kêu gọi ấy được bổ sung: “Vô sản và các dân tộc
bị áp bức toàn thế giới liên hiệp lại”.
Trong quá trình soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
năm 1930 cũng như suốt quãng thời gian lãnh đạo về sau, Hồ Chí
Minh đều khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới, và Người yêu cầu phải đoàn kết chắt chẽ cùng vô sản
thế giới, nhất là vô sản Pháp.