Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 18

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

MÔN HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN

MÃ HỌC PHẦN : INE 3065 4

Học kỳ II năm học 2022-2023

CHỦ ĐỀ 6 : ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ VÀ TÀI CHÍNH CHO NĂNG
LƯỢNG SẠCH VIỆT NAM

Giảng viên : TS. Lê Khánh Cường


Th.S. Lò Thị Hồng Vân

Sinh viên : Đặng Minh Thư - 20051369 Lớp : QH-2020 KTPT 3


Nguyễn Ngọc Huyền - 20051279
Cao Nguyễn Thuỳ Chi - 20051227
Hà Thị Khánh Ngân - 20051315
Lê Văn Tuấn - 19050541

HÀ NỘI, 2/2023
CHỦ ĐỀ 6 : ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ VÀ TÀI CHÍNH CHO NĂNG
LƯỢNG SẠCH VIỆT NAM

------------------------------

I. BỐI CẢNH CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ VÀ TÀI CHÍNH CHO NĂNG LƯỢNG
SẠCH VIỆT NAM

1.1. Giới thiệu chung

Việt Nam đã trở thành thị trường năng lượng tái tạo hàng đầu trong khu vực trong một
thời gian ngắn nhờ việc thiết lập cơ chế thuận lợi đối với đầu tư tư nhân. Các chính sách ưu
đãi mạnh mẽ đã tạo động lực phát triển bùng nổ ngành năng lượng mặt trời, đồng thời thu
hút nguồn đầu tư vào tiềm năng tài nguyên tái tạo dồi dào của đất nước. Bên cạnh đó, Việt
Nam là một nền kinh tế có mức tiêu hao năng lượng cao, do đó, những nỗ lực cải thiện hiệu
quả năng lượng trong các chương trình điều chỉnh thị trường sắp tới sẽ tạo tiềm năng khai
thác nhiều lợi ích kinh tế mới. Đánh giá chính sách đầu tư và tài chính năng lượng sạch của
Việt Nam cung cấp một cái nhìn tổng quan toàn diện về khung chính sách hiện tại, nêu bật
tiến độ và xác định các cơ hội chưa được khai thác để cải thiện các chính sách can thiệp giúp
mở rộng quy mô đầu tư và tài chính cho năng lượng sạch.

1.2. Các chính sách phát triển đầu tư và tài chính cho năng lượng sạch Việt Nam

Chính phủ Việt Nam được đánh giá cao trong việc thiết lập các chính sách ưu tiên phát
triển năng lượng sạch và gần đây đã có nhiều bước tiến tạo đà thúc đẩy Việt Nam trở thành
thị trường năng lượng tái tạo lớn nhất khu vực chỉ trong một vài năm.

Mục tiêu tổng quát phát triển năng lượng là bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc
gia; cung cấp đầy đủ năng lượng ổn định, có chất lượng cao với giá cả hợp lý cho phát triển
kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống của
nhân dân, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái…. Khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận
lợi để các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân tham gia phát triển năng lượng; kiên
quyết loại bỏ mọi biểu hiện bao cấp, độc quyền, cạnh tranh không bình đẳng, thiếu minh
bạch trong ngành năng lượng.

Các chính sách ưu đãi mạnh mẽ đã tạo động lực phát triển bùng nổ ngành năng lượng mặt
trời, đồng thời thu hút nguồn đầu tư vào tiềm năng tài nguyên tái tạo dồi dào của đất nước
trong đó nổi bật là cách chính phủ xây dựng khung pháp lý, các chính sách đầu tư và tài
chính.

Chính sách đầu tư và cạnh tranh

Chính phủ Việt Nam hỗ trợ đầu tư vào chương trình hiệu quả năng lượng, bao gồm các
hoạt động ở cấp tỉnh thông qua việc thực hiện các kế hoạch hành động về sử dụng năng
lượng hiệu quả cấp tỉnh và tăng cường tập trung vào việc thực thi pháp luật. Quá trình triển
khai mở rộng nguồn năng lượng tái tạo tại Việt Nam đã thúc đẩy làn sóng đầu tư tư nhân
theo hình thức nhà máy điện độc lập (IPP), từ đó nâng tỷ lệ sở hữu tư nhân về công suất lắp
đặt từ 20% năm 2018 lên 30% vào năm 2020. Trong bối cảnh thị trường năng lượng tái tạo
ngày một trưởng thành, Việt Nam sẽ cần tiếp tục hỗ trợ cạnh tranh và tiếp cận bình đẳng
giữa các đơn vị phát triển tư nhân với các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là với Điện lực
Việt Nam (EVN), đơn vị giữ vị trí thống lĩnh toàn ngành điện. Hoàn thiện khung đấu thầu
cạnh tranh các dự án năng lượng tái tạo trong thời gian tới, vận hành chính thức thị trường
bán buôn điện cạnh tranh, tiếp tục cổ phần hóa các tổng công ty phát điện thuộc EVN và tăng
cường tính độc lập của Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc gia (NLDC) sẽ là những dấu
mốc quan trọng tạo nên một sân chơi bình đẳng giữa EVN và các đơn vị phát điện tái tạo độc
lập (RE-IPP).

Xúc tiến và tạo thuận lợi đầu tư

Chính phủ Việt Nam đã dành những sự ủng hộ lớn lao cho việc xúc tiến và tạo điều kiện
đầu tư vào ngành năng lượng sạch. Những hành động quyết liệt nhằm giảm trợ cấp trực tiếp
cho nhiên liệu hóa thạch cùng với các kế hoạch đổi mới thúc đẩy phát triển thị trường carbon
trong nước đã giúp đảm bảo nguồn vốn được hướng đến những dự án sẽ giúp thúc đẩy tham
vọng tăng trưởng xanh của đất nước. Việc mạnh tay miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp
cho các dự án năng lượng tái tạo và nhà sản xuất thiết bị sử dụng năng lượng hiệu quả thông
qua cơ cấu thuế ưu đãi cũng là động lực quan trọng cho các nhà đầu tư năng lượng sạch. Từ
đó đảm bảo nguồn vốn được dịch chuyển thúc đẩy tham vọng tăng trưởng xanh của đất nước.
Cơ chế thuế ưu đãi với việc miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho các dự án năng lượng tái
tạo và các đơn vị sản xuất thiết bị tiết kiệm năng lượng cũng đã mang lại các ưu đãi quan
trọng. Tuy nhiên, môi trường pháp lý phức tạp và các thủ tục hành chính có thể là thách thức
trong quá trình định hướng, thu hút, đặc biệt là đối với các nhà đầu tư nước ngoài.

Chính sách thị trường tài chính

Việt Nam đã mở rộng quy mô tài chính để đáp ứng các mục tiêu chuyển dịch năng lượng
sạch, bao gồm cả nguồn tài chính công và tư nhân trong nước và quốc tế. Các chính sách
trong đề án phát triển ngân hàng xanh do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện đóng vai
trò quan trọng trong việc tạo điều kiện hỗ trợ tài chính trong nước. Trong hai năm qua, hoạt
động mở rộng phát triển năng lượng mặt trời diễn ra nhanh chóng phần lớn là do các ngân
hàng trong nước tài trợ. Mặc dù Việt Nam có nhu cầu lớn về tài trợ vốn cho các dự án năng
lượng sạch nhưng tình trạng thiếu khả năng tiếp cận nguồn vốn dài hạn sẽ hạn chế tiềm năng
tăng trưởng trong tương lai và việc không có nguồn tài chính không truy đòi cho dự án cũng
sẽ hạn chế khả năng tài chính của đơn vị phát triển.

1.3. Đánh giá chính sách đầu tư và tài chính cho năng lượng sạch Việt Nam

1.3.1. Thành tựu


a. Cơ chế hỗ trợ biểu điện (FIT) đối với năng lượng tái tạo:

Cơ chế hỗ trợ biểu điện (FIT) là một công cụ hỗ trợ cho các nhà sản xuất điện từ các
nguồn năng lượng tái tạo (NLTT), được khuyến khích bằng hợp đồng mua điện giá cố định
dài hạn cho các nhà đầu tư sản xuất điện từ NLTT, cùng nghĩa vụ mua và quyền tiếp cận lưới
điện được đảm bảo sẽ giúp tăng tính an toàn cho nhà đầu tư. Qua đó, cơ chế này nâng cao
tính cạnh tranh NLTT so với các dạng năng lượng truyền thống.

Bên cạnh đó, một loạt những cơ chế, chính sách liên quan đến phát triển các nguồn năng
lượng tái tạo đã được ban hành, cụ thể:

• Quyết định số 37/2011/QĐ-TTg ngày 29/6/2011, được sửa đổi, bổ sung theo
Quyết định số 39/2018/QĐ-TTg ngày 10/9/2018 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế
hỗ trợ phát triển các dự án điện gió tại Việt Nam;
• Quyết định số 11/2017/QĐ-TTg ngày 11/4/2017, được sửa đổi, bổ sung theo
Quyết định số 02/2019/QĐ-TTg ngày 08/01/2019 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế
khuyến khích phát triển các dự án điện mặt trời tại Việt Nam; Quyết định số
13/2020/QĐ-TTg ngày 6/4/2020 về cơ chế khuyến khích phát triển điện mặt trời tại
Việt Nam;
• Quyết định số 24/2014/QĐ-TTg ngày 24/3/2014, được sửa đổi, bổ sung theo
Quyết định số 08/2020/QĐ-TTg ngày 05/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế
hỗ trợ phát triển các dự án điện sinh khối tại Việt Nam;
• Thông tư số 16/2017/TT-BCT ngày 12/9/2017, được sửa đổi, bổ sung theo
Thông tư số 05/2019/TT-BCT ngày 11/3/2019 của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy
định về phát triển dự án và Hợp đồng mua bán điện mẫu áp dụng cho các dự án điện
mặt trời.

Bộ Công Thương đã tham mưu trình Chính phủ Việt Nam ban hành nhiều cơ chế khuyến
khích khác nhau cho các loại hình điện NLTT được đánh giá có tiềm năng lớn như sau:

Bảng 1: Tổng hợp cơ chế khuyến khích phát triển điện tái tạo

Cơ chế khuyến
Loại hình Giá bán
Loại NLTT khích và hiệu
công nghệ (chưa VAT)
lực

Biểu giá CPTĐ


Thủy điện nhỏ Biểu giá chi phí
Sản xuất điện được Bộ CT công
(dưới 30MW) tránh được
bố hàng năm

Điện gió (cho các dự án Dự án trên đất


FIT cho 20 năm 8,5 USCents/kWh
vào vận hành trước liền
tháng 11/2021) Dự án ngoài FIT cho 20 năm 9,8 USCents/kWh
khơi
Đồng phát
FIT cho 20 năm 7,03 USCents/kWh
nhiệt- điện
Sinh khối Không phải
Đồng phát FIT cho 20 năm 8,47 USCents/kWh
nhiệt- điện
Thiêu đốt FIT cho 20 năm 10,05 USCents/kWh
Điện từ chất thải
Chôn lấp FIT cho 20 năm 7,28 USCents/kWh
ĐMT nổi FIT cho 20 năm 7,69 USCents/kWh
Điện mặt trời ĐMT mặt đất FIT cho 20 năm 7,09 USCents/kWh
ĐMT mái nhà FIT cho 20 năm 8,38 USCents/kWh
Nguồn: Báo cáo của Ban Chỉ đạo quốc gia về phát triển điện lực
Ngoài các cơ chế khuyến khích về giá mua điện như nêu trên, các dự án NLTT ở Việt
Nam còn có thể được hưởng các cơ chế hỗ trợ khác như ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp,
thuế nhập khẩu thiết bị, ưu đãi về sử dụng đất và tiếp cận tài chính....
Bảng 2: Cơ chế khuyến khích khác cho dự án điện tái tạo nối lưới.

Cơ chế khuyến
STT Mức độ
khích tài chính

Thuế suất TNDN:


- 4 năm đầu kể từ năm có thu nhập chịu thuế: 0%
1 Thuế TNDN - 9 năm tiếp theo: 5%
- 2 năm tiếp theo: 10%
- Các năm còn lại: 20%

Hàng hóa nhập khẩu làm tài sản cố định, vật liệu và bán
thành phẩm không được sản xuất trong nước.
2 Thuế nhập khẩu Nhà đầu tư nên kiểm tra Danh mục các hàng hóa và sản
phẩm được miễn thuế nhập khẩu hàng năm được Bộ
KHĐT công bố

3 Sử dụng đất Tiền thuê đất ưu đãi theo quy định của Tỉnh
Phí bảo vệ môi
4 0%
trường

Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) cho vay lên tới
70% tổng chi phí đầu tư với lãi suất tương đương với
5 Đầu tư
mức lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 5 năm cộng
với 1%/năm
Nguồn: Báo cáo của Ban Chỉ đạo quốc gia về phát triển điện lực

Cơ chế hỗ trợ biểu điện (FIT) của Việt Nam, đặc biệt đối với điện mặt trời (ĐMT) quy mô
hòa lưới và ĐMT mái nhà, đã khuyến khích nhanh chóng triển khai công suất lắp đặt trong
giai đoạn 2019-2020. Đến cuối năm 2020, công suất năng lượng tái tạo biến thiên (NLTT
biến thiên) đạt 17,6 GW (đối với điện gió và cả ĐMT quy mô hòa lưới và ĐMT mái nhà nối
lưới), chiếm 23,6% tổng công suất phát điện. Sở dĩ hoạt động triển khai nhanh chóng như
vậy được ưu tiên là vì mức thiếu hụt nguồn cung điện ngày càng cao do nhu cầu tăng mạnh
cùng với tình trạng chậm trễ trong triển khai đấu thầu nhà máy nhiệt điện theo kế hoạch.

Cơ chế FIT đối với điện mặt trời mái nhà

Trong những năm vừa qua, đặc biệt là 4-5 năm gần đây, đầu tư cho năng lượng tái tạo
(gió, mặt trời) ở nước ta phát triển vượt bậc, tính đến thời điểm hiện tại, tổng công suất các
nhà máy điện năng lượng tái tạo và thủy điện vừa và lớn đạt 43.126 MW, chiếm 55,2% tổng
công suất hệ thống điện của Việt Nam (78121 MW), trong đó điện gió 4.126 MW, điện mặt
trời mái nhà 7.660 MW, điện mặt trời trang trại 8.904 MW, thủy điện 22.111MW, điện sinh
khối 325 MW. Hệ thống điện Việt Nam có quy mô lớn nhất khu vực Đông Nam Á. Về điện
mặt trời, Việt Nam đứng trong top 10 quốc gia có công suất lắp đặt điện mặt trời cao nhất.

Tại Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến
lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và
tuyên bố mạnh mẽ của Chính phủ Việt Nam tại Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của
Liên Hiệp Quốc năm 2021 thể hiện rõ quyết tâm của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong vấn
đề chuyển dịch nguồn năng lượng truyền thống sang các nguồn năng lượng xanh, sạch.
Theo đó, tổng công suất lắp đặt hệ thống điện đã tăng nhanh chóng, đạt gần 80.000 MW
năm 2021, đáp ứng nhu cầu phụ tải của nền kinh tế tăng khoảng 10%/năm trong thời gian
qua cũng như trong thời gian tới. Kết quả thực tế năm 2022, sản lượng điện phát từ nguồn
điện năng lượng tái tạo đạt khoảng 130 tỷ kWh, chiếm tỷ trọng gần 48% sản lượng điện phát
của hệ thống điện Việt Nam, trong đó 35% là thủy điện và 13% là của điện gió, mặt trời và
sinh khối. Tỷ trọng phát điện của NLTT không ngừng tăng cao và tốc độ rất nhanh trong cơ
cấu phát điện của hệ thống điện Việt Nam trong giai đoạn 2010 - 2022, từ 27% vào năm
2010 lên hơn 48% vào năm 2022, đặc biệt với sự đóng góp rất lớn từ điện gió, mặt trời vào
các năm 2019 - 2022.

b. Việt Nam tuyên bố chính trị về Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng
(JETP) với các nước G7 và đối tác:

Sau khi Thủ tướng Chính phủ tuyên bố với cộng đồng quốc tế về định hướng Việt Nam sẽ
tiến tới trung hòa carbon vào năm 2050 tại COP 26 tháng 11/2021, tháng 7/2022, Thủ tướng
Chính phủ đã ký quyết định phê duyệt Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu, trong đó nêu
lộ trình giảm phát thải carbon của Việt Nam đến năm 2030 và đạt netzero vào năm 2050.
Cộng đồng quốc tế đã đánh giá rất cao trách nhiệm đóng góp của Việt Nam, nhất là việc
Chính phủ đã luật hóa tuyên bố của mình.
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cùng đại diện các đối tác quốc tế
trong buổi lễ Thông qua Tuyên bố Chính trị JETP Việt Nam tại Brussels, Bỉ

Ngày 14/12, đại diện Việt Nam và các nước G7, cùng đối tác phát triển là Liên minh châu
Âu, Nauy, Đan Mạch đã thông qua tuyên bố chính trị thiết lập JETP nhằm hỗ trợ Việt Nam
chuyển đổi từ năng lượng hóa thạch sang năng lượng tái tạo, giảm phát thải ròng bằng 0 vào
năm 2050.
Chương trình ban đầu sẽ huy động gói tài chính khí hậu khoảng 15,5 tỷ USD từ khu vực
công và tư nhân trong vòng 3 đến 5 năm tới, nhằm hỗ trợ một số mục tiêu tham vọng mới
của Việt Nam, trong đó có mục tiêu giảm nhiệt điện than, đẩy nhanh triển khai nguồn năng
lượng tái tạo và có thể giảm phát thải khí nhà kính sớm hơn 5 năm so với kế hoạch. Tuy đây
hầu hết là vốn vay ưu đãi, nhưng sẽ là yếu tố thuận lợi cho Việt Nam sắp tới thúc đẩy quá
trình phát triển với lộ trình carbon thấp.
Nhờ có những nỗ lực trên, lần đầu tiên, sản lượng điện năng lượng tái tạo của Việt Nam
vượt sản lượng nhiệt điện.
Điện sản xuất và nhập khẩu toàn hệ thống năm 2022 đạt 268,4 tỷ kWh, trong đó sản lượng
thủy điện tăng 20,8% so với năm 2021 do nước về hồ tốt và việc huy động phát điện phù hợp
với quy chế điều hành liên hồ; các nhà máy điện gió, mặt trời đi vào hoạt động ổn định; giá
than cao nên EVN điều hành giảm mua điện than. Nhờ đó, sản lượng điện từ nguồn năng
lượng tái tạo (bao gồm cả thủy điện) đã vượt sản lượng nhiệt điện trong năm 2022.
Cụ thể, sản lượng điện từ năng lượng tái tạo đạt trên 129,8 tỷ kWh, bằng 1,24 lần so với
sản lượng điện than và trên 96% so với tổng sản lượng điện than và điện khí. Sản lượng điện
mặt trời và gió chiếm 12,8% tổng hệ thống.
Năm 2022 cũng ghi nhận lần đầu tiên điện năng do các nguồn phát điện ngoài EVN vượt
50% sản lượng toàn hệ thống. Nỗ lực đa dạng hóa đầu tư vào nguồn điện đã có bước tiến,
các nhà máy điện ngoài EVN đã đóng góp hơn 53% sản lượng điện trong năm.

1.3.2. Hạn chế các chính sách

- Điều 4 Luật Điện lực quy định nhà nước độc quyền trong các hoạt động truyền tải, bao
gồm đầu tư, quản lý và vận hành. Do vậy EVN vẫn đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc
lập kế hoạch và phát triển hệ thống truyền tải. Việc thiếu khung pháp lý về sự tham gia của
các đơn vị tư nhân trong phân ngành truyền tải sẽ tạo nên tính không rõ ràng về mức độ khả
thi của những hoạt động đầu tư này trong tương lai

- Dù lưới điện và nhà máy điện nằm trong 05 lĩnh vực được phép đầu tư theo luật mới về
Đối tác công tư (Luật số 64/2020/QH14 - "Luật PPP"), tuy nhiên đấu thầu theo luật PPP
chưa được áp dụng rộng rãi trong các dự án năng lượng sạch gần đây. Xu hướng phát triển
các nhà máy điện năng lượng tái tạo gần đây là nhờ vào sự thúc đẩy của Chính phủ thông
qua biểu giá điện hỗ trợ (FIT) theo cơ chế riêng, đi kèm với các điều khoản thỏa thuận mua
bán điện mẫu (PPA) theo Luật Đầu tư. Khi Việt Nam dần chuyển dịch khỏi cơ chế FIT, luật
PPP có thể cung cấp khung pháp lý hiệu quả cho các dự án năng lượng tái tạo lớn hơn, với
mức độ linh hoạt cao hơn để có thể đàm phán các điều khoản hợp đồng. Tuy nhiên, luật PPP
vẫn chưa rõ ràng về mức độ sẵn sàng của các cam kết bảo lãnh của chính phủ (GGU) vốn
thường rất quan trọng để đảm bảo khoản nợ không truy đòi của dự án. Về chương trình hiệu
quả năng lượng, quy định giá trị dự án tối thiểu là 200 tỷ đồng (8,5 triệu USD) có thể tạo ra
những rào cản cho các thỏa thuận PPP, do tính chất nhỏ và phân tán của các dự án hiệu quả
năng lượng (thường dưới 1 triệu USD). Cần có các mô hình kết hợp dự án quan trọng để đạt
được quy mô cần thiết đáp ứng các ngưỡng này.

- Khả năng tiếp cận đất đai là một vấn đề quan trọng đối với các dự án hạ tầng truyền tải
cũng như dự án điện từ năng lượng tái tạo. Do đất đai vẫn thuộc quyền sở hữu của nhà nước,
các cá nhân, tổ chức có thể mua quyền sử dụng đất thông qua Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất (GCNQSDĐ). Người nước ngoài có thể được nhận GCNQSDĐ đối với các dự án
năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, quá trình cấp chứng nhận vẫn còn nhiều khó khăn, đặc biệt
đối với các nhà đầu tư chưa quen thuộc với thị trường. Cần phải cải thiện tính minh bạch và
tính phối hợp giữa các quy trình phê duyệt cũng như giữa các bên liên quan của chính phủ và
các tỉnh để đạt được hiệu quả chi phí và phát triển nhanh chóng các dự án năng lượng tái tạo,
hạn chế rủi ro không minh bạch.

- Khó tiếp cận vốn vay dài hạn. Mặc dù Việt Nam có nhu cầu lớn về tài trợ vốn cho các
dự án năng lượng sạch song việc khó tiếp cận các nguồn vốn vay dài hạn với kỳ hạn nợ điển
hình từ 5 đến 7 năm là thấp hơn nhiều so với kỳ hạn của các quốc gia thuộc OECD và một số
nền kinh tế mới nổi lớn, thường có kỳ hạn nợ từ 15 đến 20 năm hoặc hơn. Việc thiếu nguồn
vốn tài trợ dự án miễn truy đòi, vốn là tiêu chuẩn trong các dự án năng lượng tái tạo ở các
nước OECD và các nền kinh tế lớn, sẽ hạn chế năng lực huy động vốn của các đơn vị phát
triển cá nhân có vốn cổ phần khiêm tốn, cũng như cản trở việc phân bổ rủi ro và phát triển
thị trường hiệu quả. Yêu cầu cao đối với tài sản thế chấp cũng đặt ra thách thức riêng cho các
đơn vị phát triển nhỏ hơn, trong đó có các công ty dịch vụ năng lượng đang triển khai các dự
án hiệu quả năng lượng vì các đơn vị này thường sử dụng hết nguồn vốn có hạn chỉ sau một
hoặc hai dự án.

II. HƯỚNG HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ VÀ TÀI CHÍNH CHO NĂNG
LƯỢNG SẠCH VIỆT NAM

2.1. Chiến lược phát triển

Chiến lược đặt mục tiêu cụ thể đến năm 2030 hầu hết các hộ dân được tiếp cận các dịch
vụ năng lượng hiện đại, bền vững, tin cậy với giá bán điện và giá năng lượng hợp lý. Phát
triển và sử dụng nguồn năng lượng tái tạo góp phần thực hiện các mục tiêu môi trường bền
vững và phát triển nền kinh tế xanh: Giảm nhẹ phát thải khí nhà kính trong các hoạt động
năng lượng so với phương án phát triển bình thường: Khoảng 5% vào năm 2020; khoảng
25% vào năm 2030; Tăng tổng các nguồn năng lượng tái tạo sản xuất, sử dụng từ khoảng 37
triệu TOE vào năm 2020 đến khoảng 62 triệu TOE vào năm 2030; Tăng sản lượng điện sản
xuất từ năng lượng tái tạo tăng từ khoảng 101 tỷ kWh vào năm 2020 lên đạt khoảng 186 tỷ
kWh vào năm 2030 và khoảng 452 tỷ kWh vào năm 2050; Tăng quy mô sử dụng công nghệ
khí sinh học với thể tích xây dựng từ khoảng 8 triệu m3 vào năm 2020 lên khoảng 60 triệu
m3 vào năm 2030 và khoảng 100 triệu m3 vào năm 2050; Chuyển đổi việc sử dụng năng
lượng sinh khối truyền thống trong nấu ăn tại hộ gia đình và trong công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp địa phương từ các bếp truyền thống và thiết bị có hiệu suất thấp bằng các bếp, thiết bị
chuyển hóa năng lượng sinh khối tiên tiến, hiệu suất cao. Đưa tỷ lệ số hộ gia đình sử dụng
bếp tiên tiến, hiệu suất cao từ mức không đáng kể hiện nay lên đạt khoảng 30% vào năm
2020; khoảng 60% vào năm 2025 và từ năm 2030, hầu hết các hộ dân nông thôn đều sử dụng
bếp có hiệu suất cao, hợp vệ sinh.

Tầm nhìn đến năm 2050, tất cả người dân đều được tiếp cận nguồn năng lượng hiện đại,
bền vững, tin cậy với giá cả hợp lý; phát triển và sử dụng nguồn năng lượng tái tạo, ổn định
nguồn cung cấp năng lượng trong nước, sử dụng hoàn toàn nguồn năng lượng tái tạo trong
sản xuất và tiêu thụ năng lượng quốc gia; giảm đến tối đa sự phụ thuộc vào nguồn năng
lượng hóa thạch, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng, giảm nhẹ biến đổi khí hậu, bảo vệ
môi trường và phát triển kinh tế - xã hội bền vững.

a) Về khung pháp lý, chính sách hỗ trợ phát triển năng lượng sạch ở Việt Nam

Thực thi các quy định rõ ràng về khung pháp lý trái phiếu xanh, bao gồm các điều kiện
hợp lệ, các giao thức báo cáo và quy trình xác minh. Hỗ trợ các tổ chức phát hành cấp trung
ương, cấp địa phương và các tổ chức phát hành doanh nghiệp triển khai các đợt phát hành
trái phiếu xanh. Khung pháp lý này phải nhất quán với tiêu chuẩn trái phiếu xanh ASEAN và
phù hợp với các tiêu chuẩn trái phiếu xanh khác để xây dựng mạng lưới nhà đầu tư rộng lớn.
Trái phiếu xanh tạo ra cơ hội hấp dẫn để tái cấp vốn cho các dự án hiện hữu và cung cấp
nguồn vốn dài hạn cần thiết.

+ Cần tăng cường quản lý nhà nước trong phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo:

Bộ Công Thương thực hiện chức năng quản lý thống nhất về phát triển và sử dụng năng
lượng tái tạo trong cả nước. Các Bộ có liên quan theo chức năng và nhiệm vụ của mình, thực
hiện việc quản lý phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo trong lĩnh vực có liên quan.

Các cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về năng lượng tại các tỉnh và thành
phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là các tỉnh) có trách nhiệm thực hiện việc quản lý phát
triển và sử dụng năng lượng tái tạo tại địa bàn quản lý của mình.

+ Điều tra tài nguyên nguồn năng lượng tái tạo:

Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan tổ chức điều tra, đánh
giá tiềm năng nguồn năng lượng tái tạo trong cả nước; hướng dẫn nội dung công tác điều tra,
đánh giá.

Các Bộ, theo chức năng và nhiệm vụ của mình, theo hướng dẫn của Bộ Công Thương,
thực hiện việc điều tra nguồn năng lượng tái tạo có liên quan thuộc phạm vi quản lý, gửi kết
quả điều tra cho Bộ Công Thương để tổng hợp.
+ Lập quy hoạch và kế hoạch phát triển nguồn năng lượng tái tạo:

- Bộ Công Thương:

Trên cơ sở dự báo nhu cầu năng lượng và khả năng cung cấp của nguồn năng lượng tái tạo
trong cả nước, xây dựng quy hoạch phát triển các nguồn năng lượng tái tạo quốc gia, trình
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, công bố và tổ chức thực hiện sau khi Quy hoạch được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt.

Căn cứ vào quy hoạch quốc gia về phát triển và sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo, xây
dựng và công bố phát triển ngành công nghiệp năng lượng tái tạo và danh mục các dự án
trọng điểm, cần ưu tiên thực hiện.

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, nơi có tiềm năng phát triển nguồn năng lượng tái tạo, tổ chức
lập quy hoạch phát triển các nguồn năng lượng tái tạo cấp tỉnh, trình Bộ trưởng Bộ Công
Thương phê duyệt.

Các Bộ có liên quan có trách nhiệm lập kế hoạch có liên quan của Bộ mình, tạo điều kiện
cho việc thực hiện mục tiêu quốc gia phát triển và sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Nội dung quy hoạch, kế hoạch về phát triển và sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo toàn
quốc và cấp tỉnh bao gồm các mục tiêu phát triển, nhiệm vụ chủ yếu, địa điểm các dự án
trọng điểm, tiến độ thực hiện, xây dựng mạng lưới điện liên quan, hệ thống dịch vụ, biện
pháp an toàn, ...

+ Xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia:

Bộ Công Thương xây dựng để áp dụng hoặc công bố áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật
quốc gia cho lưới điện đồng bộ với các nguồn điện sử dụng năng lượng tái tạo và các tiêu
chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với các công trình, thiết bị khác liên quan đến năng lượng tái tạo
mà cần phải có tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia để áp dụng thống nhất trên toàn quốc.

Các Bộ, ngành có liên quan chủ động xây dựng hoặc công bố để áp dụng các tiêu chuẩn
cơ sở có liên quan đối với những vấn đề chưa có trong hệ thống tiêu chuẩn quốc gia.

b) Về chính sách thị trường tài chính

Xây dựng giải pháp thúc đẩy chương trình cho vay lại hoặc các cơ chế tài chính khác có
thể tạo điều kiện cho các tổ chức tài chính trong nước tiếp cận nguồn vốn dài hạn và có chi
phí thấp từ các ngân hàng phát triển đa phương và song phương. Các cơ chế này có thể thiết
kế nhắm tới các dự án hiệu quả năng lượng và các dự án năng lượng tái tạo quy mô nhỏ hơn,
trong đó các đơn vị phát triển dự án gặp khó khăn khi tiếp cận nguồn tài trợ do vốn cổ phần
của họ có hạn. Để thực hiện điều này, cần tiến hành đánh giá lại các quyền hạn tài chính phát
triển để chuyển từ cho vay chính phủ sang tạo điều kiện cho các tổ chức tài chính cho vay
trực tiếp mà không cần ủy quyền của chính phủ.

Xem xét việc thành lập một quỹ năng lượng sạch có thể hỗ trợ việc sử dụng các cơ cấu tài
chính hỗn hợp nhằm huy động tài chính từ khu vực tư nhân cho các dự án năng lượng tái tạo
và hiệu quả năng lượng, trong đó sử dụng các công cụ giảm thiểu rủi ro như giấy bảo lãnh và
sản phẩm bảo hiểm, cũng như hỗ trợ chuẩn bị dự án và xây dựng cấu trúc tài chính. Các cơ
chế như vậy sẽ giúp thu hút tài chính từ các nhà đầu tư trong nước và quốc tế.

Xây dựng lộ trình tài chính bền vững trong đó nêu ra các yêu cầu chính đối với các tổ
chức tài chính trong xây dựng kế hoạch hành động và báo cáo thường xuyên hoạt động điều
chỉnh danh mục đầu tư theo các tiêu chí về phát triển bền vững cũng như mức độ chịu tác
động của biến đổi khí hậu. Song song với đó, cần thực hiện các chiến dịch nâng cao năng lực
và truyền thông để xây dựng chuyên môn cho các bên tham gia thị trường tài chính nhằm hỗ
trợ tài chính bền vững cho cơ sở hạ tầng, đặc biệt là quá trình chuyển đổi năng lượng sạch.
Tiến tới xây dựng các định nghĩa về tài chính xanh hoặc nguyên tắc phân loại tài chính bền
vững để hỗ trợ phát triển các sản phẩm tài chính xanh và giải quyết những lo ngại về quảng
cáo xanh.

Cải thiện mức độ tiếp cận nguồn dữ liệu đầu tư và tài chính cho năng lượng sạch thông
qua việc phát triển các công cụ giám sát và đánh giá. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu đầu tư và
tài chính cho năng lượng sạch có thể giúp xác định những vấn đề bất cập trong tài trợ vốn và
theo dõi các dòng tài chính khí hậu. Hoạt động này cũng có thể hỗ trợ xây dựng các biện
pháp can thiệp chính sách có mục tiêu và thiết kế các cơ chế tài chính để huy động vốn tư
nhân cho các dự án năng lượng sạch. Tăng cường mức độ công khai của dữ liệu cấp độ dự án
cũng sẽ góp phần xây dựng niềm tin của nhà đầu tư và giảm nhận thức rủi ro để có thể hạ
thấp chi phí vốn, vì các tổ chức tài chính có thể đánh giá các hồ sơ rủi ro và tỷ suất lợi nhuận
tốt hơn.

c) Thúc đẩy đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào lĩnh vực năng
lượng sạch

Đảm bảo thị trường bán buôn điện khuyến khích các hoạt động vận hành thân thiện với hệ
thống bằng cách cung cấp tín hiệu giá chính xác và rõ ràng cho tất cả các bên tham gia thị
trường một cách phù hợp. Việc được nhận tín hiệu giá chính xác có thể khuyến khích hiệu
quả hoạt động và phân bổ vốn cao hơn.

Tăng cường tính độc lập của Cục Điều tiết điện lực để tất cả các bên tham gia thị trường
có thể nhìn nhận các quyết định mà Cục Điều tiết điện lựcđưa ra là công bằng, khách quan
và không có sự can thiệp chính trị. Cân nhắc quy định quyền khiếu kiện lên trọng tài như
một thông lệ tiêu chuẩn trong các hợp động mua bán điện từ năng lượng tái tạo.

Nâng cao tính độc lập của Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc gia trong thời gian sắp
tới và cân nhắc lộ trình tách Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia Việt Nam (EVN NPT),
và việc tách bạch các hoạt động mang tính phân bổ và cạnh tranh như sản xuất và bán lẻ điện
tại các tổng công ty điện lực của EVN.

Thiết lập các hướng dẫn về đấu thầu cạnh tranh và minh bạch đối với các dự án năng
lượng tái tạo nhằm tạo ra một sân chơi bình đẳng giữa khu vực tư nhân và các doanh nghiệp
nhà nước (DNNN), cả trong nước và khu vực. Đảm bảo rằng các rủi ro phát triển dự án liên
quan đến việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cân nhắc trong quá trình thiết kế
khung pháp lý đấu thầu.

d) Đối với các nguồn năng lượng sạch ở Việt Nam: Cần xây dựng chính sách phù hợp để
đẩy mạnh việc tiếp cận các nguồn vốn phát triển xanh của quốc gia, tổ chức quốc tế.

+ Hỗ trợ hình thành thị trường và công nghệ năng lượng tái tạo:

Xây dựng chương trình quốc gia về năng lượng tái tạo để thúc đẩy sử dụng năng lượng tái
tạo trong lĩnh vực phát điện, sử dụng năng lượng mặt trời, khí sinh học cho các hộ gia đình;
triển khai các chương trình nghiên cứu, phát triển công nghệ năng lượng tái tạo, phổ biến
thông tin, tuyên truyền cộng đồng trong lĩnh vực phát triển năng lượng tái tạo.

Xây dựng và phát triển ngành công nghiệp năng lượng tái tạo, khuyến khích nghiên cứu,
chuyển giao, tiếp nhận và ứng dụng có hiệu quả các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới vào sản
xuất, sử dụng năng lượng tái tạo.

Hình thành và phát triển thị trường công nghệ năng lượng tái tạo, tạo sự bình đẳng trên cơ
sở cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, hỗ trợ thúc
đẩy phát triển các dự án sản xuất, kinh doanh và dịch vụ năng lượng tái tạo.

Cụ thể:

+ Giải pháp phát triển và sử dụng năng lượng mặt trời:

Doanh nghiệp phát triển bất động sản có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu về sử dụng
năng lượng mặt trời khi thiết kế và xây dựng các tòa nhà, phù hợp với các tiêu chuẩn kỹ
thuật do các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước ban hành.

Đối với một tòa nhà đã được hoàn thành, người sử dụng có thể lắp đặt hệ thống sử dụng
năng lượng mặt trời, đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật có liên quan và các tiêu chuẩn sản
phẩm, với điều kiện không gây ảnh hưởng đến chất lượng và sự an toàn của tòa nhà.

+ Các giải pháp đẩy mạnh phát triển và sử dụng năng lượng sinh khối:

Các nhà máy điện sử dụng nhiên liệu than cần nghiên cứu phát điện kết hợp sử dụng năng
lượng sinh khối với nhiên liệu than. Bộ Công Thương quy định cụ thể tỷ lệ năng lượng sinh
khối tối thiểu đối với từng nhà máy điện phù hợp với địa bàn các địa phương và theo từng
giai đoạn.
Chủ đầu tư các nhà máy nhiệt điện đốt than cũ, hiệu suất thấp cần nghiên cứu, cải tạo
công nghệ chuyển sang sử dụng nhiên liệu sinh khối.

+ Hỗ trợ tài chính cho phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo:

Thành lập Quỹ phát triển năng lượng bền vững sử dụng các nguồn vốn từ ngân sách nhà
nước, nguồn thu từ phí môi trường đối với nhiên liệu hóa thạch, các nguồn tài trợ, đóng góp
của các tổ chức, cá nhân trong, ngoài nước và các nguồn vốn hợp pháp khác nhằm hỗ trợ tài
chính cho các hoạt động khuyến khích phát triển ngành năng lượng trên phạm vi toàn quốc.
Trong lĩnh vực phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo, Quỹ phát triển năng lượng bền vững
được sử dụng:

+ Bù đắp cho chi phí phát sinh của các đơn vị điện lực:

Đầu tư hệ thống điện độc lập sử dụng nguồn điện độc lập sản xuất điện từ nguồn năng
lượng tái tạo. Do phát triển lưới điện để đấu nối với các nguồn điện được sản xuất từ nguồn
năng lượng tái tạo, mà không thể thu hồi được từ giá truyền tải điện.

Đầu tư cho các tổ chức cần hỗ trợ:

• Các nghiên cứu khoa học và công nghệ trong việc xây dựng các tiêu chuẩn và
các dự án thí điểm cho phát triển và sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo;
• Các dự án sử dụng năng lượng tái tạo ở các khu vực nông thôn;
• Xây dựng các hệ thống phát điện độc lập bằng cách sử dụng các nguồn năng
lượng tái tạo ở vùng sâu, vùng xa và hải đảo;
• Các khảo sát và đánh giá các nguồn năng lượng tái tạo và xây dựng các hệ
thống thông tin có liên quan;
• Thúc đẩy việc sản xuất, nội địa hóa thiết bị cho việc phát triển và sử dụng các
nguồn năng lượng tái tạo.

+ Ưu tiên cho các nghiên cứu liên quan đến phát triển và sử dụng tài nguyên năng lượng
tái tạo trong lĩnh vực phát triển khoa học, công nghệ và phát triển công nghiệp công nghệ
cao; bố trí kinh phí từ các quỹ để hỗ trợ các nghiên cứu khoa học và công nghệ tại các dự án
thí điểm, dự án công nghiệp hóa cho phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo, thúc đẩy sự
tiến bộ của công nghệ liên quan đến sự phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo, giảm chi phí
sản xuất của các sản phẩm năng lượng tái tạo và nâng cao chất lượng sản phẩm.

+ Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học, công nghệ cho lĩnh vực năng lượng
sạch: Chú trọng công tác nghiên cứu khoa học cơ bản trong ngành năng lượng; quan tâm đầu
tư dài hạn cho các dự án nghiên cứu nguồn năng lượng mới, năng lượng sạch để thay thế
năng lượng truyền thống. Thực hiện các dự án thí điểm, xây dựng các cơ chế khuyến khích
cho hoạt động sản xuất và sử dụng nhiên liệu thay thế (như: nhiên liệu có nguồn gốc hydro,
nhiên liệu sinh học tiên tiến...). Xây dựng lộ trình công nghệ thích hợp cho ngành năng
lượng sạch; xác định công nghệ cần phải chiếm lĩnh trong từng lĩnh vực cụ thể; đẩy mạnh
hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ phục vụ phát triển bền vững, bảo vệ
tài nguyên, môi trường và nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành năng lượng sạch.

e) Đối với nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao cho lĩnh vực năng
lượng sạch:

+ Nâng cao năng lực quản lý phát triển nguồn năng lượng tái tạo ở các cấp;

+ Xây dựng kế hoạch hợp tác ngắn và dài hạn với các tổ chức quốc tế trong việc phát triển
nguồn nhân lực, đào tạo và tập huấn về năng lượng tái tạo.

+ Khuyến khích và hỗ trợ phát triển các dịch vụ và các tổ chức tư vấn trong lĩnh vực năng
lượng tái tạo.

g) Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân, cộng
đồng về phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo:

Đẩy mạnh tuyên truyền và phổ biến kiến thức đến mọi người dân về tầm quan trọng, hiệu
quả kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường to lớn của việc phát triển và sử dụng năng lượng tái
tạo trong quá trình phát triển bền vững để từ đó có những hành động thiết thực đóng góp của
việc phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo.

h) Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực năng lượng tái tạo:

Tăng cường hợp tác quốc tế để thu hút nguồn vốn và thúc đẩy chuyển giao công nghệ
trong lĩnh vực năng lượng tái tạo.

Chủ động tiếp nhận, làm chủ và chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, thành tựu
khoa học mới trong lĩnh vực phát triển và sử dụng nguồn năng lượng tái tạo trên thế giới để
phát triển nhanh, mạnh và bền vững ngành năng lượng tái tạo ở Việt Nam;

Tăng cường hợp tác song phương, mở rộng hợp tác đa phương với các nước có ngành
công nghiệp năng lượng tái tạo phát triển, với các tổ chức, cá nhân nước ngoài giàu tiềm lực
để học hỏi kinh nghiệm trong việc phát triển năng lượng tái tạo;

Chủ động xây dựng và thực hiện các chương trình, đề tài, dự án hợp tác quốc tế để tranh
thủ tối đa sự giúp đỡ về kinh nghiệm, trí tuệ, sự tài trợ về vốn, trang thiết bị và thu hút đầu tư
nhằm phát triển sản xuất và sử dụng năng lượng tái tạo.

2.2. Hướng hoàn thiện chính sách phát triển

a) Tận dụng tối đa tiềm năng

Để thực hiện có hiệu quả quy hoạch điện trong thời gian tới, cần hoàn thiện khung chính
sách, pháp luật về phát triển điện năng lượng tái tạo (NLTT) bao gồm cả điện mặt trời mái
nhà, điện tự sản tự tiêu sử dụng điện tiết kiệm, hiệu quả.
Đặc biệt, cần xây dựng cơ chế hợp đồng mua – bán điện trực tiếp cũng như xây dựng
chính sách nâng cao tỷ lệ nội địa hóa trong ngành điện. Đồng thời, cần hoàn thiện các cơ chế
tài chính và huy động cho đầu tư phát triển điện cũng như chính sách thu hút, khuyến khích
tư nhân tham gia đầu tư, phát triển các dự án điện.

Việt Nam cần tận dụng tối đa tiềm năng điện gió ngoài khơi được đánh giá lớn nhất Đông
Nam Á. Dự án điện gió cần có cơ sở hạ tầng gần nhất để phục vụ cho việc khảo sát, xây
dựng lưới truyền tải và vận hành, bảo dưỡng cũng như sẵn sàng tham gia sâu vào chuỗi cung
ứng điện.

b) Thay đổi thói quen sử dụng năng lượng

Khuyến khích các tổ chức, cá nhân phát triển và sử dụng hệ thống năng lượng mặt trời để
đun nóng nước, hệ thống sưởi, làm lạnh sử dụng năng lượng mặt trời và hệ thống phát điện
sử dụng năng lượng mặt trời.

Khuyến khích việc phát triển và sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo ở các khu vực nông
thôn: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan khác, trên cơ
sở sự cần thiết của việc phát triển kinh tế và xã hội của địa phương, bảo vệ môi trường sinh
thái và kiểm soát toàn diện các điều kiện vệ sinh, xây dựng quy hoạch phát triển nguồn năng
lượng tái tạo tại các khu vực nông thôn, phù hợp với các điều kiện địa phương, phổ biến việc
sử dụng khí sinh học và chuyển đổi khác của nguồn năng lượng sinh khối, năng lượng mặt
trời, năng lượng gió và thủy điện quy mô nhỏ.

c) Phát triển và sử dụng nhiên liệu sinh học sạch, hiệu quả cao và phát triển cây trồng
năng lượng:

Nhà nước khuyến khích việc sản xuất và sử dụng nhiên liệu lỏng sinh học. Các doanh
nghiệp kinh doanh xăng dầu phải kết hợp bán nhiên liệu lỏng sinh học đáp ứng các tiêu
chuẩn quốc gia trong hệ thống bán nhiên liệu tại địa phương; hàng năm, Bộ Công Thương
ban hành quy định cụ thể tỷ lệ nhiên liệu lỏng sinh học tối thiểu các doanh nghiệp kinh
doanh xăng dầu phải kết hợp bán trên địa bàn các địa phương.

d) Phổ biến và hình thành khung về năng lượng sạch:

Khuyến khích và hỗ trợ các trường đại học, các cơ sở dạy nghề phát triển giáo trình và
giảng dạy các môn học mới liên quan tới năng lượng tái tạo.

Khuyến khích, hỗ trợ công tác nghiên cứu và phát triển năng lượng tái tạo trong các tổ
chức nghiên cứu khoa học kỹ thuật, đặc biệt đối với việc nghiên cứu sâu các công nghệ năng
lượng tái tạo đặc thù, phù hợp với điều kiện của Việt Nam.

Khuyến khích và hỗ trợ kỹ thuật để người dân, cộng đồng triển khai và mở rộng quy mô
các mô hình phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo trong các hộ gia đình, doanh nghiệp.
e) Phát triển mô hình phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo, thực hiện thí điểm, tiến tới
nhân rộng các mô hình ngôi nhà xanh, tòa nhà xanh, đô thị xanh và nông thôn (làng, xã)
xanh; trong đó phần lớn nhu cầu năng lượng được cung cấp từ nguồn năng lượng tái tạo, các
chất thải từ sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp và chăn nuôi được xử lý, sử dụng
hợp lý cho mục đích năng lượng.

You might also like